Tuổi Thơ Dữ Dội
|
|
Chương 7: Phần Thứ Ba 1. Trời sập tối. Lượm và Tư-dát giục Mừng đến lần thứ tư: - Cậu lên gặp đại đội trưởng ngay đi! ông sắp xuống dẫn trung đội ba đi phối hợp tấn công trường Thiên Hựu. - Tối ni mà cậu không tranh thủ xin phép về thăm mạ thì chưa biết đến khi mô mới về được-.. Tớ vừa nghe điện thoại trên Mặt trận bảo là phòng tuyến Ruồi bị vỡ rồi, quân ta đang rút về lập phòng tuyến sông Nong. CÓ lệnh của đội trưởng, năm giờ sáng mai tất cả đội ta phái có mặt tại chùa Vạn Phước để chuẩn bị đi nhận nhiệm vụ mới. - Lần ni mà mi không về gặp mạ thì chẳng còn khi mô được thấy mặt mạ nưa mô nghe! - Tư-dát vừa cuộn áo quần thành nắm tọng đại vào ba lô, vừa nói với Mừng - Tại răng rứa anh? - Tao nghe được tin tối mật là chỉ một hai hôm nữa, chiến sĩ toàn Mặt trận không kể người lớn con nít, mỗi người sẽ được phát một trái bom ba càng - Trung đoàn trưởng sẽ cho nổ một trái bom còn to hơn trái nổ Ở cầu Tràng Tiền làm hiệu lệnh. Tất cả sẽ ôm bom ba càng hét xung phong rồi lao thẳng vô vị trí giặc. Mạng đổi mạng. - Cậu đừng tin cái miệng hắn. - Lượm nói. - Hắn nói chơi để dọa cậu đó. Tư-dát nói với Mừng, giọng vẫn tỉnh khô: Nếu cậu được về thăm mạ mà lỡ không lên kịp thì xuất bom ba càng của cậu tớ sẽ. lãnh luôn. Một mình tớ chơi hai trái mới đã sức! Cấm cậu không được đòi lại nghe? - Không, răng tui cũng về kịp trước năm giờ sáng. Mừng nói rồi cắm đầu chạy biến lên tầng gác, đến phòng của đại đội trưởng. . ông Thới đã nai nịt gọn gẽ, đang lúi húi bên ngọn đèn dầu, nạp đạn vào băng khẩu pạc-hoọc- Mừng rón rén bước vào phòng, đến đứng nghiêm trước mặt ông, lắp bắp run rẩy nói: -DẠ... dạ... thưa anh.... Anh cho em về thăm mạ em, sáng mai em trở lại sớm. Miệng nói mà trong bụng em không chắc gì ông sẽ cho phép. Tối ni coi mặt ông nghiêm lắm mà tình hình Mặt trận lại đang gay go.. Ðại đội trưởng lắp băng đạn vào súng, ngẩng lên nhìn em, trán cau lại, hỏi? - Về thăm mạ à? Tối tăm mưa gió thế này chú mày về thế nào được? Mà mạ Ở mô? .- Dạ gần đây thôi.. dưới Bao Vinh. Tối tăm mưa gió mấy em cũng đi được... Tối chi bằng cái hôm đánh nhà thằng Lơ bơ rít. - Ðược cho chú mày về, nhưng đúng năm giờ sáng mai là chú mày phải có mặt để tập trung về đội. Thật -khó mà tả được- vẻ mặt mừng rỡ của em lúc này- Em vọt ra cửa quên cả chào đại đội trưởng- Phải xuống báo ngay cho anh lượm biết, rồi mở máy hết bộ giò mới có thể đi về kịp trong đêm nay. Em nghĩ vậy. Lượm là tổ trưởng thay vệ, Ngay chiều hôm Vệ theo chỉ huy trưởng đi vào mặt trận phía nam, đội trưởng liền điều Lượm và tư dát ở mặt trận khu B về bổ xung. Và cử Lượm làm tổ trưởng. Ra đến đầu cầu thang Mừng vấp phải Lượm và Tư dát từ dưới chạy lên. H ai em định lên gặp đại đội trưởng để xin giúp cho Mừng. Em chụp lấy tay hai bạn thì thào mừng rỡ: - Được rồi được rồi, ông cho phép rồi. ông dặn năm giờ sáng mai phải có mặt. Xuống đến chân cầu thang, Mừng bỗng đứng sững lại, gương mặt thẫn thờ, em buồn rầu nói: - Tui ngu quá đem gởi bó lá tầm gởi cho anh So mất rồi, Chừ về thăm mạ mà chẳng có cái chi đem về cho mạ. - Hay cậu mang về cho mạ tấm nhung đổ cậu Bồng cho dạo nọ. - Tấm nhung tui cho Quỳnh mất rồi… - Để tớ vào lục ba lô coi có cái chi mang về cho mạ. Tư dát nói rồi chạy biến vào phòng. Lượm cũng chạy theo. - Cậu chịu khó đứng chờ đay chút nghe! Lóang một cái hai đứa chạy ra, tay cầm mấy thứ đồ vật linh tinh mà chúng nhặt nhạnh được ở những lần đi trinh sát khu vực giặc. Tư dát trải xuống nền xi măng một miếng vải bạt rồi xếp vào đó ba cái dù pháo tín hiệu, một tấm màn che cửa viền đăng ten,hai hộp thịt, một cái gương soi và ba vỏ đạn dui xết. Luợm kêu: hi, Mạ có phải con nít mô? - Để mạ làm cán dao nhíp không tốt à? Tư dát vừa trả lời vừa gói tất cả lại, lấy dây điện thọai ràng buộc cẩn thận, rồi dúi gói quà gửi mạ vào tay Mừng giục: - Mi đi ngay đi mà về cho kịp Về không kịp tau lãnh mất xuất bom ba càng thì đừng có kêu! - Cho tụi mình gửi lời thăm mạ nghe? Mừng ôm gói đồ vào lòng, đi thẳng ra khu vườn bên trái doanh trại. Ngang qua một bụi chuối nó dừng lại sờ soạng tìm một tàu lá chuối nguyên lành, ghé răng cắn đứt, rồi tách cọng lá Ở giữa làm đôi. Em luồn đầu qua lỗ hổng, bẻ gập tàu lá chuối lại thành cái áo đi mưa. Ra đến đường em chạm trán một tổ tuần tra mặt trận, các anh hỏi: - Ai? Đứng lại. Em trả lời dõng dạc - Em là hên lạc đây! Các anh hỏi mật khẩu: - Kháng chiến! - Em đáp: - Quyết thắng. Các anh để cho em đi. HỌ không lạ gì những chú liên lạc như em giờ này đi lại trong khu vực Mặt trận. Một anh tò mò hỏi: Em đi mô đó? - Bí mật. - Em trả lời đầu không ngoái lại. Anh này cười hề hề. - Nhóc mà cũng ra vẻ gớm? Một anh nhìn hút theo em đang lặn sâu vào bóng tối, không biết nghĩ gì, buột miệng nói: Cả đất nước gian truân ghê người! 2. Khoảng hai giờ sau, vừa chạy vừa đi, Mừng về đến Bao Vinh. Nhưng Bao Vinh bây giờ không còn giống như hôm em trốn nhà ra đi- đường xá vắng tanh vắng ngắt. Nhà cửa hai bên đường cửa đóng im ỉm, không có lấy một tiếng động, như nhà đã bỏ hoang lâu ngày. Mấy hôm nay tin về dồn dập bọn viện binh giặc đã chọc thủng phòng tuyến sông Ruồi và đang ào ạt tiến về phía thành phố, nên đồng bào Ở đây đã chạy tản cư hết. Mỗi xóm chỉ còn vài người già liều mạng không chịu đi, Ở lại trông nom nhà cửa, vườn tược. Những người trai tráng thì xung phong lên Mặt trận. Càng về đến gần nhà, Mừng càng thấy ruột gan bồn chồn. Em lo không biết mẹ còn Ở nhà hay cũng đi tản cư mất rồi. Ðến chỗ con đường rẽ vào xóm thì em bật vùng chạy. Con đường hẻm ngoằn ngoèo, tối như hũ nút, đầy những vũng bùn nước. Em ngã chúi mấy lần nhưng gượng lại được và tiếp tục chạy. Em về đến ngõ, kêu to: "Mạ ơi?" và vọt vào sân. Em đứng như chôn chân giữa mảnh sân nhỏ bằng hai chiếc chiếu, nước mưa xăm xắp đến mắt cá chân. Nhà em cũng cửa đóng chặt, hoang vắng lạnh lẽo chẳng khác chi ngoài đường. Trước đây, vào giờ này, bao giờ bếp vẫn còn sáng rực lửa- Mẹ nấu xáo bò để ngày mai đi chợ sớm. Bây giờ thì cửa bếp đóng kín, giọt tranh rơi lách tách, đều đều nghe buồn đến đứt ruột. Như người mất hồn em chạy đến vỗ liên tiếp vào cánh cửa liếp đóng kín, run rẩy gọi: - Mạ ơi' Mạ! Mạ ơi! Em gọi một cách tuyệt vọng vì biết chắc rằng mạ đã đi tản cư mất rồi. Rồi không nén được nữa, em òa khóc, khóc thật to. Tiếng gọi, tiếng khóc của Mừng làm cho ông cụ Mộc - người độc nhất còn Ở lại trong xóm - Ở cách đó hai nhà, phải tỉnh giấc. Cụ nhổm dậy, thõng hai chân xuống bức phản mọt, sờ soạng tìm đôi guốc đẽo bằng gốc tre, miệng lẩm bẩm: - Lạ quá hè? Ðêm hôm khuya khoắt ri mà bên nhà chị Niệm có tiếng ai như tiếng con nít khóc, gọi chị ta. Cụ sờ tìm bật lửa dưới cái gối mây bật lửa châm vào một thanh đóm củi thông- Cụ đẩy cửa liếp, tay khum khum che ngọn lửa, đi sang nhà chị Niệm. Trời đã ngớt mưa. Trên cao tít một vài ngôi sao xanh biếc lấp lánh hiện ra như những con đom đóm đang bay bổng bị vướng vào những đám mây đen xỉn- Bước qua hàng rào, cụ trông thấy một thằng bé đầu đội mũ Vệ Quốc đoàn. Lưng khoác tàu lá chuối loang loáng nước mưa. Cụ ngạc nhiên cất giọng khản đặc những đờm, hỏi: - Chớ đứa mô đứng khóc đó? Thằng bé quay lại, mắt ráng mở nhìn cụ qua ánh lửa đóm lay lắt, khẽ kêu: Cụ Mộc! Cụ Mộc bước-đến gần hơn, đưa ngọn lửa soi vào giữa mặt Mừng, cặp mắt cụ hấp hem nhìn mãi vẫn không nhận ra. Cháu là thằng Mừng đây mà... Thằng Mừng con mụ Niệm à? Trời ơi! Cháu còn sống thực đó hở Mừng- Tây cụ run run cầm lấy cánh tay em kéo lại, cúi nhìn sát tận mặt xem có phải đúng thằng Mừng thật không. Khi nhận đúng là thật rồi, ông cụ càng tỏ vẻ kinh ngạc hơn. - Cháu Ở mô mà mò về được đây? Bấy lâu cả xóm tưởng cháu chết sông. chết hói rồi. - Cháu có chết mô! Cháu đi Vệ Quốc Ðoàn. - Cháu đi Vệ Quốc Ðoàn à? Cha cái thằng! Rứa mà làm mạ cháu khóc hết nước mắt nước mũi! Ði sang bên nhà ông rồi ông kể chuyện cho nghe! Mạ cháu đi tản cư về làng Phò rồi, Ở nhà cái bà mệ nuôi của cháu ấy. - Cụ Mộc cầm tay dắt nó về nhà. Cụ xuống bếp ôm lên ôm rơm,- đốt lên giữa nhà một đống lửa, bảo nó cởi quần áo vắt nước mà hơ cho khô. Một già, một con nít ngồi trước đống lửa ấm áp, khói cay mắt, nói chuyện. Cụ kể: Cái hôm cháu bỏ nhà trốn đi, mạ cháu đi chợ về, chạy tìm khắp xóm. Tìm không thấy, mạ cháu ra ngồi đợi trước ngõ suốt cả đêm hôm đó, khóc như mưa như gió- Rồi suốt cả tuần liền, đêm mô mạ cháu, cũng ra ngõ đợi, khóc hai mắt sưng húp như hai quả nhót- Cứ chiều chiều mạ cháu lại ra bờ sông, chạy dọc theo bờ, đầu tóc rũ rượi, hú hồn hú vía cháu. "Hu ba hồn bảy vía Mừng con ơi! Về với mạ, đừng bỏ mạ một thân một mình tội mạ lắm con ơi!" . Cụ Mộc kể chừng nào, nước mắt Mừng chảy ra chừng đó- Em ngồi không vững nữa, gục đầu vào cánh tay cụ khóc nấc lên. Cụ Mộc cũng khóc, đặt bàn tay khô héo lên đầu nó, dỗ dành: - Thôi, nín đi cháu... Mạ cháu tản cư về làng Phò, cách đây chừng nửa ngày đường. Cháu Ở lại ngủ với ông đêm nay rồi sớm sáng mai chạy ù về thăm mạ cho mạ cháu mừng, kẻo tội nghiệp. Mừng quệt nước mắt, lúc lắc đầu, nói: - Cháu không Ở lại được mô. Không gặp được mạ cháu cháu cũng phải về thôi. Kỷ luật của bộ đội nghiêm lắm. - Chứ cháu về mô? - Về bên khu vực Mặt trận C tê. - Chứ bấy lâu nay cháu làm công việc chi? - Cháu đánh Tây chứ làm chi nữa ông?đánh Tây à? Thằng con mụ Niệm giỏi quá hè. Cháu nhỏ rứa mà cũng đánh Tây được à? - Nhỏ có việc nhỏ, lớn có việc lớn. ông không nghe nói là toàn dân kháng chiến đó à? CÓ có, ông cũng có nghe nói. - Cụ gật gật mái đầu bạc phơ. - Cháu mới đi bộ đội có ít lâu mà ăn nói khôn ngoan hẳn ra đó Mừng ạ. Cháu mà cũng biết chuyện toàn dân kháng chiến à? - Cháu được học chính trị- Học chính trị còn biết được nhiều cái hay hơn nữa tề, cái toàn dân kháng chiến thì đã ăn thua chi ông. - Cha cha! Cháu mà cũng biết cả chánh trị nữa à? ông tưởng cả nước Nam mình chỉ có Cụ HỒ mới biết chánh trị thôi chứ? Chánh trị thì khó chi mà không biết- Cả đội cháu đứa mô cũng biết. Cháu còn học cả quân sự nữa. Cháu biết bắn cả súng nữa, cháu được bắn ba phát rồi. - Rứa cháu bắn có chết được thằng Tây mô không? - Dạ chưa..- suýt nữa thì chết. Tại cháu còn nhỏ, cầm súng tay còn run. Chứ mai mốt lớn lên, cháu bắn nhất định chết. - Rứa cháu không Ở lại đây với ông để mai sớm về làng Phò thăm mạ thật à cháu? Dạ, thật ông ạ- Ðại đội trưởng chỉ cho cháu về trong đêm ni. Năm giờ sáng mai là cháu phải có mặt Ở đơn vị rồi- Ðã đi bộ đội là phải giữ đúng kỷ luật ông ạ. Ừ, rứa thì cháu cứ về đi- CÓ chi ông sẽ tìm cách nhắn tin cho mạ cháu biết . Mừng đứng lên, mặc áo quần hong đã gần khô. Em quay mặt nhìn sang phía nhà em, nước mắt lại ứa ra giọt ngắn giọt dài. Em đưa ống tay áo quệt vội nước mắt, nói với cụ Mộc qua tiếng nấc: - Cháu đi ông hí... Cụ Mộc cũng đứng lên rơm rớm nước mắt. - Cháu có đói không- ăn bát cơm nguội rồi về, cơm ông mới nấu lúc chiều ủ còn nóng. - Thôi ông ạ-.. Chừ cháu chẳng thiết ăn uống chi hết. Mừng ôm cái gói đồ biếu mạ vào lòng, lui cui bước ra khỏi nhà. Cụ Mộc tựa cửa nhìn theo em cho đến lúc mất hút vào khoảng tối, lòng bỗng thấy buồn lạ; buồn chẳng khác chi cái hôm nhìn thấy cả xóm sập liếp, cài cửa mạ mô con nấy, gồng gánh, bế bồng kéo nhau đi, chỉ còn độc một mình cụ Ở lại. 3. Cũng đêm hôm đó trung đoàn trưởng đi kiểm tra tình hình Mặt trận. Cùng đi có em Nghi, liên lạc của ông. Trung đoàn trưởng vóc người tầm thước, mảnh khảnh, nhiều dáng dấp thư sinh hơn là một người chỉ huy quân sự- ông trạc ba mươi tuổi. ông đội mũ cứng Tiếp Phòng Quân, mặc bộ quân phục ka ki màu cỏ úa, khoác áo đi mưa, cưỡi con ngựa tía cao lớn. Con ngựa tên là Ca-rô-lin, nòi Anh Cát Lợi, trước đây là của Vua Bảo đại. NÓ là con ngựa qúy nhất của Bảo đại, y thường cưỡi đi săn hoặc đi dạo. Nghi cũng trạc lứa tuổi với các đội viên Thiếu niên trinh sát, khoảng mười ba, mười bốn- Em cưỡi con ngựa lông đen tuyền, thấp nhỏ, cụt đuôi, vai khoác khẩu cạc-bin, báng súng chạm trỗ rất đẹp. Khẩu súng này trước cũng của Bảo Ðại, ta lấy được cùng một lần với khẩu súng săn voi của Chỉ huy trưởng Mặt trận C - Tuy mới mười ba tuổi nhưng Nghi đã là một kỵ sĩ khét tiếng của Trung đoàn- Tài cưỡi ngựa của Nghi ngay cả Vệ-to-đầu cũng vì nể- con ngựa đen cọc đuôi em cưỡi là của Nhật, nghe đâu nòi ngựa chiến Mông Cổ. Con ngựa thấp nhỏ vậy nhưng dữ như một con báo, chuyên môn cất hậu, sa tiền, cắn, đá, thường giở chứng quẳng người cưỡi xuống đất- Cả đơn vị kỵ binh của trung đoàn không ai dám cưỡi, thế mà chú bé liên lạc này đã trị được nó- Thấy Nghi cưỡi ngựa giỏi, các anh lớn tò mò hỏi mới biết, trước khi gia nhập vệ Quốc Ðoàn em Ở chăn ngựa cho một chủ xe ngựa. Trung đoàn trưởng và chú bé liên lạc cho ngựa nước kiệu trên con đường rải đá vắng tanh vắng ngắt, sáng trắng nhưng vũng nước mưa Bỗng xa xa phía trước mặt có tiếng khóc vẳng lại Khi ngựa đến gần hơn, ông nhận ra tiếng khóc con nít- ông rất ngạc nhiên, trong khu vực Mặt trận. giữa đêm hôm mưa lạnh. tối tăm, vắng vẻ thế này sao lại có một em bé nào khóc- ông thúc ngựa rút, cây đèn bấm trong túi áo đi mưa. bấm rọi thẳng về phía trước Một bó ánh sáng màu vàng nhạt từ mặt kính đèn bấm tuôn ra thành hình cái loa. khoét thủng một quãng dài bóng tối Giữa cái loa ánh sáng ấy hiện ra một chú bé đang cắm cúi bước. quay lưng lai phía ông- Chính chú bé này đang vừa đi vừa khóc Chỉ thoáng nhìn. trung đoàn trưởng cũng đoán biết chú là liên lạc viên của bộ đội. một trong hàng nghìn chiến sĩ của ông Chú bé đội mũ cứng. mặc chiếc áo trấn thủ rộng thùng thình phủ kín mông đít, cái quần người lớn cắt ngắn ống đáy rộng như cái váy. . - ngang lưng thắt lưng da to bản có dắt quả lựu đạn O.F. ÐÓ là thứ binh phục quen mắt của các chú liên lạc nhỏ mà ông thường gặp trên khắp các mặt trận khu A, B, C. ông thúc gót ủng cho ngựa phi đến gần sát sau lưng chú bé, cất tiếng hỏi: - Này, chú bé! Chú đi đâu về mà khuya khoắt thế này? Chú bé còn mải khóc nên không nghe tiếng vó ngựa, cũng không chú ý tới ánh đèn- Nghe gọi đột ngột, nó giật bắn người quay ngoắt lại- Chú đưa ống tay áo, quệt vội nước mắt, chớp chớp nhìn. Chú đã nhận ra người cưỡi con ngựa cao lớn đang đứng trước mặt là ai. Chứ vội rút chân về tư thế đứng nghiêm, ngước cặp mắt nhòe ướt lên nhìn ông, cố nuốt tiếng nấc, trả lời. Dạ.-. Em được cấp chỉ huy cho phép về thăm mạ. Nhìn cái dáng vội vã đứng nghiêm với gương mặt con nít nhòe nhoẹt nước mưa lẫn nước mắt của chú bé liên lạc, ông thấy nó tội quá- Ong dịu dàng nói: Cho em "nghỉ". Em gặp chuyện gì buồn mà phải khóc thế? - Dạ.-. Em được cấp chỉ huy cho về thăm mạ. nhưng em về nhà thì mạ em đi tản cư mất rồi . Nước mắt chú bé lại ràn ra. Chú lại đưa tay quệt vội nước mắt. - Thế mạ em tản cư về đâu có biết không? - Dạ- Tận dưới làng Phò tê. - Thế em không ngủ lại nhà rồi sáng mai về làng Phò thăm mạ có được không? - Cấp chỉ huy chỉ cho phép em đi đến năm giờ sáng mai là phải có mặt Ở đơn vị... - Em Ở đơn vị nào? - Dạ, đơn vị đóng Ở trường Kỹ Nghệ. - Ðại đội anh Thới phải không? - Dạ phải. - Thế thì được. Anh sẽ cho em thêm một ngày phép nữa. Bây giờ em quay lại nhà ngủ, sáng mai về làng Phò thăm mạ. Anh viết cho em cái giấy. Lúc trở về đơn vị, em đưa giấy cho anh Thới là không việc gì hết. Em tên là gì? - Dạ, em tên là Mừng. Trung đoàn trưởng mở nắp chiếc xà cột da đeo bên hông, định lấy giấy bút viết mấy chữ cho đại đội trưởng Thới- Mừng bỗng rụt chân lại đứng nghiêm, giọng run run nói: - Dạ thưa anh, anh có viết giấy em cũng chẳng Ở lại đi thăm mạ được mô... Sao lại thế? - Trung đoàn trưởng ngạc nhiên hỏi. - Em không muốn về thăm mạ nữa à? - Dạ em muốn lắm - . . Nhưng chiều này có lệnh của đội trưởng là sáu giờ sáng mai tất cả đội phải có mặt tại Chỉ huy sở Mặt trận khu C để nhận công tác mới- Em sợ về trễ mất một ngày, các bạn nhận hết công tác, em không được nhận.. Trung đoàn trưởng ngồi sửng trên lưng ngựa. Vẻ mặt và giọng nói của người chiến sĩ nhỏ bé của ông làm ông xúc động. ông chỉ muốn nhảy xuống ngựa ôm chú vào lòng mà vỗ về an ủi như một người cha. ông nói: - Anh là trung đoàn trưởng mà chẳng thể làm gì giúp được em sao? - Chẳng ai giúp được cho em hết...- Mừng quệt nước mắt, miệng mếu xệch. - CÓ trời cũng chẳng giúp được cho em-.. Em vừa muốn về thăm mạ lại muốn về cho kịp để được đi công tác với đội... hu hu hu... Mừng òa khóc to. - Dạ em, em có thể giúp được bạn ấy. - Em Nghi từ nãy đến giờ gò ngựa đứng cạnh trung đoàn trưởng, lúc này mới lên tiếng. - Ðề nghị anh cho phép em chở Mừng về làng Phò thăm mạ, xong em lại trở về đơn vị- Thế nào chúng em cũng về kịp đơn vị trước năm giờ sáng. Trung đoàn trưởng vui vẻ gật đầu: - được Nghi làm như thế rất tốt! Nhớ đi cho cẩn thận! Em đưa khẩu cạc-bin đây anh mang về trước cho. Con ngựa ấy hai em cưỡi có được không? - Dạ được anh ạ. Nhưng em sợ hơi nặng, nó phi không được nhanh. Thế thì anh đổi cho hai em con Ca-rô-lin. Trung đoàn trướng và Nghi cùng xuống ngựa. Nghi trao dây cương con ngựa đen, khẩu cạc-bin cho ông, và dặn: - Anh nhớ, chú ý nó hay sa tiền lắm. Lúc nào anh thấy nó hơi khuỵu hai chân trước xuống, anh cứ quất thật mạnh vào cho em. Nghi nhanh nhẹn phóc lên lưng con ngựa của trung đoàn trưởng- Mừng chưa được cưỡi ngựa bao giờ, lạch mãi mới trèo lên được, ngồi sát sau lưng bạn. Trung đoàn trưởng còn đứng dưới đất, nói với Mừng: - Cho anh gửi lời thăm mạ nghe! - Dạ... Nghi kéo dây cương quay ngược về phía sau. Con ngựa thấy phải quay lại đường cũ, dậm vó liên tiếp xuống đường, hý lên ầm ĩ tỏ vẻ phản đối- Em quất cho một roi vào sườn ba. Con ngựa cất cao vó, lao như bay về phía trước- Tiếng vó nện xuống đường đá nghe rầm rập- Nghi hét to: - Cậu quàng tay ôm chặt ngang lưng tớ không thì ngã đấy! Ngồi trên yên ngựa sát sau lưng bạn, Mừng bắt chước nhún người lên xuống theo nhịp ngựa phi. Thích chí em bật cười khanh khách. Bao nhiêu buồn khổ đã làm em khóc hết nước mắt phút chốc vụt tan biến đi đâu hết- Em vui sướng kêu to: ôi chà, ôi chà! êm đít quá! êm đít quá! Lây nỗi vui thích của bạn. Nghi cũng phá lên cười giòn giã. Tay nới dây cương cho ngựa phi nước kiệu, Nghi quay đầu lại hỏi: Cậu chưa được cưỡi ngựa bao giờ à? Chưa! Con mạ Niệm bán bún bò làm chi có ngựa mà cưỡi . . . Dạo Ở nhà tớ được cưỡi dê một lần, còn chó thì cưỡi luôn . Một bữa tớ cưỡi con chó mực nhà cụ Mộc, định thúc chó nó phi; nó nổi cáu đợp cho tớ một cú vô bắp chân còn sẹo đây này. Nghi vung roi lên cười khanh khách, nói giọng ngang tàng. Còn tớ thì sống nửa đời trên lưng ngựa! - Câu nói này Nghi học được của một tay anh chị làm nghề đánh xe ngựa hồi còn đi Ở chăn ngựa. Mừng bỏ một tay ôm bạn ra, vỗ vỗ vào hông con ngựa, hỏi: Con ngựa ni là ngựa chi mà to dữ ri cậu? - Cậu chưa biết à? NÓ là con ngựa qúy nhất của vua Bảo đại. Trước kia chỉ có vua mới được cưỡi nó thôi. Chỗ cậu đang ngồi là đúng chỗ trước -kia vua Bảo đại ngồi đó nghe! - Rứa à? - Mừng kêu lên ngạc nhiên. Em gục vào vai bạn cười ngặt nghẽo. - Hơ hơ! Ai ngờ thằng Mừng con mạ Niệm bán bún bò Ở chợ Bao Vinh, bữa ni lại được ngồi đúng vô chỗ vua Bảo đại ngồi! Hơ hơ! hớ hơ! - Em vừa reo vừa nhổm đít lên dằn đít xuống mấy cái liền cho hả cơn khoái. Nghi cũng lây nỗi vui bồng bột của bạn, cười to nói- Nhưng cậu cũng chưa bằng tớ? Tớ đã được làm vua rồi nghe! - Thôi đi! Cậu chỉ nói trạng thôi! - Tớ nói thật mà! Tuần trước tớ vô Ðại Nội đưa thư của trung đoàn trưởng cho ông Chủ tịch ủy ban tỉnh. Tớ lẻn vô điện Cần Chánh, tót lên ngai vàng ngời vắt chân chữ ngũ làm vua chơi. - Rứa cậu có vuốt râu không? - Hứ! Vuốt râu cái chi? - Tớ đi xem hát bội, thấy vai vua ra là vuốt râu. Nhưng tớ làm cóc chi có râu? vuốt giả đò ấy mà. Hai đứa cùng cười rúc lên. Con ngựa phi nước kiệu đều đều Con đường loang loáng những vũng nước mưa trôi dưới chân ngựa. Mừng bỗng nghe bạn vừa lắc lư đầu miệng vừa rì rầm ti tỉ cái gì, nghe không rõ. Em lay lay vai bạn, hỏi: Cậu hát à? Hát bài chi, hát to lên cho tớ hát cùng với. Tớ làm thơ. - Làm thơ là làm cái chi? - Cậu không biết thơ à? Bài thơ thường in trên các tờ báo, câu ngắn, câu dài, có vần với nhau, đọc lên nghe như câu hò chèo đò, câu hát ru em ấy mà. - Rứa thì tớ biết rồi. Ó đội tớ có cậu Tư-dát học giỏi nhất, cũng biết làm thơ nghe! Cậu ấy đọc lên gì gì nghe hay lắm. Làm thơ có khó không cậu? Cậu học ai mà làm được thơ tài rứa? - Hồi Ở Mặt trận An Khê, có một anh nhà báo nhận tớ làm em nuôi, dạy tớ làm thơ. Anh ấy bị đạn đại bác Tây, chết mất rồi. Thơ anh ấy hay ghê lắm. Mỗi lần nghe anh ấy ngâm thơ là nước mắt tớ cứ chảy ra. - Như lúc ăn ớt cay ấy à? - Không phải - Như lúc về phép thăm mạ mà không được gặp mạ ấy. - Rứa cái thơ cậu làm đã xong chưa? Ðọc lên cho tớ nghe với. - Không phải cái thơ mà bài thơ. Cậu chẳng biết cóc chi hết! - Giọng Nghi trách bạn âu yếm - Mình làm bài thơ kể chuyện tụi mình tối nay. Tớ đọc thử cậu nghe có xuôn tai không nghe... Nghi thả lỏng dây cương cho ngựa chạy chậm lại cất giọng ngâm nga: Lóc cóc, lóc cóc cóc. Có hai vệ quốc quân Cưỡi một con ngựa hồng Bốn vó mềm như sắt. Nhỏ hơn một con rồng... Ngựa này xưa của vua. Tên là Bảo Ðại ngốc. Cách Mạng và bác Hồ. Bắt vua xuống đi đất. Còn ngựa lấy đem cho. Hai cháu liên lạc nhóc. Cưỡi phi về làng Phò. Thăm mạ bán bún bò... Lóc cóc, lóc cóc cóc. Nghi ngâm thơ xong một lúc lâu mà không thấy bạn nói gì, khen, hoặc chê, cứ ngồi im thin thít sau lưng - Em sốt ruột quay đầu lại hỏi: - Cậu thấy thơ tớ nghe có xuôi tai không ? Mừng bồng gục đầu vào vai bạn, giọng run run: Mạ tớ bán bún bò mà cũng được cậu làm vào trong cái thơ... Cậu tốt quá! Con Ca-rô-lin đã đưa hai chú bé liên lạc về đến đầu làng Phò. Trời xem chừng đã khuya lắm, có lẽ phải quá nửa đêm. Xóm làng tối hăm chín Tết năm đó như một người nửa thức nửa ngủ- Nhiều nhà cửa đóng im ỉm- Một vài nhà còn thấp thoáng ánh lửa. Trên đường cái làng thỉnh thoảng có người gồng gánh đi lại. Giữa cảnh tịch mịch, chốc chốc lại vang lên tiếng quát giật giọng- "Ai! Ðứng lại!" đó là tiếng hô của các anh chị dân quân tự vệ canh gác đầu các ngã đường. Phía thành phố súng vẫn nổ rền như mọi đêm- Nhưng Ở đây nghe tiếng súng hiền lành hơn; không chí chát dữ tợn như Ở ngoài Mặt trận. Chốc chốc từ một góc nào đó trong thành phố vọt lên trời một quả pháo hiệu đỏ lòm như một hòm than đậm lửa văng ra từ một bếp lò rèn khổng lồ. - Nhà cậu Ở đường mô? - Nghi ghìm cương lại hỏi: - Cậu cứ đi thẳng, lúc nào nhìn cái giếng xây cạnh cây bồ đề thì quẹo qua trái một khúc là đến nơi. - Cậu nhớ vô thăm mạ một phút rồi phải trở ra ngay để- về cho kịp nghe. Mừng ghé vào tai bạn thì thầm. Tớ lo quá cậu ạ. Chốc nữa gặp mạ e tớ không về được đơn vị thôi. - Tại răng rứa? Mạ bắt cậu phải Ở nhà à? . Mừng không trả lời mà chỉ gật đầu. Dáng bộ em trở nên ủ rũ, buồn bã. - Mạ có bắt thì cứ vùng ra mà đi, sợ chi? Cậu cứ nói là nếu mạ không cho trở về đơn vị thì bộ đội sẽ về đây bắt con đi Ở tù. Chắc mạ phải sợ mà cho cậu đi. Nhưng chỉ sợ đến lúc thấy mạ thấy mạ nằm lăn ra giữa nhà đập đầu thìch thịch vào cột nhà rồi khóc như mưa như gió, e tớ thương mạ quá mà không đi được thôi cậu ạ. Trời tối quá, không nhìn thấy mặt bạn, nhưng nghe giọng nói Nghi cũng đoán được lúc này bạn đang bối rối buồn khổ ghê gớm... Em liền cho ngựa dừng lại, lo lắng hỏi: - Rứa cậu định Ở lại với mạ chứ không trở về đơn vị nửa à? - Không, không mô... Không đời mô--. Cậu có cách chi giúp cho tớ với! - Hai đứa ta nhảy xuống cho ngựa nghỉ lưng một tí rồi bàn coi có cách chi không? Hai đứa xuống ngựa, dưới chân chúng lép nhép những bùn. Mừng đứng nép vào bơ tre, khóc thút thít, Nghi cố moi óc nghĩ cách giúp bạn nhưng không nghĩ được cách gì- Chà.-. chuyện này rắc rối quá. Mừng bỗng cầm tay bạn lay lay, nói: - Nghi này, hay là tớ chỉ nhà cho cậu, cậu vô thăm mạ giúp tớ. Cậu nói với mạ: thằng Mừng,của mạ vẫn còn sống. NÓ đi Vệ Quốc đoàn đánh Tây bên Mặt trận khu C . - . NÓ đang mắc công tác trinh sát, liên lạc nên chưa về thăm mạ được. NÓ xin mạ đừng giận nó mà tội nghiệp. Bữa mô rỗi việc nó sẽ xin phép cấp chi huy về thăm mạ...". - Rứa còn cậu? - Mình đứng ngoài đường giữ ngựa, chờ cậu ra.. Nghi một tay cầm cương ngựa, một tay nắm chặt tay bạn, giọng nghe chừng muốn khóc: Khổ cậu hè. -. Cậu có biết chữ không? - Chưa. Hồi còn Ở nhà mình có đi học bình dân học vụ sắp đọc được viết được thì mạ bị đau, lên cơn suyễn nặng. Mình phải bỏ học, tối tối phải rang muối chườm ngực mạ. Rứa là mình quên hết mặt chữ... - Tiếc quá hè- Nếu biết chữ cậu viết cho mạ cái thư tớ mang vô cho mạ, chắc mạ sẽ càng tin hơn, mừng hơn. Mừng sực nhớ gói đồ đeo lủng lẳng bên vai, liền cởi ra đặt vào tay bạn: Mình có cái gói ni nhờ cậu đưa cho mạ.. - Gói chi ri? - Nghi vừa hỏi vừa bóp bóp cái gói- - Mấy thứ lặt vặt của anh Lượm với anh Tư-dát góp lại gửi về biếu mạ. Chừ mình đưa cậu đến trước ngõ nhà kẻo sợ trời tối quá cậu tìm không ra. Nhưng lỡ cậu trông thấy mạ, cậu thương quá khóc to lên mạ nghe tiếng thì nguy! - Tớ có khóc cũng phải bặm môi lại, cậu đừng lo- Ó đội đêm tớ nằm ngủ với thằng Vệ, thằng Quỳnh, nhớ mạ quá tớ khóc mà chẳng đứa mô nghe tiếng cả. CÓ tài không? Mừng đi trước dẫn đường, Nghi dắt ngựa theo sau. đang đi ngoằn ngoèo trong con đường kiệt tối ngửa bàn tay không thấy, Mừng bỗng đứng sững lại, nói như bị hụt hơi. - đến nhà rồi.. - đó, cái nhà trước cổng có cây sầu đâu ( Cây xoan) cao cao tê - Trong nhà không thấy có đèn lửa chi, chắc mạ với mệ đi ngủ rồi. Nghi đưa dây cương ngựa cho bạn, giục: - Cậu dắt ngựa quay lại đứng chờ tớ Ở chỗ lúc nãy nghe. - Cậu cho tới đứng ngoài hàng rào, chờ lúc mạ ra, ngó mặt mạ một tí tì ti thôi. Mạ ra đến giữa sân, tớ dắt ngựa chạy lui cũng còn kịp... Nghi ứa nước mắt thương bạn. Em đưa tay tìm tay bạn trong bóng tối, siết chặt. - Úi chao, răng tay cậu run dử ri? Hay cậu đau? Không. . - Tại tớ ăn có một cái chân gà - . . - Mừng thì thào qua nước mắt. - Mạ dặn ăn chân gà phải ăn cả hai chân. ăn một chân thì mắc bệnh run tay run chân. Bữa đó tớ mới ăn một chân thì gặp thằng Thúi bị di ghẻ đập đuổi ra đường. Tớ thương quá cho nó một chân, chứ mới khổ ri. Hai đứa dắt nhau đi đến trước cổng ngôi nhà có cây sầu đâu. - CÓ ai trong nhà ra cho tui hỏi nhờ một chút! Nghi gọi to. Gọi hai, ba lần thì trong nhà có tiếng hỏi vọng ra: Ai kêu chi ngoài đó rứa? - Dạ em! Em Ở bộ đội hỏi thím Niệm bán bún bò Ở Bao Vinh tản cư về đây. Không biết thím có nhà không? Trong nhà lóe sáng ánh đèn- Tiếng cánh cửa kẹt mở. Một người đàn bà mặc áo cộc, trùm khăn, tay cầm cây đèn dầu hỏa, một tay chị khum khum che gió, bước ra sân. Mừng rúc đầu vào cái lỗ trống hàng rào bông cẩn, cố mở to mắt nhìn vào sân- Con ngựa dẫm vó lộp cộp ngay phía sau lưng. Vùa trông người đàn bà bước ra, Mừng nức nở thì thào gọi qua lỗ trống: - Mạ? Mạ! Con đây mạ! Nghi khẽ suýt: - Chạy ngay đi! Mạ sắp ra rồi đó? - Rồi em bước nhanh qua cổng đón gặp người đàn bà trước sân. Mừng như bị ai đuổi, túm chặt dây cương, lôi con ngựa chạy biến vào khoảng bóng tối dầy đặc trước mặt. Em vừa chạy vừa khóc. Ra đến chỗ bụi tre lúc nãy, em dừng lại, nép sát vào một bên lề- Em đứng chờ một lúc rất lâu vẫn không thấy Nghi trở ra. Ruột gan em cồn cào như lửa đốt. Em đoán chắc lúc ni Nghi đang ngồi nói chuyện với mạ. Mạ rót nước cho Nghi uống, lấy bánh tét, bánh ít cho ăn. Còn mình là con của mạ thì phải đứng dưới bụi tre dọc đường' "Ủi chao, con cực quá mạ ơi" Ý?ĩ đó làm cho Mừng khóc òa lên thành tiếng. Em thấy mình không còn đủ sức để đứng chờ thêm nữa. Thôi, mình cứ liều chạy vô thăm mạ. Nếu mạ có bắt Ớ lại cũng đành chịu. Em dắt ngựa, cúi đầu xăm xăm bước. Mới bước được mấy bước đã nghe tiếng Nghi. - Mừng ơi! Mừng! - Tớ đây?- Mừng chạy lại đón bạn, hỏi không kịp thở. Mạ hỏi cậu chuyện chi? Cậu có nói như tớ dặn không? - CÓ có hết! Chút nữa tớ sẽ kể cho nghe. Chừ phải lên ngựa phi thật nhanh không thì về đơn vị trễ mất. Hai đứa trèo lên lưng ngựa. Nghi ra roi, cho ngựa phi mỗi lúc một nhanh. - Té ra mạ đã biết chuyện cậu còn sống, đang Ở Vệ Quốc Ðoàn. Mạ kể là cách đây hơn nửa tháng, có một anh bộ đội tên là... anh chi hè? Anh So? - đúng rồi, anh So. Anh tìm vô nhà gặp mạ, kể với mạ anh ấy gặp cậu đang theo đội đi qua bên Mặt trận, rồi đưa cho mạ bó lá thuốc suyễn của cậu gửi. Mạ vô buồng lấy bó lá ra cho tớ coi Mạ khen lá hay lắm, mới sắc uống có hai chén mà bệnh đã đỡ nhiều- Tớ nói với mạ y như lời cậu dặn. Mạ khóc ghê quá làm tớ cũng khóc theo luôn. Mạ dặn nói lại với cậu mạ không giận chuyện con trốn nhà đi Vệ Quốc Ðoàn mô- Nghe tin con còn sống mà lại nên người, mạ mừng lắm. Khi mô rảnh rang công việc của Mặt trận thì gắng xin phép cấp chỉ huy về nhà cho mạ thăm... - Mạ còn dặn chi nữa không? - Ó mạ còn dặn là làm việc chi cũng phải làm cho chăm chỉ, đùng để cho người ta chê bai mình. Với lại không được đầu trần mà đi giang nắng, lỡ cảm đau thì mạ khổ lắm. Lúc tớ Ở nhà mạ cũng hay dặn như rứa. . . Mạ ngó bộ hiền quá cậu hí - Mạ cứ ôm chặt lấy tớ mà khóc suốt- Nước mắt mạ rớt xuống mặt tớ nóng phỏng- . . Nghi bỗng đưa tay lên sờ má, tưởng như nước mắt của ngươi mẹ vẫn còn nóng ướt trên hai má em. Gần năm giờ sáng, Nghi đã đưa được Mừng về đến khu vực trường Kỹ Nghệ.
|
Chương 8: Phần Thứ Ba (2) 4. Trưa ngày mồng 6 tháng 2 năm 1947, quân tiếp viện của giặc đã chọc thủng phòng tuyên sông Nong. Cũng trưa hôm đó các em trong đội Thiếu niên trinh sát đang chiến đấu Ở Huế cùng với nhiều đơn vị khác, được lệnh chuẩn bị rút khỏi thành phố. Ngoài cánh quân lớn tiến dọc theo đường quốc lộ số Một, bọn giặc tiếp viện đã cho đổ bộ thêm nhiều cánh quân dọc bờ biển Phú Vang, Quảng Ðiền, hình thành những gọng kìm với ý đồ bao vây tiêu diệt quân ta. Tờ mờ sáng trời đổ mưa tầm tã. đến chiều mưa có tạnh bớt, nhưng gió lạnh thổi hun hút không ngớt. Mặt sông Hương dăn dúm, sóng ì oạp vỗ bờ. Khắp thành phố tiếng súng của bọn giặc bị vây hãm nổ ran ran. Phấn chấn vì tiếng súng giải vây mỗi lúc một thêm gần, chúng chui hết ra khỏi những hang Ổ bấy lâu ẩn náu, liên tiếp mở những trận phản kích điên cuồng vào những đơn vị quân số ít ỏi của quân ta Pháo hiệu xanh đỏ chúng bắn lên tới tấp từ bốn phía, như những lằn roi bầm tím quất lên bầu trời thành phố u ám mây chì. Một giờ ba mươi chiều, đội trưởng Lê Thắng dẫn các em từ Mặt trận khu C, vượt cầu Bạch Hổ, trở về bên này sông. Chỉ vắng hơn chục em mà hàng ngũ đội thưa hẳn đi. Mới chưa đầy hai chục ngày tham gia chiến đấu mà các em trông cũng khác lạ hẳn so với cái hôm náo nức vượt sông sang Mặt trận- Cuộc sống căng thẳng, hiểm nghèo và nỗi vất vả kinh người của chiến trận đã in lên gương mặt và dáng dấp của các em sâu đậm hơn gấp bao nhiêu lần so với người lớn. Em nào cũng đen nhẻm, gầy sắt, ánh mắt mệt mỏi vì đói ngủ, vì phải làm việc quá sức- áo quần, ba lô, túi dết, ướt sũng nước mưa, lấm láp bùn đất chiến hào. ÐỒ đạc trong ba lô túi dết có vợi đi, nhưng trên thắt lưng em nào cũng thêm lỉnh kỉnh nào lựu đạn, dao găm, lưỡi lê... Ðặc biệt trên gương mặt trẻ thơ của các em đều hằn lên khá rõ cái vẻ suy nghĩ lo toan thường thấy trên gương mặt những người phải đảm đương những trách nhiệm nặng nề và nghiêm trọng- tình nguyện gắn bó đời mình với vận mệnh và sự sống còn của Nhân Dân và Ðất Nước. Tính nết các em cũng thay đổi nhiều như vẻ mặt. Không một tiếng cười đùa, không một lời trêu chọc. Chúng đi lặng lẽ, lầm lủi, đầu cúi thấp nghiêng nghiêng để tránh làn mưa bay chênh chếch như kim châm tạt vào mặt. Thỉnh thoảng có em trượt chân vồ ếch, nhưng chẳng có bạn nào cười- Và em vồ ếch lồm cồm đứng dậy, sửa sang cái gì đó trên người rồi tiếp tục lặng lẽ chạy đuổi theo các bạn. Ngay cả Tư-dát, vốn tính liến láu suốt ngày cũng chẳng thấy mở miệng. Nỗi uất ức đau buồn vì sắp bỏ lại thành phố quê hương cho quân giặc, cũng nặng trĩu trong tim các chiến si nhỏ tuổi này không kém gì với các chiến sĩ lớn tuổi khác. bởi vậy mà các em chẳng còn lòng dạ nào để cười đùa. Hiền đi cuối đội, đầu đội mũ ca lô của Vệ-to-đầu để lại đeo tòng teng cái ống nhòm trước ngực- Từ hôm Vịnh-sưa hy sinh, gần như không một phút nào cái ống nhòm rời khỏi ngực em. Em quả quyết nói với các bạn- "Mỗi lần đưa ống nhòm lên mắt, mình đều thấy Vịnh-sưa đứng trong đó, Trần truồng, buộc ngang người vào cột thép thu lôi, đang phất phất cờ tín hiệu đánh "móc" về cho đài quan sát". Tư-dát xin bạn cho nhìn thử. Ðưa ống nhòm lên mắt, vẻ mặt rất chăm chú, sau một lát Tư-dát nghiêm trang gật đầu. - Ðúng là cậu Vịnh-sưa đang đứng trong đó thật các cậu ạ. Vẻ mặt và giọng nói của Tư-dál làm nhiều đứa trong đội dựng cả tóc gáy. 5. về đến cửa Chánh Tây, đội trưởng cho đội dừng lại. Khắp cả khu vực cửa Chánh Tây, người đi lại nhộn nhạo- Vệ Quốc Ðoàn, tự vệ. cán bộ các cơ quan tỉnh. - Tất cả đều ướt át lấm láp, mệt mỏi. Từng tốp, từng tốp ngồi phệt xuống bờ cỏ trát đầy bùn, bên các gốc cây, hút thuốc, uống nước, chuyện trò nho nhỏ... đội trưởng cho đội tập họp dưới bóng một cây mù u rồi chạy đi tìm cơ quan chỉ huy cuộc rút lui- Lát sau anh chạy về, vỗ vỗ tay nói: - Mỗi tổ cử ngay một em theo anh vào trạm tiếp lương, lãnh bánh tét ăn đường. Nghe nói bánh tét, nét mặt cả đội tươi tỉnh lên một chút. Bánh tét lãnh về, các tổ khác mỗi đứa được một đòn, riêng tổ Tư-dát - do nó đi lãnh - mỗi đứa được hai đòn. Cả đội nhao nhao hỏi: Cậu làm răng mà tài dữ rứa? Tư-dát đắc chí cười hề hề. Tớ ba hoa thiên địa với mấy chị phát bánh một hồi làm các chị cứ ôm bụng là cười, rồi quăng luôn cho tớ thêm ba đòn nữa - "Ði đi ông tướng! - Các chị nói, - chú mà còn đứng đây thì các chị cười đến đứt ruột mà chết thôi!". Lần đầu tiên cả đội thấy cái miệng liến láu của Tư-dát được việc. Ba giờ chiều, có tin quân giặc đã tiến đến sân bay Phú Bài. Lệnh trên: Tất cả phải cấp tốc rời khỏi thành phố. Trước lúc xuất phát, đội trưởng tập hợp đội thành hàng ngũ chỉnh tề. Anh báo cho cả đội biết: Sẽ phải hành quân suốt cả đêm hôm nay. Chúng ta sẽ rút lên chiến khu- Các em soát lại ba lô đồ đạc, xem có thứ gì không cần thiết thì vứt bỏ lại để đi đường xa đỡ nặng. Cả đội yên lặng nhìn anh- Như đoán biết các chiến sĩ nhỏ bé của anh trong giờ phút nghiêm trọng này, đang nghĩ gì và đang chờ đợi cái gì, anh bước ra chính giữa hàng quân, hắng giọng nói: - Các em! Chúng ta phải rút khỏi thành phố, nhưng không phải chúng ta chịu thua chúng! Không! - Anh quắc mắt chặt mạnh bàn tay vào không khí, nét mặt đanh hẳn lại- Theo chủ trương của HỒ Chủ Tịch và của Chính Phủ, cuộc kháng chiến của chúng ta được chia ra làm ba giai đoạn. giai đoạn thứ nhất: phòng ngự, giai đoạn thứ hai: cầm cự, giai đoạn thứ ba: tổng phản công- Hiện nay chúng ta đang bắt đầu giai đoạn thứ nhất- Thế giặc lúc này đang còn mạnh, chúng ta tạm thời rút khỏi thành phố, lên vùng núi cao thành lập chiến khu- Chúng ta vừa củng cố xây dựng lực lượng vừa tổ chức đánh giặc. Lúc đầu đánh nhỏ, dần dần ta đánh lớn. Khi thế giặc đã suy yếu, bấy giờ ta sẽ chuyển sang giai đoạn tổng phản công. Chúng ta sẽ dùng đại quân đánh chiếm lại thành phố, làng mạc quê hương, giải phóng hoàn toàn đất nước. Giành lại hoàn toàn độc lập. Bấy giờ tất cả chúng ta sẽ được sống cuộc sống sung sướng hạnh phúc như có lần anh đã nói với các em. Những lời giải thích tình hình kháng chiến hết sức đơn giản đó của đội trưởng đã làm cho gương mặt ỉu xìu của cả đội vụt rạng rỡ phấn chấn hẳn lên. Thật ra các chiến sĩ nhỏ bé này đâu có cần đến những lời giải thích thật thuyết phục với lý lẽ thật đích đáng, điều mà lúc này chúng cần là được người chúng hoàn toàn tin cậy, khẳng định niềm tin. khẳng định chiến thắng- Mà khẳng định không phải bằng lý lẽ mà bằng thái độ, tình cảm. Bởi một lẽ, các em yêu Cách Mạng, yêu TỔ Quốc, yêu những lý tưởng .cao đẹp của cuộc sống với tình yêu thơ ngây gần gũi như tình yêu cha, yêu mẹ, yêu ông bà... Lẫn trong nỗi đau khổ, uất ức chân chính của người chiến sĩ khi cảm thấy mình phải tạm thời thua giặc có cả lòng tự ái của trẻ con khi bị thua một keo vật, một trận bóng đá... Hòa-đen hôm về tập trung đội, dọc đường ghé vào quán mua viên kẹo bi ngậm chơi. Trong quán, ngoài bà bán hàng còn có hai ông khách mặc áo dài đen quần lụa xa xị trắng, đang ngồi sát vách hút thuốc lá Cẩm Lệ. Nhìn qua cách ăn mặc, Hòa-đen cũng đoán biết hai ông này thuộc loại giầu có hoặc làm quan ngày trước. Hai ông vừa hút thuốc vừa nói chuyện thời thế. Lúc đầu em chẳng để ý câu chuyện của hai ông- Em còn mải mê với viên kẹo bi của bà bán hàng vừa trao cho. Chà, viên kẹo dinh dính trong như thủy tinh, có điểm những vằn xanh, đỏ đẹp' mê người. em thận trọng đút viên kẹo vào mồm, ngậm vào một bên má để mút dần- Chất ngọt mát cứ lan dần Ở đầu lưỡi- Ðịnh bước ra khỏi quán em bỗng nghe một trong hai ông khách nói: - Cà cuống chết đến đít vẫn còn cay? Tây họ đuổi cho chạy ré còi vẫn còn nói cứng- Những là toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến, những là trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi! Thắng lợi chạy dài! ông khách thử hai có hàng ria mép đen nhánh, vắt vẻo điếu thuốc lá sâu kèn trên cặp môi thâm sì cười khẩy tiếp lời: Bác không nhớ ngay cái bữa đầu tiên nổ súng tôi đã nói ngay: Việt Minh răng cũng thua Tây. Ðời thuở mô mác lào đâm thủng xe tăng! Hòa-đen đứng khựng lại Ở ngưỡng cửa. Em đỏ mày say mặt vì tức. còn tức hơn cả cái hồi còn Ở nhà, khi có đứa réo tên cha mẹ ra mà chửi. Em muốn cãi lại hai cái lão già mặc áo đen ni để bênh vực cho kháng chiến, cho Việt Minh, cho Vệ Quốc Ðoàn. Nhưng em không biết phải cãi như thế nào- Ðúng là quân ta phải rút lui Ở Mặt trận Ruổi thật. Nhưng.-- nhưng...em giận run lên vì cảm thấy mình bất lực, vì bị xúc phạm một cách cay đắng. viên kẹo bi vừa ngậm, mới suýt được có hai cú nước bọt, ngọt ngon đến chết được, thế mà em nhổ phăng ngay xuống đất, em quay lại nhìn hai ông khách, trợn mắt chửi: - TỔ cha bay? Hai đứa bay là đồ Việt gian? Rồi ù té chạy- ông khách có ria mép chụp chiếc guốc đang xỏ Ở chân, nhảy chồm ra cửa ném theo. Thằng cha ném rất bợm, suýt nửa trúng đầu em- Em vừa chạy vừa chổng mông về phía ông khách, vỗ bồm bộp. gào to: - TỔ cha hai thằng Việt gian có ăn đít tao đây! Chửi, vỗ đít mà cơn giận vẫn không sao nguôi được. Càng nghĩ đến câu chuyện của hai lão già mặc áo dài đen, máu trong người em càng sôi lên. Em bặm môi, nghiến răng, trợn mắt, quát to lên một mình: - Tao mà có khẩu súng, tao nã cho hai thằng bay hai phát vô giữa lỗ miệng ngay! . . . Lúc này đứng trong hàng, Hòa- đen như nuốt từng lời giải thích của đội trưởng- Em chặc lưỡi xuýt xoa tiếc mãi chưa được đội trưởng giảng cho nghe về ba giai đoạn kháng chiến như bữa ni. Mình sẽ giảng cho hai cái thằng già mặc áo đen dài phải cứng họng, trắng mất ra. Mình mô có thèm chửi cho nhớp miệng, vỗ đít cho nhớp tay. Tư-dát quay sang nói với Lượm đứng bên cạnh, giọng buồn buồn: - Nếu rút lên chiến khu mà đánh không thắng thì làm răng mi hè? Chắc tụi mình phải Ở luôn trên đó, làm lấy nhà mà ở, trồng lấy khoai sắn mà ăn, rồi đóng khố để tóc dài như người thượng cà răng căng tai CÓ chết thì chôn luôn trên đó. Lượm sửa lại hai quả lựu đạn mỏ vịt đeo trước bụng, nói giong lộ vẻ đau đớn. Theo tao thà Ở luôn trên núi, ăn sắn đeo gùi đóng khố, chết thì chôn luôn trên đó, còn hơn là phải về Ở chung Ở lộn với ba thằng Tây. ba thằng Việt gian. ngày ngày phải ngó tụi hắn đi lại nghênh ngang trên đường phố mình như ngày chưa Cách Mạng! - Ðúng đó anh Lượm ạ. Em cũng nghĩ như anh rứa. - Mừng đứng sau lưng Lượm, bật lên nói- Em a, em thà chết đói chứ không thèm ăn một hột cơm của tụi Tây, tụi Việt gian! Mừng níu tay Tư-dát hỏi: Anh Tư này, ba giai đoạn cái chi chi anh hè? Tư-dát giọng chê trách: - Phòng ngự, cầm cự, tổng phản công! có rứa mà không nhớ- Tối bụng tối dạ như mi mà đi học thì cứ gọi lấy bồ mà đựng trứng vịt lộn. Mừng không để ý đến lời chê trách của Tư-dát. Em còn mải nhẩm đi nhẩm lại cho nhớ: "Phòng ngự, cầm cự, tổng phản công. Phòng ngự, cầm cự, tổng phản công..." Tự nhiên em rớm rớm nước mắt nghĩ thầm: "Chao, ước chi chừ được gặp mạ, nói cho mạ nghe cái ba giai đoạn, để mạ khỏi lo khỏi buồn mà bệnh thêm nặng. Mạ ơi, Vệ Quốc đoàn ta răng cũng đánh đuỗi được tụi Tây, nước mình răng cũng được độc lập, mạ răng cũng được Chính phủ cho vô nhà thương to nhất, nhiều thứ thuốc qúy nhất chữa cho mạ lành bệnh suyễn . . . Mạ đừng lo chi cả mạ ơi! ". 6. Các đơn vị lũ lượt lên đường rời khỏi thành phố. Một hồi còi dài. Ðội Thiếu niên trinh sát nối theo sau một đơn vị Vệ Quốc đoàn, rời khỏi cửa Chánh Tây, theo con đường số Một, đi về phía cầu An Lỗ. Chốc chốc các em ngoái đầu lại, cặp mắt buồn rười rượi, thương tiếc xót xa- Một ngọn lửa rất to bùng lên từ phía cầu Bạch Hổ. Quân ta đang rưới xăng đốt cầu. Lúc này mưa đã bớt nặng hạt và chuyển thành một màn bụi mờ dày đặc. gió lạnh thổi bời bời. thành phố xa dần, chìm khuất sau màn mưa. Chốc chốc trong cái biển bụi mưa đặc sệt đó lại rộ lên những tràng súng dài ằng ặc- Tiếng súng như muốn nhắc cho đoàn quân rút lui biết: "Huế Ở phía ni, Huế Ở phía ni!"- Xa xa, phía nam thành phố, tiếng đại bác giặc nổ rền như sấm đất. Tư-dát mải ngoái đầu nhìn Huế chân vấp phải hòn đá, kêu "ối!" Mặt em nhăn nhó xuýt xoa, nhắc bàn chân đau lên nhảy lò cò một quãng: - Tớ vấp sứt mất cái móng chân rồi các cậu ơi' - Em rên rỉ. Bồng cúi lượm một hòn đá, ném ngược trở lại căm tức chửi: Mả cha ba thằng Tây? Lúc ni trong các vị trí chắc cha con giòng giống tụi hắn đang ôm nhau mà nhảy đầm với hát xì lô, xì la điếc cả đít? Hình ảnh Bồng bất ngờ gợi lên đó làm khơi ngòi giận đang ám ỉ trong lòng cả đội. Các em cùng nhao lên thi nhau tìm hết lời độc địa để nguyền rủa tui thực dân cướp nước. ôi! quả thật không gì làm cho người chiến sĩ đau đớn uất giận hơn khi hình dung quân thù đang ôm nhau nhảy múa trên đất đai quê hương mình! Tư-dát chân vẫn nhảy lò cò, nói như muốn an ủi các bạn. - Ðược, cứ để cho tụi hắn ôm nhau nhảy đầm với hát xì lô xì la. đến ngày tổng phản công, tụi ta về chiếm lại Huế- Tụi ta sẽ dùng súng cắm lưỡi lê lùa tuốt tuốt cả Tây đầm, lớn, nhỏ, già, trẻ ra sân vận động Ðất Mới Xung quanh sân vận động, tụi ta sẽ bố trí toàn F.M- Hốt kít- Chiêu Hòa hai nòng, rồi ra lệnh cho cha con tụi hắn phải ôm nhau mà nhảy đầm với hát xì lô xi la đúng như hôm ni. đứa mô không chịu nhảy, chiu hát, ta kéo cổ ra, tạch tạch "phơ" luôn? Rồi các cậu coi tụi hắn vừa nhảy vừa hát vừa đái hết cả ra quần, ra váy làm thối inh cả sân vận động? Cái viễn cảnh trả thù giặc mà Tư-dát vừa tưởng tượng ra đó làm cho cả đội nguôi nguôi bớt giận. Chúng tranh nhau bàn tán thêm bớt cách thức tổ chức trả thù của Tư-dát. Ra đến cầu An Lỗ, người chạy giặc ùn ùn càng đông. Ngoài bộ đội, cán bộ, còn cơ man nào là đồng bào- Kẻ gánh người khiêng, người dắt xe đạp, người đẩy xe bò, người dắt con, người bế cháu..- ồn ào nhốn nháo như vỡ chợ. Nhiêu đoạn đường bị tắc nghẽn không sao nhích lên được- suốt dọc đường đồng bào vứt lại không biết bao nhiêu đồ lề, của nả mà chẳng ai buồn nhặt- Ngang qua Hương Cần cái làng có xuýt ngon nổi tiếng, đội đuổi kịp một đơn vị súng cối tám mốt ly..- Anh Vệ Quốc Quân vác cái nòng súng đi giữa hàng quân cao vượt lên. Anh vác cái nòng thép to như cột nhà mà coi bộ nhẹ không. Ðầu anh đội mũ sắt, quần xắn đến bắp-vế, hai cẳng chân to và đen không khác chi hai cái nòng súng cối tám mốt. Trông bộ anh quen quen- Mừng nhận ra anh đầu tiên. NÓ mừng rỡ chạy vượt lên gọi to: - Anh So? Anh So? Anh đổi vai vác nòng súng, rồi quay lại, phướn mày nhìn bọn trẻ- Anh mở rộng miệng cười hồn hậu phô hết cả hai hàm răng to, vàng khè khói thuốc lá, cả đội liền nhận ra chính là cái anh công binh phụ trách bom cầu Bạch HỒ hôm nào. Ðội trưởng bước lại, bắt tay anh: - đồng chí lại chuyển qua moóc-chê tám mốt à? Răng không Ở công binh nữa? Anh So cười hề hề: - Trời sinh ra tui là cốt để ăn no vác nặng. Cấp trên thấy tui sức vóc ra ri mà giao cho cầm sợi dây bom quá nhẹ, uổng! Các ông mới điều tui qua để vác cái cột nhà sắt ni đây đồng chí ạ. Anh đưa bàn tay hộ pháp vỗ đánh bộp cái vào nòng súng moóc-chê. Tư-dát đứng gần đó làm bộ hớt hải kéo.tay anh: ối, anh vỗ nhè nhẹ chớ vỗ mạnh rứa lỡ bẹp mất nòng súng, Tây đến lấy chi mà bắn anh? Chú đưa tay sờ vào chỗ nòng súng anh vừa vỗ miệng xuýt xoa: . - Chết cha rồi, hơi bẹp, hơi bẹp! Anh trung đổi trưởng moóc-chê cho trung đội nghỉ giải lao mười phút. Ðội trưởng cũng thổi còi cho đội lánh sang bên đường nghỉ cùng với các anh moóc-chê- Mừng từ nãy tới giờ vẫn đứng sát sau lưng anh So- Em ngập ngà ngập ngừng muốn hỏi anh cái gì nhưng thấy anh còn mải nói chuyện nên lại thôi. Anh So sực nhớ, quay lại: - Mừng đó em? Chút nữa thì anh quên mất. Cách đây nửa tháng, anh có công tác phải về Bao Vinh. Ngang qua nhà em anh tranh thủ tạt vô, thì may cách chi, đúng lúc mạ em đang sửa soạn đồ lề gánh gióng để đi tản cư. Anh liền kể với mạ chuyện anh gặp em- thằng con chị nó đi Vệ Quốc Ðoàn Ở Dội Thiếu niên trinh sát Trung đoàn Trần Cao Vân coi bộ oách lắm". Nhưng mạ em nhất định không tin, cứ khăng khăng nói: " Chú thương chị, bảy đặt chuyện ra mà nói cho chị vui lòng, chứ thằng con chị còn sống làm răng được chú ơi? Từ ngày cháu mất đi không đêm mô chị không nằm mê thấy cháu về ngồi dưới chân giường chị, ôm mặt khóc tỉ tê: " con chết oan uổng lắm mạ nớ.. Anh chưa biết làm cách răng cho mạ em tin thì vừa vặn sực nhớ đến bó lá tầm gửi em gửi anh dạo nọ. Rứa là anh mở ba lô lấy ra đưa luôn cho mạ em- 'Chị không tin thì đây, lá tầm gửi thằng con chị nó nhờ tui mang về cho mạ nó, để mạ nó sắc uống lành bệnh suyễn kinh niên đây NÓ còn dặn chị chặt nhỏ lá ra, sao vàng, hạ thổ, đổ năm bát nước sắc lấy một. Uống bốn năm lần là khỏi bệnh. Chị biết không nó khoe với tui là phải trèo lên đọt ngọn cây bút bút cao nhất Huế vào giữa lúc nửa đêm để hái nó đó. Công trình hắn ra rứa nên tui phải giữ cái bó lá nớ con hơn cả thần giữ của. chị nghĩ coi, nếu con chị nó không nói thì làm răng tui biết được chị mắc bệnh suyễn kinh niên? Với lại làm răng tui có sẵn lá tầm gửi trong ba lô để đưa ra ngay cho chị?" Lúc đó mạ em mới cầm lấy bó lá, ngó trân trân một lúc, mặt coi bộ dại hẳn đi Anh sợ quá tưởng mạ em mừng quá hóa điên. Mạ em kêu lên một tiếng làm anh rúng cả tim : "ỦI chao ôi! - Ðúng là thằng con tui nó còn sống thiệt rồi chú ơi" Rồi mạ ôm rịt bó lá vô ngực vừa khóc vừa cười và nói- "Ai ngờ con còn sống con ơi? Rứa mà con làm mạ khóc hết nước mắt nước mũi-.." Mạ kể với anh: "Hồi còn Ở nhà hễ mỗi lần tui lên cơn hen, là cháu của chú ngồi bên tui suốt ngày suốt đêm chườm ngực cho tui. Rồi lần mô hắn cũng nói: "Mạ ạ, con nghe cụ Ba Trà nói thứ lá cây tầm gửi đậu trên ngọn cây bút bút thật cao, trèo lên đúng lúc nửa đêm mà hái về, phơi khô, sao vàng rồi sắc uống, thì bệnh suyễn nặng mấy cũng lành. Con ước chi có cây bút bút ngọn cao thấu trời, đậu thật nhiều tầm gửi, để con trèo lên hái về sắc cho mạ uống. Cháu của chú nó hiếu nghĩa như rứa đó chú nớ...". rồi mạ em lục gánh, lôi trong bị quần áo ra một bộ áo quần của em còn mới tinh, quần sóc xanh với áo sơ mi trắng cụt tay- Ðưa bộ áo quần cho anh, mạ nói: "Bộ áo quần ni chị may cho cháu nhưng cháu chưa kịp mặc- Mấy lần cháu nó đòi mặc chị lại không cho, nói để dành đến Tết mặc, mình con nhà nghèo, ăn mặc tùng tiệm răng xong thì thôi... Hôm chị mời thầy pháp làm lễ cầu hồn cho cháu chị định đốt về dưới đó cho cháu nó mặc. Nhưng thầy pháp nói ma chỉ biết mặc quần áo giấy thôi- Rứa là chị phải thuê thợ mả dán một bộ quần áo giấy giống in như bộ ni, đốt cho cháu-.. Chừ may mắn được gặp chú đây, chị muốn nhờ chú đưa giúp cho cháu, nói với cháu giúp chị: Biết con còn sống, theo Vệ Quốc Ðoàn mạ mừng lắm, mạ không giận con mô. Con phải cố gắng theo kịp bầu bạn, anh em, Vệ Quốc Ðoàn giao cho việc chi phải làm đến nơi đến chốn, phải chăm chỉ giỏi giang. Với lại con nhớ đừng đi giang nắng nhiều mà phải cảm thì khổ mạ.--" Anh nói với mạ em- "Chuyến ni về chưa chắc tui đã gặp lại được nó. Tôi sợ mang theo mà làm mất của cháu thì tội cháu lắm. Chị cứ giữ lấy, răng rồi cũng có bữa hắn được cấp trên cho về phép thăm chị thôi..." Kể đến đó anh tắc lưỡi: "Tiếc quá, biết rứa hôm đó anh mang bộ áo quần đi cho xong. có phải chừ em được mặc áo mới rồi không?" Nghe chuyện mạ, Mừng cơ hồ ngồi không vững nữa- Bàn tay nhỏ bé, đen đũi, các ngón tay bị móp vì dầm lạnh, cứ bíu chặt lấy vai áo anh, như sợ ngã. em úp mặt vào ngực anh, nước mắt nó thấm qua áo anh, nóng bỏng. Và lạ lùng chưa, cả đội và cả các anh trong trung đội moóc-chê, mắt người nào cũng đỏ hoe. Chiều hôm sau, đội rút đến cầu Hiền Sĩ- CÓ tin quân giặc đã tràn vào thành phố. đi bộ một ngày một đêm, bàn chân đứa nào cũng rộp phồng. đây là lần đầu tiên trong đời các em phải chuyến đi bộ xa đến thế. Nhiều em phải cởi cả áo, cả quần dài, xé ra bọc bàn chân mới bước nổi- đội trưởng đi giày săng-đá không bít tất. hai bàn chân anh cũng rộp phồng, nhưng nhất định anh không cởi giày. Phải lội qua nhiều quãng đường ngập nước mưa nhen thỉnh thoảng anh lại nằm dài xuống đất, giơ ngược hai chân lên trời để dốc nước trong giày ra. Các em gọi đùa ỉa Ðội trưởng tập xiếc- Nhắc đến xiếc, cả đội lại nhớ đến những bạn hiện vắng mặt: Vệ-to-đầu, Lai, Du, Nghĩa, Ðoàn, Trà, Tề.- Từ hôm các bạn rời Huế theo các đơn vi bổ sung cho Mặt trận phía Nam, không em nào có tin tức gì về- Hiện lúc này các bạn đang Ở đâu- có còn đầy đủ cả không- có bạn nào bị thương hay hy sinh- Trưa hôm qua, các em gặp một đơn vị thuộc tiểu đoàn Mười tám, vừa từ trong đó rút ra. Các anh kể: "Trong trận kịch chiến Ở đèo Mũi Né, có một chú liên lạc không rõ Ở đơn vị nào, trạc tuổi các em, đã trúng đạn hy sinh. chú ta chết mà mặt cứ tươi rói, không ai dám nhìn lâu đau ruột quá! vì phải rút lui gấp nên không mang chú ta theo được, phải dùng lưỡi lê đào huyệt chôn trên đỉnh đèo. Trước khi chôn, các anh đã cẩn thận lấy cái áo súng khẩu đại liên Hốc-kít bọc xác. Chú ta nằm vừa vặn cái áo súng. . ." Một anh trong đơn vị này nghe xong câu chuyện đã trầm ngâm kết luận: "Rứa đó các em ạ. đời chiến sĩ Vệ Quốc chúng ta không phải là da ngựa bọc thây mà áo súng bọc thây? Cuộc chiến đấu của chúng ta hôm nay dữ dội và quyết liệt hơn xưa nhiều lắm". Không hiểu sao cả đội em nào cũng nghĩ chú liên lạc "áo súng bọc thây" đó có thể là Vệ-to-đầu. Cả đội đều biết đứa thân nhất với Vệ là Hiền. Hai đứa đã nhận nhau làm anh em kết nghĩa. Chúng hẹn nhau khi mô đánh Tây xong sẽ về Ở với nhau. Cùng làm cùng ăn, cùng sống cùng chết. Bởi vậy em nào cũng tránh nói ý nghĩ đó ra trước mặt Hiền, sợ bạn buồn tội. Riêng Hiền không mấy khi thấy nhắc đến Vệ. Và hễ thấy bạn nào đang nói chuyện Vệ-to đầu là em lảng xa, Nhưng đêm đến, nhiều bạn ngủ cạnh em phải bừng tỉnh vì tiếng Hiền khóc thổn thức trong mơ-em ú Ớ gọi tên bạn-.. 7. vượt qua cầu Hiền Sĩ, các đơn vị rút lui rời bỏ quốc lộ số Một, rẽ trái theo con đường rải đá đi về phía làng CỔ Bi. Bây giờ núi xanh đã Ở trước mặt đoàn quán rút lui- Ðêm đến, đội cùng với các đơn vị rút lui được lệnh nghỉ lại Ở làng CỔ Bi. đồng bào Ở đây đã chạy lên núi hết- Nhà cửa bỏ trống toang. Làng nằm cạnh con sông BỒ nước xanh rợn người- Khoảng hai giờ sáng, đội trưởng đánh thức cả đội dậy, đi ra bến sông. Ngoài bến đứng đặc người, lố nhố súng đạn, ba lô, túi dết... Dưới sông, đò đậu thành dãy dài. Từng toán, từng toán lần lượt xuống đò- đội xuống một con đò dài như con thoi có một ông cụ và một o chèo đò. Bóng tối nhòa nhòa không nhìn rõ mặt. Con đò rẽ nước nối đuôi các đò đi trước, ngược sông. Mặt sông gợn sóng lốm đốm sao và ánh lửa chài đây đó. Nhiều quãng núi đá dựng thành vại sát bờ sông- Con đò lướt đi trong bóng núi đen thăm thẳm như chui vào hang sâu- Tảng sáng, đò cập bến làng Trò. Làng nằm giữa một thung lũng hẹp, một mặt là sông xanh rợn người, ba mặt kia vây quanh núi cao trùng điệp, bên kia sông cũng là núi, vách núi hoang vu, chim kêu vượn hú, san sát chuối rừng, song mây.
|
Nhân vật quan trọng đầu tiên các em gặp lại khi vừa đặt chân lên bến làng Trò là "ông-già-bảy-lăm" khẩu sơn pháo cổ lỗ độc nhất của trung đoàn và đồng thời là niềm tự hào đặc biệt của toàn Mặt trận Huế - Thừa Thiên. Bây giờ nhìn "ông" mới tiều tụy làm sao? Nòng một nơi, bánh, càng một nẻo. Tất cả các bộ phận trên thân thể "ông" được tháo rời ra chất thành một đống lủng củng dưới gốc cây mít. Nòng ông bị đạn đại bác bô-pho của giặc bắn toe mất đầu hôm ông đứng dưới chân cột cờ khạc đạn- Các anh Ở xưởng quân giới phải cưa đứt chỗ bị đạn, dài đến hơn gang tay. dạo đó được tin này chiến sĩ cả mặt trận lo lắng buồn rầu, coi là một tổn thất không gì bù đắp được . . . Cả đội xúm xít quanh ông, em sờ nòng, em sờ càng, em sờ bánh... nét mặt em nào cũng rầu rầu xót xa. Các em có một mối cảm tình đặc biệt đối với "ông"- "ông" đã góp phần làm nên vinh quang cho đội, với chiến công lừng danh Mặt trận của Vịnh-sưa. Bởi vậy mà cả đội nhìn cái thân thể tiều tụy, tàn phế của "ông", lòng cứ xót xa quyến luyến không dứt- . Các anh xưởng quân giới khiêng ra một hòm mỡ súng, tọng vào nòng "ông" chuẩn bị thả "ông" xuống đáy sông Bồ, để "ông" khỏi lọt vào tay giặc- Cả làng Trò nhà nào cũng chật ních cán bộ, bộ đội rút lui- Rất nhiều kho tàng, công xưởng của tỉnh được di chuyển lên đây từ trước. Các em chạy loanh quanh khắp làng- Trong một vườn mít râm như rừng, các em gặp một cái kho năm gian lớn, chất toàn nôi đồng- Nồi chất cao từ mặt đất đến nóc nhà đủ các cỡ, từ nồi nấu một hai người ăn đến loại nồi ba mươi luộc được năm sáu chục đòn bánh tét- Cái nào đáy cũng bị chọc thủng. ÐÓ là nồi của đồng bào trong tỉnh ủng hộ trong Tuần-lễ-đồng, để đúc đạn bắn giặc. Không hiểu sao đứng nhìn cái kho nồi đồng thủng đáy này, cả đội thấy lòng nao nao buồn- Chao, nếu những chiếc nồi này mà biết nói, chúng có thể kể lại biết bao điều cảm động, thú vị về cuộc sống của hàng chục nghìn gia đình khác nhau-.- có những chiếc nồi quanh năm chỉ nấu toàn cơm độn khoai, sắn, lại có những chiếc mỗi năm chỉ được một vai lần bén hơi lửa, những cái miệng trẻ con mếu máo, gào khóc bên miệng những chiếc nồi không còn đính hạt cơm. Các em bàn cãi, ước tính nếu đúc hết tất cả số nồi đồng này thì được bao nhiêu viên đạn? Tư-dát chỉ một cái nồi sứt quai nằm gần sát mái nhà, quả quyết nói- - Ðúng là cái chú nồi đồng điếu của nhà tớ- Tớ chỉ -nhìn thoáng là nhận ra ngay- Chú ta sứt mất một quai. mỗi lần bắc chú xuống bếp, mạ tớ cứ phải lót gié vô bên mép chú. Tư dát rút cái súng cao su trong túi ra, lắp viên sỏi bắn một phát trúng luôn cái nồi sứt quai vừa chỉ. Em nói với cái nồi . Chớ em không nhận ra anh à em? Anh là anh Tư-dát yêu dấu của em đây mà. Hay tại bữa nỉ anh mặc áo quần Vệ Quốc Ðoàn oai quá, nên em lạ? Mạ anh đưa em đi Vệ Quốc Ðoàn từ cái hồi Tuần-lễ- đồng năm ngoái, cùng với em mâm, anh xanh, em còn nhớ không? Từ đó đến nay cả nhà ai cũng chắc là em đã chui vô nằm trong ngực tụi Tây thực dân rồi chớ. Ai ngờ em còn nằm với đơn vị Ớ đây. Tư-dát nghiêng đầu, khum lòng bàn tay đặt lên vành tai, mắt hấp ha hấp háy làm bộ đang chăm chú lắng nghe cái nồi trả lời Tư-dat hất hất cằm, làm tuồng mặt giận, hỏi lại: Răng, em nói là em không nhớ ra anh Tư mô à? Trí nhớ em răng kém dữ rứa? Hèn chi đít em đen thui? Em quay lại nói với các bạn - Các cậu không biết, tớ đã học qua. sách xem tướng nồi, anh nồi đồng mô mà đít đen thui là rất kém trí nhớ- - Em lại nói tiếp chuyện với chú nồi- - Anh Tư mà mỗi lần đi học về là chạy ngay xuống bếp dỡ vung em ra, thò luôn tay còn dính đầy mực vô hông em, vét cơm nguội cục ra ăn với nước mắm dầm ớt ấy mà... Cậu chuyện ba hoa thiên địa của Tư-dát làm cho cả đội đâm ngùi ngùi nhớ nhà, nhớ mẹ, nhớ cha. Mừng cũng bắt chước Tư dát nhớn nhác nhìn ngó khắp kho, tìm cái nồi nhà mình- tìm một lúc em mới sực nhớ nhà mình không có nồi đồng- Từ trước đến nay mạ em chỉ nấu cơm bằng nồi đất. 8. Ðội được lệnh nghỉ lại làng Trò một ngày: chuẩn bị cơm nắm, muối mè để hành quân vượt núi lên chiến khu Hòa Mỹ. Sáng sớm hôm sau, khi cảnh vật còn tối mờ sương núi, đội đã tập hợp thành hàng ngũ, đến trạm tiếp lương, linh cơm nắm, muối mè- Mờ sáng, đội thành hàng một, đi theo một ông lão dẫn đường, rời làng Trò, tiến về phía dãy núi cao trước mặt. ông lão dẫn đường đầu cạo trọc trụi như sư cụ râu cằm lơ thơ chỉ chừng vài chục sợi. Cặp mắt ông lúc nào cũng nheo nheo như bị chói nắng hoặc bị khói cay- Hai bên mép ông có hai đường nhăn sâu hoắm như lấy dao mà trổ, ôm vòng lấy cái miệng rộng hơi móm, nhìn rất hóm. ông đội cái nón mê đan bằng tre cật nặng không thua gì cái mũ sắt, mặc bộ bà ba vải nâu bạc phếch dầy đặc những mụn vá xanh đen và cái quần xà lỏn màu cháo lòng dải đến gối. đặc biệt ông có cái bụng to tướng như bụng đàn bà chửa bảy tám tháng - bụng của người sốt rét kinh niên thành báng- Chắc do đó mà tên ông là Bụng. ông Bụng người làng Hòa Mỹ, làm nghề bứt tranh đốt than. ông được Ban chi huy Mặt trận trưng dụng cùng một số bà con khác trong địa phương, sang làng Trò dẫn đường cho các đơn vị rút lên chiến khu. ông Bụng dẫn đội vượt núi theo một con đường dốc ngoằn ngèo, còn nguyên dấu rựa mở đường. Hai bên lối đi lau sậy, cây cối um tùm, hoang vu đến rợn người- Dây leo, giang, mây song bò ngang bò dọc trên đường như đàn trăn, đàn rắn- Nhiều cây gỗ ba bốn người ôm, mục gãy đổ ngang lối đi phải khom mình chui qua Trên mặt đất lớp lớp lá rụng thối, vắt sên như trấu ngo ngoe, ngo ngoe - . Bàn chân vừa lướt qua là chúng bám ngay lấy, cắn hút máu- còn lũ vắt xanh thì đậu trên lá cây, rình bám vào cổ, vào vai, chui tọt vào nách, vào bẹn, lúc nào không hay. Chúng cắn hút máu cho đến lúc no tròn như quả sim rồi rụng xuống- Cả đội lúc đầu em nào bị vắt sên bám phải, cũng sợ rúm người lại. Nhưng rồi thấy sợ không xong với cái tụi hút máu người này, càng co người lại tui hắn càng bám dử. Các em đành phải nhắm mắt, nghiến răng túm lấy cái mình trơn nhớt của bọn sên vắt dứt ra ném đi- Vài lần đầu còn thấy ghê tay, nhưng chỉ sau một buổi đường là hết sợ. Hai cẳng chân em nào cũng nhoe nhoét máu- con sên dứt ra rồi, máu vẫn cứ tiếp tục chảy, cái giống này rất tài, bao giờ cũng nhằm trúng mạch máu. Lần đầu tiên được nếm mùi leo dốc núi, các em mặt bạc trắng vì mệt thở cả mắt lẫn tai. Nhiều em bò ra dốc- Leo một đoạn dốc ông Bụng lại phải dừng lại đợi. ông ngồi xuống một gốc cây, lôi từ trong túi áo một nùi thuốc lá ngọn rứt ra và quấn những điếu thuốc to bằng ngón chân cái- ông đánh lửa châm thuốc bằng một con dao nhíp, một hòn đá to bằng nắm tay và một cái bùi nhùi - Các em nhìn ông đánh lửa kiểu này phục lăn. Lạ hơn nữa là hai chân ông không thấy một con vắt nào cắn. - Làm răng vắt lại không cán ông? - Các em xúm tại hỏi. - hay ông có bôi thứ thuốc chi? Ông Bụng cười: - Rứa dọc đường các cháu không gặp cái tụi vắt sên cứ ngo ngoe mà không chịu cắn à? đó là tụi vô phước cắn nhầm chân miềng nên bị mẻ hết răng đó. Bọn tẻ trợn tròn mắt nhìn ông, nửa tin nửa ngờ. ông phả khói thuốc dày đặc như một đám mây, ho khục khắc nói tiếp: Cái thứ răng sên răng vất đã thấm béo chi. Mới bữa tê đây thôi, miềng đi từ Hòa Mỹ qua Trò, dọc đường một con chó sói núp trong bụi rậm, nhảy chồm ra, táp luôn vô bắp chân miềng hai miếng, nhay nhay rồi kêu ăng ắng bỏ chạy. Miềng thấy bắp chân hơi ngưa ngứa, sờ tay xuống gãi thì thấy rớt xuống đất tám cái răng chó trắng hếu mà nhọn quá đinh. Té ra anh ta táp mạnh quá, răng dắt luôn vô da miềng, coi như nhổ răng. Tội nghiệp cái con chó sói đó rồi đến chết đói mất thôi. Rụng mất tám cái răng cửa thì còn ăn uống cách răng- ông Bụng tặc tặc lưỡi tỏ vẻ thương xót cho con chó sói đã cắn ông. Các em hoang mang không biết ông nói chơi hay nói thật, vì nét mặt, giọng nói của ông không có vẻ một chút gì là đùa vui hết. Qua khỏi một dốc núi khá cao, ông chỉ cho các em xem những bãi cứt voi to bằng cái thúng úp, còn nóng hôi hồi- Chứng tỏ đàn voi vừa đi qua đây xong- Tư dát ngó bãi cứt voi cười nói: - Ước chi tụi minh cũng ỉa được những bãi cứt to như ri hè? Tụi mình chỉ việc kéo nhau đến trước cổng đồn tụi Tây, ỉa mỗi thằng một bãi, tụi Tây ngó thấy cũng đủ khiếp mà chết. Qua khỏi núi rậm, tiếp đến vùng đồi cỏ tranh bạt ngàn san sát như bát úp. ông Bụng chỉ cho các em những dấu chân cọp mới nguyên, in trên mặt đất ướt. Các em nhìn những dấu chân hệt dấu chân mèo nhưng to bằng cái bát, sợ xanh mắt, vội vàng đi sát vào nhau. - Bồng hỏi: - ông ơi ông! Ó trên Hòa Mỹ có nhiều cọp không ôông? ông Bụng ềࠦ#224; nói: - Tưởng chi chớ cái giống cọp beo thì chẳng thiếu! Nhiều bữa miềng đi bứt tranh, gánh tranh về nhà mở ra phơi, thấy có hai ba cái đuôi cọp máu me đỏ lòm, ngúc nga ngúc ngắc, nằm lẫn trong tranh. Té ra miềng mải bứt, bứt luôn đuôi cả một bày cọp đang ngồi rình mồi mà không biết! Cả đội phá lên cười, nhao nhao nói: - ông nói trạng chi trạng gớm rứa ông ơi! Ông Bụng mặt vẫn tỉnh khô, ề à kể tiếp: - Cách đây chừng nửa tháng, một bữa miềng đi bứt tranh về, vừa mở bó tranh ra thì có một cục chi to cỡ bằng trái bưởi, tròn tròn, nâu nâu, nhăn nhăn, lăn ra kêu cái bịch- Miếng lượm lên ngó coi, té ra cả một đùm.-- dái cọp! Cái liềm mới đưa cho thợ rèn cắt lại chấu, sắc đã gớm, bứt dái cọp mà cứ ngọt xớt như bứt chuối chín! Tư-dát hỏi ông: Rứa chừ mô rồi ông? Cái chi? - đùm dái cọp ấy? - Miềng luộc chấm muối ớt ngay bữa đó. Ðể lâu sợ ôi. - ông chép miệng- - Cái anh dái cọp lơ mơ rứa mà ngọt đáo để, có phần ngọt hơn anh dái voi. Cả đội bò lăn ra bãi cỏ tranh mà cười, còn ông Bụng mặt vẫn tỉnh khô, thủng thẳng quấn một điếu thuốc lá cũng to bằng ngón chân cái, đánh đá lửa hút. ông Bụng nói trạng chơi mà Mừng cứ tưởng thật. Em hoảng quá, đi nép sát vào Tư-dát, một tay bíu chặt thắt lưng da. Tư-dát quay sang nói: - Nì, lỡ cọp nó có nhảy ra vồ thì cậu nhớ bỏ nịt tớ ra nghe, cậu mà níu chặt quá, hắn tha luôn cả tớ đi thì chết tớ đó nghe! Qua làng Sơn Qua qua khe Nước Nóng, qua làng Thanh Tân. rồi làng Ðất Ðỏ, mọc đặc một giống tre lồ Ô Từ làng đất đỏ đi men theo bờ con sông Ô Lâu uốn lượn quanh có nước chảy rì rào giữa hai bờ lau sậy um tùm. 9. Năm giờ chiều hôm đó, Ðội đặt chân lên đất chiến khu Hòa Mỹ. Chiến khu! Hai tiếng mới mẻ này đã từng gợi lên trong trí tưởng tượng các chiến sĩ nhỏ tuổi trong đội Thiếu niên trinh sát biết bao hình ảnh hùng tráng thơ mộng. . . Sau Cách Mạng tháng Tám, lần đầu tiên các em được nghe hai tiếng chiến khu qua bài hát: "Nhớ chiến khu". " chiều nay xa chiến khu trong rừng chiều Bên bờ tiếng suối reo ngàn thông réo..." Hồi còn Ở mặt trận Huế, mỗi lần sinh hoạt đội cất tiếng hát bài "Nhớ chiến khu" các em lại thấy hiện ra trước mắt những rùng thông vi vu trong gió ngàn, dòng suối bạc lấp lánh chảy róc rách giữa hai bờ đá trắng phau-.. Một đoàn chiến sĩ ngồi bên suối mài gươm, lau súng- Một toán chiến sĩ khác cưỡi ngựa phi vun vút qua đèo. Bởi vậy mà chiều hôm đó, khi đã đặt chân lên đất chiến khu Hòa Mỹ rồi mà cả đội vẫn không ngớt mồm hỏi ông Bụng: -Sắp đến chiến khu chưa ông? - đi chừng bao lâu nữa mới tới chiến khu ông? ông Bụng khoát tay chỉ bao quát vùng đồi núi trước mặt nói: - Chiến khu ta đây chớ mô nửa các cháu. Cả đội sửng sốt: Chiến khu là đây thiệt hả ông? Ông Bụng lên giọng giảng giải: - Cái vùng núi non ni từ đời thủy tổ thì gọi là Hòa Mỹ- Mới đây Chính phủ cải ra tên mới là chiến khu- Chiến khu với Hòa Mỹ cũng là một cả thôi. Cả đội nhìn nhau tưng hửng. Chẳng có gì giống với những điều các em tưởng tượng trước đây. Hòa Mỹ là một cái làng ven núi, lơ thơ chừng vài chục nóc nhà nằm rải rác trên một rẻo đất dài và hẹp. Một bên là núi cao trùng điệp, một bên là con sông Ó Lâu quanh co uốn khúc. Sông hẹp, nhiều khúc vén quần lội qua được, phơi cả sỏi đá dưới dòng. Từng quãng, từng quãng, người ta đắp những cái kè bằng cọc gỗ và đá chắn ngang sông. Nước chảy ào ào qua những chỗ kè để hở, đẩy những chiếc guồng nước nặng nề, kĩu kịt quay đều đều vục nước sông lên đổ vào những cái máng nước trên cao, tưới những thửa ruộng ven sông- Những ngôi nhà tranh, vách đất nép mình dưới những rặng tre lồ Ô dày rậm như rừng. Một lối đi nhỏ ngoằn ngoèo chạy xuyên qua làng- Dọc hai bên lối đi là những dãy sán, khoai chen lẫn với những đám cỏ tranh cao quá đầu người- Trên các vồng khoái, sán rất nhiều dấu chân lợn lòi CÓ những đám sán rất rộng bị lợn lòi dũi nát. Ðồng bào Ở đây người nào nước da cũng xanh mai mái bởi bệnh sốt rét kinh niên. Về chiều, khí núi một màu trắng đục, dâng lên mờ mịt- Mưa rả ních. gió núi thổi ào ào- BỘ đội cán bộ, công nhân các cơ quan, công xưởng của tỉnh, từ các ngả đường rút lui khác cũng lần lượt nối nhau đổ lên Hòa Mỹ Người nào cũng mệt nhoài, mặt mày phờ phạc ướt mèm lấm láp suốt từ đầu đến chân. Khắp làng nhà nào cũng chật ních người, súng đạn ba lô đồ đạc- Những cây sào lồ Ô dài phơi đầy quần áo- Ðường đi lối lại, bùn sục lên dưới hàng trăm bàn chân mang vác nặng nề, trơn như đổ mỡ. Tiếng gọi nhau í a ới suốt từ đầu làng đến cuối làng. Làng Hòa Mỹ được gọi là tiền-chiến-khu. Chiến khu chính nằm sâu trong dãy núi xanh rì đằng sau làng. Ðội Thiếu niên trinh sát trực thuộc Trung đoàn bộ, phải vào đóng Ở chiến khu Một, gọi tắt là Xê-ca Một. Từ Hòa Mỹ vào đến Xê-ca Một xa vào quãng hai cây số, qua một dải rừng thấp bằng phẳng. Một con suối khá rộng nước chảy Ổ ồ, với những tảng đá xanh rêu trơn nhẫy, đâm sâu vào dãy núi miên man trùng điệp. Men theo bờ suối đi thêm chừng nửa cây số là đến nơi đóng quân- Một dãy lán một mái, dựng ngay bên bờ suối. Dãy lán này mới dựng cách đây chỉ vài hôm, lá lợp, cột, kèo, rui, lạt buộc vẫn còn tươi nguyên. Mỗi bên có một dãy sạp dài suốt từ đầu lán đến cuối lán, để làm giường nằm. Mặt sạp lát bằng những cành cây còng queo, so le, gồ ghề, nằm lên đó khác nào nằm lên một bó củi. Ðội được chỉ định Ở cái lán số ba kể từ dưới lên. Tư-dát sờ tay lên mặt sạp, gật gù nói- Người ta nói đời chiến sĩ nằm gai nếm mật là như ri đây anh em ạ. Tức cảnh sinh tình, em ứng khẩu đọc luôn một đoạn thơ nhỏ vừa chợt nghĩ ra: ,'Sống thời nằm trên cành cây, Chết thời áo súng bọc thây chiến trường Nhưng ta là Vệ Quốc Ðoàn Gian nguy đâu có sờn gan anh hùng-. ". Hay! Hay! - Cả đội nhiệt thành khen ngợi. Nhiều em yêu cầu Tư-dát đọc lại để học theo. Chỉ một tí là cả đội thuộc. Em hát, em ngâm nhộn nhạo cả khu rừng. Không khí trong đội phút chốc tươi vui phấn chấn hẳn lên. Vừa đặt ba lô, túi dết xuống sạp nằm, đội trưởng liền huy động cả đội ra rừng phát củi khô. Trời sập tối, đội trưởng cho nhóm lên Ở giữa lán một đống lửa to như đống lửa trại. Khói xông mù mịt- ánh lửa bập bùng. Cả đội vây quanh lấy đống lửa, cởi áo quần ướt ra hơ, trêu chọc nhau cười nói râm ran. Hành quân mệt lả thế mà cả đêm đó cả đội đều thao thức đến quá nửa đêm, không sao ngủ được- Một phần tại cái sạp nằm cứ đâm nhói nhói giữa lưng, một phần vì những tiếng động dễ sợ của rừng đêm- tiếng hoẵng kêu, vượn hú, tiếng một đàn voi ào ào đi qua đâu đó trên dốc núi, làm cành cây gãy răng rắc, tiếng chim từ quy khắc khoải buồn thảm và nhiều tiếng rừng huyền bí khác làm cho cả đội cứ sởn hết gai ốc, cứ nhích dần nép sát vào nhau. Hôm sau, đội ăn bữa ăn đầu tiên của chiến khu. Cơm gạo lức với muối tráng, phải bẻ lá rừng cuộn lại làm bát và bẻ cành cây làm đũa ôi, nhớ sao xiết, kể sao hết những gian khổ thiếu thốn của chiến khu những ngày đầu tiên ấy. Mười năm sau một nhà chép sử đã ghi lại mấy nét tổng quát của hoàn cảnh chiến khu Hòa Mỹ ngày đó như sau: " Việc tổ chức các chiến khu Ở các vùng rừng núi đều làm rất sơ sài. Lương thực dự trữ rất thiếu thốn ở Thừa Thiên lúc rút lên núi, lương thực vẻn vẹn chỉ còn hai tấn gạo. Trong lúc đó số người ăn kể cả cán bộ, bộ đội nhân viên các ngành, tự vệ chiến đấu, công nhân cơ xưởng có tới hai ngàn người.." Chỉ mấy dòng vắn tắt đó cũng đủ gợi cho chúng ta ngày nay hình dung được một phần sự gian khổ thiếu thốn đáng sợ của hoàn cảnh chiến khu Hòa Mỹ những ngày đầu tiên ấy. 10. Hai hôm sau, sau bữa cơm chiều, trung đoàn trưởng hà Văn Lâu đến gặp đội. Ngay trước mặt lán là dòng suối mấp mô đá phủ rêu trơn tuột, phía sau là dốc núi cao dựng, hai bên là rừng rậm, nên đội không thể tập họp thành hàng ngũ chỉnh tề để đón trung đoàn trưởng như hồi nào. Các em phải ngồi xếp bằng trên sạp nằm để đón ông. Tất nhiên đội trưởng cũng không thể hô nghiêm khi thấy trung đoàn trưởng bước vào đầu lán. Chỉ sau mấy tuần gặp lại mà ông lạ hẳn đi- Người ông gầy sọp, gương mặt hốc hác, hai mắt trũng sâu, thâm quầng tưởng đâu như có đến trăm đêm nay rồi ông không chợp mắt. ông ngồi lên mép sạp, nhìn cả đội khắp lượt- Cặp mắt thâm quầng mệt mỏi của ông vẫn ánh lên vẻ dịu dàng, trìu mến của người cha. ông chợt nhíu trán lại hỏi đội trưởng? -Quân số đội sao ít hẳn đi thế nảy? CÓ em nào đi đâu không? Ðội trưởng ngồi cạnh ông nói: Báo cáo anh, đội hiện nay chỉ còn mười chín đội viên. Bốn em đã hy sinh, và tám em được cử vào tham gia chiến đấu Ở Mặt trận phía Nam chưa có tin tức gì. Trung đoàn trưởng ngồi yên lặng một lúc khá lâu- Mắt ông đám đăm nhìn dòng suối Ổ Ổ chảy xiết dưới chân lán- Nhìn nét mặt ông, các em hiểu ngay rằng ông sáp nói với mình những điều quan trọng-.. - Các em ạ, - ông ngẩng lên nhìn cả đội và nói,- hoàn cảnh chiến khu của chúng ta lúc này gian khổ thiếu thốn như thế nào, anh không nói chắc các em cũng đã rõ. Và mai đây chắc sẽ còn gian khổ thiếu thốn nhiều hơn nữa. Sắp đến, cả chiến khu sẽ phải ăn cháo, ăn rau rừng thay cơm.-- Trong những ngày chiến đấu vừa qua hầu hết các em đã tỏ ra xứng đáng là bạn chiến đấu của người liệt sĩ thiếu niên anh hùng chết trên cột thép thu lôi. đội các em đã góp phần không nhỏ công lao và xương máu cho cộng cuộc kháng chiến cứu nước. Anh xin thay mặt Ban chỉ huy trung đoàn biểu dương và khen ngợi tất cả các em! Nhưng hoàn cảnh chiến đấu của bộ đội chúng ta sẽ vô cùng gian khổ nặng nề- Anh sợ rằng sức vóc nhỏ bé của các em khó lòng kham chịu nổi Bởi vậy đêm qua Ban chỉ huy trung đoàn đã họp để giải quyết vấn đề đội của các em- Cuộc họp đã đi đến quyết nghị là anh sẽ đến gặp trực tiếp các em, hỏi ý kiến các em- em nào muốn trở về sống với gia đinh thì trung đoàn đồng ý cho các em về. Trung đoàn sẽ bố trí người đưa các em về đến chỗ mà một mình các em có thể trở về tìm lại gia đình được- Các em thấy thế nào? Trước ý kiến đột ngột của trung đoàn trưởng, cả đội ngồi lặng đi rất lâu, lòng xao xuyến bồn chuồn khôn tả. Tiếng củi nổ lép bép, tiếng suối chảy Ổ ồ, lúc này nghe sao mà to mà vang đến thế" Tự nhiên cả đội em nào cũng thấy cổ mình nghẹn lại muốn khóc- Nhưng chưa rõ tại sao mình muốn khóc? CÓ lẽ đó là cảm giác khi thấy mình sắp phải rời bỏ một cái gì vô cùng thân thiết, -mà nếu mất nó là mất hết mọi mềm vui trên đời, là chẳng còn biết mình phải sống ra sao đây. - Các em cho anh biết ý kiến đi? - Trung đoàn trưởng nhắc lại và ngạc nhiên khi thấy tất cả những cặp mắt đang nhìn ông đều ướt đỏ hoe. Mừng thì khóc thật sự, nước mắt chảy ràn rụa trên hai gò má đen nhẻm bụi tro than. Lượm ngồi Ở gần cuối lán bỗng nhảy xuống đất- Em bước lại gần đống lửa, nhìn trung đoàn trưởng mím mím môi như đang cố nuốt cái gì cứ chực trào lên cổ Em nói giọng rung lên: - Thưa anh, các bạn khác trong đội nghĩ răng em không biết- Riêng em, em tha thiết xin trung đoàn cho em được Ở lại chiến khu. Dù mai đây có đói khổ gấp mười ri em cũng xin chịu. Em ưng thà phải Ở truồng, Ở lỗ mà chết đói trên chiến khu còn hơn phải trở về thành phố mà Ở chung. Ở lộn với tụi Tây, tụi Việt gian. Những tiếng nói sau cùng của em biến thành tiếng nấc nghẹn ngào. - Dạ thưa anh, em cũng xin như bạn Lượm. - Em cũng xin như rứa! Cực khổ chi em cũng xin Ở lại chiến khu. Tất cả đội cùng giơ cao tay lên và tranh nhau nói với Trung đoàn trưởng. Mừng cũng nhảy từ trên sạp xuống đất, bước lại đứng sát bên Lượm, nói giọng gần như van lơn: - Thưa anh, chúng em còn nhỏ, chưa làm được chi nhiều cho chiến khu thì trung đoàn cho chúng em ăn ít đi cũng được- Mỗi bửa các anh ăn một chén cơm thì chúng em chỉ xin ăn nửa chén thôi. Ðừng bắt chúng em phải về nhà, tội chúng em lắm anh nờ. ôi, những lời van xin thơ ngây mà thống thiết, van xin được nhận phần gian khổ thiếu thốn, được cùng sống cùng chết với chiến khu, được chiến đấu hy sinh vì sự sống còn của TỔ quốc, của các chiến sĩ nhỏ tuổi này. đã làm cho trung đoàn trưởng phải rơi nước mắt- ông rút mùi xoa trong túi thấm nhanh hai mắt- ông rời chỗ ngồi bước lại ôm Mừng vào lòng và nói: - Một lần nữa các em càng làm cho anh thêm tin rằng các em đã xứng đáng và sẽ xứng đáng là bạn chiến đấu của em Vịnh- Bây giờ thì thế này: nếu tất cả các em đều tình nguyện Ở lại chiến khu để tham gia chiến đấu, anh sẽ về báo cáo lại với toàn thể Ban chỉ huy trung đoàn, chắc chắn các anh cũng sẽ đồng ý để các em Ở lại thôi- Còn bây giờ anh chúc các em đêm nay ngủ một giấc thật ngon Và sáng ngày mai chúng ta sẽ cùng nhau bắt tay vào việc xây dựng tổ chức chiến khu. chuẩn bị để bước vào trận chiến đấu mới. Ðội trưởng vỗ vỗ hai bàn tay nói với đội: - Các em, chúng ta hãy hát lên một bài thật to, thật hay để tiễn trung đoàn trưởng nào! Kỳ đang ngồi xếp bằng trên sạp, vụt đứng ngay dậy. Em thay Quỳnh làm quản ca của đội. Quỳnh vẫn nằm Ở trạm quân y Mặt trận, nghe đâu trạm đang trên đường chuyển lên chiến khu. Kỳ ngẩng cao đầu, hơi phướn người lên rồi cất giọng trong ngần, lanh lảnh cao vút: "đoàn Vệ Quốc quân một lần ra đi-.." Cả đội vùng đứng hết cả dậy trên sạp, lấy hết hơi sức hòa theo: "Nào có mong chi đâu ngày trở về Ra đi ra đi bảo tồn sông núi Ra đi ra đi thà chết không lui.-." Tiếng hát bay lượn trên mặt suối, tràn qua những lớp lớp cây rừng, tràn qua gai góc tối tăm, quấn quít theo chân trung đoàn trưởng cho đến tận bìa rừng. Tiếng hát của các em hôm nay làm cho ông thấy lòng cảm động, xốn xang khác thường. Trước khi trèo khuất sang bên kia dốc núi, ông dùng lại lắng nghe cho đến lúc tiếng hát tắt hẳn. ông bỗng có cảm giác những lời hào hùng quyết liệt và sục sôi nghĩa khí kia không phải do các chiến sĩ nhỏ bé của ông hát lên mà chính là tiếng đồng vọng thôi thúc của ý chí Nhân Dân và Ðất Nước trong giờ phút vô cùng nghiêm trọng của lịch sử. Tiếng hát như một ngọn lửa bùng lên cháy rực rỡ giữa đêm rừng lạnh tối, nó làm cho rừng và lòng ông ấm hẳn lại, vui hẳn lên.
|
Chương 9: Phần Thứ Tư 1 Chiếm xong Huế, giải vây được cho đồng bọn bị quân ta vây hãm sau gần hai tháng, viện binh giặc tiếp - tục đánh dốc ra phía Bắc Thừa Thiên. Thế giặc mạnh như lũ tràn. Các làng xã nằm ven đường số một: An Hòa, Hiền Sĩ, Phú ốc, Phò Trạch, Mỹ Chánh... Lần lượt lọt vào tay chúng. Cuộc kháng chiến của tinh Thừa Thiên bước vào thời kỳ khó khăn, gian khổ, đen tối nhất. Khoảng mười lăm ngày sau khi chiếm đóng Huế, giặc Pháp đã thiết lập xong chính quyền bù nhìn. Tên Nguyễn Khoa Toàn - hồi Pháp thuộc làm đốc học, mấy lần ẩn núp Ở xó xinh nào nay chui ra lên ghế tỉnh trưởng. Chúng cấp tốc cho dọn dẹp sửa sang lại thành phố, phục hồi sinh hoạt. Chúng ráo riết dựng gấp bộ máy kìm kẹp, đàn áp nhân dân. Ngoảnh đi ngoảnh lại khắp thành phố đã mọc lên nhan nhản nào Ty An Ninh, sở mật thám Phòng Nhì, sở mật thám Liên Bang, ty Cảnh sát, nhà tù-.. Những tên lính ngụy đầu tiên xuất hiện trên đường phố Huế. Chúng vừa được bọn Pháp tuyển dụng trong vòng mười hôm trở lại nên chưa có đồng phục, ăn bận táp nham như thường dân. Ðứa sơ mi cộc tay, quần "Soóc, chân đất; đứa áo vét tông cháo lòng đội mũ phớt; đứa áo quần bà ba, kéo guốc lẹp kẹp; trước ngực áo đeo lủng lẳng tấm biển bằng bìa cứng, hình quả trám, to bằng cỡ bàn tay, nền vàng, viền đỏ có ba chữ B.V.Q (bảo vệ quân) Hàng ngày máy bay đakôta bay lượn từ đầu tỉnh đến cuối tỉnh, xổ truyền đơn trắng xóa. "Hỡi đồng bào! Ai tản cư đâu thì nên mau mau hồi cư về thành phố. Ðồng bào về được quân đội liên hiệp Pháp và chính phủ Nam triều che chở, bảo vệ như xưa. Cấm không được chạy theo Việt Minh! Chạy theo Việt Minh là cầm - chắc cái chết trong tay. Quân lính của Việt Minh đã bị quân đội Pháp đánh cho tơi bời, kiệt quệ và hoàn toàn tan rã. Quân đội Pháp hiện đang tiếp tục truy lùng chúng và sắp sửa tiêu diệt những tên sống sót cuối cùng!". đọc những tờ truyền đơn này, nhiều đồng bào Huế băn khoăn lo nghĩ. Lòng tin vào cuộc kháng chiến của nhiều người khác nào cây con trước cơn bão lớnn- Người hồi cư về Huế ngày một đông. Phần lớn họ trở về bằng đường sông. Từ sáng tinh mơ đến tối mịt thuyền lớn, đò nhỏ, nối mũi nối lái nhau xuôi về thành phố, trên các con sông An Cựu- đông Ba, sông Sinh, Sông Hương- Thuyền, đò chất cao ngất nghểu những rương hòm, bao bị, bàn ghế, nồi niêu, thúng mủng, và hàng trăm thứ đồ đạc linh tinh khác. Người chen chúc ngồi chóc ngóc trên đồ đạc, trên mui thuyền- Nét mặt người nào cũng đầy vẻ thấp thỏm; lo âu. Ai đoán chắc được cuộc sống sắp đến trong lòng thành phố giặc chiếm sẽ lành dữ ra sao đây? Nhiều bà già ngồi xếp bằng giữa đống đồ đạc, vừa lần tràng hạt vừa lâm râm niệm Phật. Vào một buổi chiều, trong số thuyền đò hồi cư trên sông Sinh có một chiếc đò nhỏ một mui, chở một gia đình bốn người- Một người đàn ông đã đứng tuổi và ba đứa con nít. Chiếc đò chỉ một người chèo. ông lão chèo đò trạc gần sáu mươi, cằm lơ thơ một chòm râu tiêu muối, mặc áo tứ thân vải nhuộm đà, quần xà lỏn xanh vá chằng đụp, lấp lửng đầu gối. Cái gia đình hồi cư trên chiếc đò này hơi lạ. HỌ gần như chẳng có đồ đạc gì ngoài mấy bọc áo quần để trong khoang thuyền và ba cái áo tơi lá để một đống sù sụ trước mũi đò. Thật khó đoán được quan hệ gia đình giữa bốn con người trong đò. Người đàn ông khoảng trên dưới bốn mươi tuổi, mặt vuông chữ điền, tóc rễ tre rậm bù xù, lông mày mũi mác, râu ria lởm chởm. Ba đứa con nít suýt soát tuổi nhau, trạc mười bốn, mười lăm- Một đứa mặt mũi khá xinh trai da dẻ trắng trẻo mắt một mí, tóc để rẽ, mặc quần ka ki xám, áo len dài tay màu rượu chát- Một đứa gày nhom, cao lòng khòng, hai ống chân thẳng đuột như hai ống quyển, miệng rộng ngoác, mui hếch ngược, vẻ mặt liến láu- NÓ mặc cái áo sơ mi cũ ngắn cũn như áo đi mượn và cả cái quần bà ba vải chúc bâu trắng, cố kéo mãi mà hai ống quần vẫn chỉ lơ lửng đến giữa bụng chân. đứa thứ ba thấp nhỏ hơn hai đứa kia một tí, nước da ngăm ngăm đen, đầu húi cua, trán vuông mà giô, cặp mắt to thô lố. NÓ mặc bộ áo quần bà ba vải đà vá víu- Nếu đội thêm cái nón mê, và cầm trong tay một cây roi thì đúng là một chú bé chăn trâu chính hiệu. để ý cách xưng hô thì thấy ba đứa gọi nhau cậu, tớ và gọi người đàn ông khi thì anh, khi thì ba. Và mỗi lần nghe chúng gọi anh, người đàn ông liền lừ mắt một cái, chúng liền vội vàng chữa ngay sang gọi ba, và tủm tim cười. đò về đến ngã ba Sình thì trời lắc rắc đổ mưa. Thằng bé có vẻ mặt liến láu, thò đầu ra ngoài mui đò, mặt nghênh lên nhìn trời. NÓ thụt đầu vào khoang đò, nói với người lớn tuổi, giọng lo lắng: - Anh ơi! à... Ba ơi! Trời sắp mưa to rồi. Lấy mấy cái tơi vô không thì ướt hết! Người lớn tuổi lừ mắt, đặt ngón tay trỏ lên môi ra hiệu. Thằng bé vội im ngay. NÓ đã nhớ ra vừa nói một điều thậm vô lý- áo tơi lá là để đi mưa lại còn sợ mưa ướt! Nếu không vô lý thì chắc là đã hớ hênh tiết lộ một điều bí mật gì đó đang nằm trong mấy cái tơi lá kia. Con đò qua khỏi ngã ba Sình được một quãng bỗng từ trên bờ bên phải có tiếng gọi giật giọng như quát. - ê! Chiếc đò một mui, một người chèo kia! Chèo vô đây ngay. Nghe tiếng quát ba đứa trẻ giật bắn người, nhớn nhác ghé vào kẽ hở mui đò, nhìn lên bờ- Người lớn tuổi hỏi ông cụ chèo đò, vẻ mặt như ngơ ngác, ngờ nghệch: - Ai gọi chi mà xẵng giọng vậy cụ ơi? - Tụi hắn gọi đò để kiểm soát đó! - ông cụ chèo đò cộc cằn trả lời- òng khoáy khoáy mái chèo ghìm con đò đi chậm lại. Nghe hai tiếng kiểm soát, mặt ba đứa trẻ tái đi trông thấy- Người đàn ông nói với ông cụ chèo đò- Cụ cứ chèo thẳng cho mấy cha con tôi đi được không cụ? đò ta thì có đồ lề chi mà kiểm soát- Chèo vô chèo ra e về tới nhà tối mất cụ ơi! Không được mô - ông cụ lắc đầu nói. - Tụi hắn đã gọi mà không vô là tụi hắn bắn ngay. Sáng bửa qua có một chiếc đò ba mui chở tám mạng người, bị tụi hắn bấn chìm Ở khúc sông ni rồi. Miệng nói, tay ông cụ cậy mạnh mái chèo, chèo con đò vô thảng phía bờ. Biết không thể nào lọt qua trạm kiểm soát của giặc Ở Cửa ngõ Huế này, người đàn ông vội quay lại, ra hiệu cho ba đứa trẻ nhích đến gần và nói rất khẽ: - Anh dặn gì các em phải nhớ kỹ nghe? Ba đứa cùng gật đầu, ngồi im thin thít, vẻ mặt từ bi từ tại- Thằng bé có bộ mặt liến láu, cơ hồ không ngồi vừng- NÓ ngả lưng xuống sạp thuyền, đầu gối lên bọc quần áo, nhấm mắt vờ ngủ, nhưng hai đầu gối cứ rung rung đánh nhịp. Còn đò cập bến. Trên bến có hai tên lính Pháp cao lớn tay cầm tiểu liên, và một thằng Bảo Vệ Quân mặt dài như mặt ngựa, mặc bộ áo quần "Sóc" ka ki vàng, lưng đeo súng lục, tay cầm roi [bad word] bò. NÓ bước xuống bến, vung vẩy cây roi, hách dịch ra lệnh: - Người trong đò lên hết cả đây để các quan lớn xét! Bốn "cha con" chui ra khỏi mui, lục tục bước lên bờ- Người đàn ông chắp tay chào chúng, dáng bộ khúm núm, sợ sệt: - Chào các quan lớn ạ! Hai tên Pháp giương cặp mắt vàng như mất rắn, hết nhìn người đàn ông lại nhìn ba đứa con nít. Thằng Bào Vệ Quân tay chống nạnh, hất hàm hỏi: - Chúng mày đi đâu? Người đàn ông hai tay vẫn chắp trước bụng, lưng khòng xuống như vẫn tiếp tục chào, lễ phép trả lời: - Dạ bẩm-.- dạ..- gia đình chúng tôi hồi cư về Huế ạ. - Về đâu? - Dạ Vĩ Dạ. - Chúng mày là thế nào với nhau! Dạ, bẩm bốn cha con ạ! - Cha con? - Thằng Bảo Vệ Quân gằn giọng hỏi lại, vẻ nghi ngờ. Người đàn ông chỉ từng đứa một, nói như phân trần. - Dạ, bẩm hai cháu này là con vợ cả, còn cháu này, - anh chỉ thằng bé mặt mũi liến láu, - là con vợ lẽ ạ. - Chúng nó lên mấy? - Dạ bẩm, cháu này mười ba. - Anh chỉ thằng bé nước da ngăm ngăm đen. - Còn hai cháu này đều mười bốn cả. Chẳng là hai mụ nhà cháu Ở cữ cùng một tháng. - Mày bao nhiêu tuổi? - Dạ bẩm băm chín, tuổi mão. Vợ mày đâu? - Dạ bẩm, mụ cả nhà cháu chết bệnh từ năm kia. Còn mụ hai nhà cháu thì mới chết đầu tháng trước phía ngoài Phò Trạch... xuống phải đạn máy bay - Chết là đáng kiếp? Ai khiến chạy theo tụi Việt Minh làm chi! - Dạ bẩm đâu có dám ạ! Sợ súng đạn quá rồi chạy quáng chạy quàng đó thôi. - Dưới đò chở những chi? - Dạ bẩm chẳng có chi..- Chỉ có mấy bọc áo quần rách của các chát với mấy cái tơi lá... CÓ ít nhiều của nả chạy tản cư bị mất sạch trơn-.-- Người đàn ông thở dài nhăn nhó- Thằng Bảo Vệ Quân quay lại xì lồ xì là một tràng với hai tên Fháp- Hai tên Pháp mắt giương thao láo, gật gật đầu. Tên B-V.Q dắt cây roi [bad word] bò vào thắt lưng, rút súng lục lên đạn, bước xuống đò lục soát. Ba đứa trẻ đứng quay lưng ra sông, mắt cụp nhìn xuống đất- Mỗi tiếng động lộc cộc, !ệch kệch từ dưới con đò vọng lên làm chúng giật mình thon thót nhất là khi nghe tiếng mấy cái áo tơi lá bị đá kêu loạc xoạc, mặt ba đứa đều xám xanh cả lại- Trời chiều hôm đó rét căm căm thêm gió sông thổi hun hút, mà hai thái dương chúng mồ hôi cứ rịn ra lấm tấm. Người đàn ông khẽ đưa mắt nhìn chúng với ánh mắt ngầm bảo: "Bình tĩnh lại các em'" Thằng B.V.Q sau một hồi lục soát khá kỹ, đút súng lục vào bao, đạp mũi con đò nhảy lên bờ- Hắn lại xì lồ xì là với hai tên Pháp, rồi quay sang nói với người đàn ông: Cho đi! Về nhà phải an cư lạc nghiệp, không được nghe theo tụi Việt Minh xúi bậy mà làm loạn nghe chưa? - A lê! cút! Lúc con đò chèo ra đến giữa sông ba đứa bé coi bộ mới hoàn hồn. Thằng bé mặt mũi liến láu, thè lưỡi ngoẹo đầu nói: - Lúc nghe hắn đá loạc xoạc vô mấy cái tơi lá, tao tưởng tim rụng mất bay ạ. - Tao cũng rứa - Tháng bé mặt xinh trai quệt mồ hôi trán nói thì thào như còn sợ bọn trên bờ nghe tiếng. - Tao thấy ớn lạnh cả xương sống. Trong ba đứa thì thằng bé nước da ngăm đen coi bộ gan, bình tinh hơn cả. NÓ ghé mắt vào khe hở mui đò, chăm chăm nhìn lên bờ, lầm bầm chửi. - Mả cha hắn? Làm Việt gian mà coi bộ hống hách đã gớm? Ðến lúc tổng phản công thì mi có chạy đằng trời! Người đàn ông ngồi xích lại gần ba đứa, nói vừa đủ chúng nghe: - Lần sau các em phải gắng giữ thái độ bình tinh hơn nữa. Anh thấy mặt các em lúc đó cắt không được chút máu. Ba đứa gật gật đầu, cùng nói: Thưa ba, chúng con xin nhớ ạ! - Và chúng cùng cất tiếng cười to. 2 Các gia đình hồi cư kỳ quặc này chính là một tổ trong đội Thiếu niên trinh sát được cử về Huế hoạt động sau khi thành phố bị giặc chiếm được hơn hai mươi ngày- Người đàn ông là anh Ðồng, cán bộ của ban quân báo trung đoàn, mà anh em trong ban quen gọi là đồng-râu. Còn ba đứa trẻ là đội viên của Ðội. Thằng bé mặt mũi xinh trai là Kim cùng tổ với Tư-dát, hay làm điệu làm bộ, các bạn đặt tên cho là Kim-điệu. Thằng gầy nhom vẻ mặt liến láu chẳng phải ai xa lạ, chính là Tư-đát. Thằng bé thứ ba, con vợ cả" như anh đồng-râu giới thiệu là Lượm, có cái răng cửa sứt, các bạn quen gọi là Lượm-sứt. Sau cái hôm Trung đoàn trưởng Hà Văn Lâu đến gặp đội Ở chiến khu một, ông đã trực tiếp giao nhiệm vụ chiến đấu đầu tiên cho đội: Cử ngay một tổ trở lại Huế hoạt động quân báo, và một tồ ba đội viên khác làm nhiệm vụ liên lạc cho tổ quân báo từ Huế về chiến khu. Hai tổ này sẽ do một cán bộ của Ban Quân báo trung đoàn cử sang trực tiếp phụ trách. Anh đồng-râu là chiến sĩ Vệ Quốc Ðoàn Nam tiến, chiến đấu suốt Ở mặt trận An Khê, Phú Phong. Trước ngày Huế nổ súng kháng chiến ít lâu, anh được điều ra công tác Ở trung đoàn Trần Cao Vân. Trở lại Huế chiến đấu! Tin này làm cho cả đội em nào cũng thấy ruột gan nôn nao như say sóng. Tuy chưa biết đội trưởng sẽ cử ai, nhưng bọn trẻ suốt ngày hôm đó cứ bổi hổi bồi hồi, ngồi đứng không yên. Chúng cảm thấy vừa mừng vừa lo, vừa thích, vừa sợ... Hôm đó, đội trưởng vào chiến khu hai làm việc với ban Tham mưu trưởng đoàn từ sáng sớm, mãi đến quá trưa anh mới về. cả đội reo lên chạy ùa ra đón anh Ở tận đầu dốc núi. Chúng hau háu nhìn cuốn sổ tay anh đang cầm tim đập thình thịch, hồi hộp, chờ đợi. Chúng biết chắc danh sách của tổ quân báo và tổ liên lạc đã ghi sẵn trong cuốn sổ tay bìa xanh kia. Ðứa nào sẽ được cái may mắn đáng mừng và đáng sợ đó? Về đến lán, đội trưởng mớ sổ tay lật lật các trang giấy ghi chi chít những chữ bút chì. Ðến một trang anh đặt cây bút chì vào đó rồi gập lại- Bọn trẻ nhìn nhau và nói với nhau bằng mắt- đợi đó! Chính là cái trang mà đội trưởng đánh dấu bằng cây bút chì ấy- Ðứa mô được về Huế đánh Tây đã nằm sẵn Ở đó rồi. Ðội trưởng tập hợp đội ngay trong lán- Anh nói với các đội viên nhỏ của mình, vẻ như muốn an ủi tất cả những đội viên nào không may không trúng vào danh sách của tổ quân báo và tồ liên lạc. - Tất cả các em, theo anh nhận xét đều xứng đáng được cử về Huế làm nhiệm vụ. Nhưng tiêu chuẩn quan trọng đầu tiên mà Ban tham mưu Trung đoàn yêu cầu chọn các em vào tổ quân báo là phải ít nhiều biết tiếng Pháp. Vì các em lọt vào Huế sẽ phải hàng ngày đụng đầu với bọn Pháp, sẽ phải tìm cách bắt chuyện, nghe ngóng chúng để thu lượm tin tức... Thế là đủ- Với tiêu chuẩn này bọn trẻ đã đoán được ngay những đứa nào sẽ được chọn. Cả đội chỉ có Kim-điệu là học hết năm đệ nhất trường Khải Ðịnh, đọc sách tiếng Tây làu làu như cháo. Tư-dát, và Lượm-sứt đã đỗ bằng "rim"--- còn hầu hết chỉ mới học lớp năm lớp tư (bằng lớp một lớp hai bây giờ); một số em còn chưa biết chữ như Mừng, Ðối, Bồng, Hòa-đen. Bọn trẻ đoán không sai, ba đứa được chọn vào tổ liên lạc là Hiền, Châu-sém và Bồng. Theo đội trưởng, tiêu chuẩn để anh chọn vào tổ liên lạc là thông thuộc đường lối từ Huế lên chiến khu, lại phải có sức khỏe, cặp giò dẻo cuốc bộ suốt ngày không biết mỏi. Anh nhìn khấp lượt những gương mặt đang ỉu xìu vì không được chọn, nói thêm: - Còn các em khác thì hãy sẵn sàng chuẩn bị tinh thần để nhận những nhiệm vụ còn nặng nề và nguy hiểm hơn cả nhiệm vụ của tổ quân báo và tổ liên lạc. Nghe đến hai tiếng nguy hiểm, mặt bọn trẻ đang ỉu xìu vụt tươi lên hơn hớn. Trưa hôm sau, đội trưởng dẫn sáu đội viên: Kim-điệu, Tư-dát, Lượm, Châu-sém, Hiền, Bồng trèo qua hai dốc núi đến lán làm việc của Ban Tham mưu trung đoàn. Lê Hường, Trưởng ban quân báo Trung đoàn và anh Ðồng-râu làm việc với sáu đứa cho đến lúc mặt trời khuất núi. Nhiệm vụ của tổ quân báo. kế hoạch lọt về Huế, những bước tuần tự- phải làm khi đã đặt được chân lên Huế, kế hoạch liên lạc với tổ liên lạc với chiến khu... Cả sáu đứa hết sức ngạc nhiên và khâm phục trước bản kế hoạch tỷ mỉ và chu đáo của người chỉ huy tình báo mới ngoài hai mươi tuổi này. Công tác quan trọng đầu tiên mà tổ quân báo phải làm là mang theo một ngàn tờ truyền đơn về Huế. Và sau đó khi có lệnh , sẽ rải Ở những địa điểm quy định. Lê Hường chi mấy bó truyền đơn còn chưa ráo mực in để trên cái bàn ghép bằng cành cây, bốn chân bàn chôn xuống đất, nói với sáu chiến sĩ nhỏ tuổi: - Truyền đơn ni kêu gọi đồng bào Huế mình hãy tin tưởng và ủng hộ kháng chiến, kháng chiến nhất định thắng lợi- Ðồng thời cảnh cáo bọn người cam tâm làm tay sai cho giặc- Chúng phải liệu hồn, cách mạng và kháng chiến Ở ngay bên nách chúng, nếu chúng không sớm tỉnh ngộ bỏ nghề Việt gian thì kháng chiến sẽ mượn 'cái đội mũ' của chúng - ,'Mượn cái đội mũ" của tụi Việt gian! Cả sáu đứa cứ cười khúc khích hoài với cái hình ảnh mới mẻ và lý thú này của anh trưởng ban quân báo. Lê Hường đẩy mấy bó truyền đơn tới trước mặt sáu đứa nói giọng cười cười: Tất nhiên là các em không thể xách truyền đơn mà đi về Huế như xách xâu thịt heo được! Các em phải tự nghĩ mẹo đưa nó qua lọt các trạm. kiểm soát của tụi giặc. Khôn nhờ dại chịu đó nghe! Mang cả ngàn tờ truyền đơn qua hàng chục trạm kiểm soát giặc không phải chuyện dễ. Không khéo lộ, bọn giặc cho ăn đạn như chơi. Sáu đứa cùng với anh đồng-râu họp bàn mãi. cuối cùng Lượm nghĩ được mẹo giấu truyền đơn vào giữa các lớp lá áo tơi lá. Anh đồng-râu lấy tiền của ban tình báo cấp, mua bốn cái áo tơi lá đã cũ của đồng bào Ở chiến khu Hòa Mỹ. Bọn trẻ phải kỳ cục mất cả buổi sáng để gấp và nhét ngàn tờ truyền đơn vào bốn cái tơi lá. Bởi vậy mà khi nghe thằng Việt gian lục soát con đò, đá vào mấy cái tơi lá kêu loạc xoạc Tư-dát muốn rụng cả tim và Kim-điệu thấy ớn cả xương sống. . Chuẩn bị xong xuôi, anh đồng-râu và bọn trẻ cải trang làm một gia đình hồi cư, từ chiến khu băng đồi núi, qua đường quốc lộ về đồng bằng. Con đường quốc lộ khét lẹt mùi Ô tô, mùi xăng- Những thôn xóm giặc vừa tràn qua, dấu giầy đinh còn chi chít trên các lối đi. Tre, cau đổ gục ngả nghiêng như sau một cơn bão lớn. Nhà cửa bị giặc đốt vẫn còn nghi ngút khói. Chúng gặp nhiều o, nhiều bà mệ, ông cụ vùa khóc, vừa kể lể, bới các đống tro than tìm những đồ đạc còn sót lại chưa cháy hết. Một em bé gái cổ chân đeo cái vòng bạc bị đại bác phanh ruột cạnh một gốc mít, ruồi nhặng bâu kín eả mặt em.-. ' Nhìn những cảnh tượng đó, lần đầu tiên sáu đứa được biết thế nào là lòng căm thù giặc. ÐÓ là một cái gì làm cho ruột gan chúng sôi sục lên- Một nỗi tức giận mà chúng chưa từng biết đến, bốc ngùn ngụt trong đầu Trong giây phút ấy chúng bỗng thấy thèm ghê gớm có sức khỏe, có võ nghệ phi thường như Trương Phi, như VÕ Tòng, như Tề Thiên Ðại Thánh, như Phù đổng Thiên Vương. Chúng sẽ nhổ phăng cả cây mít to như cột đình kia, và cứ thế múa tít xông thẳng đến chỗ bọn giặc đang đóng. Chúng sẽ quật gốc mít vào bọn giặc cho xương thịt nát bét, bắn tung tóe khắp cả tỉnh Thừa Thiên . . . Bồng và Châu-sém tính cục hay nổi nóng nhất đội. Mắt hai đứa vụt đỏ kè như mắt con kỳ nhông lúc cắn nhau. Bước mấy bước hai đứa lại ngoái đầu nhìn xác em bé gái cồ chân đeo vòng bạc bị đạn giặc phanh ruột bên gốc mít. Hai đứa cùng lầm bầm chửi: - Mả cha tụi Tây! Mỗi lần đi ngang qua những ngôi nhà cháy có các o các mệ vùa đào bới tro than, vừa khóc lóc kể lề, cả sáu đứa mặt đều cúi gầm và cố rảo bước thật nhanh- Chúng tưởng như các o, các mệ đều biết chúng là Vệ Quốc Ðoàn - HỌ đang nhìn theo chúng, chỉ chỏ, xì xầm bàn tán- "Mấy cái thằng mang tơi lá vừa đi qua là Vê-cu-đê chính cống đó- Tụi hắn không vất súng chạy dài thì mô đến nỗi Tây đến được đây mà đốt hết cửa nhà của bà con mình?" Phải đi mất gần hai ngày hai tổ liên lạc và quân báo mới về đến chợ Sịa, một vùng quê cách Huế chừng mươi cây số Sịa là một làng to giàu có, trù mật, bao quanh những trảng cát. Những người hồi cư tụ tập Ở đây khá đông, sửa soạn đò giang xuôi sông về Huế. NÓ phảng phất cái không khí vùng chợ Bao Vinh ngày Huế còn vây hãm giặc. Sau khi bổ trí chỗ ăn Ở của tổ liên lạc, giao cho Hiền làm tổ trưởng, quy định ngày giờ và mật hiệu liên lạc anh Ðồng-râu thuê chiếc đò nhỏ một mui đưa tổ Quân báo xuôi sông về Vĩ Dạ. Ở Vĩ Dạ anh có người o ruột ngoài sáu mươi tuổi- Bà góa chồng sớm, chỉ có một người con trai đi bộ đội Nam tiến từ năm bốn sáu đến nay không có tin tức gì về- Bà sống một mình với túp nhà tranh nhỏ bé và khu vườn rào dậu kín đáo, trồng cây ăn quả- Tính bà rộng rãi và cứng đầu cứng cổ có tiếng Ở trong vùng. Thấy việc phải, dù thiệt hại đến thân cũng làm, thấy việc chướng tai gai mắt là can thiệp- Cách can thiệp và chống lại những chướng tai gai mắt của bà là chửi, về khoa chửi của bà thì vô địch, chửi có sách, có vần, có vè, như bà con trong xóm thường nói. Hồi quân ta còn vây giặc trong thành phố, bà con lối xóm tản cư hết, chỉ riêng một mình bà vẫn Ở lại bám chắc lấy nếp nhà tranh và vườn cây quả của mình- Mấy lần anh đồng-râu về giục o đi tản cư, nhưng bà đều khăng khăng- "Tau chẳng chạy đi mô hết- Sống chết nhờ trời. Nếu có rủi ro xuống phải đạn giặc mà chết thì chết ngay trên thềm nhà mình còn sướng hơn là chết đường chết chợ"- . Anh đồng-râu biết chắc o mình vẫn Ở lại nhà. Anh quyết định đưa tổ quân báo về Ở nhờ nhà o trong buổi đầu đặt chân lên Huế và sau đó sẽ tùy cơ ứng biến. 3 khoảng sáu giờ chiều, con đò về đến Vĩ Dạ. Từ Vĩ Dạ có đường cái lớn chạy thẳng về đến Huế và khoảng cách chừng hai cây số. Kim-điệu, Tư-dát và Lượm thò đầu ra khỏi, mui đò, mặt ngớp ngớp nhìn về phía Huế, tim đập thình thịch trong lồng ngực. Chúng bồn chồn hồi hộp và cảm động đến nghẹt thở. Mới xa Huế chưa đầy tháng mà chúng có cảm tưởng như đã xa Huế hàng năm trời. Biết bao kỷ niệm da diết... Huế tưng bừng, sôi sục trong ngày tổng khởi nghĩa Huế lẫm liệt ngang tàng nổ súng kháng chiến. Huế gầm thét dữ dội năm mươi ngày đêm vây hãm quân thù. Huế hài hước cười cợt bất cứ trong hoàn cảnh nào. Rồi bóng dáng thân thương những thằng bạn cùng đội mà nay không còn nữa... Những thằng bạn cùng hát- chung một bài hát, cùng cắn chung một miếng bánh bột lọc, cùng đắp chung một chiếc mền, cùng lặn lội trong cái chiến hào mặt trận B, mặt trận C... Thằng Vịnh, thằng để, thằng Lộc, thằng Sơn . . . Chúng đã mãi mãi nằm lại cùng với Huế Ở cái tuổi mười ba, mười bốn, mười lăm. Những đứa trẻ bán báo đánh giày, bán kẹo gừng, đậu phụng rang, bán "cà-rem' đã chết cho Huế. Chết vẻ vang oanh liệt như những anh hùng trong sử sách xưa. Tất cả, tất cả, hiện ra dồn dập trong trí nhớ chúng- Phút chốc ba đứa bỗng thấy mắt mờ đi, cảnh vật vụt nhòe như nhìn qua một tấm kính đục- Chúng đã khóc lúc nào không biết. Anh đồng-râu chui khỏi mui đò, bước đến đứng đầu mũi, đưa tay chỉ cho ông lão chỗ đò cập bến. Con đò nhẹ nhàng ghé vào cái bến đất, có cây sung to mọc nhoài ra sông. Bốn người tay xách bọc quần áo, khoác áo tơi lá, chào ông lão chèo đò, nối nhau bước lên bờ. Trời vẫn rả rích mưa, khoác tơi lá mà đi vào xóm thật hợp thời Tư-dát nhìn trước nhìn sau không thấy ai, nói nhỏ với các bạn- - ước chi có tê-lê-phôn, quay lên Xê-ca báo cho tụi trên đó biết: Ba thằng mình đã đổ bộ an toàn lên Huế. Anh đồng-râu dẫn ba đứa đi men theo con đường đất pha cát ven sông, rẽ vào một đường kiệt hai bên hàng rào dâm bụt mọc cao quá đầu- Xóm vắng tanh- Bốn người dừng lại- Một nếp nhà tranh nằm sâu giữa một khu vườn xum xuê cây ăn trái: mãng cầu, chanh, bưởi, ổi, thanh trà. Xung quanh vườn cây kín hàng rào chè tàu cao quá đầu ba đứa. Cổng ngõ đóng kín bằng cánh cửa tre ken dày những cành tre gai. Anh Ðồng-râu nhón chân nhìn qua hàng rào và gọi nhỏ: - O ơi, o! O ơi! - Chớ ai gọi chi ngoài đó rứa? - Trong nhà có tiếng bà già hỏi vọng ra. - Cháu đây o ơi! Thằng Ðồng đây mà o. Tiếng bước chân tất tưởi chạy ra- Cánh cổng tre hé mở- Trước mắt bọn trẻ là một bà già trạc sáu mươi. Tóc bà mới đốm bạc, chải gọn ghẽ, búi thành lọn sau gáy- Mắt bà tinh anh và lưng thẳng như lưng con gái- Anh đồng-râu kêu "O-" còn ba đứa lễ phép chào "chào mệ ạ?". Bà già cứ đứng trân trân nhìn "bốn cha con, rồi bất chợt kêu lên giọng vừa mừng vừa lo: - Ủi chao! chớ tụi bay về đây khi mô rứa? - VÔ trong nhà cái đã rồi cháu sẽ thưa chuyện với O. Anh đồng-râu quay lại giục ba đứa. - VÔ nhà cả đi, mấy em vô nhà cả đi! Trong lúc mảy "cha con" đi vô nhà thi bà o, bước ra đường ngó ngược ngó xuôi, rồi mới trở vô đóng cánh cổng cài thật chắc. Trong nhà chẳng có đồ đạc gì nhiều. Một bộ phản mọt, cái chõng tre để bộ ấm chén, cây đèn dầu hỏa, mấy cái ghế đẩu- Chính giữa gian giữa, trên cao treo cái trang thờ Phật buông tấm màn vải điều, thoang thoảng mùi trầm hương- Chái nhà bên phải là gian buồng ngăn bằng liếp tre đan, cánh cửa cũng bằng tre, khép hờ. Bà o bước vào nhà, hết nhìn anh Ðồng-râu lại nhìn ba đứa như vẫn chưa hết sửng sờ ngạc nhiên. Bà ngồi xuống phản, nói mà miệng hơi mếu: - Rứa mà o cứ tưởng chẳng còn khi mô được gặp lại tụi bay nữa. Tây hắn thả truyền đơn nói là đã giết sạch các tụi bay rồi, xương cốt Vệ Quốc đoàn chừ đã mục hết trên núi xanh. Ngó chỗ tụi bay mà o cứ tưởng nằm mê- Anh đồng-râu cười: - Miệng Tây đít trẻ còn lạ chi o ơi! Tư dát ngồi im từ nãy đến giừ đã thấy ngứa miệng Gặp dịp liền nói leo vô: - Mệ ơi, xương cốt tụi cháu sắt nguội còn thua, dễ chi mục được mệ? Tụi cháu về đây là cốt để dần cho tụi Tây mục xương, để mệ coi cho sướng chơi. - Bà o đang mếu phải phì cười: - được rứa thì mệ vật ngay con heo trong chuồng tê bà chỉ xuống phía bếp. - Mệ khao tụi bay ngay. Tối hôm đó bà cho "bốn cha con" ăn một bữa cơm khá thịnh soạn- Những món ăn mà mỗi người dân Huế, dù đi đến cuối đất cùng trời, nếm đủ cao lương mỹ vị cũng không thể nào quên được. Cá bống thệ kho khô, rắc hạt tiêu, thịt heo ba chỉ luộc chấm tôm chua, canh cá tràu nấu dưa chua, chao. đã lâu lấm mới ăn được một bữa cơm ngon miệng đến vậy, nên bốn cha con chẳng khách khí tí nào. Nhất là bọn trẻ, đứa nào cũng lén nới thắt lưng. Tư-dát lúc ngồi xuống ăn người như que diêm, lúc đứng dậy bụng như con ệnh oang. Suốt bữa ăn bà o chỉ chống đũa nhìn "bốn cha con". Bà thủ thỉ hỏi ba đứa nhà cửa Ở mô, cha mẹ làm chi, có mấy anh chị em, đi việc nước từ khi mô. Nghe chúng kể, chốc chốc bà lại kéo vạt áo lau nước mắt, chép miệng nói: - Nhỏ nhoi như các cháu mà đã biết bỏ nhà bỏ cửa, xa cha xa mạ để đi lo việc nước việc dân. đời mệ tra trừng ni tuổi mới được thấy là lần đầu. Tiện thể, anh đồng-râu bắt luôn chuyện, muốn nhờ o nuôi giấu, che chở cho "bốn cha con" anh hoạt động. Anh không ngần ngại nói cho bà rõ, việc chứa chấp "bốn cha con" anh, không phải là không nguy hiểm. "Nếu tụi Tây biết được, không tha chi chúng không đốt nhà o, cho o vô Lao Thừa Phủ cho rệp ăn thịt". Bọn trẻ rất không ngờ bà cụ già mau nước mắt này đã trả lời rất khẳng khái: - Mấy đứa bay đầu còn xanh tuổi còn trẻ còn dám liều thân vì nước vì dân, huống chi o đây đã gần kề miệng lỗ lại còn tham sống sợ chết, tiếc của tiếc nhà. Chuyến ni o cũng quyết liều cái mạng tra với ba toong Tây một phen. Sống mà để tụi hắn đè đầu cưỡi cổ thì thà chết còn hơn! Cơm nước xong xuôi, o đi dọn dẹp chỗ ngủ cho 'bốn cha con". Bà nói: "Tụi bay phải đi ngủ sớm để còn lấy sức mà lo việc nước". Ba đứa vừa đặt lưng xuống phản mắt đã ríu lại- Chúng ôm nhau ngủ say mùi mẫn, anh đồng-râu còn ngồi lại nói chuyện với bà o bên ngọn đèn vặn nhỏ. Anh bàn tính với o kế hoạch che mắt bà con hàng xóm và tai mắt tụi ngụy quyền, việc "gia đình" anh đến Ở nhờ nhà o. Quá nửa đêm Tư-dát bỗng tỉnh giấc. Nhà tối om, gió thồi xào xạc ngoài vườn khuya. Bà mệ ngủ trong buồng, anh đồng-râu ngủ trên chõng tre, im ắng lạ lùng- Tư-dát lay lay Lượm nằm sát bên cạnh, thì thào gọi : - Lượm-sứt? Lượm-sứt! Lượm vốn rất tỉnh ngủ- Ngủ đang say thế mà Tư-dát mới gọi nhỏ hai tiếng nó đã choàng ngay dậy- NÓ hỏi khẽ giọng lo lắng? CÓ chuyện chi rứa mi? - Ðầu nó hơi ngóc lên lắng nghe động tĩnh xung quanh. - Tau đau bụng quá! - Tối om, không nhìn rõ mặt, nhưng nghe giọng Tư-dát, Lượm cũng biết Tư- dát vừa nói vừa nhăn nhó. - Chắc tại tối qua mi ních nhiều quá chớ chi? Tham thực thì cực thân mi ơi! - Thì mi ních cũng kém chi tau! - Tư-dát làu bàu cãi lại. - Mi lấy dầu hỏa bôi vô giữa rốn. Hồi Ở nhà hễ đau bụng tao cứ bôi dầu hỏa là khỏi. - Nhưng tao mót đi ca-bi-nê. - Thì đi đi. - Nhưng tối quá! mà tao không biết chuồng tiêu chỗ mô- Ðánh thực mệ dậy hỏi, tao ngại lắm. - Mi cứ mò ra sau nhà đi tạm. Mai dậy thật sớm mà hót, mệ không biết mô. - Ư - rứa tao đi nghe! - Giọng Tư-dát coi bộ đã cuống quít lắm. - Lượm cố nhịn cười, giục: - Mau lên không lại tháo ra quần thì ê chệ lắm mi ơi! Tư-dát tụt xịch xuống phản. Lượm dặn với theo: - Mệ già tinh ngủ lắm đó. Mi phải cố đi nho nhỏ nghe. "Bắn súng máy" vô cho lắm, mệ nằm trong buồng nghe tiếng là "lộ bem" ngay.
|
- Nhưng lỡ không... ấy được thì làm răng - Rứa thì cố nín hơi, rặn từ từ. Hãm bớt "ga" lại, đừng có bắn liên thanh mà phải chơi phát một "cú pạc" Tư-dát ừ ừ lia lịa, sờ soạng trong bóng tối, rút then, kéo nhẹ cánh cửa lách ra ngoài. Lượm vừa đặt lưng nằm xuống đã nghe phía sau hè nhà tiếng pành pạch nổi lên liên tiếp. NÓ giật mình lẩm bẩm. Chết cha rồi! Anh Tư-dát không hãm được "ga" bắn ghê quá. NÓ vội vàng ho lên sù sụ để át bớt tiếng "súng liên thanh" của Tư-dát. Hễ sau nhà tiếng pành pạch nổi lên, nó lại họ sù sụ, hết pành pạch nó lại im. Phối hợp rất ăn khớp, nhịp nhàng. Sáng hôm sau, anh đồng-râu bảo Lượm: - Em phải giữ ấm cổ, lấy phula quàng vào. đêm qua anh nghe em ho nhiều lắm đó. Lượm cười khúc khích, ghé vào tai anh thì thầm. Anh tủm tỉm cười rồi cốc vào đầu nó. Anh đến chịu tụi bay! - Quay sang hỏi Tư-dát. - Ðã dọn sạch chưa? Tư-dát liến thoắng: Em giải quyết xong "chiến trường" từ lúc trời chưa sáng. 4 Sau bữa cơm sáng, anh đồng-râu họp tổ để giao Nhiệm vụ. Trước khi bàn vào công việc, anh nhắc lại những nguyên tắc mà mỗi đội viên quân báo hoạt động trong lòng địch phải tuyệt đối tuân theo. "Giữ bí mật cho đội!" lời thề của toàn đội trước bàn thờ TỒ quốc hôm làm lễ tuyên thệ chính lúc này đây cần phải ghi nhớ, giữ trọn, hơn lúc nào hết. "Giữ bí mật" là nguyên tắc quan trọng hàng đầu của công tác quân báo. Một sơ hở nhỏ, lộ bí mật, có thể làm hỏng hết mọi việc, bản thân mình và đồng đội, dễ dàng sa vào tay giặc, bị tù đày, bị giết. Nếu không may bị giặc bắt được thì mỗi đội viên phải làm đúng lời thề thứ năm trong mười lời thề danh dự của Vệ Quốc Ðoàn: "Lỡ bị quân thù bắt dược, dù bị cực hình tàn khốc đến thế nào, cũng quyết không bao giờ phản bội xưng khai"- Ðể khắc sâu thêm ý nghĩa thiêng liêng của lời thề vào trí nhớ ba chú đội viên nhỏ, anh đồng-râu kể cho chúng nghe những tấm gương bất khuất của các bậc cách mạng tiền bối như: Trần Phú, Hoàng Văn Thụ, Lê Hồng Phong. Riêng Lượm nó muốn kể thêm vào bên cạnh tên những nhà cách mạng lừng danh trong cả nước đó, tên người cha thân yêu của mình: Trần Hàm- Cha Lượm bỏ nghề dạy học đi làm chánh trị cộng sản. Năm 1934 (lúc lượm mới hai tuổi) cha bị tụi Pháp bắt được- Tụi mật thám tra tấn cha chết đi sống lại nhiều lần, bắt khai tên các đồng chỉ của cha- Nhưng cha đã khinh bỉ trả lời chúng- "Tên các đồng chí của tôi, tôi biết là để mưu đồ việc cách mệnh chứ không phải để khai ra với các người"- Chúng đày cho lên Buôn Mê Thuộc- Cha vượt ngục, chúng bắt lại, cha lại vượt ngục, vượt đúng năm lần, rồi bị bắt lại- Chúng đày cha ra Côn Lôn, và bắn chết Ở ngoài đó- Sau ngày cách mạng thành công, dân làng Thượng Thủy đã nhất trí đồng thanh đặt tên cho con đường cái chính chạy qua làng là đường Trần Hàm. Gian nhà cửa đóng kín, tối mờ mờ- Mùi nhang thắp trên trang thờ Phật tỏa ngào ngạt. TỔ quân báo ngồi quây quần trên phản gỗ. Giọng anh đồng-râu kể nho nhỏ vừa đủ cho ba chú đội viên nghe. Bà o Ở trước vườn, vừa cuốc xới vừa làm nhiệm vụ canh gác. Không gian một màu xám nhạt rây rây làn mưa bụi đầu xuân- Cuộc họp thân mật, đơn sơ nhưng không khí nghiêm trang, cảm động khác thường- Ba đứa ngồi xếp bằng tròn, không nhúc nhích, mắt mở to chăm chú như nuốt từng lời kể. Nghe chuyện nhà cách mạng Lê Hồng Phong trong tù bị giặc đánh vào đầu giữa lúc đang bưng bát cơm ăn, máu đầu chảy chan đỏ cả bát cơm. Lê Hồng Phong không thèm kêu một tiếng đưa bát cơm lên miệng, và cơm nhai nuốt, chẳng coi tụi giặc ra chi. Ba đứa thấy khắp người nổi hết gai ốc. Chúng kiêu hãnh nhủ thầm: "Rứa mà chừ đây được là cháu của Lê Hồng Phong, được làm đội viên quân báo của trung đoàn, chui hẳn vào giữa bụng giặc mà đánh chúng, thật sướng nhất đời. Rồi mai đây có thể tụi giặc bắt được mình bỏ tù, tra tấn hoặc đem mình đi bắn như Hoàng Văn Thụ, như Trần Phú"- và nếu mình trung thành, bất khuất, cũng dám như Lê Hồng Phong bưng bát cơm chan đỏ máu đầu lên miệng mà và, thì mấy chục năm sau chắc cũng sẽ có người kể lại chuyện mình cho tụi con nít nghe như bữa ni anh đồng-râu kể với tụi mình". Và trong giây phút đó, cả ba đứa cảm thấy thèm muốn ghê gớm được lập ngay những chiến công thật vang dội; được mặt đối mặt với kẻ thù để tỏ rõ lòng gan dạ, bất khuất, trung thành với TỔ quốc; được chết thật vẻ vang, thật oanh liệt... Anh đồng-râu đã kéo chúng ra khỏi những mơ ước sôi nổi, và đòi hỏi chúng phải tuân theo những kỷ luật cần thiết trước mắt, rất bình thường nhưng lại rất khó khăn. Anh nói: - Các em tuyệt đối không được liên lạc với gia đình. Theo anh biết thì các em đều có gia đình, họ hàng, bà - con Ở Huế, có thể là họ đã hồi cư. Các em phải cố hết sức tránh mặt những người quen, dù là cha mạ, anh, chị. nếu bất thình lình gặp họ dọc đường. Gặp người quen hoặc gia đình, các em sẽ rất khó lòng, dấu được các em trở về Huế để làm gì. Việc lộ bí mật là bắt đầu từ đó - Anh ngừng lại, nhìn chằm chằm cả ba đứa. Cặp mất ẩn dưới đổi mày mũi mác rất rậm, ánh lên vẻ nghiêm khắc- Anh nói giọng gần như ra lệnh: - Các em nhớ chứ? - Dạ nhớ ạ.- Cả ba đứa cùng đáp, mắt cúi nhìn xuống, chột dạ trước lời dặn nghiêm khắc và khá bất ngờ với chúng. Thật tình, vừa đặt chân lên Vĩ Dạ cả ba đứa đã có ngay ý định sẽ lên tìm về thăm nhà.-- Bây giờ thế là hết. Anh đồng-râu như đi guốc trong bụng chúng - Chúng thầm nghĩ vậy - Và anh đã ngăn chặn răn đe. Anh giao nhiệm vụ cho từng đứa: Kim phụ trách khu vực mặt trận B cũ- Tư-dát khu vực mặt trận C, và Lượm khu vực mặt trận A cũ. Trong vòng ba ngày, mỗi đứa phải cố gắng thu lượm sơ bộ tình hình và tin tức hoạt động của địch trong khu vực được phân công: những nơi bọn giặc đóng quân, nơi chúng để kho tàng quan trọng như đạn dược, xăng, lương thực. những cầu cống bị phá sập đang được chúng sửa hoặc xây lại, những địa điểm chúng đặt công sở v.v... Những vị trí trọng yếu phải vẽ sơ đồ... Anh nhấn mạnh thêm: - Hiện nay ban Tham mưu trung đoàn đang rất nóng ruột chờ tổ chúng ta cung cấp những tin tức tình báo này. Anh vạch kế hoạch cho chúng khi vào thành phố hoạt động sẽ đóng giả những chú bé chạy tản cư bị lạc mất cha mất mạ, lần mò về Huế để tìm gia đình... Nếu bọn giặc chặn xét hỏi thì tuy cơ ứng đối. Sau này tùy tình hình, anh sẽ nghiên cứu bố trí cho mỗi đứa làm một công việc gì đó thích hợp như bán báo, đánh giầy hoặc cắp sách đi học, để tiện việc đi lại và che mắt địch. Riêng Lượm, anh giao nhiệm vụ trong ngày mai phải trở về Sịa gặp tổ liên lạc, thông báo cho tổ liên lạc biết tình hình của tổ quân báo, bàn định kế hoạch ngày giờ, địa điểm gặp gỡ để nhận tin tức, và kế hoạch bố trí đường dây liên lạc từ thành phố về chiến khu. Một tuần lễ trôi qua. Công việc của tổ tình báo chạy đều và khá tốt. Tuy mới vào nghề nhưng cả ba đứa đều tỏ ra có năng khiếu tình báo. Chúng nhanh trí tháo vát, thông minh và đặc biệt tích cực. Những tin tức, tình hình địch chúng thu lượm được, gửi về C.K. được Ban Tham mưu trung đoàn đánh giá cao. đích thân trung đoàn trưởng đã gửi lời về biểu dương khen ngợi chúng. Thành phố Huế lúc này người hồi cư đã khá đông . Một số hiệu buôn, hàng ăn uống? hàng tạp hóa đã mở cửa- Các chợ đông Ba, An Cựu, Bao Vinh, người họp đã gần kín chợ. Ngày càng có nhiều người từ các làng quanh thành phố vào mua bán, sắm sanh đô lề- Trên sông Hương ghe đò xuôi ngược. Trên đường phố nhộn nhịp trẻ con bán kẹo gừng, bán báo, cà-rem, đậu phụng rang, bánh mì nóng giòn. đi lại lăng xăng, rao hàng inh ỏi. Nhờ vậy, việc trà trộn đi lại để làm nhiệm vụ của tổ tình báo ngày càng thêm thuận lợi. Ba đứa hàng ngày phải luôn luôn đụng đầu với bọn lính Pháp, Bảo Vệ Quân, Cảnh Sát, An Ninh, nên dạn dĩ dần nên. Và chỉ sau một tuần, chúng đã học được khá nhiều cách đối phó, nghĩ được khá nhiều mưu mẹo để đánh lừa, che mắt bọn này. Sau mỗi ngày hoạt động ba đứa lại trở về Vĩ Dạ gặp anh đồng-râu, báo cáo công tác và nhận nhiệm vụ mới. "Bốn cha con" lại ngồi quây quần chung quanh mâm cơm tối, vừa ăn vừa chuyện trò- Chúng kể cho anh nghe những tin tức, tình hình địch thu lượm được trong khu vực phụ trách, những tình huống khó khăn hiểm nghèo chúng vấp phải, những sáng kiến chúng ứng phó để thoát ra... Anh thủng thẳng và cơm, lặng nghe chúng. Qua những báo cáo miệng của chúng, anh tổng hợp lại, và đã dần dần nắm được tình hình của bọn giặc trong thành phố Huế. Trong bụng anh rất vui vì nhận thấy ba chú đội viên nhỏ của mình tiến bộ rất nhanh trong công tác mới mẻ, khó khăn, và nguy hiểm này- Với mỗi đứa anh đều có nhận xét, góp ý trong từng trường hợp cụ thể. Qua đó, anh bồi dưỡng, huấn luyện cho chúng về nghiệp vụ tình báo, và uốn nắn những hớ hênh, thiếu sót sai lầm mà chúng có thể mắc phải. Và không lần nào anh không nhắc đi nhắc lại với ba đứa phải tuyệt đối giữ bí mật, không được chủ quan, không được tếu trong công tác. Khi ba đứa ôm nhau ngủ say trên bức phản gỗ mọt anh ngồi xuống bên ngọn đèn tù mù, kê trên chiếc chõng tre viết báo cáo trên những tờ pơluya rất mỏng, để hôm sau Lượm kịp chuyển về cho tổ liên lạc, gửi lên chiến khu. 5 Một buổi sáng, Lượm mang báo cáo của anh đồng-râu về Sịa cho tổ liên lạc. đây là lần thứ năm, nó mang báo cáo về Sịa, kể từ ngày tổ tình báo đặt chân lên Huế. Ði liên lạc từ Huế về Sịa mỗi ngày một trở nên khó khăn, nguy hiểm. Bọn giặc bắt đầu đánh hơi thấy có nhiều bộ phận của Việt Minh, trà trộn theo những người hồi cư, lọt về Huế- Lác đác nơi này nơi khác trong thành phố đã có những tên mật thám, việt gian bị bắn chết; lựu đạn nổ trong công sở, truyền đơn kêu gọi kháng chiến rải trên đường phố, Ở chợ hoặc dán Ở những chỗ đông người qua lại. để ngăn chặn sự xâm nhập đáng sợ của Việt Minh, bọn giặc cấp tốc dựng thêm nhiều trạm kiểm soát dọc các con đường ra vào thành phố. Trên sông, chúng lập những trạm kiểm soát lưu động bằng thuyền, xuồng máy- Ðàn ông, đàn bà, cả trẻ con ngang qua trạm kiểm soát chúng đều chặn lại khám xét rất gắt gao. Chúng còn tổ chức nhiều cuộc vây ráp, khám xét bất thình lình Ở khắp các ngả đường. Qua mấy lần đi liên lạc, lần nào Lượm cũng bị các trạm kiểm soát chặn lại khám xét rất kỹ. Nhưng nhờ gan dạ, bình tĩnh, nhanh trí, Lượm đều đi về trót lọt. Tất nhiên cũng có những lần chúng làm cho Lượm toát mồ hôi hột. Mỗi lần đi, Lượm đều thay đổi cách cất giấu tài liệu và cách hóa trang. Lần nó đóng vai thằng nhỏ đi chợ tay xách rỏ rau, tay xách mấy con cá tràu, cá trê; dây lạt xâu mang. Báo cáo, tài liệu nó cuộn tròn, bọc giấy bóng, nhét sâu vào bụng cá. đến nơi, thằng Hiền, Tổ trưởng tổ liên lạc phải dùng dao mổ bụng cá mới lấy được tài liệu ra, có lần nó đóng vai cháu đi về quê thăm bà ngoại, tay xách một xâu bánh ít. Ruột bánh đã được Tư-dát khéo léo moi hết tôm thịt ra chén, và nhét thay vô đó tài liệu CÓ lần nó giả làm thằng bé chạy chơi lêu lổng ngoài đường. Chân đất, đầu không nón không mũ, mặc phong phanh cái áo sơ mi cộc tay với quần đùi. Tay nó cầm đẫn mía, vừa đi vừa cắn, nhai, hít nước ngọt, nhả bã. Ngang trạm kiểm soát, bọn giặc chặn nó lại, bắt giơ cao hai tay lục tìm khắp người. Bọn giặc cứ việc soát nó cứ bình thản cắn mía, nhai rạo rạo, hít nước, nhả bã. Nước mía nhậu cả xuống cằm. Soát không thấy gì, bọn giặc cho nó đi- Nhưng nó chưa đi vội, cứ đứng đó cắn tước mía, làm ra vẻ tò mò xem chúng lục soát những người qua đường khác. NÓ còn cố ý làm vướng chân vướng cẳng bọn cảnh sát, làm chúng phát cáu. Một thằng quất cho Lượm một roi [bad word] bò quắn mông đít trợn mắt chửi: - Con mạ mi còn đứng đó lảm chi? cút! Bấy giờ nó mới ôm mông đít, nhăn nhó xuýt xoa, rồi cắm cổ chạy biến- Tài liệu nó gấp nhỏ đặt giữa lòng bàn tay cầm đẫn mía: Cách giấu này có vẻ như rất hớ hênh nhưng lại rất kín đáo. Kín đáo vì bất ngờ. Bọn giặc kiểm soát không thể ngờ tới được. ° ° ° Lần đi liên lạc này, Lượm đóng giả một thằng bé đi bắn chim. đầu nó đội cái mũ phở, áo sơ mi cộc tay, quần "sóc" xanh vá đít. Một tay cầm súng cao su lắp sẵn viên đạn sỏi, tay xách xâu chim bắn được: ba con sẻ, một con chào mào, một chim cu gáy. Hai túi quần nó cộm lên những viên sỏi, viên nào cũng tròn vo - những viên đạn sỏi xứng đáng với một tay bắn súng cao su thiện nghệ. NÓ phải mất khá nhiều công phu chọn những viên đạn sỏi này Ở mấy đống sỏi ven đường- Tuy mới vào nghề tình báo, nhưng nó đã thấu hiểu đôi khi chỉ vì một sơ suất rất nhỏ trong công tác mà hỏng mất việc lớn, có thể nguy hiểm đến tính mệnh. Ví dụ- Nếu không chịu khó, bốc bừa một nắm sỏi bỏ túi gọi là cho có Những cặp mắt cú vọ của bọn giặc kiểm soát có thể đánh dấu hỏi: "Với những viên sỏi ba vạ như ri mà nó bắn trúng chim được à? Thằng ni chắc chưa biết bắn súng cao su- Nhưng làm răng hắn lại bắn được cả một xâu chim kia?" Thế là chúng sẽ nghi ngờ, khám xét kỹ hơn và thế là tài liệu cất bị phát hiện. Trong tổ chỉ có Tư-dát là thiện nghệ bắn ná cao su. Hồi còn đánh nhau Ở Huế, cả đội đều phải ghen với nó về tài bắn ná. Cái ná cao su Lượm đang cầm chính là mượn của Tư-dát. Tư-dát có thói quen, bắn được con chim nào đều lấy máu bôi vào cán ná để lấy khước. Do thế, cái cán ná gỗ ổi đen kịt những máu khô. Còn xâu chim thì chiều qua, Lượm sang tận chợ Bến Ngự mua của mấy ông đi bẫy chim, bằng tiền của quỹ quân báo. Sáng nay, nó buộc chân treo từng con chim một lên, . nhờ Tư-dát bắn chết. NÓ cuộn, xe tròn bản báo cáo của anh đồng-râu thành cái que nhỏ bằng mút đũa, dài bằng ngón tay trỏ. NÓ vạch mỏ con chim ngói, đút cuộn báo cáo vào bụng. Nhưng nghĩ ngợi thế nào nó lại rút ra, đút vào bụng con chào mào- NÓ lấy dây buộc chim chết thành một xâu. Tất cả phải làm cho thật giống, thật tự nhiên, hệt một tay bắn chim thiện nghệ, làm cho bọn giặc kiểm soát không một chút mảy may nghi ngờ. Suốt dọc đường đi, thỉnh thoảng nó nghếch nghếch mặt nhìn ngọn cây, nghiêng nghé, chăm chú tìm chim cúi Tom khom, giương ná lên lại hạ ná xuống. Mấy lần làm như quá mải mê, nó vờ suýt đâm sầm vào những người qua đường làm họ gắt ầm lên. Bọn con nít gặp nó dọc đường, đều nhìn xâu chim nó xách tòng teng, trầm trồ thán phục. Lúc đó mặt nó hơi vênh lên, tỏ vẻ ta đây thiện xạ tài ba. Tất cả đều phải cho thật giống như một diễn viên giỏi lúc lên sân khấu. Qua khỏi cầu Bao Vinh một quãng, nó chạm trán một trạm kiểm soát lưu động của bọn cảnh sát. Trạm có ba thằng. Chúng hỏi: - Thằng tê? đi mô? Em đi bắn chim chơi! - Lượm đưa xâu chim lên trả lời như khoe. Một thằng hai má gày hóp, cặp mất sâu như hai lỗ đáo, để ria con kiến, lưng gù gù, "giò heo" đeo xệ bên hông, không nói không rằng thọc tay vào túi áo túi quần Lượm, lục soát- Hắn sờ nấn khắp tà áo, lưng quần, cổ áo, lai quần- Hắn lật cả cái mũ phờ Lượm đội xem xét kỹ bên trong mũ. Bọn nầy vừa được sở mật thám phòng Nhì Pháp phổ biến: tụi liên lạc Việt Minh hay cất giấu giấy tờ vào các chỗ kín đó. Soát không thấy gì, hắn trợn mắt nạt nộ: Chim nhà nước nuôi, ai cho mi được phép bắn. Và nó giật luôn xâu chim trong tay, Lượm. Lượm tái mặt. Một tình huống hoàn toàn bất ngờ- Nhưng chỉ một thoáng nó đã lấy lại được bình tĩnh, nói với giọng thật ngây thơ, dễ thương: - Bác cho cháu xin Cháu bắn nó đậu trên cây mà. Thằng cảnh sát đứng cạnh, miệng sáng lóa răng vàng, cười hô hố: Thằng ni nói lạ, chim không đậu trên cây thì đậu trong chảo mỡ phi hành à? Lượm nhìn ba tên giặc giận tím ruột, nhưng mắt phải làm như sắp khóc, nói giọng van vỉ: - Các bác có lấy thì lấy con chim cu, to mà béo. Cho cháu lại mấy con chim nhỏ (nó cố tránh tiếng chào mào) không tí nữa về nhà, em cháu nó đòi, nó khóc, dì ghẻ đánh cháu chết mất. Vẻ mặt và giọng van xin của Lượm hình như cũng làm chúng động lòng thương hại- Thằng răng vàng đầy mồm nói với thằng cướp xâu chim: Thôi "xếp quăng lại cho nó mấy con chim sẻ, ăn không dính chân răng mà vặt lông cũng đủ hết ngày hết buổi. Hắn cầm lấy xâu chim trong tay thằng để ria, đưa tay nắn nắn, bóp bóp lườn con chim cu, đầu gật gù- - Con cu gáy béo thiệt! béo thiệt. Trong khoảnh khắc ấy, Lượm có cảm giác đang đứng cheo leo bên một bờ vực sâu hun hút, và dưới đáy vực là lởm chởm đá nhọn. Hai mắt nó tối sầm lại vì một nỗi kinh hoàng không sao lấn lướt nổi- Chỉ cần thằng cảnh sát ngứa tay nắn cổ con chào mào... thế là đi đứt! Một dự tính lướt qua rất nhanh trong óc nó- Nếu tay hắn nắm qua con chào mào, và mặt hắn đổi sắc là mình sẽ lao ngay ra bờ sông, nhào xuống nước, lặn một hơi ra đến giữa sông, rồi lặn một hơi nữa qua thấu bên kia bờ. NÓ chăm chăm nhìn mặt thằng cảnh sát, mắt quên chớp. NÓ bỗng thấy người nhẹ hẳn đi, như đang bơi gần kiệt sức, sắp chìm nghỉm, hai chân bỗng chạm nền đất cứng... Tên răng vàng đầy mồm bứt con chim cu ra khỏi xâu chim quăng trả lại mấy con sẻ và con chào mào cho nó. NÓ đưa tay hứng xâu chim. Và trong đời nó chưa bao giờ biết mừng rỡ như lúc này. Thằng để ria vẫn với giọng nạt nộ: - Lần ni thì ông nội mi tha cho mi! Lần sau mà còn bắn bậy chim của nhà nước, ông nội mi cho tù mọt gông nghe chưa? A lê! cút! - Dạ! Lượm xách xâu chim đi như chạy, làm như sợ chúng sẽ cướp lại. Ði một quãng đã khá xa, nó còn nghe tiếng cười hô hố của cái thằng miệng đầy răng vàng đuổi theo- Bất giác, nó thấy hai mắt mờ đi- NÓ đưa tay lên vuốt mặt. Mặt nó mồ hôi chảy lút, như vừa bị ai dội lên đầu cả một gầu nước đầy. 6 Lượm xách xâu chim về đến đầu làng Mậu Tài, một làng nghe nói bọn giặc đã lập xong hội tề. Trước mặt nó là chiếc cầu ván, bắc qua con hói nước đục như nước hến, chảy lờ đờ- Ngay đầu cầu bên kia, một cây si cổ thụ, cành lá ngã ra che rợp đến hai phần cầu. Mặt trời gần đứng bóng. đường vắng tanh, không một bóng người qua lại trên cầu. Chỉ có một thằng ngồi câu cá bên mép cầu. Thằng câu cá trạc tuổi Lượm, cởi trần, mặc cái quần đùi đen bạc phếch hai ống vo lên đến bẹn. Ðầu nó đội cái nón mê sùm sụp mặc dầu cầu rợp bóng mát. Nước da nó cháy nắng, đen thui, đen như cái cần câu hóp gác giàn bếp nó đang cầm trong tay- NÓ ngồi câu coi bộ chăm chú lắm, cái cần câu không động đậy. Vừa nhác thấy thằng câu cá, tự nhiên Lượm chột dạ, chân hơi khựng lại, tưởng như trên cầu bất ngờ xuất hiện một trạm kiểm soát của bọn giặc- Lượm nhớ rất rõ, ba lần trước đi qua cầu, đều gặp đúng cái thằng câu cá nước da đen thui này, và lần nào, Lượm đi ngang qua sau lưng hắn, hắn cũng làm như vô tình, ngoái đầu lại, nhìn vào mắt Lượm- Khuôn mặt hắn to bè bè, mũi hếch ngược, trán vừa hẹp vừa thấp, coi bộ rất ngu, nhưng riêng cặp mắt hắn thì thật đáng gờm. Cặp mắt vụt lóe sáng dưới vành nón mê rách tả tơi, chỉ trong khoảnh khắc mà xuyên thấu ruột gan Lượm. Hắn chỉ nhìn Lượm một cái, lẹ như chớp, rồi quay ngoắt lại, cúi xuống với cái phao nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Nhưng không hiểu sao, Lượm cảm thấy ánh nhìn chớp lóe, xoi mói của hắn cứ như dính chặt vào người, và theo suốt cả chặng đường liên lạc. Lượm đã báo cáo chuyện này với anh đồng-râu, anh có vẻ suy nghĩ hung lắm, và lần nào trước khi ra đi anh cũng dặn: "Em nhớ cẩn thận với thằng câu cá. Nếu có thể tránh hắn được thì em phải tìm cách tránh" . Lần này, Lượm đã đổi giờ đi, hy vọng sẽ không gặp hắn. Nhưng không ngờ hắn đã ngồi chực sẵn đó rồi. Lượm muốn lộn lại, lội hói vòng qua cánh đồng, nhưng không được. NÓ có cảm giác thằng câu cá đã nhìn thấy nó từ xa. Nếu lộn lại, hắn sẽ nghi ngay. Chỉ còn một nước là phải đi thảng tới, đối đầu với nguy hiểm. Lượm làm bộ rất thản nhiên bước lên cầu. Ðến giữa cầu, nó dừng lại chỉ cách thằng câu cá vài bước chân, nghếch mặt nhìn ngọn cây tìm chim..- NÓ muốn tỏ cho thằng này biết mình hoàn toàn vô tâm, chẳng hề chú ý gì đến hắn. Thằng câu cá vẫn không hề ngẩng mặt lên. Mấy lần nó đưa ná lên lại hạ xuống làm như con chim định bắn bay mất rồi. Cứ thế nó đi qua cầu, mặt vẫn ngước nhìn ngọn cây. Qua khỏi cầu chừng mấy bước, nó làm như mải nhìn đuổi theo đường bay một con chim, ngoái đầu lại. Và ngay lúc dó. mắt nó chạm phải cặp mắt lóe sáng của thằng câu cá, nó vội ngước nhìn lên ngọn cây, tránh cặp mắt của hắn, nó kéo ná cao su bắn bừa một phát, óc thì nghĩ: "đúng thằng ni ngồi chực Ở đây để theo dõi mình chứ câu kéo chi?" Ði cách cầu chừng vài trăm thước, Lượm bỗng có cảm giác có người theo sau lưng mình- NÓ ngoảnh lại, thằng câu cá! Hắn đã rời chỗ câu từ lúc nào, vác cần câu trên vai, đi theo sau Lượm chỉ cách mấy chục bước. Trống ngực Lượm đập thình thịch. "Tổ cha mi! - nó tức tối chửi thầm. - mi định gây sự với tau chắc?" NÓ cố rảo bước nhanh hơn, gặp một con đường kiệt, nó rẽ luôn và nghĩ bụng: "Nếu hắn không rẽ theo mình, là mình chỉ sợ bóng, sợ gió"- Nhưng khi ngoái đầu, nó thấy cái nón mê rách bươm của thằng câu cá, nhấp nhô đằng sau. Biết không xong với thằng câu cá mà không thể lẩn vào đâu được, nó đành quay phắt lại thủ thế- NÓ gằn lên trong cổ họng: "Mi đã muốn sinh sự thì tau quyết chơi nhau với mi một trận cho mi biết tay. Nhỏ tau là nhỏ Vệ Quốc Ðoàn, có mô tau sợ mi?" Thằng câu cá vác cần câu lừng lững đi đến. Còn cách Lượm vài bước, hắn đứng lại, đưa tay hất cái nón mê về đằng sau. Lượm tức tối trừng mắt nhìn hắn- Hắn chẳng phải tay vừa, trừng cặp mắt ốc nhồi nhìn lại, ra vẻ: "Mi chẳng dọa nổi tau mô!" Trông hai đứa, giống hệt cặp gà trống choai sắp sửa nhảy vào đá nhau. Thằng câu cá hất mặt, hỏi trống không, đặc giọng anh chị: - Ni, đi mô mà coi bộ hấp ta hấp tấp dữ rứa? cái mặt ngạo và giọng hỏi anh chị của hắn làm - Lượm nổi xung: - đi mô thì việc chi đến mi? - Lượm cũng hất mặt đáp lại giọng anh chị không kém. - Không việc chi à? - Hắn cười khẩy. Tau đi guốc trong bụng là mi đi mô rồi. Hỏi là hỏi chơi rứa thôi. Tau gặp mi qua lại cầu ni ba lần. Mòn cả mặt! Lượm cũng giở giọng khinh khỉnh đáp: - Qua lại mấy lần thì mặc kệ người ta, việc chi đến mi mà cũng xỏ mồm vô? Hắn bỗng quăng cái cần câu đang vác trên vai xuống đất, chỉ tay vào mặt Lượm, nói như quát: - Tau biết mi là ai rồi? Ðừng có lấy vải sưa mà che mắt thánh! - Ai? - Lượm quát trả. - Là Việt Minh chính cống? Tau phải trói cổ mi đem nộp cho ông lý trưởng để ông đem lên đồn nộp cho Tây. ông lý làng tau ra lệnh hễ ai bắt sống được Việt minh đem nộp lên đồn sẽ được thưởng một trăm đồng Ðông Dương. Tau đang thiếu tiền ăn bánh bột lọc đây. - Mi chỉ nói láo- Lượm cố lấy giọng tức tối cãi- Mi chỉ được cái vu tội chết cho người ta. Thằng câu cá lại cười khẩy: - Mi mà không phải Việt Minh thì tau cứ đi đầu xuống đất. "Phải xông vô tấn công thằng Việt gian ni trước khi hắn chưa kịp đề phòng. đập cho hắn lộn nhào rồi chạy!"- Quyết định đó lóe lên trong óc Lượm và không kịp suy nghĩ gì thêm, nó nhào tới, vung tay trái (nó thuận tay trái) nhằm đúng quai hàm thằng câu cá đấm một cú móc rất mạnh. Nhưng thằng câu cá nhanh không kém. Hắn thụp đầu tránh được. Cú đấm trượt làm bay cái nón mê trên đầu hắn lên hàng rào bông cẩn gần đó. Thằng câu cá hét lên: A! Thằng ni gớm hè? - Và nhào tới định đánh trả. Ngay lúc đó từ ngách con đường kiệt phía sau chỗ Lươm đứng, nhảy ra một thanh niên cao lớn, lực lưỡng. Tay thanh niên này ôm phắt ngang mình Lượm, bó gọn luôn cả hai cánh tay nó vào trong vòng tay đen cứng như tre đực gác giàn bếp lâu ngày của mình. Lượm chưa kịp vùng vẫy thì tay thanh niên đã nhấc bỗng nó lên chân hổng đất, nhẹ như nhấc con ếch. Thằng đi câu rút luôn cuộn dây dừa dắt sẵn trong cạp quần, xông vào trói giật cánh khuỷu Lượm. Lượm quẫy đạp lung tung, giẫy giụa như con cá bất thình lình mắc phải lưới. Thằng câu cá vừa trói vừa hằm hè. - TỔ cha mi! Ðã muốn đạp, tau trói luôn cả chân! - Trói cho mi mệt, - Tay thanh niên nói mặt tỉnh khô- Hắn mà còn đạp, tau sẽ bẻ cặp giò hắn kêu cái cắc, như bẻ giò gà. Biết có chống cự cũng vô ích, Lượm đành đứng im Và làm như bị trói đau quá, nó thả cái ná cao su và xâu chim đang cầm chặt trong tay xuống rê cỏ ven lối đi. Tưởng thoát, nhưng thằng câu cá cúi xuống nhặt luôn cái ná, xâu chim và cái cần câu của hắn. Tay thanh niên nói: - Chừ ta dong hắn ra sau miếu Cây Thị, soát người hắn coi có tài liệu, súng đạn chi không, sau đó ta giải lên nộp ông lý. Thằng câu cá nói, vẻ thích chí ra mặt: - được tiền thường hai anh em ta chia đôi. Anh năm chục, tui năm chục. Lượm vừa lo sợ, vừa căm tức nghĩ bụng- "Giọng lưỡi hai thằng ni đúng giọng lưỡi Vê-giê(Việt gian) chính cống". Chúng lôi Lượm đi vào con đường kiệt, rồi tạt vào một ngôi miếu rêu phong đồ nát. Cạnh đó có một cây thị cổ thụ, tán lá phủ trùm mái ngói và cái sân gạch nát um tùm cỏ dại. - Tau giữ tay chân hắn, mi lột áo quần hắn ra khám nghe. Thằng câu cá vứt đồ đoàn trong tay xuống thềm miếu, rồi cởi cúc áo, cúc quần Lượm. Lượm vùng vẫy không cho cởi. Hắn cúi nạy một viên gạch vỡ, giáng cao trước mặt Lượm, trợn mắt nói: - Mi mà còn vùng, tau choang hòn gạch ni bể sọ dừa mi ngay. Nghe giọng và nhìn vẻ mặt.hắn, Lượm biết hắn sẽ choang thật chứ không phải dọa. Khi bị lột quần, trần như nhộng, Lượm co người lại vì xấu hổ. Thằng câu cá nói, không nhìn mặt Lượm: - Toàn đàn ông với nhau cả, việc chó chi mà phải Ôốc dôộc (xấu hổ.) . Hắn cầm quần áo Lượm, sờ nắn tìm kiếm rất kỹ, còn kỹ hơn cả mấy thằng cảnh sát lúc nãy. Hắn còn giang rộng áo, quần đưa lên trời soi. Vẫn không thấy gì Lượm bấy giờ mới được thể nói: - Người ta đã nói người ta đi bắn chim chơi, mà cứ vu oan cho người ta. Tay thanh niên buông tay giữ Lượm, nói giọng có vẻ ngờ: - Hay không phải? Thằng đi câu sa sầm nét mặt, hết nhìn Lượm lại nhìn bộ áo quần trong tay, giọng ấm ức: Tui theo dõi hắn đúng ba bữa liền, vừa gặp hắn lần thứ nhất tui đã ngờ ngay. . . Hay hắn dấu chỗ mô? Hắn chợt nhìn trật xuống xâu chim và cái ná cao su vứt trên thềm miếu- Hắn cầm lên. Trước tiên hắn xem xét cái ná. Hắn lật đi lật lại, xem xét từ cái miếng da để bọc đạn, đến chỗ buộc chun, cái cán ná. Không thấy gì hắn dắt ná vào cạp quần, soát đến xâu chim. Hắn vạch cánh, lật đuôi nắm bụng từng con chim một. Lượm ớn lạnh suốt dọc xương sống, mồ hôi toát đầm đìa hai bên thái dương. Hắn nắn đến con chim chào mào, cồ con chim có đút cuộn tài liệu, ngẩng ra một cách không tự nhiên. Cặp mắt thằng đi câu vụt lóe sáng. Hấn bậm môi cầm đầu chim, giật mạnh. CỔ chim đứt lìa. Cuộn tài liệu bọc giấy bóng từ trong bụng chim văng ra, rớt xuống đất, Lượm nhào ngay tới, định chộp cuộn tài liệu cho vào miệng nhai nuốt. Nhưng thằng câu cá nhanh hơn, xô Lượm ngã chúi sang một bên, vồ lấy cuộn tài liệu- VỒ được hắn cầm thật chặt như sợ bị cướp mất, tay run lẩy bẩy vì quá mừng. Hắn reo lên, giọng hả hê, đắc thắng: - Tui đoán có sai mô anh! Hắn bịt răng được mắt tui? Hắn bỗng quay lại, trợn trừng mắt nhìn Lượm. cái bộ mặt to bè của hắn méo mó đi vì tức giận. Và hết sức bất ngờ hắn hét tướng: - đồ Vê-giê? ăn cứt Tây! - Và tiếp luôn là một quả đấm tạt ngang, đúng giữa quai hàm Lượm. Hai tay bị trói, cú đấm lại rất mạnh, nên Lượm bị mất đà ngã nhào xuống đất như võ sĩ trên đài bị quả nốc ao. Nằm bẹp dưới đất, Lượm đau đến nổ đom đóm mắt, nhưng chưa bao giờ nó thấy mừng rỡ đến như thế- CÓ thể nói mừng đến ứa nước mắt- Lượm cố hết sức ngóc đầu lên, hét trả vào mặt thằng câu cá: - Ðây không phải Vê-giê? Ðây là Vê-cu-đê! Người thanh niên và thằng câu cá chụm đầu lại cùng đọc bức thư mất của anh Ðồng-râu. Còn Lượm vẫn nằm dài dưới đất, nhìn hai người vừa trói đánh mình, với cặp mắt hả hê của người thắng cuộc. Sau khi đọc xong bức thư, cả hai nhìn nhau, rồi bật cười to: - Té ra cánh Việt Minh ta cả! Cả hai cùng cúi xuống nâng Lượm dậy, cởi trói và cười với nó như muốn xin lỗi. Lượm mặc quần áo. Ba người cùng ngồi xuống bậc tam cấp. Thằng câu cá trả lại bức thư, cái ná, xâu chim, nói với Lượm: - Chắc đằng nớ giận mình lắm hè? Lúc đó mình tưởng đằng nớ là Vê-giê thật, tức quá nên đấm có hơi mạnh tay... Lượm đưa tay lên quai hàm, sờ sờ nắn nắn chỗ vừa bị đấm, phì cười: Chút nữa thì bay mất quai hàm còn hỏi- Nhưng lúc nghe cậu hét: đồ vê-giê, tớ biết ngay cậu cũng là Việt Minh nên tớ quên cả đau. đúng là bị đấm đau nổ đom đóm mắt mà thấy sướng hơn ăn thịt ăn chả. Rứa cậu làm chi cho Việt Minh Ở đây? Tớ là liên lạc của du kích xã. - Rứa anh- Lượm quay sang hỏi anh thanh niên: - Cũng họ "du" như thằng ni. - Anh chỉ thằng câu cá - Anh vừa đi gác về thì được lệnh của chỉ huy xã đội ra ngay cầu ván phối hợp bắt Vê-giê chính cống. CÓ ngờ mô bắt nhầm phải Vê-cu-đê! Em nghe nói làng ni Tây kéo về bắt lập hội tề rồi tê mà? Anh thanh niên cười: Tề ấm ờ. Ngoài miệng thì tề mà trong bụng thì Việt Minh đặc sệt. - Cậu tên chi? - Lượm hỏi thằng câu cá. - Tặng! Rứa cậu? - Lượm, Vê-cu-đê Trung đoàn trăm lẻ một. - Mũi nó hơi phổng lên một tý. - Làm răng cậu lại nghi tớ là Việt gian chính cống được? Chú chỉ huy xã đội giao tớ hàng ngày phải ra cầu . ván giả đò đi câu cá, theo dõi những người lạ mặt khả nghi đi qua làng. đã có mấy thằng Việt gian lọt vô làng, điều tra chỉ điểm cho Tây trên Huế kéo quân về càn, đốt hơn chục nóc nhà, bắt đi sáu bảy người có tham gia du kích. Du kích căm lắm, quyết theo dõi tóm cho được mấy thằng đó, đem chặt đầu mới hả tức- Tớ để ý thấy cậu thường đi qua lại đây. Mỗi lần ăn bận một khác. Tớ ngờ ngay: "Không khéo thằng ni là Vê-giê". Tớ báo cáo với chú chỉ huy xã đội, chú ra lệnh: " Nếu còn thấy hắn qua đây là phải tìm cách bắt cho được". Chú còn cử thêm anh Cận phối hợp với tớ bắt cậu cho thật gọn. Lúc bắt phải giả đò Việt gian bắt Việt Minh, để giữ bí mật. Ba bốn hôm ni, ngày mô tớ cũng vác cần câu ra cầu, ngồi từ sáng sớm chờ cậu- Không thấy cậu trở lại, tớ chán cách chi! Bởi rứa, khi thấy bóng cậu từ đàng xa, tớ mừng chảy cả nước đái! Tớ nghĩ ngay: Hễ mà tóm đúng vê-giê chính cống, việc đầu tiên là phải quại cho hắn một cú vẹo quai hàm bõ cái công mấy ngày chờ đợi? Lượm cười, giọng trách yêu: - Cậu hớp tớp quá. Ai lại chưa xét kỹ giấy tờ đã quại luôn. Quai hàm tớ mà không cứng thì bể rồi còn chi? Tặng cười xí xóa: - Ai khiến cậu. Trông bộ dạng cậu giống Việt gian thấy tổ? Lượm sực nhớ, nói với cả hai người: - Chuyện chi đọc được trong tờ giấy nớ là phải tuyệt đối giữ bí mật đó nghe. - Cậu không phải dặn. - Tặng nói. - Tớ cũng được chú xã đội giao đưa công văn tối mật lên huyện luôn. - đây là công văn lên tỉnh, còn quan trọng hơn. Chừ mình phải đi cho kịp- Ðường đến trạm liên lạc còn xa lắc. Anh Cận nói: - Nếu em không vội thì về nhà anh làm bụng cơm đã Nhà bữa ni có nồi cá tràu kho xơ mít ngon lắm. - Anh cho em khi khác- Bữa ni em sợ muộn mất, đưa xong thư em còn phải trở lại Huế trước giờ thiết quân luật. Tặng bỗng đứng phắt dậy. Cậu gắng ngồi đây chờ tớ một tẹo thôi- Tớ có cái ni cho cậu đi đường phòng thân. Chưa kịp để Lượm hỏi, nó vùng chạy biến vào ngõ. xóm. Chừng mười phút sau đã thấy nó từ trong ngõ phóng ra, tay cầm con dao rựa, vai vác cây mía tím to bằng bắp tay dài hơn một sải. NÓ chống cây mía xuống trước mặt Lượm, giơ cao con dao rựa phứt mạnh một lát Cây mía đứt làm đôi.-Nó ấn cả hai đẫn mía vào tay. Lượm, nói: - Giống mía mừng đó, ngọt và mềm lụn. Cậu ăn đi một đẫn, còn một đẫn làm ba toong chống cho đỡ mỏi, mà đập chó, đập rắn, đập Việt gian cũng tốt. Lúc mô khát nước lại ăn luôn. Lượm cầm hai đẫn mía, mắt tự nhiên rưng rưng. Vừa mới choảng nhau gần vỡ quai hàm đó, chừ đã cho nhau mía, mà giọng nghe thân thiết làm răng! Tưởng như đã cùng Ở với nhau một đội từ ngày Huế mới nổ súng. Lượm chào anh Cận và Tặng, rồi lên đường. Hai ba lần nó ngoái đầu lại vẫn thấy Tặng đứng giữa đường, chống con dao rựa xuống đất, nhìn theo, đầu gật gật...
|