Mãn Thiên Phong Vũ Hạ Tây Lâu
|
|
Nội Dung Truyện : Mãn Thiên Phong Vũ Hạ Tây Lâu
Tác Giả : Đường Tỷ
Edit: Yến Phi Ly, Phong Ly
Beta: Yến Phi Ly
Thể loại: Đam mỹ,cổ trang, quan trường – giang hồ, 1×1, nhẹ nhàng, thanh thủy văn, BE
Nhân vật: Lục Diêu, Bùi Kiếm Văn, Phùng Phượng, Phùng Sanh.
Truyện lấy bối cảnh vào những năm cuối của minh triều, xoay quanh hoàng cung, đông hán, cẩm y vệ và giang hồ. Tiếng gió lạnh rền vang, cảnh sắc giang sơn mịt mùng. Lục Diêu thúc ngựa tới Giang Nam,”Loạn thế người cũng muốn có một chốn quay về.” Bùi Kiếm Văn nhiễm huyết đơn độc,“Ngươi dựa vào cái gì theo ta đồng sinh cộng tử.” Phùng Phượng nâng chén say rượu, “Người sống cả đời, chung quy chỉ có một niệm tưởng.” Phùng Sanh tựa như khóc tựa như cười,”Chúc mừng Đốc chủ, muốn thiên hạ, được thiên hạ.” “Có lẽ núi cao sông dài cách xa ngàn dặm. Có lẽ giang hồ quan trường phân biệt rõ ràng. Có lẽ cuộc đời này không còn gặp gỡ. Nhưng chỉ cần trong lòng rõ ràng, có một thanh kiếm vẫn luôn bên cạnh y, mà một thanh kiếm khác vẫn luôn kề bên mình, tựa hồ cũng đủ rồi.”
|
Chương 1
Edit&Beta: Yến Phi Ly Lần đầu tiên Lục Diêu gặp Bùi Kiếm Văn là tại quán trà bên quan đạo Ứng Thiên. Chuyến này tuy là công sai nhưng làm việc cần che giấu thân phận, Lục Diêu tất nhiên không mặc quan phục phi ngư chói mắt kia, Tú Xuân đao cũng đổi thành thiết kiếm tầm thường. “Tiểu ca, cho bình trà ngon,” Bùi Kiếm Văn nhảy xuống ngựa, cũng không thèm cột lại liền bước vào quán trà, chọn cái bàn không người ngồi xuống, “Cho thêm đĩa đậu phộng.” “Có ngay.” Tiểu nhị mang theo ấm nước rót cho hắn chén nước mát giải cơn khát rồi mới đi về phía sau pha trà. Trong quán trà không ít người nghỉ chân, tán gẫu đàm tiếu, phe phẩy phiến quạt đuổi nóng, khí hậu trong tiết Mang chủng() rất nóng nực. Lục Diêu phong trần mệt mỏi mặc y phục cũ, tay trái ngăn trở ánh nắng chiếu tới, tay phải cầm chén trà đã vơi phân nửa, bên cạnh bàn bao nhiêu người cũng không ảnh hưởng tới tâm tư của hắn. Chốc lát, đồ Bùi Kiếm Văn muốn đã có trên bàn, y liền gọi tiểu nhị đưa tới khăn lau tay, vừa ăn đậu phộng vừa chờ trà nguội. Con ngựa trắng thả rông kia cũng rất thông minh, phất phất đuôi thong thả gặm cỏ, chờ chủ tử ăn no uống say lại lên đường. Phía xa xa, một đám bụi mù hướng thẳng đến đây, khiến Bùi Kiếm Văn không khỏi nâng mi. Nhĩ lực của y tốt, không thấy bóng người nhưng sớm nghe tiếng chân, thanh âm cấp bách mà loạn, gấp rút mà nặng nề, hiển nhiên là vội đi sợ đêm tối, không biết bao lâu rồi chưa nghỉ chân. Bùi Kiếm Văn là kẻ yêu ngựa, phát giác đám ngựa kia đã là nỏ mạnh hết đà, còn chạy nữa sợ là sẽ mệt chết, trong lòng hừ lạnh một tiếng. Đến gần lập tức thấy rõ người tới, lại không khỏi thầm nghĩ một câu thì ra là thế, khóe miệng khẽ nhếch thành nụ cười mỉa mai. Bọn hoạn quan không coi mạng người ra gì mà thôi, Bùi tiểu gia uống một hơi trà còn ấm, thầm nghĩ bọn họ nếu biết quý tính mệnh mới là trò cười trong thiên hạ. Tuấn mã chưa từng nghỉ ngơi lướt qua quán trà, rồi lại đột nhiên ghìm chặt dây cương, vừa chuyển quá nửa vòng ngừng lại. Lực đạo kéo ngừng này ngựa làm sao chịu nổi, thê lương hí dài, chân trước uể oải quỳ xuống đất, không biết là đột nhiên mất lực hay là gãy chân té nhào. Lập tức người này nhảy lên, công phu xác thực phiêu lượng, lúc ghìm ngựa liền đạp chân, cũng không thấy mượn lực như thế nào, thân mình bay lên ba thước, ngựa dưới thân ngã nhào, nhảy xuống đất không chút hoảng hốt. Cũng không ai dám kêu một tiếng hay, người trong quán trà đều giống bị định trụ, mắt thấy sát tinh này từng bước đến gần, đừng nói lên tiếng, ngay cả hít thở cũng nhẹ đi vài phần, sợ rước họa vào thân. Thế nhân đều biết, thủ hạ Đông Hán Đốc chủ ngoài Chưởng hình Thiên hộ cùng Lý hình Bách hộ, còn có Chưởng ban, Quản đốc, Ti phòng hơn bốn mươi người, chia làm Tử Sửu Dần Mão mười hai khối, khối Quản sự mang mũ tròn, giày tao, mặc hạt sam, người tới đúng là dáng dấp sứ giả. Nhắc tới người này xác thực cùng Lục Diêu gặp qua mấy lần, mặc dù không quen biết, khuôn mặt này hắn cũng nhận ra được. Lục Diêu lần này lo việc chưa cùng Hán công phục mệnh, không muốn lộ thân phận phiền toái, ngồi im qua loa liếc mắt đánh giá một cái, liền theo mọi người thấp đầu, lấy khuỷu tay chống bàn, cầm chén trà che bớt gương mặt. Người kia đi tới gần quán trà, không đi vào, cũng không mở miệng muốn nước trà, chỉ quét một vòng xung quanh, thanh âm lạnh lùng hỏi, “Ngựa trắng ngoài kia là của ai?” Bùi Kiếm Văn ngoài miệng không trả lời, tay lấy vài hạt đậu, vừa chậm rãi mà lột vỏ, vừa thẳng tắp đối diện hai mắt người kia. Quản sự khối Dậu danh gọi Đinh Tảm, mặc dù hận tiểu tử trước mặt này ánh mắt khiêu khích không biết sống chết, nhưng cũng hiểu được nhiệm vụ khẩn cấp, ngay cả câu tiếng Quan thoại cũng khinh thường nói, trực tiếp phi thân tới hướng con ngựa trắng cách đó không xa. Hắn có tâm khoe khoang công phu, dưới chân sử dụng chính là yến tử sao thủy(chim én đạp nước) hắn đắc ý nhất, bằng phẳng bay vút, không dính bụi trần, đến trước mặt tay nắm yên, phi thân lên ngựa, thân pháp quả thật tinh diệu. Bên này Bùi Kiếm Văn cũng không nóng nảy, trên mặt treo vẻ mặt chờ xem kịch vui. Đinh Tảm vươn tay nắm trụ dây cương, hai chân kẹp chặt, ngưa trắng không ngờ khi hắn nhảy lên nhưng lại thuận theo như thỏ nhỏ, rồi lại bất ngờ chạy chậm hai bước đột nhiên thân dựng thẳng, may là Đinh Tảm ứng biến nhanh nhạy, cũng vội vàng ổn định thân mình. Bình thường ngựa nhảy lên bất quá cao tầm một người, nhưng con ngựa này chân sau cực kỳ hữu lực, một đạp nhảy lên mấy thước, đá hậu cũng không theo lẽ thường, thất lủi bát khiêu, góc độ xảo quyệt. Đinh Tảm khinh công mặc dù giỏi nhưng dù sao cũng chưa thuần hóa ngựa bao giờ, nhất thời chân tay lóng ngóng, kẹp không được bụng ngựa, chỉ đành phải dùng sức ghìm dây cương. Ngựa lại ngừng bước lui về phía sau, đầu rũ xuống đất, lực đạo cực đại kéo hắn không kịp đề phòng nằm úp sấp xuống trước. Cái này cũng chưa xong, thấy người lạ trên lưng chưa bị giãy thoát, ngựa cùng chủ tử giống nhau không thoải mái, lần thứ hai đứng thẳng dậy, chân sau nghiền một cái, biến đổi nhảy nhót không ngừng, tả xung hữu đột, biến chuyển tiến lui, khiến cho Đinh Tảm điên đảo khó chịu không thốt nên lời. Lúc đầu hắn còn dựa vào sức lực giữ vững thân mình, ngửa tới ngửa lui một phen khí lực sớm tiêu tan tám phần, lúc này miễn cưỡng ngồi trên lưng ngựa, đã là tư thái chật vật. Đinh Tảm cơn giận xông thẳng lên não, nhưng cũng chỉ đành giở lại trò cũ, đạp chân thoát thân xuống ngựa, không còn đắc ý như vừa rồi, lảo đảo một bước mới tự đứng vững. Lòng dạ cồn cào buồn nôn, chân chạm đất hắn kiềm chế không nổi, rút ra bội đao bên hông, một lòng muốn cho súc sinh bướng bỉnh này một đao mất mạng. Từ sau Thiên Khải() năm thứ tư, Đông Hán Đốc chủ Phùng Phượng nắm giữ nội các một tay che trời, dưới quyền đương kim thiên tử. Đông Hán và cẩm y vệ sớm đã là trên danh nghĩa, trong âm thầm bị Phùng Phượng hợp nhất dưới trướng, ngay cả Lục Diêu là chỉ huy cẩm y vệtam phẩm, thấy Phùng Phượng cũng phải quỳ xuống kêu một tiếng Hán công. Chủ tử quyền thế ngập trời, nô tài cũng được tăng thể diện, Xưởng vệ ngang ngược kiêu ngạo ương ngạnh Lục Diêu sớm đã tai nghe mắt thấy nhiều lần, ngày thường đều là mở một con mắt nhắm một con mắt, lúc này cũng nổi lên tâm yêu tài, không nỡ thấy tuấn mã khó gặp bị làm khó, lập tức tay trái ấn bàn, ám kình vừa khéo léo mà lại chuẩn xác, trên bàn ống đũa không chút động, chỉ có đũa gỗ nảy lên, tay phải khẽ bắn ra, chiếc đũa liền giống như mũi tên, bắn thẳng tới cổ tay cầm đao của Đinh Tảm. Khi Đinh Tảm rút đao cũng là lúc Bùi Kiếm Văn bay ra khỏi quán trà, thân hình nhanh quỷ mị, so với chiếc đũa kia không chậm hơn bao nhiêu. Lục Diêu nhìn thấy rõ ràng, thầm nghĩ chủ nhân của con ngựa này cũng là cao thủ, một đạo thanh ảnh trước mắt người khác truy phong trục nhật bắn ra, đúng là hạt đậu mới lột vỏ chưa cho vào miệng kia. Hạt đậu bắn nhanh ngoan độc, thẳng nhắm tới mắt Đinh Tảm, nếu trúng chắc chắn sẽ mù lòa. Lục Diêu e ngại Hán công, lực đạo đắn đo, chỉ muốn ngăn đao không muốn đả thương người, đang nghĩ tới bổ khuyết thêm một chiếc đũa đánh bay đạo thanh ảnh kia, nhưng thấy đối phương cùng hắn suy nghĩ giống nhau, đạo thanh ảnh thứ hai tới sau mà khắc chế trước, chính là đều không phải cứu người, cũng là họa vô đơn chí, hạt đậu đánh lên cán đũa, góc độ diệu kỳ vô cùng, đũa gỗ phút chốc bị bẻ cong, bay nhanh tới cổ họng Đinh Tảm. Chuyện tới nước này Lục Diêu đành dứt bỏ ý niệm cứu người, chỉ không khỏi dưới đáy lòng thầm khen một tiếng giỏi. Không chỉ là vì công phu ám khí, càng bởi vì lúc người này bắn ra ám khí thứ hai, lại giữa không trung lưu loát xoay thân, trở vào quán trà ngồi vào chỗ của mình. Khinh công liền mạch lưu loát chính xác, Lục Diêu thầm nghĩ ngang ngửa với mình. Đinh Tảm cũng không phải bình thường, vào thời khắc chỉ mành treo chuông hết sức triệt đao né tránh, tránh được hai đạo ám khí ngoan độc. Nhưng mà hắn thị lực không bằng Lục Diêu, rõ ràng nhìn thấy chiếc đũa kia, lại không thấy rõ thanh ảnh lướt qua. Hắn trợn mắt trừng hướng nơi chiếc đũa phát ra, vừa muốn làm khó dễ, lòng lại đột nhiên lộp bộp. Lục Diêu mặc dù thấy Phùng Phượng thì phải quỳ xuống, nhưng hắn một Quản sự trêu chọc không nổi vị chỉ huy cẩm y vệ này. Lục Diêu trong quán trà ánh mắt thâm trầm, Đinh Tảm không biết hắn vì sao cũng ở đây, nhưng ánh mắt này rõ ràng là cảnh cáo hắn không cần nói nhiều. “Thực dễ dàng cho hắn!” Mắt thấy cẩu quan kia dừng một chút, quả nhiên chỉ liếc mình một cái, không nói gì liền quay đầu hướng Ứng Thiên phủ vội rời đi, Bùi Kiếm Văn kinh ngạc hừ một tiếng, âm thầm cười khẩy nói, “Chỉ là lũ chó cậy chủ dọa người!” Cúi đầu nghĩ nghĩ, Bùi Kiếm Văn quay đầu nhìn vị bên cạnh mới vừa rồi ngăn đao “Đa tạ.” Y cười nâng cằm, mang vẻ đắc ý, tay dùng sức ấn một hạt đậu, cuối cùng một viên bay lên, vững vàng lọt vào miệng Bùi tiểu gia. Lục Diêu lúc này mới quay đầu nhìn thẳng mặt mày Bùi Kiếm Văn, không khỏi kinh ngạc thầm nghĩ, bản lĩnh như thế mà lại vô cùng trẻ tuổi. Người trước mắt mơ hồ nhỏ hơn mình sáu, bảy tuổi, cùng lắm khoảng đôi mươi, bên ngoài một kiện y bào nguyệt sắc, thắt lưng cùng màu thêu ba đóa sen, hông đeo ngọc bội bên trong mặc sấn bào hồng đào, hai chân bắt chéo, chân mang giày lụa trắng, mũi chân còn nhàn hạ khẽ rung. Trong quán trà ngoài hai bàn không bóng nắng, chỉ có hai người, ánh nắng chiếu vào trên mặt bàn, phía sau mọi người chưa hồi thần, vẫn lặng ngắt như tờ, tưa như sân khấu kịch, người đều là làm nền, chỉ đợi vị đương gia diễn trò kia cử động, dưới đài mới rền vang tiếng khen hay. Lục Diêu đột nhiên nhớ tới trước khi lên đường, theo Hán công đi Đạm Phấn lâu nghe thuyết thư uống trà. Nắng tà cũng chiếu vào nhã thính lầu hai, chỉ là nước trà trong tay so với hiện tại thơm hơn nhiều. Màu nước như ngọc, mà lại nghe thuyết thư tiên sinh giảng tới chỗ thú vị, ông ta gõ một nhịp, gương mặt tươi cười nói: “Nhìn tướng mạo người tới, mặt như mỹ ngọc, mắt sáng long lanh mày đen khí phách, tà nhập thiên thương đôi con ngươi hắc bạch phân minh, hắc tựa nước sơn, bạch như phấn điểm gương mặt túc mãn, mũi như ngọc trụ, miệng tựa đồ chu(đỏ thắm), răng như toái ngọc cưỡi trên bạch mã, yên ngựa tiên minh, quả nhiên là niên thiếu rực rỡ, thiếu niên anh hùng!” “Mới vừa rồi đa tạ vị nhân huynh này trượng nghĩa tương trợ, tại hạBùi Kiếm Văn của phủ Hàng Châu.” Bùi Kiếm Văn thu liễm thần sắc ngạo mạn, hai tay ôm quyền nói lời cảm tạ. “Tên rất hay, quả nhiên là văn võ toàn tài.” Lục Diêu cười nói, “Lời tạ ơn không dám nhận, tại hạ Ứng Thiên phủ Lục Diêu.” “Ồ?Tên này lại không tốt.” Bùi Kiếm Văn cười lớn, “Nhạn lai tín vô bằng, lộ diêu mộng nan thành. Chính là không đủ may mắn.” “Ngươi tại sao không nói lộ diêu tri mã lực, nhật cửu kiến nhân tâm?” Lục Diêu theo y nói đùa. “Hay cho câu lộdiêu tri mã lực, nhật cửu kiến nhân tâm!”Bùi Kiếm Văn cởi mở cười lớn, lấy trà thay rượu kính Lục Diêu,”Tiểu đệ còn có việc riêng chưa xong, hôm nay cáo từ trước. Nếu sau này còn gặp lại, nhất định phải học hỏi Lục huynh câu ‘nhật cửu kiến nhân tâm’!” Thực ra ngày đó ở Đạm Phấn lâu, câu chữ hoa mỹ Lục Diêu sớm nhớ không rõ ràng. Tựa như gió mát thổi đến, hoa rơi rực rỡ, từng câu từng chữ đều đánh tan, hỗn độn mà phiêu đãng khắp nơi, cuối cùng vùi trong bụi đất. Chỉ có tám chữ cuối cùng Lục Diêu chân chính nhớ rõ, tươi đẹp như xuân lôi Kinh trập(), cảnh sắc ấm áp trong tiết Mang chủng. Chỉ nghe rõ ràng một câu —- niên thiếu rực rỡ, thiếu niên anh hùng! () tiết Mang chủng: vào ngày mùng 5, 6, 7 tháng sáu ()Thiên Khải: niên hiệu Minh Hi Tông, Chu Do Hiệu, năm 1621 – 1627 () Kinh chập: vào ngày mùng 5 hoặc 6 tháng ba
|
Chương 2
Edit: Phong Ly Beta: Yến Phi Ly Ra khỏi trà quán, Lục Diêu một người một ngựa chầm chậm đi. Hắn chưa từng thưởng thức qua cảnh sắc phương nam, vừa rồi cùng Bùi Kiếm Văn xưng danh có nói mình là người Ứng Thiên, mặc dù không phải nói dối, nhưng cũng không hẳn là thật. Lục Diêu nguyên quán là Ứng Thiên phủ, nhưng năm Thủy Sấn đã theo gia đình lên kinh, sau đó gặp nhiều biến cố, mới vội vàng hồi hương, lại vội vàng mà quay lại, coi như là xem hết Trường An trọn một ngày. “Tích nhật ác xúc bất túc khoa, kim triêu phóng đãng tứ vô nhai Xuân phong đắc ý mã đề tật, nhất nhật khán tận Trường An hoa(), một thiên “Đăng khoa hậu” hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh của Lục Diêu. Hắn cuối cùng cũng khiến phụ thân toại nguyện, công thành danh toại, hô phong hoán vũ. Trừ bỏ Phùng Phượng, hắn ngay cả đương kim thiên tử cũng không đặt trong mắt, chân chính là dưới một người, trên vạn người. Vốn Bùi Kiến Văn chỉ định nói đùa “lộ diêu mộng nan thành”, nhưng lúc này Lục Diêu cưỡi ngựa, nhìn núi đồi, xem ruộng đồng, nhìn mặt trời chiều ngả về phía tây, xem khói bếp trong từng thôn xóm, nhìn ngắm quang cảnh so với trong trí nhớ đã hoàn toàn thay đổi, thầm nghĩ cảnh còn người mất. Chuyện xưa năm đó như mưa phùn đêm xuân, bình minh tới liền tiêu tan không còn dấu vết. Đừng nói đến bức tranh Giang Nam trước mắt đây, trở về kinh thành hắn vẫn cô độc phiêu diêu chốn quan trường quyền thế, nơi đầu sóng ngọn gió. Hắn cũng ý thức được “sinh phùng loạn thế, thân bất do kỷ”, nhưng tại cảnh sắc an bình này tâm cũng sinh ra một chút mệt mỏi, nghĩ người sinh ở thời loạn lạc đều có chung một kết cục. Lục Diêu đạp bụng ngựa, phóng như bay về phía trước, cảm nhận gió đêm thổi vào mặt. Cái gì gọi là kết cục? Kiều thê ấu tử hòa thuận vui vẻ mỹ mãn là kết cục, lưu lạc giang hồ độc hướng thiên nhai là kết cục, hoàng thổ phần oanh mai táng ân cừu là kết cục. Không cần biết người khác nghĩ thế nào, mà suy nghĩ của Lục Diêu, cũng không sai. Giờ Tuất Lúc Diêu đã vào trong thành, không ngừng lại, mà đi thẳng đến nội phủ nha môn của Đông Hán bố trí ở cố đô. Quản sự đích thân ra nghênh đón, hành lễ rồi đưa hắn đến phòng nghị sự, mật đàm chi tiết sự vụ đến giờ Thìn. Ngày thứ hai, Lục Diêu theo đường thủy hồi kinh, xuống thuyền rồi lập tức đổi ngựa, không kịp thay y phục liền đi gặp Phùng Phượng. Từ khi Phùng Phượng chuyên quyền tới nay, dân chúng kinh thành có thể không biết đến tam công lục bộ, nhưng ngay cả người buôn bán nhỏ cho đến xe bán tương cũng biết hai mươi tư nha môn là cái nơi thế nào. Mười hai giám bốn ti tám cục này đều do hoạn quan thao túng, trong đó Ti Lễ giám đứng đầu hai mươi tư nha môn, mà Phùng Phượng kia chính là đại thái giám đứng đầu chấp bút, thân tín vây cánh vô số. Lục Diêu tính toán cả canh giờ, Hán công đã theo Ti Lễ giám trở về phủ nha, hắn liền từ Đông An Môn quay về hướng bắc, cưỡi ngựa đến Bảo Đại Phường. Đi vào phủ nha Đông Hán, nha dịch dẫn Lục Diêu vào chính sảnh, hạ nhân dâng trà. Lục Diêu uống hai ngụm, ngẩng đầu thấy hạ nhân kia vẫn chần chừ chưa đi, liền nhíu mày thầm nghĩ sao hắn không đi thông tri còn ở đây làm gì. Nha dịch thấy hắn nhíu mày, lớn gan nói, “Lục đại nhân, Đốc chủ đang ở từ đường tĩnh tư, tiểu nhân thật sự…” “Biết rồi, ngươi lui đi.” Lục Diêu biết khi Hán công đang bế môn tĩnh tư không được phép quấy rầy, cũng không làm khó hắn, chậm rãi uống cạn chén trà, rồi tự mình đến từ đường ở phía tây. Bên trong từ đường là bài vị của lịch đại Đông Hán Hán chủ, phía trước là bài phường(), bên trên bốn chữ lớn “Muôn đời lưu danh”. Lục Diêu đứng dưới bài phường, nhìn chằm chằm đại môn từ đường, do dự một lát, cuối cùng cũng không tiến tới gõ cửa, quay đầu đi đến căn phòng nhỏ bên chính sảnh. Tuy đã đến không ít lần, nhưng mỗi lần nhìn bức tượng Quan Công cung phụng trong căn phòng này Lục Diêu đều cảm thấy hoang đường. Hắn đứng khoanh tay trong sảnh, nhìn bàn thờ hương khói lượn lờ, đao đặt ngang mắt dựng thẳng, trông sống động như thật, thầm nghĩ võ thánh trung tín nghĩa dũng nếu biết hôm nay bị đặt ở đây chắc chắn tức sùi bọt mép, mang Thanh Long Yển Nguyệt đao từ âm thế sống dậy. “Tiểu Lục.” Tiếng người gọi phía sau khiến Lục Diêu đột nhiên giật mình, vội xoay người vén vạt áo, quỳ gối cúi đầu ôm quyền nói, “Hán công.” “Đã nói với ngươi rồi,” Phùng Phượng tiến hai bước, nâng Lục Diêu dậy, “Mấy cái nghi thức này miễn đi.” “Lễ tiết không thể bỏ được.” Lục Diêu ngẩng đầu, không đợi Phùng Phượng phân phó liền đứng lên, cười nói, “Hán công khí sắc không tồi.” “Ngươi hài tử này làm việc không tệ, tật xấu cũng thêm không ít.” Phùng Phượng ngồi xuống, phất tay cười mắng, “Đừng nịnh ta.” Năm ấy Lục phụ được điều vào kinh, chính Phùng Phượng ngay từ đầu đã nhận thức được sâu sắc, thu nạp nhân tài. Lục phụ thấy tình hình trong chiều rõ ràng, hoàn toàn không lấy việc kết giao với hoạn quan làm hổ thẹn, công khai quy phụng Phùng Phượng. “Đại trượng phu phải xuất chúng,” Từ nhỏ Lục phụ đã dạy Lục Diêu như vậy, “Anh hùng cũng thế, kiêu hùng cũng thế, để lưu lại cho hậu nhân dạy bảo con cái. Con người sống một đời không quá trăm năm, ngươi nhớ kỹ, không cần biết là dùng thủ đoạn gì, chỉ cần ‘trở nên xuất chúng’ là được.” Đáng tiếc ý trời khó trái, Lục phụ dù thức thời nhưng chưa làm được đại sự gì đã mắc bạo bệnh buông tay quy thiên. Bất quá, Lục Diêu từ nhỏ đã được Phùng Phượng yêu thích, thấy phụ mẫu hắn qua đời sớm, lại là con trai độc nhất trong nhà liền giữ lại, tuy chưa nhận làm nghĩa tử nhưng cũng tìm sư phó tốt dạy hắn thi thư võ nghệ, còn tự thân truyền kiếm pháp cho. Sau khi thành niên, Phùng Phượng không đem Lục Diêu đến Đông Hán nhậm chức, mà sắp xếp vào cẩm y vệ trấn thủ, lại thăng chức thiêm sự, từng bước bồi dưỡng, năm trước đã chiếm được vị trí chỉ huy sứ, cẩm y vệ giờ đã chân chính nắm trong tay Phùng Phượng. Lục Diêu chưa vội ngồi xuống, nhìn hạ nhân dâng trà cho Phùng Phượng, rồi im lặng rời khỏi thính môn, mới nói, “Ta nhớ rõ thân thể Hán công vốn không thoải mái, giờ đã đỡ hơn chưa?” “Chỉ là chút bệnh cũ, ngươi lại nhớ kĩ như vậy,” Phùng Phượng đưa chén trà đến bên miệng, “Không sao.” Lục Diêu nhìn y hạ mắt thổi nước trà, lại thấy có thanh ảnh, dừng một chút, cuối cùng cũng không nói gì. Phùng Phượng sinh năm Vạn Lịch thứ mười, hiện tại đã bốn mươi tuổi. Lẽ ra tâm tư thầm trầm, mang nhiều suy tính là của lão nhân, Phùng Phượng tướng mạo vốn đẹp, quanh năm lại dưỡng khí bồi bổ, nhìn bề ngoài cũng không quá ba mươi. Y đã thay chính mãng tứ phục (triều phục có thêu rồng có bốn chân), một kiện ti bào thiên thanh, vạt áo viền gấm xanh thẫm, tuy là do thợ may nhất đẳng làm ra, nhưng màu sắc nhạt nhẽo, khiến người mặc trông có chút mệt mỏi. Chiếc ghế bằng gỗ hoàng hoa lê() lại rộng rãi, khiến người ngồi trên đó mang đến cảm giác quá đỗi đơn bạc. Phùng Phượng sắc mặt trắng thuần, khi hạ mắt uống trà, đôi mắt phượng nhẹ khiêu, khóe mắt mang theo nếp nhăn khi cười. Bách tính đều biết, ở kinh sư này có thể khiến đứa trẻ đang khóc cũng phải nín là nhân vật luôn luôn trưng lên nụ cười nhạt này. Trong thiên hạ, kẻ nào dám không cần tính mạng mà khen Phùng công công bộ dạng xinh đẹp cơ chứ. Nhiều năm qua, Phùng Phượng trong mắt Lục Diêu thủy chung đều giống bài vị người chết trong từ đường kia. Là gỗ tử đàn thượng đẳng, câu ngọc lưu kim, chữ khải () viết bằng mực đỏ, ý dụ thánh quyến vinh sủng. () Chữ Khải: được cải biên từ chữ Lệ nhưng lấy khung vuông, đặc trưng của chữ Khải là chỉnh tề quy củ, cho nên trở thành chữ viết tiêu chuẩn của Hán tự hiện đại. Cũng là người tôn quý hoa mỹ, nhưng lại quá âm u thiếu nhân khí. “Lần này vất vả cho ngươi.” Phùng Phượng uống trà, liền nói đến chính sự, “Mọi chuyện có thuận lợi không?” “May mà được Hán công nhắc nhở.” Lục Diêu đi đến bên cạnh y, từ trong ngực lấy ra mật báo trình lên, “Đều được ghi lại trong này.” “……Tốt.” Phùng Phượng nhìn kĩ tên người đề bên trên, “Có thể xuất hiện phong thanh không?” “Ngài yên tâm,” Lục Diêu khom người, đè thấp thanh âm nói, “Thuộc hạ đã phân phó Giang Hựu Tứ, nhân chứng đã chết, dù chỉ có một chút gió thổi cỏ lay liền bẩm báo Hán công.” Giang Hựu Tứ là người ngày đó Lục Diêu mật đàm cùng với tổng quản sự, Phùng Phượng thấy hắn làm việc ổn thỏa xuất sắc liền giục hắn ngồi xuống. “Làm không tồi,” Phùng Phượng xem qua những cái tên đó, ghi nhớ, rồi chầm chậm nói với Lục Diêu, “Bên trên kia, có người ta biết, cũng có người ta không biết… Trước mắt không phải thời điểm thích hợp, bất quá…” tay vận khởi nội lực, một tờ giấy liền hóa thành bột phấn, “Sớm muộn gì cũng phải thu dọn sạch sẽ.” Năm Vạn Lịch thứ bốn mươi lăm, Phùng Phượng tiếp nhận Đông Hán, vây cánh lớn mạnh, liền bắt tay vào diệt trừ phe đối lập. Thần Tông không quan tâm chuyện triều chính, suốt ngày ở trong thâm cung cùng phi tần uống rượu vui đùa. Lại bộ thượng thư Cố Khiêm cùng vài vị cựu thần ngay thẳng nhiều lần khuyên nhủ nhưng không có kết quả, liền cùng nhau tuyên thệ, phải làm trụ cột vững chắc, khiến cho triều đình thanh sạch trở lại. Giằng co như vậy mấy tháng, người đứng đầu nội các đột nhiên bạo bệnh qua đời, nhân lúc đó Phùng Phượng an bài tâm phúc của mình đến bổ nhiệm, chưởng quan Thiên Thăng, Cố Khiêm dĩ nhiên không tuân theo, còn căn cứ vào phẩm vọng chiến tích đưa ra bảy người, không sợ chết liền quỳ trước Càn Thanh cung xin thánh thượng giảm bớt thân nhân trong triều. Lại nói năm đó, Cố Khiên ước chừng quỳ từ trưa đến giờ Dậu, xương cốt đau nhức, cuối cùng gần như mất tri giác. Đêm cuối thu gió lạnh, hắn đưa mắt nhìn Càn Thanh cung đèn đuốc sáng trưng, nghe ti trúc cổ nhạc từ trong không trung truyền tới, hốc mắt không khỏi nóng lên. Ngửa đầu trông về bầu trời xa xăm, Cố Khiêm đem lệ bức ngược trở lại trong tâm, nhìn ngắm cung điện nguy nga, thấy trên bậc thang bạch ngọc cao cao, bóng người lặng lẽ khêu đèn. Phùng Phượng tay cầm đèn ***g đứng trước cửa điện, gương mặt không gợn chút cảm xúc mỉm cười, y thản nhiên nhìn kẻ bên dưới bậc, chậm rãi nói, “Hay cho một vị cương trực công chính…” Không biết là đang nói với ai, “….hiền thần.” Y đứng ngược sáng, Cố Khiêm nhìn không rõ tướng mạo, nhưng cũng biết ngoại trừ Phùng Phượng thì không có kẻ thứ hai. Hắn tất nhiên không nghe ra thâm ý trong đó, chỉ phẫn nộ nhìn chằm chằm ngọn đèn kia, một nỗi ám ảnh, lại nỗ lực thẳng sống lưng. Cứ như vậy một hồi giằng co không tiếng động, qua nửa canh giờ, Phùng Phượng chậm rãi bước xuống đến trước mặt Cố Khiêm, khom người ghé vào lỗ tai hắn nói, “Cố đại nhân, còn trụ được không?” “… Không cần ngươi nhọc công lo lắng!” Cố Khiêm từng chữ từng chữ một lớn tiếng lãnh giọng nói. “Ồ?” Phùng Phượng nhướn mi, “Đêm khuya nhiều sương, không bằng để ta giúp đại nhân vào trước?” Cố Khiêm ngay cả liếc mắt cũng lười, bình tĩnh nhìn về bóng đêm trước mặt. Người này nhất định không tầm thường, y chắc chắn là thân cận bên thánh thượng! Phùng Phượng không thấy hắn nói gì, chỉ bất động, liền nở nụ cười nhẹ, “Vậy ta liền thanh toàn cho đại nhân lần này.” Rồi bước lên bậc thang, quay vào trong điện. Qua một chén trà, đột nhiên có thanh âm nội thị truyền tới, “Truyền Lại bộ thượng thư Cố Khiêm vào cung yết kiến!” Lệ vừa rồi kiềm chế giờ theo thanh âm truyền tống chảy xuống, hắn đường đường là Lại bộ thượng thư, làm quan hai mươi năm, nhưng lại chống đỡ không nổi một câu của một tên hoạn quan. Cố Khiêm bất giác ngẩng đầu, dùng cả tay cả chân bò lên bậc thang, tư thế tuy bất nhã, nhưng lại không dám chậm trễ. Nhiệt lệ lại không ngừng chảy xuống. Cố Khiêm đứng trước cửa điện chỉnh sửa y quan, nhịn đau bước vào trong điện, lại quỳ sụp xuống, “Thần Cố Khiêm khấu kiến bệ hạ,” lấy ra tấu chương trong ngực, hai tay trình lên, “Đây là danh sách thủ phụ kế nhiệm, vi thần cả gan thỉnh thánh thượng xem qua.” “Để đó đi.” Thần Tông đã say đến ba phần, trên mặt đã phiếm hồng, phất tay áo, “Trẫm sẽ xem sau.” “Vi thần cả gan cung thỉnh thánh thượng xem qua.” Cố Khiêm cũng không lui ra, vẫn là câu nói đó, đem tấu chương đệ lên. “Ngươi!” Thần Tông không kiên nhẫn, tâm hận hắn ngỗ nghịch, chén rượu trong tay liền phi tới, lưu lại một đường máu. “Vi thần cả gan cung thỉnh thánh thượng xem qua.” Lệ không rơi, nhưng máu đã chảy. Thần Tông định mắng hắn vài câu, lại nghe Phùng Phượng ôn nhu khuyên nhủ, “Khó được lúc ngài hưng trí, cần gì phải để cho mấy tên phá đám làm mất hứng.” Thần Tông đang tức giận đến tỉnh rượu, cũng biết tội của Cố Khiêm không nặng, hừ lạnh một tiếng, bảo Phùng Phượng đem tấu chương lại đây, mỗi trang quét mắt một cái, rồi lại để sang bên cạnh. “Cố đại nhân, hoàng thượng cũng đã xem rồi, sao ngài vẫn còn quỳ đó?” Phùng Phượng thấy Thần Tông trầm mặt không nói, liền đứng ra giải hòa, bước lêm vài bước đỡ Cố Khiêm dậy. Cố Khiêm giãy khỏi tay y, hành lễ ra ngoài, thanh nhạc lại vang lên, Phùng Phượng lấy bản tấu chương kia, giản lược lại. Thần Tông đang cùng phi tần uống rượu, thần trí toàn bộ đặt lên người các nàng, liền cho y lui. Chữ của Cố Khiêm rất đẹp, từng tờ từng tờ một đều là chữ khải cương trực, họ tên thành tích công lao chỉnh tề, đều rất tâm huyết. Phùng Phượng mỉm cười, đem tấu chương nhẹ nhàng đặt bên cạnh bàn. “Quan hàng tạp chức”(Giáng chức quan) Qua hai ngày, tấu chương chỉ trả về bốn chữ đỏ như máu ấy. Phùng Phượng tất nhiên khoái ý vô cùng, đã có thượng thư chính trực giúp đỡ, tấu chương càng ngày càng nhiều. Chính là Thần Tông cứ khư khư cố chấp, bảy người kia ngày thường hắn chán ghét không thôi, còn là lại bộ tuẫn tư, sao có thể xem nhẹ. Sóng gió qua đi, vị thượng thư liên can kia đuổi cũng đã đuổi, giáng chức cũng đã giáng chức. Cố Khiêm bị cách chức làm thường dân, mang theo tội “có ý tạo phản” cho hồi hương về phương nam. Thật ra từ thủ phụ bạo bệnh, đến tranh giành chức tước, cứ thế Cố Khiêm liều chết can gián, ôm nỗi hận hồi hương, đều là do Phùng Phượng sắp đặt. Cố Khiêm luôn mang tấu chương bên người vạn nhất gặp được thánh thượng thì đích thân trình lên, lại không ngờ được trong phủ sớm đã có mật thám của Phùng Phượng. Phùng Phượng biết được hắn chỉ có một mình liền thấy cục diện này không tồi, Cố Khiêm đúng là không hiểu rõ thánh ý, mua dây buộc mình còn oán ai? Ngày Cố Khiêm rời kinh, y khoanh tay lặng đứng trong cung điện hôn ám, chậm rãi nói: “Cố đại nhân… Thì dã, mệnh dã().” Chú thích () Bài thơ “Đăng khoa hậu” của Mạnh Giao viết về chuyện ông hai lần thi hỏng, sau đó đỗ Tiến sĩ năm 796. Dạo trước hỏng thi lắm đắng cay Vô cùng sảng khoái sáng hôm nay. Gió xuân mát rượi reo đầu ngựa Xem hết Trường An trọn một ngày. (Bản dịch của Nguyễn Phước Hậu) () Bài phường: cái cổng như thế này: () Gỗ hoàng hoa lê: hoàng hoa lê còn được gọi là cây sưa, một loài cây cực kỳ quý hiếm, có mùi hương quyến rũ thoảng nhẹ giống hương trầm, có tác dụng trong y học, người ta chỉ dùng phần lõi của những cây trên trăm tuổi bởi chúng có thớ mịn, vừa cứng vừa dẻo, hoa văn đẹp. Loài cây này quý hiếm bởi khả năng sinh trưởng chậm và giá trị cao nên bị khai thác nhiều. (theo wikipedia) () Thì dã, mệnh dã: con người sống trên đời, có những thứ phải theo mệnh.
|
Chương 3
Edit: Phong Ly Beta: Yến Phi Ly Nhưng nếu Cố Khiêm thức thời, nhận thức được thiên mệnh, sẽ không còn là Cố Khiêm. Phùng Phượng dù đã nắm được ba phần thế lực trong triều đình, vẫn chưa thể một tay che trời. Các quan viên trong lòng vẫn còn ý niệm “lật Phùng Phượng, phản Yêm đảng” trụ lại khá ít, Cố Khiêm dẫn đầu sự việc này, tựa như ném đá vào mặt hồ, khiến sóng nổi lên rồi lan ra. (Yêm: hoạn quan) Tri phủ Thường Châu cùng quan huyện Vô Tích đều là thanh quan ngay thẳng, cùng Cố Khiêm sớm đã có qua lại, lúc này dũng cảm ra mặt, giúp hắn mở thư viện Đông Lâm, mời những người cùng chí hướng tới dạy học, ngoài dạy học ra còn bàn luận việc triều chính, các nhân vật cao thấp, tự gọi là “thanh nghị” (dư luận giới thượng lưu). Phùng Phượng nghe qua chỉ lắc đầu cười nói, “Cổ hủ.” Hắn lần nay vội vàng cùng binh bộ thượng thư đấu tranh gay gắt, thầm nghĩ nếu dùng binh đao mà có được thiên hạ, liền cho ngươi vài tin đồn thì thế nào? Nhưng Phùng Phượng không lường được, Cố Khiêm ở Đông Lâm thư viện lại như tinh hỏa liệu nguyên(), nhất thời “Sĩ đại phu bão đạo xử thì giả, suất thối xử lâm dã, văn phong hưởng phụ”(1), dù lo lắng đến đâu vẫn không ngăn được miệng lưỡi chúng nhân. Trong triều còn lại mấy khối xương cứng cáp là chỗ dựa ngôn luận vững chắc, vòng vo tam quốc một hồi, cũng không cùng Phùng Phượng chống chọi, âm thầm gạt chân y, chẳng quản có tác dụng hay không, vì có thể làm cho Phùng Phượng thống khổ, bọn họ mới thống khoái. () Tinh hỏa liệu nguyên: một đám lửa nhỏ cũng có thể thiêu cháy cả cánh đồng. Ý nói những việc nhỏ cũng có thể phát sinh ra chuyện lớn, lực lượng nhỏ lẻ cũng có thể gây ra sóng to gió lớn. Thời cuộc liền như vậy ngươi tiến ta lui, ngươi lui ta tiến rồi đi vào bế tắc, cứ như vậy, Thần Tông băng hà, Quang Tông kế vị, Quang Tông trị vì được một tháng thì băng hà, Hi Tông kế vị. Niên hiệu từ Vạn Lịch đổi thành Thái Xương rồi lại thành Thiên Khải, người trên long ỷ thay đôi ba lần, thời gian thấm thoát thoi đưa. Phùng Phượng đã sớm cấu kết cùng nhũ mẫu của Hi Tông, Hi Tông cũng không dám phản kháng con người quyền lực đã nhìn hắn lớn lên ấy. Binh bộ thượng thư cuối cùng cũng già, liền mang chút tâm lực cuối cùng của mình là con rể, Trấn Quốc tướng quân Chu Mộng Lân điều ra biên quan rồi buông tay rời khỏi nhân gian. Bất quá nước cờ cuối cùng này khiến Phùng Phượng cố kỵ biên quan mười vạn đại quân kia năm năm trời. Đông Lâm đảng năm năm này cũng tính trăm phương ngàn kế, một thư viện đơn giản chỉ dạy học, giờ đã cùng phe phái Phùng Phượng đối đầu như nước với lửa. Phùng Phượng sớm hạ quyết tâm, phải thừa dịp đi thảo sát kinh thành đầu xuân sang năm để nhổ cái đinh trong mắt, cái gai trong thịt đó ra. Lần này Lục Diêu đi về phương Nam, nhìn như đi một mình, nhưng thực chất hắn tùy thời sẽ điều động mật thám bày bố cục diện, đem cái Đông Lâm đảng kia tra xét kỹ càng. “Tiểu Lục à, mùa thu năm nay mà rảnh, lại theo giúp ta đi Hương Sơn tự ở mấy ngày, haha… cùng ăn đồ chay của lão hòa thượng, rồi chơi cờ, ngắm cảnh.” Ngày đó sau khi bàn xong chính sự, Phùng Phượng đột nhiên hướng Lục Diêu cười nói. “Chỉ cần Hán công có hứng, thuộc hạ đương nhiên phải đi theo hưởng phúc.” Lục Diêu thầm nghĩ Đại Thử (2) còn chưa qua, đã tính đến chuyện đi chơi, “Chính là chơi cờ thì ta xin kiếu, lần trước thua Hán công bức Tuyết cảnh hàn lâm đồ (3), lòng ta vẫn đau không ngớt đây.” Phùng Phượng mỉm cười, lại cầm chén trà uống một ngụm, thầm nghĩ, “Được lắm, càng đến cuối thu sắc trời càng đẹp, các ngươi đã muốn như cây phong bình thường không thức thời, ta lại muốn xem cảnh sắc giang sơn nhiễm huyết!” Mùa thu năm Thiên Khải thứ năm, Lục Diêu rốt cuộc cũng không rảnh đi nhìn Hương Sơn lá đỏ. Phùng Phượng lần này chưa có động tĩnh gì, Đông Lâm đảng lại kiềm chế không được. Tuần phủ Ứng Thiên, phủ đốc thường trực của Tô Châu trong một đêm chết bất đắc kỳ tử trong nhà, tin tức truyền đến kinh thành, Phùng Phượng nổi giận. Tuần phủ đích thân để ý dân chính, nam lương bắc điều hàng năm đều là hắn đích thân xử lí. Hắn vừa chết, tuần phủ kế tiếp nhanh chóng được bổ nhiệm, nhưng nhất thời cũng không rõ nông sâu, sợ rằng thực quyền sớm vào tay người ngoài. “Quay lại khác gì gây phiền toái cho đệ.” Phùng Sanh gắp một miếng ức gà, hướng Lục Diêu oán hận nói, “Kia nếu ra sức khước từ không phát lương, bên này giá gạo sẽ tăng, lại để cho người ta nói này nói nọ. Còn thủy vận, huynh có biết hàng năm lỗ mất bao nhiêu bạc không? Bao nhiêu năm qua không thể nào giải quyết được chuyện này, công bộ giao cho mình đệ, thao thao bất tuyệt một hồi chung quy cũng chỉ có hai chữ ‘đòi tiền’, đệ còn muốn cùng lão bang tử (cái mõ) Dương Tôn Nho kia đấu trí đấu dũng. Nghe đi, Tôn Nho, tên gì chua loét, nhưng cũng đừng giống đệ lấy hơi tiền hành người a.” Phùng Sanh chính là nghĩa tử của Phùng Phượng, so với Lục Diêu nhỏ hơn năm tuổi, từ nhỏ cùng nhau lớn lên, mặc dù không phải huynh đệ ruột thịt nhưng tình cảm không khác gì thân nhân. Toàn bộ chuyện gạo tiền cống nạp và thuế của thiên hạ trong tay bộ hộ, Phùng Phượng không dám giao cho người khác, sớm đã đề bạt Phùng Sanh làm Hộ bộ thị lang. Hộ bộ thượng thư tuổi già sức yếu, đừng nói là xử lí công việc, ngay cả đi đường cũng không xong. Hiện nay việc lớn nhỏ đều do hai vị thị lang quản, một vị khác chính là lão bang tử mà Phùng Sanh nhắc đến, Đông Lâm đảng Dương Tôn Nho. “Phong thanh, vũ thanh, độc thư thanh, thanh thanh nhập nhĩ gia sự, quốc sự, thiên hạ sự, sự sự quan tâm.” (Tạm dịch: Tiếng gió, tiếng mưa, tiếng đọc sách, tiếng gì cũng lọt tai Chuyện trong nhà, chuyện quốc gia, chuyện thiên hạ, chuyện gì cũng quan tâm) Đây là câu đối ngày đó Cố Khiêm đích thân sáng tác, tuyên khắc vào cổng lớn của Đông Lâm thư viện. Hiện tại người đã qua đời, chỉ còn lưu lại câu đối, còn không phải một lòng vì nước. Tỉ dụ như thủy lợi hưng thịnh, thủy vận thông suốt vẫn là chính sự, Dương Tôn Nho lại là người ưa tranh chấp, chứa nhiều suy tính, năm lần bảy lượt gây khó dễ. Bá tánh chúng sinh? Giang sơn tươi đẹp! Từ xưa đến nay, các triều đại đều có tranh đấu quyền thế, không phải tranh đến cuối cùng lại không về được như lúc đầu. “Trong kinh ai chẳng biết Phùng thị lang tài mạo song toàn, phong lưu phóng khoáng,” Lục Diêu rót đầy rượu cho Phùng Sanh, “Làm sao giống người đầy hơi tiền hành kẻ khác được chứ.” “Đại ca đừng lấy đệ làm trò cười,” Phùng Sanh nâng chén, nhướng mày, “Lần trước đi Tú Mãn lâu, đệ có thể thấy được Hồng Tụ cô nương phải gầy đi hai phần, thật ứng với câu ‘vi y tiêu đắc nhân tiều tụy’(4), lại không biết là phán ai đây?” “…Đệ rõ ràng trước đây chỉ biết kêu gào đòi công bằng” Lục Diêu thở dài, cười mắng, “Giờ lại học được nhỏ mọn đòi quyền lợi.” “Đều là nhờ phúc của Dương đại nhân, ngày ngày cùng đệ cãi nhau vì mấy chuyện nhỏ nhặt như cân hành vỏ tỏi.” Phùng Sanh cũng thở dài, bất đắc dĩ nói, “Đây là dù câm điếc cũng giận đến mức xuất khẩu thành thơ.” Lúc Lục Diêu gặp Phùng Sanh, đứa nhỏ kia mới chỉ có năm tuổi, mình cũng bất quá mới mười tuổi. Tiểu Phùng Sanh bộ dạng phấn điêu ngọc trác, thông minh lanh lợi, vì trong nhà gặp biến cố, liền sinh hoảng sợ, không dám nói chuyện. Năm ấy Phùng Phượng vẫn còn làm việc dưới tay Hán công tiền nhiệm, ngày thường ở trong cung, mười ngày nửa tháng mới đến một lần, kiểm tra luyện tập võ nghệ. Một tòa nhà, trừ bỏ võ sư, chỉ có mấy nha hoàn đầu bếp nữ, cùng hai đứa nhỏ mồ côi, nhìn mặt trời lặn rồi mọc, hoa cỏ sinh trưởng rồi héo tàn. “Lục quách quách.” Đây là câu đầu tiên tiểu Phùng Sanh nói được, Lục Diêu sửng sốt một lúc lâu, mới hiểu hắn đang kêu Lục ca ca. Một tiếng ca ca này cũng đã gọi rất nhiều năm. Thời gian thấm thoát trôi qua, giờ hắn đã cao gần bằng Lục Diêu, đứa nhỏ tròn vo như cục bột năm đó cũng đã trở thành nhân vật ôn nhã phong hoa nội liễm. Chỉ còn đôi mắt đen láy là không đổi, cười một cái liền cong lên như lưỡi liềm. “Cũng phải nói… Đốc chủ lần này giận không phải vừa,” Không biết có phải là được phân phó hay không, mặc dù nhận y là nghĩa phụ, Phùng Sanh vẫn gọi Phùng Phượng là Đốc chủ, “Nghe nói khó giải quyết lắm?” Lục Diêu cười cười uống rượu gắp thức ăn, “Không có gì, cùng lắm thì huynh lại đi một chuyến.” Ứng Thiên tuần phủ kia chết không phải do bạo bệnh, mà là bị một chưởng đoạn hết tâm mạch, ngay cả xương sườn cũng gãy không ít. Người của Lục Diêu đã sớm điều tra rõ, người này tên Hứa Chân, cũng là “Tật phong cửu kiếm, khoái ý ân cừu” nổi tiếng trên giang hồ. Lục Diêu không tin người này thật sự muốn xen vào quan trường tranh đấu, nhưng lần này nhất định phải lấy mạng hắn. Lục Diêu phái ra hai nhóm nhân mã lùng bắt kẻ bị chụp cho cái danh “Giang dương đại đạo mưu hại mệnh quan triều đình”, nhưng chỉ có hơn phân nửa quay lại. Ngoài miệng nói cùng lắm thì mình đi một chuyến, trong lòng Lục Diêu cũng đã có tính toán. Hứa Chân không thể không giết, nhưng lại vì thể diện của cẩm y vệ, khác gì giết gà dọa khỉ. Giang hồ là giang hồ, quan trường là quan trường. Hắn thấy người giang hồ xem thường hậu quả hiệp nghĩa, chân trời góc bể, nhưng ai có thể thoát được thiết kỵ của cẩm y vệ. Công sự của bên trên Lục Diêu không thể thoái thác, thám tử lại mật báo, biết được Hứa Chân đang trốn ở phương bắc, liền tự mình dẫn mười hai đề kỵ thẳng tiến Liêu Đông. Mười hai người này là hầu cận trong chi Mão của Lục Diêu, không thể so sánh với hán vệ tầm thường. Chớ thấy trên quan đạo Lục Diêu chỉ có một mình, thực chất phía sau còn có mười hai người xếp thành hai hàng, đều là hắc sưởng (áo lông cừu) cưỡi ngựa đen, bụi đất cuồn cuộn một đường, từng bước từng bước nghiêm chỉnh như một. Trước khi đi Phùng Phượng dặn Lục Diêu phải bắt sống, không phải để thẩm cung, mà là vì theo luật pháp thiên triều, tử hình là hình phạt khắc nghiệt nhất, mà Hứa Chân mưu hại mệnh quan triều đình, án đã truyền ra, giang hồ, triều đình, dân chúng đều chú ý. Đông Lâm đảng lại dùng ngòi bút làm vũ khí, vì Hứa Chân giải oan, kiên quyết đời ấn theo luật mà điều tra kĩ càng, đích thân Hi Tông phán xét. Phùng Phượng trong lòng biết rõ, Đông Lâm đảng chính là mượn cơ hội gây sự, không phải là vì tính mạng Hứa Chân. Y cười lạnh nói với Lục Diêu, “Sớm muộn gì cũng chết, thẩm vấn thì sao, bọn họ muốn hoàn thành tâm nguyện này như thế nào?” Lục Diêu không phụ Hán công nhắc nhở, đem người nguyên vẹn trở về. Dĩ bỉ chi đạo hoàn bỉ chi thân (lấy của ai thì trả về người đó), Hứa Chân nhìn như ngoại thương không nặng, kì thực đã gãy ba cái xương sườn. Mặc dù đã được băng bó cố định, nhưng một đường ngồi xe xóc nảy cũng khó mà chịu nổi. Chầm chậm đi về, Lục Diêu trở lại kinh sư đã là tiết Thu phân. Trong kinh áp chế tin mật báo chờ hắn quyết định từ trong ngục hỏi ra lời khai của Kinh Trấn phủ ti, mấu chốt vẫn là muốn hắn tự mình xem qua càng miễn bàn trung thu hàng năm có vô số việc cần làm, có thể phê hay không thể phê, nên làm hay không nên làm, không nên ban thưởng hay ban thưởng bao nhiêu, đều hao tâm tổn trí. Thu chủ sát, tiết Thu phân, bạch lộ, tiết Sương giáng, ít nhiều đều dính đến tử vì theo quan niệm đây là tháng linh hồn lưu lạc nhân gian trở về hoàng tuyền. Chiếu hành hình đầu tiên bố cáo đã ban ra, trong ba tầng ngoài ba tầng vây quanh không ít bình dân bách tính, người biết chữ cao giọng đọc bố cáo danh lục cùng tội trạng, đọc một lượt liền một trần ồn ào, kia có cả tội *** loạn, liền một trận cười đùa ầm ĩ. Lục Diêu nắm dây cương, không xa không gần nhìn đám người. Có giọng nói thô dát kêu to nhất định phải định xem hành hình, lại có thanh âm tán thành rời rạc. Cái gọi là loạn thế, bất quá họa không đến mình, liền đi xem náo nhiệt. Ngày hôm đó, Lục Diêu mặc quan phục, trong đám người náo nhiệt có người quay đầu nhìn thấy hắn. Giống như chậm rãi an tĩnh, lại như đột nhiên rơi vào tĩnh lặng, đám người không dám phát ra một chút tiếng động, tản mác ra tứ phía. Cuối cùng chỉ còn lại một người mặc bạch y đứng giữa khoảng trống, bình tĩnh nhìn Lục Diêu, ôm quyền nói: “Lục huynh, đã lâu không gặp.” 1. Trích Minh sử quyển 321 Cố Hiến Thành truyện. 2. Đại thử: một trong 24 tiết, vào khoảng 22, 23, 24 tháng 7, là khoảng thời gian nóng nhất. 3. Tuyết cảnh hàn lâm đồ: cảnh tuyết trong rừng lạnh. 4. Vi y tiêu đắc nhân tiều tụy: ý lấy từ một câu thơ trong bài ‘Điệp Luyến Hoa’ – Liễu Vĩnh: Y đái tiệm khoan chung bất hối, vi y tiêu đắc nhân tiều tụy: Áo quần rộng dần (gầy đi) nhưng trước sau cũng không hối hận, chỉ vì người ấy (nhớ nhung) mà hao gầy tiều tụy.
|
Chương 4
Edit: Phong Ly Beta: Yến Phi Ly Rượu say nồng, cảnh yên vui. Kinh sư phồn hoa, bách tính muôn nơi đều tụ hợp. Rượu là sản phẩm Đan Dương chính tông nổi tiếng, hâm nóng vừa đủ, vàng sánh trong veo hài hòa, rất hợp với câu “Mỹ tửu thập lí hương, ngọc oản hổ phách quang” (rượu ngon hương thơm bay vạn dặm, chén ngọc ánh lên sắc hổ phách) đồ ăn chỉ là những món thường nhật của người dân Nhữ Châu, nhưng vào đến tửu lâu kinh sử lại không hề tầm thường: thịt lợn sữa thơm ngon bóng mềm tinh tế, đậu phụ nhồi thịt om dầu, tôm chiên vàng giòn, để món ăn thêm ngon miệng, không thể thiếu, màu xanh của hành, vàng của kim châm, hồng của tương liêu, năm món bày lên, sắc hình đều toàn vẹn. Bùi Kiếm Văn ngồi bên cửa sổ, ăn uống sảng khoái, đột nhiên bị tiếng gào khóc dưới đường phân tâm. Y nhấc đũa lên xem xét, rồi gắp tôm chiên đưa lên miệng, chậm rãi tỉ mỉ nhai. “Quan gia, oan uổng quá! Tiểu nhân thật sự chỉ bán da thú, chưa hề phạm pháp, oan uổng a….” “Ngươi nói oan uổng thì là oan uổng sao? Oan hay không thẩm vấn là biết, còn không ngậm ngay miệng thối lại cho ông!” Hóa ra là cẩm y vệ bên đường bắt người, rõ ràng là không cần biết phải trái đúng sai, thấy hơi tiền liền nổi lòng tham. Bùi Kiếm Văn hiểu rõ, trong kinh cẩm y vệ bắt người không mang về nha môn, mà tìm một ngôi miếu hoang, đem người đánh một trận, nói là “Đóng cọc”. Người bị bắt phải moi hết tiền tài giao ra, thiếu một đồng liền bị đưa vào nha môn dùng mọi cách tra tấn, thậm chí là mất mạng vô tội. Y lần này vào kinh làm việc quan trọng, không muốn dính vào chuyện không đâu, nhưng tôm chiên trong miệng càng nhai càng giống như nhai rễ cây, không có tư vị gì cả. Thầm thở dài, Bùi Kiếm Văn vẫy tay gọi tiểu nhị tới thanh toán, uống ngụm rượu cuối cùng rồi đứng dậy xuống lầu, tiếng khóc nho nhỏ rời đi, y cũng nhanh chóng đi theo. Trên đường nhiều người nhìn y, thầm nghĩ Bùi Kiếm Văn chán sống, còn ở xa xa bên kia, thấy hai kẻ lực lưỡng ép một người vào miếu, y liền vọt đến chân tường, nhìn bốn phía, nhẹ nhàng đề khí, một bóng trắng phi thân qua, còn tưởng rằng ban ngày thấy ma. “Thật sự là hết rồi, quan gia tha mạng, quan gia tha mạng…” Thương nhân bán da thú kia từ trong ngực lấy hết chi phiếu cùng bạc dâng lên, còn dập đầu như giã tỏi, bị một tên đạp một cước ngã lăn vài vòng trên đất. Bùi Kiếm Văn không muốn lộ diện, liền xoay người lên nóc nhà, nhẹ nhàng lật một mảnh ngói lên. Không chút trì hoãn, y thuận tay lấy ra hai đồng tiền, từ lỗ hổng trên mái nhà bắn xuống. Hai tên cẩm y vệ lực lưỡng kia đều bị bắn trúng vai, chúng võ công tầm thường, không nghe được tiếng gió, liền bị bắn trúng huyệt Bách hội, ngay tức khắc ngã xuống đất hôn mê. Bùi Kiếm Văn không muốn giết người, mới để ý lực đạo, chỉ khiến người ta mê man khoảng một canh giờ, đủ để thương nhân kia chạy thoát. “Tiểu nhân khấu tạ Bồ Tát hiển linh!” Mà thương nhân bán da kia cũng thật thú vị, vừa rồi còn ngã chổng mông, dây dưa cho đến tận lúc y đến, đánh cho hai hán tử tráng kiện như hung thần ác sát kia vô thanh vô tức bất tỉnh, còn tưởng Bồ Tát phù hộ, không vội chạy thoát thân, còn cung kính dập đầu. “Này… cũng không phải là tiểu nhân tham tài, bạc kia vốn là của tiểu nhân… Bồ Tát đừng trách, Bồ Tát đừng trách…” Bùi Kiếm Văn nhịn cười nhìn gã miệng thì thì thầm thầm, run run lấy lại bạc, rồi xoay người chạy thục mạng, cũng nhảy xuống từ nóc nhà, từ sau miếu đi ra. Thật ra trong thâm tâm của Bùi Kiếm Văn luôn khắc sâu một điều, phải đem hai tên đại hán kia đánh gãy tay chân, hung hăng giáo huấn, hai ba tháng không xuống được giường mới thống khoái. Chính là lần này trước khi lên kinh trong nhà đã ồn ào một trận, chuyện Bùi phụ nói dường như không có câu nào vào tai y, thế nhưng trong lòng vẫn âm thầm gật đầu. “Con cũng không còn nhỏ, sao lại không hiểu chuyện như vậy…” Bùi phụ nói rồi thở dài, “Thôi… không hiểu thì thôi đi…” Ai nói y không hiểu, Bùi Kiếm Văn thầm nghĩ, y cũng hiểu giáo huấn hai kẻ kia thì cũng không thể giáo huấn hết những kẻ trợ Trụ vi ngược (giúp vua Trụ làm điều ác: ý là nối giáo cho giặc, giúp người khác làm điều xấu) trong thiên hạ cứu được một người, cũng không cứu được hết ngàn vạn lê dân bá tánh. Hai con chó săn này dù có đánh chết cũng thế, chỉ càng làm cho quan phủ thêm cảnh giác, biết có người giang hồ vào kinh. Lúc này để lộ hành tung là một nước cờ sai lầm. Bùi Kiếm Văn không phải không nghĩ tới điểm này, nhưng sự tình ngay trước mắt, hắn không thể không để ý. Thiên tử ngu ngốc, gian thần họa quốc, giống như người đang trong lúc nguy kịch, ngũ tạng lục phủ đều thối rữa sinh bệnh, cũng không phải một hai thang thuốc là trị hết. Bùi Kiếm Văn cảm thấy, giết Phùng Phượng rồi cũng sẽ có Chu Phượng Lí Phượng, dù có là Đông Lâm đảng luôn tự cho là trong sạch, thanh cao, cũng không phải tất cả đều tốt. Y từ lúc sinh ra chưa từng mang ý niệm một mình một kiếm bảo vệ thiên hạ, thương cho ba tánh, này cũng thật buồn cười, không phải châu chấu đá xe thì là cái gì. Nhưng vẫn câu nói kia, sự tình đã ngay trước mắt làm y phải ra tay, không thể không quản! Cứu một người là một người, như Hứa Chân kia, tuy chỉ cùng Bùi Kiếm Văn gặp mặt một lần, một chén rượu giao tình, nhưng y vốn kính trọng người có phẩm cách tiêu sái, làm việc trượng nghĩa, liền thành tâm gọi hắn một tiếng “Hứa đại hiệp”, nghĩ ra nghìn cách để giúp hắn. Ngày đó Bùi Kiếm Văn nói với Lục Diêu “Tiểu đệ còn có chuyện riêng chưa xong”, là cha y cùng tiểu nương gọi y về nhà nhưng dây dưa lâu ngày chưa thấy, liền phái không ít gia đinh xuất môn tìm người. Bùi tiểu gia coi như không có gì, vẫn chạy đông chạy tây, tự mình gây sức ép đủ đường rồi mới hi hi ha ha về nhà xin lỗi. Bùi phụ trách y tâm tính vui đùa quá ngang bướng, cấm y ra ngoài, lệnh cho ngày ngày phải cùng tiểu nương chép kinh Phật, “Đến chừng nào ta cho phép, con tuyệt đối không được bước chân ra khỏi cửa nhà.” Mẹ đẻ của Bùi Kiếm Văn là chính thê của Bùi phụ, vốn là quan gia nữ nhi được gả đi vì quan lộ của phụ thân, luôn nhớ về tình nhân trước kia, không hề có chút tình nghĩa gì với Bùi phụ, cả ngày buồn bực không vui, ở trong phòng viết thơ thương xuân bi thu. Mặc cho Bùi Kiếm Văn còn nhỏ, cũng giao cho vú nuôi trông nom. Tiểu thiếp Bùi phụ nạp lại là người tính tình dịu dàng, tuy xuất thân thanh lâu, nhưng thái độ làm người hay xử sự đều khiến tiểu Kiếm Văn thích, thâm tình phát sinh ngược hẳn với mẹ đẻ. Năm y mười lăm tuổi Bùi mẫu mất, Bùi phụ đem nàng lên làm chính thất, Bùi Lí thị ra sức chối từ không chịu, Bùi Kiếm Văn vài lần năn nỉ cũng không được, liền chỉ thẳng vào Bùi phụ nói, “Lão đầu tử, chưa cần nói đến danh phận gì đó, ông sau này dám có lỗi với tiểu nương, đừng trách đứa con này của ông trở mặt.” Bùi Lí thị thân thể yếu đuối, lại luôn nhớ rõ mình xuất thân thấp hèn, sợ khi đến Diêm Vương điện phải chịu tội, hằng năm đều chép kinh Phật. Bùi Kiếm Văn mặc dù khinh thường thứ bỏ đi này, nhưng lại rất hiếu thuận, chép kinh để luyện chữ, bỏ đi lối hành thảo(1) rồng bay phượng múa, đổi lại được nét chữ lệ(2) quy củ nhất quán, cùng chữ khải của tiểu nương Trâm Hoa đặt cùng chỗ trông rất đẹp mắt. Ngày ngày trừ bỏ chép kinh, Bùi tiểu gia còn hay nghịch ngợm hoa cỏ, rượu tự rót tự uống, lại lấy dã sử tạp ký giải sầu, cũng không phải là không thú vị. Chính là không được ra khỏi nhà, cắt đứt tin tức của giang hồ, đến lúc nghe Hứa Chân gặp nạn đã quá muộn. Bùi Kiếm Văn chỉ mong mau mau ra ngoài đi tìm, nhưng lại không biết Hứa Chân hiện tại đang ở đâu, trước cần cân nhắc tính toán hai ngày. Bùi phụ cũng nói gần đây cẩm y vệ đi khắp nơi tróc nã trọng phạm triều đình, trên giang hồ cũng không yên ổn, nhìn Bùi Kiếm Văn ngày thường hấp tấp, bừa bãi, lại yên ổn như vậy hẳn đã có tính toán, trong nhà vừa hay hầm băng đang bỏ trống, không đợi y chuồn đi đã sai gia đinh chặn lại. Bùi tiểu gia chẳng thèm đển đám gia đinh kia vào mắt, không cần rút kiếm, chỉ đánh bừa bãi mấy cái liền giải quyết xong. Nhưng thấy Bùi phụ đứng giữa sân, một tay chỉ vào y, một tay ôm ngực, sắc mặt trắng bệch xanh xao, không biết có phải bệnh tim tái phát hay không, liền ngoan ngoãn bị ép vào hầm băng, liền thầm mắng cha y lúc này tại sao lại phát bệnh đúng lúc vậy. Nhưng bị giam giữ cũng không yên, Bùi Kiếm Văn là loại người ngươi không cho y làm cái gì, y lại càng muốn làm, nhịn bảy tám ngày, đánh giá sức khỏe Bùi phụ chắc đã tốt lên rồi, liền nhờ gia đinh đưa cơm nhắn lại rằng y biết sai rồi, cầu ông thả y ra. Bùi phụ ở trong triều hiểu được Hứa Chân đã bị bắt về quy án, hiện đang bị áp giải vào kinh. Tuy định nhốt Bùi Kiếm Văn thêm hai ngày, lại nghe gia đinh do dự nói, “Thiếu gia nói, nếu ngài không để cậu ấy…” “Làm sao?” “Thiếu gia nói cậu ấy liền… tuyệt thực…” “Tiểu tử này!” Bùi phụ đập bàn, cả giận nói, “Ngươi để nó nhịn đi! Mặc kệ nó, ba ngày không ăn cũng không chết được!” Miệng nói như vậy, nhưng Bùi phụ cũng đau lòng đứa con này, ngày thứ hai liền đem Bùi Kiếm Văn thả ra, lệnh gia đinh canh giữ nghiêm ngặt. Bùi Kiếm Văn thấy sắc mặt cha hắ hồng nhuận, có khí lực mắng người, liền biết ngày ấy ông lừa mình, thầm mắng “Cáo già”, đến đêm, không chần chừ thu thập hành trang, điểm huyệt gia đinh trực đêm dắt ngựa trốn mất. Dây dưa một lúc, đến khi Bùi Kiếm Văn theo tin tức thúc ngựa lên kinh thành, Hứa Chân đã sớm bị giam vào ngục, chỉ đợi thẩm vấn rồi chặt đầu thị chúng. Bùi Kiếm Văn cũng không biết triều đình có thực sự thẩm vấn hay không, ngày đó nhảy qua tường miếu, đi qua mấy con phố liền gặp mấy nha dịch đang dán bố cáo hành hình, vội chen vào nhìn. Y cẩn thận đảo qua một cái, xác thực không thấy tên của Hứa Chân liền nhẹ nhàng thở ra, thoát khỏi đám đông, lại liếc mắt một cái thấy Lục Diêu. Kì thực không phải Bùi Kiếm Văn nhìn không thấy hắn, phi ngư phục sức trạch minh hoàng (Phong Ly: các bạn trẻ xem Tứ Đại Danh Bổ hay bất kì phim gì thấy mấy anh cẩm y vệ hay Đông Xưởng mặc cái gì thì chính là cái anh Diêu đang mặc đó:3 khỏi giải thích nhiều khó hiểu)dương quang như vậy sao lại không thấy. Ngày đó gặp mặt, Lục Diêu một thân y phục màu xám cũ kĩ, phong trần mệt mỏi, trong ấn tượng của Bùi Kiếm Văn là một người khiêm tốn. Rồi sau đó từ biệt, đảo mắt đã nửa năm, hiện tại Lục Diêu nghiêm mặt ngay ngắn ngồi trên ngựa, mày kiếm mắt sáng, bất nộ tự uy (không giận cũng sinh uy). Mấy ngày liền bôn ba còn có công vụ phiền lòng, người có chút gầy đi, đường nét khuôn mặt càng thêm sắc nét. Lại nhìn kim xán quan y người nghe đã sợ mất mật kia, trước ngực thêu một loài không phải chim cũng chẳng phải thú mà trong “Sơn Hải kinh”(3) có ghi lại “Phục chi bất lôi, khả dĩ ngự binh” là thượng cổ thần vật, có vòi, đuôi cá, đuôi mắt cổ cánh đều phát ra uy nghiêm. Cơn gió thu làm đai lưng cọ lên áo khoác, vạt áo tung bay để lộ ra Tú Xuân đao, vỏ đao làm bằng loại da màu mực tốt nhất, từng động tác, từng cái nhếch miệng đều thể hiện sát khí tôn quý. Đó là ngày ấy, lấy trà thay rượu, nói cười râm ran. Y thích hắn khiêm tốn thân thiết, hắn thầm khen y thiếu niên anh hùng. Bất quá thời khắc thay đổi, hạ trùng chết đi rồi đến thu thảo, lúc này y nhìn hắn lạnh lùng thầm nghĩ: “….Hay cho dáng vẻ sát khí tôn quý.” Lúc Bùi Kiếm Văn trông thấy Lục Diêu, Lục Diêu cũng thấy y. Đám người lặng im, rồi tản ra, hai người đứng hai đầu đường không người, thẳng nhìn nhau, Lục Diêu có chút hoang đường nghĩ, “…Hóa ra mỗi lần gặp người này, xung quanh đều vô thanh vô tức như vậy.” “Lục huynh, đã lâu không gặp?” Đám người xung quanh càng tản ra, để lại khoảng không như sân khấu hát kịch không có người xem, Lục Diêu vẫn ngồi trên ngựa, chắp tay đáp lời y: “Bùi thiếu hiệp, lâu không gặp.” Lục Diêu nghĩ Bùi Kiếm Văn hẳn là căm ghét mình như thù địch. Giống như một thân bạch y kia, không nhiễm nửa điểm dơ bẩn. Bùi Kiếm Văn đúng như Lục Diêu dự đoán, khách sáo một hồi rồi nói còn có công chuyện, liền quay đầu đi. Lục Diêu ngồi ngay ngắn trên ngựa, thấy y từng bước từng bước càng ngày càng xa, cũng kéo cương thúc ngựa rời đi. Trong lòng thầm nghĩ, quả nhiên một nhân vật ái tựa liệt dương, hận như bão vũ (yêu thì mãnh liệt tựa ánh mặt trời, hận thì như cuồng phong bạo vũ), lại nghe phía sau có động tĩnh, vừa quay đầu liền thấy Bùi Kiếm Văn không để ý ánh mắt người khác, thi triển khinh công ngay giữa đường, vài bước đã đến nơi. “Lục đại nhân, lần trước tại quán trà không có rượu, Bùi mỗ còn thiếu ngài một chén rượu tạ ơn,” Bùi Kiếm Văn nhấn mạnh ba chữ “rượu tạ ơn”, “Lục đại nhân khi nào rảnh, mời đến khách *** Tập Hiền ở thành đông uống vài chén!” Lục Diêu nghe Bùi Kiếm Văn gọi hắn “Lục đại nhân”, cũng không tự xưng “tiểu đệ” nữa, liền biết y đã xem lần gặp ở trà quán kia quăng đi sạch sẽ. Nói là rượu tạ ơn, còn không phải căm hận bất bình tìm cơ hội cùng mình so chiêu sao? Lục Diêu nhìn Bùi Kiếm Văn nói xong liền xoay người đi, trong lòng lắc đầu cười khổ, đem cái câu “ái tựa liệt dương, hận như bão vũ” kia bỏ thêm tám chữ —- Suất tính nhi vi, thiếu niên khinh cuồng. (làm việc theo cảm tính, tuổi trẻ ngông cuồng) ========= (1) Hành thảo: là hai lối viết thư pháp của Trung Quốc. – Chữ thảo là lối viết nhanh nhất, mà cũng đơn giản nhất cho nên rất khó đọc, thường được dùng trong tốc ký, thực hành thư pháp, viết thư hoặc viết nháp. – Chữ hành là chữ khải viết nhanh và tự do nhưng không đến mức phóng túng như chữ thảo, được sử dụng phổ biến trong quá trình viết tay. (2) Chữ lệ: là dấu mốc quan trọng mở đầu cho thời kì người Trung Quốc cổ đại thoát khỏi hệ thống chữ tượng hình, thường được dùng trong các trường hợp trang trọng, hiệu quả của chữ viết hơi rộng về chiều ngang, khung chữ hình chữ nhật, gần giống với chữ khải ngày nay. (3) Sơn Hải kinh: thư tịch thời Tiên Tần của Trung Quốc, trong đó chủ yếu mô tả các thần thoại, địa lý, động vật, thực vật, khoáng vật, vu thuật, tông giáo, cổ sử, y dược, tập tục, dân tộc thời kỳ cổ đại.
|