Bloody Pascali Roses
|
|
“Em muốn vào đại sảnh cầu nguyện, biết chắc là anh sẽ nhàm chán. Anh đi dạo quảng trường bồ câu trước, chốc nữa xong em sẽ lại đó.”
“Em hiểu anh thật. Không uổng anh yêu em nhiều vậy. Nhớ đừng để anh chờ lâu”
“Em biết.”
Cả hai vẫy tay chào tạm biệt. Lúc Zenda bước vào đại sảnh, nơi đây chỉ còn lác đác vài người. Cậu ngồi xuống hàng ghế thứ ba bên tay phải và tĩnh tâm nhìn vào Chúa khấn nguyện trong âm thầm:
“Con biết những lời con cầu xin, Ngài có thể sẽ không nghe thấy. Dẫu vậy, con vẫn thiết tha tin tưởng vào tấm lòng nhân từ của Ngài. Chúa ơi, con đã làm rất nhiều chuyện tội lỗi. Nếu trên đời thực sự có quả báo, con tin nó sẽ hiện ra vào một ngày không xa trong tương lai con. Có điều con cam lòng chấp nhận. Vì người con yêu, con chưa từng hối hận phải đánh đổi tất cả. Con chỉ xin Ngài hãy tha thứ cho anh ấy. Chúng con chẳng thể lựa chọn nơi sinh ra và kiếp số của mình, nếu được thay đổi, có ai lại muốn sống một cuộc sống bị người khác nguyền rủa hỡi Chúa? Con tự nguyện thay anh ấy xuống Hỏa Ngục, tự nguyện gánh chịu mọi tai ương về mình. Cầu Chúa hãy bảo hộ cho anh ấy, cũng cầu Chúa hãy bảo hộ cho người cậu đáng thương của con. Và sau cùng là người mà con luôn cảm thấy mặc cảm nhất – Eroza. Con đã hại chết Arleen – mẹ ruột của nó, thậm chí cả di nguyện của cô ấy cũng không thể thực hiện được. Nếu để cô ấy biết Eroza vì con lại bước vào con đường hunter, tệ hơn thế còn nhuốm đầy máu tanh của loài bất tử, cô ấy có chết cũng không nhắm mắt. Xin Chúa hãy giúp con chuyển lời đến Arleen, con không thể xoay chuyển quá khứ, nhưng thề sẽ không để ai làm hại Eroza nữa… hy vọng cô ấy được thanh thản nơi thiên đàng. Con khẩn cầu Chúa.”
Zenda ảo não gục đầu xuống đôi tay. Ánh mắt cậu u hoài tựa những chiếc lá thu đang héo hắt trên cành, chỉ chực chờ Đông sang để xua chúng vào miền lãng quên. Sẽ là điều kém khôn ngoan nếu để Krizu nhìn thấy vẻ ủ rũ này. Zenda mặc niệm thêm một lúc rồi đứng dậy. Cậu cố nở một nụ cười về phía Chúa và rời khỏi. Trên đường, Zenda bước ngang đài phun nước Lantis, cậu muốn thử tập tục kỳ lạ của người dân nơi đây, chỉ tiếc không có sẵn đồng xu bạc. May thay một cậu bé địa phương tốt bụng thấu hiểu sự hiếu kỳ của cậu đã tặng cậu một trong số ba đồng xu mà nó có.
“Krizu Kenshi, anh phải luôn sống thật vui vẻ và an bình.”
Zenda vừa nói vừa thảy đồng tiền xuống đài nước xanh biếc như dát ngọc bao quanh mấy bức tượng thiên thần đang mỉm cười. Tay cậu chà lên thành viền ba lần theo kiểu mọi người làm. Họ giải thích như vậy sẽ tăng thêm tính thiêng liêng cho việc cầu nguyện. Xong xuôi, Zenda vui vẻ bước ra quảng trường bồ câu.
Krizu đúng là kẻ lười biếng, túi thóc trên tay cậu vẫn đầy nghĩa là cậu chẳng tích cực cho bồ câu ăn là mấy. Cũng phải thôi, vì cậu đang say mê trò chuyện cùng một cô gái xinh đẹp có mái tóc vàng óng ả. Zenda chỉ còn biết lắc đầu thở dài, nhưng cậu không giận, giận chi cho tốn sức, cậu quá quen cảnh này. Zenda thản nhiên đến cạnh họ và chào xã giao với cô gái. Mắt vẫn không quên liếc sang Krizu dò xét ngầm. Krizu cười huề rồi bất ngờ giới thiệu một câu làm cô gái ngượng đỏ mặt khi cô hỏi về quan hệ hai người:
“Cậu ấy là người yêu của tôi.”
“Hai người đẹp đôi lắm. Rất vui được quen biết.”
Cô gái mỉm cười, có vẻ cô là người cởi mở, nhưng chắc đây là lần đầu gặp phải tình huống khó xử thế. Trao đổi thêm đôi câu, cô nói còn bận việc nên từ biệt trước. Đợi cô gái đã đi khuất, Zenda bấy giờ mới quay sang bảo Krizu:
“Anh có số đào hoa thật.”
“Không, anh vô tội nhé, cô ấy chỉ hỏi đường thôi. Anh vừa nói với cô ấy được mấy câu là em đến đấy. Không có gì khác đâu, anh bảo đảm.”
Krizu đưa hai ngón tay trỏ và giữa thẳng đứng như một kiểu thề thốt.
“Em chọc anh mà, nghiêm túc làm chi.”
Zenda gạt tay cậu, đôi mắt tròn xoe lóng lánh niềm vui.
“Chúng ta đi xem khu tượng đài nào. À… em thích nhất Mars đấy, không biết là có tượng của vị thần này không?”
“Một người yêu hoà bình lại thích Thần Chiến Tranh sao, anh hơi ngỡ ngàng đó?”
Krizu ra chiều nghi ngờ, hai mắt mở to làm nổi bật những sợi mi đen nhánh.
“Mars sống theo cách nghĩ của ông, ông chẳng màng thế giới này nhìn ông ra sao. Ông can đảm đối diện cùng thách thức và luôn chiến thắng nó thông qua thực lực bản thân, chẳng dùng chút mưu mẹo gian ngoa nào. Cả nhân loại nói ông là kẻ tàn nhẫn khát máu, riêng em nói cả nhân loại không thể hiểu được ông, và đôi lúc chính họ cũng không thể hiểu được họ. Mà thôi, em nôn nóng muốn được xem những tác phẩm điêu khắc sắc sảo đó.”
Zenda kéo tay Krizu ngay khi cậu chưa kịp biểu lộ tý phản ứng gì, thậm chí chưa kịp hỏi mình xem có hiểu được những lời Zenda nói hay không? Quan trọng nhất là cái bịch thóc vẫn còn nguyên trên tay cậu. Một đứa con của chủ nghĩa nghệ thuật và một đứa con của chủ nghĩa thực tế quả là không dễ dàng để yêu nhau.
Ánh chiều buông dịu dàng trên suối tóc uốn lọn tuyệt mĩ của một cô gái trẻ có đôi mắt mơ màng như màu xanh đá Peridot. Cô mặc chiếc áo kiểu hồng phấn phối với cái váy trắng có ren, được viền quanh bởi những đoá hoa nhỏ bằng vải mềm, phủ xuống một đôi chân thon thả mang đôi giày cao gót đỏ tía. Cô là người vừa nói chuyện cùng Krizu và Zenda. Thực chất từ nãy đến giờ, cô không hề bỏ đi mà vẫn lặng lẽ quan sát hai người trong một góc tường của tu viện. Bờ môi mềm khẽ nhếch một nụ cười, kèm theo một tiếng tắc lưỡi tiếc nuối. Nhưng khoảnh khắc bỗng chuyển nhanh thành những tràng hét thảm thiết:
“Aaaaaaaaaaa…”
Cô gái xuýt xoa cái đầu mới bị đập cáu gắt với kẻ đứng trước mặt mình:
“Anh làm cái quái gì thế? Đau quá đi.”
“Anh mới là người nên hỏi câu đó. Em đang làm trò tào lao gì thế?” Chàng trai trẻ rút lại thứ vừa đánh vào cô gái, đó là một cây gậy bằng bạch kim dài khoảng 2 feet rưỡi, được giũa nhiều khía nhỏ tinh vi tựa hoa văn làm nổi bật vóc dáng mảnh mai và chuẩn mực quý phái riêng. Người sở hữu nó dĩ nhiên cũng có cốt cách rất đặc biệt. Tuy trên gương mặt cân đối đến độ hoàn hảo chẳng buồn nở một nụ cười, nhưng sóng mũi cao thanh tú kết hợp ánh nhìn u đạm màu Emerald lại tôn lên sự quyến rũ kỳ lạ.
“Đây gọi là nghệ thuật hoá trang bậc thầy,Michael à… anh chẳng hiểu tý nào. Trông em đẹp chứ?”
Cô gái tiến sát ôm chàng trai thủ thỉ nơi vành tai cậu:
“Anh yêu, chúng ta đặt phòng đêm nay nhé.”
“Bỏ tay ra thằng nhóc… em muốn ăn một gậy nữa sao? Thật chẳng hiểu anh vừa đi có hai tiếng mà em lại biến thành thế này? Kenvil… lỡ để người quen bắt gặp, anh không tưởng tượng nổi danh dự gia tộc Lycaon nằm đâu?”
“Em thách kẻ nào dám bàn tán sau lưng đại phú hào nổi tiếng miền Tây này đấy. Có điều em sợ anh rồi, chốc lát em thay đồ lại là được. Còn anh… lại đến Caseifod tìm gã tình nhân kia à?”
Michael không trả lời, sự im lặng đã là câu trả lời tốt nhất. Biết mình đoán đúng, Kenvil đăm chiêu:
“Em khuyên anh bỏ cuộc là vừa, hắn cố tình trốn tránh, không ngu dại mà trở về toà biệt thự đó cho anh tìm ra. Ái chà… em thật muốn gặp mặt cái gã Olardo Kenshi, hắn có mê thuật gì khiến ông anh cả của tôi nhất nhất chung tình sau ngần ấy năm dài đằng đẵng? Mà nè… quên báo tin này cho anh. Em vừa gặp hai đứa cháu ngoan của người anh yêu.”
“Krizu và Zenda?”
Michael quắc mắt hỏi.
“Chính xác… đúng là bắt quả tang, họ bảo đang ở Thụy Điển nên từ chối lời mời của chúng ta, xem chừng là một cái cớ tồi. Anh phải cảm ơn việc em cải trang đấy. Qua nó em còn biết được thì ra hai anh em bá tước lừng lẫy này đang yêu nhau. Lũ vampire có sở thích độc đáo nhỉ? Kể cũng phải thôi, tổ tiên của chúng đều được sinh ra từ những mối tình loạn luân mà. Nếu anh đến sớm một chút là có thể gặp họ, họ mới rời khỏi đây thôi.”
“Em không dùng tên Kenvil xưng hô chứ?”
Trong đầu Michael chợt nảy ra một câu hỏi thú vị làm khoé miệng cậu hơi dao động.
“Em đâu điên đến nỗi vậy? Ai chả biết cái tên này nam tính chắc luôn. Fedora thì thế nào?”
Kenvil tự mãn cười lớn tiếng. “Em thấy họ ra sao?”
“Lời thiên hạ đồn đại không ngoa.
Krizu sở hữu sắc đẹp rạng ngời như ánh nắng Mặt Trời, khiến kẻ đối diện cảm thấy bỏng rát và choáng ngợp, trong khi Zenda lại sở hữu sắc đẹp dịu dàng như quầng sáng Mặt Trăng, khiến kẻ đối diện cảm thấy thuần khiết và tôn thờ. Ước gì em có được cả hai.”
Một gậy nữa từ Michael đánh thức đôi mắt Kenvil đang lim dim trong bến bờ hoang tưởng.
“Anh không hỏi diện mạo, em thái quá rồi nhé, mau tỉnh mộng đi. Anh hỏi về tính cách?"
“Anh cứ thích bạo lực là sao? Đau chết em. Chỉ móc ngoéo được vài câu làm sao em biết tính cách họ.” Kenvil la inh ỏi.
“Nói đúng hơn là em chỉ lo ngắm họ thôi, chẳng thèm để ý những cái khác. Mà Lucas biến đâu mất mấy hôm nay hả?”
“Lạy Chúa em biết.”
“Thôi vậy…” – Michael thở dài rồi dõng dạc ra lệnh. – “Em mau thay đồ cho anh. Chúng ta phải về Bristol rồi. Anh còn thấy em ăn mặc kiểu này thì coi chừng anh giết em.”
Kenvil hí hửng chạy đi với đôi giày lạch cạch, được một đoạn khá xa còn ngoảnh lại trêu tức Michael:
“Anh không quản nổi em đâu, ông cụ non.”
|
CHƯƠNG 9: ĐIỀM BÁO TƯƠNG LAI
Cùng lúc, ở một nơi khác trên nước Anh, trong một căn phòng nhỏ – nơi mà dòng điện quang đủ sức xuyên suốt từng hạt bụi li ti, Eroza ngồi gác chân trên giường với bả vai được băng bó kỹ càng chăm chú nhìn vào người đàn ông già đang lau chùi mấy dụng cụ lấm lem máu.
“Bác Quinn, cháu đã phiền bác.”
“Không gì. Thêm hai lần điều trị, cháu sẽ khỏi hẳn. Nói bác nghe tại sao cháu bị thương nặng đến thế, và còn mất một lượng máu quá lớn?”
Ông dừng hẳn công việc, đưa tay vuốt nhẹ chòm râu bạc, mắt thì vẫn đảo trên đống dao kéo sắc bén của mình.
“Cháu bị trúng kiếm của một tên vampire dòng thuần, trên đường chạy về đây, chắc là vết thương rách sâu nên mất nhiều máu.”
“Hắn tên gì?”
Eroza sợ rằng khai Krizu ra thì biết đâu sẽ liên lụy cả Zenda. Vả lại, cậu cũng không mong hiệp hội hunter dính dáng vô chuyện này, nên chần chừ bằng một lời nói dối:
“Cháu không biết… uhm… chỉ tình cờ gặp.”
“Vampire có khả năng tự chữa lành mọi vết thương trên da, thanh kiếm của tên này có thể tổn hại cháu, xem ra nó được làm từ một loại hợp kim quý hiếm chuyên dùng để trị vampire. Cháu sơ suất quá Eroza, khi chưa hiểu rõ đối thủ thì không nên chạm trán mới phải. May mà cháu còn mạng về đây. Lần sau nhớ cẩn thận.”
“Cháu nhớ. Bác Quinn à, cháu nghe nói tộc chúng ta có một thánh vật là khắc tinh của vampire thuần chủng phải không?”
“Ta thừa thông minh để hiểu cháu hỏi vậy có ý gì. Nhưng đành phải làm cháu thất vọng rồi. Chín đoạn Long Cốt đã bị đánh cắp từ lâu.”
“Bị… đánh… cắp?” – Eroza sửng sốt nhắc lại từng chữ. – “Ai dám đến tộc hunter mà trộm đi thánh vật cơ chứ?”
“Mọi người chỉ biết hắn là một vampire dòng thuần. Nghe cha ta kể lại hắn chính là vampire đẹp nhất mà ông từng nhìn thấy. Mái tóc nâu xoã dài, tung bay theo từng gợn sóng Mặt Trăng gợi lên một sự huyền bí thần thánh. Đôi mắt đỏ bằm lạnh lẽo tựa sói hoang, ẩn chứa bên trong nhiều nỗi đau rạn vỡ. Đặc biệt giữa vầng trán hắn nổi rõ dấu hiệu đáng nguyền rủa từ Judah – kẻ tội nghiệt sâu nặng. Ông nói bất cứ ai cũng sẽ bị hút hồn ngay lần đầu tiên chạm vào khuôn mặt đó. Ta thì không tin mấy, ông tả hắn cứ như một vị thần mà quên rằng hắn là con mồi vốn bị hunter chúng ta săn đuổi.”
Eroza lơ đãng suy ngẫm về kẻ Quinn đang tả, có lẽ hắn cũng đẹp đấy, tiếc là không sao so sánh với Zenda của cậu.
“Dấu hiệu Judah là gì vậy bác?” Eroza bỗng thắc mắc.
“Nó có hình hai Mặt Trăng dựng đối xứng quanh một cây thánh giá, hệt như lời sám hối của kẻ tội đồ đã phản bội Chúa và hắn chỉ có thể sống u uẩn trong bóng tối cho đến lúc chết. Nó là một dấu hiệu gắn kết vĩnh viễn với lũ vampire dòng thuần ngay khi chúng vừa sinh ra. Một vampire dòng thuần có đến hai hình dạng: một khi chúng khoác lớp vỏ bọc con người, và một khi chúng trở về bản chất của mình. Dấu hiệu này chỉ xuất hiện vào thời điểm chúng trở về hình dạng thật mà thôi.”
Eroza nhíu vầng trán ưu tư:
“Lúc ấy có phải chúng sẽ càng mạnh hơn?”
Cậu lảng sang câu hỏi khác. Vì mục đích của cậu không phải là tìm hiểu tại sao Long Cốt mất, mà là cách gì có thể trị được Krizu.
“Đúng, và cũng càng dễ bị hunter chúng ta đánh mùi hơn.”
“Bác Quinn, ngoài Long Cốt, chắc hẳn còn nhiều biện pháp khác tiêu diệt dòng thuần chứ?”
“Không hẳn.”
Quinn quay đầu sang phía Eroza giải thích thêm:
“Chúng là loại sinh vật vô cùng mạnh mẽ, đối đầu với chúng đâu chỉ riêng hunter chúng ta, còn có cả werewolf. Nhưng thực tế chứng minh chúng vẫn tồn tại qua hàng ngàn thế kỷ dài, nguyên nhân chủ yếu bởi chúng rất khó bị giết, nhất là dòng thuần. Chúng không sợ thánh giá bạc như truyền thuyết đồn đại, lại vô hiệu hóa cả ánh sáng Mặt Trời và cũng chẳng tránh xa tỏi. Dòng thuần ngày càng hiếm không phải tại chúng ta hay werewolf, đó là do thói quen tàn sát đồng loại của chúng. Những hunter có thể săn đuổi dòng thuần cũng đã không còn nhiều. Ở Anh quốc vẫn còn một người. Tuy nhiên hắn là kẻ lập dị, xưa nay không nhận lệnh từ hiệp hội, nên chẳng một ai biết hắn hiện giờ đang ở đâu? Thôi, cháu hãy nghỉ ngơi cho vết thương mau lành. Đừng nghĩ đến chuyện trả thù nữa. Ta cũng sẽ không hỏi những điều cháu còn che dấu.”
“Bác thật nhạy bén.”
Eroza cười khẩy.
“Dẫu sao ta cũng là trưởng lão tộc hunter, một thằng nhóc như cháu gạt được ta sao?”
Quinn nhếch môi cười rồi đi ra khép kín cửa phòng lại. Từ từ trườn dài xuống giường, cậu bắt đầu suy nghĩ miên man, quan trọng nhất vẫn là việc tìm cách hạ gục Krizu. Một trạng thái rối bời quấn lấy Eroza, cuối cùng cũng đưa cậu vào giấc ngủ mệt nhoài.
Bình minh vừa lên, Krizu đã bị lay tỉnh bởi những tiếng đàn rất êm dịu từ bản giao hưởng Valse của Chopin. Cậu không phủ nhận Zenda là một thiên tài piano thực thụ, có điều cậu không phải là người tràn đầy nhiệt huyết với âm nhạc. Krizu tung chăn, cố gượng dậy quơ đại y phục vào và tìm đến chỗ Zenda. Dẫu tâm trí đang bay bổng cùng những giai điệu thoát tục, Zenda vẫn có thể cảm nhận được sự hiện diện của anh trai mình. Cậu khẽ mỉm cười và ngừng hẳn đôi tay trên bàn phím, quay đầu sang phía Krizu chào buổi sáng. Krizu đáp trả bằng một vòng tay ấm áp xen lẫn nụ cười thân thiện:
“Ở Pháp em học về cái này à?”
“Ừ, còn có cả hội họa. Nhưng người thầy piano đầu tiên của em phải kể đến mẹ. Lúc chúng ta còn nhỏ, mẹ vẫn thường cầm tay mình dạy bảo từng phím một, anh còn nhớ không?”
“Dĩ nhiên anh nhớ. Anh nhớ cả những lần giả bệnh trốn học piano cơ. Anh chẳng thích nó chút nào.”
“Và kết quả là hôm nay đến tên gọi của từng phím anh còn quên, huống chi đàn.Thật ra trong lĩnh vực piano, người em ngưỡng mộ nhất là cậu. Mà không chỉ có piano, bất cứ nhạc cụ nào cậu cũng chơi giỏi cả. Cậu là thiên tài của âm nhạc.”
“Anh vẫn luôn thắc mắc tại sao ông ấy lại bị cha trục xuất khỏi gia tộc. Dù ông ấy yêu werewolf, cũng đâu tội lỗi gì?”
Giọng Krizu trầm xuống, cậu kéo tay Zenda đứng dậy với ánh mắt da diết.
“Ừ…”
Zenda lúng túng, lộ ra sự ẩn giấu rất vụng về, và nét mặt đó đã nhanh chóng bị Krizu vạch trần. “Năm đó, anh theo mẹ ra ngoài mấy ngày, em bảo là cảm thấy mệt nên muốn ở lại. Khi về thì biết được ông ấy đã dọn khỏi Hamyulin và đến ở tại Caseifod này. Anh nghĩ có những điều em đã không nói ra cùng anh.”
“Được rồi, em sẽ kể anh nghe.” – Zenda nhìn Krizu trìu mến. – “Một năm trước khi mẹ chúng ta chết, cha đã sai cậu đến miền Tây kiểm kê vài món hàng cho ông. Bên cạnh đó, ông muốn cậu gặp mặt nữ bá tước Rihane để làm tròn cái hôn sự mà ông cố công sắp đặt. Mục đích của ông là củng cố thêm quyền lực. Cậu vốn không thích việc này, và mẹ cũng đôi lần phản đối kịch liệt, nhưng cha vẫn kiên trì ý kiến của mình. Cha bảo Rihane chỉ là con người, rồi sẽ chết đi rất nhanh và cậu chẳng cần lo phiền gì. Cuối cùng, cậu đành đến Bristol. Đến rồi mới hay nữ bá tước Rihane vừa qua đời vào ít ngày trước. Tình cờ cậu lại gặp được Michael Lycaon trong lúc đi thăm mộ cô. Ban đầu, cậu nghĩ chỉ là một trò vui, không ngờ cậu đã yêu Michael thật và muốn sống cạnh cậu ấy suốt đời.”
“Anh không nghĩ đây là một lựa chọn khôn ngoan.”
Krizu lên tiếng cắt ngang.
“Em thì cho rằng dũng cảm thừa nhận tình yêu của mình không có gì sai trái. Tiếc rằng thuộc hạ của cha bất ngờ đã phát hiện ra họ. Tin tức truyền đến tai cha, cha tức giận vô cùng. Ông cho rằng cậu yêu Michael chính là một sự sỉ nhục ghê gớm cho gia tộc. Ông đã đến Bristol và dùng thủ đoạn chia rẽ họ. Ông cho người giả làm vị hôn thê của cậu, đến gặp riêng Michael dèm pha quan hệ hai người, thậm chí nói rằng cô đã có thai với cậu. Quá đau khổ vì nghĩ rằng mình bị lừa dối, Michael đâm cậu bằng chính cây kiếm Rahanle mặc cho cậu có giải thích thế nào. Nếu không phải cậu kịp thời trở về đây tìm mẹ, có lẽ đã không qua khỏi lần đó.”
“Thanh kiếm của ông ấy và anh vốn là một cặp, chúng được rèn nên từ một loại hợp kim đặc biệt chuyên dùng để trị vampire. Thế nhưng đối với dòng thuần, có lẽ không đến nỗi mất mạng. Tại sao thương tích của ông ấy lại trầm trọng đến vậy?”
“Vì một lòng lấy mạng cậu, Michael tẩm máu mình lên Rahanle và dùng nó đâm vào ngay tim cậu. Máu của vampire và máu của werewolf vốn kiêng kỵ nhau, nó khiến cho sức mạnh của thanh kiếm tăng lên gấp đôi. Sau khi cậu biết tất cả là do cha gây ra, cậu đã tức giận đến tìm cha. Hai người tranh cãi rất nhiều, có cả xô xát, và cha bị cậu đâm cho một kiếm. Nhưng cậu không có ý định lấy mạng cha nên vết thương không sâu. Đêm đó anh theo mẹ ra ngoài, chỉ còn em ở trong lâu đài, em không biết làm sao ngăn cản họ. Sau cùng đành bất lực nhìn cậu bỏ đi. Cha nói nếu cậu có dũng khí bỏ đi, thì đừng dính dáng gì đến gia tộc Kenshi nữa. Và cha đã tuyên bố truất quyền thừa kế của cậu trước giới quý tộc.”
“Ông cậu này yêu đúng người nhỉ… một kẻ thật độc ác, mà cha chúng ta nghĩ kỹ còn độc ác hơn.”
Krizu nhếch mép khinh khỉnh.
“Anh đấy… suốt ngày cứ chống đối cậu.”
Zenda cười không ngớt, hai mắt cậu sáng rỡ như hai vì sao đêm. Đương lúc cả hai đang đùa giỡn, có tiếng vỗ cánh chợt vang lên và ít phút sau họ nhìn thấy Vin bay sà xuống trên thành đàn piano.
“Vin, chuyện gì thế?”
Krizu ngưng cười nghiêm túc hỏi.
“Chủ nhân, cậu của ngài đã trở về Hamyulin”
“Còn gì vui hơn thế, chúng ta mau trở về đi anh.”
Zenda hồ hởi níu tay áo Krizu. Dường như có điều chưa nói hết, Vin ấp úng ngắt lời Zenda với cái nhìn lo ngại:
“Nhưng… bác Shen…bác ấy đang bị bệnh nặng… e là khó qua khỏi.”
Sắc mặt Zenda và Krizu đều trở xấu, trong ánh nhìn của họ tràn đầy sự lo ngại. Buổi trưa hôm đó, họ đã cho xe quay về Hamyulin ngay.
Những ngọn nến lờ mờ soi nhợt nhạt qua một căn phòng giản dị, nơi có một chiếc giường bằng đá trắng đang nằm lạnh lẽo cùng cái thể xác yếu đuối của Shen. Sau khi từ miền Tây trở về, ông đã bị ho suốt, đến nỗi khạc ra máu. Mọi thứ bắt đầu mờ dần qua mắt ông. Tương lai nối liền cùng quá khứ. Ông nhớ lại vợ con mình và cảm thấy như họ đang vẫy gọi ở một nơi không xa. Sự mơ màng của ông đột nhiên bị khuấy động bởi tiếng gọi gần kề của Zenda. Cố mở mắt mệt nhoài, ông đáp trả bằng cái giọng run rẩy:
“Cậu chủ, cậu đã về.”
“Bác Shen, sao bác ra nông nỗi này?”
Zenda nắm lấy đôi tay gầy guộc của ông sốt ruột hỏi.
“Con người là vậy cậu chủ à, tuổi già đến rất nhanh và đi cũng rất mau. Bệnh tật có chờ đợi ai bao giờ đâu, cái chết cũng thế?”
“Shen, hãy để tôi giúp ông được bất tử.”
Krizu bỗng lên tiếng, nhưng cậu nhận thấy sự phản đối ngầm trên khuôn mặt Shen:
“Cậu chủ, tôi bằng lòng với tuổi thọ con người, tôi thiết nghĩ cũng đến lúc tôi phải đi tìm lại những gì tôi đã mất trong thế giới này ở một thế giới khác. Vậy nên các cậu đừng lo lắng, đừng đau buồn, việc gì đến trước sau cũng phải đến.”
“Bác Shen, sự sống với bác khó khăn đến vậy sao?”
Shen khẽ mỉm cười thay cho một câu trả lời thầm lặng. Cả Krizu và Zenda đều hiểu ý ông. Họ tạm rời phòng để ông yên tĩnh nghỉ ngơi. Ra ngoài vườn hoa, Zenda đứng thẫn thờ hồi lâu với một nỗi buồn khó tả. Cậu cảm thấy sự sống thật mong manh. Cậu rất muốn níu giữ Shen bên cậu và Krizu mãi, nhưng làm vậy có vẻ quá ích kỷ với ông. Ông đã không còn một người thân nào trên đời. Ông vẫn còn tồn tại đến ngày hôm nay là vì ông muốn trả ơn cho họ. Có lẽ đã đến lúc họ nên cho ông được giải thoát. Và cũng có lẽ, ở thế giới bên kia, ông sẽ gặp lại những người thân của ông, đó mới là mong ước ông ấp ủ bấy lâu.
“Hãy để Shen ra đi em à.”
Krizu ôm chặt cậu vào lòng an ủi.
“Em hiểu, nếu em mất đi anh, em cũng không thể sống tiếp nổi, một lòng chỉ muốn chết để có thể gặp lại anh. Vậy nên bác Shen đã kiên cường lắm rồi, bác phải gánh chịu nỗi đau mất người thân suốt bao nhiêu năm dài. Đã đến lúc bác ấy cần được giải thoát.”
“Thế tại sao em lại buồn?”
“Em không rõ. Chắc là vì nhất thời chưa thể chấp nhận việc bác Shen sẽ rời xa chúng ta. Anh cũng có tình cảm mà đúng không?
Krizu thở dài, cậu ngước nhìn về một vùng trời xa xăm nói buồn rầu:
“Toà lâu đài này ngày một thêm lạnh lẽo.”
“Yên tâm, có em mãi ở bên cạnh anh. À…” – Zenda như sực nhớ điều gì. – “Vin chẳng phải nói cậu đã trở về sao? Tự nãy giờ không thấy cậu đâu hết.”
“Ông ấy có bao giờ chịu ngồi yên một nơi. Chắc là lại đi vòng vòng làm những chuyện vô duyên rồi.”
Zenda bị câu nói của Krizu chọc cười, sắc mặt mới dần dịu hơn.
“Chúng ta đi tìm cậu nào.”
Gần Hamyulin vài dặm về phía Bắc có một thị trấn nhỏ bình dân. Giữa trấn nổi lên một quán café rất đạm bạc với những dây hoa leo tim tím. Đó là nơi tập họp thường xuyên của những con người thanh lịch, thích không gian yên ả và những làn khói coffee thơm nồng nàn. Ở một chiếc bàn cạnh cửa sổ, những giọt mưa đầu mùa đang tí tách rơi ngoài hiên. Cái lạnh se cùng hương coffee trên tay khiến vị khách đang ngồi tại chiếc bàn này híp mắt cười hài lòng. Nhấp xong vài ngụm, cậu đặt lại tách coffee xuống đĩa và đưa tay trái rút ra một lá bài trong xấp bài trải trước mặt. Tình tứ nhìn cô gái ngồi đối diện, cậu giở lá bài lên rồi bắt đầu giảng giải:
“Devil… lá bài này là một điềm báo tốt trong tình duyên. Nó biểu lộ em sắp gặp được người ưng ý của mình. Và tình yêu hai người hứa hẹn ngày đơm hoa kết quả.”
Cô gái tỏ vẻ e lệ:
“Hẳn là em gặp rồi.”
“Em không định nói anh đấy chứ?”
Mặt cô gái đỏ bừng, cô xếp lại cây quạt vờ nhìn ra ngoài cửa sổ, tránh chạm vào đôi mắt đen lay láy ẩn sâu một sức quyến rũ kỳ lạ từ chàng trai. Chàng trai buông lá bài, với tới nắm lấy đôi tay cầm quạt của cô gái với giọng điệu ngọt ngào:
“Katina, em biết chăng? Từ lần đầu gặp em, anh đã thiết tha yêu em rồi. Em là cô gái đẹp nhất trong lòng anh. Em hãy làm người yêu của anh nhé.”
Cô gái mỉm cười thẹn thùng:
“Em cũng yêu anh Olardo.”
Những giây phút lãng mạn chưa kịp tiếp diễn thì một giọng nói chát chúa đã vang lên phá tan:
“Cha, mẹ bảo tụi con đi tìm cha. Hoá ra cha đang ở đây à?”
Krizu cười chế giễu. Phản ứng của cô gái thay đổi ngay, cô lấy cây quạt đập mạnh xuống bàn:
“Anh dám lừa tôi, đồ đểu.”
Olardo chẳng màng giải thích, cậu dửng dưng nhận lấy một tách coffee tạt vào mặt và bình đạm nhìn theo dáng cô khuất xa.
“Quà chào mừng ông cậu khá là hậu hĩnh đấy Krizu. Ta mà có được đứa con như cháu thà cắm đầu xuống sông chết còn hơn.”
Olardo lấy khăn giấy lau sạch khuôn mặt với nụ cười đắc ý, cố tình lườm mắt thách thức Krizu. Zenda lắc đầu, vội ngồi xuống xen vào cuộc chiến tranh lạnh:
“Cậu à, cháu nhớ cậu lắm, đã lâu rồi cậu không về thăm tụi cháu đấy.”
Olardo giơ cao hai tay bấu nhẹ vào má Zenda:
“Cháu vẫn đáng yêu như ngày nào, bảo bối à? Ta rất nhớ hai cháu, tiếc là chỉ có thể về thăm hai cháu chốc lát thôi. Ta còn vài việc chưa giải quyết, không thể ở lại. Ta biết về chuyện tám chuyến hàng của chúng ta bị giữ lại tại cảng Bristol rồi, có điều chẳng sao đâu. Gia tài chúng ta thừa quá mà, mất một ít chẳng suy suyển gì.”
|
Olardo nhếch mắt châm chọc Krizu khiến cậu giận sôi máu:
“Nếu ông không có đóng góp gì cho gia tộc, phần hậu sự mai này ông tự lo nhé!”
“Thằng nhóc này, tính toán với cả cậu ruột luôn đấy. Nhưng thôi, không ai hiểu Michael bằng ta, cậu ấy là người rất nguyên tắc. Vài hôm nữa tự nhiên sẽ đem hàng trả. Miễn lo về chúng đi.”
Olardo nâng tách coffee nhấm nháp rồi nói thêm:
“Mọi thứ ở Hamyulin không có gì thay đổi, tiếc là màu hoàng hôn đã không còn đẹp như xưa, nó trông ảm đạm và vắng lạnh muôn vàn. Bù lại, cậu thích vườn hồng trắng của cháu Zenda à?”
“Sao ông không nghĩ nó là của tôi nhỉ?
Krizu bắt bẻ.
“Đến cả Chúa cũng không tin nói chi ta. Cây cháu trồng lên hoa nổi sao?”
Cười no nê một hồi, Olardo dần nghiêm mặt lại. Cậu đưa tay rút ra một lá bài khác đặt trên bàn: “Khuôn mặt các cháu có nhiều nét vẫn giống hệt lúc còn nhỏ, vừa gặp là ta nhận ra ngay. Mới đầu ta còn sợ là sẽ khó biết được. Gặp cũng gặp rồi, ông quản gia thì giao lại cho các cháu chăm sóc, ta phải đi. Lần sau nếu trở về ta sẽ ở lâu hơn. Đây xem như món quà cho các cháu.”
Ánh mắt Olardo nhìn về phía lá bài rồi đứng dậy. Krizu và Zenda đều hiểu tính cách Olardo, họ không nài nỉ cậu ở lại, có nài nỉ cũng vô ích, họ chỉ âm thầm cầu chúc cậu lên đường thuận lợi. Khi Olardo đã bước ra khỏi cửa quán, Zenda mới lật ngửa lá bài. “Tower” – Cậu bàng hoàng nhìn vào nó và lặng người đi.
“Nó có ý nghĩa gì?” – Krizu đảo mắt hỏi
“Niềm tin sụp đổ… anh à, nó là lá bài của sự bất hạnh.”
“Bói toán thôi, anh không tin đâu, em đừng lo nghĩ nhiều.”
“Ừ.”
Zenda trả lời suông để Krizu vui lòng, thực chất cậu biết Olardo chưa từng bói sai, vì thế lòng riêng tràn ngập những dự cảm bất an. ——————————————
“Zenda, cháu hãy rút một lá bài trong xấp bài trên tay cậu đi”
“Hanging man… nó có nghĩa là gì thế cậu?”
“Đôi khi chúng ta phải tự đảo ngược chính mình mới nhìn rõ được thế giới này, ở một khía cạnh khác, nó khuyên cháu hãy trao ra sự hy sinh.”
Zenda giật mình tỉnh dậy, mồ hôi lạnh toát đầy cơ thể cậu. Một giấc mơ quá mông lung, cậu không thể nhìn rõ được gì, chỉ ngoại trừ những âm thanh trong trẻo cứ nhắc đi nhắc lại một cách dằn xéo.
“Cậu không hỏi nửa lời về cái chết của cha, chắc là cậu đã biết rồi, hoặc vả cậu không quan tâm? Nhưng tại sao mình lại nằm thấy giấc mơ này, lá bài Tower chính là điềm báo thứ hai chăng?”
Hơi đêm lạnh đến buốt da, Zenda xiết chặt hai tay vào nhau nghĩ ngợi miên man. Cậu không cách nào vỗ lại giấc ngủ nên những phiền muộn cứ luẩn quẩn mãi trong đầu, đến độ trời sáng lúc nào cũng không hay. Tạm gác mọi chuyện sang một bên, Zenda uể oải bước ra khỏi giường và tự soi mặt vào trong gương. Cậu cố gắng tìm kiếm một thứ gì đó đại loại như nụ cười để cổ vũ mình phấn chấn hơn. Vô tình liếc mắt sang lọ hoa gần kề, Zenda trông thấy những cành Pascali đều đã héo úa hết. Ít nhất cũng có một công việc để làm, cậu thay áo rảo bước ra vườn, cắt lấy một số cành tươi còn nguyên vẹn lớp sương sớm. Đang lúc cặm cụi, Zenda chợt nghe những tiếng bước chân lạ đến gần phía sau mình. Ngoảnh đầu lại nhìn, cậu ngạc nhiên khi nhận ra Phalos và nó đứng cách cậu chưa đến một gang tay.
“Chào anh, khi nãy em gõ cửa hoài mà không ai mở nên hơi vô lễ bước vào, anh không trách chứ?”
Phalos nhoẻn miệng cười tươi.
Zenda cũng đáp trả lại cậu bé bằng một nụ cười và câu nói đầm ấm:
“Không sao. Anh không biết anh Krizu đang ở đâu, em hãy đi vòng quanh tìm.”
“Để sau cũng được. Anh thích hoa hồng Pascali à?”
Phalos vừa nói vừa tiến sát Zenda hơn, vờ như không chú tâm, Zenda nhoài người ra nơi khác cắt hoa để nới rộng khoảng cách hai người.
“Ừ, cậu của anh là chuyên gia hương liệu, ông ấy đã kể về nó cho anh nghe.”
“Hoá ra thế. Riêng em lại thích hoa hồng Elina, anh từng nhìn thấy chúng bao giờ chưa?”
“Anh đã thấy một lần ở Pháp trong mùa lễ hội hoa hồng. Elina rất đẹp, nó cho người ta cảm giác yên bình và tĩnh lặng như chính sự hoà quyện tuyệt vời của sắc trắng tinh anh và sắc vàng thanh nhã.”
“Em cũng cho là thế. Không ngờ chúng ra có cùng suy nghĩ anh nhỉ? Em có trồng loại Elina đấy. Anh có muốn ghé qua biệt thự của em để xem chúng không? Còn có cả Just Joey, Peace và Queen Elizabeth.”
“Có dịp anh sẽ đến.”
Zenda khước từ khéo, Phalos nghe thôi đã rõ hiểu là Zenda không muốn đến. Cậu bé nghĩ sang một cách khác nhằm xoay chuyển sự nhàm chán của Zenda.
“Moonlight thì sao hả anh? Người ta vẫn hay tán tụng nó là nữ hoàng của hoa hồng trắng, vượt trên cả Pascali. Em hiếu kỳ nên cũng có mua giống này về trồng. Nhưng xem ra nó không đẹp lắm như đồn đại.”
“Anh có nghe về danh tiếng Moonlight, tiếc là chưa có dịp được xem.” – Zenda tò mò rời tay khỏi mấy cành hoa và quay sang Phalos. – “Anh sẽ đến biệt thự của em, khi nào thì em rảnh?”
“Bây giờ ạ.”
Câu trả lời của Phalos làm Zenda ngỡ ngàng:
“Em không phải đến tìm Krizu sao?”
“Ừ… thì… thì em cũng tìm anh ấy, tuy nhiên không quan trọng anh à. Chúng ta đi ngay đi.”
Phalos kéo tay Zenda gấp gáp, như thể chẳng cho cậu kịp có cơ hội phản đối.
|
CHƯƠNG 10: KHƠI LẠI QUÁ KHỨ
Trong một căn phòng nằm lẻ loi phía Đông Bắc, Krizu đang miệt mài pha trộn những thứ dung dịch cực độc vào nhau. Khói toả ra dày đặc. Mùi tử khí vang lên dậy trời. Hoà xong hỗn hợp, cậu cầm lấy chiếc cốc chế nó vào từng lọ bé xíu màu trắng đục. Dáo dác ngó quanh, Krizu hơi bực mình vì không thấy Vin đâu. Đang lúc cậu định đi kiếm, thì từ phía xa đã thấy nó lù lù bay tới. Chẳng màng hỏi nó vừa làm gì, Krizu kẹp một chiếc lọ trên bàn vào móng nó:
“Đi giết lão già địa chủ Kanttal và con gái lão – ả Lilido ngay cho ta.”
Vin ngần ngại:
“Chủ nhân, ngài không định giữ lại đứa bé à?”
“Ai dám đảm bảo đảm cai thai ả đang mang là con của ta? Ban đầu ta chỉ muốn huỷ nó, không ngờ hai cha con ả quá tham lam, dám đòi điều kiện với ta, giữ họ trên đời cũng vô ích. Ta và Zenda khó khăn lắm mới làm lành lại, ta phải đóng cho trọn vai trò người tốt của mình, không mong bị nó phát giác ra một vết nhơ nào. Còn nữa, ta ghét trẻ con. Mặc kệ cái thai ả là của ai, thì kết quả cũng chẳng quan trọng. Ngươi không phải tội nghiệp cho họ chứ?” – Krizu hỏi ướm thái độ Vin.
“Không, mệnh lệnh của chủ nhân là tuyệt đối. Thuộc hạ đi ngay.”
Vin sắp cất cánh bay thì sực nhớ một điều, nó quắc mắt về phía cậu nói:
“Chủ nhân, khi nãy thuộc hạ thấy cậu Zenda đã đi theo Phalos.”
“Sao?”
Krizu gắt gỏng. Cậu trầm ngâm giây lát rồi xua tay ra hiệu cho Vin bay đi. Một mình đứng lặng trong góc phòng, Krizu nâng lọ thuốc trong tay cười hiểm độc:
“Thằng nhóc ấy dám khinh thường lời cảnh cáo của ta. Xem ra thuốc này cũng hợp với nó đây.”
Lân đầu tiên Zenda mới đến biệt thự của Phalos. Kiểu kiến trúc nơi này pha tạp nhiều phong cách khác nhau khiến cậu không thể xác định nó thuộc thời đại nào. Người hầu khá đông, và có đến bốn ông quản gia. Zenda không mấy quen với cảnh có nhiều người chăm sóc, nên uống vội tách trà và bảo Phalos đưa mình đi xem hoa. Băng qua một dãy hành lang dài, Phalos dẫn cậu vào phòng mình. Cậu bé chỉ Zenda thấy có một cánh cửa liên thông ở gần chiếc giường ngủ của mình. Sau cánh cửa là cả một khu vườn hoa hồng thu nhỏ. Chậu Moonlight nằm khép nép dưới ánh nắng nhạt, phảng phất một mùi hương cũng tinh tế không kém Pascali. Riêng với Zenda, nó chưa thể sánh bằng loài hoa cậu yêu. Màu trắng của Moonlight có phần không sáng bằng Pascali, đúng như tên gọi, nó nhàn nhạt đến độ mơ huyền. Những vòng cánh lại rất lỏng và ít, khi nở rộ chẳng khác gì hoa mai trắng nhiều tầng. Trong lúc đang mê mải ngắm nhìn, đầu óc Zenda bỗng nhận thấy choáng váng, kèm theo một cảm giác đau buốt chạy dọc khắp sống lưng khiến cậu đứng chẳng vững. Cánh tay Phalos bất tình lình ôm chặt eo cậu và thủ thỉ những lời âu yếm. Zenda hồ nghi Phalos hẳn đã bỏ một thứ gì đó vào tách trà khi nãy. Nhưng nếu là loại thuốc bình thường mà loài người hay dùng, nó vốn không thể ánh hưởng mạnh đến cậu như vậy? Zenda xô bật Phalos với vẻ mặt tràn trề tức giận, cậu khó ngờ một đứa trẻ chỉ vừa mười sáu lại dám sử dụng thủ đoạn để đạt được cái mình muốn.
“Em thật nham hiểm.”
“Kẻ ngươi nói chính xác là ta mới phải.”
Zenda thoáng sững sờ vì sự xuất hiện của người vừa đáp trả. Khuôn mặt hắn khẳng định hoàn toàn xa lạ với cậu, thế nhưng đôi mắt lãnh đạm màu vàng nhạt dấy lên trong cậu một nét thân quen rất đỗi.
“Arleen… màu mắt của Arleen…”
Zenda bất chợt buông ra một câu nói không suy nghĩ làm kẻ lạ mặt nhíu mày thắc mắc:
“Ngươi vừa gọi tên ai thế?”
“Anh Lyall, anh vào đây làm gì?”
Phalos tỏ vẻ không hài lòng, dường như là muốn đuổi Lyall lập tức ra khỏi. Lyall hiểu ý, hắn nhìn cậu bé cười nhếch nửa khoé miệng:
“Ngươi đúng là ngốc, ngươi thật nghĩ ta sẽ giúp ngươi có được Angouleme mà ta đã mất công tìm kiếm bấy lâu sao?”
Một cái hất tay lạnh lùng, chứa đầy năng lực của hắn làm Phalos văng mạnh vào bức tường đối diện và hộc máu ngất xỉu tại chỗ. Zenda khẽ nheo mắt, thực lực người này hẳn là không thua kém cậu, có điều hắn khá nhẫn tâm.
“Angouleme, ngươi cầm cự rất giỏi, tiếc là không được bao lâu. Ngươi có thể yên tâm, ta không giết ngươi đâu, chỉ là cần ngươi hợp tác chút ít thôi.”
“Ta không biết Angouleme là ai cả, ta vốn không thù hận gì với ngươi, cớ sao lại hại ta?”
“Cũng chỉ là một cách gọi, dù gì thì sự thật mãi là điều khó thay đổi…”
Những thanh âm cứ nhỏ dần và nhỏ dần, hắn đã nói rất nhiều, nhưng cậu chỉ còn nghe được lờ mờ đến độ hư vô ngay lúc quỵ xuống bất tỉnh.
“Krizu…” – Đó là tiếng cuối cùng mà Zenda cố gắng phát ra.
Lặng lẽ ngồi trong ánh nến nhạt nhoà, Krizu đợi Shen ăn xong chén cháo rồi đỡ ông nhẹ nhàng nằm xuống. Cho dẫu đang bệnh nặng, Shen cũng dễ dàng nhận thấy nét mặt Krizu không được vui. Ông gượng hết sức níu tay cậu thều thào “Cậu chủ, cậu gặp phải việc khó xử à? Cậu Zenda ở đâu rồi?”
“Không gì. Ông hãy yên tâm tịnh dưỡng. Nó ra ngoài đến chiều sẽ về.”
Krizu kéo chăn đắp cho Shen, cậu giả vờ mỉm cười để ông tin tưởng rồi dọn khay bỏ ra ngoài.
Những tia nắng gay gắt hắt bên song cửa, sức nóng chuyển dần màu mắt xanh ngọc bích của Krizu sang màu lửa đỏ sôi sục. Cậu tiến gần một cơ thể người sống đang bị trói chặt vào tường bởi hai sợi xích rắn chắc cùng con dao sắc nhọn trên tay. Kẻ tội nghiệp sắp rơi vào sự phán quyết đó chính là Phalos. Ánh mắt cậu bé hãi hùng ngó Krizu, mọi lời van xin chỉ cần là có thể, thậm chí quỵ lụy cũng chẳng khiến Krizu mảy may động lòng.
“Ta đã từng cảnh cáo ngươi rồi, đừng có mà mơ tưởng gì đến Zenda. Nếu ngươi không biết nó thuộc về ai thì để ta nói cho ngươi nghe. Nó là người yêu của ta. Ba trăm năm rồi… khó khăn lắm nó mới chịu chấp nhận ta sau ba trăm năm đằng đẵng. Ngươi không những cả gan nhảy vào phá đám, mà còn khiến nó mất tích. Lỗ tai của ngươi để lại làm gì nếu ngươi không biết sử dụng nó đúng cách?”
Krizu đặt cạnh con dao lên mặt Phalos và từ từ dịch chuyển trong tiếng cười tàn nhẫn. Phalos khản giọng cầu xin thống thiết, đôi đồng tử trong mắt cậu bé sợ đến độ căng cứng. Một tiếng thét kinh hoàng làm chấn động những gian phòng lân cận, cùng lúc hai lỗ tai vừa bị xẻo rơi phịch xuống mặt đất. Kriu đưa lưỡi liếm vết máu nhơ nhớp trên con dao, rồi lại nhắm con dao vào mắt Phalos: “Mắt của ngươi thật không sáng cho lắm, để ta giúp ngươi loại bỏ nó luôn nhé."
Krizu rạch một đường sâu hoắm từ trái sang phải huỷ hoại đôi mắt cậu bé. Cơ tay và cơ chân của Phalos bị co quắt vì nỗi đau đớn vượt ra ngoài khả năng chịu đựng thể xác. Đầu lưỡi cậu quýu chặt, chẳng thể phát ra nổi một âm thanh nào ngoại trừ những tràng rên rỉ yếu đuối.
“Mạng ngươi là đồ rẻ mạt, giết ngươi chỉ làm bẩn tay ta. Nhưng Zenda, nó là tất cả với ta, nếu nó xảy ra chuyện gì, ta thề giết sạch hết gia tộc của ngươi và đem xác băm vằm ra trăm ngàn mảnh vụn.”
Krizu nói như hét vang, cứ mỗi chữ thổt ra là mỗi nhát dao căm phẫn chém vào cơ thể Phalos không xót thương. Máu thịt rơi đầy sàn, nham nhở dính thành đống bầy nhầy hôi tanh và bẩn thỉu. Mỡ tuôn trắng theo cán dao hoà cùng máu lấm lem vạt áo Krizu. Phalos không ngừng kêu gào bi thảm. Bầu không khí trong căn phòng đặc quánh dư vị của tội ác. Từng có một thời, Krizu hết mực nâng niu cơ thể này bằng lòng yêu thương. Còn bây giờ, nó là một thứ đáng kinh tởm khiến cậu nôn mửa, gần như cậu chỉ muốn xé toạc nó ra làm hai cho hả cơn giận. Đến khi cậu phục hồi lý trí để ngưng lại thì mới phát hiện Phalos đã tắt thở từ lâu. Krizu buông con dao chưa đầy vài giây, từ ngoài cửa sổ sáu con dơi to đã đập cánh bay vào. Lúc gần đáp mặt đất, chúng biến hình người và đồng loạt quỳ xuống trước cậu. Một tên trong bọn ngẩng mặt nhìn cậu đầy tôn kính:
“Thưa chủ nhân, chúng thuộc hạ đã đi tìm khắp nơi, có điều vẫn chưa nhận được tin của ngài Zenda.”
“Một lũ vô dụng, ta nuôi các ngươi để làm gì? Chưa tìm được sao không mau đi tìm tiếp. Muốn ta giết các ngươi sao?”
“Vâng, chủ nhân.”
Sáu người hoá lại thành dơi và bay đi tức khắc để tránh sự bực tức của Krizu. Nếu trễ một chút, họ có lẽ sẽ chịu cùng số phận với những đồ đạc bị dòng điện cực phóng ra từ tay cậu tiêu hủy.
“Khốn kiếp, toàn là thứ cặn bã. Zenda, em rốt cuộc đang ở chỗ nào?”
Tỉnh lại sau cơn hôn mê dài, Zenda quan sát nơi cậu đang bị nhốt, có thể gọi là vậy vì cậu đâu phải tự nguyện đến đây. Tuy nhiên, tình trạng này tốt hơn là cậu nghĩ, ít nhất cậu không hề bị xiềng xích hay đại loại như thế. Cậu cũng được chăm sóc khá chu đáo, căn phòng cậu ở tuy không đến nỗi sang trọng, nhưng vẫn phải nhìn nhận là nó rất ngăn nắp và sạch sẽ.
“Angouleme, ngươi đã tỉnh. Chúng ta bắt đầu thoả thuận được chứ?”
Lyall mỉm cười đẩy cửa bước vào, vẫn là một màu mắt vàng nhạt gây cho cậu sự bồn chồn.
“Ngươi muốn gì?”
“Ta là người thẳng thắn, xưa nay ghét nhất thói vòng vo. Cái ta muốn là ngươi Angouleme.”
Zenda tròn xoe mắt hỏi lại lúng túng:
“Muốn ta?”
Lyall vò mái tóc cười giảng giải:
“Đừng hiểu lầm. Ta thừa nhận ta chưa từng thấy qua vampire nào lại đẹp như ngươi, nhưng ta không hề có hứng thú với con trai. Chính xác ta muốn nguồn năng lượng của ngươi giúp ta mở phong ấn một vật.”
“Ngươi nghĩ ta có sẵn sàng giúp ngươi không? Cách nhờ vả của ngươi thiếu thành ý quá đấy. Rốt cuộc ngươi là ai?”
“Ha ha ha… ta tự giới thiệu, ta tên Lyall, là hunter chuyên săn vampire dòng thuần. Vì ta chẳng thích nhận mệnh lệnh từ hiệp hội nên thường bị đám trưởng lão sỉ vả. Sau cùng đành phải trốn chui trốn nhủi khắp nơi. Nhờ những ngày tháng này, ta khám phá ra mình có hứng thú đặc biệt với độc dược. Thuốc ta chế ngươi cũng thử qua rồi, không tệ phải không?”
“ Còn ta thì chưa từng thấy một hunter nào lại đi tâm sự với vampire. Ngươi lợi dụng Phalos mà còn đả thương nó, ta vẫn nghĩ ngươi sao có thể nói chuyện nhã nhặn với ta thế này?”
Zenda nghiêm mặt hoài nghi.
“Thằng nhóc ấy có lắm ý đồ, ta không phủ nhận ta cũng có ý đồ, thế nhưng ta vẫn tôn trọng ngươi còn gì, đâu có thừa cơ giở trò. Ta chẳng phải loại đàng hoàng, đơn giản vì ta ghét thói đó nên đã vào phá ngang cuộc vui của nó. Mà thôi, Angouleme… ta tìm ngươi lâu lắm rồi.”
“Sao ngươi cứ gọi ta là Angouleme? Ta tên Zenda Kenshi.”
“Hơn hai thế kỷ trước, tộc hunter bị mất đi một thánh vật. Buồn cười thay kẻ trộm nó lại là vampire. Có một người hunter trong lúc đuổi bắt đã trông thấy khuôn mặt hắn. Ông bảo hắn thuộc dòng thuần, có mái tóc dài màu nâu cùng đôi mắt đỏ trong suốt. Và thế là từ bao đời qua, dù xuôi ngược cùng trời cuối đất, tộc hunter cũng không thể nào tìm ra hắn. Ai cũng cho rằng hắn đã biến mất trên thế gian. Lần đầu tiên nghe mấy lão già đó kể, ta đã nảy ra mối nghi hoặc. Vì không ai ngoài người hunter kia nhìn thấy hắn, liệu ông có nói sự thật không? Ông miêu tả tên vampire này đẹp tựa như mặt trăng. Ta nghĩ ông rất ngưỡng mộ hắn, chắc chắn ông đã cố tình nói trệch đi một chi tiết trong diện mạo của hắn để không ai có thể tìm được hắn. Nếu là ta, ta cũng đâu muốn người mà ta ngưỡng mộ bị sát hại.”
|
Nói đến đây, Lyall dừng hẳn nhìn sang Zenda ngầm để ý những biến chuyển trên nét mặt cậu. Zenda cố tỏ ra cứng cỏi gằn giọng hỏi Lyall:
“Chuyện ngươi nói liên quan gì đến ta?”
“Ngươi nghĩ thật không liên quan à? Ta lại cho rất mật thiết là đằng khác. Một kẻ có vẻ đẹp như mặt trăng, hẳn là đôi mắt phải gợi cho người ta sự lắng đọng sâu sắc, vì vậy màu của nó với màu mặt trăng cụ thể không khác biệt mấy. Cộng thêm hắn xuất thân thuần chủng, địa vị hẳn cao quý hơn người. Kết hợp những yếu tố này, đâu khó tý nào để tìm ra gia tộc Kenshi và ngài bá tước Zenda đây."
Sắc mặt Zenda tái nhợt, trong khoảnh khắc ngắn ngủi, cậu điều đình mọi biểu cảm và mỉm cười ngước nhìn Lyall:
“Toàn bộ đều là suy đoán của ngươi, không căn cứ gì chứng minh người đánh cắp thánh vật là ta cả.”
“Đúng, chỉ là ta tin tưởng trực giác của mình không sai. Thật ra, chín đoạn Long Cốt có sức mạnh khôn lường, nó được cất trong Băng Bảo vì đừng nói là vampire, ngay cả hunter cũng không dám tuỳ tiện chạm vào nó, đã có vô số kẻ ngông cuồng phải trả giá đắt. Ngươi có thể là người hữu duyên mà truyền thuyết của tộc hunter từng nhắc đến. Đó là lý do ta gọi ngươi với cái tên Angouleme. Ông ấy là một hunter, nhưng mang trong mình dòng máu vampire, luôn xả thân đấu tranh cho chính nghĩa và tiêu diệt cái xấu. Ông ấy cũng là chủ nhân duy nhất của Long Cốt suốt hàng nghìn năm qua, tất nhiên bây giờ nó thuộc về ngươi.”
“Ta không cao cả như Angouleme. Nếu tộc hunter ai cũng thông minh giống hệt ngươi, ta có lẽ đã không yên ổn lâu đến vậy. Ngươi muốn dùng điều kiện này trao đổi với ta?”
“Phải.”
Lyall đáp dứt khoát. Zenda nghiêng khoé mắt đăm chiêu, có bao điều phiền muộn chất đầy trong lòng cậu. Cầm trong tay con cờ định mệnh, cậu cảm thấy hoang mang cho mỗi nước đi thiếu kiểm soát, nhưng đáng tiếc không có quá nhiều con đường để cậu lựa chọn.
“Được. Hãy đưa nó cho ta thử, ta không chắc mình có khả năng giúp ngươi. Ta chỉ hứa sẽ cố gắng hết sức.”
“Nó nằm trong đầu ta, là đoạn ký ức mà ta đã bị phong ấn từ năm lên tám.”
“Ký ức, ngươi không đùa chứ?”
“Mỗi lời ta nói đều rất thật. Năm tám tuổi, ta được các vị trưởng lão tộc hunter đem về nuôi, một trong số họ đã yểm bùa ký ức của ta. Ta không thể nhớ nổi gì, ta hỏi họ cha mẹ mình là ai thì họ bảo không biết. Dẫu vậy, trong giấc mơ hằng đêm của ta, ta nhìn thấy một người phụ nữ. Bà ta ôm một đứa bé chỉ vừa sơ sinh, quần áo đẫm máu tươi cố giơ thẳng cánh tay về hướng ta, hình như muốn vẫy gọi một điều gì đó. Ta đã làm mọi cách để thoát khỏi ám ảnh, để có thể nhớ lại mà đều thất bại. Ta nghĩ Long Cốt chính là hy vọng cuối cùng của mình."
Zenda trợn tròn đôi mắt đầy sửng sốt, đôi chân cậu tự thôi thúc tiến đến gần Lyall và bờ môi khẽ nhúc nhích:
“Ngươi… ngươi có… phía sau vai trái của ngươi có… có một dấu xăm hình tia sét… phải không?”
“Đúng, không lẽ ngươi biết thân thế của ta sao?”- Lyall vui mừng bấu chặt hai vai Zenda hỏi dồn. – “Thật là ngươi biết chứ, ta chờ ngày này đến mòn mỏi… nói đi, làm ơn hãy nói cho ta biết ta là ai… Lyall có phải là tên của ta hay không?”
Zenda đứng chết lặng chẳng thể bật ra câu trả lời nào, đôi tay cậu xiết cứng để cố trụ vững bằng thái độ bình tĩnh giả tạo. Sau hồi thở gấp, cậu trấn an sự kích động của chính mình và của Lyall:
“Ta có biết về thân thế ngươi, sự việc hơi bất ngờ… ta chưa kịp chuẩn bị tinh thần. Ta sẽ nói cho ngươi biết, có điều không phải hôm nay. Ba ngày sau, ta chờ ngươi ở dưới chân đồi Bynar, khi đó không cần đến Long Cốt, chính ta đã có thể cho ngươi những câu trả lời khiến ngươi hài lòng.”
Lyall khẽ cau mày, nhưng rồi cũng chấp nhận khiến Zenda nhẹ nhõm đôi chút. Lyall cũng không tỏ ý phản đối khi cậu nói cậu đến lúc phải trở về Hamyulin. Bước ra khỏi căn nhà Lyall, Zenda tự cười mình đã khờ khạo quá mức. Đáng lẽ cậu nên nhận ra nó sớm hơn, màu mắt nó giống Arleen như đúc từ một khuôn. Làm sao trên đời lại có sự trùng hợp đến vậy nếu họ không phải là mẹ con. Nhắc về Arleen, trái tim Zenda bỗng nhói lên cơn đau, cảm giác tội lỗi u ám bao trùm lấy cậu. Cậu là kẻ thất hứa, cậu đã không lo lắng cho Hery đàng hoàng làm tổn hại cả cuộc đời nó. Phải làm sao để cậu hàn gắn được những sự hối tiếc lớn lao này?
“Chúa ơi, con biết phải làm sao?”
————————————————————
Từ nhỏ cho đến lớn, mọi người đều bảo màu mắt của tôi rất đẹp, ngay cả Krizu cũng nói rằng anh ấy thích, bởi nó khéo kết hợp hài hoà giữa màu vàng của vinh quang và màu xanh của niềm tin. Thế nhưng, chỉ đến khi gặp Arleen, tôi mới biết được người có màu mắt đẹp nhất chính là cô ấy, sắc vàng của tội lỗi và sắc trắng của nước mắt. Cô ấy là một trong những trưởng lão quyền uy của tộc hunter. Vì nhuốm phải tình yêu với một vampire, cô từ bỏ chức vị và quyết định cùng người đó sống một cuộc đời yên bình. Họ sinh ra hai người con: đứa lên tám tên Lyall, được thừa hưởng năng lực vampire từ cha; đứa còn lại vừa sơ sinh tên Hery, mang trong mình dòng máu con người hệt như mẹ. Tiếc là tộc hunter không tha cho họ, ngay cả giới vampire cũng đuổi giết họ. Chồng cô tử thương trong một trận chiến thảm khốc còn Lyall thì bị những hunter bắt giữ. Một thân một mình với đứa trẻ ẵm trên tay, Arleen liều mạng đột phá khỏi vòng vây. Lần đầu tiên tôi gặp cô chính là trong hoàn cảnh ấy. Cô quỵ bên bờ sông với vết máu loang dài từ cổ đến chân. Đứa bé không ngừng kêu khóc trước sự bất lực và những dòng nước mắt nóng hổi của cô. Tôi nhìn họ, không biết là đồng cảm hay thương hại, nhưng tôi đã chọn lựa cứu họ. Tôi đưa họ về ở tại một ngôi nhà nhỏ dưới chân đồi Bynar gần tu viện Cehfoma. Tôi vẫn thường ngày đều đặn đem thức ăn cùng những thứ vật dụng cần thiết cho họ. Và lẽ dĩ nhiên, tôi không phải dễ dàng để ra ngoài vì Krizu luôn ở sát bên cạnh mình. Tôi chỉ có thể đợi những khi anh ấy bận việc mới bỏ đi được. Ba tháng trôi qua rất bình lặng, sức khỏe Arleen đã hoàn toàn hồi phục. Một ngày, cô ấy vừa ôm chặt đứa bé vào lòng âu yếm vừa mỉm cười, nụ cười thanh đạm giống hệt mẹ của tôi. Trước lúc bà chết, bà cũng từng ôm tôi dịu dàng như vậy. Tôi bùi ngùi đối diện với thực tại phũ phàng đã không thể nào còn cảm nhận được hơi ấm của bà nữa. Arleen bỗng quay sang tôi chan chứa ánh nhìn thấu hiểu, cô đặt đứa bé đang say ngủ xuống giường một cách trìu mến và ôn tồn hỏi:
“Phải chăng cháu nhớ đến mẹ mình, Zenda?”
“Cháu vốn chưa hề quên bà, mặc dù cha nói bà đã định bỏ anh em cháu, nhưng… cháu không hiểu vì sao mình vẫn yêu thương bà rất nhiều. Cô à, cô sẽ đi thật sao?”
“Đó là tình mẫu tử thiêng liêng. Giống như cô cũng không thể bỏ mặc Lyall. Dẫu cô biết chắc tộc hunter sẽ chẳng tổn hại nó, cô vẫn muốn cứu nó ra khỏi nơi địa ngục đó. Phiền cháu giúp cô trông hộ Hery vài ngày, cô sẽ ráng trở về thật sớm.”
“Để cháu đi cùng cô, cháu sợ…”
“Sợ cô không thể trở về à?” – Arleen thở dài. – “Đừng lo, tệ lắm cô cũng phải gặp cháu và Hery lần cuối. Đây là chuyện của tộc hunter, cô không mong cháu bị liên can vô cớ. Huống chi nếu cháu nhúng tay vào, cả cháu cũng gặp vấn đề đấy. Với cương vị là người thừa kế dòng thuần vampire, mà lại giúp một hunter, cháu sẽ khó ăn nói cùng những đồng loại khác. Những điều cháu làm cho cô trong khoảng thời gian vừa qua đã quá đủ rồi.”
Cô ấy vuốt tóc tôi, dưới ánh chiều tà, màu mắt cô ngời sáng biết bao nỗi ưu tư. Và rồi cô cầm lên thanh kiếm của mình, cô đã quay lưng đi sau cái nhìn đầy luyến tiếc với Hery. Tôi đem thằng bé về Hamyulin, dĩ nhiên lường trước Krizu sẽ trút lên tôi một tràng tức giận.
“Em có thói quen dính dáng vào mấy chuyện vớ vẩn hồi nào thế? Thằng nhóc này là sao?”
“Một người bạn nhờ em trông nó ít ngày thôi. Nó rất ngoan, nó sẽ không phiền đến anh đâu. Em hứa tuyệt đối không để nó khóc ồn ào. Anh tạm cho nó ở lại nhé.”
Tôi phải mất thật lâu nài nỉ thì anh ấy mới miễn cưỡng đồng ý. Nguyên nhân chính khiến Krizu nổi điên không phải vì Hery là một đứa bé loài người, chỉ đơn thuần vì nó là trẻ con, mà mọi trẻ con đều đáng ghét trong mắt anh ấy. Hơn năm ngày sau, Arleen quay về ngôi nhà nhỏ. Một lần nữa, tôi thấy toàn thân cô ấy chằng chịt vết thương. Cô đưa tay lau khóe miệng đẫm máu, quay sang tôi và Hery cười bơ phờ:
“Cô đã thất bại, làm mẹ như cô thật vô dụng quá phải không? Chết đi cũng đáng mà.”
“Cô đừng nói vậy. Cô chết đi ai sẽ lo lắng cho Hery. Cháu không để cô chết đâu, nếu mất cô Hery sẽ thế nào? Nó còn quá nhỏ để thiếu một người mẹ?”
Tôi chợt nhớ đến hình ảnh mẹ của mình, và bản thân không sao kiềm được nỗi nghẹn ngào. Ánh mắt Hery trong sáng quá, mọi đứa trẻ có phải đều như thế? Nó nào hay rằng bản thân sắp phải mất đi một người mẹ. Ngày mẹ tôi chết, anh Krizu đã ở bên cạnh tôi suốt, anh ấy kiên nhẫn lắng nghe tôi khóc, và có lúc trong màn đêm tĩnh lặng, anh ấy cũng khóc như tôi. Mẹ đối với chúng tôi rất quan trọng, chúng tôi mặc kệ bà đã có lỗi lầm gì, bà mãi mãi là mẹ của chúng tôi. Dù có khóc một đời, chúng tôi cũng không thể khóc cạn nỗi đau mất bà. Tôi còn có Krizu làm điểm tựa, tội nghiệp cho Hery, nếu mất cô Arleen, nó sẽ còn có ai?
Tôi dìu cô đến cạnh giường và đặt Hery xuống cạnh cô. Hai hàng mi cô trào ra một thứ chất lỏng cay đắng, cô đưa tay sờ vào má nó trong tiếng nói nức nở:
“Lần này cô thật khó qua khỏi, cô hiểu rõ tình trạng của mình. Cô là một bà mẹ tội lỗi, cô chẳng thể đem nổi hạnh phúc cho chúng. Ôi những đứa con của tôi… Tại sao mạng số của chúng lại đau khổ đến vậy?”
Arleen đột ngột quỳ sụp trước mặt tôi van nài:
“Zenda, cô xin cháu, cháu hãy xem như bố thí cho cô một ân huệ, cháu hứa với cô được không?”
“Cô ơi, chỉ cần cô nói, cháu sẽ dốc hết sức thực hiện.”
Tôi đỡ cô đứng lên, màu mắt vàng long lanh nước mắt ấy đập vào lương tâm của tôi sự hối hận, đúng ra tôi không nên để cô đi mạo hiểm, cớ sao giây phút đó tôi lại không nhất quyết đi cùng cô?
“Xin cháu Zenda, hãy giúp cô chăm sóc Hery cho đến khi nó lớn lên. Cô biết rất khó xử nếu cháu giữ nó bên mình, cháu chỉ cần âm thầm quan tâm nó là được.” – Cô nói mà nước mắt rơi không ngừng. – “Đừng để nó biết nó là ai, cũng đừng để nó liên quan gì đến hunter hay vampire. Quá thê thảm rồi… Zenda à, cô chỉ muốn nó được sống như bao con người bình thường khác, chẳng vướng bận thù hận hay trách nhiệm gì. Cô khẩn thiết cầu xin cháu Zenda.”
“Cháu hứa với cô sẽ thay cô bảo vệ cho Hery đến lúc nó trưởng thành, nhưng về thân thế nó, nếu nó không biết chút nào làm sao có thể tìm lại người anh trai thất lạc của mình cơ chứ?”
“Biển người bao la, cô còn không biết hiện thời Lyall đang ở đâu. Cô đã về hiệp hội nhưng không thấy tung tích của nó.” – Arleen giở mảnh vải quấn Hery và chỉ cho Zenda thấy vết xăm hình tia sét sau vai trái của Hery. – “Lyall cũng có một cái tương tự thế, chính tay cô đã xăm cho nó ngay từ khi vừa lọt lòng. Nó sẽ là dấu hiệu để anh em chúng nhận nhau lỡ có chuyện không may xảy ra. Cô biết sớm muộn tai hoạ cũng ập đến, không ngờ lại nhanh hơn cô nghĩ. Có điều, chẳng cần thiết nữa, chúng gặp nhau chỉ khiến cho cuộc đời chúng càng thêm bất hạnh mà thôi. Cô không hy vọng chúng báo thù gì hết, một trong hai đứa được sống yên ổn còn hơn là cả hai phải mất mạng.”
“Mọi người làm mẹ đều lo xa cho tương lai con của mình. Cháu hiểu rồi, tình thương luôn đi liền với sự hy sinh.” – Sau giây lát, trong đầu tôi bỗng thoáng qua một ý nghĩ. – “Anh của cháu, cô à… anh của cháu biết đâu có thể chữa lành vết thương cho cô, anh ấy giỏi nhất là về thuốc. Cô chờ cháu… cháu đi tìm anh ấy ngay.” – Tôi sợ chậm trễ sẽ không kịp cứu cô nên vội vàng chạy như bay về Hamyulin. Tôi nghe tiếng cô gọi với theo là đừng đi, nhưng tôi nghĩ tôi nên làm chút gì trước khi quá muộn. Tiếc rằng tôi vẫn muộn, Krizu không có ở Hamyulin, và khi tôi quay lại thì cô đang trong hấp hối, bởi cô tự đâm một con dao vào ngay giữa bụng mình. Đến tận bây giờ, tôi cũng không tài nào hiểu được vì sao Arleen chọn tự sát hơn là chờ đợi tôi. Cô chỉ trăn trối lại vài câu sau cùng rồi vĩnh viễn ra đi:
“Cháu nhất định phải giúp cô nuôi nấng Hery, đừng cho nó can hệ đến hunter, dẫu là vampire cũng không được.”
Rồi cô ôm chầm tôi, nhưng đó không chỉ là một cái ôm, cô khẽ đưa miệng sát tai trái tôi thì thầm:
“Cô không biết lấy gì đền ơn cháu. Trong tộc vampire có một thánh vật gọi là chín đoạn Long Cốt. Cô đã từng nhắc với cháu về cặp song sinh vampire, muốn phá vỡ lời nguyền này, cháu cần lấy cho được nó. Cháu phải hết sức thận trọng, sức mạnh của nó sẽ giảm đi vào những ngày trăng tròn. Đừng miễn cưỡng…” – Giọng cô yếu dần. – “Nó có thể lấy mạng cháu đấy, nhớ lời cô.”
Tôi bắt đầu cảm nhận được cô đang rời tay khỏi mình, và cô từ từ ngã xuống. Một giọt nước mắt tôi rơi trên má Hery, tôi khóc cho đoạn đường sau này nó phải trải, và tôi khóc cho người bạn mới quen biết là cô, người có màu mắt đẹp tựa mẹ tôi. Hery vẫn hồn nhiên đùa nghịch những ngón tay vào nhau, nó cười khúc khích nhìn tôi, giá như tôi có thể nói cho nó biết – nó vừa mất đi một người thật quan trọng trong cuộc đời.
|