Từng Thề Ước
|
|
Q.1 - Chương 4: Dáng Ngà Vẻ Ngọc Ngất Ngây Say[1] [1] Trích trong bài từ theo điệu Giang thành tử của Tô Thức (1036-1101), nhan đề Nghe đàn tranh trên hồ, cùng Trương Tiên Đồng làm thơ. (ND) Dưới một trời hoa tuyết tả tơi, hai người họ sánh vai cùng ngồi trên vách đá. Xi Vưu ngẩng đầu nhìn ánh trăng vằng vặc, nghe lòng mình êm đềm vui vẻ, tựa như được trở về miền rừng núi mênh mông ấy, tự do tự tại, chẳng còn cô đơn nữa. Phía Tây đại hoang có một ngọn núi tuyệt đẹp, tên gọi Ngọc sơn[2]. Ngọc sơn là thánh địa thời thượng cổ, linh khí vô cùng đặc biệt, bất kể thần binh lợi khí nào chỉ cần tiến vào Ngọc sơn sẽ mất hết pháp lực, đúng là chốn đào viên ngoài cõi thế, vĩnh viễn không có giao tranh. Tất cả nữ tử cai quản Ngọc sơn đều phải tuân theo cổ huấn, không dính líu hồng trần, tránh xa phân tranh. Qua bao cuộc chiến tranh của Thần tộc, ngọn Ngọc sơn nằm ngoài cõi thế đã chở che cho không ít thần thánh cùng yêu tinh, ngay hai Thần tộc thượng cổ là Thần Nông và Cao Tân đều từng nhận ân huệ của Ngọc sơn, bởi thế, địa vị của Ngọc sơn ở đại hoang vô cùng tôn quý, đến Tam Đế cũng phải nhân nhượng ba phần. [2] Theo Sơn Hải kinh, phần Tây Sơn kinh: “Đi về phía Tây ba trăm năm mươi dặm có ngọn núi tên gọi Ngọc sơn, là nơi ở của Tây Vương Mẫu.” Quách Phác chú thích: “Trên núi có nhiều ngọc thạch, nên gọi Ngọc sơn.” Nữ tử cai quản Ngọc sơn được tôn xưng là Vương Mẫu, vì Ngọc sơn ở phía Tây nên người đời thường gọi là Tây Vương Mẫu, cứ ba mươi năm Vương Mẫu lại bày tiệc Bàn Đào một lần, mời anh hùng thiên hạ tụ họp về. Mấy ngày nay lại là tiệc Bàn Đào ba mươi năm mới có một lần, khách khứa từ bát hoang lục hợp tới dự tiệc, trên Ngọc sơn người đến kẻ đi cứ nườm nượp. Xi Vưu mình khoác hồng bào, rảo bước từ phía Dao trì tiến lại, vẻ mặt lãnh đạm, ánh mắt sắc lạnh. Bên bờ Dao trì trồng rất nhiều đào, hoa nở ngàn năm không tàn, trên bờ sắc hoa lộng lẫy, dưới nước sóng biếc dập dờn, hoa rọi nước, nước chiếu hoa, trên bờ dưới nước, từng khóm từng cụm, soi rọi lẫn nhau, lung linh rực rỡ. Một cơn gió thổi, cánh hoa lả tả rụng xuống như mưa, phớt qua chân mày, gò má, bờ vai của Xi Vưu, hắn bước chậm lại, nhìn cảnh tượng hoa bay ngập trời, ánh mắt chợt trở nên bàng hoàng ngơ ngẩn, thấp thoáng vẻ bi thương. Hắn dõi mắt nhìn theo những cánh hoa rơi nương chiều gió, trông về phía xa xăm – sóng biếc lăn tăn, khói sóng mịt mờ, mười dặm rừng đào, chín khúc hành lang, nữ tử áo xanh đứng dựa lan can trong tòa nhà thủy tạ đỏ thắm, tay cầm một cành đào, cúi đầu dứt nhị hoa ném xuống Dao trì trêu đùa bầy cá ngũ sắc. Tim Xi Vưu bỗng đập rộn lên, hắn lập tức sải bước tiến lại, vừa đi vừa nhìn nữ tử áo xanh không rời mắt, nhưng bóng hoa trùng trùng cách trở, dáng người cứ thoắt ẩn thoắt hiện, không sao nhìn rõ, khi hắn chạy tới thủy tạ thì đã chẳng thấy người kia đâu nữa. Xi Vưu cuống cuồng nhìn quanh tìm kiếm, nghe tiếng cười lanh lảnh từ rừng đào vọng ra, hắn liền chạy như bay đến, thấy một đám thiếu nữ đang nô đùa, trong đó có một nàng mặc áo xanh, hắn cất tiếng gọi “A Hành” đồng thời giơ tay toan túm lấy nàng, thiếu nữ bèn tươi cười ngoảnh đầu. Cánh tay Xi Vưu khựng lại giữa chừng, không phải nàng! Dáng người bên hàng hiên sóng biếc phảng phất giống A Hành, trong lúc nhất thời ngơ ngẩn hắn lại lầm tưởng đó là nàng, nhưng nàng lìa trần đã hai năm, thoáng động lòng đó chỉ là ảo giác dưới bóng hoa trong buổi chiều tà mà thôi. Xi Vưu thất vọng quay người bỏ đi, hoa đào bên Dao trì được mặt trời chiếu rọi rực lên như lửa, nhưng trong mắt hắn, hương sắc ngập trời thảy đều lợt lạt, toát lên vẻ tịch liêu khôn tả. Hai nữ tử sánh vai nhau đi giữa rừng đào, nhìn bề ngoài như đồng trang lứa, nhưng thực tế vai vế lại khác hẳn nhau. Một người là Vân Tang, Đại vương cơ Thần Nông quốc, người kia là Ngọc sơn Vương Mẫu. Nghe đồn trên Ngọc sơn có vô số bảo bối, Vân Tang bèn tò mò hỏi Vương Mẫu xem Ngọc sơn rốt cuộc cất giấu những thần binh bảo khí gì. Vương Mẫu chẳng hề giấu giếm Vân Tang, liệt kê tường tận từng thứ một. Vân Tang xuất thân từ Thần tộc thượng cổ, sẵn có gia học uyên nguyên, cũng từng nghe nói tới một vài thần khí mà Vương Mẫu kể ra, nhưng nàng chưa hề biết món binh khí đứng đầu các thần binh lại là một cây cung không có mũi tên. Vân Tang hỏi Vương Mẫu: “Chỉ nghe nói Bàn Cổ đại đế có một cây búa Bàn Cổ xẻ được đất trời, chưa từng nghe tới cung Bàn Cổ, lẽ nào trên đời này không có mũi tên nào lắp được vào cung ư? Đã không có tên thì cung còn dùng làm gì nữa?” Vương Mẫu tính tình nghiêm túc, nói năng trang trọng nhưng đối đáp với Vân Tang lại vô cùng hòa nhã, dịu dàng: “Cây cung này không phải dùng để ghết chóc, mà dùng để truy tìm. Theo những gì Thái tổ sư phụ ghi chép lại thì sau khi Bàn Cổ đại đế xẻ đôi trời đất, vì bận rộn cai quản hai cõi nên đánh mất người con gái mình yêu thương nhất, để được gặp lại nàng, Bàn Cổ đại đế đã dốc hết tâm tư chế tạo ra cây cung này. Nghe nói nếu giương cung hết cỡ thì có thể gặp lại người thương lần nữa, bất kể xa cách bao nhiêu, bất kể đó là thần hay ma, còn sống hay đã chết.” “Làm sao gặp lại được? Lẽ nào cây cung này có thể vạch đường cho đi tìm ư?” “Ta chẳng biết nữa. Tương truyền năm xưa sau khi Phục Hy đại đế quy tiên, Nữ Oa đại đế quyến luyến nhớ nhung từng lên Ngọc sơn mượn cung, nhưng dốc hết thần lực, giương cung hết cỡ cũng chẳng cảm ứng được với Phục Hy đại đế, đừng nói là gặp lại nhau.” Vân Tang tuy chững chạc nhưng vẫn mang tâm tính thiếu nữ, vừa nghe đã nảy sinh hứng thú, bèn than thở: “Thì ra Nữ Oa đại đế cũng bối rối bất lực trước tương tư, chẳng khác nào nữ tử bình thường. Có điều Bàn Cổ đại đế thần lực vô biên, chẳng gì không biết, sao lại không tìm thấy nữ tử mình yêu chứ?” “Không biết nữa.” “Sau khi đúc nên cây cung, Bàn Cổ đại đế có gặp lại người con gái đó không?” Vương Mẫu cười đáp: “Ta làm sao biết được. Con bé nhà ngươi đừng cho là thật! Thái tổ sư phụ chỉ ghi chép lại theo lời đồn đại, rốt cuộc là thật hay giả chẳng ai hay, có lẽ chỉ là một câu chuyện xuyên tạc đấy thôi.” Xi Vưu nghe nói đến đây liền rẽ cây tiến lại, “Ta muốn cây cung Bàn Cổ đó.” Thấy hắn ở gần đó mà mình chẳng hề nhận ra, Vương Mẫu thầm kinh hoảng trong lòng, nhưng vẫn giữ giọng ôn tồn bảo: “Đó là thần khí đứng đầu trong những số những thứ Ngọc sơn cất giữ, không thể giao cho ngươi được.” Không để Xi Vưu kịp mở miệng, Vân Tang đã cướp lời: “Vương Mẫu, lần này hội Bàn Đào đem bảo bối gì ra làm phần thưởng đây?” Lại quay sang nói với Xi Vưu: “Nếu ngươi muốn có thần khí thì tới chừng đó đến giành bảo bối này đi.” “Chắc chắn không phải cung Bàn Cổ, nhưng cũng là thần khí hiếm có khó tìm.” Vương Mẫu chuẩn bị rời bước, “Vương cơ Hiên Viên lần đầu tiên đến Ngọc sơn, ta phải đi gặp vương cơ, các ngươi cứ tự nhiên nhé.” Vân Tang thuở nhỏ từng theo Luy Tổ, vương hậu Hiên Viên học nuôi tằm quay sa, sớm chiều bầu bạn với vương cơ Hiên Viên Bạt suốt mười năm, tình cảm rất thân thiết, bèn mừng rỡ nói: “Thì ra Bạt muội muội cũng tới rồi, bao năm nay chúng ta chưa gặp nhau, đợi chút nữa phải đi tìm cô ấy hàn huyên mới được.” Vân Tang thấy Vương Mẫu đã đi xa, liền quay sang bảo Xi Vưu, nửa như cảnh cáo lại nửa như cầu khẩn: “Ta biết ngươi vẫn coi trời bằng vung, tùy tiện phóng túng nhưng nơi này không phải Thần Nông sơn, ngươi nhất định không được làm loạn, nếu xảy ra chuyện thì chẳng ai cứu nổi ngươi đâu.” “Biết rồi.” Xi Vưu cười cười, đưa mắt quan sát bố cục phương hướng trong rừng đào. Vân Tang tâm tư thông tuệ, học rộng biết nhiều, hành sự quả quyết, đến Chúc Dung cũng phải kiêng nể ba phần, vậy mà chẳng cách nào trị được Xi Vưu, thấy hắn cười cười, lòng nàng càng thêm thấp thỏm, đành thầm mong sao mình chỉ lo hão mà thôi, “Phụ vương cho ta đem ngươi đến dự tiệc Bàn Đào là muốn ngươi làm quen với tình hình của đại hoang chứ đâu phải để ngươi làm loạn. Trên đại hoang này có mấy nữ tử không thể đắc tội, người thứ nhất chính là Vương Mẫu, ngươi nhất định không được…” Xi Vưu cắt lời nàng: “Thế còn thứ hai?” “Vương cơ tộc Hiên Viên, Hiên Viên Bạt.” Xi Vưu đùa: “Chứ không phải cô à?” Vân Tang lườm hắn: “Hoàng đế Hiên Viên thê thiếp hàng đàn, trong đó có bốn phi tử được sách phong chính thức, bốn người này sinh được tổng cộng chín người con nhưng chỉ có một vương cơ Hiên Viên Bạt, hơn nữa còn là do chính phi Luy Tổ sinh ra, anh trai nàng cùng mẹ nàng chính là Hiên Viên Thanh Dương, kẻ có khả năng kế thừa đế vị Hiên Viên cao nhất. Từ nhỏ Hiên Viên Bạt đã đính hôn với tộc Cao Tân, vị hôn phu chính là Cao Tân Thiếu Hạo, cũng là kẻ rất có khả năng sẽ kế thừa ngôi vị Tuấn Đế.” Xi Vưu nhìn quanh nhìn quất khắp rừng đào, hờ hững nói: “Vậy ả Hiên Viên Bạt không trêu vào được rồi.” Nguồn ebook: .luv-ebook Vân Tang mỉm cười đáp: “Có điều tính tình Bạt muội muội rất tốt. Vương Mẫu lại…” Vừa thấy nàng định chuyển chủ đề khuyên mình đừng quậy phá, Xi Vưu liền quay ngoắt người bỏ đi, Vân Tang cau mày, đoạn lắc đầu cười gượng, cứ theo tính tình hắn thì có thể nhẫn nại lắng nghe đến giờ đã là khó lắm rồi. Vân Tang xem thời gian, đoán chừng bên Hiên Viên Bạt đã yên tĩnh, lại hỏi han biết được nàng ở Ao Đột quán, bèn theo hướng thị nữ chỉ, một mình tới thăm hỏi. Vân Tang học rộng hiểu nhiều, từng trông thấy không ít cảnh đẹp kỳ thú, biết rằng tên gọi phải tương ứng với cảnh sắc mới coi là tên hay. Lấy hai chữ “ao đột”[3] đặt tên quán quả là độc đáo mới lạ, có điều thật không tưởng tượng nổi cảnh trí phải ra sao mới xứng được với tên đó. [3] Hai chữ “ao đột” có nghĩa là lồi lõm. (ND) Dọc đường càng xa khỏi Dao trì cảnh sắc càng vắng vẻ, cây cối dần lộ vẻ hoang sơ, con đường mòn trải sỏi uốn lượn quanh co, dòng suối nhỏ róc rách lúc ẩn lúc hiện. Đi không bao lâu thì thấy đình đài lều gác, cầu nhỏ mái cong trên sườn núi xa xa. Bốn bề cũng trồng toàn đào nhưng khác với rừng bích đào mười dặm rực rỡ sắc hương bên bờ Dao trì, ở đây chỉ toàn bạch đào ngàn cánh, lại trồng rất thưa, từng cây từng cây nở hoa trắng muốt, thanh khiết âm thầm, tựa như người đẹp ẩn cư nơi vắng vẻ, hoặc âm thầm nở bên hiên dưới cửa, hoặc chỉ thấy hương chẳng thấy hoa, nhìn quanh tìm kiếm mới thấy một cành hoa e thẹn ló ra dưới mái nhà, cách một bức tường đá. Có lẽ để khỏi phá vỡ không khí thanh tĩnh u nhã nên nơi đây cũng vắng bóng thị nữ, rất hợp ý Vân Tang, dọc đường tới đây nàng chẳng gặp ả thị tỳ nào, có điều vẫn chưa thấy ý vị của hai chữ “ao đột” đâu cả, nhưng bậc kiến tạo nơi này tâm tư linh mẫn, ắt hẳn hai từ đó chẳng phải gọi suông. Men theo đường hoa, Vân Tang chỉ nghe róc rách mà chẳng thấy dòng nước nào cả, phải ngoặt qua vách núi mới trông thấy xa xa có một mặt hồ thăm thẳm, nước hồ xanh biếc như ngọc, hòn đá bên hồ còn khắc ba chữ Ao Tinh trì, nét chữ cổ phác. Vân Tang mừng thầm bèn rảo bước lại đứng bên hồ, thấy từng đợt gió mát phả vào mặt rất dễ chịu, vô tình nàng cúi đầu ngắm bóng mình dưới nước, bỗng giật nảy người, trên mặt hồ có đến mấy Vân Tang, có kẻ còi gí như người lùn, kẻ lại cao lớn như người khổng lồ, kẻ cổ ngẳng bụng to như bị úng nước, kẻ đầu to tứ chi nghều ngào như quả bí đao trên sào trúc… kẻ nào kẻ nấy đều rất kỳ quái tức cười. Nhận ra sự kỳ diệu bên trong, Vân Tang xém nữa đã vỗ tay khen hay. Té ra nơi này chẳng những nước biếc như ngọc mà còn là ngọc biếc như nước, mặt hồ xanh biếc trước mặt thoạt trông thì lăn tăn sóng gợn, hoàn mỹ vẹn toàn, thực tế bên dưới ẩn giấu vô số bích ngọc, bậc kiến tạo đã lợi dụng độ cong của bích ngọc khiến nước hồ chỗ nông chỗ sâu, tạo nên vô số nơi gồ ghề lồi lõm, mặt hồ như một tấm gương bằng ngọc phản chiếu bóng người, cũng hình thành nên vô số thấu kính lồi lõm, thấu kính lõm sẽ thu nhỏ hình dáng, thấu kính lớn thì phóng đại lên. Thấy bốn bề vắng vẻ, Vân Tang liền nổi tính trẻ thơ, đi qua đi lại bên hồ, vung vẩy chân tay, nhìn bóng mình biến ảo dưới mặt nước, khi thành kẻ béo, lúc thành người gầy, nàng phá lên cười ngặt nghẽo. Vân Tang cười, những chiếc bóng muôn hình ấy cũng cười theo, thấy vậy nàng cười như nắc nẻ, cười đến chảy cả nước mắt. Một nữ tử áo xanh ẩn mình trong bóng tối, lặng lẽ quan sát Vân Tang. Lúc vừa lên núi chơi, thiếu nữ áo xanh đã nhác thấy Vân Tang nhưng nàng chợt nảy ý trêu đùa, muốn thử xem liệu nàng Vân Tang đoan trang từ tốn lần đầu nhìn thấy hồ nước quái dị kia có hoa chân múa tay, cười ngả nghiêng như mình chăng, bèn nấp vào góc khuất, định đợi khi Vân Tang mải cười sơ ý sẽ nhảy ra hù cho nàng ta chết khiếp. Có điều, tận mắt thấy Vân Tang cười ngặt nghẽo, đột nhiên thiếu nữ áo xanh chẳng muốn quấy rầy nàng nữa. Mẫu hậu Vân Tang mất sớm, tiểu muội Nữ Oa[4] rong chơi Đông Hải không may chết đuối, nhị muội Dao Cơ vừa sinh ra là đau ốm liên miên, từ nhỏ trong lòng Vân Tang đã ngổn ngang trăm mối, nàng hầu như chưa bao giờ được thoải mái cười không cần ý tứ. [4] Nữ Oa đề cập tới ở đây không phải Nữ Oa đội đá vá trời mà là con gái út của Viêm Đế trong thần thoại, về sau hóa thành chim Tinh Vệ ngậm đá lấp biển Đông. (ND) Bỗng Vân Tang im bặt tiếng cười, sầm mặt quát: “Ai đó? Ra đi!” Thiếu nữ áo xanh giật mình, đang định ngoan ngoãn bước ra nhận sai xin lỗi, chợt thấy một nam tử dáng dấp phong nhã, diện mạo tuấn tú, bước trong hương hoa, rẽ cây từ rừng đào ung dung tiến lại, khóe môi ánh mắt đều thấp thoáng nét cười, “Xin vương cơ tha tội, tôi thấy vương cơ hoa chân múa tay, cười ngả nghiêng như trẻ nhỏ nên không dám quấy rầy.” Đôi má Vân Tang thoáng ửng hồng nhưng vẻ mặt càng lạnh lùng hơn: “Đã biết thân phận ta mà còn to gan dám rình lén ư?” Nàng má phấn ngậm hờn, sầu vương khóe mắt, một thân áo trắng đứng cười bên hồ, sau lưng là mấy gốc bạch đào ngàn cánh mây thua tuyết nhường, dáng vẻ còn u uẩn thanh tao hơn cả hoa đào. Nam tử nhanh nhẹn thi lễ, thành khẩn nói: “Không phải tại hạ dám càn rỡ, có điều năm xưa hao tâm tổn trí suốt ba năm dựng nên quán Ao Đột này chỉ mong rằng kẻ nào trông thấy mặt nước xanh cũng có thể cười sảng khoái, quên hết ưu phiền trên đời. Hôm nay thấy tâm nguyện đạt thành nên có phần thất lễ, xin vương cơ thứ tội.” Vâng Tang sững người, hai chữ “ao đột” hàm ý sâu xa kỳ diệu lại do bàn tay kẻ này tạo ra ư? Trong lúc ngỡ ngàng, cơn giận của nàng chợt tiêu tan cả. Thấy bóng người dưới hồ có gầy có béo có cao có thấp, Vân Tang hạ giọng nói: “Những hình ảnh lạ lùng này thoạt trông có vẻ không giống chúng ta nhưng lại đều là chúng ta, không có phục sức hoa kệ, dạo mạo đẹp xấu, tạm thời quên đi tên tuổi và thân phận, chỉ tự mình vì mình mà cười sảng khoái một phen mới chỉ là nửa tâm nguyện, để cảm tạ ngươi đã cho ta một trận cười sảng khoái, ta sẽ tác thành nửa tâm nguyện nữa cho ngươi.” Nam tử hỏi: “Nửa tâm nguyện nữa ư?” Vân Tang khẽ cười, chỉ bóng mình và bóng nam tử in dưới hồ, “Hình ảnh dưới hồ này chẳng bị trói buộc bởi những phục sức bề ngoài, ta chỉ là ta, ngươi chỉ là ngươi, vậy nên ngươi chẳng cần tạ lỗi, ta cũng chẳng có quyền tha tội.” Nam tử chợt thấy tim đập rộn ràng, ánh mắt thoáng mừng rỡ bất ngờ nhưng vẫn giữ vẻ thản nhiên, cười mỉm. Vân Tang quan sát mặt hồ rồi nói, “Nơi này phối hợp cả gồ và trũng, tuy tinh diệu nhưng vẫn nghiêng về trũng hơn, nếu chỉ dựa vào đó mà đặt tên Ao Đột quán e không khỏi gượng ép, hẳn ngươi cũng chẳng thèm làm vậy. Nếu mặt hồ này là trũng, thiết nghĩ phải có ngọn núi để thành gồ, có hồ sâu núi cao, non non nước nước mới xứng gọi là Ao Đột quán.” Nói rồi Vân Tang men theo Ao Tinh trì, đi về phía vách núi cheo leo bên kia hồ nước. Nam tử vừa mừng rỡ vừa ngạc nhiên, lặng thinh không nói, chỉ chăm chú nhìn theo Vân Tang. Vân Tang nhìn quanh tìm đường, cây cối nơi đây bỗng nhiên tươi tốt um tùm, nàng kiếm một hồi mới thấy con đường mòn quanh co, chỉ đủ một người đi, trên vách núi khắc ba chữ “Đột Bích sơn”. “Ao Tinh trì, Đột Bích sơn” Vân Tang vừa nhẩm trong lòng, vừa men theo thềm đá leo lên đỉnh núi. Cả ngọn núi đều làm từ ngọc thạch, nhô hẳn lên cao, mặt quay về phía hồ lồi lõm gồ ghề, nơi lồi ra thì sắc ngọc nhàn nhạt, chỗ lõm vào thì sắc ngọc đậm đà, bởi ánh sách phản chiếu đậm nhạt khác nhau, vừa khéo trung hòa bớt phần nào sự lồi lõm dưới lòng hồ, lại thêm nhìn từ trên xuống, không trông rõ mặt hồ lồi lõm, chỉ thấy mặt nước phẳng lặng như gương, in bóng người một nam một nữ sánh vai đứng bên nhau. Vân Tang nghĩ một lát mới hiểu ra, nhất định trên sườn núi có cơ quan, khéo léo lợi dụng tính khúc xạ của ngọc thạch nên rõ ràng nàng và nam tử kia kẻ ở trên người ở dưới, mỗi người một bên bờ hồ, nhưng bóng hình lại như sánh vai bên nhau, tựa kề thân thiết. Thoạt đầu nàng còn tán thưởng nam tử học vấn uyên bác, biết phối hợp các loại kỹ năng, nhưng khi thấy bóng mình cùng y “tựa kề” dưới hồ, dù biết y đứng dưới chẳng thể trông thấy, nàng cũng không khỏi đỏ bừng mặt, tức tối lườm y, lòng thầm nhủ: y thiết kế như vậy là còn chừa chỗ bỡn cợt nữa! Nàng lập tức leo xuống, không thèm “tựa kề” cùng y thêm một giây một phút nào nữa. Trong lúc vội vội vàng vàng, nàng chẳng kịp trông thấy mấy hàng chữ phản chiếu trên mặt hồ lấp loáng: trăng nước bóng gương, vô tâm đi đến. Vân Tang quay lại bên hồ, giữ nguyên vẻ mặt lạnh lùng, giễu cợt: “Tuy tâm tư tinh tế, tiếc rằng đã đặt nhầm chỗ mất rồi.” Nam tử vẫn thản nhiên, dâng lên Vân Tang một chiếc hộp ngọc, hờ hững nói: “Tại hạ phụng lệnh điện hạ tới dâng vật này lên vương cơ, nay vật đã dâng rồi, tại hạ xin cáo lui.” Nói rồi liền nghênh ngang bỏ đi, thái độ cực kỳ vô lễ, khác hẳn kẻ khiêm tốn ôn hòa, cười nói tự nhiên khi trước. Vân Tang tức nghẹn cả họng, hậm hực nhìn theo bóng y nhưng không sao nói rõ được mình tức giận điều gì. Một lúc lâu sau nàng cúi đầu, trông thấy dấu ấn Huyền điều – dấu ấn của vương thất Cao Tân – in trên hộp ngọc mới sực nhận ra: “Này, ngươi nhận lộn người rồi, ta không phải vương cơ Hiên Viên mà là vương cơ Thần Nông kia.” Thiếu nữ áo xanh bấy giờ mới từ sơn động nhảy ra, vỗ tay cười nói, “Hay cho Ao Đột quán, thiết kế đã khéo, giải thích còn khéo hơn, muội ở bên hồ này ngắm nhìn suốt nửa ngày mà không nhận ra cái gì là nước thành chỗ trũng, non thành chỗ gồ.” Chẳng hiểu sao trong lòng Vân Tang bỗng vừa thẹn vừa giận, cảm giác lạ lùng khó tả chưa từng thấy, nàng tức tối quăng hộp ngọc cho thiếu nữ áo xanh, chế giễu: “Hiên Viên vương cơ, chú rể của muội ngàn dặm xa xôi sai thuộc hạ mang quà tới tặng muội này, hèn nào muội cười tươi thế!” Hiên Viên Bạt mở hộp ra xem, đỏ mặt nói: “Đâu phải quà cáp gì? Chỉ là mấy viên thuốc thôi mà.” Nàng ngẩng đầu lên, thấy Vân Tang đang đứng ngẩn người ra đó, gọi mấy tiếng cũng không nghe. Hiên Viên Bạt vội lay lay Vân Tang: “Tỷ tỷ, tỷ sao thế?” Vân Tang đáp: “Vị công tử vừa rồi là do Thiếu Hạo phái tới đưa đồ uội ư?” “Chắc là thế.” “Y thấy ta phục sức hoa lệ lại đứng trong Ao Đột quán, gọi vương cơ ta cũng đáp, té ra y tưởng nhầm ta là muội.” “Phải đó, chẳng phải tỷ đã biết rồi sao?” Hiên Viên Bạt ngơ ngác chẳng hiểu rốt cuộc Vân Tang định nói gì. “Vậy y đương nhiên cũng nghĩ rằng ta là vị hôn thê của Thiếu Hạo, nghĩ rằng ta là một nữ tử đã đính hôn.” “Ừm.” Hiên Viên Bạt gật đầu, vẫn chưa hiểu điều Vân Tang muốn nói. Vân Tang cười rạng rỡ, ánh mắt lấp lánh niềm vui. “Tỷ tỷ, sao tỷ cứ lúc vui, lúc giận, lúc lại thẫn thờ ra thế? Chẳng giống khi xưa chút nào.” Vân Tang chỉ cười làm thinh, hồi lâu mới nói: “Còn muội vẫn y như hồi nhỏ. A? Thuốc à? Sao Thiếu Hạo lại phái người tới đưa thuốc uội? Muội bị bệnh ư? Hèn chi sắc mặt muội xanh xao quá.” “Ôi, tỷ đừng nhắc đến chuyện ấy nữa, nói ra chỉ tổ làm trò cười thôi! Lúc muội du ngoạn nhân gian đã bị thương, được Thiếu Hạo cứu đó!” Vân Tang véo mũi Hiên Viên Bạt, “Chẳng phải vừa khéo ư, anh hùng cứu mỹ nhân, mỹ nhân lấy thân đền đáp!” Hiên Viên Bạt bĩu môi, “Khéo cái gì mà khéo? Muội có biết y cao hay thấp, béo hay gầy đâu. Lúc đó loạn dân ở Cao Tân vừa dẹp xong, Đại ca bảo Thiếu Hạo còn chuyện quan trọng phải lo liệu, chẳng đợi muội tỉnh lại y đã đi rồi, y trông thấy muội chứ muội nào đã thấy y, đúng là muội bị thiệt mà!” Vân Tang cười: “Đừng lo, tuy chưa gặp Thiếu Hạo nhưng tỷ dám chắc y nhất định không làm muội thất vọng đâu.” “Hừm, tỷ cũng chưa thấy, làm sao khẳng định được gì chứ?” “Muội thấy gã vừa rồi thế nào?” “Lời nói cử chỉ của y khiến muội nhớ tới Tri Vị bá bá.” Tri Vị phò tá Hoàng đế dựng nước, được ca tụng là đế sư, theo lời Hiên Viên Bạt có thể thấy nàng cũng khen ngợi nam tử vừa rồi. Vân Tang tiếp: “Chim khôn chọn cành mà đậu, kẻ có tâm tư tinh tế nhường ấy đã chọn Thiếu Hạo trong hơn hai mươi vương tử Cao Tân, bởi thế muội cứ yên tâm đi.” Nàng thoáng chần chừ rồi ngập ngừng hỏi, “Muội có dò la xem y là ai được không?” “Muội nhờ Tứ ca đi hỏi là biết thôi, đừng nói tới tài hoa, chỉ cần xét dung mạo, ở Cao Tân cũng chẳng có mấy công tử tao nhã tuấn tú như thế đâu.” Vân Tang đỏ bừng mặt lên, “Tỷ tỷ còn chút việc phải nhờ muội đây.” “Gì thế tỷ?” Vân Tang ghé tai Hiên Viên Bạt thì thầm, vẻ mặt Hiên Viên Bạt thoắt kinh ngạc, thoắt tươi cười, sau cùng gật đầu lia lịa, hai nữ tử ngồi bên hồ to nhỏ hơn một canh giờ, mãi tới khi mặt trời ngả về Tây, Vân Tang mới đi khỏi. Màn đêm buông xuống, mây che mờ trăng, khe núi mịt mù sương phủ. Những đóa hoa đào trong Bàn Đào viên như được phủ một lớp màn the, thoạt nhìn tưởng như cả đất trời đều hóa thành mây ráng khói hồng, mờ mờ ảo ảo. Xi Vưu bay vút vào giữa vườn đào, rút một dải lụa hồng bịt hai mắt lại. Lúc ban ngày, hắn đã phát hiện ra Ngọc sơn và rừng đào là một trận pháp lớn, không muốn bị ảo ảnh mê hoặc thì đừng nhìn, chỉ có thể dùng tâm nhãn cảm nhận sự biến hóa kỳ diệu của linh khí mà thôi. Hắn di chuyển trong rừng đào, hết đi lại dừng, lúc đi thẳng lúc đi vòng, lúc rẽ ngoặt, cuối cùng cũng phá được trận pháp trong đó, tiến vào địa cung của Ngọc sơn. Nhìn hắn phá trận pháp có vẻ dễ dàng nhưng thực ra một khi đã vào trận, chỉ cần sẩy chân một bước sẽ lập tức chuốc lấy cái chết, mấy vạn năm nay mới chỉ có mình hắn suôn sẻ vượt qua. Cả tòa địa cung đều được dựng nên từ ngọc thạch, chẳng có viên minh châu nào mà vẫn lấp lánh sáng rực. Phòng ốc bên trong san sát, đường đi khúc khuỷu, cất giấu đủ thứ báu vật, không sao tìm nổi. Xi Vưu nghĩ cung Bàn Cổ là thần binh, hẳn sẽ đi trong kho Binh Khí, bèn định thần cảm nhận một lát rồi chạy thẳng về hướng tỏa ra sát khí dày đặc. Men theo bậc thềm xuống dưới, dọc hai bên lối đi bày đủ loại thần binh lợi khí mà hết thảy thần tiên ngày mơ đêm tưởng nhưng hắn chẳng thèm liếc lấy một lần, chỉ dán mắt vào một vật đặt ở xa tít. Cuối con đường là một bức tường tạc bằng bạch ngọc, trên tường treo một cây cung. Thân cung đen nhánh, dọc thân khắc hoa văn đỏ rực đơn giản mà cổ phác, dường như cảm nhận được Xi Vưu có ý nhắm vào mình, cây cung chợt tỏa ánh sáng đỏ rực, kích thước lúc to lúc nhỏ, lúc to thì cao hơn cả người, lúc nhỏ thì chỉ chừng một tấc. Giờ đây, Xi Vưu mới hiểu tại sao Vương Mẫu lại nói cây cung này không có mũi tên nào lắp vào được – cây cung có biến đổi khi to khi nhỏ thì làm gì có mũi tên nào trên đời lắp vào nổi chứ? Xi Vưu lặng lẽ quan sát nó một lát rồi vận hết linh lực, một tay kết thành trận pháp, một tay nhanh nhẹn tháo cung xuống. Chẳng hiểu hắn đụng phải cơ quan nào mà cả địa cung rung lên, từng khối từng khối Trảm Long thạch sắc lẹm từ trần rơi xuống, hắn vội vàng tránh né, khó khăn lắm mới tránh được thì Trảm Long thạch lại biến thành ngàn lưỡi kiếm lao về phía hắn khiến hắn phải vừa chạy vừa rút lá đào đã chuẩn bị từ trước ra. Lá đào cùng chung một huyết mạch với Ngọc sơn, có thể che giấu khí tức của hắn. Xi Vưu khắp người thương tích, bộ dạng nhếch nhác, loạng choạng thoát khỏi địa cung. Thấy đám thị vệ đã đuổi đến nơi, hắn chẳng kịp thở, lập tức bỏ chạy ngay, nhưng đám truy binh phía sau càng lúc càng đông, từ bốn phương tám hướng ùn ùn đổ lại. Chẳng nấp được vào đâu trong rừng đào, hắn đành chạy về hướng Dao trì. Vầng trăng tròn vành vạnh treo giữa bầu không, dịu dàng soi chiếu Dao trì và rừng đào. Gió đêm hiu hiu, một mảnh hồ lăn lăn sóng biếc, mười dặm dài hoa rụng tả tơi. Giữa lớp lớp hoa rơi, thiếu nữ áo xanh ngồi vắt vẻo trên lan can nhà thủy tạ, hai tay vén vạt váy, đôi chân trần đá hất nước lên nghịch ngợm. Từng chuỗi bọt nước bắn tung tóe, ánh trăng lấp lánh cùng sóng nước long lanh bập bềnh dưới gót ngà. Trong khoảnh khắc, tất cả mọi âm thanh đều lặng phắc, trong mắt Xi Vưu chỉ còn thiếu nữ áo xanh dưới ánh trăng giữa rợp rợp bóng hoa, từng động tác của nàng đều trở nên thong thả rõ rệt lạ thường. Hắn ngỡ như mình nằm mộng, cứ vừa chạy và chăm chú nhìn nàng không chớp mắt, chỉ sợ hễ chớp mắt nàng sẽ tan đi mất. Tiếng kêu réo vẳng lại phá tan bầu không khí tĩnh lặng về đêm ở Dao trì, thiếu nữ áo xanh nghe động liền mỉm cười ngoái đầu khiến Xi Vưu giật nảy mình, khựng bước. Dưới ánh trăng bát ngát, khuôn mặt thiếu nữ hiện rõ nét, chính là Tây Lăng Hành mà hắn tìm kiếm lâu nay, còn tưởng rằng đã chết. “Xi Vưu? Sao ngươi lại ở đây?” Tây Lăng Hành giật nảy mình sửng sốt, bộ dạng có phần đanh đá nhưng ánh mắt không giấu nổi mừng rỡ. Xi Vưu ngẩn người ra một thoáng rồi chạy vụt tới trước mặt Tây Lăng Hành, nắm chặt lấy nàng từ trên xuống dưới thật kỹ mới dám khẳng định tất cả là sự thực, “Sao cô cũng lại ở đây?” Tây Lăng Hành lờ đi không đáp, trỏ đám thị vệ trong rừng đào: “Bọn họ đang đuổi ngươi đấy à? Ngươi ăn trộm gì thế?” Xi Vưu uể oải đáp: “Ta lấy một cây cung trong địa cung ở Ngọc sơn, nhưng giờ chẳng cần tới nữa, đợt lát nữa trả lại chúng là xong.” Tây Lăng hành biến sắc, “Ngươi, ngươi, ngươi muốn chết à! Đây là Ngọc sơn thánh địa, dù Hoàng Đế, Viêm Đế, Tuấn Đế có đến cũng phải tuân theo quy củ ở đây!” Nàng cuống đến nỗi quay mòng mòng cả lên, trong khi Xi Vưu vẫn bình chân như vại, thản nhiên cười nhìn nàng luống cuống. Thấy đám thị vệ càng lúc càng đến gần, Tây Lăng Hành bèn đá văng Xi Vưu xuống hồ, “Chạy mau! Ta đi cản truy binh! Mau chuồn xuống núi rồi ném ngay cây cung hỏng đó đi! Bất kể xảy ra chuyện gì cũng không được thừa nhận rằng ngươi đã vào địa cung Ngọc sơn trộm báu vật, hễ thừa nhận là chết đó!” Xi Vưu vẫn nhơn nhơn ló đầu lên khỏi mặt nước, làm bộ căng thẳng nói: “Vợ yêu, nếu cô xui xẻo bị bắt, nhớ đừng khai ra ta đấy!” Tây Lăng Hành bực bội quát: “Cút mau!” Mắt thấy đám thị vệ ùn ùn kéo đến, Tây Lăng Hành vội liếc xuống hồ, không thấy Xi Vưu đâu nữa, nàng mới dám thở phào nhẹ nhõm, lờ mờ cảm thấy có gì đó không ổn nhưng đã bị cả đám thị vệ vây lấy, đành cố lằng nhằng câu giờ với họ. Hôm sau, mọi thứ trên Ngọc sơn bề ngoài vẫn vậy, nhưng tất cả khách khứa đều nhận thấy sự khác lạ. Vân Tang phái thị nữ đi nghe ngóng xem đã xảy ra chuyện gì, hồi lâu, thị nữ quay về bẩm báo: “Tối qua dưới địa cung Ngọc sơn mất một món thần khí.” Vân Tang giận đến nỗi hai mắt tóe lửa, trừng trừng nhìn Xi Vưu, đang định phát tác thì ả thị nữ lại nói tiếp: “Nghe nói đã bắt được kẻ trộm rồi.” Vân Tang nhẹ cả người, vội ngượng nghịu cười với Xi Vưu tỏ ý tạ lỗi rồi quay sang mắt thị nữ: “Lần sau phải nói cho liền mạch, không được ngưng giữa chừng như thế.” Ả thị nữ gần đây mới được vào hầu hạ cạnh Vân Tang, chưa hiểu tính tình ngoài lạnh trong nóng của nàng, líu ríu đáp: “Dạ!” Vân Tang hỏi: “Kẻ nào to gan dám mạo phạm Ngọc sơn thánh địa thế?” “Sự việc nghiêm trọng quá, nô tỳ không dò la được, nghe tỷ tỷ hầu hạ Vương Mẫu nói Vương Mẫu đích thân thẩm vấn kẻ trộm suốt nửa đêm mà chẳng được kết quả gì, cũng chẳng tìm thấy tang vật, đành phải thả ra, còn cấm các thị nữ không được bàn tán nữa, có điều, có điều…” Thị nữ nói một lèo hết cả hơi, đỏ bừng mặt lên. Vân Tang ngán ngẩm bảo: “Ngươi lấy hơi đã rồi hãy nói.” Ả thị nữ bối rối luống cuống, suýt khóc òa lên, trong khi gã Xi Vưu đầu trò lại bật cười: “Có điều thế nào?” Ả thị nữ hít vào một hơi, nhanh nhảu đáp: “Có điều Vương Mẫu nói lúc địa cung bị mất trộm chỉ có mình nàng ta ở đó nên bị tình nghi nhiều nhất, nếu không chứng minh được sự trong sạch của mình, nàng ta sẽ bị giam lỏng một trăm hai mươi năm.” Xi Vưu đăm chiêu hỏi: “Phải giam lỏng một trăm hai mươi năm ư?” Vân Tang vẫy tay ra hiệu cho thị nữ lui xuống rồi thản nhiên nói: “Vậy là nhẹ lắm rồi. Phạm tội trên Ngọc sơn, sợ nhất không phải là Vương Mẫu xử phạt, mà là Vương Mẫu không xử phạt lại giao kẻ trộm cho gia tộc y, bọn họ đương nhiên phải có lời lại với Ngọc sơn, còn phải đối mặt với miệng lưỡi thế gian, hình phạt chỉ có nặng chứ không có nhẹ.” Xi Vưu đưa mắt chăm chú nhìn Dao trì trăm dặm, đào nở ngàn năm ngoài song cửa, làm thinh không nói. Hoàng hôn buông, tiệc Bàn Đào bắt đầu, chỗ ngồi được đặt bên Dao trì, trong các đình đài lầu gác bày đầy những bàn những sập dài ngắn đan xen, thoạt nhìn có vẻ tùy tiện nhưng thực tế lại rất trật tự. Hàng chủ trì gồm bốn vị trí, Vương Mẫu ngồi ghế chủ tọa, bên phải là vương tử Quý Ly của Cao Tân, bên trái là vương cơ Vân Tang của Thần Nông, bên dưới Vân Tang là vương tử Xương Ý của Hiên Viên. Tiếp theo lần lượt là chỗ ngồi của bốn đại thế gia, sau đó mới là khách khứa của các gia tộc khác. Xi Vưu ngồi bên phía tộc Thần Nông, vừa nâng chén uống rượu vừa dùng thần thức tìm kiếm Tây Lăng Hành nhưng chẳng thấy nàng đâu cả. Có lẽ vì phạm tội nên nàng đã bị cấm tham dự tiệc Bàn Đào rồi. Trên Thí Luyện đài bắt đầu diễn ra các cuộc so tài về thần lực pháp thuật, kẻ thắng sẽ giành được tặng phẩm do Vương Mẫu chuẩn bị, đây là tiết mục truyền thống hàng bao năm nay trong tiệc Bàn Đào, có lẽ thoạt đầu chỉ là trò chơi để tăng thêm tửu hứng nhưng ngàn năm nay dần dà đã biến thành cơ hội tuyệt vời để anh hùng các tộc tranh đua cao thấp, khiến tất thảy thiên hạ đều quan tâm, thậm chí vì thế mà nảy ra cả Đại hoang anh hùng bảng. Vương Mẫu cử thị nữ mở hộp ra, bên trong đặt một đóa hoa đào diễm lệ tươi tắn, lên tiếng giới thiệu: “Đây là Trụ Nhan hoa được thai nghén từ linh khí của Ngọc sơn, chẳng những có thể làm binh khí mà còn có khả năng giúp chủ nhân giữ mãi dung nhan tươi trẻ, không cần hao phí linh lực.” Tất cả nữ tử đều ước ao giữ mãi dung nhan tươi trẻ, không khỏi kinh ngạc khẽ ồ lên. Xi Vưu đã định lấy cớ thay đồ để rời chỗ, nghe thấy tiếng trầm trồ bèn ngoảnh lại nhìn Trụ Nhan hoa, bỗng động lòng dừng bước. Xi Vưu đứng ngoài âm thầm xem tỉ thí, đến vòng cuối cùng quyết định thắng thua mới nhảy lên Thí Luyện đài, chỉ vài chiêu đã đẩy lùi được kẻ đang thắng thế, đoạt lấy Trụ Nhan hoa nhanh như sét đánh, dương dương tự đắc vẫy vẫy đóa hoa kẹp giữa ngón tay mình về phía Vương Mẫu, ném lại một câu “Đa tạ!” rồi nhảy xuống Thí Luyện đài bước đi. Cử tọa đều kinh ngạc! Kẻ đang thắng thế vừa rồi cũng là anh hùng nổi tiếng trong Thần tộc, vậy mà chỉ mấy chiêu đã bị Xi Vưu đánh bại, có điều đám khách khứa chẳng kẻ nào biết Xi Vưu, mọi người đều châu đầu ghé tai xì xào hỏi nhau về hắn. Vân Tang thầm rủa Xi Vưu nhưng ngoài mặt vẫn phải ra sức che chở cho hắn, còn phải thay hắn nặn ra lý do cho hành vi vô lễ khi nãy nữa. May sao Vương Mẫu cũng chẳng để bụng, chỉ thản nhiên tuyên bố Xi Vưu tộc Thần Nông đã giành chiến thắng. Tối qua lúc gặp lại Tây Lăng Hành, Xi Vưu nắm lấy tay nàng, thoạt nhìn có vẻ thờ ơ nhưng thực tế là vừa kiểm tra thương thế của nàng, vừa để lại dấu ấn trên mình nàng. Giờ cứ việc lần theo đấu ấn đó, hắn dễ dàng tìm thấy Tây Lăng Hành. Trong đêm tối, Tây Lăng Hành ôm một súc vải lụa men theo bờ Dao Trì, vừa đi vừa ngoảnh lại như sợ bị bám đuôi, chân bước về phía vắng vẻ. Xi Vưu thấy hành động của nàng có phần kỳ lạ nên không gọi mà nấp trong bóng tối âm thầm bám theo. Dưới bóng trăng, bên bia đá, vị công tử áo gấm đứng đầu ngọn gió, dung mạo tuấn tú, phong thái phiêu dật. Tây Lăng Hành thong dong tới trước mặt y, “Nặc Nại tướng quân?” “Chính tại hạ.” “Ta là Tây Lăng Hành, bạn thân trong khuê phòng của vương cơ Hiên Viên.” Tây Lăng Hành dò xét Nặc Nại một lượt, như thể đang thầm định tình lang giùm bạn. Nặc Nại dung mạo xuất chúng, danh tiếng lan xa, ở Cao Tân, mỗi lúc y ra đường đều có người xúm lấy nên đã quen với ánh mắt chằm chằm của kẻ khác, có điều chẳng hiểu sao ánh mắt Tây Lăng Hành khiến y nhớ tới vương cơ Hiên Viên bên Ao Tinh trì, trên Đột Bích sơn, đột ngột thấy bứt rứt không yên, vội vàng thi lễ: “Vương cơ truyền tin nói có việc quan trọng, dặn ta đừng tham dự tiệc Bàn Đào mà đợi người ở đây, chẳng hiểu đã xảy ra chuyện trọng đại gì?” Chuyện quan trọng là không để ngươi trông thấy nàng ta trên tiệc Bàn Đào, Tây Lăng Hành chắp tay sau lưng nghiêng đầu cười hỏi: “Ngươi cảm thấy vương cơ thế nào?” “Vương cơ huệ chất lan tâm, hoa dung nguyệt mạo.” “Thật chẳng uổng công vương cơ biệt đãi ngươi.” Tây Lăng Hành trao súc lụa trong tay cho Nặc Nại. “Đây là vương cơ nhờ ta chuyển cho ngươi.” Nặc Nại lui bước, không nhận lấy súc lụa, vẻ mặt lạnh băng, trong lời nói còn ẩn hàm ý: “Thiếu Hạo điện hạ bất kể tính tình hay tài hoa đều có một không hai, đúng là một đôi trời sinh với vương cơ, nếu vương cơ có gì gửi gắm, cứ việc phó thác cho Thiếu Hạo điện hạ, cần gì tại hạ ra sức.” Tây Lăng Hành mỉm cười gật đầu, Vân Tang dặn nàng nếu Nặc Nại vui vẻ nhận lời ủy thác riêng thì chẳng những không được giao cho y mà còn phải mắng ột trận, nhưng nếu y không chịu nhận thì phải nghĩ cách để giao nó cho y. Tây Lăng Hành dúi súc lụa vào tay Nặc Nại, “Ngươi căng thẳng gì thế? Chẳng qua vương cơ hứng thú với việc chế tạo cơ quan trong trang viện, đây là bản vẽ mà vương cơ vẽ ra mấy năm nay, thật tình muốn nhờ ngươi chỉ giáo thôi mà.” Sắc mặt Nặc Nại hơi dịu lại, “Danh sư trong vương tộc rất nhiều, tại hạ đâu dám nói xằng chỉ bậy.” Tây Lăng Hành thở dài, “Ngươi bảo mình không dám nói xằng, vậy ngươi tưởng mấy kẻ mang danh cao sĩ kia dám nói xằng sao? Hơn nữa đừng nói trong Hiên Viên tộc, dù nhìn khắp cả thiên hạ cũng được mấy kẻ có tài như ngươi? Ngươi xem bản vẽ sẽ thấy, e rằng chỉ thua Ao Đột quán của ngươi mà thôi, còn những kẻ khác dù dám nói xằng cũng chẳng có tài mà lên tiếng đâu!” Nặc Nại nghe đến đây hệt như kẻ hiểu võ gặp được kiếm báu, lòng nôn nóng chỉ hận không thể mở ngay súc lụa ra xem. “Vậy đợi tại hạ xem xét kỹ rồi sẽ bẩm lại với vương cơ.” Tây Lăng Hành gật đầu cười ranh mãnh: “Vương cơ hành tung bất định, mấy ngày nữa có lẽ sẽ phải gặp sứ giả tới cầu kiến, tướng quân chớ vô lễ mà cự tuyệt ngay từ cửa nữa nhé.” Nặc Nại mỉm cười hành lễ rồi cáo từ. Tây Lăng Hành thấy y đã đi xa liền thong dong quay lại, đầu mải nghĩ miên man về Vân Tang cùng Nặc Nại, té ra Vân Tang tỷ tỷ cũng có lúc tinh quái nhường này, nàng càng nghĩ càng tức cười, không nhịn được hoa chân múa tay, cười hinh hích không thôi. Đột nhiên nàng thấy mặt mình mát lạnh, vừa ngẩng đầu đã thấy ánh trăng vằng vặc, cánh đào trắng như tuyết bay ngập trời, phiêu phiêu phất phất, cuồn cuộn xoay xoay. Hệt như đông giá chợt về, cả đất trời phủ đầy một màu tuyết trắng, càng tăng thêm mấy phần kiều diễm dịu dàng. Tây Lăng Hành vui thích chìa cả hai tay ra hứng lấy một vốc cánh hoa đưa lên mũi ngửi, thấy hương thơm ngan ngát, rõ ràng là hoa thật chứ chẳng phải ảo ảnh. Nàng không nén nổi vui thích bắt đầu múa giữa trời “hoa tuyết”, tay áo lúc nhẹ nhàng vung ra, khi đột nhiên thu lại, tư thế uyển chuyển, bước chân thoăn thoắt, hệt như hoa yêu. Nàng cười khanh khách gọi: “Xi Vưu, có phải ngươi không?” Bóng dáng Xi Vưu dần dần hiện ra, tay còn cầm Trụ Nhan hoa, lặng lẽ cười giữa ngập trời hoa trắng, phong thái hiên ngang khiến những cánh hoa đào nhu hòa diễm lệ cũng đượm mấy phần anh khí. Tây Lăng Hành cũng ngưng múa, đăm đăm nhìn Xi Vưu như đang nằm mộng. Hai người cứ lặng lẽ nhìn nhau qua một màn tuyết trắng, mặc cánh đào bay ngập trời, chẳng rõ là do không đành phá vỡ vẻ đẹp trong khoảnh khắc hay trong lòng đang ấp ủ cảm nghĩ riêng. Hồi lâu Tây Lăng Hành mới thở dài: “Ta biết ngươi sẽ không chịu nghe lời ta mà xuống núi.” Xi Vưu chỉ cười không đáp. Tây Lăng Hành chậm rãi bước tới, chăm chú nhìn hắn: “Hôm qua lúc ngươi đi rồi ta mới nhận ra, dù là cao thủ Thần tộc cũng chẳng mấy kẻ có thể an toàn thoát thân sau khi đánh cắp bảo vật dưới địa cung Ngọc sơn, khi xưa ở Bác Phụ sơn cũng là ngươi cứu ta phải không? Rốt cuộc ngươi là ai thế? “Ta là ta thôi.” Tây Lăng Hành quát, “Đừng gạt ta nữa, ta hỏi tên thật của ngươi kia!” “Đám vu sư tộc Cửu Lê gọi ta là Thú vương, thần tiên trên Thần Nông sơn gọi ta là cầm thú hoặc súc sinh, còn sư phụ và Du Vương gọi ta là Xi Vưu.” Xi Vưu trả lời hết sức thản nhiên nhưng Tây Lăng Hành lại thấy xót xa khôn tả, hạ giọng nói: “Linh lực của ngươi khá mạnh, ta còn tưởng ngươi là anh hùng nổi tiếng nào trong Thần tộc, ai dè lại chẳng có tên tuổi gì.” Xi Vưu thổi đóa Trụ Nhan hoa trong tay, Trụ Nhan hoa từ từ nở ra, cao tới cả thước, trên cành đầy những nụ có đỏ có trắng, vô cùng mỹ lệ, hắn trao đóa hoa cho Tây Lăng Hành. Thiếu nữ nào chẳng yêu hoa đẹp, Tây Lăng Hành liền mừng rỡ nhận lấy: “Tặng ta ư?” Xi Vưu gật đầu. “Cảm ơn ngươi.” Tây Lăng Hành vừa dứt lời cảm tạ đã bĩu môi lườm hắn, quay ngoắt đi, “Đồ bịp bợm! Rõ ràng ngươi lợi hại thế này, vậy mà dạo ở Bác Phụ quốc lại ức hiếp ta!” Nàng leo lên đỉnh núi, kiếm một phiến đá tương đối bằng phẳng ngồi xuống, Xi Vưu cũng ngồi bên cạnh, khẽ gọi: “A Hành.” Tây Lăng Hành ngoảnh đầu sang bên, chẳng để ý gì tới hắn, chỉ thích thú nghịch đóa Trụ Nhan hoa, nhìn tuyết rơi càng lúc càng dày. Xi Vưu ngồi nhìn một lát rồi khum hai tay lên miệng huýt sáo mấy tiếng, lát sau chợt thấy hai chú chim cùng ngậm một cành đào bay lại, lá xanh biêng biếc như còn đẫm sương đêm, giữa đám lá thấp thoáng một trái đào nõn nà tươi rói, thoạt nhìn đã thèm. Thần tộc có thể dùng thần lực sai khiến thú yêu điểu yêu, nhưng không thể ra lệnh cho đám chim thú bình thường chưa được khai thông linh trí, cảnh tượng này khiến Tây Lăng Hành tròn xoe mắt. Hai chú chim đậu xuống trước mặt nàng, đập cánh rồi cùng cất giọng hót líu lo như mời nàng nếm thử trái đào. Tây Lăng Hành không khỏi nuốt nước miếng, liếc Xi Vưu rồi cầm lấy trái đào cắn một miếng, thấy thơm ngọt đến tận tâm can, ngon hơn hết thảy hoa quả trước đây từng nếm qua. “Ngon quá!” Xi Vưu chăm chú nhìn A Hành, cười cười không nói, đây là trái đào ngon nhất trên Ngọc sơn này, khi xưa hắn còn thắc mắc tại sao con cáo nâu đó lại đem miếng mồi ngon nhất dâng cho kẻ khác, mãi đến bây giờ ngắm nụ cười mê hồn của nàng, hắn mới hiểu ra. A Hành thấy trong lòng rúng động, chẳng dám nhìn Xi Vưu thêm nữa, chỉ cúi đầu lặng lẽ nghịch mấy cánh hoa rồi ăn đào, cảm giác vừa hoảng hốt vừa sợ sệt, còn xen lẫn chút ngọt ngào chẳng thể gọi thành tên. Dưới một trời hoa tuyết tả tơi, hai người họ sánh vai cùng ngồi trên vách đá. Xi Vưu ngẩng đầu nhìn ánh trăng vằng vặc, nghe lòng mình êm đềm đến vui vẻ, tựa như được trở về vùng rừng núi mênh mông ấy, tự do tự tại, chẳng còn cô đơn nữa.
|
Q.1 - Chương 5: Thư Ngắn Tình Dài, Lòng Khôn Tỏ Thư viết rất dài, hết lải nhải kể mấy chuyện đất lề quê thói, rồi dịu dàng tự thuật đôi ba câu chuyện, có điều, một câu xem chừng rất bình thường trong đó lại khiến nàng thấy mắt cay cay. “Ngang qua Khâu Thương, hoa đào nở đỏ rực cả hai bên bờ, thấy cô gái giặt lụa bên suối, ta lại nhớ cô.” Một chữ “lại” vô tình viết ra mà khiến Tây Lăng Hành trằn trọc suốt cả đêm. Sau khi dự tiệc Bàn Đào, khách khứa thảy đều giải tán, chẳng còn khách đương nhiên chẳng cần dùng tới cung nữ gỗ nữa, số cung nữ thật trong cung điện vốn không có mấy, đi đi lại lại, lặng lẽ âm thầm, thông thường cả sáng chẳng nghe một tiếng nói. Không còn những huyên náo phù phiếm, khắp trăm dặm đình đài lầu gác nguy nga tráng lệ cũng đượm đầy vẻ quạnh quẽ thê lương, ngàn dặm đào hoa rực rỡ chẳng làm sao che giấu nổi, có lẽ đây mới chính là diện mạo thật của Ngọc sơn. Tây Lăng Hành chợt hiểu vì sao cứ ba mươi năm Vương Mẫu lại mở tiệc Bàn Đào một lần, bởi vì, bà quá đỗi tịch mịch! Dù người tham dự đều là những kẻ xa lạ nhưng dù sao cũng có thể mượn sự náo nhiệt của người ta để xua tan đi nỗi cô tịch của mình. Nghĩ tới việc còn phải ở lại Ngọc sơn một trăm hai mươi năm, tức là mấy vạn ngày đêm nữa, kẻ luôn vô tư hồn nhiên như nàng cũng bắt đầu rầu rĩ. Có lẽ Xi Vưu cũng hiểu được nỗi cô đơn của nàng nên phái người hầu đưa tới một chú tệ tệ[1] gầy ốm, nghe nói mẹ nó đã chết trong lúc bảo vệ địa bàn của mình, trước khi chết còn chưa sinh nở, để tệ tệ con được sống, tệ tệ mẹ đã gắng chút sức tàn lấy móng vuốt tự rạch bụng, moi đứa con chưa đủ ngày đủ tháng ra, vừa may được Xi Vưu cứu giúp, nhưng một con non như vậy làm sao sống nổi đây? [1] Sơn Hải kinh – Đông sơn kinh: “Núi Cô Phùng có loài thứ hình dạng như cáo, có cánh, tiếng kêu như hồng nhạn, tên gọi tệ tệ. Tệ tệ thuộc giống hồ ly, tuy có cánh nhưng rất yếu ớt, khó mà bay lên được.” Tây Lăng Hành ôm chú tệ tệ nhỏ đang thoi thóp tới cho Vương Mẫu xem thử, Vương Mẫu hờ hững nói: “Hồ tộc đỏng đảnh khó nuôi lắm, không sống nổi đâu.” Chú tệ tệ nhỏ còn chưa mở nổi mắt nhưng khi Tây Lăng Hành lấy tay cù cù, nó liền ngậm ngón tay nàng mút chùn chụt, như đang bày tỏ khát khao ham sống. Tây Lăng Hành lấy đào tiên và ngọc tủy mà người trong thiên hạ ước ao ra cho tệ tệ nhỏ ăn, chẳng ngại lãng phí, nàng thầm nghĩ nó đã không sống được lâu thì cứ ăn uống cho no nê đi. Vương Mẫu cũng mặc nàng tùy ý, chỉ đứng bên thờ ơ quan sát. Đào tiên và ngọc tủy đều do linh khí đất trời hội tụ lại mà thành, nhưng chính vì linh khí quá dồi dào nên nếu không hấp thụ nổi thì chỉ còn đường chết. Quả nhiên chỉ lát sau, chú tệ tệ nhỏ đã dựng hết lông lên, thân mình càng lúc càng phình ra hệt như một quả bóng da, tưởng chừng sắp nổ tung đến nơi, cặp mắt đỏ rực lên vì đau đớn, nó quằn quại vật vã. Tây Lăng Hành luống cuống vỗ về tệ tệ nhưng nó hết cào lại cắn khiến tay nàng rướm máu. Vô tình mút được chút máu Tây Lăng Hành, tệ tệ nhỏ thấy cơn đau dịu dần bèn cắn chặt lấy tay nàng, ra sức hút máu. Tây Lăng Hành cũng mặc cho nó hút, chẳng hề ghìm giữ linh lực lại, dần dà, thân hình chú tệ tệ nhỏ khôi phục nguyên dạng, nó thỏa mãn cọ cọ vào nàng rồi thiếp đi. Chữa xằng chữa bậy lại giữ được mạng, đúng là kẻ ngốc có phúc của kẻ ngốc! Vương Mẫu lắc đầu quay người bỏ đi. Cứ như vậy, hàng ngày Tây Lăng Hành đều nuôi tệ tệ bằng đào tiên và ngọc tủy, hễ người nó trướng lên thì lại cho hút máu mình. Ngày lại ngày qua, chú tệ tệ thập tử nhất sinh đã bắt đầu chạy nhảy tung tăng, lông đen tuyền, đôi cánh bên sườn cũng cứng cáp hẳn lên. Tới chừng hơn một tuổi nó đã lớn bằng con mèo, Tây Lăng Hành đặt tên cho nó là A Tệ. Một hôm trong lúc đùa giỡn Tây Lăng Hành đặt A Tệ lên cành đào rồi len lén chuồn đi, A Tệ kêu lên mấy tiếng thảm thương chấp chới đập cánh bay đuổi theo nàng. Loài tệ tệ tuy có cánh nhưng hai cánh rất yếu, khó mà bay lên được, ấy thế mà A Tệ được nuôi bằng đào tiên và ngọc tủy lại có thể bay! Tây Lăng Hành kinh ngạc cười khanh khách, lập tức dắt A Tệ đi khắp nơi tập bay, khiến cả rừng đào cũng xao xác cả lên. Thấy A Tệ tập bay, các cung nữ đồng loạt kéo tới xem, tuy A Tệ còn non nhưng có lẽ Hồ tộc trời sinh đã diễm lệ hơn người, ai thấy cũng yêu, bọn họ kinh ngạc gọi yêu nó là “Phi Thiên tiểu hồ ly”, Vương Mẫu ngẫu nhiên nghe được cũng dừng lại, ngạc nhiên quan sát nó. Tây Lăng Hành làm mặt hề với Vương Mẫu, cười đắc ý ra vẻ chế nhạo Vương Mẫu cũng có lúc sai, A Tệ chẳng những sống được, mà còn sống khỏe nữa kia. Tây Lăng Hành bị giam trong núi sâu chỉ có mình A Tệ làm bạn nên ngày ngày đều mong nhận được thư. Đại ca Thanh Dương bận bịu công việc, đừng nói tới thư từ, đến một câu hỏi thăm cũng chẳng có. Tứ ca Xương Ý tuy quan tâm nàng nhưng chủ yếu là đưa đồ ăn đồ chơi tới chứ không viết thư. Chỉ riêng Xi Vưu cứ gửi thư tới tấp, thường một tháng phải đến mấy lá, từ chuyện lớn như quang cảnh các nơi tới chuyện vụn vặt như món hắn ăn, chuyện cười hắn nghe được đều viết cả vào thư, lá dài lá ngắn, dài thì cả trăm chữ, ngắn thì chỉ cụt lủn một câu: Hoa quỳnh trên bàn đã nở, sắc trắng, thơm ngát.” Thỉnh thoảng Xi Vưu còn làm nàng bất ngờ. Xi Vưu kể rằng trên sông Hán Thủy xuất hiện yêu quái ăn thịt người, hắn tình nguyện xin đi thu phục yêu quái, tuy giết được nó nhưng cũng bị thương nhẹ, hắn đã lấy răng nó làm chuông gió tặng cho nàng. Tây Lăng Hành hành treo chuông gió dưới mái hiên, mỗi khi gió thổi, nghe tiếng chuông leng keng, tâm trí nàng lại hiện lên một cảnh tượng vô cùng sống động: giữa biển sóng cuồn cuộn ngất trời, Xi Vưu giao đấu cùng thủy quái, cánh tay bị thương, máu nhuộm đỏ cả dòng Hán Thủy nhưng khóe môi vẫn thấp thoáng nét cười thản nhiên mà ngạo nghễ. Dần dà Tây Lăng Hành bắt đầu dựa dẫm vào những bức thư của Xi Vưu, dù chỉ một câu ngắn ngủi của hắn cũng mang đầy sức sống và vẻ đẹp của trời đất ngoài kia, trong khi thư phúc đáp của nàng bức nào bức nấy toàn là nàng và A Tệ làm những việc này, nàng và A Tệ làm những việc kia. Thỉnh thoảng Tây Lăng Hành chợt nghĩ nếu đồng thời xem tất cả các bức thư nàng gửi tới, chắc hẳn Xi Vưu sẽ tức chết mất, có điều nàng viết rất dí dỏm, Xi Vưu cũng chưa từng vì bực bội mà chấm dứt thư từ với nàng. Đôi bên thư đi tin lại liên tiếp, tuy Vương Mẫu chẳng lấy làm phiền về việc Thanh Điểu[2] mỗi lần lên núi đều chuyển thư giùm A Hành nhưng Xi Vưu thấy không tiện, bèn nhắn nàng rằng đã tìm được một chú chim tuyệt vời để đưa thư. [2] Theo Sơn Hải kinh – Hải Nội Bắc kinh: “Tây Vương Mẫu lưng tựa kỷ, đầu cài hoa ngọc, phía Nam có ba con Thanh điểu, đưa cơm cho Tây Vương Mẫu.” Theo Sơn Hải kinh – Đại Hoang Tây kinh: “Ba con Thanh điểu đầu đỏ mắt đen, một con tên Đại Thu, một con tên Tiểu Thu, con còn lại tên là Thanh Điểu.” Mấy tháng sau, một con Lang điểu[3] bị trói gô lại được gửi lên Ngọc sơn. [3] Sơn Hải kinh: “Lang điểu là loài chim lành, toàn thân trắng muốt.” Tây Lăng Hành mở thư ra xem ngay trước mặt nó, trong thư Xi Vưu nói theo lệnh Viêm Đế, hắn phải tới vùng rừng rậm ở Tây Nam, nơi chưa một quan viên Thần tộc nào đặt chân đến, cũng chẳng biết phải đi mất bao lâu, vốn định thuần phục con chim này rồi mới gửi cho nàng nhưng bây giờ không thể đem theo nó cùng đi được, đành gửi luôn vậy. Đọc xong, Tây Lăng Hành nghiêng đầu ngắm nghía chú chim, thật không tưởng tượng nổi, dựa vào khả năng của mình mà Xi Vưu lại không thuần phục nổi một con chim. Giống Lang điểu toàn thân trắng muốt, hai mắt xanh biếc, vì dáng vẻ đẹp đẽ, tính tình hiền hòa nên thường được các thiếu nữ Thần tộc nuôi trong khuê phòng, có điều con Lang điểu này trông vô cùng ngạo nghễ, chỉ ngẩng đầu nhìn trời, chẳng buồn liếc Tây Lăng Hành đến nửa con mắt. Tây Lăng Hành cho nó ăn, nó cũng rất hiền hòa, ngoan ngoãn chén sạch hai chú cá ngũ sắc khiến nàng mừng rỡ nhủ thầm: đâu có khó thuần gì! Nào ngờ lúc ăn tới con cá thứ ba, Lang điểu bất thình lình mổ phập vào tay nàng, còn rứt luôn một miếng thịt. Thấy tay nàng chảy máu ròng ròng, Lang điểu đắc ý hót vang, tiếng hót rất chói tai nhưng chim chóc quanh đó đều nghe tiếng mà đến, sợ sệt đậu đầy cành. Nghe tiếng nó hót, Vương Mẫu kinh ngạc bước ra, quan sát kỹ một hồi rồi nói: “Hình như con Lang điểu này có lai lịch.” Tây Lăng Hành khiêm nhường thỉnh giáo, Vương Mẫu bèn giảng giải: “Tiếng hót Lang điểu vốn rất trong trẻo êm tai, nhưng con Lang điểu này hót chói tai như thế là bởi nó không coi mình là Lang điểu mà lại vọng tưởng muốn có giọng hót thánh thót như phượng hoàng. Phượng hoàng năm trăm năm mới sinh một quả trứng, chẳng hiểu sao một quả trứng Lang điểu lại lẫn vào ổ phượng hoàng, cơ duyên xảo hợp, trứng phượng hoàng bỗng biến mất, phượng hoàng tưởng lầm trứng Lang điểu là của mình, liền ấp nở, còn nuôi nó lớn, con Lang điểu này cũng ráng tập theo tiếng kêu thánh thót của phượng hoàng nên mới thành ra thế này.” Vương Mẫu lại nhìn những chú chim muốn bay mà không dám bay trên cành, cười nói: “Nếu là phượng hoàng thật, hẳn giọng hót đã thánh thót như tiếng đàn, muôn chim triều bái, hoan hỷ phục tùng chứ đâu như thế này.” Đám cung nữ đều bưng miệng cười chế nhạo, chỉ riêng Tây Lăng Hành động lòng thương cảm, bèn xách nó lên. Con Lang điểu này đã như vậy, Lang điểu thật không dám lại gần nó, mà phượng hoàng cũng chẳng thèm coi nó là đồng loại, thật ra, nó cũng đâu muốn làm phượng hoàng? Nàng nói với nó: “Mày đấu được với Xi Vưu, hiển nhiên không phải thứ chim chóc tầm thường, ta chẳng tâm sức đâu mà thuần hóa mày, nhưng Xi Vưu đã mất công bắt mày tặng cho ta, ta cũng không thể trái ý hắn, thả mày đi được. Mày cứ tạm lưu lại Ngọc sơn truyền tin giúp ta, đợi chừng nào ta xuống núi thì tùy mày muốn ở hay đi cũng được. Nếu đồng ý, ta sẽ thả mày ra, nếu không nhận lời ta sẽ trói mày một trăm năm luôn.” Đáp lại đề nghị của nàng, Lang điểu há mỏ khạc ra một đám lửa. Vương Mẫu lắc đầu than thở, thật đáng thương cho lòng kẻ làm cha làm mẹ trên đời, có lẽ đôi phượng hoàng kia đến chết vẫn không hiểu sao đứa con nở ra lại chẳng giống mình, để giúp đỡ nó, chúng đã chẳng tiếc hy sinh bản thân, cho Lang điểu ăn cả nội đan tu luyện trăm năm của mình. Tây Lăng Hành tránh khỏi ngọn lửa, cũng chẳng lấy thế làm điều, chỉ quay sang bảo A Tệ: “Chúng ta đi.” Vương Mẫu đưa mắt nhìn đám thị nữ xung quanh, họ lập tức cúi đầu tản đi. Lang điểu quen thói tự do, dù đã bị Xi Vưu bắt vẫn ngày ngày kháng cự hắn, lúc nào cũng căng thẳng kích động quá mức. Vậy mà bây giờ nó lại bị trói buộc trong một xó hẹp, chẳng ai buồn ngó ngàng, hằng ngày Tây Lăng Hành chỉ tới một lần, quăng đồ ăn vào rồi đi, bất kể nó khiêu khích ra sao nàng vẫn dửng dưng. Thoạt đầu Lang điểu còn kêu loạn lên, dần dà chẳng hơi sức đâu mà kêu nữa, ngày ngày chỉ ngẩn ngơ nhìn cảnh vật trơ trơ trước mắt. Mây sớm bay lên, ráng chiều buông xuống. Tít tắp sâu trong rừng đào thường vẳng ra tiếng kêu vui vẻ của tệ tệ. Thỉnh thoảng, tệ tệ sải cánh bay ngang qua đầu Lang điểu, để lại một vệt bóng, thực tình thấy tệ tệ bay chấp chới, Lang điểu chẳng xem ra gì, nhưng khi bóng tệ tệ đã khuất nó lại ngẩng đầu nhìn ngây dại bầu không trống trải. Cứ thế hơn trăm ngày, một hôm Tây Lăng Hành để đồ ăn xuống rồi dợm bước định đi, Lang điểu chợt há mỏ ngậm vạt áo nàng níu lại. Tây Lăng Hành ngoái đầu hỏi nó, “Mày đồng ý rồi ư?” Nó ngẩng đầu lên, không đáp. Tây Lăng Hành cũng chẳng chấp tính ngang ngạnh của nó, chỉ mỉm cười nói: “Tuy mày hung hăng nhưng tính tình cao ngạo, đương nhiên chẳng thèm hứa hão rồi.” Dứt lời, nàng phất tay cởi trói cho nó. “Khi nào có việc tao sẽ tìm mày, còn hàng ngày nếu không muốn gặp tao, mày cứ tùy ý bay lượn, miễn đừng ra khỏi phạm vi Ngọc sơn.” Nó sắp vỗ cánh bay đi, lại nghe Tây Lăng Hành nói: “Mày không phải Lang điểu, cũng chẳng phải phượng hoàng, mày chỉ là mày thôi, trong thiên hạ này, mày là độc nhất vô nhị, tao tạm gọi mày là Liệt Dương[4] nhé, nếu sau này mày có cơ duyên tu thành người, có thể tùy ý đổi tên khác vậy.” [4] Liệt: lẫm liệt, mạnh mẽ. Dương: Thái dương, dương khí. (ND) Liệt Dương đứng ngây ra như đang ngẫm ngợi lời nàng, Tây Lăng Hành liền cầm lấy một cành đào, viết lên mặt đất hai chữ: “Liệt Dương”. Lang điểu chăm chắm nhìn hai chữ “Liệt Dương” trên mặt đất hồi lâu rồi vỗ cánh bay đi. Tây Lăng Hành khẽ thở dài, lắc đầu than cùng A Tệ, “Nó quật cường ghê, loài chim vốn ưa bay nhảy tự do, vậy mà vẫn kiên nhẫn được hơn một trăm ngày! Thiếu chút nữa ta đã mềm lòng, định viết thư cho Xi Vưu, xin hắn đồng ý để ta thả nó ra rồi.” A Tệ nhếch mép cười, ánh mắt lấp lánh niềm vui. A Tệ là hồ ly, giống vật thông minh nhất trong muông thú, lại lớn lên giữa Ngọc sơn tràn trề linh khí, ăn đào tiên, uống ngọc tủy, được Tây Lăng Hành rèn giũa, tuy chẳng thể nói tiếng người nhưng cũng lanh lợi không kém một đứa trẻ. Tây Lăng Hành hớn hở chạy về phòng, “Ta phải viết thư cho Xi Vưu, nếu hắn thấy Liệt Dương đưa thư tới hắn sẽ giật nảy mình, tò mò không biết tại sao ta lại thuần phục được nó nhanh thế cho xem. Mày nói ta có nên kể cho hắn chuyện ta cam kết với Liệt Dương không? Hay là đừng kể vội, cứ để hắn tò mò nhé!” Liệt Dương quả rất giữ lời, nghe tiếng Tây Lăng Hành gọi, nó liền bay tới ngay. Gửi gắm bức thư cho Liệt Dương xong, nàng còn quàng vào cổ nó một ống trúc đựng đầy ngọc tủy đã chuẩn bị trước, khiến nó tưởng đó là quà cáp mà nàng sai nó chuyển, nào ngờ, Tây Lăng Hành dặn dò: “Cái này để mày uống, khỏi phải ăn những thứ linh tinh, mày bay nhanh, chắc một ngày thì tới nơi, Xi Vưu nhận thư sẽ cởi nó ra hộ mày.” Liệt Dương vỗ cánh lặng lẽ bay ra ngoài cửa sổ. Quả nhiên nó bay nhanh như chớp, thoáng cái đã mất hút, chỉ còn chiếc chuông gió dưới hiên nhà khẽ ngân những tiếng tinh tang. Tây Lăng Hành ngồi vào bàn, chống cằm ngắm chuông gió, hai má ửng hồng. Trên Ngọc sơn này, năm năm tháng tháng hoa như cũ, tháng tháng năm năm thần tiên vẫn hệt xưa, nhưng dưới Ngọc sơn kia xuân qua thu đến, thu hết xuân về, ba mươi năm đằng đẵng, lại đã đến tiệc Bàn Đào. Để chuẩn bị cho tiệc Bàn Đào, Vương Mẫu đã chế ra rất nhiều cung nữ gỗ phục vụ, trong cung chợt náo nhiệt hẳn lên. Tây Lăng Hành thấy hay hay cũng bắt chước học làm gỗ. Vương Mẫu dạy nàng rằng trước tiên phải nhỏ máu tươi trong tim vào để người gỗ có sinh khí, rồi mới dùng linh lực điều khiển chúng làm việc. Làm người gỗ không khó, cái khó là điều khiển chúng, đừng nói tới máu tươi trong tim nối liền với huyết mạch của mình, mà linh lực cần thiết cũng quá lớn, thần tiên bình thường khó mà chịu đựng nổi. Kể cả Vương Mẫu nếu chẳng có Ngọc sơn dồi dào linh khí, nếu không phải những người gỗ đó theo hầu hạ bên mình thì bà cũng chẳng điều khiển nổi nhiều người gỗ như thế. Vương Mẫu trêu Tây Lăng Hành: “Sắp tới được gặp mặt rồi, khỏi phải viết thư nữa, thích quá nhỉ?” Tây Lăng Hành ngẩn người, như mừng như tủi, cúi gằm mặt xuống. Vương Mẫu lắc đầu cười. Đột nhiên Tây Lăng Hành ngẩng lên hỏi: “Vương Mẫu trước kia đâu có tổ chức tiệc Bàn Đào, từ khi Người làm Vương Mẫu mới đặt ra quy củ, cứ ba mươi năm bày tiệc Bàn Đào một lần, hao tổn rất nhiều tâm sức, chẳng rõ vị thần tiên hay yêu quái mà Người muốn gặp đã tới chưa?” Vương Mẫu bỗng biến sắc, người gỗ đang làm dở trên tay rơi xuống đất, cung nữ bưng trà trong phòng vỡ tan thành tro bụi. “Đừng tưởng ta ăn nói tử tế với ngươi, ngươi lại quên khuấy đây là đâu nhé, coi chừng ta giam ngươi thêm một trăm hai mươi năm nữa đấy!” Nói rồi Vương Mẫu đùng đùng tức giận giũ áo đi thẳng, đám cung nữ cũng nín thinh, chỉ mình Tây Lăng Hành ngoảnh sang cười vụng với A Tệ: “Sao ta lại thấy thinh thích lão yêu bà này nhỉ?” Tiệc Bàn Đào khai mạc, anh hùng các nơi theo thường lệ đều tụ họp đông đủ. Thấy sứ giả lần này của tộc Hiên Viên là Tứ ca Xương Ý, Tây Lăng Hành rất vui, theo lý lần trước Xương Ý đã tới rồi, lần này không được đi nữa, nhất định là vì nàng nên Tứ ca mới cố nài nỉ phụ vương tranh thủ đến Ngọc sơn. Tiếc rằng cả tộc Thần Nông chỉ cử mình Cộng Công tới dự yến. Cộng Công nhận tội với Vương Mẫu, “Nhị vương cơ bệnh nặng qua đời, Viêm Đế đau buồn quá độ mà thành bệnh, các quan lại chức dịch trong tộc đều không dám rời Viêm Đế nên chỉ có mình vãn bối tới dự yến.” Vương Mẫu đưa Cộng Công một giỏ đào tiên, sai hắn mang về cho Viêm Đế, “Giúp ta chuyển lời chia buồn với Viêm Đế, khuyên ngài cố nén đau thương.” Cộng Công thi lễ rồi cung kính lui ra, Vương Mẫu đứng bên vách núi đăm đắm nhìn biển mây mờ mịt, dáng vẻ cô độc mà bi thương khôn xiết, cứ đứng như vậy cả ngày, chẳng cung nữ nào dám lại quấy nhiễu. Tây Lăng Hành bước tới đứng sau lưng Vương Mẫu. Vương Mẫu bèn đưa cho nàng một chiếc hộp gỗ: “Thanh Điểu vừa mang từ dưới núi lên đó, xem ra tuy Xi Vưu chưa tới nhưng lễ vật đã tới trước rồi.” Tây Lăng Hành mở hộp ra, thấy bên trong là hai con phượng hoàng được đẽo bằng gỗ. Thoạt đầu, nàng ngỡ ngàng chẳng hiểu gì cả, sau mới sực nghĩ ra, liền đặt cả hai xuống đất. Hai con phượng hoàng vừa bén hơi đất lập tức lớn nhanh như thổi, hóa thành hai con phượng hoàng y như thật, bộ lông ngũ sắc rực rỡ, tiếng kêu thánh thót, bay lượn xung quanh. Phượng hoàng là vua của muôn chim, thân phận cao quý, tính tình kiêu ngạo, nhưng hai chú phượng hoàng này lại rất thân thiết với Tây Lăng Hành, lúc bay ra xa múa lượn cho nàng ngắm, lúc liệng lại gần vờn quanh mình nàng. Giọng hót phượng hoàng thánh thót du dương tựa tiếng đàn, chúng vừa hót vừa bay lượn, khiến chẳng những Tây Lăng Hành mà cả Vương Mẫu cũng phải mỉm cười. Chừng nửa tuần hương, linh lực để duy trì đã cạn kiệt, đôi phượng hoàng mới thôi múa lượn, khép cánh đỗ xuống, lại biến thành hai con chim gỗ. Thấy Vương Mẫu ngây ra nhìn hai chú chim gỗ đến ngơ ngẩn, Tây Lăng Hành vội hỏi: “Sao thế ạ?” Vương Mẫu thờ ơ: “Bạn của ngươi sai khiến được tượng gỗ từ ngoài ngàn dặm, còn khiến chúng cất tiếng hót, đúng là không vừa.” Thật ra, điều khiến Vương Mẫu cảm thán chính là, nhiều kẻ có thể vì quyền lợi mà bất chấp mọi giá, sai khiến rối gỗ từ xa để chúng giết người lấy đồ ình, còn Xi Vưu lại chẳng tiếc hao tổn tâm huyết chỉ để làm vui cho Tây Lăng Hành. Tuy hai con chim gỗ đã thành ra vô dụng, Tây Lăng Hành vẫn tươi cười cất chúng đi. Tiệc Bàn Đào dài ba ngày trôi qua rất mau. Ba mươi năm nay, Tây Lăng Hành đã ăn chán đào tiên nên cũng chẳng còn gì hứng thú với tiệc Bàn Đào, thế mà khi tiệc tàn, nàng lại thấy lòng buồn vô cớ, có lẽ là bởi Xương Ý ca ca sắp phải đi. Tây Lăng Hành quyến luyến tiễn Tứ ca xuống núi rồi một mình đi sâu vào giữa rừng đào, chẳng buồn mang A Tệ theo. Vậy mà chẳng hiểu sao Vương Mẫu vẫn tìm thấy nàng, còn hỏi: “Ngươi nhớ nhà ư?” Tây Lăng Hành đã băn khoăn vì một câu nói của Vương Mẫu từ rất lâu. Hôm đó khi trừng phạt nàng, Vương Mẫu từng nói: “Nể mặt mẫu hậu ngươi, ta sẽ giữ thanh danh cho ngươi, không công bố tội trộm cắp ra ngoài, chỉ phạt ngươi chăm sóc vườn đào cho ta một trăm hai mươi năm.” Tây Lăng Hành chỉ nghe người ta nể mặt phụ vương oai trấn bốn bể của mình, lần đầu mới thấy có người “nể mặt mẫu hậu ngươi”, hơn nữa người đó lại là Ngọc sơn Vương Mẫu, nên nàng rất tò mò. Tây Lăng Hành đánh liều hỏi Vương Mẫu: “Người quen mẫu hậu tôi sao?” “Rất nhiều rất nhiều năm trước, chúng ta từng là đôi bạn khăng khít.” “Thật ư?” Tây Lăng Hành bị bất ngờ, bán tín bán nghi. “Giờ đây nhắc tới phụ vương ngươi thì thiên hạ ai ai cũng biết, nhưng khi còn chưa ai biết tới ông ta, mẫu hậu ngươi đã vang danh khắp chốn, người người đều biết nhà Tây Lăng có nàng kỳ nữ. Viêm Đế, Tuấn Đế đều phái sứ giả tới cầu thân cho con trai, nếu mẫu hậu ngươi nhận lời, có lẽ bây giờ ngươi đã là vương cơ của Thần Nông hay Cao Tân rồi.” Tây Lăng Hành kinh ngạc đến không dám tin: “Vậy năm xưa mẫu hậu tôi thế nào? Còn phụ vương thì sao?” Vương Mẫu lim dim mắt như đang hồi tưởng lại: “Mẫu hậu ngươi là người con gái thông tuệ dũng cảm nhất mà ta từng thấy, còn phụ vương ngươi cũng là gã thanh niên anh tuấn hào sảng nhất mà ta đã gặp qua, năm đó…” Vương Mẫu ngừng lại ngang chừng, hồi lâu không nói tiếp. Ánh dương xuyên qua những cánh đào rực rỡ, rải xuống đất thành những bụi vàng lắc rắc. Gió lay bóng động, tựa như dằng dặc thiếu hoa trôi ngang dung nhan Vương Mẫu, toát lên một nỗi bi ai mà A Hành cũng không sao hiểu nổi. “Sao mẫu hậu tôi chưa từng nhắc tới Người nhỉ?” Vương Mẫu mỉm cười, xua tan bóng dáng tháng năm vừa lướt qua gương mặt, “Bởi chúng ta đã không còn là bạn bè nữa.” “Người không gặp phụ mẫu tôi bao lâu rồi?” “Hơn hai ngàn năm nay rồi, từ khi cai quản Ngọc sơn, ta chưa hề xuống núi, họ cũng chưa từng tới đây.” Tây Lăng Hành nhìn quanh, chẳng nói nên lời. Hai ngàn năm, ngày lại ngày, năm lại năm, Vương Mẫu cứ một mình coi sóc cả rừng đào rực rỡ thắm tươi thế này ư? Vương Mẫu thoáng trầm ngâm, đoạn hỏi tiếp: “Mẫu hậu ngươi khỏe chứ?” Tây Lăng Hành nghiêng đầu nghĩ ngợi rồi đáp: “Khỏe lắm, mẫu hậu tôi ưa yên tĩnh, chẳng xuống núi, cũng hiếm khi tiếp khách.” Dù được ăn đào tiên, người trong Thần tộc cũng chẳng thể trường sinh bất tử, có điều ăn thường xuyên sẽ giữ được dung nhan trẻ trung mãi mãi, nên dung mạo Vương Mẫu vẫn y như thiếu nữ vừa đôi tám. Tây Lăng Hành nhìn Vương Mẫu, buột miệng: “Mẫu hậu tôi tóc đã bạc trắng cả rồi.” “Cha ngươi, cha ngươi…” Vương Mẫu nói nửa chừng rồi ngưng ngang. Tây Lăng Hành đã hiểu ý Vương Mẫu muốn hỏi gì, liền đáp, “Mẹ tôi ưa yên tĩnh nên cha cũng hiếm khi quấy rầy bà.” Vương Mẫu và Tây Lăng Hành nhìn nhau im lặng. Vương Mẫu không thể xuống núi vì giữ quy củ Ngọc sơn, nhưng còn mẹ nàng? Cớ gì bà phải tự giam mình? Đột nhiên, Vương Mẫu muốn uống một trận say khướt bèn quát gọi thị nữ, sai họ đi lấy rượu. Vương Mẫu đã say rồi, mấy ngàn năm nay mà mới được một trận thật say. Tây Lăng Hành nhìn Vương Mẫu phất tay áo, phấp phới múa giữa rừng đào bát ngát. Vương Mẫu mỉm cười, nhìn nàng, khẽ gọi: “A Luy, lại đây, A Luy, lại đây mau lên…” Lần đầu tiên Tây Lăng Hành biết mẹ mình từng được bạn bè gọi thân mật là “A Luy”. Nàng đành đứng dậy múa cùng Vương Mẫu, nhưng không sao đáp lại lời bà. Rất nhiều rất nhiều năm trước, hẳn Vương Mẫu cũng có một cái tên rất dịu dàng, chỉ là đã lâu lắm chẳng ai gọi tới nên mọi người đều không biết. Tây Lăng Hành không muốn gọi bà là Vương Mẫu, ít nhất là hiện giờ, nên đành làm thinh mà múa cùng bà. Tiệc Bàn Đào đã tàn, Ngọc sơn trở lại vẻ quạnh quẽ hoang lương, tĩnh lặng như chết trước kia. Hôm nay cũng giống hôm qua, từng ngày từng ngày đều đều trôi đi. Cỏ cây không đổi, cảnh sắc chẳng thay, bốn mùa đều là xuân nên ấm lạnh vẫn như thế, chẳng có gì biến chuyển. Ba mươi năm trước, Tây Lăng Hành còn nhỏ, ít trải sự đời, chưa thấm thía nỗi khổ bị mất tự do nên không biết sợ, đương nhiên cũng chẳng mấy khổ đau, nhưng mới trải qua ba mươi năm, nghĩ tới còn ba lần mươi năm nữa, nàng chợt thấy tháng ngày trước mắt sao mà đằng đẵng lê thê, vì sợ hãi, nỗi đau khổ của nàng lại càng tăng thêm. Ngọc sơn cách biệt thế gian nên Tây Lăng Hành cũng bị cách biệt với thế giới. Nàng thường nghĩ, có lẽ tới khi xuống núi nàng lại nhận ra mình đã chẳng biết nói gì với bạn bè nữa. Những gì họ biết, nàng nào có biết đâu. Dẫu là Thần tộc thì một đời có được mấy mùa thanh xuân một trăm hai mươi năm? Thư nàng gửi cho Xi Vưu cứ ngắn dần ngắn dần, ít dần ít dần, rồi cuối cùng ngừng hẳn. Nhưng Xi Vưu vẫn gửi thư đều đặn như thường, thậm chí cũng chẳng truy vấn tại sao Tây Lăng Hành không trả lời, hắn chỉ bình thản thuật lại cuộc sống của mình, thỉnh thoảng kèm theo một món quà nho nhỏ. Dù không hồi âm, nhưng mỗi khi nhận được thư hắn, Tây Lăng Hành cũng thấy vui lên. Hơn ba năm, một ngàn mấy trăm ngày Tây Lăng Hành chẳng viết cho hắn lấy nửa chữ, nhưng hắn vẫn đều đặn viết thư cho nàng như xưa. Sau bốn năm, cảnh sắc trên Ngọc sơn vẫn trơ trơ không đổi như suốt ngàn năm qua, nhưng dưới núi, một mùa đông rét buốt căm căm lại vừa qua, tất cả đang chờ đón một mùa xuân ấm áp. Đương lúc Tây Lăng Hành đứng giữa rừng đào nheo mắt ngắm vầng dương, Thanh Điểu lại mang thư của Xi Vưu tới. Thư viết rất dài, hết lải nhải kể mấy chuyện đất lề quê thói, rồi dịu dàng tự thuật đôi ba câu chuyện, có điều, một câu xem chừng rất bình thường trong đó lại khiến mắt nàng cay cay. “Ngang qua Khâu Thương, hoa đào nở đỏ rực cả hai bên bờ, thấy cô gái giặt lụa bên suối, ta lại nhớ cô.” Một chữ “lại” vô tình viết ra mà khiến Tây Lăng Hành trằn trọc suốt cả đêm. Sớm hôm sau, Liệt Dương mang thư của nàng từ Ngọc sơn bay đi. Mấy chục năm sống bên nhau, A Tệ cùng Liệt Dương đã thành ra thân thuộc. Tuy Liệt Dương tính khí lạ lùng, không dễ gần gũi nhưng A Tệ thích Liệt Dương, bất kể Liệt Dương đối xử ra sao nó vẫn cứ bám riết lấy, Liệt Dương bị bám mãi cũng hết cả cáu kỉnh, dần dà chấp nhận A Tệ. Thường thường, trong khi Tây Lăng Hành vừa coi sóc vườn đào vừa chăm chút đám trứng tằm, A Tệ hay chơi đùa với Liệt Dương. Mấy chục năm nay nàng đã nhận được rất nhiều quà của Xi Vưu, nhưng chẳng hề tặng lại món gì. Trên Ngọc sơn đầy rẫy ngọc quý, cây hiếm, báu vật, có điều hết thảy thuộc về Vương Mẫu chứ không thuộc về nàng. Mẹ nàng thạo nuôi tằm dệt vải nên từ khi chưa biết nói, nàng đã biết phân biệt đủ các loại trứng tằm, bèn nảy ý định dựa vào linh khí trên Ngọc sơn để ươm một mẻ trứng có một không hai, dệt một tấm áo độc nhất vô nhị trên đời tặng Xi Vưu. Trên Ngọc sơn không hề có cảm giác nhật nguyệt chuyển vần, hoa đào nở một lần là tươi suốt ngàn năm nên nàng chỉ có thể tính thời gian dựa vào những bức thư đi tin lại của Xi Vưu. Hắn viết thư cho nàng, nàng viết thư cho hắn, hắn lại viết thư cho nàng, nàng lại viết thư cho hắn… bao nhiêu thời gian đằng đẵng đã trôi qua giữa những cánh thư đi thư lại. Mười sáu năm ươm được trứng hoa đào, năm năm quay tơ, ba năm dệt vải, một năm may áo, mất hai mươi lăm năm nàng mới may xong một chiếc áo tặng Xi Vưu. Áo vừa may xong, hồng quang đã tỏa rực khắp phòng, làm kinh động cả Ngọc sơn. Đám thị nữ ngỡ là có cháy liền chạy nháo nhào khắp nơi kêu cứu, Vương Mẫu vội vàng tới nơi, chỉ thấy một tấm áo đỏ thắm giản dị nhưng sắc đỏ tựa hồ có sức sống, như đang điên cuồng tràn ra, lại như đang hú hét lao vút đi, Vương Mẫu quan sát hồi lâu, cảm thấy như mình sắp bị sắc đỏ đó nhấn chìm. Cả Vương Mẫu cũng mới lần đầu được thấy sắc đỏ như vậy, bà sững sờ nhìn ngắm hồi lâu rồi quay sang bảo Tây Lăng Hành: “Ngươi đúng là con gái của A Luy.” Tây Lăng Hành sai Liệt Dương mang áo tới cho Xi Vưu, cũng chẳng giải thích tấm áo này từ đâu mà có, chỉ nói là quà tặng cho hắn, mong rằng hắn sẽ thích.
|
Q.1 - Chương 6: Rừng Vắng Riêng Mình Ta Vò Võ[1] [1] Trích trong bài từ theo điệu Mãn giang hồng, nhan đề Nhớ Tử Do của Tô Thức đời Tống. (ND) A Hành chăm chú nhìn y, cảm thấy con người này khác hẳn nam tử cùng mình uống rượu chuyện trò đêm trước. Thiếu Hạo đêm qua hệt như kẻ hiệp khách ngang tàng, ngẫu nhiên gặp gỡ bên bờ dương liễu, có thể cùng chuốc chén, nói cười, thù tạc, nhưng sáng nay, dưới ánh mặt trời, y lại giống bậc vương giả cô đơn sải bước trên con đường trước điện, đầy ẩn nhẫn, lạnh lùng và thâm trầm. Thấm thoắt lại đã tới tiệc Bàn Đào. Lần này, Hiên Viên tộc cử vương tử Thương Lâm, Thần Nông tộc cử vương cơ Vân Tang, Cao Tân tộc cử vương tử Yến Long tới dự. Sau khi lên núi, theo lời Viêm Đế căn dặn, Vân Tang giao hết mọi việc giao tế đối đãi cho Xi Vưu còn bản thân tha hồ thảnh thơi tản bộ, vô tình, nàng lại đi tới Ao Đột quán. Thấy Hiên Viên Bạt đang ngồi bên hồ ngẩn mặt nhìn trời, Vân Tang hết sức kinh ngạc, bèn đến gần “hù” một tiếng khiến Hiên Viên Bạt giật nảy mình. “Sao muội lại lên Ngọc sơn này? Ta đâu có nghe nói muội tới dự yến!” “Nói ra thì dài lắm, sáu mươi năm trước, sau khi tan tiệc Bàn Đào muội đã bị Vương Mẫu giữ lại đây, chưa hề xuống núi.” Vân Tang sững người rồi sực hiểu ra, “Muội chính là tên trộm bị Vương Mẫu giam cầm ư?” Hiên Viên Bạt bĩu môi gật đầu. Vân Tang liền ngồi xuống cạnh Hiên Viên Bạt hỏi chuyện, “Ta không tin muội lại tham mấy món thần binh lợi khí của Ngọc sơn đâu, thế rốt cuộc là sao? Liệu có phải bên trong có hiểu lầm gì không?” Hiên Viên Bạt nhún vai, ra vẻ thản nhiên đáp: “Dẫu sao Ngọc sơn cũng là nơi tràn trề linh khí, bao nhiêu con em Thần tộc mong tới còn chưa được, muội bỗng dưng được cho không một trăm hai mươi năm, toàn đóng cửa tu luyện thôi.” Vân Tang thông tuệ, thừa biết bên trong ắt có ẩn tình, có điều giờ lòng nàng đang ngổn ngang tâm sự, Hiên Viên Bạt đã không nói, nàng cũng chẳng bụng dạ nào mà gặng hỏi. Nhìn cảnh nước sâu thẳm, núi chót vót bày ra trước mặt, nàng không nén nổi tiếng thở dài, “Ta đang có chuyện buồn muốn tìm muội tâm sự đây.” Dứt lời, nàng lại làm thinh. Biết tính Vân Tang muốn nói thì sẽ nói, nếu không có hỏi cũng bằng thừa, Hiên Viên Bạt chỉ im lặng ngồi bên nàng. Hồi lâu Vân Tang mới lên tiếng: “Kể từ sau khi gặp Nặc Nại ở đây lần trước, chúng ta vẫn âm thầm qua lại với nhau.” Hiên Viên Bạt mỉm cười: “Muội đoán được từ lâu rồi.” “Nhị muội Dao Cơ sinh ra đã đau ốm, bao năm nay không rời giường bệnh, phụ vương chỉ một lòng lo lắng cho nó, để an ủi phụ vương đồng thời săn sóc Du Võng mồ côi mẹ từ lúc lọt lòng, ta đã phải gồng mình trưởng thành thật mau. Đôi khi Dao Cơ bị bệnh tật giày vò khổ sở muốn chết, phụ vương cũng đau đớn chẳng kém gì nó, ta lại trộm nghĩ, thà rằng… thà rằng Dao Cơ chết quách cho xong, giải thoát ình, cũng giải thoát cho tất cả chúng ta.” Hiên Viên Bạt lặng lẽ nắm chặt tay Vân Tang. Nàng nhớ mẹ mình vô cùng yêu thương Vân Tang, có lần bà từng than thở: “Con nha đầu này chưa làm nũng hay gây chuyện bao giờ, cứ như là trời sinh ra để làm chị cả chăm sóc các em ấy.” “Ba mươi năm trước, Dao Cơ cũng… cũng mất, phụ vương bệnh nặng nằm liệt giường, cơ hồ sắp theo Dao Cơ đi tìm mẫu thân, ta không rơi một giọt nước mắt, chỉ lo ngày đêm hầu hạ bên Người. Bệnh tình của Người lui dần, nhưng ta lại dần dần nhận ra mình không chịu nổi nỗi đau mất đi Dao Cơ, tuy Nhị muội có vẻ yếu ớt, nhưng mỗi lúc ta cần nhất, nó đều ở bên ta.” Vân Tang nhìn Hiên Viên Bạt, “Ta sinh ra trong vương thất, đã quá hiểu những thủ đoạn ngấm ngầm triệt hạ lẫn nhau, tính tình Du Võng lại nhu nhược nên có rất nhiều việc ta buộc phải cứng rắn. Đôi lúc mệt mỏi vô chừng mà chẳng có nổi một người bạn để thổ lệ tâm tình, ta chỉ biết ngồi thừ người ra đó. Mỗi lúc như vậy Dao Cơ lại tới ngồi sau lưng, gỡ tóc ta ra rồi dịu dàng chải lại, mùi thuốc tỏa ra từ người Nhị muội như an ủi vỗ về ta. Đêm hè, trong lúc ta tra cứu sách vở, Nhị muội thường quấn một tấm thảm ngồi bên cạnh thêu túi hương, mùa đông, Nhị muội không chịu được lạnh nhưng vẫn thèm chơi tuyết, lần nào như lần nấy đều ngồi trong nhà hé rèm nhìn ta và Du Võng nghịch tuyết, được chúng ta ột quả cầu tuyết, Nhị muội thích lắm, như được bảo bối vậy.” Bàn tay lạnh ngắt của Vân Tang run lên bần bật khiến Hiên Viên Bạt phải siết tay truyền hơi ấm và sức mạnh cho nàng, “Trong cung chẳng còn thoang thoảng mùi thuốc của Dao Cơ, ta đau đớn như chết cả cõi lòng nhưng ngoài mặt vẫn phải giữ vẻ thản nhiên, bệnh của phụ vương vừa khá lên, ta không dám khiến Người thương tâm thêm nữa. Nửa đêm dông gió, tiếng sấm sét làm ta giật mình tỉnh giấc, nhưng chẳng còn Dao Cơ ôm gối đứng ngoài rèm khẽ hỏi: ‘Tỷ tỷ, muội sợ lắm, uội ngủ với tỷ được không?’ Trước nay ta vẫn ngỡ là mình an ủi, bầu bạn cùng Nhị muội, ta bỗng thấy tiếng sấm thật là đáng sợ, mới hiểu ra, trong những đêm mưa gió đùng đùng ấy, không chỉ có ta che chở Dao Cơ, mà chính Dao Cơ cũng đã che chở cho ta. Trong đêm mưa gió, ta từ Thần Nông sơn lao tới tận biên thùy giáp Cao Tân tìm Nặc Nại đóng quân ở đó, lúc thấy ta xông vào trướng, chắc y đã được một phen hoảng hồn, dạo đó ta chỉ còn da bọc xương, mặt mày vàng vọt, lúc ấy lại vội vã xuống núi nên quần áo xộc xệch, đầu tóc bơ phờ, cả người ướt lướt thướt, hai chân đi đất.” Vân Tang nhìn Hiên Viên Bạt, mặt đỏ lên rồi lại tái đi, “Ta cũng chẳng hiểu nổi mình nữa, vừa trông thấy Nặc Nại, ta đã nhào vào lòng y khóc òa lên như tìm được chỗ dựa, có thể buông hết những gánh nặng trên vai xuống, từ nhỏ đến giờ, đó là lần đầu ta mất kiềm chế. Y cứ ôm lấy ta mặc cho ta khóc lóc, bao nhiêu nước mắt phải kìm nén từ sau khi mẫu thân qua đời ta đều trút hết ra, khóc mãi khóc mãi đến nỗi ngất xỉu.” Vân Tang đỏ bừng mặt hạ giọng: “Lúc ta tỉnh lại, y đã không còn trong trướng. Ta cũng chẳng còn mặt mũi nào gặp y, bèn lập tức quay về Thần Nông sơn. Rất lâu sau chúng ta không liên lạc, cũng chẳng nhắc lại chuyện đêm đó, xem như chưa xảy ra chuyện gì, y đối với ta rất thờ ơ, nhưng, nhưng…” Vân Tang lúng túng mãi không nói nốt được nửa câu “nhưng cả hai đều biết có gì đó đã xảy ra rồi.” Thần Nông và Cao Tân đều là Thần tộc từ thời thượng cổ, lễ nghĩa rất thủ cựu nghiêm ngặt, còn Hiên Viên lại khá phóng khoáng thoải mái đối với chuyện nam nữ, vậy nên thái độ của Hiên Viên Bạt và Vân Tang trước chuyện này khác nhau một trời một vực. Hiên Viên Bạt thấy đó là tình sâu nghĩa nặng, là chuyện hiển nhiên, nhưng Vân Tang lại lấy làm hổ thẹn, thấp thỏm lo lắng. Hiên Viên Bạt cười hỏi: “Tỷ tỷ, tỷ đã tiết lộ thân phận mình cho Nặc Nại chưa?” Vân Tang ủ rũ đáp, “Vẫn chưa. Ban đầu ta quá cẩn trọng, lại nghĩ thôi thì lỡ lầm cho lầm luôn, còn muốn thử thách nhân phẩm y trước đã, nhưng về sau chẳng hiểu sao càng lúc càng sợ thú thật, chỉ e y sẽ nổi giận rồi bỏ mặc ta. Ta định đợi cho đôi bên thân thiết hơn rồi nói, may ra y sẽ thông cảm, nhưng khi đã thân thiết ta lại lo sợ, mỗi lần định nói đều không thốt nên lời, sau đó lại xảy ra chuyện xấu hổ kia, y tỏ vẻ rất lạnh nhạt xa cách nên ta càng không tiện nói, cứ thế dùng dằng đến bây giờ, muội xem có cách gì không?” “Dù tỷ tên gì thì cũng vẫn là tỷ, không phải sao? Nói rõ là được mà.” “Giành được lòng tin rất khó mà hủy diệt thì dễ lắm, quan trọng không phải là dối gạt chuyện lớn hay nhỏ mà chính việc dối gạt đã là vấn đề. Cứ suy từ ta mà ra, nếu Nặc Nại cũng gạt ta như vậy, ta nhất định sẽ hoài nghi mọi lời y nói đều là giả dối. Nhìn y khiêm tốn ôn hòa như vậy nhưng còn trẻ đã nắm giữ binh quyền, chức vị lại cao, được Thiếu Hạo xem trọng, nhất định là tâm tư rất thâm trầm, giành được lòng tin của y hẳn là khó lắm, vậy mà ta lại, lại… gạt y.” Vân Tang rầu rĩ tự trách. Hiên Viên Bạt sửng sốt, lẽ nào mọi chuyện phức tạp vậy sao? Hồi lâu sau, nàng thở dài, đột nhiên cũng bắt đầu lo lắng. Tiệc Bàn Đào vẫn náo nhiệt như xưa, hết thảy khách khứa đều tụ họp bên bờ Dao trì, ăn uống no say, nói cười vui vẻ. Xi Vưu ngồi một lát rồi lẻn đi tìm Tây Lăng Hành. Hắn rảo bước qua ngàn dãy hành lang, trăm gian lầu gác, một dãy rồi một dãy, một gian lại một gian, càng gần tới chỗ nàng, bước chân hắn càng chậm lại. Hắn lần tới nơi nàng ở nhưng chỉ thấy vườn không nhà trống, gió nhẹ hiu hiu, chiếc chuông gió bằng răng thú dưới mái hiên khẽ tinh tang như một khúc ca dao xưa cũ. Xi Vưu ngơ ngẩn lắng tai nghe. Năm xưa lúc hắn mới làm xong, chiếc chuông gió này trắng muốt như ngọc, trải sáu mươi năm dầm mưa dãi nắng, nó đã ngả vàng. Hắn vòng qua gian nhà, đi thẳng vào rừng đào sau núi. Dưới ánh trăng, cỏ xanh mươn mướt, ngàn cây đào rực rỡ trổ bông, nom xa tựa ráng hồng lộng lẫy, nhìn gần lại thấy lả tả hoa bay. Lang điểu trắng muốt cao chừng một thước đậu trên ngọn cây, hồ ly to lớn, lông đen tuyền nằm dài trên bãi cỏ, thiếu nữ áo xanh tựa mình vào nó ngủ vùi, mặc cánh hoa rụng đầy lưng. Đột nhiên A Tệ ngẩng lên nhìn gã nam tử áo đỏ cao lớn khôi ngô vừa xuất hiện trong rừng đào đầy cảnh giác, còn Liệt Dương chỉ hé mắt liếc qua rồi uể oải nhắm mắt lại. A Tệ cùng Liệt Dương sớm tối bên nhau mấy chục năm, đôi bên đã hình thành cách giao tiếp riêng, thấy Liệt Dương như vậy, A Tệ cũng bớt cảnh giác, uể oải vùi đầu vào đám cỏ, hai tay bịt mắt tỏ ý: các người cứ tự nhiên, xem như không có ta. Xi Vưu rón rén, ngồi xuống bên Tây Lăng Hành. Thực ra Tây Lăng Hành không hề ngủ, Xi Vưu vừa tới nàng đã nhận ra ngay, nhưng cố tình vờ ngủ, nào ngờ tên Xi Vưu này bề ngoài nôn nóng nhưng thực chất rất kiên trì, cứ lẳng lặng ngồi đợi. Tây Lăng Hành không giả vờ nổi nữa bèn hơi nhỏm người dậy hỏi: “Sao ngươi không gọi ta? Nếu ta ngủ suốt đêm ngươi cũng đợi suốt đêm à?” Xi Vưu cười hì hì đáp: “Cô là vợ ngoan của ta, đợi cả đời cả kiếp cũng được, sá gì một đêm.” Tây Lăng Hành vung tay đấm hắn: “Ta cảnh cáo đấy, không được nói nhảm nữa, ta đâu phải vợ ngươi.” Xi Vưu giữ chặt tay Tây Lăng Hành, đăm đắm nhìn nàng, cười nói: “Cô không chịu làm vợ ta thì định làm vợ ai đây? Cô đã bị ngài Thú vương đây chấm làm vợ rồi, nếu kẻ nào lớn mật dám tranh đoạt, ta sẽ quyết đấu công bằng với hắn.” Xi Vưu vốn chẳng tuấn tú gì cho cam, nhưng ánh mắt hắn sắc sảo, giảo hoạt như loài thú hoang, ẩn sau vẻ ngoài thờ ơ là sức mạnh kinh người, khiến dung mạo hắn toát lên sức cuốn hút lạ lùng, hễ gặp một lần là nhớ mãi. Chẳng hiểu sao Tây Lăng Hành chợt thấy sờ sợ, không còn cảm giác thoải mái cười đùa mắng mỏ hắn như xưa nữa. Nàng liền vùng khỏi tay Xi Vưu, “Chúng ta đâu phải thú vật, quyết đấu gì chứ?” Xi Vưu cười phá lên: “Các con đực chỉ quyết đấu để giành quyền giao phối cùng con cái khỏe đẹp thôi, chứ còn cô…” Hắn nhìn nàng tặc tặc lưỡi rồi lắc đầu, tỏ ý chẳng con đực nào buồn ngó tới nàng hay giao phối cùng nàng cả. Câu nói của Xi Vưu quá đỗi thô thiển khiến Tây Lăng Hành ngượng đỏ cả mặt, bây giờ nàng mới hiểu tại sao người ta gọi hắn là súc sinh, liền bịt tai hét lên: “Xi Vưu, ngươi còn dám nói bậy ta sẽ không nghe nữa đâu đấy.” Ngắm Tây Lăng Hành thẹn quá hóa giận, Xi Vưu bỗng thấy mê mẩn cả tâm thần, dục vọng ban sơ nhất của giống đực rục rịch trào lên, hắn đột nhiên sán lại đặt lên môi nàng một nụ hôn. Tây Lăng Hành kinh ngạc đến đờ người, trợn trừng mắt nhìn Xi Vưu. Xi Vưu xưa này hành sự rất lão luyện dứt khoát nhưng đây là lần đầu kề cận phụ nữ, hơn nữa còn là người con gái mình hằng yêu thương, lòng hắn khó tránh khỏi bối rối, trái tim vững vàng bình thản ngay cả khi sống chết cận kề giờ đây lại đập rộn lên trong lồng ngực, ánh mắt chan chứa nhu tình. Chừng như còn thèm thuồng vị ngọt ngào khi nãy, Xi Vưu lại cúi xuống tham lam hôn Tây Lăng Hành, vừa hôn vừa vụng về quờ quạng, toan lấn lướt thêm chút nữa. Tây Lăng Hành sực tỉnh, vội cắn cho Xi Vưu một cái thật đau khiến hắn ré lên lùi lại, trợn mắt nhìn nàng, vừa ngượng ngùng vừa bối rối, hệt như một con thú nhỏ đang giận dữ. Tây Lăng Hành lạnh lùng mắng: “Mùi vị thế nào? Lần sau ngươi còn dám, dám… như vậy nữa, ta sẽ… không nể nang đâu!” Xi Vưu nhướng mày cười, lại biến thành Thú vương xảo quyệt tàn nhẫn, hắn giơ ngón tay quẹt máu trên miệng rồi thè lưỡi liếm mép, chăm chú nhìn bờ môi Tây Lăng Hành thật lâu như hồi tưởng tư vị khi nãy, lát sau mới lên tiếng đáp, không quên xuyên tạc câu hỏi của nàng: “Mùi vị tuyệt lắm!” Tây Lăng Hành giận đến nghiến răng nghiến lợi nhưng chửi không lại, đánh không được, đành quay người chạy ra khỏi rừng, căm hận ném lại một câu: “Ta không muốn gặp đồ khinh bạc vô sỉ nhà ngươi nữa! Từ giờ chúng ta cắt đứt liên lạc!” “Tốt quá tốt quá! Ta chán viết thư cho cô lắm rồi!” Tây Lăng Hành chạy thẳng không buồn ngoái lại, đột nhiên hai mắt nàng đỏ lựng cả lên, dù chính nàng cũng chẳng rõ mình bực bội chuyện gì nữa. Đêm đó, Tây Lăng Hành trằn trọc hoài không ngủ nổi, nghe tiếng chuông gió ngoài hiên cứ tinh tang mãi điếc cả tai, nàng bực bội tuột xuống giường, chạy lại bên cửa sổ, giật chuông gió quẳng đi. Bốn bề xung quanh đã yên tĩnh, nhưng nàng càng khó chịu hơn, cảm thấy mọi thứ im ắng đến rùng mình, nếu không có chiếc chuông gió kia bầu bạn mấy mươi năm nay, có lẽ nàng đã nghẹt thở mà chết vì sự tĩnh lặng của Ngọc sơn rồi. Một lúc lâu sau, nàng lại trở dậy nhìn đồng hồ nước, thấy mới tới canh hai, đêm nay sao mà dài đằng đẵng, nàng còn sáu mươi năm nữa, là bao nhiêu đêm đằng đẵng thế này đây? Tây Lăng Hành uể oải nằm xuống nhắm mắt, cố dỗ giấc ngủ, có điều vừa trở mình nàng đã thấy không ổn, vội mở bừng mắt, liền trông thấy Xi Vưu đang nằm bên mép giường, một tay chống đầu, tay kia giơ chiếc chuông gió vừa bị nàng quẳng đi khi nãy, cười hì hì nhìn nàng. Tây Lăng Hành quá đỗi kinh ngạc chỉ biết ngây người ra nhìn hắn, lát sau mới lấy lại được phản ứng, vội vận đủ mười phần linh lực tấn công Xi Vưu, những mong đập chết tên vô lại coi trời bằng vung này cho hả! Xi Vưu chẳng buồn động tay đã nhẹ nhàng hóa giải được đòn tấn công của nàng, còn giở giọng trêu chọc: “Sao nha đầu bừng bừng sát khí thế?” Trong lúc hắn nói, trên giường bỗng mọc ra mấy sợi dây leo xanh mướt, trói chặt lấy tứ chi nàng. Biết linh lực đôi bên chênh lệch quá xa, bản thân mình đấu không lại Xi Vưu, Tây Lăng Hành lập tức thay đổi sách lược, hét lớn: “Cứu mạng, cứu mạng…” Xi Vưu chống má ung dung nhìn nàng, cười thích thú như đang đợi để thưởng thức sự ngốc nghếch của nàng, xem xem mất bao lâu nàng mới phản kháng lại được. Hắn đã dám đến, đương nhiên nào có sợ gì. Sực hiểu ra hắn đã hạ cấm chế, tiếng hét trong này chẳng thể truyền ra ngoài, nàng liền im bặt, nghiêm mặt lạnh lùng hỏi: “Ngươi muốn làm gì đây?” Xi Vưu cười cười ngồi dậy cởi đồ ra, Tây Lăng Hành tái mặt, vẻ trấn tĩnh vờ vịt nãy giờ biến mất, cặp mắt nàng hằn nét kinh hoàng: “Ngươi dám!” “Ta không dám à? Khắp thiên hạ chỉ có chuyện ta không muốn, chứ nào có chuyện ta không dám!” Hắn thản nhiên giơ tay cởi y phục của nàng, vẻ mặt tàn nhẫn vô tình. Ánh mắt Tây Lăng Hành đầy khổ đau thất vọng, nàng gằn từng tiếng: “Tuy hiện giờ ta chẳng cách nào kháng cự nổi ngươi, nhưng ngươi hãy nhớ lấy, trừ phi ngươi giết luôn ta, bằng không sẽ có ngày ta đập nát xương ngươi.” Xi Vưu cười phá lên, lập tức dịu ngay nét mặt, vỗ vỗ má nàng: “Đùa với cô vui ghê, mới giỡn tí đã giận đùng đùng lên rồi, cô tưởng ta định làm vậy với cô thật sao?” Tây Lăng Hành bị quay mòng mòng, chỉ biết ngớ ra nhìn Xi Vưu, mặc hắn khoác áo lại rồi ngả người nằm xuống bên cạnh, cười hì hì nhìn nàng, “Các người chớ tưởng thú vật là man rợ, khi muốn giao phối, con đực không thể cưỡng ép mà phải nài nỉ để con cái chấp thuận, giữa đôi bên là tự nguyện cả đó.” Tây Lăng Hành đỏ mặt lườm hắn: “Ngươi đã, đã không phải… nửa đêm còn mò vào phòng ta làm gì?” “Ta muốn đưa cô đi.” Thấy Tây Lăng Hành ngơ ngác, Xi Vưu liền giải thích: “Chẳng phải ta đã bảo ta chán viết thư cho cô lắm rồi sao? Để khỏi phải viết thư nữa, ta sẽ đưa cô xuống núi.” “Nhưng ta còn phải chịu phạt sáu mươi năm nữa.” “Hừ, ta ngỡ cô chịu hết nổi từ lâu rồi chứ, lẽ nào cô ở đây mãi sinh nghiện à?” “Đương nhiên là không, nhưng…” “Sao lắm nhưng với nhị thế? Dù Thần tộc các người sống dai nhưng cũng chẳng nên phí hoài thời gian thế này, chẳng lẽ cô không nhớ những ngày tháng tự do tự tại khi trước sao?” Tây Lăng Hành nín lặng hồi lâu, đoạn hỏi: “Vậy còn A Tệ với Liệt Dương làm sao đây?” “Ta đã bàn bạc với chúng rồi, trước tiên cả hai sẽ yểm trợ cho chúng ta, đợi chúng ta xuống núi an toàn, Liệt Dương cùng A Tệ sẽ tìm tới sau.” Xi Vưu vuốt tóc nàng, “A Hành, mặc kệ cô có nhận lời hay không ta cũng quyết định rồi, ta sẽ đánh ngất rồi giấu cô trong đội xe của mình, chừng nào từ biệt Vương Mẫu thì đem theo cô xuống núi luôn. Nếu sau này xảy ra chuyện gì cũng là do Xi Vưu ta làm, không liên quan gì tới cô cả.” Tây Lăng Hành lạnh lùng hỏi: “Ngươi đã có bản lĩnh này, sao sáu mươi năm trước không làm đi?” Xi Vưu cười không đáp, “Cảm ơn cô đã tặng áo.” “Đó là ta nhờ Tứ ca mua giùm, ngươi muốn cảm ơn thì đi mà cảm ơn Tứ ca ta ấy.” Tây Lăng Hành lườm hắn rồi nhắm nghiền mắt lại. Xi Vưu dỗ dành, “Cô cứ ngủ đi, đến khi nào đánh ngất cô, ta cũng đỡ phải gọi.” Tây Lăng Hành càng nghe hắn nói càng tức anh ách, chẳng biết đốp lại thế nào. Xi Vưu búng tay tách một tiếng, đột nhiên trên thân leo trói chặt cổ tay Tây Lăng Hành chợt nhú lên từng nụ hoa trắng muốt lẫn trong đám lá xanh um, sau đó nở xòe thành từng đóa hoa nho nhỏ, tỏa hương thơm ngát, ru nàng vào giấc ngủ. Tây Lăng Hành thiếp đi giữa hương hoa ngan ngát. Tỉnh lại, nàng nhận ra mình đã không còn nằm trên giường, mà đang ở trong một cỗ xe dát vàng khảm ngọc. Dẫu biết chắc Xi Vưu đã hạ cấm chế, nàng vẫn cẩn thận thu lại khí tức rồi mới khẽ khàng vén rèm trông ra. Phần lớn các tộc đều đã được cung nữ đưa xuống núi, chỉ còn Tam đại Thần tộc do Vương Mẫu đích thân đưa tiễn, bấy giờ đang thi lễ cáo biệt trước đại điện. Vương Mẫu lần lượt từ biệt Thần Nông tộc, Cao Tân tộc, Hiên Viên tộc, các thần đang chuẩn bị lên đường chợt nghe thấy giữa trời vang lên mấy tiếng chim kêu lảnh lót, dường như có người tới gõ cửa, phá vỡ bầu không khí yên tĩnh của Ngọc sơn. Vương Mẫu tắt hẳn nụ cười. Đã mấy ngàn năm nay, chẳng thần tiên yêu quỷ nào không mời mà dám đến gõ cửa nơi này cả, “Kẻ nào dám tự tiện xông vào cấm địa Ngọc sơn?” Giọng nói uy nghiêm của Vương Mẫu vang lên tận mây xanh rồi lại từ mây xanh dội xuống, ầm ầm rền vang như sấm, chấn động cả đất trời. Đám nô bộc các tộc chịu không nổi, bưng tai đau đớn lăn lộn dưới đất, bấy giờ mọi người mới thật hiểu sự đáng sợ của Ngọc sơn. “Vãn bối Cao Tân Thiếu Hạo, mạo muội cầu kiến Ngọc sơn Vương Mẫu.” Giọng nói trong trẻo như phượng hót vang lên tự nhiên mà êm ái như gió cuốn mây trôi, mưa tưới sen hồng, thoạt nghe ôn hòa nhã nhặn, cả đám nô bộc đang lăn lộn dưới đất bỗng thấy tim đập chậm lại, mọi đau đớn thoắt tan đi hết. Một ngàn chín trăm năm trước, Thiếu Hạo một mình bức lui mười vạn đại quân Thần Nông, công thành lại rũ áo ra đi, chẳng cậy công, không kiêu ngạo, thế nên bấy nhiêu năm đằng đẵng, dù Nhân tộc chỉ còn mang máng nhớ nhưng cả Thần tộc chẳng ai không biết tới y. Hai tiếng “Thiếu Hạo” có một ma lực mãnh liệt, cả Ngọc sơn tức thời im phăng phắc, mấy cỗ xe đang lăn bánh trên sườn núi cũng dừng cả lại, ai nấy đều muốn chiêm ngưỡng phong thái của y. Vương Mẫu hơi dịu giọng, “Ngọc sơn không can dự vào chuyện phân tranh của thế gian, không biết ngươi có chuyện gì đây?” “Vị hôn thê của vãn bối là Hiên Viên Bạt bị giam tại đây, vãn bối vì nàng mà tới.” Hai đại tộc Cao Tân và Hiên Viên đặt cạnh nhau quả nhiên uy thế không vừa, khắp trên dưới Ngọc sơn bỗng xôn xao cả lên, người trong Thần tộc ai ai cũng xì xào to nhỏ. Vương Mẫu cau mày đáp: “Mời vào.” “Đa tạ.” Ngón tay Tây Lăng Hành nắm chặt song cửa đến trắng bệch ra, nàng tì người vào cửa sổ, chăm chắm nhìn lên không trung không chớp mắt. Đương lúc bình minh, mặt trời vừa ló rạng, ánh dương rực rỡ muôn màu bao trùm cả Ngọc sơn, nam tử bạch y[2] cưỡi trên lưng Huyền điểu đen tuyền, từ vầng sáng rạng ngời tỏa ngợp cả bầu không kia băng mây lướt gió bay lại, đáp xuống thềm ngọc ngay trước đại điện. [2] Ân Thương tự xưng là Tuấn Đế, cũng tức là hậu nhân của Thiếu Hạo. Nhà Thương coi chim là vật tổ, tôn sùng Huyền điểu, coi màu trắng là tôn quý nhất. Theo sách Hoài Nam Tử: “Lễ nghi thời nhà Ân, linh vị thổ thần là đá, thờ cúng môn thần, trước mộ người chết trồng tùng, lễ nhạc dùng cho tế tự là ‘Đại hoạch’ và ‘Thần lộ’, quần áo dùng toàn màu trắng.” Đoạn văn này lý giải tín ngưỡng của người Ân, bởi vậy, trong tác phẩm này Thiếu Hạo mới mặc áo trắng. Ánh dương lấp loáng chói mắt làm mờ cả gương mặt y, chỉ thấy một tà áo trắng bay bay theo gió. Y thong dong tiến về phía Vương Mẫu, tay áo bay bay, phong thái thoát tục, ánh mắt tươi tắn lướt qua khắp lượt các vị thần tiên, tựa như chào hỏi tất cả, lại tựa như chẳng nhìn thấy ai cả. Vương Mẫu chăm chú quan sát Thiếu Hạo, thầm sửng sốt. Người ta thường nói thưởng núi phải lên Bắc, ngắm sông phải xuôi Nam, nước Nam non Bắc là những thắng cảnh khác hẳn nhau, nhưng nam tử trước mặt đây vừa lạnh lùng hờ hững như dải núi phía Bắc gió tuyết liên miên, lại vừa ôn hòa nho nhã tựa dòng nước Giang Nam mênh mông mưa khói, lẽ nào trên đời có kẻ hội đủ thần thái của non cao nước biếc thế này ư? Thiếu Hạo tới trước mặt Vương Mẫu thi lễ, “Hôm nay vãn bối đến là muốn đón vị hôn thê Hiên Viên Bạt xuống núi.” Vương Mẫu nén kinh ngạc, cười nhạt, “Hẳn ngươi biết rõ nguyên do ta giam lỏng nàng ta, nếu ngươi muốn đón thì sáu mươi năm nữa hãy tới.” “Đúng là Hiên Viên Bạt đã sai, mạo phạm tôn nghiêm của Ngọc sơn, nhưng biết đâu nàng ta chỉ ham rong chơi, nửa đêm dạo tới Dao trì, xui xẻo đụng phải chuyện này thì sao? Dám hỏi Vương Mẫu có từng bắt được tang vật chứng minh Hiên Viên Bạt ăn trộm bảo bối hay chưa? Kẻo không một khi sự thật phơi bày, Ngọc sơn đã giam oan Hiên Viên Bạt một trăm hai mươi năm, e rằng khó tránh tổn hại đến uy danh Ngọc sơn!” Thiếu Hạo nói năng từ tốn nhưng lời lẽ sắc sảo, câu nào câu nấy đều nhằm trúng chỗ hiểm khiến Vương Mẫu nhất thời cứng họng. Chẳng để Vương Mẫu kịp nổi giận, y đã cung kính hành lễ, “Nói sao đi nữa cũng là tại Hiên Viên Bạt đã mạo phạm Ngọc sơn trước, Vương Mẫu phạt nàng ta đương nhiên có lý do. Hôm nay vãn bối tới đây thỉnh tội với Vương Mẫu, tuy vãn bối chưa thành hôn với Hiên Viên Bạt nhưng phu thê đồng thể, cái sai của nàng cũng là cái sai của vãn bối, hơn nữa vãn bối thân là nam nhi lại chưa làm tròn trách nhiệm chăm lo cho thê tử, khiến nàng phải chịu khổ, tội còn nặng hơn một bậc.” Vương Mẫu nghe y nói đến váng đầu hoa mắt, giận dữ cười nhạt, “À? Ra ngươi muốn ta trừng phạt ngươi chứ gì?” “Vãn bối chỉ có hai đề nghị.” “Nói.” “Xin Người giam vãn bối lại để vãn bối chịu thay Hiên Viên Bạt ba mươi năm.” “Còn đề nghị kia?” “Xin Vương Mẫu lập tức thả Hiên Viên Bạt, nếu sau này chứng minh được báu vật đúng là do nàng lấy đi, vãn bối thề sẽ trả nó lại cho chủ cũ, hơn nữa còn làm một việc cho Ngọc sơn vô điều kiện, xem như đền bù.” Người trong Thần tộc nghe nói đều thầm kinh ngạc, dù báu vật bị mất quý giá đến đâu chăng nữa, chỉ cần một lời thề này của Cao Tân Thiếu Hạo cũng đủ đền bù, hơn nữa chẳng đủ chứng cứ, lại đã trừng phạt sáu mươi năm, Thiếu Hạo còn khẩn khoản nài xin như vậy, Vương Mẫu không chịu thả Hiên Viên Bạt thì quả có phần quá đáng. Vẻ mặt Vương Mẫu vẫn lạnh băng, “Nếu ta không chấp thuận cả hai thì sao?” Thiếu Hạo cười đáp, “Vậy vãn bối đành ở lại đây bầu bạn với Hiên Viên Bạt tới khi nào nàng được xuống núi thôi.” Câu này của Thiếu Hạo rất cung kính nhưng lại ép cho Vương Mẫu không còn đường chọn lựa, nếu không chấp thuận, bà sẽ mang tiếng là con người không thông tình lý. Vương Mẫu giận đến nỗi tay run bần bật, ai chẳng biết Ngọc sơn không chứa chấp nam tử, nếu đổi lại là cao thủ nào khác của Thần tộc, hẳn bà đã đá bay xuống núi từ lâu, nhưng đây lại là Cao Tân Thiếu Hạo, cánh chim hồng vừa xuất hiện đã vang danh suốt ngàn năm nên bà cũng không nắm chắc phần thắng. Vương Mẫu đưa mắt nhìn xa xăm, yên lặng ngẫm nghĩ. Thiếu Hạo cũng không vội, cứ làm thinh đứng đợi. Suy tính kỹ càng hồi lâu, Vương Mẫu dịu nét mặt cười nói: “Ngươi nói cũng có lý, nếu Hiên Viên Bạt chỉ vô tình mạo phạm thì giam cầm sáu mươi năm là đủ rồi, còn nếu nàng ta cố ý, sau này ta sẽ tìm tới ngươi đó.” Đoạn bà ngoảnh lại bảo thị nữ, “Mau đi mời Hiên Viên Bạt, nói rằng nàng ta có thể xuống núi được rồi, dặn nàng ta mang theo hành lý đến luôn thể.” Thiếu Hạo vội mỉm cười thi lễ, “Đa tạ Vương Mẫu.” Ngồi trong xe, Tây Lăng Hành sững người. Một chuyện ầm ĩ như vậy mà Thiếu Hạo chỉ dăm câu ba điều đã giải quyết ổn thỏa ư? Trước khi Vương Mẫu phát hiện thấy nàng mất tích, nhất định nàng phải thoát khỏi đây mới được. Nàng vô tình nhìn về phía bóng áo đỏ, nào ngờ Xi Vưu cũng đang chòng chọc nhìn mình, ánh mắt lạnh buốt đầy những kinh ngạc, nghi ngờ, căm giận, thậm chí còn thấp thoáng một tia hy vọng, như mong mỏi nàng lên tiếng thanh minh rằng mình không phải Hiên Viên Bạt mà chỉ là Tây Lăng Hành. Chẳng hiểu sao lòng Tây Lăng Hành chợt nhói đau, nàng định tìm lời giải thích nhưng mấp máy môi mấy lần đều bất lực, đành hổ thẹn cúi gằm mặt xuống. Tây Lăng Hành vừa đưa tay toan vén rèm lên thì xoạch một tiếng, sợi dây leo xanh mướt đã kéo sập rèm lại, hai tay nàng bị dây leo quấn chặt, càng cố giằng ra thì càng bị siết chặt hơn, không sao thoát nổi. Nhưng Tây Lăng Hành nhất định phải thoát khỏi đây trước khi thị nữ quay lại, nàng vừa gắng sức rút tay ra, vừa ngẩng đầu nhìn Xi Vưu cầu khẩn. Mặt Xi Vưu trắng bệch, cả người cứng đờ nhưng vẻ mặt vẫn trơ trơ như gỗ đá, chỉ có đôi mắt chằm chặp nhìn nàng. Tây Lăng Hành cắn môi gắng rút tay ra nhưng mấy sợi dây leo càng trói càng chặt, thấy thời gian cứ vùn vụt trôi đi, nàng đành nghiến răng lấy chưởng làm đao chặt đứt dây leo, nhảy xuống xe, chạy về phía Thiếu Hạo. Trông thấy nàng, Thiếu Hạo mỉm cười, vừa rảo bước tiến lại, vừa dịu dàng giới thiệu: “A Hành, ta là Thiếu Hạo.” Trông thấy Thiếu Hạo xuất chúng ngời ngời, nàng vô cùng mừng rỡ, nhưng dường như trái tim nàng đã bị những sợi dây leo kia quấn chặt, chỉ trong thoáng chốc, lại bị chúng siết cho đau nhói. Nàng vội nói với Thiếu Hạo: “Chúng ta xuống núi thôi.” “Ừ!” Thiếu Hạo lẹ làng chìa tay ra, nàng thoáng do dự rồi nắm chặt lấy tay y. Thiếu Hạo kéo nàng nhảy lên lưng Huyền điểu, lập tức Huyền điểu vỗ cánh bay lên, y đứng giữa chừng không chắp tay hành lễ cùng Vương Mẫu: “Đa tạ Vương Mẫu giúp đỡ, vãn bối xin cáo từ.” Huyền điểu dang cánh bay đi, Tây Lăng Hành ngoảnh lại thấy Xi Vưu đang đứng bất động dưới gốc đào hoa rơi lả tả, ngẩng đầu nhìn mình đăm đắm, khóe môi mím chặt, ánh mắt lạnh lùng. Huyền điểu càng bay càng xa, nhưng tà áo đỏ kia vẫn đứng yên tại chỗ, đỏ đến nhức nhối cả mắt. Mong rằng Xi Vưu sẽ hiểu cho nỗi khổ tâm của nàng mà đừng oán đừng giận, nhưng nếu hắn không hiểu thì sao? Có lẽ bọn họ chẳng nên dây dưa với nhau nữa, dù sao thì tên thật của nàng cũng là Hiên Viên Bạt. Chẳng biết bao lâu sau, A Hành mới sực nhớ đến người đang đứng cạnh, cũng là vị hôn phu của nàng, Cao Tân Thiếu Hạo. Nàng chẳng dám ngẩng lên, chỉ liếc thấy tà áo trắng của y bay phần phật trong gió, khiến nàng rối bời cả ruột gan. Từ khi hiểu chuyện, nàng đã bao lần băn khoăn không biết Thiếu Hạo dáng vẻ ra sao, mỗi lần thấy thế Tứ ca lại cười cười an ủi nàng, nói tất cả đàn ông trong thiên hạ đều phải tự thẹn vì không bằng Thiếu Hạo. Nghe vậy nàng cứ cho là Tứ ca thổi phồng, mãi đến giờ mới biết, Tứ ca chẳng phóng đại chút nào. A Hành im lặng, Thiếu Hạo cũng làm thinh. Bầu không khí yên lặng kéo dài khiến A Hành lúng túng, nàng định cảm ơn y một tiếng, bèn lấy can đảm ngẩng đầu lên, nào ngờ đập vào mắt nàng là một gương mặt nhợt nhạt, còn chưa kịp cất lời, thân mình Thiếu Hạo đã rớt khỏi lưng Huyền điểu mà rơi xuống, Huyền điểu ré lên một tiếng thảm thiết, lập tức nhao theo cứu chủ, A Hành cũng vận linh lực, vô số sợi tơ từ áo nàng bay ra, níu lấy Thiếu Hạo.
|
Huyền điểu chở hai người đỗ xuống một khe núi không biết tên, A Hành phẩy tay gọt phẳng một phiến đá thành chiếc giường rồi đặt Thiếu Hạo lên đó. Thiếu Hạo mạch tượng rối loạn, rõ ràng vừa bị thương. A Hành chỉ biết từ từ truyền linh lực của mình cho y để ổn định lại mạch tượng. Mãi đến chập tối, mạch đập của y bình ổn lại, nàng mới dám thở phào nhẹ nhõm, lau mồ hôi trán. Hèn chi nàng vừa nói đi là Thiếu Hạo đi ngay, té ra y sợ Vương Mẫu nhận ra mình bị thương. Nhưng trên đời này còn ai đủ bản lĩnh đả thương Thiếu Hạo đây? A Hành lo lắng nghĩ, hay tay ôm lấy chân, tì cằm lên đầu gối, chăm chú nhìn y. Thiếu Hạo dung mạo thanh nhã, duy chỉ có đôi mày nghiêm nghị như ngọn núi sừng sững vạn thước bên trời Bắc, cô đơn ngạo nghễ, lạnh lẽo thâm trầm. A Hành chợt nảy dạ tò mò, cặp mắt y phải thế nào mới trấn áp được dải núi nguy nga sừng sững đó nhỉ? Đúng lúc nàng đang muốn nhìn, Thiếu Hạo bỗng mở bừng mắt, chỉ thấy hai mắt y tựa đôi dòng sông trong veo lặng sóng, sâu thăm thẳm như dải nước xanh ngàn dặm phương Nam, có thần thái tiêu dao của hải âu sải cánh giữa biển mây, vẻ lãng đãng khi ngắm ráng chiều mà nghe trống dồn tiêu vắng, cái êm ái của lông vũ mướt xanh hay của vạt áo mỹ nhân đỏ thắm, giữa muôn trùng sóng nước mênh mang ấy, cả dãy núi chót vót vạn thước kia cũng uyển chuyển mà đắm mình hòa lẫn vào nhau. Bị Thiếu Hạo bắt quả tang đang ngắm y, A Hành đỏ bừng mặt, vội ngoảnh đầu quay đi. Thiếu Hạo chẳng màng tới thương thế bản thân, còn quan tâm hỏi: “Làm nàng giật mình ư?” Tây Lăng Hành khẽ đáp: “Đâu có.” “Ta gọi nàng là A Hành như mấy vị ca ca nàng được chứ?” “Vâng.” A Hành ngập ngừng giây lát rồi hỏi, “Ai đả thương chàng thế?” Thiếu Hạo trở mình ngồi dậy, “Là Thanh Dương.” A Hành kinh ngạc nhìn y, “Gì cơ? Là Đại ca thiếp ư?” Thiếu Hạo gượng cười, “Đại ca nàng đánh cuộc với ta, ai thua phải tới Ngọc sơn đón nàng.” A Hành dở khóc dở cười, té ra màn anh hùng cứu mỹ nhân đó đâu có phải vì người đẹp, hơn nữa chẳng để cho nàng ăn dưa bở, y đã phải vội vã thanh minh ngay. “Nàng bị giam cầm bao nhiêu năm như thế, có oán trách Đại ca không đoái hoài gì tới mình chăng?” A Hành làm thinh không đáp, quả thật sáu mươi năm nay, nàng đã vô số lần thầm oán Đại ca. “Biết nàng bị Vương Mẫu giam lỏng, mẫu hậu nàng giận tím mặt, viết thư nói với phụ vương nàng rằng nếu ngài không phái thuộc hạ đi đón nàng, bà sẽ đích thân lên Ngọc sơn đòi người, Thanh Dương phải giải thích rõ ngọn ngành, còn hứa sau sáu mươi năm nhất định sẽ đưa nàng về, mới xoa dịu được cơn giận của bà.” A Hành xưa nay cứ ngỡ mẹ mình nghiêm khắc bảo thủ, nào ngờ bà lại nuông chiều nàng đến thế, bất giác cay cay khóe mắt. Thiếu Hạo cười, “Thanh Dương để nàng ở lại Ngọc sơn sáu mươi năm đâu phải vì sợ Vương Mẫu mà chính vì thương thế của nàng đấy chứ. Lần trước nàng bị thương rất nặng, thủy linh của Quy khư chỉ giữ được mạng chứ không trị dứt được vết thương, ta đã phải cùng Thanh Dương đi khắp nơi lùng tìm linh đan diệu dược, nào ngờ cơ duyên xảo hợp, Vương Mẫu lại giam cầm nàng, Thanh Dương bèn quyết định tát nước theo mưa luôn. Ngọc sơn là thánh địa từ thời thượng cổ, linh khí rất hợp với nữ giới, trên núi lại có đào tiên ngàn tuổi, ngọc tùy vạn năm, vừa khéo điều dưỡng được thân thể của nàng.” Hóa ra là vậy! Hẳn Xi Vưu cũng vì thế mà sáu mươi năm sau mới tới đón nàng xuống núi. Nghĩ tới đây, nàng sững sờ chẳng thốt nên lời, lòng ngổn ngang trăm mối. Thiếu Hạo cười nói: “Nếu không vì thế, Tứ ca nàng đâu có chịu khoanh tay ngồi nhìn. Tuy Xương Ý tính nết ôn hòa nhưng rất mực cưng chiều em gái, dù Thanh Dương không ra tay, y cũng tự xoay xở nghĩ cách, chẳng hiểu sẽ gây ra những chuyện gì nữa.” A Hành nhoẻn miệng cười tươi rói, “Tứ ca hiền lắm, chẳng bao giờ gây chuyện đâu.” Thiếu Hạo lắc đầu cười, “Nàng chưa thấy Xương Ý nổi giận đấy thôi.” “Chàng thấy rồi ư? Sao Tứ ca lại nổi giận?” Tây Lăng Hành kinh ngạc hỏi. Thiếu Hạo đáp quấy quá: “Ta cũng chưa thấy, chỉ nghe nói thôi.” A Hành hỏi: “Bây giờ Đại ca thiếp đâu?” Thiếu Hạo cười đắc ý: “Hắn đánh ta bị thương thế này, ta đời nào để yên cho hắn? Hắn bị thương còn nặng hơn ta, chẳng cưỡi nổi tọa kỵ nữa, lại sợ bị phụ vương nàng phát hiện nên lấy cớ đi thăm mẫu hậu, chuồn về núi Hiên Viên dưỡng thương rồi.” A Hành hỏi: “Chàng bị thương thế này, sao ban sáng còn dám nói cứng với Vương Mẫu thế?” Ánh mắt Thiếu Hạo lóe lên ranh mãnh, “Việc binh chẳng nề gian trá, mà nói vậy cũng đâu phải là gạt Vương Mẫu! Nếu Vương Mẫu ra tay thật thì ta đánh bài chuồn, dù sao bà ta cũng chẳng thể xuống núi, không bắt được ta đâu!” A Hành ngớ người ra rồi phá lên cười. Thiếu Hạo vang danh thiên hạ hóa ra lại láu cá thế này ư! Những ngượng ngùng giữa đôi bên cũng theo tiếng cười mà tan đi cả. Đương lúc đêm hè tháng Sáu, muôn ngàn ánh sao nhấp nháy trên nền trời đen thăm thẳm như đứa nhỏ mê mải chơi trốn tìm, loài hoa dại không tên nở đầy sơn cốc, bông xanh bông vàng chen nhau, thỉnh thoảng trong rừng vang lên tiếng cú rúc thê lương khiến màn đêm đượm phần rùng rợn, gió đưa hương cỏ cây ngan ngát khắp nơi làm người ta nhẹ nhõm vô cùng. Thiếu Hạo đứng dậy định giục A Hành lên đường, nào ngờ nàng đã ngước lên khẽ năn nỉ: “Nán ngồi thêm lát nữa hãy đi được không? Sáu mươi năm nay thiếp mới lại được trông thấy quang cảnh này đó.” Thiếu Hạo không đáp, chỉ lặng thinh ngồi xuống, rút bầu rượu ra vừa ngắm sao vừa uống. A Hành chun chun mũi ngửi, nhắm nghiền mắt nói: “Đây là Điền tửu đất Điền.” Bình sinh Thiếu Hạo có ba tuyệt kỹ – rèn sắt, ủ rượu, gảy đàn, thấy A Hành ngửi hương đoán rượu, y liền nhận ra ngay đồng đạo, “Không sai, hơn hai trăm năm trước ta mất bao công sức mới moi được bí quyết này từ một người dân Điền đấy.” A Hành phụ họa: “Chín mươi năm trước thiếp qua đất Điền, lập tức mê tít rượu ở đó, nán lại cả năm trời vẫn chưa đã thèm, hùng tửu thì nồng đượm, thư tửu thì thanh khiết, uống riêng đã ngon, uống chung càng ngon hơn.” Thiếu Hạo ngẩn người, ngạc nhiên hỏi: “Hùng tửu? Thư tửu? Sao ta chưa từng nghe rượu cũng chia ra thư hùng[3] nhỉ?” [3] Hùng, thư: chỉ giống đực và giống cái. (ND) A Hành cười đáp: “Thiếp tới đất Điền mới hay rượu cũng phân thư hùng đấy. Một cô gái rất giỏi nghề ủ rượu kể với thiếp rằng tổ tiên cô ấy vốn chỉ là một tiều phu đốn củi trong núi, tính mê rượu nhưng nhà nghèo chẳng có tiền mua nên cứ đau đáu nghĩ cách cất rượu từ cây cỏ hoa trái trên núi. Có chí thì nên, một hôm ông ta nằm mơ thấy cách cất rượu, cất được loại rượu ngon, chẳng những đậm đà thơm ngát mà còn bổ thân dưỡng thể. Ông ta dâng rượu lên Điền vương, được Điền vương hết lòng sủng ái. Nào ngờ long ân dồi dào lại khiến cho người ngoài ghen ghét, chúng dùng đủ cách đoạt lấy bí quyết cất rượu nhưng ông ta vẫn giữ kín như bưng. Về sau ông ta gặp một cô bán rượu, cũng rất giỏi nấu rượu, đôi bên kết thành vợ chồng ân ân ái ái, mấy năm sau sinh được một trai một gái. Ông ta tiết lộ cho vợ cách nấu rượu, bà vợ dựa theo đó nấu ra một loại rượu khác, hai loại rượu cùng một xuất xứ nhưng một cương một nhu, một nồng đượm một thanh khiết, vợ chồng họ nhờ rượu mà quen nhau, nhờ rượu mà thành hôn, lại cũng nhờ rượu mà khăng khít bền lâu. Đương lúc họ hạnh phúc vẹn tròn thì có kẻ dâng lên đại vương thứ rượu hệt như của họ nên dần dần họ bị thất sủng, còn bị người ta hãm hại, cả nhà rơi vào hiểm cảnh. Ông chồng nghi ngờ bà vợ phản bội mình, bà ta không sao biện bạch, đành tự vẫn ngay trước vò rượu đang ủ, lấy cái chết tỏ lòng mình, máu biếc bắn đầy lên vò khiến đất vàng bịt miệng vò bị nhuộm đỏ thắm. Hạn dâng rượu lên đại vương đã cận kề, ông ta chẳng kịp ủ vò rượu mới, đành đem vò rượu đó dâng lên, nào ngờ đại vương uống xong vô cùng thích thú, nhờ đó mà bảo toàn được tính mệnh cả nhà, nhưng chẳng ai biết được vợ ông ta có tiết lộ bí quyết hay không nữa. Trải qua chuyện này, ông ta nguội lòng nản chí, bèn ẩn cư nơi hoang dã, cả đời không tục huyền, nhưng cũng không cho phép mai táng vợ trong phần mộ của gia tộc. Lúc thiếp gặp cô gái ủ rượu kia tại một quán rượu nơi thôn dã, câu chuyện đó đã trôi qua cả trăm năm, theo lời cô ấy, trước lúc lâm chung, bà cô ta vẫn khăng khăng với con gái rằng: ‘Không phải mẹ làm đâu.’ Vì bà cô ta, mẹ cô ta đã phải tủi hổ suốt đời trong dòng tộc, bị nhà chồng ruồng rẫy, nhưng vẫn ra sức giữ bí quyết mà mẹ mình truyền lại, bởi bà ta hiểu bí quyết cất rượu chính là kết tinh tâm huyết cả đời của người ủ rượu.” Thiếu Hạo chăm chú lắng nghe, ánh mắt thoáng vẻ bi ai. A Hành kể tiếp: “Thiếp nghe cô ta thuật lại chuyện đó bèn nảy dạ tò mò, dùng linh lực tra xét khắp nơi, cuối cùng tìm được hậu nhân một nhà khác cũng có bí quyết kia.” “Nàng tra được chân tướng rồi sao?” “Quả không phải người đàn bà thông tuệ khéo tay kia tiết lộ, mà là đứa con nhỏ lanh lợi của nhà đó. Lúc vợ chồng họ ủ rượu, cho rằng đứa con nhỏ dại chưa hiểu chuyện nên chẳng hề giấu giếm, nào ngờ thằng nhỏ rất giỏi bắt chước, lại theo nòi cha mẹ, lúc những trẻ khác còn vầy đất nghịch cát, nó đã biết lấy vò lấy lọ đựng cây cỏ học theo cha mẹ cất rượu. Tuy nó chỉ nghịch chơi nhưng lọt vào mắt một tay cất rượu nhà nghề, hắn chỉ cần đào sâu nghiên cứu là tìm ra bí quyết đó ngay. Sau khi bà ta tự vẫn, tuy tay cất rượu kia được vinh hoa phú quý cả đời nhưng lúc nào cũng thấp thỏm không yên, trước lúc lâm chung bèn thuật lại chuyện này cho con cháu.” Nguồn ebook: .luv-ebook Thiếu Hạo thở dài hỏi: “Về sau thì sao?” “Cô gái kia cảm kích thiếp giải giúp mối oan bèn tặng lại bí quyết đó cho thiếp, có điều thiếp chỉ biết uống chứ nào biết cất rượu, có cũng vô ích, để thiếp chép cho chàng.” “Ta không hỏi cái đó, ta hỏi thi hài của người phụ nữ kia cơ? Chẳng phải nàng nói bà ta bị chôn ngoài đồng hoang đấy sao?” A Hành liếc nhìn Thiếu Hạo, chợt thấy ấm lòng, y mê rượu nhường ấy mà vẫn lo tới người phụ nữ kia, không hề chăm chăm nghĩ tới bí quyết ủ rượu, bèn đáp: “Bọn họ đã tới bái tế trước phần mộ tổ tiên, kể rõ đầu đuôi câu chuyện rồi dời hài cốt bà ta vào phần mộ tổ tiên, kể rõ đầu đuôi câu chuyện rồi dời hài cốt bà ta vào phần mộ dòng họ, tuy nhiên không hợp táng cùng chồng mà chôn bên cạnh con trai con gái mình.” Thiếu Hạo gật đầu rồi lại dốc bầu tu một hớp, “Chắc đây là hùng tửu?” “Vâng. Dòng họ đó lấy làm hổ thẹn vì người phụ nữ kia nên không cất thư tửu, bởi vậy chẳng ai hay trên đời từng có một người phụ nữ ủ được thứ rượu ngon tuyệt trần, may mà con gái bà ta vẫn lén giữ lại được bí quyết này. Có điều nếu hiện giờ chàng qua đất Điền, có thể được nếm thư tửu rồi.” Thiếu Hạo nghiêng bầu rót rượu xuống đất rồi nói với hư không: “Cùng nghề cất rượu, xin được kính cô nương một chén từ xa, cảm tạ cô đã để lại thư tửu đất Điền cho gã tửu khách như ta.” Y lại trao bầu rượu cho A Hành, “Cũng cảm tạ nàng đã để gã tửu khách là ta có cơ hội được nếm rượu của cô ấy.” A Hành chẳng nề tiểu tiết, mỉm cười nhận lấy, hào sảng ngửa cổ tu một hớp, rồi trả lại cho Thiếu Hạo, “Rượu ngon, có điều ít quá.” “Nhìn bầu rượu bé thế thôi, bên trong không ít đâu, bảo đảm đủ cho nàng say.” A Hành liền giật bầu rượu lại, “Vậy thiếp chẳng khách sáo nữa đâu.” Nói rồi nàng tu liền ba ngụm, lim dim mắt rồi từ từ thở ra một hơi, mặt đỏ bừng ngây ngất. Thiếu Hạo nhìn A Hành, ánh mắt thấp thoáng nét cười, “Tiếc rằng ta đi vội quá, quên đem đàn theo mất rồi.” A Hành cười nói: “Mượn nhạc bồi rượu dĩ nhiên là thú vị, nhưng thiếp còn biết một cách khác, hay hơn cả đàn sáo nhã nhạc và người đẹp ca múa cơ.” “Cách gì thế?” “Kể chuyện. Chàng đã bao giờ vừa nghe chuyện vừa uống rượu chưa? Bôn ba mệt mỏi suốt dặm trường, được ôm bầu rượu ngon ngồi bên đống lửa giữa đồng hoang hay trên thuyền nhỏ cạnh bến sông, vừa uống vừa nghe mấy kẻ qua đường khề khà kể chuyện, bất kể là truyền kỳ ma quái hay là yên hận nhân gian, qua miệng họ đều thành ra vừa hấp dẫn vừa ấm cúng.” Thiếu Hạo bật cười, chừng như cảm động vì câu nói của A Hành, ánh mắt y chợt trở nên chứa chan hoài niệm, “Hơn hai ngàn năm trước, có lần ta lạc tới tận vùng cực Bắc, ngàn dặm tuyết bay, vạn tầng băng phủ, giá lạnh thấu xương, tối đến trên trời không một đốm sao, dưới đất cũng chẳng thấy ánh đèn, bốn bề tối đen như mực, ta một mình dẫn bước, đột nhiên lòng dâng lên một cảm giác lạ lùng, không phải sợ hãi, mà là… Dường như cả đất trời chỉ còn lại mình ta, tựa hồ gió tuyết sẽ gầm rít mãi chẳng ngừng, con đường này đi hoài đi mãi cũng không tới đích. Đương lúc ta lầm lũi lê bước, chợt trông thấy xa xa thấp thoáng ánh đèn, ta dõi mắt nhìn theo, liền trông thấy…” Thiếu Hạo nhìn A Hành, nuốt lại cái tên đã thốt ra tới miệng, kể tiếp, “Thấy một người thợ săn cáo tuyết đang trú trong căn lều băng được dựng vội vàng, vừa sưởi ấm vừa uống rượu. Được anh ta mời, ta liền bước vào ngồi xuống bên đống lửa, cùng anh ta uống thứ rượu dở tệ, nghe anh ta kể chuyện đi săn. Về sau mỗi khi ai đó hỏi ta thấy thứ rượu nào ngon nhất, chẳng hiểu sao ta đều nhớ tới bữa rượu đêm ấy.” A Hành cười nói: “Chuyện của chàng hay đấy, đáng để chúng ta cạn ba chung lớn.” Nàng uống liền ba hớp rồi lại đưa bầu rượu cho Thiếu Hạo. Tới lượt A Hành kể chuyện: “Năm đó, ta xuống núi chơi…” Dưới trời sao lấp lánh, Thiếu Hạo và A Hành sánh vai ngồi trên phiến đá, người này một ngụm, người kia một hớp, cùng thưởng thức hùng tửu đất Điền nồng đượm, kể cho nhau nghe hết chuyện này sang chuyện khác, Thiếu Hạo từng trải lịch lãm, A Hành tinh tế thông minh, đôi bên khi cười nói, lúc lại làm thinh ngắm sao trời, chớp mắt đã qua một đêm. Khi ánh bình minh rọi vào mắt hai người, A Hành nhoẻn miệng cười với tia nắng đầu ngày mỏng tựa cánh ve, thật khó tin rằng nàng lại cùng Thiếu Hạo chuyện gẫu thâu đêm, nhưng thực tình nàng thấy vui vẻ sáng khoái vô cùng. Bao năm nay, A Hành đã đặt bao kỳ vọng cùng âu lo vào hai chữ Thiếu Hạo, hơn nữa còn giấu kín không cho người khác biết, mỗi khi có ai nhắc tới nàng đều ra vẻ không màng, vậy mà sao bao nhiêu năm, hết thảy âu lo kỳ vọng ấy cuối cùng hóa thành một nỗi êm đềm từ sâu thẳm đáy lòng. Khác với nàng, giữa ánh nắng đầu ngày rực rỡ, cặp mắt Thiếu Hạo bỗng trầm xuống như vừa tỉnh mộng, nét cười trong mắt tắt lịm, nhưng khóe miệng lại tươi cười. Y mỉm cười đứng dậy, “Chúng ta lên đường thôi.” A Hành chăm chú nhìn y, cảm thấy con người này khác hẳn nam tử cùng mình uống rượu chuyện trò đêm trước. Thiếu Hạo đêm qua hệt như kẻ hiệp khách ngang tàng, ngẫu nhiên gặp gỡ bên bờ dương liễu, có thể cùng chuốc chén, nói cười, thù tạc, nhưng sáng nay dưới ánh mặt trời, y lại giống bậc vương giả cô đơn sải bước trên con đường trước điện, đầy ẩn nhẫn, lạnh lùng và thâm trầm. Nàng đành lặng lẽ theo sau y, đang định đặt chân lên lưng Huyền điểu, bỗng Thiếu Hạo ngước nhìn lên vách núi, cao giọng nói: “Các hạ quanh quẩn ở đó cả nửa đêm không đi, dám hỏi có chuyện gì đây?” Là Xi Vưu ư? Tim nàng nhảy thót lên tới cổ họng, vội rảo bước chen lên trước, nào ngờ kẻ từ trong núi đi ra lại là Vân Tang. A Hành kinh ngạc hỏi: “Sao tỷ lại ở đây?” Vân Tang cười đáp: “Ta có mấy câu muốn hỏi Thiếu Hạo điện hạ, ai ngờ mải nghe hai người trò chuyện, chẳng nỡ nào quấy nhiễu.” Thấy Thiếu Hạo nghi hoặc nhìn mình, A Hành vội giới thiệu: “Vị này là Đại vương cơ Vân Tang của Thần Nông.” Thiếu Hạo tươi cười hành lễ, “Chẳng hay vương cơ muốn hỏi chuyện gì?” Vân Tang đáp lễ nhưng do dự mãi chẳng thốt nên lời, dáng vẻ vô cùng bối rối. Thấy vậy, Thiếu Hạo động viên, “Vương cơ yên tâm, chuyện này nàng nói ta nghe, rời khỏi đây ta sẽ quên đi ngay.” Vân Tang vội đáp, “Phụ vương rất hiếm khi khen ngợi ai, nhưng lại hết lời ca tụng điện hạ cùng Thanh Dương. Không phải tôi không tin điện hạ, chỉ là chuyện này nói ra quả có chút thất lễ.” “Xin vương cơ cứ nói.” “Trên Ngọc sơn, tôi có nghe nói điện hạ đã giam cầm Nặc Nại, chẳng rõ vì nguyên cớ gì? Nếu liên quan tới quốc sự Cao Tân thì xem như tôi chưa hỏi, nhưng nếu là việc riêng thì xin điện hạ cho tôi hay, biết đâu bên trong có chút hiểu lầm mà tôi giải quyết được chăng?” Thiếu Hạo liền đáp: “Thật không dám giấu, quả là việc riêng.” “A…” A Hành kinh ngạc bưng miệng nhìn Vân Tang rồi lại nhìn sang Thiếu Hạo. Lẽ nào y đã biết “vương cơ Hiên Viên” cùng Nặc Nại… Thiếu Hạo nói tiếp: “Ta và Nặc Nại quen nhau từ nhỏ. Dù Cao Tân lễ giáo nghiêm ngặt nhưng y dung mạo tuấn tú, khó ngăn được các cô nương trẻ trung nhiệt tình đem lòng ngưỡng mộ, có điều y vẫn giữ đúng phép tắc, chưa từng vượt qua quy củ. Chẳng hiểu sao mấy năm gần đây lại thay đổi tâm tính, phong lưu đa tình, gây ra không ít điều tiếng. Tình cảm nam nữ là việc riêng tư, đáng ra chẳng nên hỏi tới, nhưng nghĩ tình thân thiết nên thường cũng bóng gió nhắc nhở, khuyên nhủ đôi câu, tiếc rằng càng nói y càng phóng túng hơn. Nặc Nại xuất thân từ Hy Hòa bộ, một trong Cao Tân tứ bộ[4], rất nhiều nhà quyền quý muốn gả con gái cho y, ấy vậy mà trong một lần say rượu, y lại hồ đồ đáp ứng việc chung thân.” [4] Theo sách vở ghi lại thì bộ tộc của Thiếu Hạo chia ra làm bốn bộ: bộ Thanh Dương, bộ Hy Hòa, bộ Bạch Hổ, bộ Thường Hy, trong sách này đổi bộ Thanh Dương thành bộ Thanh Long, nguyên do thì sau này sẽ rõ. “Gì cơ? Y đã đính ước rồi ư?” Sắc mặt Vân Tang thoắt chốc tái nhợt. “Đâu chỉ là đính ước, mà còn sắp tới ngày cưới nữa kia. Nghe nói vương cơ học rộng hiểu nhiều, hẳn cũng biết quy củ hôn phối của Cao Tân rất nghiêm ngặt, tuy Nặc Nại say rượu hứa bừa nhưng hôn nhân đại sự chẳng phải chuyện chơi, y không thể nuốt lời được. Bởi thế hằng ngày y cứ vùi đầu trong rượu, say tràn cung mây, mặc cho người ta sắp xếp, thậm chí còn lè nhè cười khuyên ta nên sớm thành thân, dặn ta nhớ chăm lo cho thê tử thật tốt, có điều ta thấy thực lòng y không muốn cưới đối phương, đành phải gán đại cho y một tội danh, đem nhốt vào thiên lao, ít ra cũng hoãn được hôn sự của y lại.” Ánh mắt Vân Tang lộ rõ vẻ hoảng hốt, vội gượng gạo hỏi: “Cô gái đó là ai vậy?” “Chuyện liên quan tới danh dự của cô ấy, càng ít người hay càng tốt nên không tiện nói rõ, mong vương cơ bỏ quá cho.” A Hành tức tối hỏi: “Sao lại thế được? Nặc Nại hồ đồ, lẽ nào gia đình kia cũng hồ đồ nốt, coi lời nói lúc say của y là thật ư? Vân Tang tỷ tỷ, chúng ta đi Cao Tân nói rõ với bọn họ!” Thiếu Hạo liếc A Hành, làm thinh không nói. Vân Tang gượng cười, nhưng nhìn còn thảm hơn cả khóc, “Đâu có hồ đồ, gia đình họ quá khôn ngoan ấy chứ! Nặc Nại là tướng quân của Hy Hòa bộ mà họ cũng dám ‘bức hôn’, e rằng cô gái kia lai lịch chẳng phải tầm thường, không ở Thường Hy bộ thì ở Bạch Hổ bộ.” Nàng lại quay sang bảo Thiếu Hạo: “Điện hạ trì hoãn hôn sự, hẳn không chỉ vì nhận thấy y không muốn thành thân.” Thiếu Hạo mỉm cười, cũng không phủ nhận, “Xưa nay nghe đồn Đại vương cơ Thần Nông huệ chất lan tâm, thông minh cao khiết, quả nhiên danh bất hư truyền.” “Điện hạ có nắm chắc không?” “Lễ giáo quy củ của Cao Tân tích lũy từ cả vạn năm nay, quả thực ta chẳng lấy gì làm chắc cả, đành được đến đâu hay đến đó mà thôi.” “Hai người nói gì thế?” A Hành nghe cả hai nói chuyện cứ như vịt nghe sấm. Vân Tang từ biệt Thiếu Hạo, gọi tọa kỵ Bạch Thước[5] của mình tới, đoạn mỉm cười kéo tay A Hành, quay sang nói với Thiếu Hạo: “Tôi có chút chuyện riêng muốn nói với vương cơ.” [5] Bạch Thước, thời cổ còn gọi là bạch vũ thước (chim khách lông trắng), là loài chim lành, dáng vẻ đẹp đẽ, tính tình cao khiết, lông trắng muốt như tuyết. Thiếu Hạo khoát tay tỏ ý cứ tự nhiên rồi chủ động lánh đi. Còn lại hai người, Vân Tang dặn A Hành: “Muội đừng lo cho tỷ, chừng nào về Triêu Vân phong, nhớ thay tỷ hỏi thăm vương hậu nương nương.” “Tỷ tỷ…” A Hành lo lắng nhìn nàng. Từ nhỏ Vân Tang đã quen làm vẻ thản nhiên để che giấu nỗi buồn thương nên dù đau khổ thắt lòng, nàng vẫn bình tĩnh cười nói: “Ta không sao thật mà.” Nói rồi, nàng lại nhìn bóng Thiếu Hạo đằng xa, nói nhỏ: “Đừng cho Thiếu Hạo biết chuyện của ta và Nặc Nại nhé.” “Sao thế tỷ? Muội sợ Thiếu Hạo…” “Không đâu, Thiếu Hạo rất tốt, tốt vô cùng, có điều ta e rằng y quá tốt với muội thì phải! Muội nên để ý mọi chuyện một chút, câu gì có thể không nói thì đừng nói ra. Phải nhớ rằng sống trong vương tộc, rất nhiều chuyện thoạt nhìn có vẻ đơn giản, thật ra chẳng đơn giản chút nào đâu.” A Hành nghe hiểu láng máng, thoáng ngẩn người ra rồi khẽ hỏi: “Tỷ tỷ, Xi Vưu đã về Thần Nông chưa?” “Ta không biết. Lúc ấy ta canh cánh chuyện kia trong lòng nên cũng chẳng lưu ý, muội hỏi ta mới nhớ, tính nết Xi Vưu xưa nay nói dễ nghe thì là lãnh đạm, nói khó nghe thì là tàn nhẫn, chẳng màng tới chuyện gì, vậy mà hôm qua đột nhiên lại hỏi ta đủ chuyện về muội và Thiếu Hạo, nào là đính ước khi nào, tình cảm ra sao…” Vân Tang chăm chú nhìn A Hành, “Giờ đến lượt muội hỏi thăm hắn, không lẽ muội và hắn… có chuyện gì à? Ta còn không biết hai người quen nhau từ bao giờ nữa đó.” A Hành thở dài, “Nói ra thì dài lắm, trước đâu giấu giếm là vì sợ tỷ phạt hắn đấy thôi. Sau này từ từ muội sẽ kể với tỷ.” “Ta phạt hắn ư?” Vân Tang hừ một tiếng, cười khổ: “Tính hắn như thế, trời không ràng đất không buộc nổi, ai mà dám chọc vào? Hắn đừng làm phiền tới ta là ta đã tạ trời tạ đất rồi.” Dứt lời, Vân Tang bước lên lưng Bạch Tước, “Ta đi đây, ngày sau sẽ khảo tiếp chuyện của muội cùng tên ma đầu kia, nhưng ta nói muội nghe, gã Xi Vưu ấy không trêu vào được đâu, tốt nhất muội nên tránh xa hắn ra.” Nàng cười với A Hành rồi tha thướt bay lên. “A Hành, chúng ta cũng lên đường thôi.” Thiếu Hạo tươi cười chìa tay mời nàng ngồi lên lưng Huyền điểu, nhưng nụ cười ôn hòa mà khách sáo ấy lại khiến nàng thấy xa cách vô cùng, tựa vầng trăng trên trời vậy, dù sáng tới đâu cũng chẳng có nổi chút hơi ấm. A Hành bắt đầu cảm thấy mọi chuyện tối qua như một giấc mơ, Thiếu Hạo cùng nàng uống chung bầu rượu, nói cười tán gẫu thâu đêm dưới trời sao lấp lánh hình như cũng chỉ là tưởng tượng của nàng thôi. Dọc đường, cả hai đều yên lặng, mãi tới rạng sáng, khi về đến Hiên Viên sơn, Thiếu Hạo mới quay sang nói với nàng: “Ta chẳng có việc gì cầu kiến nên không tiện lên núi, chỉ đưa được nàng tới đây thôi.” A Hành khẽ đáp: “Đa tạ chàng.” Thiếu Hạo cười: “Cảm ơn nàng đã tặng ta bí quyết ủ rượu, lần sau có dịp, ta sẽ mời nàng uống thư tửu ta tự cất.” Nói rồi y ngẩng đầu nhìn lên núi: “Người hầu tới đón nàng rồi kìa, gặp lại sau nhé.” Vừa nói, y vừa cưỡi Huyền điểu bay vút đi. Xe mây đã đỗ xuống bên cạnh, đám thị nữ quỳ xuống mời vương cơ lên xe. A Hành cứ ngơ ngẩn như không nghe thấy, ngẩng đầu đăm đắm trông theo tà áo trắng càng lúc càng bay xa giữa ánh tà dương đỏ rực, dần dần chỉ còn lại một đốm trắng, rồi đốm trắng đó cũng tan vào ráng chiều rực rỡ, nhưng phong thái tựa nước Nam non Bắc của y vẫn như còn rành rành trước mắt nàng.
|
Q.1 - Chương 7: Một Đời Đẹp Nhất Khắc Này Thôi Xi Vưu đăm đăm nhìn nàng khẽ nói, như thầm thì, như than thở: “A Hành, ta không để cô lấy Thiếu Hạo đâu!” Nói rồi hắn nhoẻn miệng cười mãn nguyện, hệt như đứa trẻ giành được cây kẹo mình ao ước bấy lâu chẳng màng gì đến hậu quả sẽ bị sâu răng, cứ thế mà ngất đi trong lòng A Hành, nụ cười vẫn còn đọng trên môi. Hiên Viên sơn gồm bốn đỉnh Đông Tây Nam Bắc. Chính thất của Hoàng Đế là Luy Tổ, Nhị phi Ngôn Luy thị, Tam phi Đổng Ngư thị, Tứ phi Mô Mẫu thị mỗi người ngụ trên một đỉnh. Cao nhất là Triêu Vân phong ở phía Đông, nơi ở của Luy Tổ, đỉnh nút chót vót vươn tận mây xanh, cũng là nơi đầu tiên ở Hiên Viên được đón mặt trời lên. A Hành chưa bước xuống xe mây đã thấy Tứ ca Xương Ý đứng đón trước điện Triêu Vân, cứ ngong ngóng nhìn xuống núi. Sự quan tâm và trông đợi y dành cho nàng còn ấm áp hơn cả ánh mặt trời ban sớm. Chẳng đợi xe dừng hẳn, A Hành đã nhảy phóc xuống, lớn tiếng gọi “Tứ ca” rồi nhào vào lòng y. Xương Ý tươi cười vỗ vỗ lưng em gái, “Ta tưởng muội được Vương Mẫu rèn cặp, hẳn đã phải điềm đạm hơn rồi, sao vẫn lanh chanh thế?” A Hành cười hỏi: “Đại ca đâu? Mẹ đâu rồi?” “Mẹ đang quay xa trong điện còn Đại ca chẳng hiểu sao hôm trước vừa mới tới đã giam mình trong rừng dâu sau núi, không cho ai quấy rầy.” A Hành cười thầm, vừa theo Tứ ca vào điện vừa khẽ rỉ tai y: “Đại ca bị thương đó.” “Gì cơ?” Xương Ý kinh ngạc hỏi. “Để nhờ Thiếu Hạo đi cứu muội, chẳng hiểu Đại ca đã đánh cược gì với y khiến cả hai bên đều bị thương, tuy Đại ca thắng nhưng thương thế còn nặng hơn y nữa.” Nghe nói vậy, nét mặt Xương Ý mới giãn ra, y lắc đầu cười: “Hai bọn họ kẻ khôn khéo, người điềm đạm, thế mà mỗi lần gặp nhau cứ đánh lộn như con nít, đánh suốt mấy ngàn năm nay vẫn chưa chịu thôi.” Chính điện rộng thênh thang ngập tràn ánh sáng nhưng lặng ngắt như tờ. Tiếng chân hai người cứ vang vang trong điện khiến cả hai phải thu bớt khí tức, bước đi thật khẽ. Băng qua chính điện là tới thiên điện tranh tối tranh sáng, duy có song cửa rực nắng mai, một bà lão tóc bạc trắng đang ngồi đó quay xa dệt lụa, ánh nắng càng làm lộ rõ vẻ già nua. Nhìn mẹ rồi lại nhớ tới Vương Mẫu phơi phới múa giữa rừng đào, A Hành chợt thấy xót xa vô hạn, liền quỳ xuống cất tiếng: “Mẹ, con về rồi đây.” Luy Tổ dệt xong tấm vải, gác lại xa quay bảy sắc, đoạn ngẩng lên nhìn con gái. A Hành đột ngột lê gối lại bên bà, khẽ gọi: “Mẹ.” Luy Tổ thản nhiên hỏi: “Ta dệt cho con mấy bộ đồ để trong phòng con ấy, mấy hôm nữa chừng nào xuống núi nhớ đem theo.” “Cảm ơn mẹ.” A Hành cúi đầu nghĩ ngợi rồi nói: “Lần này con chưa định xuống núi, con định ở lại đây mấy năm.” Luy Tổ hỏi: “Sao thế?” “Con thấy mệt mỏi, muốn ở lại trên núi mấy năm.” Từ nhỏ tới lớn, lúc nào A Hành cũng nghĩ cách chuồn xuống núi, nhưng sống trên Ngọc sơn sáu mươi năm, nàng chợt nhận ra Triêu Vân phong cũng vắng vẻ quạnh hiu chẳng khác gì Ngọc sơn, một mình Luy Tổ sống ở đây hẳn rất cô độc, nên muốn ở lại bầu bạn bên bà. Luy Tổ quay sang bảo Xương Ý: “Con đi pha trà giùm ta.” Xương Ý thi lễ lui xuống. Luy Tổ đứng dậy bước ra ngoài điện. A Hành lặng lẽ theo sau. Phía sau Triêu Vân phong trồng đầy những dâu, cành lá xum xuê tươi tốt, dưới ánh nắng chói chang càng căng tràn nhựa sống, thoạt nhìn đã thấy tâm tình khoan khoái. Đột nhiên, Luy Tổ lên tiếng hỏi: “Suốt mấy trăm năm ta chưa từng tức giận, vậy mà sáu mươi năm trước lại nổi trận lôi đình, đến nỗi định xông lên Ngọc sơn đòi Vương Mẫu thả con ra, con có hiểu tại sao ta giận bà ta đến thế không?” A Hành đáp: “Vì người tin con không lấy thần binh của Vương Mẫu.” Gương mặt lạnh băng của Luy Tổ thoáng hiện nụ cười: “Không phải, đấy là Thanh Dương tưởng thế thôi, nó nói tầm mắt của con đời nào trộm được thần binh, giỏi lắm chỉ ăn cắp mấy quả đào là cùng.” A Hành đoán chắc hẳn mẹ mình có thù oán gì đó với Vương Mẫu, nhưng chẳng dám nói ra miệng, chỉ lễ phép đáp: “Thế thì con chịu.” Luy Tổ dừng bước, ngoảnh đầu trông về phía điện Triêu Vân, “Con là vương cơ Hiên Viên, sớm muộn gì cũng có ngày phải dọn tới sống trong một tòa cung điện thế kia, nhưng trước đó, ta muốn con được tận hưởng hết mọi tự do dưới gầm trời này cái đã. Ấy vậy mà Vương Mẫu lại ngang nhiên đoạt đi một trăm hai mươi năm quý giá nhất của con. Bà ta ở cái xó Ngọc sơn quỷ quái đó mấy ngàn năm nay, còn hiểu rõ hơn ta thứ trân quý nhất trên đời này là gì. Chính là niềm vui và tự do trong suốt một trăm hai mươi năm! Trên đời này có báu vật nào đổi lại được không? Hơn ai hết, bà ta thừa biết hình phạt đó tàn khốc thế nào, rành rành đã cướp đi thứ quý giá nhất của con, vậy mà còn làm bộ làm tịch nói là nể mặt ta.” Triêu Vân điện lầu son gác tía, bệ ngọc thềm lan, đẹp như tranh vẽ chìm giữa một vùng khói mây bảng lảng, nhưng A Hành nhìn mãi nhìn mãi lại thấy mắt cay cay. Luy Tổ quay sang nhìn con gái: “A Hành, nhân lúc tuổi còn trẻ; con hãy mau xuống núi mà thỏa sức cười khóc, làm ẩu làm càn, tận hưởng cuộc sống đi. Sau này con còn nhiều thời gian giam mình trong cung điện, những ngày tháng được rong ruổi bên ngoài sẽ chẳng có bao nhiêu, chớ nên phí hoài chúng trong điện Triêu Vân nữa. Ta không cần con ở bên bầu bạn, ta chỉ cần con sống thật vui vẻ thôi. Có thể bây giờ con chưa hiểu được điều này, nhưng một khi làm mẹ, con sẽ hiểu ra rằng chỉ cần các con hạnh phúc thì người mẹ đã đủ mãn nguyện rồi.” Giờ đây rốt cuộc A Hành đã hiểu tại sao mỗi lần nàng chuồn xuống núi mẹ đều không biết, vậy mà nàng còn hả hê cho rằng mình rất thông minh; tại sao nàng có thể trốn nhà trót lọt mà phụ vương cùng Đại ca chẳng phái thị vệ đuổi theo; tại sao nàng có thể tự do rong ruổi khắp đại hoang, khác hẳn những vương cơ khác. “Mẹ.” Nàng nghẹn ngào thốt lên. Xương Ý bưng trà tới, kính cẩn dâng lên Luy Tổ. Luy Tổ khoan thai uống cạn chén trà rồi lạnh nhạt ra lệnh: “A Hành, sáng mai con xuống núi, thích đi đâu thì đi, miễn đừng để ta thấy mặt con là được.” Nói rồi bà đặt chén trà xuống đi thẳng. Thấy A Hành rơm rớm nước mắt, Xương Ý tươi cười véo mũi nàng rồi nắm tay kéo đi hệt như hồi nhỏ: “Đi nào, mình đi tìm Đại ca.” Xương Ý và A Hành rón rén lẻn vào sâu trong rừng dâu, đang đi, bỗng hai người đụng phải cấm chế chặn đường, có điều cấm chế này chỉ là chuyện vặt với bọn họ, cả hai ung dung xuyên qua cấm chế, liền trông thấy một cảnh tượng lạ lùng. Dâu trong rừng chỉ cao chừng ba thước nhưng đều là giống hiếm gặp, từ gốc đến ngọn xanh mướt như tạc bằng ngọc thạch. Trên những cành dâu ngọc ngà san sát so le nhau, từng đóa mẫu đơn trắng muốt to bằng miệng bát do băng tuyết ngưng tụ thành đang khoe sắc, còn thanh khiết hơn cả hoa thật. Rừng dâu long lanh ngà ngọc, mẫu đơn băng lấp lánh trong suốt, đằng sau cấm chế là cả một thế giới thuần khiết như thiên đường bằng thủy tinh, chẳng nhiễm bụi trần. Ngay chính giữa thiên đường thủy tinh đó, trong bầu không từng đóa mẫu đơn trắng muốt bừng nở, chồng chất lên nhau tầng tầng lớp lớp tạo thành một tòa tháp mẫu đơn bảy tầng. Phía sau tòa tháp thấp thoáng bóng một nam tử không rõ diện mạo, chỉ thấy một tà áo lam không ra đậm không ra nhạt, toát lên vẻ ấm áp thanh khiết vô cùng, đồng thời cũng lạnh lùng xa cách khôn tả, tựa bầu trời xanh nhạt trên đỉnh núi tuyết ngàn xưa, dù băng tuyết buốt giá đến đâu vẫn luôn luôn ấm áp, nhưng cũng vĩnh viễn xa vời không sao với tới, xa vời hơn cả băng tuyết. A Hành cùng Xương Ý nhìn nhau rồi dừng bước cách đó xa xa, mỗi người đặt tay lên một gốc dâu, khai mở mệnh môn để linh lực cuồn cuộn chảy vào thân cây, giúp Đại ca trị thương. Thoắt chốc, gốc dâu bỗng xanh biếc lên như thể sắp phát sáng, mẫu đơn trắng trong lưu ly giới càng nở càng nhiều, hàn khí cũng mỗi lúc một thêm lạnh buốt. Tiếc rằng Thanh Dương chẳng những không tiếp nhận ý tốt của hai em mà còn trách bọn họ lắm chuyện, mấy đóa mẫu đơn đột ngột bay vút lên, đập thẳng vào mặt A Hành cùng Xương Ý, khiến hai người chưa kịp trở tay đã bị đông cứng, biến thành hai trụ băng. Bỗng nhiên, tất cả mẫu đơn trắng đều bay lên vây quanh bóng áo lam đó, đồng thời ngàn vạn đóa mẫu đơn to bằng miệng bát cũng đua nhau bừng nở giữa bầu không, liên miên bất tuyệt, rực rỡ vô ngần khiến cả đất trời như hóa thành lưu ly hoa giới, đẹp đến ngỡ ngàng. Hồi lâu Thanh Dương mới từ từ mở mắt, những đóa mẫu đơn trắng kia cũng tan đi hết, hóa thành bông tuyết lả tả rơi xuống, trắng xóa cả đất trời. Thanh Dương chắp tay đứng dậy, ngẩng đầu ngắm tuyết bay đầy trời, y đứng hồi lâu mà cả người chẳng bám một bông tuyết, trong khi Xương Ý và A Hành đã bị tuyết đóng trắng toát mày mi. Ngắm tuyết chán chê, Thanh Dương mới ung dung tiến lại giải khai pháp thuật cho hai em, lập tức băng tuyết trên mình Xương Ý và A Hành tan biến. Xương Ý đã lạnh đến tím tái, A Hành cũng răng đập lập cập, phải liên tục nhảy lên cho đỡ rét. Thanh Dương lạnh lùng nhìn nàng: “Muội ở Ngọc sơn sáu mươi năm mà chẳng khá lên chút nào, đến lợn mang lên đó chăn lâu như vậy cũng phải tu thành nội đan rồi chứ.” Mắng A Hành xong, Thanh Dương quay sang nhìn Xương Ý, khiến y vội cúi gằm mặt xuống. A Hành không dám cãi, chỉ biết luồn ra sau lưng Thanh Dương tay đấm chân đá với bóng lưng y một hồi, vừa đánh vừa mắng không ra tiếng. Thình lình Thanh Dương ngoảnh phắt lại trừng mắt nhìn A Hành, nàng lập tức làm bộ vận động thân thể, vung tay duỗi chân, vờ vịt nói: “Tay chân muội đông cứng cả rồi, phải vận động một chút kẻo thành tật thì gay.” Nói rồi nàng nhảy tới bên cạnh Xương Ý: “Hiếm lắm mới được một lần trời đổ tuyết vào tháng Sáu, mình đi bắt hươu về nướng để trục hàn đi.” Đoạn nắm tay Xương Ý định kéo đi. Xương Ý gọi to: “Đại ca, đi cùng bọn đệ đi! Khó khăn lắm huynh muội mới tụ họp thế này, mai phải chia tay rồi, biết bao giờ lại tề tựu nữa?” Thanh Dương chỉ lạnh nhạt buông một câu: “Ta còn công chuyện phải xử lý.” Vừa dứt lời, y đã bay vụt lên cao cả trượng. Xương Ý lặng lẽ nhìn theo bóng Đại ca, ánh mắt vừa nể phục, vừa âm thầm xót xa. A Hành giật giật tay áo Tứ ca: “Thôi, Đại ca lúc nào mà chẳng thế, mình cứ đi chơi đi. Đại ca đi cùng lại mắng muội lười tu tập rồi quay sang chỉ trích huynh chẳng tạo dựng được thành tích gì trên đất phong, mất hết cả hứng.” Xương Ý mở miệng như thể định nói gì đó nhưng lại nén xuống. A Hành cùng Xương Ý lấy cung tên hồi nhỏ quen dùng, đi sâu vào núi săn hươu. Hai người giao hẹn không được dùng linh lực ra soát mà phải tự mình lần theo dấu vết để săn tìm. Sục sạo suốt mấy canh giờ chẳng thấy tăm tích hươu nai đâu cả, cả hai không lấy thế làm điều, cứ vừa tìm quanh quẩn vừa trò chuyện. Xương Ý dò hỏi: “Muội thấy Thiếu Hạo thế nào?” A Hành nhìn quanh, thuận miệng đáp: “Còn thế nào nữa? Chẳng phải cũng có một cái mũi hai con mắt sao? Có điều muội cứ thắc mắc hoài, nếu có bảng xếp hạng anh hùng thiên hạ thì Đại ca đứng hàng thứ mấy nhỉ? Ở trên Ngọc sơn muội mới biết Đại ca cũng từng tham dự tiệc Bàn Đào, thật chẳng giống tính tình huynh ấy gì cả!” Xương Ý cười nói: “Chuyện này còn có ẩn tình, dạo đó Nhị vương tử Yến Long của Cao Tân nắm được thuật Âm Tập, có thể hủy hoại thiên quân vạn mã trong chốc lát, đừng nói Cao Tân mà khắp đại hoang đều sùng bái trọng nể y, cho tới một lần Đại ca đột nhiên tới dự tiệc Bàn Đào, đánh cho Yến Long thảm bại, từ đó cả đại hoang bắt đầu tôn kính e sợ cái tên Hiên Viên Thanh Dương.” “Đánh bại là được rồi, sao còn phải đánh cho thảm bại? Yến Long đắc tội với Đại ca ư?” “Ta không biết nữa, Đại ca có bao giờ tâm sự chuyện của mình đâu. Theo ta đoán, chắc hẳn chuyện có liên quan tới Thiếu Hạo. Có lần ta đi sứ sang Cao Tân, thấy Yến Long đang lên như diều gặp gió, lại được Tuấn Đế sủng ái, dám ngang nhiên sỉ nhục Thiếu Hạo ngay trước mặt bá quan văn võ mà Thiếu Hạo vẫn làm thinh cam chịu, thật chẳng hiểu y nghĩ cái gì nữa. Lúc về Đại ca hỏi han những điều tai nghe mắt thấy ở đó, ta bèn thật thà kể lại chuyện bất hòa giữa Thiếu Hạo và Yến Long, bấy giờ Đại ca chẳng tỏ vẻ gì, nhưng năm sau liền đi dự tiệc Bàn Đào, khiến Yến Long bị một phen bẽ mặt trước cả đại hoang. Giải thưởng năm đó là một cây ngũ huyền cầm làm từ xương phượng hoàng. Đại ca đoạt được bảo cầm liền trao cho sứ giả Cao Tân ngay trước mặt mọi người trong Thần tộc, nhờ chuyển tới Thiếu Hạo, nói rằng mình từng bại dưới tay Thiếu Hạo, đã hứa sẽ tặng y một cây danh cầm.” A Hành chép miệng, “Vậy chẳng phải tuyên cáo toàn thiên hạ rằng Yến Long không đáng xách dép cho Thiếu Hạo sao?” Xương Ý phụ họa: “Chứ còn gì nữa!” A Hành rầu rĩ: “Sao Đại ca thân thiết với Thiếu Hạo thế nhỉ?” “Lúc Đại ca quen y, phụ vương mới là tộc trưởng một tộc nhỏ trong Thần tộc, Đại ca chỉ là một thiếu niên Thần tộc bình thường, mà Thiếu Hạo cũng chỉ là một gã thợ rèn lành nghề thôi.” Xương Ý thở dài, “Có lẽ tình bạn khi đó mới là tình bạn thuần túy nhất, giống như trong truyền thuyết vậy, một lời đã hứa là phó thác cả sống chết.” A Hành tiếp lời: “Nghe hay quá, Tứ ca kể tiếp đi.” “Bọn họ quen nhau mấy trăm năm ta mới ra đời nên chỉ biết đến thế thôi, sau này muội thử hỏi Thiếu Hạo mà xem, hy vọng y cởi mở hơn Đại ca.” Sực nhớ lời Vân Tang kể, A Hành liền hỏi: “Tứ ca, huynh có quen Nặc Nại không?” “Ở Cao Tân ta thân với Nặc Nại nhất, y thạo bố trí cơ quan, chế tạo binh khí rất độc đáo, giỏi vẽ tranh sơn thủy viên lâm, thường đem những họa đồ mình tâm đắc ra trao đổi cùng ta. Nghe Đại ca nói y sắp thành thân, ta cũng đã chuẩn bị xong quà mừng thì lại thấy Đại ca bảo hãy khoan đừng tặng vội.” “Sao thế?” “Quân đội Cao Tân chia ra năm chi, trong đó bốn chi là Thanh Long bộ, Hy Hòa bộ, Bạch Hổ bộ và Thường Hy bộ, còn lại một chi tập hợp hết tinh anh năm tộc, tên là Ngũ Thần quân, chỉ Tuấn Đế mới có thể điều động. Mẫu thân Thiếu Hạo xuất thân từ Thanh Long bộ nên đó cũng xem như là phe cánh của y. Tuấn Hậu hiện thời là người Thường Hy bộ, bởi thế bọn Yến Long, Trung Dung, mấy huynh đệ chung một mẹ nắm giữ hai bộ Thường Hy, Bạch Hổ, Hy Hòa bộ giữ thế trung lập nên cả Thiếu Hạo và Yến Long đều đang ra sức tranh giành, mà Nặc Nại lại là đại tướng quân của bộ này. Nghe Đại ca nói, vợ sắp cưới của y thuộc Thường Hy bộ, hình như còn có họ hàng với Yến Long, điều này rất bất lợi cho Thiếu Hạo, bởi vậy cuộc hôn nhân này có thành được hay không kể cũng khó nói…” Xương Ý sực nhận ra mình đã nhiều lời bèn cười cười vỗ đầu em gái, “Nghe lằng nhằng quá nhỉ? Thôi, không nói mấy chuyện chán ngắt đó nữa.” Hóa ra là vậy, hèn chi Vân Tang nói chuyện nội bộ vương tộc rất phức tạp. A Hành chỉ thấy lòng nặng trĩu, trên tiệc Bàn Đào, Đại ca ra tay đánh bại Yến Long, thoạt nhìn có vẻ nghĩa khí, giành lại công bằng cho Thiếu Hạo, nhưng Hiên Viên thông gia cùng Thiếu Hạo, chung hưởng vinh nhục, biết đâu thứ mà Thanh Dương bảo vệ chính là lợi ích bản thân? Thấy A Hành trầm ngâm hồi lâu, Xương Ý cười xoa dịu: “Mấy chuyện vớ vẩn đó muội nghe cho vui thôi, nghĩ nhiều mà làm gì.” A Hành cũng cười theo, hỏi lảng sang chuyện khác: “Tứ ca, huynh đã để ý cô nào chưa?” Xương Ý làm thinh không đáp nhưng mặt bỗng đỏ bừng lên rất đáng nghi. Nhìn bộ dạng y, A Hành liền vỗ tay cười khanh khách khiến chim chóc trong rừng hoảng hốt bay lên rào rào. “Người ta trông thế nào? Huynh đã thổ lộ với người ta chưa? Người ta có thích huynh không?” Xương Ý nghiêm mặt mắng: “Con gái con đứa đừng có suốt ngày leo lẻo cái miệng nói thích với không thích.” A Hành cười ngặt nghẽo, nhảy chân sáo mấy bước rồi khum tay làm loa, hô vang với cả núi rừng: “Ca ca ta có người trong mộng rồi!” Dứt lời nàng vội chạy vụt đi. Tiếng vọng trong sơn cốc cứ vẳng đi vẳng lại, có người trong mộng rồi, có người trong mộng rồi… A Hành vừa cười khoái chí vừa nhăn mặt hề trêu Xương Ý, huynh không cho nói thì muội cứ nói đấy, huynh làm gì được nào? Xương Ý không nỡ mắng, càng chẳng nỡ đánh em gái, đành nghiêm mặt đi thẳng. A Hành chắp tay sau lưng, nghiêng đầu ngoẹo cổ cười hì hì bám theo sau Xương Ý, thấy y đã nguôi giận mới sán lại kéo tay áo nũng nịu: “Người ta trông thế nào? Liệu người ta có thích muội không?” Xương Ý cười hiền, “Nhất định nàng sẽ thích muội. Nàng thường hỏi han sở thích của muội và Đại ca, cứ lo lắng chẳng biết hai người có ưa nàng không?” A Hành níu lấy tay Xương Ý cười: “Miễn là huynh thích người ta thì muội cũng thích, muội sẽ kính yêu người ta như tỷ tỷ vậy.” Xương Ý không đáp, chỉ giơ tay xoa đầu em gái, vò cho tóc nàng rối tung rồi chẳng đợi A Hành kịp phản ứng, y cười phá lên, chuồn thẳng. A Hành chỉ biết tức tối vừa réo gọi vừa đuổi theo y. Lang thang trong núi suốt một ngày trời chẳng bắt được con hươu nào, A Hành cùng Xương Ý vẫn hớn hở quay về, cười cười nói nói, người này xô kẻ kia đẩy, ầm ĩ cả lên. Luy Tổ đang dùng trà cùng Thanh Dương trong Triêu Vân điện, chợt tiếng cười nói xôn xao của hai người từ xa đưa lại, phá vỡ cả bầu không khí yên lặng. Thấy Thanh Dương ngẩng lên nhìn mình, A Hành liền làm mặt hề với y rồi sán lại ngồi bên Luy Tổ, nũng nịu gọi “mẹ”, như thể ngầm ra vẻ: muội có mẹ bênh vực, không thèm sợ huynh! Nàng vừa cười vừa mách: “Mẹ, nghe con kể bí mật này nè.” Xương Ý lập tức đỏ mặt tía tai, “A Hành, không được nói!” A Hành lờ tịt đi, “Mẹ, Tứ ca có…” Xương Ý cuống quýt nhào tới toan bịt miệng nàng lại, A Hành vừa chạy vòng vòng quanh mẹ và Đại ca vừa cười khanh khách, mấy lần mở miệng đều bị Xương Ý đuổi đánh, linh lực nàng không bì được với y, rượt đuổi một hồi mệt lả cả người liền giở trò rúc ngay vào lòng mẹ trốn: “Mẹ, mẹ giúp con với, Tứ ca ỷ lớn ăn hiếp con.” Luy Tổ vốn lạnh lùng nghiêm khắc cũng phải bật cười ôm con gái vào lòng mắng yêu: “Hai đứa bay nghịch như quỷ, vừa đến đã làm loạn cả điện Triêu Vân lên rồi.” A Hành rúc vào lòng mẹ cười khúc khích, hai tay ôm lấy cổ bà, thì thầm nói nhỏ vào tai, vừa nói vừa lườm Xương Ý, mẹ nàng cũng nghiêng đầu vừa nghe vừa tủm tỉm cười. Thấy mẹ lộ vẻ tươi cười, Xương Ý quên khuấy cả bắt A Hành, lúc này đây ánh mắt Luy Tổ chỉ chan hòa những vui mừng, chẳng bợn một tia u ám. Bất giác y ngoảnh sang nhìn Đại ca, thấy Thanh Dương cũng đang chăm chú nhìn mẹ và em gái, mặt thấp thoáng nét cười. Xương Ý cốc cho A Hành một cái đau điếng: “Đồ hớt lẻo nhà muội, về sau đừng hòng ta kể cho nghe chuyện gì nữa nhé.” A Hành lè lưỡi với Xương Ý, chẳng chút sợ hãi, trong khi Luy Tổ tươi cười nhìn con trai, “Con lựa lúc nào thích hợp dắt cô ấy đến gặp ta.” Nghĩ ngợi một lát, bà lại nói, “Như vậy không ổn, chúng ta là đằng trai, có lẽ nên tới thăm trước để tỏ ý tôn trọng nhà gái thì hơn, con xem chừng nào thích hợp để ta đích thân đi Nhược Thủy một chuyến, tới thăm cha mẹ cô ấy. Con trở về nhớ lưu tâm xem cha mẹ cô ấy thích ăn gì rồi viết thư cho ta biết để chuẩn bị cho tốt.” Nhược Thủy là đất phong của Xương Ý, non xanh nước biếc, người dân thuần phác, người trong mộng của Xương Ý cũng là một cô gái Nhược Thủy tộc. Xương Ý nghe nói liền đỏ mặt tía tai cúi đầu thấp khẽ đáp: “Bây giờ con và cô ấy mới chỉ là bạn bè bình thường thôi.” Luy Tổ lắc đầu cười: “Con là đàn ông con trai, lẽ nào còn đợi cô nương nhà người ta thổ lộ trước ư? Đã có lòng với cô ấy thì mọi chuyện phải nghĩ cho cô ấy nhiều hơn nữa, đừng để lỡ làng tình cảm của người ta.” “Dạ, con hiểu rồi.” A Hành rúc trong lòng mẹ cười toe toét: “May mà mẹ nhắc nhở, bằng không cứ cái tính lề dề của Tứ ca, không làm cô nương nhà người ta sốt ruột đến chết thì cũng khiến tẩu tẩu tương lai của con phải đêm đêm thao thức dứt cánh hoa bói xem rốt cuộc Tứ ca có ý tứ gì với mình hay không!” Nói rồi A Hành vẫy tay, một đóa hoa trong bình bay tới, nàng bắt đầu làm bộ dứt cánh hoa bói, “Có tình ý, không có tình ý, có tình ý, không có tình ý…” Xương Ý tức tối lại định cốc nàng, “Mẹ cũng phải bảo ban A Hành để nó biết tôn kính các ca ca chứ.” Luy Tổ ôm con gái trong tay, nhìn Xương Ý rồi lại nhìn sang Thanh Dương, lòng mãn nguyện khôn xiết, bèn tươi cười quay sang bảo thị nữ: “Đem rượu cùng dâu lạnh mới hái ban ngày tới đây. Xương Ý và A Hành thích ăn thứ đó, nhớ mang nhiều vào, còn nữa, trong vò có bánh băng trà, đừng đem tới một lượt, cứ ăn hết rồi lại lấy thêm, Thanh Dương thích ăn đồ mới lấy ra kia.” Đám thị nữ mau mắn dạ ran rồi thoăn thoắt đi lấy, chỉ trong chốc lát đã bưng tới. A Hành ngồi tựa vào lòng mẹ tươi cười nhìn các anh, đoạn bốc một vốc dâu lạnh đưa lên miệng, thấy vị ngọt mát thấm vào tận ruột gan, nàng tủm tỉm cười thầm nghĩ, mình nhầm to rồi, điện Triêu Vân đâu có như trên Ngọc sơn! Bốn mẹ con vừa uống rượu vừa nói chuyện nhà đến tận hết giờ Tý. Thanh Dương sai Xương Ý đưa Luy Tổ về phòng còn mình phụ trách A Hành. Về tới cửa, A Hành cười tiễn khách: “Muội đi nghỉ đây, Đại ca cũng nghỉ ngơi đi.” Nào ngờ Thanh Dương theo chân nàng vào phòng rồi xoay tay đóng cửa lại, như thể có chuyện cần nói. A Hành than thầm trong bụng nhưng không dám lộ ra ngoài mặt, đành xốc lại tinh thần chuẩn bị nghe giáo huấn. Thanh Dương thản nhiên hỏi: “Từ Ngọc sơn về, theo lý thì hôm qua đã đến rồi, sao sáng nay muội mới về tới?” “Thiếu Hạo bị thương nên bọn muội về chậm mấy canh giờ.” Đối diện ánh mắt lạnh lùng sắc sảo của Đại ca, A Hành biết mình không dối gạt nổi, đành nói tiếp: “Sau đó bọn muội cũng chưa lên đường ngay, còn chuyện phiếm một hồi nữa.” “Một hồi ư?” “Một đêm ạ.” Thanh Dương chợt bước tới bên song, nhìn ra rừng dâu ngoài cửa sổ, “Muội thấy Thiếu Hạo thế nào?” Hồi sáng Tứ ca cũng đã hỏi qua nàng chuyện này, nhưng giờ nàng không thể trả lời Đại ca qua quýt như với Tứ ca được, đành trầm ngâm nghĩ cách đáp lại, tiếc rằng càng nghĩ càng bối rối. Thanh Dương đợi mãi không thấy em gái trả lời, có điều, như vậy cũng là một đáp án. Y khẽ cười, “Thiếu Hạo rất tốt, chỉ cần y muốn thì chẳng cô gái nào trên đời nỡ từ chối y đâu.” Mặt A Hành dần đỏ ửng lên, đột nhiên Thanh Dương quay lại nhìn nàng, nói tiếp, “Nhưng muội sẽ là người duy nhất trên đời phải từ chối y, muội không thể thích y được.” A Hành quá đỗi ngạc nhiên, buột miệng hỏi: “Sao lại thế? Chẳng phải hai người là bạn thân ư?” “Thanh Dương và Thiếu Hạo là bạn thân nhưng Hiên Viên Thanh Dương và Cao Tân Thiếu Hạo thì chưa chắc. Hẳn muội cũng biết phụ vương luôn ôm mộng thống nhất Trung nguyên, thậm chí là thống nhất cả thiên hạ, nói không chừng một ngày nào đó ta và Thiếu Hạo sẽ gặp nhau trên chiến trường, đôi bên đều phải dốc hết tinh lực dồn đối phương vào tử địa.” Thanh Dương vừa nói vừa mỉm cười hờ hững, tựa hồ đang kể một mẩu chuyện vu vơ kiểu “Ôi, e rằng mai thời tiết xấu” vậy. Sắc hồng trên mặt A Hành tan dần, chuyển thành tái nhợt, “Nhưng muội vẫn phải lấy y, bởi vì muội là Hiên Viên Bạt, còn y là Cao Tân Thiếu Hạo.” “Đúng, muội vẫn phải lấy y, thế nên điều duy nhất muội có thể làm là đừng động lòng trước y.” Thanh Dương hừ mũi, ánh mắt chợt lạnh buốt, “Ta ngỡ rằng Thiếu Hạo sẽ nể mặt ta mà hạ thủ lưu tình, nào ngờ y lại hao phí tâm tư cả một đêm vì muội.” A Hành cúi đầu khẽ thanh minh: “Không liên quan tới y, là muội muốn hiểu y hơn nên chủ động làm thân thôi, biết y mê rượu, muội mới dốc sức mượn rượu để khơi gợi hứng thú trò chuyện của y.” Thanh Dương bước đến gần nâng cằm em gái lên, nhìn sâu vào mắt nàng, nghiêm trang nói: “Muội ngàn vạn lần đừng làm chuyện dại dột như vậy nữa! Y là Cao Tân Thiếu Hạo, là Thiếu Hạo mà ngay cả ta còn phải kiêng dè! Chẳng phải lúc nào y cũng nể giao tình giữa ta và y mà nhân từ nhắc nhở bản thân không biến muội thành con cờ trong tay y đâu…” A Hành bắt đầu rơm rớm nước mắt nhưng vẫn quật cường cắn môi nén khóc. Thanh Dương nói tiếp: “Trong lòng ta và Thiếu Hạo đều có quá nhiều thứ, ví như nước nhà, thiên hạ, trách nhiệm, quyền lực… chẳng biết phải xếp phụ nữ vào đâu nữa. Thế nên, vì chính bản thân mình, muội cứ coi y như người dưng là tốt nhất.” A Hành lạnh lùng giễu cợt: “Đúng là phải cảm tạ Đại ca đã nghĩ chu toàn uội đến vậy. Chẳng hay rốt cuộc huynh lo Thiếu Hạo biến muội thành quân cờ hay lo rằng muội không thể làm quân cờ cho huynh và phụ vương?” Thanh Dương trầm ngâm hồi lâu mới đáp: “Dù muội có chấp nhận hay không thì đây cũng là sự thật, ai bảo muội mang họ Hiên Viên chứ?” Nói rồi y xô cửa đi thẳng. A Hành uể oải tựa vào thành giường, lòng ngập những bi thương. Mẹ và Tứ ca luôn giữ nàng tránh xa mọi đấu tranh đen tối, chỉ mong sao nàng mãi mãi là một Tây Lăng Hành tự do tự tại, nhưng Đại ca lại không ngừng nhắc nhở từng giây từng phút rằng nàng họ Hiên Viên, tên Bạt, là vương cơ của Hiên Viên. A Hành mệt nhoài dựa vào giường rồi mơ mơ màng màng thiếp đi, chẳng buồn cởi bỏ y phục, mãi đến khi những tiếng động bên ngoài khiến nàng bừng tỉnh, vội mở cửa hỏi thị nữ: “Sao ồn ào thế?” “Bẩm vương cơ, nửa đêm có trộm lẻn vào điện Triêu Vân.” Thị nữ đáp mà vẻ mặt vẫn ngỡ ngàng như đang mê ngủ, tựa hồ còn chưa dám tin. A Hành cũng vô cùng kinh ngạc, “Tên trộm này xui thật, ngày nào không tới, lại tới đúng hôm nay để dâng đầu dưới kiếm Đại ca, đúng là tự tìm đường chết mà!” Thị nữ gật đầu, vẻ mặt đầy ngạc nhiên, “Phải ạ, đi ăn trộm cũng chẳng nên thân, sao hắn lại chọn đúng ngày thế chứ? Quả là gan to bằng trời!” Gan to bằng trời ư? A Hành bỗng giật thót mình, vội hỏi, “Trông tên trộm đó thế nào?” “Tâu vương cơ, hắn đeo mặt nạ gỗ nên không trông rõ dung mạo.” “Hắn đang ở đâu?” “Ở Tả Sương điện, chỗ Đại điện hạ và Tứ điện hạ.” Thấy A Hành tức tốc chạy ngay tới đó, thị nữ cuống quýt gọi với theo, “Xin vương cơ chậm lại một chút, điện hạ đã dặn bọn nô tỳ phải bảo vệ vương cơ.” A Hành chạy thẳng một mạch tới Tả Sương điện, túm lấy một tên thị vệ hỏi thăm: “Kẻ trộm đâu rồi?” Tên thị vệ vội đáp: “Tên trộm đó xông vào phòng của Tứ điện hạ, bắt giữ Tứ điện hạ.” A Hành giận dữ mắng, “Đúng là khốn kiếp!” Nghe nàng mắng mỏ, gã thị vệ liền quỳ xuống hốt hoảng van xin: “Thuộc hạ biết tội.” Thấy vậy, A Hành mệt mỏi xua tay: “Không phải ta nói ngươi đâu.” A Hành xông thẳng vào, thấy chỉ có mình Thanh Dương đứng khoanh tay giữa Tả Sương điện, vẻ mặt bình thản, nghe tiếng chân nàng, y liền nạt: “Ai uội vào? Ra ngay!” A Hành liếc về phía phòng Tứ ca, thấy cửa đóng im ỉm, nàng toan dùng linh thức dò xét xem sao, có điều linh lực của nàng quá yếu, không vượt qua nổi cấm chế. Thanh Dương đứng ngay trước cửa, chậm rãi rút trường kiếm, “Ta đếm đến ba, nếu ngươi tự mình bước ra, ta sẽ để ngươi chết toàn thây.” Trong phòng liền vọng ra tiếng cười biếng nhác, “Ta đếm đến ba, nếu ngươi dám xông vào thì là đồ ba ba, nếu ngươi không dám xông vào thì là đồ rùa đen.” Trên đời còn ai dám nói cái giọng đó với Hiên Viên Thanh Dương nữa? Tuy Xi Vưu đã thay đổi giọng nói nhưng khẩu khí này trừ hắn ra chẳng còn kẻ thứ hai nào cả. A Hành cắn môi nhìn Đại ca, thấy Thanh Dương vẫn bình thản, mặt không đổi sắc, hắn nhẹ nhàng vung kiếm lên, chẳng gây ra bất cứ tiếng động nào nhưng căn phòng trước mắt cứ nứt ra từng mảng rồi tan rã hệt như gỗ mục, chỉ trong nháy mắt, trước mặt Thanh Dương đã chẳng còn phòng ốc, chỉ còn trơ lại một mảnh đất trống. Mặt đất phủ đầy cây cối vâm váp xanh um, lan mãi vào tận rừng dâu. Xương Ý bị treo lủng lẳng trên cành giữa lưng chừng trời, đầu gục xuống, cả người bê bết máu, tử khí tràn ngập xung quanh, chẳng chút sinh cơ. “Tứ ca…” A Hành tan nát cả cõi lòng, thét lên một tiếng nhào tới. Kiếm của Thanh Dương cũng run lên, tuy chỉ thoáng run rẩy nhưng Xi Vưu nấp sau đám cây đã chớp ngay được thời cơ ngàn năm có một đó, hắn dốc toàn lực nhảy bật lên, tay nắm chặt thanh đao đẫm máu, cười ha hả nói, “Thanh đao này đã giết chết đệ đệ ngươi đấy.” Thanh Dương nổi giận vung kiếm, chỉ trong nháy mắt, cả đất trời phủ rợp kiếm quang loang loáng. Sau mười mấy chiêu, kiếm của Thanh Dương đã đâm vào ngực Xi Vưu, sát khí chạy thẳng vào tim, đúng lúc Xi Vưu sắp mất mạng, Thanh Dương chợt ngừng tay lại, truyền mấy tia linh lực vào tim Xi Vưu, khiến cả người hắn run bắn lên vì đau đớn. Sắc mặt Xi Vưu tái nhợt nhưng chẳng hề tỏ vẻ sợ hãi, trái lại hắn còn gật đầu cười, “Thật không hổ là Hiên Viên Thanh Dương! Ta đã bố trí hết mê chướng này đến mê chướng khác nhằm chọc giận ngươi, chỉ mong ngươi nổi giận để lộ sơ hở, nào ngờ hết thảy đều vô ích, ngược lại còn mắc mưu ngươi, vừa nãy ngươi run tay là để gạt ta, để ta ngỡ rằng mình có cơ hội mà tự chui đầu vào miệng cọp chứ gì!” Thanh Dương mỉm cười lạnh nhạt thốt: “Sao lại vô ích? Ta không giết ngươi đâu, để ngươi sống mà ăn năn.” Xi Vưu nhếch miệng cười, mặt nạ gỗ chỉ che được nửa trên mặt, vừa cười đã lộ ra hàm răng trắng bóng, hắn nhơn nhơn nói, như thể kẻ ngực bị kiếm đâm, tim bị kiếm khí bóp nghẹt kia chẳng liên quan gì tới mình, “Vậy chắc ngươi đã phạm phải sai lầm lớn rồi.” Đột nhiên hắn vung đao lên dụng lực chém một đao, ngọn đao mang theo lực đạo sấm sét, lấp loáng như sao băng chém xuống, nhưng mục tiêu chẳng phải Thanh Dương mà lại là chính bản thân hắn. Thanh Dương thoáng sững người, tới chừng y kịp định thần lại thì đã muộn, lưỡi đao đã chém vào ngực Xi Vưu, chặt gãy thanh kiếm của y, đổi lại Xi Vưu cũng phải trả giá đắt, từ một vết kiếm thương trên ngực giờ lại thành một vành trăng non kéo dài từ ngực xuống bụng, máu phun như suối. Trong tiếng cười khanh khách, Xi Vưu tung mình nhảy vào rừng dâu, nhanh chóng khuất sau ngàn dâu xanh ngắt. Thanh Dương cầm thanh kiếm gãy đuổi theo, nhưng trong rừng cây lá dập dờn, khuất trời rợp đất, chẳng nhìn thấy gì cả, y đành dừng bước cao giọng nói, “Nể tình ngươi gan dạ như vậy, ta sẽ chôn cất ngươi tử tế.” Chẳng nghe tiếng đáp, chỉ có lá dâu rợp trời xào xạc. Thanh Dương giơ thanh kiếm gãy lên soi dưới ánh trăng vằng vặc, thanh kiếm này đã theo y cả ngàn năm, nào ngờ đêm nay lại bị hủy. Thanh Dương thu kiếm quay lại, trông thấy A Hành đang ngồi bệt dưới đất, ôm trong tay tấm thân bất động bê bết máu của Xương Ý. A Hành kinh hoàng trân trân nhìn về phía trước, tròng mắt đờ dại. Thanh Dương vội bước lại ngồi xuống bên cạnh, vỗ về nàng, “Không sao cả, muội đừng sợ, Xương Ý không bị thương thật đâu, đó chỉ là mê chướng mà tên trộm tạo ra để chọc giận ta thôi.” Thanh Dương chỉ phẩy tay qua người Xương Ý, lập tức máu me trên mình y đều biến mất. Bấy giờ máu huyết trong người A Hành dường như mới lưu thông trở lại, nàng buột miệng “A, a…” mấy tiếng, cả người run bần bật, không cất nổi thành lời, nước mắt lã chã, thình lình nàng vung tay đấm Thanh Dương một quyền. Thanh Dương không hề tránh né, vừa nãy y biết rõ Xương Ý còn sống nhưng vẫn để mặc A Hành đau đớn chết cả cõi lòng, chẳng khác nào gián tiếp lợi dụng nàng dẫn dụ kẻ địch. Xương Ý mơ màng mở mắt hỏi, “Sao thế?” Thanh Dương chạy thẳng vào rừng dâu, nói vọng lại, “Xương Ý, đệ đưa A Hành về Hữu Sương điện nghỉ ngơi. Tên trộm kia bị thương rất nặng, hắn đã liều chết phá cấm chế ở Triêu Vân điệu bỏ chạy rồi, nhưng ta vẫn phải đi kiểm tra một vòng xem sao.” Vừa dứt lời, y đã mất dạng. Thấy A Hành vẫn khóc lóc thảm thiết, Xương Ý chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì, chỉ biết ôm lấy muội muội dỗ dành: “Không sao đâu, đừng khóc, nín đi. Không sao mà, muội ngoan nào…” A Hành cứ khóc hoài khóc mãi, đột nhiên ngẩng lên hỏi: “Vừa rồi đại ca nói gì thế?” Xương Ý đáp: “Đại ca bảo phải tra xét một vòng xem sao.” Nghe vậy A Hành lập tức đứng phắt dậy, vén quần định chạy, Xương Ý vội đuổi theo sau: “Muội định làm gì?” A Hành khựng lại, cúi đầu nghĩ ngợi rồi lên tiếng: “Chúng ta về nghỉ ngơi đi.” Xương Ý lẩm bẩm một mình: “Tên trộm này cả gan xông vào tận Triêu Vân điện, vậy mà lại thoát được tay Đại ca, hẳn chẳng phải phường vô danh tiểu tốt, nhưng kẻ nào làm ra chuyện này mới được chứ? Trên Triêu Vân phong đâu có báu vật gì đâu.” Về tới phòng mình, A Hành rút Trụ Nhan hoa ra, biến thành một cành đào cắm vào bình. Đoạn nàng để nguyên quần áo nằm xuống giường ngủ tiếp. Chỉ lát sau đã nghe thấy tiếng cửa sổ lạch cạch rồi một bóng người lần tới bên giường. A Hành bật ngay dậy, chủy thủ trên tay kề vào cổ kẻ đột nhập. Xi Vưu gỡ mặt nạ ra, để lộ gương mặt tái nhợt, nụ cười nhơn nhơn vẫn nguyên vẹn trên môi. A Hành căm hận vẻ nhơn nhơn này của hắn khôn xiết, bèn ấn chủy thủ vào thêm mấy phân để lưỡi dao đâm vào da thịt hắn, máu ri rỉ ứa ra, “Rốt cuộc ngươi muốn làm gì đây?” “Ta tới gặp cô mà!” A Hành đâm sâu thêm một phân, máu tươi nhỏ xuống, “Sao không đàng hoàng cầu kiến mà nửa đêm nửa hôm lại xông vào Triêu Vân điện?” “Nếu ta trực tiếp cầu kiến Hiên Viên Bạt, liệu Hiên Viên Bạt có chịu gặp ta không? Mẫu hậu của Hiên Viên Bạt chịu cho phép ta lên núi sao? Hơn nữa, người ta muốn gặp là Tây Lăng Hành chứ không phải Hiên Viên Bạt.” Xi Vưu nắm lấy bàn tay cầm chủy thủ của nàng, “Cô muốn làm Tây Lăng Hành hơn phải không?” A Hành không đáp, chỉ có bàn tay từ từ lỏng ra, thanh chủy thủ rơi xuống chân Xi Vưu, hắn cười cười liếc nàng, “Thế này càng hay, ta chẳng những xông vào Triêu Vân điện mà còn xông cả vào khuê phòng của cô nữa. Vợ yêu, nếu cô chịu để ta ôm cô nằm xuống giường một lát, coi như ta đi không uổng chuyến này.” A Hành giận đến nỗi chỉ muốn đập chết hắn, nghiến răng nghiến lợi đáp: “Cũng phải xem ngươi còn mạng mà nằm không!” Đột nhiên bên ngoài vang lên tiếng trò chuyện, là giọng của Xương Ý: “Đại ca, huynh tìm thấy rồi à?” A Hành hốt hoảng đẩy Xi Vưu vào giường, buông màn xuống rồi trùm chăn che kín người hắn đoạn áp mình vào khe rèm, dỏng tai nghe ngóng, căng thẳng nhìn chằm chằm cánh cửa. “Chưa thấy. Tên trộm này hình như từng lớn lên giữa núi rừng như dã thú, hoặc đã được huấn luyện đặc biệt như dã thú nên rất giỏi che giấu tung tích, có điều ta luôn cảm thấy hắn chỉ ở quanh đây chứ chưa chạy xa được, đệ mau dẫn thị vệ lục soát kỹ Triêu Vân điện một lần xem. Phải tra xét tất cả phòng ốc.” Chỉ nghe Xương Ý đáp “dạ”, sau đó tiếng trò chuyện ngưng bặt. Tim A Hành nhảy thót lên tới cổ họng bấy giờ mới trôi trở xuống, nàng vừa ôm ngực quay lại đã thấy Xi Vưu gối bằng gối của mình, ôm chăn của mình, toe toét cười còn đắc ý hơn cả cáo bắt được gà. A Hành chỉ muốn cho Xi Vưu một bạt tai để hắn dẹp nụ cười đó đi. Xi Vưu chớt nhả: “Giường cũng nằm rồi, chỉ thiếu chưa ôm được cô thôi.” A Hành cười nhạt: “Ngươi đừng mơ!” “Mơ á?” Xi Vưu cười toe toét, chớp chớp mắt nhìn A Hành khiến nàng sởn cả gai ốc, đang định nghiêm khắc cảnh cáo hắn không được làm bậy thì nghe thấy tiếng chân gấp gáp bên ngoài, rồi tiếng đập cửa ầm ầm của Xương Ý: “A Hành, A Hành…” A Hành vội lên tiếng: “Sao thế? Muội ở đây!” Xương Ý hỏi: “Huynh cảm thấy trong phòng muội có một luồng linh khí lạ, muội không sao chứ?” “Muội có sao đâu.” Xương Ý đời nào chịu tin, đột ngột đẩy cửa xông vào, A Hành thấy vậy lập tức chui ngay vào chăn, tiện tay ấn luôn đầu Xi Vưu xuống, hắn liền thừa cơ ôm chầm lấy nàng. A Hành nào dám vùng vẫy, chỉ biết rủa thầm trong bụng, nàng vén màn lên, làm bộ ngái ngủ nhìn Xương Ý: “Tứ ca, rốt cuộc làm sao thế?” Xương Ý nhắm nghiền mắt, dùng linh thức rà soát kỹ một hồi rồi nghi hoặc lắc đầu, “Không sao, có lẽ cảm giác của ta nhầm.” A Hành vừa thở phào nhẹ nhõm đã bị Xương Ý nhìn chằm chằm, hỏi: “Mọi khi muội thích góp vui lắm kia mà, sao hôm nay lại ngoan ngoãn hiền hòa thế?” A Hành cười trừ, cố giữ vẻ thản nhiên đáp, “Muội mệt quá đó mà! Tứ ca, hay là huynh ngồi đây với muội một lát đi?” Nàng ngỡ rằng Tứ ca nhận lệnh của Đại ca, nhất định sẽ nôn nóng hoàn thành nhiệm vụ, nào ngờ Xương Ý lại ngồi xuống thật, còn vẫy tay ra hiệu cho thị vệ lui ra. Y cứ lặng lẽ nhìn A Hành, dần dần khiến nàng tắt hẳn nụ cười. Xương Ý khẽ hỏi: “Muội muốn ta ở lại đây với muội thật sao?” A Hành cắn môi lắc đầu. “Muội có hiểu mình đang làm gì không đấy?” A Hành nghĩ ngợi rồi gật đầu. Xương Ý thở dài, “Ta lục soát hết Triêu Vân điện sẽ dẫn tất cả thị vệ tập trung lục soát trong rừng dâu.” Thấy Xương Ý đứng dậy toan cất bước, A Hành vội phân trần, “Tứ ca, muội chỉ là… hắn không có ý xấu, cũng không muốn đả thương huynh đâu…” Xương Ý ngoảnh lại nhìn nàng, “Ta biết. Dù muội làm gì đi nữa, ta cũng sẽ giúp đỡ muội, ai bảo muội là muội muội của ta chứ?” Dứt lời y liền bước ra ngoài, còn cẩn thận khép cửa phòng lại. Chỉ đợi có vậy, A Hành lập tức tung chăn nhảy xuống giường, Xi Vưu cười hì hì nhìn nàng, vẻ mặt đầy đắc ý. Lúc này đây A Hành chẳng hơi đâu mà nổi giận với hắn nữa, nàng chỉ muốn tống khứ tên ôn thần không biết sống chết này đi au. Nàng vừa gói ghém tay nải vừa dặn: “Chúng ta đợi đám thị vệ vào rừng rồi xuống núi, có Tứ ca yểm trợ, tốt nhất là ngươi đừng sinh sự nữa, may mà vừa nãy là Tứ ca ta, nếu là Đại ca thì ngươi chỉ còn đường chết thôi!” A Hành gói ghém xong tay nải bèn viết vội một bức thư để lại ẹ, thưa rằng mình nhân lúc tối trời đã xuống núi luôn. Nàng cũng không dám chắc sẽ qua mặt được vị Đại ca tinh minh mẫn tiệp của mình, chi bằng chuồn trước để giữ mạng còn hơn. Thấy mọi sự đã sẵn sàng, nàng quay sang hỏi gã Xi Vưu đang nằm ườn trên giường: “Chúng ta đi thôi, linh lực của ngươi còn đủ chứ? Liệu có che giấu được khí tức của mình không?” Xi Vưu gật đầu: “Chỉ cần cách Đại ca cô hơn ba trượng và thời gian không quá lâu thì không vấn đề gì.” A Hành đáp: “Vậy ngươi đành cầu trời phù hộ thôi!” Tuy cấm chế ngoài Triêu Vân điện rất lợi hại nhưng chẳng có tác dụng gì với A Hành, nàng dẫn Xi Vưu ra khỏi điện êm thấm, hai người men theo đường mòn mà chỉ mình nàng cùng Tứ ca biết để xuống núi. Đi được nửa đường, đột nhiên một con thú lớn đen trùi trũi ở đâu xông ra, lao thẳng về phía A Hành, nàng giật thót mình, đang định nấp thì nhận ra A Tệ, bèn mừng rỡ ôm lấy nó hôn chùn chụt mấy cái, “A Tệ, mày đến đúng lúc quá, chở chúng ta xuống núi đi.” A Tệ cọ cọ vào má A Hành, khẽ gừ gừ hớn hở. Liệt Dương ngạo nghễ đậu trên cành nhìn xuống, thấy A Tệ nũng nịu như trẻ nhỏ, không giấu vẻ khinh miệt. Liệt Dương bay trước dẫn đường, A Tệ cõng hai người bay xa khỏi Hiên Viên sơn. Xi Vưu đắc ý bảo A Hành: “A Hành, rốt cuộc cô vẫn xuống núi cùng ta.” Nàng lạnh lùng đáp: “Nể tình ngươi bị thương nên ta tiễn ngươi một đoạn thôi, sáng sớm mai chúng ta đường ai nấy đi.” Bỗng nhiên nàng có cảm giác không ổn, thấy linh lực của Xi Vưu đột ngột tiết ra ngoài, nàng vội túm lấy tay hắn: “Ngươi đừng giấu nữa, nói thật cho ta nghe vết thương của ngươi sao rồi? Thua trong tay Hiên Viên Thanh Dương có gì mà mất mặt, cả đám cao thủ Thần tộc trên đại hoang chắc chỉ mình ngươi có thể thoát chết dưới kiếm của Đại ca thôi.” Xi Vưu đăm đăm nhìn nàng khẽ nói, như thầm thì, như than thở: “A Hành, ta không để cô lấy Thiếu Hạo đâu!” Nói rồi hắn nhoẻn miệng cười mãn nguyện, hệt như đứa trẻ giành được cây kẹo mình ao ước bấy lâu chẳng màng gì đến hậu quả sẽ bị sâu răng, cứ thế mà ngất đi trong lòng A Hành, nụ cười vẫn còn đọng trên môi. Lúc hôn mê, trông Xi Vưu chẳng còn vẻ ngông nghênh tùy tiện hôm qua nữa, thay vào đó là nụ cười thực sự mãn nguyện, nụ cười ấy hầu như rất hiếm thấy ở những nam tử thành niên, bởi con người ta càng trưởng thành thì càng nhiều ham muốn, chỉ có những đứa trẻ thuần khiết thẳng thắn mới dễ dàng thỏa mãn mà thôi. Trời khuya tối đen như mực, chỉ có vầng trăng tròn vành vạnh dịu dàng lơ lửng giữa tầng không, cả đất trời nhuốm đầy vẻ mỹ lệ mà tĩnh lặng, đôi cánh rộng của A Tệ dập dờn lặng lẽ, tư thế bay vô cùng ưu nhã, hệt như một con hồ ly lớn đang vờn múa dưới ánh trăng. A Tệ chở theo Xi Vưu và A Hành băng qua mây mù, vượt trên sao sáng bay về phía cuối trời, trong khi đó, A Hành vẫn đang hoang mang bối rối, chẳng biết bọn họ nên đi đâu về đâu.
|