Mãn Thiên Phong Vũ Hạ Tây Lâu
|
|
Chương 10
Edit: Phong Ly Beta: Yến Phi Ly “Biệt lai xuân bán, xúc mục nhu tràng đoạn” Bùi tiểu gia đứng dậy, nâng chén Ngọc đái xuân lên uống cạn phân nửa, tay phải cầm quạt vỗ vai Lục Diêu, từng câu từng chữ từ miệng xuất ra đều mang xuân ý nồng đậm như men rượu, lại thiếu đi chút buồn bã thảm thiết. Lục Diêu thấy ý cười trong mắt y, liền biết lần này Bùi Kiếm Văn lấy cau thơ trong ra đùa, lập tức phất tay như đuổi ruồi bọ, “Nhanh dâng hoa ngươi mượn đi.” Lời còn chưa dứt, trước mắt nhoáng lên một cái, bóng người đã cách mấy trượng, nhanh như tên bắn, quá tuyết vô ngân (đi trên tuyết mà không để lại dấu chân). Lục Diêu sớm biết khinh công của Bùi Kiếm Văn phiêu lượng đến đâu, Phùng Sanh lần đầu nhìn thấy, đáy lòng cũng không khỏi thảng thốt. Mấy cây mai xung quanh đình cũng phải cách chừng hai mươi trượng, đêm hôm đó xông vào chiếu ngục, cả trong lẫn ngoài tường tổng thể hai mươi lăm trượng mà Bùi Kiếm Văn chỉ nhảy hai cái là qua, lúc này lại càng dễ dàng, cũng như vài chục trượng vừa rồi mũi chân có đạp lên tuyết, nhưng chỉ chạm nhẹ rồi lập tức rời đi luôn, chiết phiến trong tay mở ra, quét khắp tiểu viện thanh tịch, lại không động vào hoa lá. “Thế hạ loạn mai như tuyết loạn” Chiết phiến được thi triển ổn định mà chính xác, hoàn toàn xuyên qua cành cây, nhưng chưa hề chạm đến, kình khí lướt qua làm mai trắng khẽ động như tuyết rơi, vô cùng kiều diễm. Lại nhìn trên phiến quạt vẫn còn vương chút lực đạo, phủ lên cành mai, khiến hoa đang rơi bỗng bay vào lòng bàn tay Bùi tiểu gia, nắm tay lại, liền chuyển người xuyên qua ngàn cánh hoa rơi, hướng lên ngọn cây, đứng như khói chiều cuốn theo ngọn gió, như muốn quay trở lại. “Phất liễu nhất thân hoàn mãn.” Bùi Kiếm Văn ngắt một cành hàn mai, nửa câu thơ dùng nội kình đưa tới trong đình, lọt vào tai Lục Diêu, mắt thấy, những cánh hoa tung bay còn chưa kịp chạm đến vai y, liền bị chân khí quanh thân đẩy ra xa ba thước, bay lên rồi rơi xuống, giống như tuyết mùa đông. “Nhạn lai âm tín vô bằng, lộ diêu quy mộng nan thành.” Người giống như chim nhạn bay về, tay áo tung bay, phiên nhiên trong cảnh tuyết đẹp đến thê lương. Bùi Kiếm Văn kết thúc bằng câu thơ khi xưa hai người lần đầu tiên gặp mặt, vẫn không giấu được ý cười nhạo Lục Diêu lại nhớ tới câu “nhật cửu kiến nhân tâm” (sống lâu mới hiểu rõ lòng người), không biết đến giờ đã đủ lâu chưa. “Ly hận kháp như xuân thảo, canh hành canh viễn hoàn sinh.” Bùi Kiếm Văn đến bên trong đình, đứng trước mặt Lục Diêu, một cành bạch mai đưa ra, ứng với câu “Mượn hoa hiến Phật” kia của mình. Lục Diêu nhận lấy, liền thấy Bùi Kiếm Văn đột nhiên cười, tay trái thu lại cành mai, tay phải mở chiết phiến ra, hoa mai lay động phiêu nhiên rơi xuống trước mặt Lục Diêu, vừa rồi y thi triển một chút hoa xảo, là muốn cùng Lục Diêu vui đùa. Thấy trong tay Lục Diêu trống không, Bùi tiểu gia đắc ý cười, cành mai trong tay rung lên, biến thành kiếm hoa, lấy hoa thay kiếm kề bên cổ Lục Diêu. Vào một ngày hè đẹp trời, ai đó liếc thấy ai kia, liền nhớ đến mấy câu hoa mỹ trong lời thuyết tư tiên sinh, nhưng lại nhớ không kĩ, tựa như gió mát thổi đến, hoa rơi rực rỡ, bụi đất mịt mù. Chớp mắt, hạ qua đông tới, sau một hồi phồn hoa lạc tẫn, là ai vẫn ở trước mặt mỉm cười, phong tư hào sảng nói không nên lời. Phật viết, không được nói. Dù là một chữ, sống không được nói, chết cũng không được nói. Đời người nếu còn giống như lúc ban đầu. Đời người nếu càng sống càng hiểu rõ. “Bùi công tử quả nhiên thân thủ bất phàm!” Phùng Sanh lấy khuỷu tay làm điểm tựa, tay trái thay Lục Diêu nhận cành mai kia, tay phải nâng chung rượu cười nói, “Nhận hoa nâng chén, Phùng mỗ xin kính trước!” Chén của Bùi Kiếm Văn đã trống không, định rót tiếp lại thấy bình rượu không còn giọt nào, lập tức không khách khí, lấy chung rượu còn một nửa kia của Lục Diêu, hướng Phùng Sanh nâng chén, uống một hơi cạn sạch. “Đại ca.” Phùng Sanh bỏ chung rượu xuống, cười nhìn Lục Diêu, hỏi, “Bùi công tử có vẻ quen dùng kiếm?” Lục Diêu thầm nghĩ đệ không hỏi y lại hỏi ta làm gì, nhưng vẫn thuận miệng đáp lại, “Đại khái.” “Ta nói rồi mà,” Phùng Sanh vỗ bàn, lúc này mới chuyển sang chính chủ cười nói, “Kiếm hoa của Bùi công tử quá phiêu lượng, Phùng mỗ bất tài, nhất thời nghĩ đến câu ‘vạn nhất thiện quan hoạch nhiên phá, mỹ nhân như ngọc kiếm như hồng’.” “Đừng có nói bậy bạ.” Lục Diêu vội khẽ quát, trong lòng thầm nghĩ đệ không chọc y xù lông lên thì không chịu được à? Đều lớn như vậy còn giận hờn không đâu. “Phùng đại nhân, Lục đại nhân.” Bùi Kiếm Văn không hề tức giận, chỉ nhìn cửa viện, cười nhạt hất cằm, “Không biết là tìm vị nào?” “Lục đại nhân, Phùng đại nhân.” Nha dịch từ từ đi lên, đến trong đình liền khuỵu gối hành lễ, đứng dậy nhìn Bùi Kiếm Văn, cũng không biết xưng hô như thế nào, liền cung kính ôm quyền, rồi cúi người hướng Phùng Sanh bẩm báo, “Hán công sai thuộc hạ kêu ngài qua một chuyến.” “Biết rồi.” Phùng Sanh lên tiếng, quay sang Lục Diêu bất đắc dĩ cười nói, “Nhìn xem, trộm làm kiếp phù du nhàn nhã nửa ngày, nay còn chưa đến nửa ngày, lại bị bắt về làm người rồi.” “Phùng đại nhân đi đường cẩn thận.” Bùi Kiếm Văn đưa binh khí phong nhã kia trả lại cho Phùng Sanh, “Thứ cho Bùi mỗ không tiễn.” “Bùi công tử chớ khách khí.” Phùng Sanh nhận lấy cây quạt, nghiêm trang ôm quyền cáo từ, lại vỗ vai Lục Diêu, “Đại ca, hôm khác đệ lại đến.” Phùng Sanh đi mất, hai người còn lại cũng mất hứng, không có tâm tư ngồi ở nơi băng tuyết ngợp trời này nói chuyện, Lục Diêu đề nghị ra ngoài một chuyến, Bùi Kiếm Văn tất nhiên khách theo ý chủ. Tục ngữ nói, hai mươi ba, kẹo mạch nha hai mươi tư, quét dọn nhà cửa hai mươi lăm, thái đậu hũ hai mươi sáu, cắt thịt… Bận rộn tất bật vẫn là sắp đến Tết âm lịch, dù sao mỗi ngày đều có việc để làm. Lục Diêu bồi Bùi Kiếm Văn đi dạo trên phố xá nhộn nhịp, xem dân chúng vội vàng đặt mua hàng Tết, nhớ ra một ít việc vặt, thuận miệng cười nói, “Cha ta trước kia cũng làm việc ở phủ Ứng Thiên, khi ta bảy tám tuổi mới lên kinh. Mẹ ta mất sớm, trước đây đều đi theo vú nuôi, bà dạy ta không ít đồng dao dân gian, bất quá đến giờ ta vẫn không hiểu hết, vì sao đồng dao nói về Tết lại bắt đầu từ hai mươi ba tháng chạp đến mùng một, rồi mới từ mùng một nói đến mười lăm.” “Mùng một đến mười lăm cũng có sao?” Bùi Kiếm Văn lần đầu nghe Lục Diêu nhắc đến chuyện nhà, nghĩ cũng muốn tiếp chuyện, đáng tiếc y là thiếu gia sinh ra ở gia đình giàu có, tứ thư ngũ kinh từ ca phú trường thì biết, chứ nói đến đồng dao thì thật khó xử. Lục Diêu cười cười, kéo Bùi Kiếm Văn đang thất thần tránh đại nương tay xách nách mang đi đường, muốn tìm đề tài khách, lại nghe Bùi Kiếm Văn nói, “Đại khái thì lễ mừng năm mới trong suy nghĩ của mọi người so với thực tế cũng thú vị.” “Sao cơ?” “Đúng hơn thì lễ mừng năm mới mà mọi người mong muốn và thực tế đều nói lên một việc,” Bùi Kiếm Văn nghiêng đầu nhìn Lục Diêu, hiếm khi cảm khái một câu, “Sống trên đời này, dù sao cũng phải hy vọng thì mới có ý nghĩa.” Dùng cơm chiều ở noãn các phía Tây, vò thiên tửu gần hai cân của Thủy Tỉnh phường Bùi Kiếm Văn mang tới kia, lại thêm một vò Hoa điêu của Lục phủ cất dưới hầm, bạch tửu hoàng tửu hỗn loạn, Lục Diêu quả nhiên đã thực hiện lời hứa uống đến say thì mới thôi. “Lục Diêu.” Bùi Kiếm Văn cũng say, cũng may tính nết sau khi uống rượu không tồi, không ồn ào không nháo, chỉ là càng say càng cười, “…Tư vị say rượu thế nào?” “Tư vị thế nào?” Lục Diêu nghiêm khắc tự kiềm chế hai mươi năm, cả đời lần đầu tiên say, nghe thấy câu hỏi của Bùi Kiếm Văn, nhìn chén rượu rồi mỉm cười chớp mi, không nhanh không chậm đáp lại câu hỏi vừa rồi, “Uống rượu… có thể khiến lòng tham, tức giận, hạnh phúc, căm ghét, phẫn nộ tiêu tan… bi thương, vui vẻ, đau khổ, oán hận, đố kị biến mất.…” “Không yêu không hận, không vui không buồn cũng tốt…” Bùi Kiếm Văn nâng tay cười đến khinh đạm, cùng Lục Diêu cụng chén, “Tại hạ liền kính Lục đại nhân… lục căn thanh tĩnh, tứ đại giai không.” (không vướng bận điều gì, coi tất cả đều là hư vô) Trong noãn các đốt địa long, Bùi Kiếm Văn sớm đã cởi áo lông ra, ngay cả vạt áo cũng rộng mở, đôi con ngươi đen láy phủ hơi nước, ngọn đèn trên bàn ánh lên, đôi mắt say mềm mông lung, khuôn mặt tựa như hoa đào. Lục Diêu uống thêm một ly lại say thêm một phần, cười nhìn khuôn mặt người đối diện, đảo qua chóp mũi, khóe môi, chợt nhớ đến câu ‘mỹ nhân như ngọc kiếm như hồng’ của Phùng Sanh, thầm nghĩ kỳ thực cũng không sai. Sau đó lại nhìn xuống dưới, ánh mắt liếc qua vạt áo buông lỏng của Bùi Kiếm Văn, thấy vết thương ngày ấy mình lưu lại đã tốt hơn, chỉ còn lại vết sẹo, qua ba tuần rượu, liền có chút ửng hồng, từ cần cổ kéo dài đến trong áo. “Xin lỗi…” Bùi tiểu gia rượu vào, phản ứng cũng chậm hơn, thẳng đến khi ngón tay Lục Diêu xoa xoa hồng ngân dài nhỏ kia, y mới cười nghiêng đầu né tránh, lại nghe Lục Diêu xin lỗi mình, liền cố ý kích hắn, “Đúng rồi, Lục đại nhân, Bùi mỗ còn chưa tạ ơn ngài ngày đó không giết.” Quả nhiên uống rượu cũng không đổi được tính tình ngang ngược của con người này, Lục Diêu buồn cười thu tay lại, lấy vò rượu rót ra hai chén, nhịn không được nói, “Ngươi cũng biết ơn tha mạng sao?” ngữ khí còn thêm ba phần trêu đùa, “Vậy ngươi cũng biết… bình thường ‘ân cứu mạng’ tiếp theo là gì chứ?” “Muộn rồi.” Bùi tiểu gia không hề tức giận, ngược lại có chút đắc ý, theo Lục Diêu đùa cợt, “Ta còn có một muội muội, đáng tiếc đã hứa hôn với người khác, năm sau liền gả đi Tuyền Châu rồi.” Lại vỗ bàn, oán hận mắng, “Thật không hiểu lão già chết tiệt kia nghĩ cái gì, ta chỉ có duy nhất một muội muội, sao lại khiến cho núi cao nước xa như vậy chứ!” “Bùi Kiếm Văn… ngươi đã từng thích ai chưa?” Lục Diêu im lặng nửa khắc, làm như đột ngột hỏi, nhưng thật ra là truy hỏi, thấy Bùi Kiếm Văn nhắc tới hôn sự của muội muội, trong lời nói còn pha chút ủy khuất, không khỏi tò mò, thầm nghĩ không biết Bùi Kiếm Văn tiêu sái tự tại này lúc lâm vào nữ nhi tình trường, có hay không cũng sẽ vì người nào đó mà nóng ruột nóng gan. Bùi Kiếm Văn nghe được câu hỏi kia liền nhíu mày, thật ra không phải ngại vì Lục Diêu đường đột hỏi, chỉ là câu hỏi này hơi khó trả lời. Giang Nam từ xưa đã phong nguyệt phồn hoa, Bùi tiểu gia cũng không phải thanh gỗ đến chết cũng không đục được lỗ, mặc dù không tính là vạn bụi hoa đều đã chui vào, nhưng cũng từng say rượu gối đùi mỹ nhân. Bùi Kiếm Văn định đáp là không có, nhưng lại cảm thấy đã từng đụng chạm da thịt, thì cứ coi như là có tình đi nhưng nếu đáp là có… Y không thể không thừa nhận, thật ra *** nhiều hơn tình ý. “Vậy Lục đại nhân sao vẫn chưa lập gia thất?” Khó đáp thì đơn giản là không đáp, Bùi Kiếm Văn chớp mi hỏi lại, trong lòng nghĩ Lục Diêu này trông cũng không tồi, lại thanh danh hiển hách, sao ngay cả thiếp thất cũng không có. “… Để làm gì?” Lục Diêu mang vài phần tự giễu giơ chung rượu lên, hạ mắt nhìn rượu bên trong, thở dài, “Chắc ngươi cũng biết, ta đang ngồi ở vị trí nguy hiểm…” Ở vị trí đó, sẽ là binh khí giết chóc trong tay Hán công. Quyền thế quan trường, huyết tinh danh lợi, không thể sửa được những bước đi sai lầm, hay một hồi đổi thay bất ngờ… Sao có thể làm khổ cô phụ một lòng với mình, làm người ta lầm lỡ một đời. “…Cha ta cũng thú mẹ sau khi trở thành đương gia.” Bùi Kiếm Văn còn dư lại chút thanh tỉnh, vừa nói ra lại thấy không đúng, nghĩ muốn khuyên giải an ủi Lục Diêu hai câu, nhưng chính mình cũng không rõ Bùi gia năm đó lục đục như thế nào, huynh đệ tương tàn, thầm nghĩ chuyện nhà khó nói, mỗi người đều có nỗi khổ riêng, liền cảm thấy phiền chán vô cùng, đơn giản vung tay: “Thôi, không nhắc tới nữa! Vì coi Lục Diêu ngươi là bằng hữu, Bùi Kiếm Văn ta mới tặng ngươi câu này… Các đời lịch đại có mới nới cũ qua cầu rút ván là chuyện hiển nhiên, ngươi nếu muốn rút lui, chỉ cần còn coi ta là bằng hữugiang hồ, dù có là trời nam đất bắc, núi cao sông lớn, Bùi Kiếm Văn ta chắc chắc sẽ giúp đến cùng!” “Được! Vì những lời này của ngươi, Lục mỗ cảm ơn trước!” Lục Diêu nghe được lời này buồn phiền tích tụ đều tiêu tan, chỉ cảm thấy thống khoái vô cùng, nâng chén cùng Bùi Kiếm Văn một ngụm uống cạn, rượu vào tận tâm. Sau đó còn hứa hẹn gì đó, cũng có chút nông nổi. Cuối cùng Bùi Kiếm Văn tửu lượng không thắng được, liền nằm sấp trên bàn, đầu gối lên cánh tay, nhắm mắt giống như đang ngủ. Lục Diêu cũng ngừng chén, ngồi im một lát, vận khí ép hơi rượu xuống. Ngọn đèn trên bàn đã sớm tàn, Lục Diêu lười nhác đẩy đẩy bấc đèn, mặc cho nó tự tắt. Trên bàn nhỏ góc Tây noãn các đặt một bình bạch mai, chính là cành mai Bùi Kiến Văn chiết xuống buổi trưa. Lục Diêu thất thần nhìn bình hàn mai đơn độc kia một lát, đầu óc cũng dần thanh tỉnh, chợt nghe bên ngoài gió tuyết nổi lên, thổi vào trong noãn các, hợp với hô hấp đều đều của người bên cạnh, hết sức an bình. Lục Diêu thu lại ánh mắt, nhìn Bùi Kiếm Văn chỉ mặc mỗi kiện áo đơn, vạt áo lại phanh rộng, sợ y ngủ say mắc phong hàn, liền đứng dậy đem áo khoác lông cáo phủ lên người y. Bùi Kiếm Văn căn bản cũng không ngủ, hơi rượu cũng đã mất đi ba phần, lập tức mở mắt, chậm chạp chống bàn đứng lên. Lục Diêu ở bên cạnh, thấy y bước từng bước, bỗng lảo đảo một cái, liền nhanh chân tới đỡ, lại quên mất phía sau mình không có điểm tựa, vội vàng lùi đến bên bàn, tay trái ôm Bùi Kiếm Văn, tay phải chống lên bàn, làm đổ cây đèn khiến ngọn lửa lập lòe tắt hẳn. Bùi Kiếm Văn rốt cuộc cũng ý thực được, đầu óc choáng váng lấy lại bình tĩnh, thấy mình đang dựa sát vào Lục Diêu, tư thế của hai người có chút xấu hổ, liền đứng thẳng dậy nhẹ giọng nói, “Xin lỗi.” Bên kia Lục Diêu không đáp lại, chỉ giương giọng gọi gia đinh trực đêm ngoài cửa vào, phân phó đưa Bùi công tử đến khách phòng, hầu hạ chu đáo. Ngày hôm sau Lục Diêu dậy muộn hơn một chút, Bùi Kiếm Văn cũng đã đi rồi, muốn mau chóng trở về Hàng Châu trước đêm giao thừa. Lục Diêu rửa mặt rồi đi qua khách phòng, quả nhiên thấy trên bàn có một tờ giấy, chỉ vẻn vẹn bảy chữ, đều là viết theo lối thảo, chữ cũng như người rồng bay phượng múa. Sau này gặp lại Bùi Kiếm Văn
|
Chương 11
Edit&Beta: Yến Phi Ly Hàng năm khi đến thời điểm cuối năm, đại quản sự Phùng phủ đều phải thức tỉnh tinh thần toàn bộ người trong phủ, chuẩn bị hầu hạ đám người đến tặng quà. Dựa vào danh nghĩa chúc Tết, trước phủ Cửu thiên tuế thật sự là mỗi ngày ngựa xe như nước, nịnh bợ tiến cống, có việc muốn nhờ, từng tốp lại từng tốp. Lễ vật nào phải trình chủ tử xem qua, cái nào trực tiếp cất vào khố phòng người nào cho vào gặp Cửu thiên tuế, kẻ nào tự mình đuổi ra khỏi phủ, đều phải cẩn thận cân nhắc, làm cho quản sự Phùng phủ mệt nhọc bận bịu đến nỗi chân không chạm đất, nhức đầu nhức óc. Phùng Phượng cũng từng đem phong cảnh náo nhiệt này như việc vui mà hưởng thụ, lại chống cự không nổi tuổi tác dần lớn, cuối cùng lại càng nhàm chán. Đầu xuân năm sau liền muốn đối chọi chính diện với Đông Lâm đảng, năm năm trù tính, thành bại tại một lần này, mặc dù lão làng như Phùng Phượng cũng có chút không yên. “Theo những gì ta phân phó, bộ Hộ bên kia có chuyện gì thì truyền tin ngay,” Ngày đó Phùng Phượng triệu Phùng Sanh tới nha môn Đông Hán, bàn bạc vài câu công sự, mới nhấp trà dặn, “Cha con ta cũng lâu rồi chưa gặp mặt, sáng sớm ngày mai, theo ta đi chùa Đàm Chá hai ngày, thuận tiện tìm chút thanh tĩnh.” “….Vâng,” Phùng Sanh đứng bên cạnh ghế của Phùng Phượng, đưa tay đè lại chén trà y định đưa đến bến miệng, “Trà nguội rồi, đổi chén khác đi.” Ra khỏi nha môn, Phùng Sanh đi tới bộ Hộ, dặn vài kẻ thân tín hai ngày này trấn áp mọi chuyện, nên làm gì thì làm, sáng sớm hôm sau liền cùng Phùng Phượng lên núi. Chùa Đàm Chá chính là ngôi chùa cổ truyền từ thời Tây Tấn (Trung Quốc, năm 265-317), dáng dấp uy nghiêm, cửu phong vây quanh, khí độ rộng lớn. Ngoài chùa cổ thụ rợp trời, nước chảy róc rách, bên trong tăng tháp như rừng, trúc mọc râm mát. Phùng Phượng lần này dẫn theo vài ám vệ, quang minh chính thức đi theo chỉ có mình Phùng Sanh. Tuyết trên đường trơn trượt, hai con ngựa chậm chạp mãi nửa ngày mới vào tới cổng chùa. Phùng Phượng không tin phật, nhưng lại có chút giao tình với trụ trì ngôi chùa này và mấy vùng lân cận kinh đô. Hiện tại phương trượng đang bế quan thanh tu, Phùng Phượng cũng không muốn quấy nhiễu, chỉ thông báo cho đại đệ tử, thu thập hai viện tử. Chùa Đàm Chá cảnh sắc núi non xinh đẹp tuyệt trần, quanh năm suốt tháng không biết tiếp đón biết bao nhân vật quyền quý trong kinh, đặc biệt phòng ở và đồ chay đãi khách, tuy là thời tiết rét đậm, lại sâu trong rừng núi, nhưng cũng rất thoải mái. Dùng qua cơm trưa, Phùng Sanh bồi Phùng Phượng ra sân, theo bậc thềm sau núi đi lên, một đường đi được tới long đàm(hồ), đứng ở Hiết Tâm đình trông về phía xa tuyết phủ khắp núi, một màu trắng xóa. “Cổ chá tê tuần lộc, hàn đàm ẩn chập long.” Phùng Phượng nhìn tuyết rơi kết băng trong long đàm, chậm rãi ngâm hai câu thơ vịnh tiếp theo, “Canh tòng hà xử khứ… Tiền lộ dã vân phong.” (Tạm dịch: Nai dừng chân nơi miếu cổ, rồng ẩn nấp nơi hồ băng. Càng đi về phía trước, con đường càng mịt mờ gió mây) “….Đốc chủ quá lo lắng rồi.” Phùng Sanh sao không biết Phùng Phượng đang suy nghĩ gì cơ chứ, lại càng không nhẫn tâm thấy y vì cục diện sắp tới mà hao tổn tinh thần, vội trấn an, “Đấng anh hào, lòng ôm chí lớn, lòng dạ thiện lương, ẩn chứa vạn vật, chí hướng đều vì thiên hạ. Từ nhỏ đến lớn, trong lòng ta người có thể xứng với hai chữ ‘Anh hùng’, trừ bỏ Đốc chủ thì chẳng còn kẻ khác.” “Đứa nhỏ này chớ nói bậy, mở miệng ra…” Phùng Phượng cười lắc lắc đầu, “Con lại lừa gạt ta đi.” “Đốc chủ nhìn thấu mọi việc,” Phùng Sanh đi lên một bước, khoác áo da cừu cho Phùng Phượng, mặt mày lại tươi tỉnh, “Nếu ta có tí tẹo tâm tư lừa gạt Đốc chủ…. thì ta sẽ bị ngũ lôi oanh đỉnh, hồn phi phách tán, đời đời không siêu sinh.” “Đang yên đang lành thề độc làm gì,” Phùng Phượng nghiêng đầu khẽ quát một câu, “Nơi này băng tuyết ngập trời, đừng ở đây nữa, trở về đi.” Sức khỏe Phùng Phượng không tốt, trước kia chưa tập võ nghệ chịu không ít khổ, nội lực lại là âm hàn, với việc điều trị thân thể không quá có ích, nhưng mỗi khi đến mùa đông thì cũng ổn, chính là đầu gối đầu bởi vì khi còn bé quỳ lâu trong trời lạnh, phong hàn tận xương, thỉnh thoảng lại nếm chút khổ. Bệnh cũ của y Phùng Sanh rõ ràng nhất, vào đêm hai người cùng chơi hai ván cờ, thấy Phùng Phượng không nói, hơi hơi nhíu mày, liền buông tha ván cờ, lấy ghế nhỏ kê chân cho Phùng Phượng, bản thân quỳ một gối xuống ở bên cạnh, chậm rãi xoa nắn chân lưu thông máu giúp y. Phùng Phượng cũng không chấp nhất ván cờ dang dở, nghiêng người tì trên tháp, nhìn Phùng Sanh quỳ trên mặt đất, lực đạo không nhẹ không mạnh, một cỗ nhiệt khí từ huyệt Tam Âm, không nhanh không chậm lan tràn tới ngực, trong lòng thầm nghĩ hài từ một tay mình nuôi dưỡng thật biết điều, tri kỷ như tâm phế. “Gần đây ngủ có được không?” “Cũng tạm. Người đã già, giấc ngủ liền ngắn.” “Đốc chủ đang ở tuổi cường thịnh…. Chớ nói như vậy.” Gian thiền viện cho khách bố trí tinh xảo, đặc biệt trong chùa có một suối nước nước chảy từ Nam xuống Bắc xuyên qua viện tử, suối trong lại cạn, quanh năm róc rách. Trên đó là một ngôi đình nhỏ, bên đình trồng đầy trúc, mùa hạ xanh mát mùa đông u hoàng, càng lạnh càng dẻo dai, chính khí cao thượng. Phùng Sanh nghe tiếng gió thổi lao xao ngoài khóm trúc, tiếng nước thanh tịch, đột nhiên ngẩng đầu cười nói, “Ta đem cho Đốc chủ lễ mừng năm mới.” “A? Là cái gì vậy?” “……Còn nhớ rõ khi còn bé, ta hỏi ngươi vì cái gì gọi ta là ‘Sanh’,” Phùng Sanh lại đột nhiên nói sang đề tài khác, “Ngươi liền giảng điển cố trong ‘Thuyết văn’: ‘Lô sanh (khèn), mười ba dây giống như phượng. Tháng giêng âm lịch, vạn vật sinh trưởng gọi là sanh.” “Ừ…..” Phùng Phượng chống trên tháp, một tay đỡ trán nhắm mắt lại, trầm ngâm nửa khắc mới nói, “Qua tháng giêng… chớp mắt một cái, cũng đã sắp hai mươi năm.” Vạn Lịch năm thứ ba mươi lăm, Ti lễ giám cùng Đông Hán vẫn do một tay đại thái giám Vương Cẩn nắm giữ. Chính vào mùa đông khắc nghiệt, tả đốc Ngự sử Chu Nhữ Hằng thêm cả sáu vị Ngự Sử thượng thư buộc tội Vương Cẩn không có kết quả, Thần Tông long nhan giận dữ, trượng hình dĩ nhiên không thể miễn. Phải biết hình phạt dùng trượng vốn là do đại thái giám Ti lễ đốc thúc dụng hình, người hành hình nhìn Vương Cẩn đứng ra hiệu, tay nâng trượng giáng xuống, từng gậy mạnh bạo, nhất thời trên điện huyết nhục tứ tung, tiếng than gầm trời, Chu Nhữ Hằng đường đường quan lớn nhị phẩm không chỉ bị trượng hình đánh chết, mà còn dẫn họa cho một nhà già trẻ, nam tử sung quân, nữ tử biếm vào kỹ viện. Chu Nhữ Hằng cùng Vương Cẩn tranh đấu gay gắt mấy năm, lần này thượng thư vốn tưởng rằng chứng cớ vô cùng xác thực, có thể được việc, lại không ngờ Vương Cẩn sớm có chuẩn bị, điều điều bác bỏ, câu câu chiếm lý, tỏ vẻ một tấm lòng son sắt, cuối cùng đối thủ một mất một còn lại đưa tới họa sát thân, nước mắt ròng rã, tự mình dẫn Đông Hán nha dịch xét nhà tàn sát hoàng loạt, khoái ý cười nói, “Còn sung quân cái gì, chết đi, chết hết đi!” Năm đó Phùng Phượng là thủ hạ của Vương Cẩn, xong xuôi mọi việc thì kiểm thi thể, thấy sau nhà bếp một lão phụ chết không nhắm mắt, dưới thân còn gắt gao che chở một hài tử, cúi người dò xét, nhìn đứa bé kia trước ngực dính một vết đao, nhưng cũng chỉ bị thương da thịt, xác nhận còn có thể cứu. Phùng Phượng cầm lưỡi đao sắc bén đang nhỏ máu đứng trước mặt hài tử, nhìn nó vừa đau lại vừa sợ, tựa như ngay cả khóc đều quên nên khóc như thế nào, chỉ lăng lăng mà trừng mắt, thẳng tắp nhìn mình. “Hán công.” Vương Cẩn thấy thủ hạ gã yêu thương phi thân tới trước ngựa mình, quỳ một gối xuống, trong tay còn ôm một hài tử nửa chết nửa sống, không khỏi nhướng mày giả cười, “Thế nào? Ngươi cũng có lúc không hạ được ngoan tâm?” “Thuộc hạ….” Phùng Phượng cúi đầu liễm mắt, yên lặng một khắc mới thấp giọng nói tiếp, “…Thuộc hạ khẩn cầu Hán công.” “Ta nếu không cho phép thì sao?” Vương Cẩn cũng biết Chu gia không có hài tử lớn như vậy, có lẽ là con cái của hạ nhân trong phủ, đáp ứng Phùng Phượng cũng không có gì. Chẳng qua…. “… Thuộc hạ cầu Hán công thành toàn.” Bất quá chỉ vì nghe một chữ “Cầu” này mà thôi! Phùng Phượng theo Vương Cẩn mấy năm, không có việc gì mà làm không hợp ý gã. Ngay cả diện mạo cũng là từ ánh mắt đầu tiên liền vừa ý Vương Cẩn, tuy rằng không thể tự mình ra trận, nhưng các thủ đoạn khéo léo, chỉ vì làm cho Phùng Phượng cam tâm tình nguyện nói một chữ “Cầu”. Hiện giờ y rốt cục chịu quỳ trước mặt gã, cầu xin gã, Vương Cẩn xoay người xuống ngựa, vỗ tay cười to, cảm thấy đắc ý. “Có trò vui thế này, chính là hiếm thấy,” Vương Cẩn đi đến trước người Phùng Phượng, cúi người vỗ nhẹ mặt của y, “Thưởng cho ngươi.” Mạng người như con kiến, như rơm rác, giết và cứu bất quá chỉ là một ý niệm. Lô sanh nhất danh phượng sanh. Mười ba dây như phượng hoàng. Vạn vật…. sinh trưởng gọi là sanh…. “Cũng không phải cái gì mới mẻ,” Phùng Sanh quay lại câu chuyện, “Trong lúc rảnh rỗi tùy tiện làm khèn ống trúc, thủ công thô lậu, Đốc chủ chớ ghét bỏ.” “Không có việc gì chế tạo mấy thứ này làm gì…” Phùng Phượng nghe vậy cười nói, “Con lại có ham mê giống người kia trong cung, không bằng đưa con vào bầu bạn với hắn, con sẽ không nhao nhao than chán nữa.” Phùng Sanh lại không nói tiếp, mỉm cười một lúc lâu, mới nhẹ giọng niệm nửa bài《Câu sơn miếu》: “Giản thủy lưu niên nguyệt, sơn vân biến cổ kim. Chích văn phong trúc lý, do hữu phượng sanh âm.” (Tạm dịch: Khe suối chảy tháng năm, mây núi biến cổ kim. Chỉ nghe tiếng gió trúc, lại ngỡ tiếng khèn vang.) Phùng Phượng vẫn nhắm mắt dưỡng thần, xuyên thấu qua mí mắt làm như có thể cảm giác được dưới ánh nến, mỏng manh một tầng đỏ tươi. Phùng Sanh quỳ gối bên tháp, giương mắt bình tĩnh nhìn y. Trong phòng ánh nến chiếu lên gương mặt y có vài phần huyết sắc, người cũng có vẻ ấm áp hơn nhiều, ấm áp lại có thêm chút sức sống. Phùng Sanh yên lặng không nói, chỉ quỳ nhìn y, không biết làm sao lại cảm thấy có chút ủy khuất. Cuối cùng nhịn không được vươn tay, nhẹ nhàng chụp lên bàn tay Phùng Phượng, một chút lại một chút, nắm chặt. Mỗi khi nắm chặt thêm một phân, trái tim liền khiêu đập dữ dội thêm một phần. Phùng Phượng lúc này mới mở mắt ra, rút về tay, không nhìn hắn, cũng không mang chút hỉ nộ, vẫn là dáng vẻ cao cao tại thượng, sừng sững bất động của Cửu thiên tuế. “Ta….” Phùng Sanh muốn nói lại thôi, gần như hốt hoảng mà nắm chặt tay Phùng Phượng, quỳ trước một bước cúi đầu, khóe môi in lên đầu ngón tay Phùng Phượng. Phùng Phượng muốn rút tay, lại nghe Phùng Sanh đau khổ thở dài một câu: “…… Phượng ca ca.” “……..” Phùng Phượng nghe được tiếng “Phượng ca ca” này, cũng thầm thở dài, mặc hắn nắm tay mình một lát, rồi mới thản nhiên phân phó, “Khuya rồi, trở về nghỉ ngơi đi.” Mấy năm nay Phùng Phượng chính mình cũng rõ ràng, y đối với nghĩa tử này thật sự có chút sủng ái quá mức. Còn nhớ năm đó Phùng Sanh ở trong trạch tử kia nửa năm, mỗi lần về thì trước khi y đi hắn đều phải nhìn y khóc một hồi. Khóc cũng không dám lớn tiếng khóc, chỉ sợ hãi lôi kéo tay áo mình, nước mắt lã chã chảy dài. Như vậy nhiều lần cũng thấy không yên lòng, cho nên năm đó giữ Lục Diêu ở bên người, tư tâm cũng là vì cho hài tử này một người bạn để chơi. Cho đến khi Phùng Sanh chịu mở miệng nói chuyện, cũng là theo tính tình gọi người lung tung, lúc nào cũng dính lấy mình nhuyễn thanh nhuyễn khí mà gọi, “Phượng ca ca, Phượng ca ca.” Sau lớn hơn vài tuổi, ngược lại biết không thể gọi loạn bối phận, chịu theo quy củ mà gọi mình một tiếng “Nghĩa phụ”. Nhưng là, từ khi nào, hai chữ “Nghĩa phụ” này đã bị đổi lại thành tiếng “Đốc chủ” xa lạ? Hài tử như vậy, qua tháng năm nuôi nấng liền thay đổi. Có chuyện gì mà Phùng Phượng không rõ ràng, ngay tại Hoàng cung ăn tươi nuốt sống, một thân võ nghệ này, địa vị này, mấy năm nay, có cái gì xấu xa mà y chưa thấy qua, chưa từng nhẫn nhịn qua? Luẩn quẩn trong lòng Phùng Sanh, Phùng Phượng so với bất kì ai khác đều rõ hơn, y chỉ luôn nói hắn là nghĩa tử, chờ đến khi trưởng thành sẽ lo chung thân đại sự cho hắn, không có gì mà không bỏ xuống được, không có gì mà không vượt qua được. Tuy rằng nhìn ý tứ người trước mắt lúc này….. Y thật sự là sủng ái hắn quá mức rồi… Phùng Sanh vì cái gì được gọi là Phùng Sanh? Duyên cớ chân chính bên trong chỉ có Phùng Phượng biết, tuyệt không thể nói cho người thứ hai nghe. Phùng Phượng vốn tên là Phùng Sinh. Khi còn bé nhà nghèo, Phùng phụ trừ bỏ cờ bạc thì chẳng thèm để bụng bất cứ chuyện gì, ngay cả khi vợ sinh nhi tử đều lười hao tâm tổn trí nghĩ ra cái tên, chỉ thuận miệng có lệ nói, “Đã là lão tử sinh, cứ kêu Phùng Sinh được rồi.” Sau lại đánh bạc đến mức bán đồ, bán nhà, rốt cục bán vợ bán con. Năm đó Phùng Sinh mới chỉ tầm bốn, năm tuổi, cũng là độ tuổi mà Phùng Sanh được cứu. Mọi việc đều có nhân quả. Nếu gieo chuyện kiếp trước, kiếp này là người chịu nếu là chuyện kiếp sau, kiếp này là người làm. Phùng Phượng không tin phật, không tin kiếp trước kiếp sau, lại tại đây chìm đắm trong vòng luân hồi nhân quả. Y gọi hắn Phùng Sanh, sủng hắn, buông thả hắn, bất quá chỉ vì thành toàn tâm niệm riêng tư mà chẳng thể nào tỏ cũng ai. Huyết quang tận trời, rồi sau đó trần ai lạc định. Phùng Phượng lẳng lặng nhìn hài tử kia một lúc lâu, cuối cùng thu đao vào vỏ, khom lưng xuống ôm nó vào trong lòng. Y ôm nó, giống như muốn quay ngược thời gian đằng đẵng, trở lại giây phút chính mình bị giao vào nanh cọp. Y muốn ôm lấy chính mình. Ôm lấy hắn. Từ nay về sau hứa cho hắn một đời gấm vóc giàu sang. Mà Phùng Sanh cố chấp mà đem hai chữ “Nghĩa phụ” đổi lại thành “Đốc chủ” là như thế nào? Phùng Phượng sống bốn mươi ba năm, cũng không hiểu cái gì gọi là tình ý, cũng chưa bao giờ muốn hiểu. Từ lúc còn đối với nhân thế một mảnh ngây thơ, liền có người bên ngoài thay y vung dao, kết thúc thất tình lục dục. Ba nghìn thần phật, cương thường nhân luân, lại có cái gì mà Phùng Phượng để ở trong mắt! Y nhìn không thấy, cũng không cần. Chỉ cần phong vân biến sắc. Muốn giang sơn này đổi chủ. Muốn thiên hạ này mang họ Phùng! Phily: Edit chương này vào một buổi chiều mưa…. Nói về nhân vật Phùng Phượng, có lẽ nỗi đau làm một hoạn quan, nỗi đau bị người chấm dứt thất tình lục dục đã mang lại hận thù muốn khuynh đảo thế gian của y… Y có tình, nhưng cũng thật tuyệt tình…
|
Chương 12
Edit: Phong Ly Beta: Yến Phi Ly Hoàng cung Đại Minh chiếm hơn trăm nghìn mẫu đất, cung điện ốc xá có đến chín trăm chín mươi chín gian. Qua Thừa Thiên môn, qua Đại Minh môn, qua Hoàng Cực môn. Thềm đỏ trước điện Hoàng Cực rất nguy nga, ở giữa trạm trổ bàn long, lấy sóng biển làm nền. Điện Trung Cực nằm phía sau điện Hoàng Cực, mái ngói cong vút, đỉnh chạm vàng ròng, rực rỡ uy nghi. Điện Kiến Cực nằm cuối cùng trong tam đại trung điện, mái ngói cao thẳng, ngói lưu ly vàng rực, kết hợp với hai điện phía trước trông từ xa, nguy nga tráng lệ, kim bích hạo hãn (giàu có trù phú). Phía sau nội đình, cung Càn Thanh, điện Giao Thái, cung Khôn Trữ đều mở rộng cổng son, lộ ra thâm cung sâu thẳm. Phùng Phượng cầm tấu chương đứng ngoài cửa cung Càn Thanh, đợi một lúc lâu không thấy Hi Tông đáp lại, liền nhẹ giọng hỏi, “Hoàng thượng?” “Ngươi còn ở đó à?” Hi Tông lúc này giống như vừa hồi thần, quay đầu kinh ngạc liếc nhìn Phùng Phượng, “Được, trẫm biết rồi, cứ làm theo ý ngươi đi.” Phùng Phượng cũng không lên tiếng, một lát sau, y đi đến sau Hi Tông cười nói, “Đồ thủ công này của hoàng thượng thật tinh xảo.” “Vô tha, đãn thủ thục nhĩ!” Hi Tông nghe xong cười to, dẫn điển cố trong ‘Quy điền lục’ ra, cũng không quản tôn ti trật tự, kéo Phùng Phượng qua chỉ cho y xem, “Ngươi nhìn kĩ họa tiết trang trí trên nóc điện Kiến Cực, thế nào?” “Ngoại trừ khéo léo công phu ra, hoàng thượng còn muốn thần nói gì?” Phùng Phượng cẩn thận đánh giá mái ngói cao thẳng kia, thấy một con thú nhỏ có chín sừng, nhưng cái lớn cái nhỏ, bố trí tinh tế vô cùng, cùng với con vật ở đỉnh đại điện đều là độc nhất vô nhị. “Cũng chỉ là tinh xảo thôi, khéo léo công phu còn kém xa,” Hi Tông cười lắc đầu, lại kéo Phùng Phượng sát vào một chút, cùng nhau nhìn bức tượng khắc gỗ giữa điện, ngay cả ‘trẫm’ cũng không dùng, chỉ nhíu mày thở dài, “Ta đang cân nhắc… Nếu đã làm cửa sổ có thể đóng mở, bên trong nên bài trí lại, giống như điện Kiến Cực thì sẽ rất công phu…” “Không cần vội vàng, điện Hoàng Cực của hoàng thượng mới làm được một nửa, trước tiên dọn dẹp, rồi từ từ nghĩ xem muốn trang trí thế nào…” Phùng Phượng ứng phó một câu, đảo mắt thấy trên tay Hi Tông xuất hiện một vết máu, liền kéo qua nhìn, “Là do tượng thú kia gây ra sao? Đã bôi dược chưa?” “Bôi rồi.” Hi Tông không để ý cử chỉ của Phùng Phượng có gì không đúng, mặc y cầm ngón tay mình mà cười, “Bị ngươi nhắc nhiều như vậy, ngươi không phiền ta lại thấy phiền.” “Đã dùng ngọ thiện chưa?” “Rồi.” “Có đúng là đã dùng rồi không?” “Ừ.…” Hi Tông sinh năm Vạn Lịch thứ ba mươi ba, lên ngôi năm mười lăm, hiện tại bất quá mới hai mươi, còn nhỏ hơn Phùng Sanh hai tuổi. Hắn là con cả của Quang Tông, nên chắc chắn là danh chính ngôn thuận đạt được ngôi vị hoàng đế này, nhưng ở đằng sau, Phùng Phượng ra tay thế nào thì không ai biết được. Quang Tông là con của cung nữ, thâm mẫu thân phận thấp kém, đứa con cả này chật vật nhiều lần mới ngồi lên ngôi vị hoàng đế, nhưng đến năm hai mươi chín tuổi liền mắc bạo bệnh mà băng hà, bao nhiêu điều khó hiểu cơ mật đều tan thành cát bụi. Hi Tông mười bốn tuổi để tang mẹ, mười lăm tuổi chịu tang cha, có thể lên làm thiên tử Đại Minh, công của Phùng Phượng không kể hết. Hi Tông cùng hoàng hậu Vương thị không có tình cảm thân mật, từ nhỏ đến lớn chỉ tín nhiệm duy nhất vú nuôi Khánh thị. Phùng Phượng để ý một thời gian, từng bước đưa đẩy, một năm trước cấu kết cùng Khánh thị, trong ngoài nhìn Hi Tông bình an tiến lên, từ hoàng thái tôn, lên hoàng thái tử, đến hoàng thượng, cũng đủ biết hắn ngay cả tay cũng không phải động. Thật ra Hi Tông không hề có ý tranh đoạt gì hết. Hắn ngày thường thanh tú văn nhược, tính tình cũng không khác gì, có cho hắn mượn gan cũng không dám chống lại Phùng Phượng, ham mê duy nhất trên đời này là nghề mộc, khi làm thiên tử được năm năm, chính sự không bao giờ đụng đến, cả ngày chỉ say mê dao cưa rìu đục, tự mình làm một mô hình ba cung điện nho nhỏ, không chỗ nào không tỉ mỉ cẩn thận, xa hoa lộng lẫy. Lúc ở trong chùa, Phùng Phượng từng trêu Phùng Sanh, “Nếu ngươi thích nghề mộc như vậy, dứt khoát vào trong cung làm bạn cùng người nọ đi, sẽ không phải than vãn nhàm chán.” Lời này hoàn toàn không phải nói chơi. Hi Tông vì một cái ghế trong Tiểu Minh cung này, thật sự có thể tỉ mẩn từ sáng đến tối, quên ăn quên uống, nóng lạnh đều không quan tâm. Hôm đó Phùng Phượng nghe Hi Tông nói, liền biết hắn lại bỏ ngọ thiện, khuyên hai câu bảo trọng long thể, phân phó tiểu thái giám tùy thân truyền lệnh, rồi khom người hành lễ lui ra. “Hoàng thượng…” Phùng Phượng đi rồi, tiểu thái giám tâm phúc thấy đồ ăn được mang lên, Hi Tông lại không muốn ăn, liền cẩn thận hỏi một câu. “…Dọn đi.” Hi Tông thuận miệng lên tiếng, “Ngươi cũng ra ngoài đi, chỗ này không cần ngươi hầu hạ.” Tiểu thái giám nghe phân phó khoanh tay lui ra ngoài, cung Càn Thanh to như vậy giờ chỉ còn lại mình Hi Tông. Mười lăm tuổi đã ngồi trên ngôi vị hoàng đế này, cuối cùng cũng biết vú nuôi hắn thân yêu nhất đã sớm cùng Phùng Phượng tính kế ngay từ đầu, giờ hắn chỉ còn lại chính mình thôi. Hi Tông ngưng thần cầm chổi sơn, tinh tế sơn lên ngói vàng của điện Kiến Cực nho nhỏ kia. Đế vương cô độc. Đầy phòng mộc hương. Lúc Lục Diêu được hạ nhân gọi dậy, tiếng mõ nửa đêm đã qua lâu, nhưng nghe được là Hán công gọi hắn qua, Lục Diêu không dám chậm trễ, lập tức thay quần áo chuẩn bị, vội vàng đến Phùng phủ. Vốn tưởng có việc gấp, lúc đến thấy quản sự Phùng phủ mới biết, là Hán công gọi hắn tới bồi rượu. Này cũng kì lạ, Lục Diêu đi theo quản sự đến phòng khách, lòng thầm nghĩ bình thường lúc Hán công hứng chí muốn uống rượu, đều là gọi Phùng Sanh đến bồi y nói chuyện phiếm, giờ nửa đêm, lại kêu mình đến, không biết là xướng cái gì đây. “Chiều hoàng hôn buông xuống, đình viện ngưng sương mờ, đêm sáng trong yên tĩnh, chuông chìm vào hư vô ” Lục Diêu không ngờ tới, nói là xướng hí khúc liền thật sự xướng hí khúc. Trong phòng chỉ có một ngọn đèn sa, Phùng Phượng một mình ngồi trước bàn khẽ ngân nga một câu hí kịch, rồi giương mắt nói, “Tiểu Lục, ngồi đi.” “…Hán công thật có nhã hứng.” Lục Diêu đến bên bàn, hành lễ ngồi xuống, nâng bình rót cho Phùng Phượng một chén, “Thuộc hạ thật đúng là tam sinh hữu hạnh (có phúc) mà.” Phùng Phượng giơ chén rượu nhưng chỉ cười không nói, chậm rãi mân mê miệng chén, lại đổi sang xướng làn điệu ‘Dạ vũ đả ngô đồng’: “Sương bàng bạc, tuyết trắng tinh, chiếu rọi không đến nấm mồ lạnh hoang …” Ra là khúc ‘Trường sinh điện’, trò này của Phùng Phượng Lục Diêu có biết, mấy năm nay ít khi nghe y diễn, nhưng số lần Cửu Thiên Tuế tự mình mở miệng xướng, sợ là chỉ đếm trên đầu ngón tay. “Buồn thay, chỉ bồi thiền quyên(), chợt nhớ về ngày đó, người bỗng đi mất, nhất thời nửa khắc cũng khó qua nổi, huống chi là hôm nay mãi mãi cách biệt nơi Minh giới…” () Ý chỉ dáng người, tư thái của người con gái hoặc để miêu tả mặt trăng xinh đẹp, đáng yêu. Âm điệu côn khúc uyển chuyển triền miên, giọng hát càng chú ý hơn ở ‘uyển lệ quyến rũ,một xướng ba thán’. Phùng Phượng ngày thường nói chuyện không cố ý kiềm chế, chỉ là nhẹ nhàng hơn nam tử bình thường hai phần, lúc này mở miệng thanh xướng, lại thật sự tinh tế mà không chói tai, thê lương mà không cứng ngắc, tài hoa vang xa, dư vị chậm tan. Lục Diêu nghe xong liền hiểu, đây là nói về chuyện Đường Huyền Tông nhớ tới ái phi Dương Ngọc Hoàn, thương nàng hương sắc mờ phai như một giấc mộng, không khỏi đêm khuya ngắm trăng rồi đau buồn. Tình thâm ý thiết từ lời xướng của Phùng Phượng không khỏi có chút châm chọc. Lục Diêu nghe một khúc ‘Trường sinh điện’, biết bao thê lương, nhưng thần sắc Hán công, không có chút gì gọi là bi thương cả. “Hư vô như cảnh như người mà thôi.” Phùng Phượng tựa như đoán được suy nghĩ của Lục Diêu, đặt chén rượu xuống cười nói, “Nửa đêm gọi ngươi tới, vẫn chưa tỉnh ngủ sao?” “Hán công nói đùa.” Lục Diêu lại rót rượu cho y, chính mình cũng bồi một chén, hạ mắt nhìn ánh trăng rơi trên mặt đất trắng như tuyết, bất giác xuất thần. Mười lăm trăng sáng mười sáu tròn, ánh trăng mười sáu tháng giêng sáng trong trọn vẹn, ánh sáng trong vắt trải trên nền đất, lại thêm đèn sa mờ mờ, Côn khúc() văng vẳng không dứt. () Điệu hát trong hí khúc, bắt nguồn từ tỉnh Giang Tô, Côn Sơn Trung Quốc vào thời nhà Nguyên. Lục Diêu đột nhiên nhớ tới vị chủ nhân cuối cùng của Nam Đường cũng mang theo chữ ‘mộng’ vào câu từ… Là ‘Trong mộng quên mất ta là khách, một giấc hân hoan’ (Lãng đào sa) Là ‘Bởi hồn bay trong mộng đêm qua, gió lay hoa thắm dưới trăng’ (Vọng Giang Nam) Là ‘Chuyện xưa đã kể như không, xem ra như giấc mộng hoang qua rồi’ (Tử Dạ ca) () Trích từ 3 bài thơ của Lý Dục – vị vua cuối cùng của triều Nam Đường – bản dịch của Nguyễn Minh. “Giờ đã đủ điều kiện để tiến cung diện thánh.” Phùng Phượng rót cho Lục Diêu một chén, làm như vô tình nói chuyện phiếm, “Hoàng thượng của chúng ta làm điện Kiến Cực kia cũng được lắm, chỉ đợi nửa tòa điện Hoàng Cực hoàn thành thôi, Đại Minh cung này lại có thêm một tòa Tiểu Minh cung, người nói xem là có ý gì.” Lục Diêu tất nhiên biết Hi Tông cả ngày trầm mê vào mộc công doanh tạo (nghê mộc và xây dựng), lời này của Phùng Phượng hẳn mang cả trào phúng, hắn cũng không biết nên đáp như thế nào, chỉ cười lắc đầu, tiếp tục uống rượu. “Tiểu Lục, ngươi là kẻ hiểu người.” Phùng Phượng nâng chén rượu lên rồi nói tiếp, “Chu Do Hiệu cũng hiểu người. Ngươi nói hắn thật sự thích cái việc mân mê làm đồ mộc này? Đơn giản là tìm cái để ký thác, cũng coi như là lí do để sống. Nhìn hắn hôm đó không ăn không uống gây sức ép lên người khác, sợ là không cần ta động thủ….” “Hán công say rồi.” Trên mặt Phùng Phượng không mang theo men say, nhưng Lục Diêu nghe y gọi thẳng tục danh của đương kim thánh thượng, liền biết y đã say nhiều rồi, liền nhanh chân kết thúc cuộc nói chuyện. “Ngươi đứa nhỏ này…” Phùng Phượng đột nhiên cười, “Mọi chuyện đều cẩn thận, lúc nào cũng cẩn thận, ta thật sự không nhìn lầm ngươi.” “Hán công quá khen.” Lục Diêu nghiêm chỉnh nâng chén nói, “Bất quá vì một câu khích lệ này, thuộc hạ xin kính Hán công một ly.” “Trong cung tiệc rượuổn thỏa, ngoài cung tạo phản hỗn loạn. Tùng tùng tiếng trống, bừng bừng gió lửa.” Phùng Phượng uống rượu Lục Diêu kính, một vài chung rượu, tức cảnh diễn xướng, chính là hồi trong ‘Trường sinh điện’, “Bóng tối bao trùm càn khôn, xã tắc tan nát, không chịu được gió tây ào ào mang theo màn đêm, một buổi chiều tà lạnh lẽo ảm đạm ở Trường An.” Lục Diêu khẽ đằng hắng, nhìn Phùng Phượng cầm chén cười lạnh, tay y nắm lấy mép bàn, duỗi chân đứng thẳng, gằn từng tiếng thì thầm: “Ngựa tung vó tiến quân thần tốc, tinh binh trăm vạn mũi giày khẽ động, đạp nát núi sông!” Lời vừa dứt, nhất thời gió đêm lạnh lẽo tĩnh lặng, hai bên im lặng không nói gì. Phùng Phượng đè lên trái tim đang đập liên hồi, khoanh tay đi đến cửa phòng, đưa mắt nhìn sương mù trăng lạnh, đột nhiên than nhẹ một câu, “Tiểu Lục… ngươi hiểu người, ta hiểu người, ngay cả hoàng thượng mà ngay cả ta cũng không dùng đến cũng hiểu người…” Sau đó lại đè thấp thanh âm, ngay cả Lục Diêu cũng không nghe rõ, “Tại sao lại có một đứa ngốc cả ngày cũng không hiểu….” Không phải là không hiểu. Khèn ống trúc do chính mình chế tác, cuối cùng Phùng Sanh cũng không tặng đi, Phùng Phượng không thấy sẽ không hỏi tới. Phùng Sanh sao có thể không hiểu, trong mắt người nọ chỉ có non sông này, mà chính hắn cũng không thể tồn tại tư tâm, chỉ có thể che giấu, mơ hồ, cả đời cứ như vậy mà qua. Đêm nay Phùng Phượng say, Phùng Sanh còn tỉnh. Hoa viên phía sau tuyết đọng còn chưa tan hết, Phùng Sanh đứng trong vườn, một khúc ‘Hồi tuyết’ qua đi, tay đề nội kình, khèn làm từ mười ba cành trúc tía từng tấc văng tung tóe. Tự mình làm ra, tự mình hủy đi, hoàn toàn viên mãn. … Bao lần tiêu tấu giữa trời hoa, ngân hà tựa cửa đứng trông xa. Như là sao sáng rơi đêm ấy, vì ai phong sương tụ nửa khuya? () Trích ‘Khỉ hoài’ của Hoàng Trọng Tắc Cắt tim cắt phổi là như thế nào? Ruột gan đứt thành từng khúc là như thế nào? Sự thành là như thế nào? Sự bại thì ra sao? Sống thì như thế nào? Chết thì lại làm sao? Tuyết đọng vẫn chưa tan, dư âm tiếng khèn còn lượn lờ, giống như câu ‘Chỉ nghe tiếng gió thổi qua cành trúc, lại như tiếng khèn vang đâu đây.” hay như ‘Nguyện cùng gió xuân làm bạn, từng bước từng nhịp hướng thiên nhai.” “Tiểu Lục, Hán công nói thật với ngươi…” Phùng Phượng ngồi lại bên bàn, trên mặt mang theo ba phần ý cười yếu ớt. Lục Diêu nhìn y say rượu lại nhấc chén, chậm rãi cảm khái nói, “Người ấy sống cả đời, rốt cuộc là muốn gì.” Cổ tay vừa lật, chậm rãi khép năm ngón tay lại, làm như nắm cả giang sơn Đại Minh trong tay, “Hoàng thượng có niệm tưởng của người, ta có niệm tưởng của ta.…” Phùng Phượng đang nói, lại lẳng lặng nhìn Lục Diêu một lúc lâu rồi chọn mi khẽ cười, “Tiểu Lục… niệm tưởng của ngươi là gì?”
|
Chương 13
Edit&Beta: Yến Phi Ly Đại Minh cố đô Ứng Thiên, mười dặm Tần Hoài diễm danh lan xa, sau đó dời đô, tuy là thiếu đi xuân thủy nhộn nhạo, thuyền hoa đèn rồng, nhưng cũng nhiều phố lớn ngõ nhỏ, hàng đêm hí ca. Trong kinh nơi trăng hoa nhất, nổi danh nhất không đâu vượt qua Tú Mãn lâu, mà nói đến cô nương nổi danh nhất Tú Mãn lâu, tất nhiên là nguyệt nương tài sắc song toàn, một vũ khúc nghê thường tựa như trích tiên. Năm đó Hồng Tụ khéo léo thanh thoát, “Giải Ngữ Hoa” nổi bật vô lượng, dường như đã không còn ai nhớ rõ. Mà có khi cũng có người nhớ đến, lúc trước Hồng Tụ cô nương vì tình mà tự đóng cửa từ chối tiếp khách cũng coi như giai thoại một hồi. Hai năm sau đó vội vàng trôi qua, những người còn nhớ rõ cũng chỉ cảm khái một câu, Hồng Tụ cô nương rốt cuộc là giống nhiều kẻ khôn ngoan trên đời này, thông minh nhất thế, hồ đồ nhất thời. “Lần này từ biệt, núi cao sông xa, sau này khó gặp,” Hồng Tụ thiêm hương, vẫn là Giải Ngữ Hoa êm đềm, đêm vắng lặng, rượu đầy vò, “Lục đại nhân, xin hãy bảo trọng.” “Muội…. Nếu sau này….” Lục Diêu vốn định nói, nếu sau này bọn họ đối với muội không tốt, nếu muội không thoải mái, thì gửi thư cho huynh. Nhưng lời đến bên miệng lại nuốt trở về, Hồng Tụ gả chồng xa là do chính nàng lựa chọn, bọn họ đối xử với nàng tốt hay không thì cũng đều là người nhà của nàng, Lục Diêu thân là một người ngoài, chẳng lẽ lại muốn ỷ thế hiếp người? Vậy cũng quá hoang đường. Huống hồ hắn nếu có tâm hứa hẹn cho nàng cuộc sống bình an cả đời, cần gì hiện tại lại để nàng rời đi. “Không cần nói nữa.” Rốt cuộc thì Hồng Tụ là tâm tư linh hoạt, là thông minh nhất thế hồ đồ nhất thời, hay là hồ đồ nhất thời thông minh nhất thế cũng khó mà nói. Si ngốc mê hồ đợi hai năm là chính là tự nàng nguyện ý, giải quyết xong duyên trần tìm chốn yên thân cũng là do nàng quyết định. “Chính là…..” Hồng Tụ bảo Lục Diêu đừng nói, bản thân lại nhịn không được, đột nhiên mỉm cười, nửa thật nửa giả ngân nga than nhẹ, “Thán nhân gian không được hoàn mỹ…. Tuy là tự tâm quyết định nhưng chung quy lòng vẫn bất định.” “Hai năm nay kỳ thật huynh đối với muội không tệ. Hồng Tụ biết rõ.” “Tâm tư của huynh muội không phải không hiểu được… Chỉ là, Lục đại nhân… Thích một người, là nguyện ý cùng người đó đồng sinh cộng tử.” “Đêm đã khuya, Lục đại nhân mời trở về đi.” Phút cuối cùng, nàng vẫn không oán không hận nói một câu thật lòng với hắn. Hồng Tụ giúp Lục Diêu mặc áo khoác, đáy mắt ngấn lệ quang. Chỉ là còn có một câu nàng không thể nói nên lời, chung quy nghĩ nếu như không nói còn có thể tự lừa gạt mình, nếu nói ra, liền thật sự lừa không được nữa. “Lục Diêu, huynh không đủ thích muội.” Lục Diêu phụ nàng. Hắn không phải không biết, nếu thật sự thích một người, vô luận sóng gió khó lường, vô luận loạn thế phù du, vô luận sống hay là chết, có thể bên nhau dù chỉ trong nháy mắt, một giây, một ngày hoặc chỉ một đêm, đã đủ. Vì thế hắn muốn tốt cho nàng, không muốn liên lụy hay cô phụ tâm ý của nàng, dẫu sao vẫn là hắn phụ nàng. Đời này Lục Diêu làm ra không ít việc trái lương tâm, lại tại chữ “Tình” này không muốn trái tâm tư của mình. Hồng Tụ không phải không tốt, hai năm trôi qua tất cả đều là gặp dịp thì chơi, chính là chữ “Thích” quá mức huyền diệu, mà hai bên tình nguyện lại rất khó có được. Có điều, nàng chung quy mãi chẳng thể trở thành “Người trong lòng” của hắn. “Lục Diêu….” Hồng Tụ tiễn người đến cửa, cuối cùng nhịn không được kéo tay hắn, đem tay mình dán tại trái tim của hắn, đầu ngón tay gắt gao nắm lấy xiêm y, làm như muốn in lại dấu vết trong tim hắn, khiến nó cả đời không thể mất đi, hắn liền cả đời quên không được. “Muội thật muốn biết… Huynh sẽ cam tâm tình nguyện nhớ kỹ người nào, chờ người nào…. Đem ai đặt vào trong tim, cất giấu… bảo hộ cả đời.” Có một đêm Lục Diêu mơ thấy Tây hồ. Hình như đúng là Tây hồ, nhà Bùi Kiếm Văn ở Hàng Châu, Hàng Châu nổi danh nhất cũng không phải là Tây hồ. Thế nhưng hắn lại mơ thấy cùng y du hồ. Tháng ba đầu xuân, ven Tây hồ, hai người sóng vai chậm rãi bước đi. Hắn nghiêng mắt nhìn về hướng y liền thấy vẫn là thiếu niên hoa mỹ, bạch y thắng tuyết, khóe mắt đuôi mày đều là ý cười. Cũng không nói lời gì, chỉ yên lặng mà đi về phía trước, tựa như muốn bước mãi như vậy, không có tận cùng. Sau đó trời lại đột nhiên đổ một trận mưa xuân.Dưới nắng long lanh màu nước biếc, trong mưa huyền ảo vẻ non tươi. Trong mưa phùn không biết là ai dừng lại trước, chỉ biết là y kề sát vào hắn, ghé vào lỗ tai hắn khẽ gọi một tiếng, “… Lục Diêu.” Hắn vươn tay ôm lấy y, tựa như đêm đó, trong hôn thiên ám địa người nọ gắt gao kề sát mình, hô hấp mang theo mùi rượu thơm nồng, mang theo nhiệt ý nóng hổi phất qua bên tai. Quả là trở tay không kịp mà… tâm tư nhộn nhạo. Nhưng trong mộng, Lục Diêu ngưng thần nhìn kỹ, trong ngực lại rõ ràng không có một bóng người. Hắn có chút mờ mịt mà đưa mắt nhìn bốn phía, cuối cùng thấy bên bờ hồ một bóng trắng mông lung, mà chính mình cũng đột nhiên đứng ở trên cây cầu trong hồ. Tựa như đang ở trong mộng ôn lại một ngày nào đó đối diện nhau. Nhởn nhơ dòng nước nhỏ, cách biệt không nên lời. Rồi sau đó liền tỉnh lại, vẫn là đêm lạnh tháng giêng, ngoài phòng gió lạnh run run, trong phòng lại bởi vì đốt địa long cho nên hơi khô nóng. Lục Diêu đẩy chăn ra, sau lưng áo lót đã bị mồ hôi thấm ướt. Nếu mơ thấy mưa rơi là bởi vì mồ hôi ướt đẫm quanh thân… Vậy dưới thân *** chưa từng biến mất lại là vì cái gì?. Lục Diêu nghe ngoài cửa sổ gió lạnh gào thét, không biết chính mình đến tột cùng là mộng sai mùa, hay là mộng sai người. Từ lúc mơ một giấc mộng không thể nói kia, Lục Diêu liền không có một ngày sống yên. Bản thân hắn cảm thấy bất an, mà ngay cả người bên ngoài đều không cho hắn yên ổn. Hồng Tụ thê lương bi ai hỏi hắn, “Huynh sẽ nhớ kỹ ai? Chờ ai? Trong lòng sẽ chất chứa ai?” Phùng Phượng nhướng mày cười khẽ hỏi hắn, “Tiểu Lục… Niệm tưởng của ngươi là gì?” Lục Diêu không phải không biết Hán công cố ý thăm dò. Mình khác với Phùng Sanh, nếu tính toán rõ ràng cùng Phùng Phượng, đơn giản là năm phần công ơn nuôi dưỡng, năm phần đạo nghĩa sư đồ. Hắn theo y mấy năm, vì quyền thế cũng được, vì danh lợi cũng thế, tóm lại là phải mưu cầu cái gì mới có thể làm cho Hán công yên tâm. Nhưng nếu nói đến niệm tưởng…. Lục Diêu trầm mặc một lúc lâu, uống cạn chén rượu sót lại, giương mắt nhìn Phùng Phượng cười nói, “…Vậy thuộc hạ liền cả gan xin Hán công một thứ.” “Hài tử ngươi thực láu lỉnh, bản lĩnh lựa gió phất cờ so với ai khác đều giỏi hơn,” Phùng Phượng nghe Lục Diêu nói, đặt chén rượu xuống cười to, “Thôi, từ nhỏ đến lớn ta còn nhớ rõ người chưa từng xin ta cái gì, đừng nói là Phá kiếm, đồ trong khố phòng đều mở rộng cửa tùy ngươi chọn lựa!” Từ xưa danh kiếm lớp lớp xuất hiện, lịch sử ghi chép lại vô số, trong đó tất nhiên là có thực có giả, đồ thật trong số đó thì có tới ba thanh ở trong tay Phùng Phượng. Bội kiếm của Phùng Phượng tên gọi “Xích Tiêu”, có từ thời nhà Tần, trong truyền thuyết thanh niên giữ bảo kiếm Xích Tiêu xuất thân hương dã, từ nhỏ đã có bảy mươi hai thiên tương đồ, tự viết là chân long hàng thế, sau bằng sức lực bản thân chém yêu xà ở sông Phong Tây, quanh thân mây mù bao phủ, trong mây mù có thể thấy được xích long bơi lội qua lại. Người thanh niên kia chính là Hán cao tổ Lưu Bang trảm xà khởi nghĩa, mà Xích Tiêu kiếm chính là một thanh kiếm đế vương. Ngoài “Xích Tiêu”, hai thanh kiếm còn lại tên là “Can Tương” và “Mạc Tà”. 《Ngô Việt Xuân Thu – Hạp lư nội truyện》có ghi: “Can tương người nước Ngô thê tử là Mạc Tà. Can Tương chế tạo kiếm, cần kim thiết tinh luyện, Mạc Tà hiến thân hỏa lô, kim thiết tưới lên, tức thì thành kiếm, dương là Can Tương, âm là Mạc Tà.” Can Tương vốn là bị Ngô vương bức bách chế tạo kiếm, không thành nên mới có Mạc Tà tuẫn tình đúc nên. Đời sau truyền thuyết lại nói, Can Tương tưởng nhớ ái thê, cất giấu âm kiếm, đem dương kiếm dâng cho Ngô vương, lại đưa tới họa sát thân, lúc sắp chết Mạc Tà kiếm chợt từ trong hộp bay ra, hóa thành một con bạch long thanh lệ bay vút đi, Ngô vương và ngay cả Can Tương cũng không biết tung tích. Mà ngày đó ngàn dặm ở Huyền thành, trong hồ Diên Bình Tân lại đột nhiên xuất hiện một con bạch long, bảo hộ dân chúng địa phương hàng năm mưa thuận gió hoà, ngũ cốc được mùa, Huyền thành nghèo nàn cũng đổi tên thành Phong thành giàu có. Chính là dân bản xứ lại thường xuyên phát hiện, bạch long cơ hồ mỗi ngày đều ở trên mặt hồ Diên Bình Tân nhìn xung quanh, trong mắt đẫm lệ, như trông mong điều gì. Sáu trăm năm sau, Huyện lệnh Phong thành Lôi Hoán ngẫu nhiên khi xây dựng tường thành lại đào được một cái hộp đá, bên trong là một thanh kiếm, thân kiếm rõ ràng có khắc hai chữ “Can Tương”. Lôi Hoán vô cùng vui sướng, tất nhiên là đem danh kiếm truyền tụng đã lâu này mang theo bên mình. Sau có một ngày, Lôi Hoán đi đến gần hồ Diên Bình Tân, bội kiếm trên thắt lưng đột nhiên từ trong vỏ xuất ra tiến vào trong nước. Ngay khi đang hết sức kinh ngạc, mặt nước cuồn cuộn, hiện ra hắc bạch song long, hướng Lôi Hoán gật đầu cảm tạ, sau đó song song chìm vào hồ nước biến mất. Can Tương kiếm trong tay Phùng Phượng từ lúc Lục Diêu làm lễ nhược quán đã thưởng cho hắn, Mạc Tà lại vẫn cất giấu trong Phùng phủ, năm tháng bụi bặm phủ mờ. Thực ra chính Phùng Phượng cũng rõ ràng, Lục Diêu này từ nhỏ đã kiệm lời, tâm tư ổn trọng, đôi ba lời làm sao có thể thử sâu cạn. Nhưng hôm nay Lục Diêu lại mở miệng muốn xin Mạc Tà kiếm, ngay cả Phùng Phượng cũng hiếm thấy mà sinh ra mấy phần tò mò. Truyền thuyết mặc dù không đáng tin, nhưng Can Tương Mạc Tà thật sự là phân âm dương, vừa ngụ ý một đời tình thâm bất thọ, cũng ngụ ý cả đời không xa không rời. Nếu nói Xích Tiêu là thanh kiếm đế vương, Can Tương Mạc Tà lại chính là song kiếm tình ái. Phùng Phượng vô tình vô dục, mấy năm nay cũng thay Lục Diêu chỉ hôn hai lần. Đương nhiên trong đó không thiếu suy tính ích lợi, nhưng bất kể là nơi nào cũng không ủy khuất Lục Diêu. Lục Diêu tất nhiên là nhất nhất uyển chuyển cự tuyệt, chỉ nói đại sự chưa định, chưa thể thành gia. Phùng Phượng cũng hiểu được, Lục Diêu sợ là vô tâm, cả đời hỗn trong quyền thế quan trường, lấy cớ thoái thác mà thôi. Bên này Phùng Phượng cho rằng Lục Diêu tâm tĩnh như nước lặng, không chút gợn sóng, lại không ngờ, Mạc Tà kiếm này đột nhiên lại có chủ. Kì thực Lục Diêu vốn còn chưa nghĩ sâu xa như Phùng Phượng. Điển cố về song kiếm hắn tất nhiên biết, nhưng nếu thật sự tặng đi…. Tuyết trong vườn Huyên Nghiên đã tan bảy phần, mấy cây bạch mai cũng sắp qua mùa nở hoa. Lục Diêu ngồi một mình trong đình, nhìn một mảnh tuyết đọng trên nề đất mục, trước mắt loang lổ hoang vắng, lại đột nhiên nhớ tới có người hỏi hắn trong phủ có từng xảy ra chuyện ma quái, không khỏi cúi đầu thu mắt, giấu đi ý cười. Rượu đã hết, người đã tan, hắn lại vẫn bất chợt mà nhớ tới y, nhớ tới rượu nồng của y, hoa mai của y, bạch mã bạch y, khoái ý ân cừu. Còn có một giấc mộng không thể nói….. *** không thể tỏ. Ở trong lòng Lục Diêu, Bùi Kiếm Văn vĩnh viễn kinh diễm rực rỡ. Tựa như sấm xuân trong tiết Kinh chập, tựa như cảnh sắc tươi đẹp trong tiết Mang chủng, tựa như cơn mưa đầu mùa, như ngôi sao băng vụt qua phía chân trời nơi hồng hoang ám dạ. Tựa như hết thảy thứ tươi đẹp nhất trên thế gian, nóng hổi, lóa mắt. Lục Diêu chậm rãi nhắm mắt lại, hắn thấy vẫn là cả vườn trắng thuần, mai vàng trong tuyết. Có người nhanh nhẹn mà đến, đứng trước mắt mình, hoa rụng rực rỡ, mặt mày như họa. Hay cho khung cảnh bát mặc sơn thủy thư sướng nhẹ nhàng. “Bình sinh không tương tư, khi tương tư, liền khổ vì tương tư.” Lục Diêu không biết mình cũng sẽ nhớ tới mấy lời ai oán của khuê nữ thế này, méo méo mó mó, mơ hồ không rõ. Hắn chỉ biết là, chớ nói mình cùng Bùi Kiếm Văn không chung đường, cho dù là chung đường…… Cùng người kia yêu đương gì đó, không khỏi quá mức buồn cười, quá mức hoang đường. Hắn chỉ biết xét đến cùng đơn giản chỉ hai câu: Hắn giống như đợi người đến. Hắn giống như đợi người thôi. Đêm đó bị Phùng Phượng hỏi về niệm tưởng, Lục Diêu hiểu rõ ràng, cho dù nói câu “Chỉ nguyện đi theo Hán công trọn đời trọn kiếp” đều chu toàn hơn rất nhiều so với qua loa xin một thanh kiếm.Nhưng nếu thật sự là qua loa tắc trách. Chỉ sợ là giữa khói lửa mịt mùng, trong một khoảnh khắc hắn liền nghĩ đến một hồi say rượu ước hẹn: “Ngươi nếu muốn rút lui, chỉ cần còn coi ta là bằng hữu giang hồ, dù có là trời nam đất bắc, núi cao sông lớn, Bùi Kiếm Văn ta chắc chắc sẽ giúp đến cùng!” Ai từng thúc ngựa Giang Nam, thầm nghĩ loạn thế người cũng muốn có một chốn quay về. Rồi sau đó nước chảy mây trôi, hết thảy tình cảm nơi đáy lòng không trở lại mà đều biến thành một lời nói lúc say. Lục Diêu ngồi một mình trong vườn Huyên Nghiên, chậm rãi tĩnh tâm nghĩ thông suốt. Tặng Mạc Tà kiếm này đi, hắn cũng không trông cậy Bùi Kiếm Văn có thể hiểu được thâm ý trong đó, cũng càng không nói cho y biết Can Tương kiếm trên tay mình. Chỉ cho là đem bảo kiếm tặng y, cũng coi như bồi thường cho Phi Thiên đã gãy trước kia.Về phần Bùi Kiếm Văn là rượu say nói loạn cũng được, là rượu vào lời ra cũng thế, hắn đều không để ý. Ngay cả lời ước định có thật hay không thật cũng sẽ không để ý. Có lẽ núi cao sông dài cách xa ngàn dặm. Có lẽ giang hồ quan trường phân biệt rõ ràng. Có lẽ cuộc đời này không còn gặp gỡ. Nhưng chỉ cần trong lòng rõ ràng, có một thanh kiếm vẫn luôn bên cạnh y, mà một thanh kiếm khác vẫn luôn kề bên mình, tựa hồ cũng đủ rồi. “Đại ca, nghĩ cái gì vậy, nhập thần thế kia?” Ngày hôm nay, Phùng Sanh bớt thời giờ tới Lục phủ, một đường tìm được vườn Huyên Nghiên, bắt gặp Lục Diêu ngồi yên xuất thần, cảm thấy không khỏi thầm than một tiếng, trên mặt lại vẫn tươi cười chào hỏi. “Đệ hôm nay rảnh rỗi quá vậy?” Lục Diêu phục hồi lại tinh thần, quay đầu nhìn phía Phùng Sanh chế nhạo một câu, “Vô sự bất đăng tam bảo điện, đệ không phải là lại gây họa gì đó chứ, muốn ta thay đệ thu dọn?” “Huynh cho đệ là hài tử bảy tuổi hay là tám tuổi?” Phùng Sanh đi vào trong đình ngồi vào chỗ của mình, lắc đầu cười nói, “Tranh thủ lúc rảnh rỗi thôi.” “Vậy chi bằng buổi tối lưu lại dùng bữa, có muốn ăn cái gì….” Lục Diêu chợt ngừng, cũng cười lắc đầu, hắn sao lại còn cho Phùng Sanh là hài tử bảy tám tuổi mà trêu chọc cơ chứ. “… …” Phùng Sanh im lặng một lúc lâu, đi thẳng vào vấn đề, “Đốc chủ nói với đệ, huynh muốn Mạc Tà kiếm của người, còn hỏi đệ xem huynh gần đây có phải vừa ý cô nương nhà ai hay không, lại bảo đệ khuyên huynh đừng vội bàn hôn sự, chờ đến cuối mùa xuân chính sự xong xuôi rồi nói.” “…..Hiếm khi Hán công cũng tốn tâm tư vào mấy việc này.” Lục Diêu thuận miệng có lệ, trong lòng âm thầm cười khổ. “Đại ca…..” Phùng Sanh do dự một chút, vẫn là truy vấn một câu, “Kiếm huynh đưa cho ai?” “…..Đệ cũng không biết, chớ hỏi nhiều như vậy.” Một lúc lâu hai bên không nói chuyện, Phùng Sanh đột nhiên thở dài, “Sắp sửa lập xuân, phương Bắc lại vẫn là băng thiên tuyết địa. Giang Nam thì ngược lại…. Mấy ngày nữa, hẳn là sắc liễu đỏ ngợp trời nhỉ.” Lục Diêu nghe vậy trong lòng khẽ động, nhưng nhìn sắc mặt Phùng Sanh cũng không gióng như có vẻ ngầm hiểu. Thực ra chỉ có Phùng Sanh tự mình mới biết, bởi vì hắn không thể nói rõ, có một số việc so với Lục Diêu sắc bén hơn rất nhiều. Ngày đó ba người ngươi tới ta lui, sợ là khi Lục Diêu còn không rõ, Phùng Sanh đã nhìn ra manh mối. Hoa rơi loạn mắt, khoảnh khắc đó trong mắt ai là thần sắc trầm mê, khi băng tuyết tan rã, lại có thể giấu giếm được ai. “…..Kiếm còn ở chỗ đệ?” “Phải.” Phùng Sanh thở dài trong lòng, cười khổ thầm nghĩ, thôi, nếu mọi người có kiếp số, vậy thì tự mình giải quyết đi. “Đại ca… Kỳ thật đạo lý cổ nhân đều nói qua.” “… …” Giống như hiện giờ cùng nhau nhìn hoa cỏ tiêu điều khắp vườn, hiện tại hắn cùng đại ca ngắm bạch mai sắp sửa điêu tàn, thấp giọng thì thầm: “Hữu hoa kham chiết trực tu chiết, mạc đãi vô hoa không chiết chi.” (Hoa nở đáng bẻ thì bẻ ngay, đừng chờ hoa rụng bẻ cành không – trích Kim lũ y – Đỗ Thu Nương)
|
Chương 14
Edit: Phong Ly Beta: Yến Phi Ly “Những người khác đâu? Cứ như vậy mà đi thôi sao?” Năm sau muội muội xuất giá, Bùi Kiếm Văn đích thân trở về, liền thấy trong phòng có một thanh kiếm, người tặng kiếm cũng đã đi mấy ngày rồi. “Lục đại nhân còn có việc gấp trong kinh, con đừng làm như ai cũng chơi bời lêu lổng như con vậy.” Bùi phụ khẽ quát một câu, trong lòng nghĩ không biết Bùi Kiếm Văn cùng chỉ huy sứ cẩm y vệ có giao tình với nhau từ khi nào. Lần trước cướp ngục, Bùi Kiếm Văn tất nhiên tránh ở chỗ Lãng Anh dưỡng thương tốt mới dám về nhà nhận lỗi, Bùi phụ mặc dù cũng biết phong thanh, nhưng cũng không biết tiểu tử vô pháp vô thiên nhà mình đã phạm phải chuyện gì. Lúc trước Bùi phụ không để đứa con này đi làm quan, chỉ cho y học võ, tất nhiên có tính toán riêng. Nếu có thể, lão còn muốn Kiếm Văn đời này không liên quan tới quan gia, giờ để y thoải mái vào nam ra bắc mở mang đầu óc, rồi… Bùi phụ khẽ than một tiếng trong lòng, cũng là không nghĩ đến mà. “Gấp cái gì mà gấp.…” Bên này Bùi Kiếm văn âm thầm bĩu môi, thầm nghĩ từ kinh sư đến Hàng Châu nhanh nhất cũng phải mất mười ngày, Lục Diêu nếu đã đến đây, đợi được nửa tháng rồi, không đợi nốt hai ngày nữa đi. Đúng là Lục Diêu có việc khẩn. Lần này Đông Xưởng thông cáo giả, chỉ nói rằng có đại sự, sợ rằng tiết thanh minh cũng không về phía nam tảo mộ được, nghĩ muốn về thăm quê một chút. Phùng Phượng cũng biết lần này Lục Diêu phải đi đến biên quan nguy hiểm khó lường, đương nhiên cho phép hắn đi là giả, nhưng cũng dặn dò nhanh chóng trở về. Biên giới phía tây Đại Minh vốn chưa bao giờ yên ổn, đầu năm nhiều lần đối đầu với quân binh Mông Cổ, vùng biên cảnh được bố trí Đông Thắng vệ, Vân Xuyên vệ, Quan Sơn vệ, Toàn Trữ vệ cùng bốn mươi Dư vệ, Thành Hóa lại liên tiếp thất thủ, liền lui về Gia Dự Quan đóng binh bất động. Binh bộ thượng thư năm đó đem con dâu Chu Mộng Lân điều đến tận đây nhận chức, mang theo mười vạn quân đóng ở biên giới, kìm hãm quân binh của Phùng Phượng trong kinh. Kì thực Phùng Phượng không phải là sợ mười vạn đại quân khởi binh tạo phản. Quân binh bảo vệ xung quanh kinh sư, ‘Ngũ Quanh doanh’, ‘Thần Xu doanh’, ‘Thân Cơ doanh’ tam đại doanh đều là quân tinh nhuệ, tuy rằng nhân số chỉ bằng một nửa ở biên cương, nhưng nếu thực sự tiến công, ai thắng ai thua còn chưa biết. Chẳng qua nếu thật sự xảy ra nội chiến, thì việc quân Mông lấy Liễu Không Tử, đánh tiến Gia Dự Quan cũng không phải chuyện đùa. Giang sơn Đại Minh không toàn vẹn, y còn muốn làm gì? Huống hồ ở Giang Chiết còn có vệ quân của Đông Lâm đảng, kinh sư trọng địa không thể không có binh lực, biên quân Gia Dự Quan này chỉ có thể dùng trí, không thể cường đoạt. Phùng Phượng trăm phương ngàn kế nhẫn nại năm năm, đầu tiên phải đợi người bên trong có chỗ đứng vững chắc, để có thể nội ứng ngoại hợp thứ hai khuyến khích Hi Tông nghị hòa cùng Mông Cổ, tạm ngừng chiến tranh, quan trọng là mở cửa buôn bán ở biên giới, chỉ đợi bên kia hưu sinh dưỡng tức, hưởng thụ đủ thái bình mới hạ thủ. “Trẫm còn nhớ trước đây…” Vào một ngày nắng chói ở cung Càn Thanh, Phùng Phượng cùng Hi Tông ngồi bên cửa sổ, một mình chiếm trọn một góc bàn, ung dung khắc quy hạc thụy thú trên thềm đỏ của điện Hoàng Cực suốt mấy canh giờ. “Dạ?” Phùng Phượng ngừng dao khắc trong tay, giương mắt nhìn Hi Tông, nhờ hắn mở miệng. “… Tay nghề chạm trổ ngươi cũng thật cẩn thận.” Hi Tông kề sát vào Phùng Phượng, lấy con rùa gỗ trong tay y, bỏ vào tay cùng với con rùa của mình, tinh tế đánh giá. “Của hoàng thượng mới là tinh xảo.” Phùng Phượng cười cười, “Thần đây cũng chỉ là thật giả lẫn lộn thôi.” “Còn nhớ trước đây, ngươi cho ta một cái ***g dế.” Hi Tông tiếp tục nói tiếp câu phía trên, “Sau đó nó chết, ***g sắt kia ta còn giữ, nhưng sang năm lại để đâu đó, không tìm thấy nữa rồi.” “Này đều là mấy chuyện nhỏ nhặt, phiền cho hoàng thượng nhớ đến tận bây giờ.” Phùng Phượng khẽ cười lấy con rùa gỗ của mình từ trong lòng bàn tay Hi Tông, chậm rãi khắc xuống. “Hoàng thượng…” Im lặng một lúc, Phùng Phượng lại lên tiếng, nhắc tới công sự mà làm như nói chuyện phiếm thường ngày, “Hôm qua Chu Đô Ti có dâng tấu tham kiến.” “Ồ?” Hi Tông dừng tay, “Nói thế nào?” “Mưu lợi kết đảng, quản quân bất lực.” Phùng Phượng đạm thanh bẩm báo, “Trương Dịch, Võ Uy, Định Tây, ba nơi thiết yếu của biên cương đều do Chu tướng quân đích thân quản lí, tấu chương kia có nói, việc những nơi ấy đều lấy buôn bán làm giàu quân đội là không có kỉ cương phép tắc, không có tư cách của quan binh… Hoàng thượng có cần tự mình xem qua không?” “Không cần…” Nói đến chuyện này, Hi Tông sao không rõ, lập tức thản nhiên đáp một câu, “Sai người đến xem đi, nếu là thật… Có thể chọn người thích hợp thay thế?” “Hoàng thượng thánh minh, thần liền quay về viết danh sách những người tài thân tín giao cho hoàng thượng.” Một chỉ thánh ý tới tay, Lục Diêu vừa về kinh, liền theo Đô Sát viện cùng người của Đông Hán đi đến biên quan. Lần này tuy mang danh là giám sát, nhưng người dẫn theo lại không ít. Vài vị tuần án Ngự Sử bất quá chỉ để trang trí, kì thực Lục Diêu tự mình dẫn theo tám trăm đề kỵ cẩm y vệ đi theo đường thứ nhất, Đông Hán chưởng Hình Thiên bộ Đỗ Khánh thống lĩnh một ngàn hán vệ đi đường thứ hai, đường thứ ba là binh bộ thị lang Phương Phi Kì cùng một ngành doanh binh mã kinh sư, chậm rãi tiến đến Cam Châu. Đông Lâm đảng vốn cũng đợi thời cơ quan sát kinh thành cùng Yêm đảng ganh đua cao thấp, lại không đoán được Phùng Phượng đã ra tay trước, lần này hành động không để cho ai biết, không khỏi trong lòng mắng Hi Tông đến cẩu huyết lâm đầu, một bên điều mấy đội nhân mã đến cướp thánh chỉ, một bên phái tử sĩ tinh nhuệ lẻn vào cung, chỉ cần Hi Tông chết, thái tử kế vị, còn có thể từ từ trì hoãn. Tuổi Hi Tông không lớn, nhưng cũng sớm bị Phùng Phượng nửa khuyên nửa ép phong hậu nạp phi, năm nay thái tử đã được bốn tuổi. Phùng Phượng biết cả đời này cũng không thể chính đại quang minh ngồi lên ngôi vị hoàng đế, ngay cả Hi Tông đối y nói gì nghe nấy, rốt cuộc thiên hạ vẫn là của họ Chu, y nào có thể cam tâm. Hai năm nay Phùng Phượng âm thầm phái thái giám tâm phúc, tìm kiếm khắp kinh đô cùng các vùng lân cận các bé trai có dung mạo gần giống thái tử, nhặt về cũng được, bắt về cũng được, đem đến một trạch tử ở ngoại thành, ngày đêm trông giữ nghiêm ngặt, dạy dỗ cẩn thận, chỉ đợi thời cơ đến liền cho phụ tử Hi Tông cùng nhau quy thiên, hoàn toàn kết thúc huyết mạch Chu gia. Nhưng đến nay tranh giành đảng phái còn chưa yên, thái tử tuổi nhỏ, nếu Hi Tông thật sự gặp bất trắc, nhất định sẽ có một màn ngươi tranh ta đoạt. Phùng Phượng cũng không muốn kéo dài thêm năm năm, Hi Tông sớm muộn gì cũng phải chết, chỉ là không phải lúc này. Bên kia Lục Diêu mang thánh chỉ, một đường đi cũng không được yên ổn bên này Phùng Phượng cũng lấy lí do hộ giá mà giam lỏng, Đông Hán thiết vệ trong ngoài ba tầng vây kín cung Càn Thanh đến một con chim cũng không lọt vào được. Chính là ứng với câu —- Mây lên nắng xế sau đình, mưa rừng sắp tới gió sinh khắp thành. (trích Hàm Dương thành đông lâu của Hứa Hồn) Mười vạn đại quân ở biên quan chỉ là con số ảo, kì thực có tới mười hai vạn người. Trong đó Chu Mộng Lân tự mình dẫn bốn vạn binh mã tọa trấn Ngọc Môn, hai vị thân tín dưới tay đem theo hai vạn binh trú đóng ở Trương Dịch và Định Tây, còn lại bốn vạn giao cho thứ tử Chi Vĩnh trấn thủ võ uy. (lấy võ để ra uy) Phùng Phượng lần này tranh đoạt tuy nói là có ba đường nhân mã, nhưng so với mười hai vạn đại quân kia không khác gì hạt cát trong sa mạc. Bất quá Phùng Phượng cơ bản không muốn chống lại họ, Đỗ Khánh cùng Phương Phi Kì một tấn công Trương Dịch, một tiến đánh Định Tây, hai nơi ấy bên trong đều có thủ hạ tiếp ứng, đến lúc đó cùng nhau động thủ, xác nhận sẽ không thể lui lại được. Về phần Lục Diêu cũng từng kinh qua võ uy, thẳng tiến Ngọc Môn, ỷ vào thánh chỉ bên thân, giáp mặt cùng Chu Mộng Lân đọ sức. “Sáo Khương đừng oán chi dương liễu, gió xuân đâu đến Ngọc Môn nào!” Một khúc ‘Lương châu từ’ nói đến cái lạnh khủng khiếp nơi biên cương, hiện tại còn cách Ngọc Môn hai ngày đường, nhưng cũng đã sa mạc bùng khói trắng, chiều tàn rơi sông giăng. (trích Sứ chí tái thượng của Vương Duy) Lục Diêu thấy sắc trời đã muộn, ra lệnh cho thủ hạ quân sĩ hạ trại nấu cơm, tự mình ngồi trong trướng xem quân đồ, không nói gì, sắc mặt ngưng trọng. Ranh giới Đại Minh rộng lớn, từ nam đến bắc không biết có bao nhiêu thôn trấn gọi là ‘An Bình’, lúc này lại thấy bên ngoài cách mấy chục dặm có một tòa An Bình trọng trấn, khả năng là nơi phồn hoa nhất phía nam Ngọc Môn. Nhưng một đường tới đó, tử sĩ dưới trướng Đông Lâm đảng như cẩu đói vồ mồi giết một đám đến một đám, ám thâu minh thưởng, phóng hỏa hạ độc, loại thủ đoạn nào cũng dùng, thật có thể nói là chưa tới Hoàng Hà chưa cam lòng, không thấy quan tài không đổ lệ. An Bình trấn này là tòa trọng trấn cuối cùng của Ngọc Môn, muốn âm thầm sớm dẹp bỏ mai phục, Lục Diêu sao dám chui đầu vào lưới. Huống hồ dù hắn tránh được thôn trấn hạ trại, phỏng chừng tối nay cũng không được yên ổn. Lục Diêu thầm than, đóng lại bản đồ, đang định gọi người mang cơm tới, đã thấy hầu cận vén rèm trướng lên bẩm, “Đại nhân, bên ngoài có một người họ Bùi muốn gặp ngài.” Lại nói Bùi Kiếm Văn sau khi nhận được kiếm, nhìn kĩ mới biết kiếm này có chút ý tứ. Vỏ bảo kiếm này là để tặng cho người sau này mình muốn kết hôn, chỉ cần hoa quý, không thể nói là thực dụng, đúng là bên trên dùng bạch ngọc khảm lên, phía trong mạ kim bạc, ngoài khắc bàn long, riêng hai khỏa minh châu khảm long nhãn đã rất xa xỉ rồi. Bùi Kiếm Văn đầu tiên đánh giá qua chỉ cảm thấy vỏ kiếm tượng khí phác tị, tục bất khả nại, rồi cầm lấy chuôi kiếm mới không khỏi kinh ngạc. Chuôi kiếm này cũng sáng lấp lánh, nhìn qua còn tưởng làm từ ngọc thạch, sờ lên lại thấy không giống ngọc, lấy tay gõ lên thì có tiếng kim loại, giống đá mà không phải là đá, tựa sắt nhưng cũng không phải sắt, ngay cả Bùi tiểu gia nhìn quen bảo bối trong nhà cũng không biết đây rốt cuộc là cái gì. Bảo kiếm rời khỏi vỏ, Bùi Kiếm Văn không khỏi trong lòng thầm hét một tiếng, tuyệt! Chỉ thấy kiếm quang rét lạnh như trong hồ băng ngàn năm, nước lạnh mà không lạnh, hàn khí túc sát, nước chảy nhẹ nhàng, lưỡi kiếm khẽ rung phát ra tiếng rồng ngâm, vang vọng không dứt. Bùi Kiếm Văn cũng biết bảo khí thế này không thể không có danh hào, lập tức giơ kiếm nhìn kĩ, quả nhiên hai chữ viết theo lối chữ Triện rõ ràng được khắc chìm trên thân kiếm lọt vào tầm mắt, thực làm cho người ta trong lòng cả kinh. Bình ổn tâm thần, Bùi tiêu gia chậm rãi tra kiếm vào vỏ, trái phải ước lượng một lát, rốt cuộc nhịn không được bước nhanh ra khỏi thiên viện của mình, còn kêu hạ nhân báo với lão nhân một tiếng, liền mang kiếm đến chỗ Lãng Anh, nhờ hắn giám định. “Xác định đúng là Mạc Tà…” Lãng Anh đối chiếu tư liệu lịch sử, vỗ tay thở dài, “Không thể tin được sinh thời thật sự có thể thấy được danh kiếm thượng cổ này… Kiếm Văn, vị bằng hữu này tặng đệ một phần đại lễ rồi.” Bùi Kiếm Văn nhíu mày không nói, thầm nghĩ lễ này đúng là đại lễ, chính mình cũng nhận không nổi. Lập tức không chần chừ, lấy kiếm hùng hùng hổ hổ cưỡi ngựa lên kinh, nhưng cũng không gặp được người. Do dự một hồi, Bùi Kiếm Văn vẫn không giao thanh kiếm cho Lục phủ quản sự, còn theo tin tức một đường lên phía bắc, cuối cùng cũng gặp nhân mã của Lục Diêu ở phía nam An Bình trấn. Lần này Bùi tiểu gia không từ lao khổ bôn ba trả kiếm, trước là vì kiếm này thực sự quý giá, Lục Diêu tự mình đưa đến Giang Nam, mình phải mang trả lại cho hắn mới đúng lễ nghĩa sau là…. Lục Diêu nghe được thủ hạ thông báo, liền đoán được Bùi Kiếm Văn lần này tám chín phần là đến trả kiếm, nhất thời bản thân không rõ cảm thấy thế nào, chỉ vội vàng ra khỏi trướng, bước nhanh ra ngoài quân doanh. Tám trăm nhân mã đều là cẩm y vệ tinh nhuệ, hành quân hạ trại cũng ngay ngắn gọn gàng, doanh trướng ám sắc tầng tầng vây quanh, trạm gác san sát, phòng vệ nghiêm ngặt. Bùi Kiếm Văn là người ngoài, tự nhiên không được vào quân doanh, Lục Diêu tới gần, liền thấy Ngọc Tiêu Dao vung vẩy cái đuôi, nhàm chán dậm chân xung quanh, Bùi Kiếm Văn cũng khoanh tay thu mình lại, lẳng lặng nhìn mặt trời lặn dần ở một góc sa mạc. Ánh chiều tà ảm đạm khiến một người một ngựa nhìn có chút đơn bạc, lại mang thêm vẻ tịch liêu. “… Bùi Kiếm Văn.” Lục Diêu dừng lại một lát rồi mới lên tiếng gọi, nhìn bóng người cách mấy trượng quay lại, trên thân phủ một mảng hôn ám, nhìn không rõ nét mặt. “Lục đại nhân, lại gặp rồi.” Bùi Kiếm Văn đạm thanh đáp một câu, cách Lục Diêu không xa không gần, ánh chiều tà chậm rãi chìm dần. “Sao vậy? Không muốn mời ta vào trong ngồi sao?” Một lát sau Bùi Kiếm Văn mới mở miệng, giọng nói mang theo ý cười, nắm cương kéo Tiêu Dao vào trong doanh, đứng trước mặt Lục Diêu. Lục Diêu cũng cười cười, nâng tay sờ cổ Tiêu Dao, “Tiểu Bùi, lâu rồi không gặp.” “Ta không nhớ là có cho ngươi gọi nó như vậy.” Bùi Kiếm Văn không nặng không nhẹ đánh vào bả vai Lục Diêu một quyền, cuối cùng cũng có chút không khí bằng hữu tương kiến. Lục Diêu nhẹ nhàng nhíu mày, một bên dẫn Bùi Kiếm Văn đi vào doanh trướng, một bên bất đắc dĩ thở dài, “Ta thật phục ngươi, xa như vậy, ngươi cũng không ngại đi qua đi lại.” “Đâu có,” Bùi Kiếm Văn lập tức cười trả lời một cách mỉa mai, “Hiếm khi được Lục đại nhân đang phải nhận nhiệm vụ khẩn cấp, còn có lòng tự mình đến Giang Nam một chuyến tặng kiếm, Bùi mỗ đội ơn.” “Ta cũng quay về thăm tổ trạch, tiện đường thôi.” “Lục Diêu, ta sẽ không vòng vo với ngươi,” Vào trong doanh trướng, Bùi Kiếm Văn nhìn Lục Diêu thắp đèn, đi thẳng vào vấn đề, “Chuyện ở núi Bàn Long ngươi không cần để tâm, kiếm này rất quý giá, ta không nhận nổi.” “À? Thì ra Bùi công tử còn có thể nhận ra giá trị của đồ vật này nọ sao?” Lục Diêu trêu chọc một câu, khôi phục sắc mặt giải thích, “Đồ vật dù có đắt tiền cũng chỉ là vật không có sự sống, tục ngữ nói bảo kiếm tặng anh hùng, chẳng lẽ Bùi thiếu hiệp cảm thấy bản thân không đảm đương nổi hai chữ ‘anh hùng’?” “Ngươi không cần kích ta,” Bùi Kiếm Văn lắc đầu, “Tóm lại tâm ý ta nhận, kiếm ngươi vẫn nên mang về đi.” “… Thôi được.” Đã nói đến nước này, Lục Diêu không miễn cưỡng nữa, tiếp nhận bảo kiếm Bùi Kiếm Văn đưa tới, cười ảm đạm nói, “Dù sao kiếm ở trong tay ta, cũng sẽ không thể chạy đi đâu được. Ngươi nếu sau này không tìm được binh khí vừa tay, tốt nhất là đến tìm ta đi,” Lại chọn mi cười đùa, “Ta liền bán cho ngươi một mảnh nhân tình.” “…..” Bùi Kiếm Văn đứng trước mặt Lục Diêu cúi đầu suy nghĩ, một lúc lâu sau vẫn không thấy trả lời, im lặng khiến Lục Diêu cảm thấy xấu hổ, vừa định mở miệng, đã thấy Bùi Kiếm Văn đột nhiên từng bước tiến đến, một tay đè lên vai hắn, một tay mò đến bội kiếm bên hông hắn. Bên này Lục Diêu tự động lui về sau từng bước, tay phải nắm lấy cổ tay Bùi Kiếm Văn đang muốn rút kiếm, bên kia Bùi Kiếm Văn cũng dùng thủ pháp bắt lại, chuyển cổ tay rời khỏi tay Lục Diêu, keng một tiếng rút kiếm khỏi vỏ. “…..” Lục Diêu thầm than, không biết ma xui quỷ khiến thế nào lại đem thanh kiếm này theo. “… Lục Diêu, xem ra quan lại kiêu ngạo một chút cũng có cái hay,” Bùi Kiếm Văn đột nhiên cười, nửa là vui đùa nửa còn lại thật sự hỏi một câu, “Đây có lẽ là Can Tương phải không?”
|