Sát Phá Lang
|
|
Chương 25: Tương ly
Liễu Si phương trượng dẫn sư đệ tiểu bạch kiểm tới, chắp tay thi lễ với Cố Quân, cười ra một đóa long trảo cúc nở rộ: “Nhiều năm không gặp, Hầu gia phong thái vẫn như xưa, thật sự là may mắn của giang sơn Đại Lương ta.” (Long trảo cúc – Aloe Arborescens Mill là 1 loại cây gần giống lô hội)
Cố Quân nhìn khuôn mặt xấu xí của ông ta mà đau dạ dày, nghĩ bụng: “Không phải sao, còn chưa bị ông rủa chết đâu.”
Đương nhiên, thân là An Định hầu, y không tiện bốc đồng mà gây sự vô cớ, ít nhất ngoài mặt phải đàng hoàng, lập tức chỉ hơi gật đầu với thần sắc thản nhiên: “Nhờ phúc đại sư.”
Hòa thượng mặt trắng mi thanh mục tú Liễu Nhiên kia cũng chào theo, lại chỉ cười dịu dàng không lên tiếng, Cố Quân không nhịn được nhìn hắn một cái.
Liễu Si giải thích: “Hầu gia đừng trách, sư đệ ta tuy ngộ tính rất tốt, tinh nghiên Phật pháp, nhưng đáng tiếc trời sinh là người tu bế khẩu thiền.”
Cố Quân sửng sốt, Liễu Nhiên này vậy mà là một người câm.
Liễu Nhiên hòa thượng tiến lên một bước, chìa hai tay tới Cố Quân. Hòa thượng này trắng đến cơ hồ lóa mắt, khiến mắt mi càng đen hơn, tựa một khúc gỗ cháy thành than nằm ngang trên nền tuyết, nếu không phải là một hòa thượng, tất có mái tóc dài đen như nét mực, lại thêm môi hồng răng trắng, quả thực như một yêu vật làm bằng sứ trắng vậy.
Cố Quân hơi nhíu mày, nghĩ bụng: “Tính làm gì đây, khai quang cho ta hả?”
Liễu Si hòa thượng nói: “Hầu gia gánh vác sự an ổn của biên cương, ít ngày nữa chắc hẳn lại phải rời kinh, sư đệ muốn cầu phúc chúc an cho ngài.”
Cố Quân mỉm cười: “Làm phiền đại sư, nhưng không cần đâu – ta chưa từng đọc kinh ngày nào, cũng chưa từng thắp một nén nhang, không đi quấy rầy Phật tổ lão nhân gia đâu.”
Liễu Si: “A di đà Phật, Phật pháp vô biên, phổ độ chúng sinh, Hầu gia nói thế là sai rồi.”
Cố Quân nghe thấy bốn chữ “A di đà Phật” thì đã rất muốn đánh người, kiên nhẫn đã đến cực hạn, không còn muốn nói nhảm với họ nữa, vẻ mặt thản nhiên bỏ lại một câu: “Hoàng thượng còn đang chờ, ta không trì hoãn thêm nữa, ngày khác sẽ bái phỏng đại sư, xin lỗi không hầu được.”
Nói xong y liền lôi Trường Canh theo Chúc Chân Nhỏ đi vào cung điện, Trường Canh vô tình quay đầu lại nhìn thoáng qua, thấy Liễu Nhiên hòa thượng kia chẳng mảy may bị ảnh hưởng bởi thái độ của Cố Quân, vẫn thành kính như quỳ dưới Phật tổ tọa, miệng lẩm bẩm không tiếng, phảng phất muốn không phân bua gì mà gán số mệnh cầu được lên Cố Quân đang càng lúc càng xa.
Tin hay không do ngươi, độ hay không do ta.
Trường Canh đang thất thần, tay đột nhiên bị người ta kéo một cái, Cố Quân thấp giọng nói vẻ không vui: “Hòa thượng có gì đẹp mà nhìn, nhìn nhiều mù mắt đấy.”
Trường Canh ngoan ngoãn vâng lời thu tầm mắt lại, hỏi Cố Quân: “Nghĩa phụ, vị đại sư kia nói người còn phải rời kinh, là thật ạ?”
Cố Quân: “Ừm.”
Trường Canh truy hỏi: “Khi nào?”
“Chưa rõ,” Cố Quân nói, “Phải xem ý Hoàng thượng – nếu ta đi rồi, trong hầu phủ ngươi lớn nhất, ngươi định đoạt, có chuyện gì không hiểu, cứ trao đổi với Vương thúc.”
Chuyện ngoan ngoãn học hành, chuyên tâm tập võ nọ kia, Cố Quân không dặn, bởi vì tại phương diện này, Trường Canh thật sự tự giác đến mức kẻ làm trưởng bối y đây cũng cảm thấy xấu hổ.
Trường Canh nghe thế lập tức ngẩn ra, một lúc lâu mới khó khăn hỏi: “Nghĩa phụ không định dẫn con đi à?”
“Hả?” Cố Quân không hiểu gì hết, nói, “Dẫn ngươi đi làm gì?”
Trường Canh khựng bước.
Trước hôm nay, Trường Canh chưa bao giờ nghĩ đến còn có việc này.
Từ Nhạn Hồi đến kinh thành, Cố Quân vẫn luôn dẫn y theo bên cạnh, Trường Canh căn bản không ý thức được, một khi tiểu nghĩa phụ lại lần nữa lĩnh binh lên Tây Bắc, hai người sẽ cách nhau quá nửa non sông Trung Nguyên.
Chỉ chớp mắt, trong lòng Trường Canh chợt hiểu ra, đột nhiên liên tưởng đến một chuỗi việc – trong mắt nghĩa phụ, sợ rằng mình cũng chỉ là một đứa trẻ văn không thành võ không tựu, tướng sĩ đến biên cương đeo đao đeo thương mặc áo giáp, chứ ai lại dẫn theo một gia quyến liên lụy?
Tương lai Cố Quân đến biên cương Tây Bắc, nếu bên kia bình an vô sự, có lẽ còn có thể một năm về kinh báo cáo một lần, nếu hơi mất yên ổn, thì chưa biết chắc phải ở đó đến bao giờ, hiện giờ mình tính tròn đã mười bốn tuổi rồi, thời gian thiếu niên trước khi đội mũ còn mấy năm đâu?
Đến lúc đó y sẽ phải rời khỏi vòng tay che chở của An Định hầu, một mình dọn khỏi hầu phủ. Y sẽ có một hư danh lạ lùng, sống trong kinh thành trống vắng…
Nghĩa phụ rồi cũng sẽ phải cưới vợ sinh con, đến lúc đó, người còn nhớ tới gánh nặng nhỏ năm ấy ném lại hầu phủ nuôi thả không?
Họ gọi nhau là phụ tử, nhưng thì ra duyên phận tựa như bấc đèn cũ chỉ còn dài một tấc, vừa đốt liền cháy hết, chỉ có y mãi đắm chìm trong giấc mộng địa cửu thiên trường.
Vừa nghĩ thế, cả hoàng cung như đều biến thành một hầm băng khổng lồ, đông trọn y ở bên trong.
Cố Quân thấy y đột nhiên dừng lại, liền quay đầu nghi hoặc nhìn y.
Trường Canh nhất thời hơi hoảng hốt buột miệng nói: “Con cũng muốn theo người đến biên cương, con có thể tòng quân!”
Cố Quân nghĩ bụng: “Đừng lộn xộn nữa, bứng ngươi ra ngoài dạo một vòng cũng khó như vậy, thì tòng quân cái gì chứ?”
Nhưng qua non nửa năm, y đại khái đã tìm được một chút bí quyết làm trưởng bối, không hề đả kích Trường Canh ngay trước mặt, chỉ cười cổ vũ với vẻ giả bộ quá mức, trông hơi khoa trương: “Tốt lắm, tương lai làm lính cho ta đi tiểu điện hạ.”
Trường Canh: “…”
Hiển nhiên, Cố Quân tìm được chính là bí quyết làm trưởng bối của một đứa bé bốn tuổi, muộn mất mười năm.
Một bầu quyến luyến tuyệt vọng của Trường Canh bị đối phương nhẹ tênh đẩy về, hoàn toàn không coi là thật.
Thế là thiếu niên im lặng, không đấu tranh một cách vô vị nữa, nhìn chằm chằm bóng lưng cao to của Cố Quân, giống như nhìn một cánh cửa chật hẹp cả đời không qua được.
Hoàng đế Long An Lý Phong là huynh trưởng trên danh nghĩa của Trường Canh, nhưng trên tướng mạo, không nhìn ra hai người có một chút quan hệ huyết thống, Hoàng thượng trông giống tiên đế hơn.
Tính ra thì đây là lần thứ hai Trường Canh gặp hắn, so với lần trước binh hoang mã loạn, lần này thấy rõ hơn, tân hoàng vừa qua tuổi nhi lập, chính là độ tuổi đẹp nhất trong cuộc đời một nam nhân, có diện mạo đoan chính, dù không phải là Hoàng đế, chỉ nhìn tướng mạo thì cả đời cũng chẳng thất bại được.
Trường Canh rất cẩn thận, đặc biệt là sau khi đến kinh thành, càng giỏi thăm dò lời nói sắc mặt. Cố Quân ít đề cập, song Thẩm tiên sinh không kiêng kị nhiều như thế, cũng âm thầm phàn nàn về Hoàng thượng, rất dễ khiến người ta liên tưởng đến một hình tượng cay độc hẹp hòi, nhưng kỳ thực không phải vậy.
Cố Quân còn chưa bước chân vào, Hoàng đế Long An đã phân phó nội thị bên cạnh đi lấy chậu than, miệng còn nói: “Ta đã bảo với họ là hoàng thúc nhất định đến sớm mà, mau vào đây cho ấm, nhìn người là ta thấy lạnh.”
Hoàng đế Long An gọi y là “hoàng thúc”, kỳ thực không hợp lễ phép lắm, bởi vì Cố Quân dù sao cũng không mang họ Lý, năm đó tiên đế yêu thương, lúc riêng tư tùy tiện nói một chút rồi thôi, Hoàng thượng lại giữ nguyên thói quen thân mật từ khi còn nhỏ này.
Ở trước mặt Cố Quân hắn không hề xưng trẫm, trong nhiệt tình mang theo chút thân mật tùy ý, không như đối đãi thần tử, trái lại như là một người nhà vậy.
“Tiểu Trường Canh cũng tới đây,” Lý Phong nhìn Trường Canh, than thở, “Người thiếu niên đúng thật là thay đổi mỗi ngày, lần trước gặp còn chưa cao thế đâu – Ta mới kế vị, luôn nơm nớp lo sợ, mấy tháng này sứt đầu mẻ trán, cũng không chú ý đến ngươi, lại đây để hoàng huynh nhìn kỹ xem nào.”
Trường Canh vốn đã chuẩn bị sẵn sàng không được chào đón, ngờ đâu Hoàng thượng giấu kín sự “không chào đón” như thế, đến mức y hoàn toàn không cảm nhận được.
Hoàng thành đế đô này, ân thù đều che giấu, thoạt nhìn ai cũng hòa thuận vui vẻ.
Cố Quân và Hoàng thượng tùy ý tán gẫu vài câu, thỉnh thoảng hồi ức thời thơ ấu một chút, Hoàng đế Long An liền chuyển sang “tiền lì xì” chuẩn bị cho Trường Canh.
Trường Canh là một dã hài tử lớn lên ở Nhạn Hồi trấn, chưa từng tiếp xúc với nhân tình thế cố, cũng chưa từng thấy cảnh đời, chỉ biết “vô công không nhận lộc”, nghe Chúc Chân Nhỏ báo từng việc, cơ hồ hơi bất an, hoài nghi Cố Quân sáng sớm lôi y dậy dẫn vào cung, chính là để tìm Hoàng thượng thu tô!
Hoàng đế Long An vui vẻ hòa nhã hỏi tiến độ đọc sách tập võ của Trường Canh, lại nói: “Ngươi là hậu nhân Lý gia ta, sau này cần phải chăm chỉ, có bản lĩnh, để tương lai phân ưu cho hoàng huynh – Trường Canh sau này muốn làm gì?”
Trường Canh nhìn Cố Quân một cái, nói: “Tương lai nguyện làm thân vệ của Đại soái, theo hầu bên cạnh, mở mang bờ cõi cho Hoàng thượng.”
Hoàng đế Long An cười to, thoạt nhìn long tâm rất vui, liên tục khen Trường Canh có chí khí.
Cố Quân ở bên bưng trà lên uống cho trơn họng, không nói xen, chỉ cười, cười đến tít cả mắt, ấm áp vô cùng.
“Ai hầu hạ ai?” Trong lòng y bất đắc dĩ nghĩ.
Vừa bất đắc dĩ, y lại vừa cảm thấy xuôi tai, sảng khoái từ tai vào lòng, ngay cả vận xui từ tay hòa thượng ban nãy cũng bị quét sạch.
Hoàng đế Long An lại nói như đùa: “Nói thì như vậy, nhưng các tướng sĩ biên cương rất khổ, nghĩa phụ ngươi nào nỡ để ngươi đi chịu tội?”
Cố Quân biết Hoàng thượng đang vòng vo cảnh cáo mình, hết sức tinh mắt tiếp lời: “Nếu thần dám đưa tiểu hoàng tử lên sa trường, Hoàng thượng làm huynh trưởng là người đầu tiên không tha cho thần.”
Hoàng đế Long An vừa lòng, vẫy tay gọi Chúc Chân Nhỏ: “Sứ giả của Giáo hoàng Tây Dương lần trước tặng một cái đồng hồ to, còn to hơn cả giả sơn ở ngự hoa viên, y như một căn lầu nhỏ, mỗi nửa canh giờ bên trong sẽ có lũ rối ra biểu diễn ca múa, náo nhiệt lắm, ngươi dẫn Trường Canh đi xem cho biết, trẫm và hoàng thúc tán gẫu vài câu.”
Trường Canh biết họ có chính sự cần bàn, lập tức thức thời đi theo Chúc Chân Nhỏ.
Chúc Chân Nhỏ hết sức ân cần với tứ điện hạ có tri thức hiểu lễ nghĩa, thân thế phức tạp này, dẫn y đến thẳng noãn các.
“Noãn các” là một hoa viên khép kín, bên ngoài lót gạch lưu ly màu sắc sặc sỡ, nơi thông gió đều lắp lò sưởi hơi nước, bên trong bốn mùa như xuân, hoa rộ như gấm.
Cái đồng hồ mà Hoàng đế Long An nói kê ngay chính giữa, như một cái kính chiếu ảnh giữa vùng sơn dã.
Trường Canh cảm khái một chút về sự khéo léo của thợ Tây Dương, nhưng giống với đa số người Trung Nguyên, y cũng không thể thích mấy cái tranh vẽ đậm màu đó, mới lạ qua đi, nhanh chóng mất hứng thú, ánh mắt dừng ở một góc noãn các – nơi đó có người, chính là Liễu Nhiên hòa thượng ban nãy gặp gỡ trên đường.
Liễu Nhiên không nói được, nhẹ nhàng giơ tay ra dấu, tiểu sa di bên cạnh lập tức tiến lên chào, nói: “Tứ điện hạ, Chúc công công, tôi và sư thúc nhờ Thánh thượng ân điển, ở lại ngự hoa viên ngắm cảnh, trên đường gặp Ngụy vương, sư phụ đi nói chuyện với Ngụy vương, chúng tôi chờ người ở đây, hi vọng không làm mất nhã hứng của tứ điện hạ.”
Trường Canh nho nhã lễ độ nói: “Quấy rầy đại sư rồi.”
Liễu Nhiên lại ra hiệu, bất kể hắn làm gì đều có một loại tiên khí như mây bay nước chảy, làm cho người ta không hề cảm thấy sự mất tự nhiên của nhà sư câm này. Tiểu sa di giải thích: “Sư thúc nói người nhìn thấy tứ điện hạ liền cảm thấy hợp ý, bảo ngài nếu sau này rỗi rãi, thì đến Hộ Quốc tự ngồi một lúc, nhất định sẽ lấy trà ngon thết đãi.”
Trường Canh khách khí nói: “Đương nhiên rồi.”
Liễu Nhiên hòa thượng chìa tay ra cho Trường Canh, Trường Canh không rõ nguyên nhân, do dự một chút rồi đưa tay ra.
Liễu Nhiên liền viết vào lòng bàn tay y: “Điện hạ tin ngã Phật hay không?”
Trường Canh không ghét hòa thượng như Cố Quân, khí chất xuất thế thanh tĩnh trên người những tăng nhân này làm cho y vừa gặp liền sinh hảo cảm.
Nhưng y cũng không hề tín ngưỡng, bởi vì không có khái niệm, không biết, nên không nói đến tin hay không.
Trường Canh không muốn làm mất mặt Liễu Nhiên ngay ở đây, thế nên chỉ cười.
Liễu Nhiên lập tức sáng tỏ, không lấy làm giận, ngược lại lộ ra một chút tươi cười, viết từng chữ trong lòng bàn tay Trường Canh: “Không biết khổ đau, không tin thần phật, hạnh thay, đại thiện.” (Ở đây tác giả chơi chữ, liễu nhiên có nghĩa là sáng tỏ)
Trường Canh sửng sốt. Thiếu niên nhìn vào đôi mắt như bao trùm vạn vật của hòa thượng câm, đột nhiên cảm thấy căn bệnh trầm kha trong lòng mình bị đối phương nhìn thấu; nhất thời, Ô nhĩ cốt, Tú Nương, xuất thân thật giả khó phân, ý nghĩ xằng bậy khó lòng mở miệng, tất cả đều như nước chảy lướt qua trong lòng y, bị tám chữ “không biết khổ đau, không tin thần phật” kia một mũi tên đâm xuyên.
Liễu Nhiên chắp tay thi lễ, toan rời đi.
Trường Canh đột nhiên gọi giật lại: “Đại sư, sau này ta sẽ đến Hộ Quốc tự bái hội.”
Liễu Nhiên cười cười, dẫn tiểu sa di ung dung bước đi.
Chính lúc này, đồng hồ trong noãn các đổ chuông, tiếng nhạc nhẹ nhàng vang lên, Trường Canh quay đầu lại, thấy đồng hồ mở ra mười hai cánh cửa nhỏ, chui ra mười hai con rối gỗ be bé, con kéo đàn, con khiêu vũ, còn có con cất giọng ca vang, hoan hoan hỉ hỉ hát hết một khúc, cúi mình chào, rồi lại quay người trở về trong cánh cửa.
Náo nhiệt đều đã kết thúc.
Sau hôm nay, Cố Quân sống những ngày còn đi sớm về khuya hơn hôm trước – ý của Hoàng đế Long An là phái y thay mặt Đại Lương, ký kết hiệp ước thông thương với sứ giả của Giáo hoàng Tây Dương, hiện tại mở một khu chợ ở biên cảnh Tây Vực, nếu thuận lợi thì lại mở rộng thương lộ hơn.
Cứ thế, y lập tức phải chuẩn bị khởi hành. Cố Quân một ngày phải mấy bận chạy qua chạy lại giữa kinh thành và Bắc đại doanh, trước khi đi còn phải giải quyết chuyện Hộ bộ, dõi chặt lượng tử lưu kim phân cho quân đội năm nay, bận tối mày tối mặt.
Ngày mười sáu tháng Giêng, Cố Quân và Thẩm Dịch như thường lệ về muộn. Đã quyết định hôm sau sẽ rời kinh, hai người có một số việc phải thương lượng, liền cùng nhau trở về hầu phủ.
Thẩm Dịch: “Sao Hoàng thượng giao cả Gia Lai Huỳnh Hoặc cho chúng ta áp giải, không sợ chúng ta nửa đường trộm làm thịt thế tử mọi rợ kia?”
Cố Quân cười khổ nói: “Hoàng thượng bác bỏ tấu chương năm nay tăng lượng tử lưu kim phân phối của ta, nói là Linh Xu viện học lén được một loại khôi lỗi mới từ người Tây, có thể trồng trọt thay con người, thần kỳ vô cùng, sản lượng có thể tăng thêm một nửa, năm nay tính phổ biến ở Giang Nam trước – Tử lưu kim lại thêm một chỗ dùng, thật sự không chia được nữa, ta có thể nói gì đây? Huyền Thiết doanh còn có thể tranh lợi với dân sao? Hoàng thượng lại nói, Huyền Thiết doanh là quốc chi lợi khí, dù thiếu ai cũng không thể thiếu chúng ta, thế nên cho chúng ta một phần mà người man cống thêm, ngươi nói ta còn dám động vào thế tử người man không?”
Ý của Hoàng đế Long An rất rõ ràng – Gia Lai thế tử rụng một sợi tóc, thì đám quái vật bằng sắt của Huyền Thiết doanh khỏi dùng tử lưu kim nữa, Cố Quân ngươi tự đẩy đi.
Thẩm Dịch nghĩ một chút, không biết nói gì, đành phải tức đến phì cười.
Hai người lướt qua thiết khôi lỗi trông cửa hầu phủ, Thẩm Dịch hỏi: “Đúng rồi, chuyện ngươi ngày mai phải rời kinh, đã nói với tứ điện hạ chưa?”
Cố Quân sờ sờ mũi.
Thẩm Dịch: “Sao?”
Cố Quân hạ giọng, rỉ tai y: “Ta nói với y là ta đi Hương Sơn với Hoàng thượng, tối mai không về, lát nữa lỡ như gặp y, nhớ đừng làm lộ.”
Thẩm Dịch trầm mặc giây lát, cảm khái: “… Đại soái, ngươi thực sự gan lắm!”
Cố Quân cũng khổ não lắm, từ khi y vô tình để lộ chuyện mình có thể phải về biên cương, Trường Canh khác thường hẳn, trước kia luyện võ chăm chỉ, hiện tại thành liều mạng, hôm trước còn làm cổ tay chấn thương, sưng như cái màn thầu, buổi chiều lại bất chấp tất cả mà đi bắn tên, dọa sư phụ dạy võ nghệ phải ngày ngày tìm Cố Quân tạ tội.
Cố Quân cảm thấy Trường Canh hơi dính mình quá, phụ tử nhà người ta cũng buồn nôn như vậy sao?
Áo bông quá ấm, làm y vã mồ hôi, thật sự là một gánh nặng thoải mái.
Hai người sóng vai đi vào hầu phủ, vừa vào cửa, lại phát hiện giờ này mà hầu phủ còn đèn đuốc sáng trưng, chưa ai đi ngủ cả.
Một tiểu nha đầu xinh như hoa từ bên trong lao ra như pháo, quay đầu lại gọi: “Đại ca đại ca, Hầu gia về rồi!”
Cố Quân sửng sốt nghĩ bụng: “Hầu phủ từ khi nào có cô nương rồi, chẳng lẽ gốc liễu đại thụ ngoài cổng đã thành tinh?”
Nhìn kỹ mới phát hiện “tiểu nha đầu” lại là Tào Nương Tử, gã ăn vận lộng lẫy như một tiểu nương tử, còn là một tiểu nương tử chuẩn bị hoan hỉ đón Tết.
Cố Quân buồn bực nói: “Các ngươi làm gì thế?”
“Trường Canh đại ca nói hôm nay là thọ thần Hầu gia, đặc ý dặn mọi người chờ ngài về đấy.” Tào Nương Tử nói, “Thẩm tướng quân cũng đến, vừa vặn có thể cùng nhau ăn mì.”
Thẩm Dịch nghe vậy đồng ý ngay: “Được, tới sớm không bằng tới đúng lúc!”
Nói xong ý tứ sâu xa nhìn Cố Quân, khéo léo dùng ánh mắt bày tỏ ý kiến – tên lừa đảo này, có áy náy không?
|
Chương 26: Cầu Phật
Thọ thần của lão nhân làm lớn, gọi là mừng thọ, sinh nhật của hài tử náo nhiệt, là lại thêm một tuổi không dễ dàng, cha mẹ thở phào nhẹ nhõm.
Cố Quân không già cũng chẳng nhỏ, bà không thương cậu không yêu, nếu y vừa vặn ở nhà, lão quản gia còn có thể nhớ sắp xếp một chút giúp y, nhưng phần lớn thời gian y đều đi vắng, chính bản thân cũng bận đến quên cả ngày mười sáu tháng Giêng.
Thực ra thì cũng chẳng có gì đáng chúc mừng cả, phố phường chú trọng “nương nương mùng một quan mười lăm”, tức là nữ sinh mùng một nam sinh mười lăm đều tốt, y vốn có thể đẻ vào đêm Nguyên tịch đại phú đại quý, lại nằm trong bụng mẹ thêm mấy canh giờ, đủ thấy là mệnh xấu trời sinh.
Tào Nương Tử chẳng những tự chải chuốt, còn cùng bọn Trường Canh lôi cả khôi lỗi hầu kiếm ra giày vò một phen.
Họ tô hai cái má hồng mộc mạc cho dạ du thần kia, không biết kiếm đâu ra mấy mảnh tơ lụa cũ rích, trói gô cánh tay sắt của nó lại.
Khôi lỗi hầu kiếm đèn hoa rực rỡ bưng một bát mì trong tay, ngơ ngác cùng Cố Quân nhìn nhau, trên khuôn mặt đen sì giống như có sự tủi thân không nói ra được.
Cố Quân thấp giọng mắng: “Quân khốn nạn, khôi lỗi hầu kiếm để các ngươi giỡn như vậy hả?”
Cát Bàn Tiểu xông lên chia công lao: “Hầu gia, má hồng là nha đầu dỏm tô, lửa nấu mì là ta nhóm, trứng gà trong mì là đại ca đập đấy!”
Cố Quân nhất thời lại có chút câu nệ, chỉ cảm thấy hầu phủ quạnh quẽ nhiều năm thoáng cái náo nhiệt đến mức y cũng có phần không nhận ra.
Trường Canh: “Nghĩa phụ, ăn mì xong rồi hẵng vào cửa.”
Cố Quân: “Được.”
Y bưng bát lên, nhìn Trường Canh một cái, cố ý vớt trứng gà ra ăn trước, miếng đầu tiên đã cắn trúng vỏ trứng cứng ngắc, nhưng y không làm ầm lên, nhai nát nuốt luôn cả vỏ, như là tám đời chưa ăn cơm, chẳng mấy chốc đã đánh sạch một bát mì, nước cũng húp hết.
Từ xưa ôn nhu hương là mộ anh hùng, Cố Quân mọi lần rời kinh đô không vướng bận, chỉ có lần này lòng đầy phiền muộn.
Khả năng là vì mỗi lần đều là “về” biên cương, chỉ có lần này là xa nhà.
Tiếc thay, đừng nói sự phiền muộn ôn nhu này, dẫu ruột gan đứt từng khúc, cũng đừng hòng giữ chân được An Định hầu.
Ngày hôm sau, Cố Quân như không có việc gì mà chuẩn bị ra ngoài, rốt cuộc không chào Trường Canh, một mình đến Bắc đại doanh, ngoảnh lại thoáng nhìn về hướng kinh thành.
Đáng tiếc, từ nơi xa như vậy, y chỉ có thể thấp thoáng trông thấy mỗi Khởi Diên lâu.
Thẩm Dịch đi đến bên cạnh y, hỏi: “Đại soái, lương tâm lên tiếng rồi à?”
Cố Quân thở dài: “Lần sau trở về không chừng lại không nhận ta nữa, ôi, cái danh nghĩa phụ này luôn lung lay chực đổ… Đi thôi.”
Huyền Thiết doanh xuất phát, tác phong nghiêm túc, phảng phất như lốc xoáy màu đen nghiền qua không lưu tình chút nào, mọi người đều không kìm được tránh xa.
Họ phải áp giải thế tử tộc Thiên Lang lên phương Bắc, rồi lại đến thẳng Tây biên, tiễu sát sa phỉ ở Tây Vực, cam đoan con đường tơ lụa có thể an toàn thông suốt.
Ngày thứ hai sau khi họ đi, Trường Canh như thường lệ dậy sớm, nhớ Cố Quân không ở nhà, lại vẫn không nhịn được dắt thiết khôi lỗi đến khoảng sân không một bóng người, một mình luyện kiếm so chiêu với nó, lại một mình ăn bữa sáng.
Trước khi đi, y ngẩng đầu lên, nhìn thấy hoa mai trong viện đã nở.
Hôm trước mới đổ tuyết, trên cánh hoa đọng một lớp sương lóng lánh, Trường Canh càng nhìn càng cảm thấy thích, liền không nhịn được bẻ hai cành, ý nghĩ đầu tiên của y vĩnh viễn là giữ lại cho Cố Quân, dù biết nghĩa phụ trong dăm ba hôm chưa chắc sẽ về, vẫn cẩn thận phẩy sương trên đầu cành, muốn tìm bình hoa bỏ vào phòng Cố Quân.
Đáng tiếc, phòng Cố Quân rộng như vậy mà so với mặt còn sạch sẽ hơn, y tìm một vòng, nhưng ngay cả bình rượu có thể cắm hoa cũng không thấy.
Trường Canh đẩy cửa sổ ra, gọi lão quản gia: “Vương bá, có bình hoa không?”
Quản gia đáp một tiếng đi tìm, Trường Canh liền cầm hai cành hoa mai ở trong phòng Cố Quân nhìn ngang ngó dọc.
Đột nhiên, ánh mắt y dừng ở đầu giường Cố Quân, thoáng sửng sốt – không thấy tấm hồ cừu giúp cả gian phòng ngủ đều có vẻ đáng giá hơn.
Lúc này, Vương bá cầm bình hoa sứ men xanh đi đến, cười nói với Trường Canh: “Tứ điện hạ, ngài xem cái này được không? Để đâu thì thích hợp?”
Trường Canh nhìn chằm chằm đầu giường trống không, hỏi: “Vương bá, tấm hồ cừu của Hầu gia sao cất sớm vậy?”
Khóe mắt Vương bá hơi giật nhẹ, có chút mất tự nhiên đáp: “Không phải Hầu gia ra ngoài với Hoàng thượng sao, chắc là mang đi rồi.”
Lòng Trường Canh từ từ chùng xuống.
Đêm Trừ tịch, huyền ưng đi theo Cố Quân từng cho y biết – Đại soái ở kinh thành chưa từng mặc quần áo mùa đông, chỉ có xuất quan gặp bão tuyết mới thỉnh thoảng lấy ra.
Hôm Trừ tịch y đã cảm thấy hơi kỳ lạ, Cố Quân đã không mặc quần áo mùa đông, thì vì sao phải treo một tấm hồ cừu ở bên ngoài? Chuẩn bị dùng làm gì? Nhưng khi đó nhốn nháo lộn xộn, y lại bị ác mộng quấy rầy, đầu óc không tỉnh táo lắm, không hề suy nghĩ cẩn thận.
Trường Canh chợt quay đầu lại, giọng khô khốc như dây cung kéo căng: “Vương bá, nghĩa phụ rốt cuộc đi đâu rồi? Ông đừng thấy ta không thích ra ngoài mà gạt, ta cũng biết Hương Sơn còn chưa xa bằng Bắc đại doanh đâu.”
Vương bá giơ bình hoa, chân tay luống cuống đứng đó.
Cố Quân làm chưởng quầy phủi tay đi sạch sẽ, mặc kệ tất cả, lão quản gia ngay từ đầu đã đoán được sớm muộn cũng có vụ này, nhưng không ngờ lại nhanh như vậy.
Trường Canh hít sâu một hơi, thấp giọng hỏi: “Y đã khởi hành rời kinh đến biên cương rồi sao? Đi đâu? Phía Bắc hay phía Tây?”
Lão quản gia xấu hổ cười xòa: “Việc quân vụ, lão nô cũng không hiểu… Điện hạ, tôi thấy Hầu gia cũng là không muốn để ngài bận tâm…”
Trường Canh “Rắc” một tiếng bẻ gãy cành hoa trong tay, ngắt từng chữ nói: “Không phải y sợ ta bận tâm, mà là sợ ta dù chết dù sống nhất định đòi đi theo thôi.”
Lão quản gia ngậm miệng.
Trường Canh tuy trên danh nghĩa là con nuôi của Cố Quân, nhưng dù không ai chào đón, chung quy vẫn mang họ Lý, tương lai tốt xấu gì cũng là một Quận vương. Lão quản gia đau đầu vô cùng, cảm thấy chủ nhân không phúc hậu nhà mình lâm trận lùi bước, ném củ khoai lang phỏng tay này cho mình, chuẩn bị sẵn sàng bị trút giận.
Nhưng đợi rất lâu mà Trường Canh không nói tiếng nào.
Những om sòm kêu gào tích tụ ra đều dồn nén trong lòng Trường Canh.
Không chỉ là vì Cố Quân đột nhiên không từ mà biệt, dù sao thì y bị Cố Quân lừa đâu chỉ một lần, sớm đã thành quen, đáng lý nên bình tĩnh.
Nhưng lần này, những bất an và nôn nóng từ khi vào kinh vẫn chất chứa trong lòng rốt cuộc kiềm chế không được, vỡ đê xô ra.
Trong lòng Trường Canh kỳ thực sáng như gương, y luôn biết rõ, sự tồn tại của mình với ai cũng là dư thừa, y vô tình bị cuốn vào, định trước là một quân cờ râu ria, sẽ như thân ở dưới con sông ngầm nơi Nhạn Hồi trấn, thân bất do kỷ bị cuốn đi.
Y lại bị sự yên vui của cảnh thái bình giả tạo những ngày qua che mắt, sinh ra lòng tham, muốn bắt lấy một chút gì đó, lừa mình dối người, cự tuyệt suy nghĩ chuyện về sau.
“Ngươi muốn gì đây?” Trường Canh để tay lên ngực tự hỏi, “Nghĩ nhiều quá rồi.”
Nhưng mặc cho trong lòng kinh đào hãi lãng, đối mặt với lão quản gia tóc bạc da mồi, Trường Canh lại không nói gì cả.
Lão quản gia nơm nớp lo sợ hỏi: “Điện hạ…”
Trường Canh im lặng lấy bình hoa trong tay ông, cẩn thận cắt sửa nhành hoa bị y bẻ gãy, cắm và đặt trên bàn Cố Quân, thấp giọng nói: “Làm phiền.”
Nói xong, y liền quay người đi ra ngoài.
Trường Canh rời khỏi phòng Cố Quân liền không nhịn được chạy đi, khôi lỗi hầu kiếm cũng bị bỏ lại.
Cát Bàn Tiểu cầm trong tay một cái hộp tử lưu kim không biết tháo từ đâu, đang đi ra ngoài, sượt qua người Trường Canh, buồn bực nói: “Ôi, đại ca…”
Trường Canh tựa hồ không nghe thấy, chạy vù qua như một cơn gió, lao vào phòng mình, trở tay khóa cửa lại.
Có một điểm Cố Quân thích nhất ở y, Trường Canh là người nhân nghĩa trời sinh, dù phẫn nộ vô cùng, y cũng không cách nào trút vào kẻ vô can, về phương diện này, Tú Nương không thể không có công, sự ngược đãi mười mấy năm như một ngày của bà ta đã luyện thành sự nhẫn nại kinh người cho y.
Đồng thời, Ô nhĩ cốt từ nhỏ chôn giấu trong thân thể thiếu niên cũng như một gốc thực vật cần tưới độc, dần dần nở ra đóa hoa dữ tợn.
Trường Canh bắt đầu không thở nổi, ngực như bị cự thạch đè lên, toàn thân căng như một cục sắt rỉ, chân không tự chủ được run rẩy.
Tai y vang ong ong, y hoảng sợ phát hiện từng đợt cảm xúc bạo ngược xa lạ từ ngực cuồn cuộn lao ra khắp nơi, vô tình siết tay thành tiếng, lần đầu tiên tỉnh táo nếm trải cảm giác bị bóng đè.
Trường Canh cảm nhận được rõ nét, trong lòng mình như có một bàn tay vô hình, đang cứng nhắc xóa hết tất cả tình cảm ấm áp.
Mới đầu, Trường Canh ý thức rõ ràng, kinh hồn táng đảm nghĩ: “Đây là Ô nhĩ cốt ư? Ta làm sao rồi?”
Rất nhanh, ngay cả hoảng sợ cũng biến mất, ý thức trở nên mơ hồ, y bắt đầu không rõ mình đang ở nơi nào, trong đầu ngàn vạn tầng suy nghĩ như thủy triều lên xuống thất thường, sát ý mông lung vô cớ sinh ra.
Y lúc thì nghĩ Cố Quân đi rồi, không cần y nữa, lúc lại phảng phất nhìn thấy Cố Quân đứng ở trước mặt, khuôn mặt không cảm xúc trào phúng sự vô năng vô lực của y.
Tất cả cảm xúc tiêu cực trong lòng Trường Canh bị Ô nhĩ cốt phát tác tăng lên trăm ngàn lần.
Giờ khắc này, Cố Quân giống như không còn là tiểu nghĩa phụ y cẩn thận nâng niu trong lòng, mà là một cừu nhân y vô cùng oán hận, gấp rút muốn bắt lấy, hung tợn làm nhục.
Trường Canh nắm chặt tàn đao đeo trước ngực, ngón tay bị tàn đao đã mài bằng góc cạnh thít ra vết máu.
Chút đau đớn rõ nét dị thường trong sự chết lặng vô hạn này đã thức tỉnh Trường Canh, y theo bản năng tìm được một đường ra, mười ngón cắm chặt vào thịt, để lại một chuỗi vết thương máu thịt bầy nhầy trên cánh tay mình.
Chờ đến khi Ô nhĩ cốt phát tác dần dần dừng lại, thì mặt trời đã ngả về Tây.
Quần áo Trường Canh ướt sũng mồ hôi lạnh, trên tay chỗ nào cũng đầm đìa máu tươi, y kiệt sức dựa vào cạnh cửa, nhìn chung đã lĩnh giáo uy lực của Ô nhĩ cốt, mới biết suy nghĩ cho rằng Ô nhĩ cốt chính là thứ gây ác mộng trước kia ngây thơ đến mức nào.
Lần này Tú Nương không thủ hạ lưu tình với y.
Đám người lão quản gia thấy y rất lâu không ra, gõ cửa cũng không đáp, đã sớm lo lắng vô cùng, quanh quẩn mãi bên ngoài, cách một hồi sẽ gọi y một tiếng.
Chút nhân khí này giúp Trường Canh dễ chịu hơn, mí mắt y chớp nhẹ, một giọt mồ hôi lạnh từ trên trán lăn xuống, rơi lên hàng mi, trĩu nặng làm y suýt nữa không mở nổi mắt: “Ta không sao, để ta yên một lúc đi.”
“Đã một ngày rồi ngài chưa ăn gì,” Lão quản gia nói, “Nếu Hầu gia ở đây, nhất định không đành lòng nhìn thấy điện hạ giày vò thân thể mình như vậy đâu – cho dù uống bát cháo cũng được, hay là lão nô bưng vào cho ngài nhé?”
Cả thể xác lẫn linh hồn Trường Canh đều mệt lử, nghe nhắc tới Cố Quân, liền im lặng đọc thầm tên y hai lần, cố xốc lại tinh thần nói: “Không sao đâu Vương bá, nếu đói, buổi tối ta sẽ tự tìm thức ăn khuya, không cần quan tâm đến ta.”
Lão quản gia nghe y nói tuy nhỏ nhưng mạch lạc lý lẽ, cũng không tiện khuyên nữa, đành phải quay người khoát tay gọi lão bộc hầu hạ Trường Canh cùng Tào Nương Tử và Cát Bàn Tiểu đang thò đầu dòm, tất cả vừa đi vừa ngoảnh lại mấy bận.
Trường Canh ngồi dựa cửa, vừa ngẩng đầu liền nhìn thấy kiên giáp Cố Quân treo ở đầu giường.
Thứ đó đen sì lạnh băng, dáng vẻ bất cận nhân tình, nhưng là nguyên chủ để lại cho y hòng xua tan ác mộng.
Không biết ngồi bao lâu, chậu than trong phòng mới dần dần làm ấm thân thể lạnh lẽo, Trường Canh đã có chút sức lực, liền bò dậy dọn dẹp lại mình, thay quần áo mới, tìm được thuốc trị ngoại thương ngày nọ luyện kiếm bị thương sư phụ cho, rửa sạch vết thương cẩn thận thoa lên, tháo kiên giáp của Cố Quân xuống ôm vào lòng, ngửa mặt ngã vật lên giường.
Y không khóc.
Có thể là không còn sức lực, cũng có thể là do vừa chảy máu.
Đã chọn đường chảy máu, thì thông thường chẳng chảy nổi nước mắt, bởi vì một người chỉ có tí tẹo nước, dù sao cũng phải nghiêng về một phương.
Trường Canh mới giao thủ một lần với kẻ địch định trước phải dây dưa cả đời, thua không còn manh giáp, cũng được biết về sự cường đại của đối phương.
Nhưng kỳ lạ là y không hề sợ hãi, như lúc ở Nhạn Hồi trấn một mình đối mặt với người man mặc trọng giáp trong phòng Tú Nương vậy.
Y luôn có thái độ ôn hòa, nhưng đừng hòng có thứ gì khuất phục được y.
A… Trừ Cố Quân ra.
Trường Canh uể oải nghĩ thầm: “Ta hận Cố Quân chết đi được.”
Sau đó y thử đeo kiên giáp của Cố Quân. Y chưa từng mặc giáp trụ, cũng không biết có vừa hay không, chỉ cảm thấy thứ này đè trên người còn nặng hơn y tưởng tượng, y khoác giáp trụ cắm đầu ngủ, trong mộng còn có ngàn vạn tầng gian nan hiểm trở chờ đợi y.
Ngày hôm sau, Trường Canh tuyên bố, y phải ra ngoài một chuyến.
Cả hầu phủ đều kinh ngạc – cảnh tượng đêm Trừ tịch tứ điện hạ bị Cố đại soái khiêng ra khỏi cửa còn mồn một trước mắt.
Cố Quân vốn nói là: “Kéo dài dăm ba hôm, đến lúc đó dù sao chúng ta cũng qua bảy đại quan đến Bắc cương rồi, y không có chỗ đuổi theo, cũng sẽ ngoan ngoãn thôi.”
Nhưng còn chưa qua dăm ba hôm, lão quản gia chỉ sợ Trường Canh muốn mình chuẩn bị ngựa để đuổi theo, vội vàng thận trọng nói: “Điện hạ, Huyền Thiết doanh không như quân đội bình thường, họ đi rất nhanh, thần tuấn ngàn dặm cũng đuổi không kịp, thêm nữa trong quân không cho người không quân tịch ở lại, đây là quy củ lão Hầu gia truyền xuống, ngài xem…”
Trường Canh bình tĩnh trả lời: “Vương bá, ta không muốn đuổi theo gây phiền, ta không phải là trẻ con chưa hiểu chuyện.”
Lão quản gia: “Thế ngài là…”
Trường Canh: “Ta muốn đến Hộ Quốc tự bái phỏng Liễu Nhiên đại sư, hôm trước đã hẹn với người ta rồi.”
Sắc mặt lão quản gia lại lần nữa một lời khó nói hết.
Mai kia Đại soái về phủ, nếu phát hiện lúc ngài vắng nhà, tiểu điện hạ lại phản quốc thông địch đến miếu hòa thượng…
Lão quản gia quả thực không dám tưởng tượng sắc mặt Cố Quân – thế có khác nào cắm sừng đâu?
Nhưng trước mắt nhiệm vụ hàng đầu là dỗ dành nghĩa tử của Hầu gia vui một chút, lão quản gia không có cách nào, đành phải cắn răng đồng ý, như lâm đại địch điểm một loạt gia tướng hộ tống Trường Canh đến Hộ Quốc tự.
Hùng dũng như tới gây sự vậy.
Liễu Nhiên hòa thượng đã pha trà, thấy Trường Canh cũng không hề ngạc nhiên, giống như sớm đoán được y sẽ đến, vui vẻ mời y ngồi xuống, rót một chén trà cho y, lại bảo tiểu sa di lấy giấy bút và chậu than dùng để hóa vàng tới, dáng vẻ như muốn bàn luận lâu.
Chẳng qua mới hơn nửa tháng không gặp, Liễu Nhiên hòa thượng phát hiện vẻ hoang mang và lo lắng trên mặt mày thiếu niên trước mắt đều đã không thấy đâu, cả người mang đến sự trầm tĩnh và kiên định có vài phần buồn bực, như con sâu hóa bướm thoát khỏi lớp kén đầu tiên.
Trường Canh cảm ơn, nhận trà uống một ngụm, suýt nữa thì sặc.
Hòa thượng này lần trước nói lấy trà ngon thết đãi, hóa ra chỉ là lời khách sáo thôi, pha cho y một chén không biết là thứ gì, đắng đến tê cả lưỡi, chẳng có tí mùi trà nào.
Trường Canh: “Cái gì đây?”
Liễu Nhiên hòa thượng cười tươi viết: “Khổ đinh, hoạt huyết sáng mắt, trừ phiền trợ miên.” (Trà khổ đinh hay qua lô còn gọi là trà đắng)
Trường Canh: “Đó không phải là qua lô sao? Ta từng uống ở hầu phủ rồi, hình như…”
Vị không có buồn nôn như thế này.
Liễu Nhiên: “Đó là lá nhỏ, đây là qua lô lá to.”
Lá to nghe hơi lợi hại, Trường Canh vừa định khen vài câu, liền thấy hòa thượng kia thành thật viết: “Lá to rẻ hơn.”
Trường Canh: “…”
Y ngắm nghía bát trà của hòa thượng, bát là loại tốt, rửa cũng rất sạch, đáng tiếc dùng quá lâu, khó tránh khỏi va chạm, đã bị mẻ vài cái.
Liễu Nhiên hòa thượng: “Tăng xá thô lậu, điện hạ thứ lỗi.”
Cả kinh thành đều để lại cho y một ấn tượng ngợp trong vàng son, giống như mọi người đều rất giàu, khắp thành toàn là trò tiêu khiển xa xỉ, người Tây Dương nói gạch trải ở đế đô Đại Lương được dát vàng, kỳ thực không khoa trương lắm.
Nhưng chẳng hiểu vì sao, mấy kẻ Trường Canh biết đều là quỷ nghèo, Thẩm Dịch không cần phải nói, trời sinh khuôn mặt khổ qua khốn cùng của nhiều thế hệ bần nông, rồi còn Cố đại soái, tọa ủng một hầu phủ to đùng, nhưng chỉ là cái xác rỗng, sáng sớm mùng một đã vội vã dẫn Trường Canh vào cung tìm Hoàng thượng đòi tiền, hiện giờ lại thêm một Liễu Nhiên hòa thượng dùng bát mẻ.
Trường Canh nói: “Hộ Quốc tự đèn nhang thịnh vượng, đại sư lại an trong thanh bần, quả nhiên là người xuất thế tu hành.”
Liễu Nhiên cười cười, viết: “Hòa thượng vào nam ra bắc, nghèo túng đã quen, thất lễ với quý nhân rồi.”
Trường Canh hỏi: “Ta nghe nói đại sư còn từng ngồi thiết giao đến phiên bang Tây Dương, là để tuyên truyền Phật pháp sao?”
Liễu Nhiên: “Ta tài sơ học thiển, không dám bắt chước cao tăng vân du thời cổ, đi xa chỉ để xem thế giới tứ phương, xem con người thôi.”
Trường Canh lại ngậm một ngụm khổ đinh, càng thưởng thức càng đắng, không hề thấy vị ngọt, đành phải thất vọng nuốt xuống: “Ta từ nhỏ lớn lên ở tiểu trấn biên thùy, chưa từng rời khỏi mảnh đất một mẫu ba của tiểu trấn, đến kinh thành, lại ít ra khỏi hầu phủ, có phải là quá an phận trong một góc không? Nhưng ta luôn cảm thấy hỉ nộ ai lạc trên đời này đại để là giống nhau, nhìn người khác rồi, vẫn chẳng có chỗ đặt mình.”
Liễu Nhiên: “Lòng có một góc, thì phiền não bằng căn phòng chỉ có thể chen trong một góc, lòng có tứ phương thiên địa, phiền não như núi cũng chẳng qua là giọt nước trong biển cả.”
Trường Canh nghe vậy, sửng sốt hồi lâu, nhìn Liễu Nhiên hòa thượng từ từ nhét tờ giấy đã viết chữ vào chậu than đốt sạch.
“Đại sư, ngày đó ngài nói với ta, ‘không biết khổ đau, không tin thần phật’, hiện giờ ta đã biết khổ đau, đến xin thần phật chỉ dạy, liệu có thể nhờ ngài chỉ điểm bến mê hay không?”
|
Chương 27: Bỏ trốn
Trong minh minh, có lẽ có thần linh không biết tên nào đó nhắc nhở Cố đại soái đang xa tận cuối trời, cho y biết con trai y sắp bị một con lừa trọc dụ đi rồi, tóm lại sau khi Huyền Thiết doanh xuất phát một tháng, Cố Quân lúc viết tấu cho Hoàng thượng, vậy mà còn nhớ thuận tiện cho Trường Canh một phong thư nhà.
Nét chữ quen thuộc Trường Canh từng nhiều lần phỏng theo lưu loát viết mấy trang, thoạt tiên ngôn từ khẩn thiết nhận lỗi, sau đó lại lấy lý lẽ thuyết phục, tình cảm lay chuyển, khai rõ nguyên nhân mình không từ mà biệt, cuối cùng thẳng thắn bày tỏ nỗi nhớ nhung, hơn nữa hứa hẹn, nếu Tây Bắc bình an vô sự, cuối năm y nhất định về hầu phủ đón Tết.
Trường Canh xem từ đầu đến cuối, mỉm cười bỏ sang một bên, bởi vì dùng đầu ngón chân mà nghĩ cũng biết, phong thư này nhất định không phải xuất từ tay An Định hầu.
Mấy lời buồn nôn như “biệt ly ngàn dặm, cả đêm trằn trọc”, “ăn nhiều mặc ấm, chớ lo cho ta” gì đó, căn bản không thể nảy mầm trong cái đầu đất của Cố Quân được, sự dông dài giữa những hàng chữ vừa nhìn đã biết là Thẩm Dịch viết thay.
Nghĩa phụ khốn nạn cùng lắm là chép lại thôi.
Thế nhưng Trường Canh bi ai phát hiện, trong lòng hiểu rõ như vậy, song vừa nghĩ đến những chữ này thật sự chảy ra từ ngòi bút trong tay Cố Quân, y vẫn không nhịn được khắc mỗi một chữ vào mắt.
Đáng tiếc, Cố Quân đã nuốt lời.
Cố Quân tự biết thẹn, lần này tống cổ Thẩm Dịch tùy tiện thay mặt y hứa hẹn, tự mình cầm đao, viết một phong thư dài lê thê cho Trường Canh. Trường Canh xem xong giận đến bật cười, tuy cảm thấy phong thư nhà này còn rất chân thành – nhưng Cố Quân thật sự không có thiên phú dỗ dành ai, rõ ràng là đang đổ dầu vào lửa mà.
Cố đại soái thoạt tiên tam chỉ vô lư kể một đống việc vặt y tự cho là thú vị, hạ bút ngàn câu, lạc đề vạn dặm, đến cuối cùng mới dùng bốn chữ “quân vụ bận rộn” sáo rỗng để khái quát nguyên nhân y không thể về kinh.
Trường Canh không quan tâm bọ cạp ở đại mạc nướng ăn ngon thế nào, nhưng y trước sau tìm mấy lần, thủy chung không tìm ra một câu y quan tâm nhất – Cố Quân năm nay không về, vậy khi nào thì về được?
Nhưng sau “quân vụ bận rộn” chẳng còn gì nữa, chỉ kèm thêm một danh mục quà tặng dài thườn thượt mà thôi.
Có thể là Cố Quân cảm thấy xin lỗi trên ngôn ngữ không đủ chân thành, bèn dùng hành động để bày tỏ – y chở hết những món đồ tốt kiếm được trong năm nay về hầu phủ, toàn bộ cho Trường Canh cả, châu quang bảo khí, đầu thừa đuôi thẹo, vân vân và vân vân.
Hôm ấy, Trường Canh mười lăm tuổi nhốt mình trong phòng, cùng một thanh đoản đao Lâu Lan do Cố Quân tặng, chịu đựng một lần Ô Nhĩ Cốt phát tác, tiếp đó có một quyết định – y không muốn ở lại hầu phủ như một kẻ bỏ đi, không muốn theo lão phu tử và sư phụ dè dặt học văn chương và võ nghệ trên giấy, y muốn tự mình đi thăm thú thế giới bên ngoài.
Mùng một Tết, Trường Canh một mình theo Chúc Chân Nhỏ đến từ trong cung đi chúc tết Hoàng thượng cho có lệ.
Sau đó y ở lại hầu phủ đến ngày mười sáu tháng Giêng, bảo nhà bếp nấu một bát mì trường thọ, bưng về phòng một mình ăn hết, và rồi bình tĩnh tuyên bố một quyết định khiến hầu phủ trên dưới ồ lên.
Trường Canh nói: “Ta định đến Hộ Quốc tự ở một thời gian.”
Nói xong, y nhìn lão quản gia vẻ mặt xanh mét, lại bổ sung: “Vương bá yên tâm, ta không xuất gia, chỉ muốn theo Liễu Nhiên đại sư tu hành một thời gian, tiện thể cầu phúc cho nghĩa phụ luôn.”
Lão quản gia: “…”
Ông còn có thể nói gì đây? Đành phải chuẩn bị tiền nhang đèn, nén cơn đau ngực, phái người đưa bọn Trường Canh, Cát Bàn Tiểu và Tào Nương Tử đến Hộ Quốc tự.
Năm này, lão quản gia hầu phủ cảm thấy đại môn sâm nghiêm uy vũ nhà mình không chừng là bị vu cổ man di gì đó nguyền rủa rồi, vào cửa này, bất kể là đứa trẻ nhà đẻ hay nhận từ bên ngoài, đứa nào cũng khó đối phó hết. Lão quản gia đến nay còn nhớ rõ dáng vẻ hoảng sợ của Cố Quân lúc nhỏ, y giống như một chú sói con từng bị tổn thương, không phân trắng đen cừu thị mọi người xung quanh.
Vị kia chẳng dễ dàng gì trưởng thành trong mấp mô, có thể đỉnh môn lập hộ rồi.
Lại tới một vị càng khó đoán hơn.
Cố Quân đi rồi, Trường Canh liền suốt ngày chạy tới Hộ Quốc tự.
Thích chơi với ai không được mà suốt ngày chui vào chùa? Tứ điện hạ Lý Mân thật sự không ra cửa thì thôi, vừa ra khỏi cửa là mục đích không tầm thường.
Lão quản gia trăm mối lo, mỗi ngày đều lo lắng Trường Canh muốn quy y.
Nhưng ông biết, thiếu niên mười lăm mười sáu tuổi là không nghe người già khuyên nhất, huống chi Trường Canh không phải do ông nuôi nấng lớn lên, lão quản gia không dám can thiệp quá nhiều, đành phải chạy đi xúi bẩy Tào Nương Tử và Cát Bàn Tiểu.
Tào Nương Tử vừa nghe đã trợn rớt hết phấn son trên mí mắt, nổi giận nói: “Cái gì? Con lừa trọc kia muốn dụ dỗ Trường Canh đại ca của cháu xuất gia?”
Nam tử ngoại hình đoan chính trên thế gian như lông phượng sừng lân, Đại soái nói đi là đi, đến bây giờ ngay cả bóng cũng chẳng thấy đâu, bên cạnh gã chỉ còn lại Trường Canh. Trường Canh tới tuổi này rồi, còn hữu kinh vô hiểm không có dấu hiệu xấu đi, là không dễ dàng biết mấy, vậy mà còn có nguy cơ biến thành đầu trọc, Tào Nương Tử lập tức thành minh hữu của lão quản gia.
Ngày hôm sau, gã đặc ý thay nam trang, mặt dày mày dạn nhất định đòi theo Trường Canh đi chiêm ngưỡng phật môn thánh địa, trước khi đi xắn tay áo làm thủ thế chí tại tất đắc với đôi thiết khôi lỗi ở cửa.
Thiết khôi lỗi không thông nhân tính, đờ đẫn nhìn chằm chằm bóng lưng uốn éo lạ lùng như xà tinh của gã.
Thế nhưng, đêm ấy từ Hộ Quốc tự trở về, Tào Nương Tử liền không nhắc tới chuyện “bắt yêu tăng kia hiện hình” nữa, đồng thời từ đây nghĩa vô phản cố gia nhập đội ngũ mỗi ngày tham ngộ Phật pháp – lý do không ngoài “yêu tăng” kia quá tuấn tú.
Đại soái tuy cũng tuấn tú, đáng tiếc quá có tính công kích, không thể im lặng ngồi đó mặc người ta thưởng thức. Liễu Nhiên đại sư thì khác, Tào Nương Tử cho rằng hắn quả thực chính là một đóa ưu bát la đi giữa chốn nhân gian, nếu để vào chậu cảnh, nhất định có thể lưu danh muôn đời, nhìn hắn thêm một cái có thể vui vẻ thoải mái mấy ngày liền.
Lão quản gia không biết Liễu Nhiên hòa thượng bỏ thuốc gì cho hai tên này, đành phải tìm đến Cát Bàn Tiểu.
Cát Bàn Tiểu việc nghĩa không thể chối từ, cũng đi theo.
Vài ngày sau, Cát Bàn Tiểu cũng phản chiến nốt.
Bởi vì Liễu Nhiên hòa thượng chẳng những chỉ biết đọc kinh, còn hết sức tinh thông nhiều loại hỏa cơ và khôi lỗi sử dụng tử lưu kim hiện có, Cát Bàn Tiểu thậm chí từng gặp người của Linh Xu viện ở chỗ hắn.
Cát Bàn Tiểu nằm mơ cũng muốn lái cự diên lên trời không nói hai lời trực tiếp quỳ mọp dưới đài sen của hòa thượng.
Năm này qua đi, lão quản gia kỳ thực cũng quen với việc bọn Trường Canh suốt ngày chạy vào miếu hòa thượng, mới đầu không hề để tâm lắm.
Nào ngờ tứ điện hạ tốt không học đi học cái xấu, vừa đến Hộ Quốc tự thì hôm sau đã noi theo Cố Quân, chơi trò kim thiền thoát xác, không từ mà biệt.
Y trước đó dặn dò thị vệ đi theo, mình phải cùng Liễu Nhiên đại sư đóng cửa thanh tu một thời gian, bảo những kẻ không liên quan không được quấy rầy, thị vệ đương nhiên cũng không dám quấy rầy thật, chỉ canh ngoài cửa.
Đêm ấy, Trường Canh liền dẫn theo hai tên lâu la ăn cây táo rào cây sung, theo Liễu Nhiên đại sư đi Giang Nam du ngoạn.
Chờ qua vài ngày bọn thị vệ nhận thấy bất thường đi tìm người, thì trong thiền phòng chỉ còn lại một lá thư nhẹ tênh.
Lão quản gia khóc không ra nước mắt, đành phải vừa nhờ người tấu lên Hoàng thượng, vừa phái người truyền tin cho Cố Quân.
Hoàng thượng nghe chuyện rất rộng lượng, thứ nhất hắn cũng chẳng quan tâm đệ đệ hời này lắm, thứ hai hắn sùng tín Phật giáo, mù quáng tín nhiệm Liễu Nhiên hòa thượng, nghe nói Trường Canh đi theo du lịch, còn sinh ra vài phần hâm mộ – chỉ hận mình bị tục vật trói buộc, không thể đi theo hưởng sái cao tăng.
Bên phía Cố Quân càng là ngoài tầm tay với, không trông chờ được, nghe nói Tây Vực sa phỉ quá nhiều, y cả ngày không biết truy đuổi sa phỉ đến nơi nào, tín sứ cho dù đã đến Tây Lương quan, nếu muốn lập tức tìm được Cố soái, cũng hoàn toàn cần nhờ vận may.
Liễu Nhiên tuy là một cao tăng nhưng rất ít giảng kinh, cũng chưa từng nói những Phật pháp và kệ ngữ khó hiểu đó, phần lớn thời gian đều là mặt đối mặt bút đàm một số kiến thức dân gian, là một hòa thượng, hắn có vẻ không tu hành đàng hoàng, thậm chí có chút quá nhập thế. Hắn thậm chí hết sức đại nghịch bất đạo nói vài chuyện thời sự, nhưng thường là viết xong đốt luôn. (Các bài thơ của Phật gọi là kệ)
Hơn nửa tháng sau, trong một quán trà nho nhỏ ở Giang Nam, ba thiếu niên cùng một hòa thượng ngồi quanh một bàn.
Giang Nam đã bắt đầu cày bừa vụ xuân, nhưng phóng tầm mắt trông đi, trên đồng ruộng lại không thấy mấy người làm việc, vài ba lão nông đội mũ, vô công rồi nghề từ đằng xa nhìn thiết khôi lỗi lao động.
Không như khôi lỗi hầu kiếm và thủ vệ hầu phủ toàn là sát khí, thiết khôi lỗi trồng trọt trong hạnh hoa yên vũ này không hề hình người, chúng như một chiếc xe nhỏ, đi qua đi lại ngoài đồng, đội cái đầu trâu đẽo bằng gỗ, có vẻ hết sức ngây thơ.
Đây là đợt khôi lỗi trồng trọt đầu tiên triều đình phát xuống, làm thử ở vùng Nam Kinh trước.
Cát Bàn Tiểu lúc còn ở Nhạn Hồi tiểu trấn đã có hứng thú không bình thường với mớ đồng nát trong tay Thẩm Dịch, nhìn chúng mà hai mắt tỏa sáng.
Liễu Nhiên gõ bàn, kéo sự chú ý của bọn Trường Canh tới, sau một năm, bọn Trường Canh đã có thể hiểu thủ ngữ của hắn, hòa thượng cũng không cần viết từng chữ từng câu nữa.
“Khôi lỗi cày cấy phổ biến ở Giang Nam ta từng thấy ở Tây Dương rồi, một khôi lỗi có thể dễ dàng lo liệu một mẫu đất, tuy vẫn cần đốt một ít tử lưu kim, nhưng qua vài lần thay đổi, than đá đã đủ cho phần lớn động lực, như thế phí tổn sẽ rất thấp, nghe nói một khôi lỗi còn tiết kiệm hơn đèn chong.”
Cát Bàn Tiểu: “Thế đương nhiên là tốt, sau này chẳng phải cày cấy làm việc đều không cần thức khuya dậy sớm nữa?”
Thiết khôi lỗi thử nghiệm là triều đình phát cho Nam Kinh, các lão gia hương thân đều tự đăng ký rồi lĩnh đi, phụ trách việc bảo dưỡng về sau. Điền hộ muốn tự trồng trọt thì tự trồng, không muốn thì nhường mảnh đất mình thuê cho khôi lỗi, năm sau đến mùa thu hoạch thêm một phần địa tô, trả cho lượng tử lưu kim và than đá khôi lỗi dùng.
Năm đầu rất ít người làm, do phải thêm một phần tiền tô, nhưng năm thứ hai đã mở rộng – lão bách tính đã nhận ra, thứ này quả thật dùng tốt hơn người, dù tăng tô thì số lương thực còn lại trong tay vẫn nhiều hơn trước kia, còn khỏi cần thức khuya dậy sớm vất vả làm việc, chuyện tốt như thế ai mà không chịu?
Bấy giờ mới có thịnh cảnh đồng ruộng Giang Nam không thấy bóng người.
Liễu Nhiên chỉ cười không nói.
Trường Canh bỗng nhiên nói: “Ta trái lại cảm thấy chưa chắc là việc tốt – nếu thiết khôi lỗi có thể hoàn toàn thay thế người, thì còn cần người làm gì? Đất điền hộ thuê cũng là của hương thân lão gia, mấy năm đầu lão gia niệm tình cũ, bằng lòng nuôi những nhàn hán này, nhưng có thể nuôi họ bao nhiêu năm đây?”
Cát Bàn Tiểu si mê các loại hỏa cơ, ngày nghĩ gì đêm mơ đó, lập tức tiếp lời: “Họ có thể lưu lại làm trường tý sư!”
Tào Nương Tử: “Việc này ta biết, trong một Nhạn Hồi thành tất cả cương giáp thủ quân cộng lại, chỉ cần hai trường tý sư là đủ rồi, khi đó họ cũng chỉ thỉnh thoảng bận quá, mới đi tìm Thẩm tiên… Thẩm tướng quân, không dùng nhiều trường tý sư như vậy đâu.”
Cát Bàn Tiểu: “Họ có thể đi tìm việc khác mà làm, thí dụ như…”
Thí dụ như cái gì, gã nhất thời không nói được, cuộc sống của nhà đồ tể năm đó dù sao cũng thoải mái, trong mắt Cát Bàn Tiểu thì trừ trồng trọt ra, trên đời còn khối việc để làm.
Tào Nương Tử khó khăn kéo tầm nhìn khỏi mặt Liễu Nhiên, hỏi: “Như vậy, nếu mọi người đều không tìm được việc để làm, hoặc là đại đa số không tìm được việc để làm, họ sẽ tạo phản chứ?”
Liễu Nhiên hạ mắt nhìn gã, mặt Tào Nương Tử thoáng cái chín luôn.
Liễu Nhiên ra dấu: “Mấy năm nay thì chưa.”
Ba thiếu niên trầm mặc một hồi, Trường Canh hỏi: “Là vì nghĩa phụ ta à?”
Liễu Nhiên mỉm cười nhìn y một cái.
“Ta nhớ đêm Trừ tịch năm trước, con hổ của người Tây Dương chạy ra, cả con đường loạn hết lên, nhìn thấy nghĩa phụ ta mới chịu yên.” Trường Canh dừng một chút, nói, “Sau đó nghe người ta nói, lân cận Khởi Diên lâu người đông nghìn nghịt, nếu không phải nghĩa phụ ổn định dòng người, dù là giẫm cũng có thể giẫm chết rất nhiều người.”
Liễu Nhiên ra dấu: “Ta một mình dẫn điện hạ ra ngoài, đã đắc tội to với An Định hầu, mai kia sự việc bại lộ, mong điện hạ ở dưới đao Hầu gia giữ cho hòa thượng một cái mạng nhỏ.”
Cát Bàn Tiểu và Tào Nương Tử đều bật cười, cho rằng Liễu Nhiên hòa thượng đang nói đùa – dù sao thì trong ấn tượng của họ, Cố Quân luôn vui vẻ hòa nhã.
Liễu Nhiên hơi cười khổ, nhảy qua đề tài này, tiếp tục ra dấu: “Dân gian đến nay có truyền thuyết lão Hầu gia dùng Huyền Thiết ba mươi người đã khiến Bắc Lang cúi đầu, đều nói Huyền Thiết doanh là thần binh thần tướng, có thể lên trời xuống đất, đao thương bất nhập, có Huyền Thiết doanh cây xà chắc này trấn giữ, bọn bạo đồ phạm thượng tác loạn ở dân gian tuy có, nhưng thủy chung khó thành quy mô.”
Trường Canh ngồi thẳng dậy: “Nhưng ta nghe nói, nếu muốn dỡ nhà, chuyện đầu tiên chính là đập xà.”
Liễu Nhiên nhìn thiếu niên trước mặt, nếu Cố Quân trở về, có lẽ sẽ không nhận ra Trường Canh, chỉ trong một năm ngắn ngủi mà y đã cao vọt lên mấy tấc, nét trẻ con trên mặt đã mất sạch.
Thiếu niên đêm Trừ tịch năm đó ra ngoài một chuyến cũng phải ngứa ngáy da đầu, hiện giờ lại ngồi ở quán trà vùng nông thôn Giang Nam, cùng hòa thượng tán chuyện dân sinh.
Liễu Nhiên: “Điện hạ không cần bận tâm, những việc này, trong lòng Hầu gia đã sớm biết rõ.”
Trường Canh nhớ tới bức “thế bất khả tị” trong phòng Cố Quân, hơi ngẩn người, nỗi nhớ mong bỗng trỗi lên trong lòng như vỡ đê, y lặng lẽ ngồi đó chốc lát, mặc nhớ nhung dâng trào, đoạn cười khổ bưng chén trà giữa bàn lên một ngụm uống cạn.
Mà Cố Quân đang được Trường Canh nhớ nhung lúc này còn ở giữa đại mạc mờ mịt vùng Tây Vực, giằng co với bọn sa phỉ quy mô lớn nhất ở địa phương hơn một tháng rồi.
Tây Lương quan từ lâu đã không còn sự tiêu điều năm đó. Từ sau khi Đại Lương và Giáo hoàng ký Hiệp ước Tây Lương quan, cả tuyến Tây Lương quan quả thực thành một mảnh phong thủy bảo địa tụ tài, thương nhân và du khách nhanh chóng tụ lại, dân cư mấy trấn tăng vọt, người Tây Dương, người Trung Nguyên và người của tiểu quốc dọc tuyến Tây Vực hỗn cư, cơ hồ phải trong ngươi có ta, trong ta có ngươi.
Lâu Lan ở ngay lối vào con đường tơ lụa bởi vậy càng thành yếu địa thông thương, nhanh chóng từ một tiểu quốc chưa có tiếng tăm biến thành vùng đất trù phú.
Người Lâu Lan nhiệt tình vui vẻ, an cư lạc nghiệp, không thích kiếm chuyện, năm đó Tây Vực phản loạn cũng không liên quan tới người ta, quan hệ với Đại Lương vẫn hết sức hữu hảo, Hoàng thượng liền đặc ý đặt lối vào con đường tơ lụa ở nơi này.
“Đại soái, bên phía Tiểu Giả đã hạ được lũ giặc cỏ đó, ra tay chứ?”
Cố Quân: “Thế còn chờ gì nữa? Bắt tên đầu sỏ, buổi tối chúng ta đến chỗ Lâu Lan vương tử ăn chực!”
Nói xong, y ấn nhẹ mí mắt.
Thẩm Dịch: “Có phải là mắt ngươi lại…”
“Không,” Cố Quân làu bàu một câu, “Mí mắt cứ giật suốt, có thể…”
Y chưa dứt lời thì một thân vệ đột nhiên đi tới, lấy từ trong lòng ra một phong thư: “Đại soái!”
Cố Quân: “Ồ, ở đâu vậy?”
Thân vệ: “Thư nhà từ hầu phủ, đưa đến Tây Lương quan, gia nhân mãi không tìm được ngài, mới nhờ người Lâu Lan đưa tới.”
Không chừng là Trường Canh hồi âm.
Cố Quân nghĩ vậy, thuận tay mở ra xem, rất chờ mong.
Sau đó Thẩm Dịch liền nhìn thấy Cố Quân biến sắc.
Thẩm Dịch: “Sao vậy?”
“Tên lừa trọc Liễu Nhiên này, tốt nhất đừng rơi vào tay ta.” Cố Quân âm trầm nói, đoạn y chắp tay sau lưng đi vài vòng trong soái trướng như ruồi không đầu, một cước đạp lật bàn, “Điều cho ta mấy huyền ưng, Quý Bình, việc bên này ngươi tạm thời lo thay ta.”
|
Chương 28: Giang Nam
Thẩm Dịch: “Cái gì?”
Cố Quân: “Ta phải đi Giang Nam một chuyến.”
Thẩm Dịch la lên một tiếng: “Ôi… Á, cằm rớt trúng chân, đau chết ta rồi – Ngươi điên à? Chủ soái thủ quân Tây Bắc tự tiện bỏ đến Giang Nam, ngươi muốn tìm chết hay muốn tạo phản hả!”
Cố Quân bình tĩnh trả lời: “Hôm nay đánh hang ổ của lũ bọ cạp, ít nhất phải được thái bình trong dăm ba tháng, với cước trình của Huyền ưng, một hai ngày là có thể đến Giang Nam, tìm được người là ta về thôi, không nán lại lâu đâu.”
Thẩm Dịch dồn khí xuống đan điền, bắt đầu chuẩn bị cho trường thiên đại luận thao thao bất tuyệt, song chưa kịp nói ra thì Cố Quân đã thụi ngay vào bụng.
Thẩm Dịch “Á” một tiếng cong lưng như tôm: “Ta còn chưa nói gì mà!”
Cố Quân: “Phải phòng trước chứ.”
Đêm ấy, mười ba huyền kỵ nhất cử tróc nã đầu lĩnh sa phỉ cùng lũ tay chân đọ sức đã lâu ẩn sâu trong đại mạc, Cố Quân nghe báo, phân phó một câu “giam giữ”, sau đó không kịp nghỉ ngơi, đi ngay trong đêm.
Ban Nga Đa vương tử Lâu Lan đã chuẩn bị sẵn rượu thịt, đang chờ tẩy trần cho Huyền Thiết doanh, vừa đến lại nhìn thấy Cố Quân tâm trạng bực bội thay huyền ưng giáp.
Lâu Lan quốc nằm ở trọng địa lối vào con đường tơ lụa, là con của sa mạc, cũng hết sức thống hận sa phỉ hoành hành, dần dà, họ thành người dẫn đường tốt nhất cho Huyền Thiết doanh tung hoành sa mạc tiễu phỉ, song phương quan hệ khá tốt.
Người Lâu Lan giỏi ca múa, đặc biệt thích mỹ tửu, cả nam nhân lẫn nữ nhân đều là tửu quỷ, vương tử là tửu quỷ trong tửu quỷ.
Cố đại soái binh pháp khó lường hay võ nghệ siêu quần, với hắn mà nói đều không đáng kích động, duy chỉ tửu lượng dùng rượu mạnh giải khát của Cố Quân, Ban Nga Đa tán thưởng không thôi. Hắn tự phong mình là “bạn nhậu” của Cố đại soái, làm hết sức tận chức tận trách.
Ban Nga Đa dùng nhịp điệu như xướng du trên sa mạc ngân nga hỏi Cố Quân: “Cố đại soái, sao hôm nay đi nhanh như mây cuối trời vậy, muốn đi truy tìm cô nương như tịch dương à?”
Thẩm Dịch: “…”
Cô nương như tịch dương là cô nương gì? Vừa đỏ vừa tròn hả?
Cố Quân: “Ta đi chém người.”
“Ồ!” Ban Nga Đa xách hai vò rượu thoáng sửng sốt, đoạn buồn bực nói, “Vừa chém xong lại chém nữa hả?”
“Chẳng lẽ ăn sáng xong thì ngươi sẽ không ăn tối nữa?” Cố Quân đằng đằng sát khí quát, “Tránh ra!”
Mấy huyền ưng như bóng tối bay vút tới, mũi chân điểm nhẹ mặt đất, hạ xuống phía sau Cố Quân, chớp mắt liền như gió xoáy cuốn qua, vô tung vô ảnh, chỉ còn lại làn khói trắng vấn vít, thành một đường cong đẹp đẽ trên không trung.
Ban Nga Đa nhìn theo bóng lưng y, đầy sùng kính hỏi Thẩm Dịch: “Đại soái một ngày phải chém người ba lượt cơ à?”
Thẩm Dịch vẫy tay ra hiệu cho hắn đưa tai lại, thì thào: “Nhi tử bị người ta dụ dỗ bỏ trốn.”
Ban Nga Đa cẩu hùng ôm tim: “A! Thế nhất định là một cô nương như trăng rằm rồi!”
Thẩm Dịch: “… Không, hắn chỉ có cái gáy như trăng rằm thôi.”
Để lại Ban Nga Đa vương tử buồn bực sờ gáy mình, Thẩm Dịch tâm sự nặng nề quay về, đi hai bước thì y đột nhiên biến sắc – gay rồi, Cố Quân đi gấp gáp như vậy, rốt cuộc có mang thuốc theo không?
Giang Nam dùng một cơn mưa bụi không ướt áo nghênh đón Cố Quân gió cát đường xa, y nghỉ ngơi chốc lát, rồi trực tiếp dẫn người giết đến phủ của Án sát Ứng Thiên Diêu Trấn.
Theo thân phận của Cố Quân, vốn không nên có giao tình gì với quan địa phương Giang Nam, trong đây liên quan đến vài chuyện từ ngày xưa.
Cố Quân mười lăm tuổi lần đầu tiên tùy quân tiễu phỉ, cứu mấy kẻ xúi quẩy bị hãn phỉ bắt – Diêu Trấn năm đó bị người hãm hại bãi quan về nhà chính là một trong số này, sau đó Diêu Trấn có chút thủ đoạn, có thể khởi phục, nhậm chức Án sát Ứng Thiên, xem như là quân tử chi giao với Cố hầu gia, đạm đạm, không liên quan đến lợi ích, nhưng vẫn liên hệ suốt.
Diêu đại nhân hôm nay vừa vặn được nghỉ, ngủ đến khi mặt trời lên cao ba sào còn chưa chịu dậy, chợt nghe gia bộc tới báo, giật nảy cả người.
Diêu Trấn: “Hắn nói hắn là ai?”
Gia bộc nói: “Hắn nói hắn họ Cố, Cố Tử Hi.”
“Cố Tử Hi,” Diêu Trấn lau ghèn ở khóe mắt, nói vẻ thành khẩn, “An Định hầu Cố Tử Hi? Ta còn là thủ phụ đương triều đây – hạng lừa đảo này mà ngươi cũng tin, đuổi đi!”
Gia bộc vâng dạ, dợm bước tính đi.
“Từ từ!” Diêu Trấn ôm chăn ngồi dậy, cân nhắc giây lát, “… Khoan đã, để ta đi xem thử.”
Hắn phúc chí tâm linh, không biết cớ làm sao mà bỗng nhiên cảm thấy tự tiện bỏ việc có lẽ thật sự là chuyện Cố Quân làm được.
Lúc này, Liễu Nhiên hòa thượng vừa vặn đang ở phủ Ứng Thiên còn chưa biết đại họa sắp sửa giáng xuống đầu mình.
Hòa thượng này ki bo ra thiện ý.
Một đại tử hắn phải bẻ làm đôi mà tiêu, có gian miếu đổ ở tạm thì tuyệt không ở khách ***, từ sáng đến tối ăn rau ăn dưa, muốn ăn ngon một bữa thì phải dựa vào hóa duyên – tục gọi là xin cơm. (Đại tử là một loại tiền ngày xưa bằng 2 đồng tiền thường)
Bản thân không tiêu, cũng quyết không cho bọn Trường Canh tiêu, may mà ba thiếu niên choai choai này đều chịu khổ được, có thể theo hắn bữa đói bữa no lang bạt kỳ hồ.
Liễu Nhiên đi cực kỳ tùy tính, đôi khi dẫn bọn Trường Canh đi khắp hang cùng ngõ hẻm giữa phố phường, đôi khi men theo đồng ruộng mà đi bộ không mục đích, hóa duyên không lựa chọn, từng đến nhà hương thân thiện nhân, cũng từng qua nhà điền hộ tầm thường, gặp đâu xin đó.
Có một lần đến nhà một cụ già góa vợ không con, thấy người ta thật sự đói rã họng, chẳng những không xin cơm, ngược lại còn cho ít tiền bạc.
“Thịnh thế an khang cũng có người chết đói chết cóng, thịnh thế bấp bênh cũng có vinh hoa phú quý,” Liễu Nhiên xuyên qua khu chợ trên tiểu trấn, ra dấu nói với bọn Trường Canh, “Hai chữ ‘thế đạo’ đáng lý nên chia làm hai, ‘đạo’ là lòng người hướng về, ‘thế’ chính là một hạt gạo dưới vạn gia đăng hỏa, một hòn gạch trong vạn dặm thành quách.”
Trường Canh: “Đại sư lẽ ra phải là người xuất thế, nhưng nói đến ‘thế’ cũng rõ ràng đâu ra đấy.”
Trường Canh cơ hồ còn cao hơn Liễu Nhiên hòa thượng, giọng đã hoàn toàn mất đi sự trong trẻo của thiếu niên, có một chút trầm thấp, nói chuyện không nhanh không chậm, có vẻ rất vững vàng.
Y vốn thích thanh tĩnh, ngày trước vừa thấy đám đông là toàn thân khó chịu, tiếp xúc với người xa lạ vĩnh viễn đều cảm thấy không quen, không biết nên nói gì, nhưng lúc này bất tri bất giác đã tu luyện ra bản lĩnh đi đến đâu cũng như dạo chơi sân vắng vậy.
Có thể là vì y có ý định đập nồi dìm thuyền, một chút không tình nguyện cỏn con, tự nhiên liền biến thành việc nhỏ.
Liễu Nhiên cười cười, thản nhiên ra dấu: “Hòa thượng nếu không biết thế đạo, còn mặt mũi nào tự xưng đang ở thế ngoại?”
Liễu Nhiên hòa thượng có khuôn mặt rất có thể dọa người, rửa sạch như cao tăng xuất trần, vài ngày không tắm như cao tăng lịch kiếp, đầu trọc ánh chiếu Phật quang chói lọi, trong mắt vĩnh viễn chứa một đầm nước chuẩn bị phổ độ chúng sinh – nếu hắn đối với vật ngoài thân là anh tiền vuông hào phóng hơn một chút, bọn Trường Canh thật sự muốn thừa nhận hắn là một cao tăng từ đầu đến chân.
Bỗng nhiên, Tào Nương Tử cắt ngang cao tăng, hạ giọng nói: “Đừng nói chuyện thiền cơ nữa, Trường Canh đại ca, huynh không phát hiện có rất nhiều người đang nhìn chúng ta?”
Mấy người bọn họ – có hòa thượng, có công tử trẻ tuổi hào hoa phong nhã, có con của nhà giàu mới nổi bụng phệ, còn có một tiểu nha đầu tuy xinh đẹp, nhưng trông cứ kỳ kỳ thế nào ấy, đi chung vốn hết sức nổi bật, đã sớm bị dòm ngó chỉ trỏ quen rồi, ngay cả Trường Canh cũng không còn mẫn cảm với ánh mắt người qua đường nữa.
Nhưng lần này, vòng vây xem họ lọt vào tựa hồ hơi quá.
Người ven đường thấy họ, nhao nhao dừng chân nhìn ngó, chẳng những nhìn ngó, còn chỉ trỏ họ mà thậm thụt trao đổi.
Cát Bàn Tiểu thì thào: “Ta luôn cảm thấy phải xảy ra chuyện gì đó.”
Trường Canh: “Ngươi nói đúng.”
Là người cao nhất trong cả bốn, Trường Canh đã lướt qua đầu mọi người, nhìn thấy trên cổng thành không xa dán một tờ bố cáo – trên bố cáo vẽ một hình người rất giống, là một hòa thượng đầu trọc mi thanh mục tú, dưới viết: kẻ này giả mạo cao tăng Hộ Quốc tự, lừa đảo bịp bợm, không từ bất cứ việc xấu nào, hèn hạ vô cùng, đặc biệt truy nã, nếu có ai báo án, thưởng mười lượng bạc ròng.
“Liễu Nhiên đại sư,” Trường Canh nói, “Ngươi đáng giá mười lượng bạc ròng đó.”
Liễu Nhiên đại sư đứng đơ thành một pho tượng đá mỹ tăng nhân hoạt sắc sinh hương.
“Chắc là nghĩa phụ ta nhận được thư của Vương bá, phái người tới gây chuyện với ngươi rồi.” Trường Canh liếc đám người bắt đầu ùa đến mười lượng bạc, nói với Liễu Nhiên, “Xin lỗi, chúng ta nên đi trước đi.”
Liễu Nhiên mau chóng ra dấu: “A di đà Phật, tứ điện hạ đừng quên lời hứa trong quán trà.”
Sau đó hòa thượng này vắt giò lên cổ mà chạy, đúng thật là tĩnh như tượng đá, động như gió giật.
Lão bách tính trong chợ chờ bắt mười lượng bạc vừa thấy đả thảo kinh xà, liền nhao nhao dẹp hết thận trọng, gào ầm lên “*** tăng” “tên lừa đảo” nọ kia, từ bốn phương tám hướng vây công tới.
Cát Bàn Tiểu: “Ngày trước cha ta lên núi săn thỏ cũng làm như vậy đấy.”
Trường Canh và Tào Nương Tử cùng nhìn gã.
Cát Bàn Tiểu: “Cầm gậy gộc kêu gào, phải dọa thỏ sợ đến mức chạy bừa không chọn đường, nó sẽ tự lao đầu vào lưới – A, thật đó.”
Liễu Nhiên đại sư cơ trí hơn thỏ, không hề đâm đầu chạy bừa, hắn sớm đã nhìn rõ kết cấu của khu chợ, luồn trái lách phải, cả người biến thành một cái bóng, không biết là cân nhắc lộ tuyến thế nào, qua lại vài lần đã khiến đoàn người từ bốn phương tám hướng đuổi theo hắn hợp thành một dòng, rất thành thạo.
Lúc này, không xa đó truyền đến tiếng ồn ào “Tránh ra”, nhìn lại thấy là một đội quan binh chạy đến, chắc là được mật báo đến bắt người.
Trường Canh nghĩ bụng: “Quả nhiên là Cố Quân tìm người làm.”
Trong lòng y vừa hơi an ủi, vừa hơi mất vui.
An ủi chính là, Cố Quân dù ở tận Tây Bắc, rốt cuộc không chịu để y tự sinh tự diệt, tuy thủ đoạn hơi độc, nhưng trong lòng vẫn lo cho y.
Đồng thời y lại cảm thấy là mình liên lụy Liễu Nhiên đại sư – hơn nữa, người đó ngay cả Tết cũng không thèm về hầu phủ, hiện tại thò tay dài thế làm gì?
Tào Nương Tử túm tay áo y: “Đại ca, làm thế nào đây?”
Trường Canh định thần lại khỏi mối suy nghĩ phức tạp khó phân, thoáng trầm ngâm, lập tức cho tay vào bọc hành lý, móc ra một nắm bạc vụn, nhắm chuẩn phương hướng, rồi tung ra như thiên nữ tán hoa: “Đón tiền này!”
May mà Liễu Nhiên đại sư chỉ lo chạy, bằng không nhất định phải đau lòng đến mọc tóc ra luôn –
Những người đang đuổi theo hòa thượng bị bạc đập vào đầu, đương trường đần ra, theo bản năng muốn nhặt, những kẻ khác nghe nói có hiện ngân, tức thì bỏ qua vật ngang giá đã chạy trốn, nhao nhao quay lại nhặt bạc xịn, nhất thời chặn kín đường của quan binh đằng sau, Liễu Nhiên hòa thượng đã không thấy bóng dáng.
Trường Canh nở nụ cười: “Chúng ta cũng đi thôi.”
Nói xong, y dẫn đầu chui ra khỏi đám đông, chuẩn bị thần không biết quỷ không hay rời khỏi vùng đất thị phi này, nhưng chưa kịp đi, thì một tràng tiếng vó ngựa đột nhiên vọng đến từ bên kia con phố hẹp, nghe như vừa vặn phải chặn họ lại.
Phóng ngựa giữa phố xá náo nhiệt, không phải đến gây sự, thì là bắt người.
Cát Bàn Tiểu đề nghị: “Đại ca, chúng ta đi đường nhỏ đi.”
“Không,” Tào Nương Tử thẫn thờ nói, “Chúng ta nên ngoan ngoãn đợi đi.”
Tiếng vó ngựa tới gần chuẩn xác dừng lại ở cổng chợ, chỉ thấy mấy hán tử xuất thân quân ngũ xuống ngựa nghiêm túc đứng thành một hàng, chính giữa có một… người dẫu hóa thành tro Trường Canh cũng nhận ra –
Trường Canh ngây ra, Cố đại soái lại từ Tây Bắc đích thân chạy tới bắt người.
Dọc đường Cố Quân đã nghĩ kỹ, y phải lột da rút gân Liễu Nhiên trước, rồi lại xách cổ Trường Canh về đét mông một trận.
Cây nhỏ không uốn không thẳng, y cảm thấy mình trước kia đã quá nuông chiều đứa trẻ này, học theo tiên đế quả nhiên không hữu dụng, làm cha phải noi theo cách của lão Hầu gia mặt đen mới được.
Nhưng một bầu lửa giận phừng phừng, trong nháy mắt y nhìn thấy Trường Canh, đột nhiên liền tắt ngóm.
Cố Quân ngồi trên ngựa, suýt nữa không nhận ra Trường Canh.
Nam hài mười mấy tuổi mỗi ngày một khác, lúc ở Nhạn Hồi trấn, Trường Canh luôn ở ngay trong tầm mắt, mỗi ngày lớn dần đều không rõ, chỉ có thể nhờ quần ngày càng ngắn để biết y đang cao lên, đột nhiên xa cách hơn một năm, biến hóa tích lũy tháng ngày của Trường Canh bỗng khiến một thiếu niên trở nên khác hẳn.
Y đã đuổi kịp Cố Quân cao gầy, cơ thể vốn hơi gầy không biết từ khi nào đã có dáng dấp của một người lớn, vẻ khó tin chỉ thoáng qua trên mặt, liền bị sự bình tĩnh không biến sắc gần đây học được che đi.
Cố Quân mặc ngựa bước tại chỗ chốc lát, mặt không biểu cảm nghĩ: “Không đánh được nữa rồi.”
Không phải đánh không được, mà là Trường Canh đã thành một người lớn, còn dùng thủ đoạn giáo huấn trẻ con, sẽ là làm nhục chứ không phải giáo huấn.
Năm qua năm, đối với Cố Quân mà nói cũng chẳng có gì khác biệt, đều là vội vã trôi đi, chớ hề thú vị.
Khoảnh khắc này, y lại đột nhiên muộn màng cảm nhận được sự vô tình của thời gian, y chẳng qua để lỡ một chớp mắt, mà Tiểu Trường Canh của y đã vội vã trưởng thành, đoạn thời gian y bỏ lỡ, về sau vĩnh viễn không bù lại được nữa.
Cố Quân rốt cuộc ý thức được, Trường Canh đã từ mười lăm lên mười sáu, qua ba bốn năm nữa là sẽ phải dọn đến phủ Nhạn Bắc vương, rời khỏi vòng tay y che chở. Ba bốn năm là khái niệm gì đây? Có thể cũng chỉ đủ để y quay về kinh thành một chuyến, vậy giữa họ chẳng lẽ chỉ còn lại “duyên gặp mặt một lần” sao?
Cách một năm, Cố đại soái lòng to bằng cái đấu này cuối cùng đã phản ứng được.
Y xuống ngựa, trực tiếp đi đến trước mặt Trường Canh, sầm mặt nói: “Đi theo ta.”
Trường Canh cứ chằm chằm nhìn mặt y, một tấc cũng không nỡ rời, trên cổ Cố Quân còn có một vết thương nhạt, đến từ sa mạc Tây Bắc, vẫn chưa kịp khỏi hẳn. Trường Canh khó khăn tìm lại được tiếng nói: “Nghĩa phụ, sao người lại đến đây?”
Cố Quân lạnh lùng hừ một tiếng, chẳng rằng chẳng nói đi trước về hướng ngoài chợ.
“Nói chuyện cũng khác hẳn.” Y buồn bã mất mát mà nghĩ thầm.
Quan binh đi theo chạy chầm chậm đến, hăm hở nói với Cố Quân: “Đại soái, hòa thượng kia chạy rồi, còn truy không?”
“Truy,” Cố Quân đáp ứng luôn, “Truy nã toàn thành, cho dù nhảy xuống biển cũng vớt về cho ta!”
Quan binh: “Vâng!”
Tào Nương Tử ở phía sau trộm kéo tay áo Cát Bàn Tiểu, Cát Bàn Tiểu thè lưỡi, cảm thấy trong việc này họ là Bồ Tát bùn qua sông, chính mình còn khó giữ, đành phải lực bất tòng tâm lắc đầu, hi vọng Liễu Nhiên đại sư tự cầu nhiều phúc.
Bọn Trường Canh theo Cố Quân đi một mạch đến phủ Diêu đại nhân Án sát Ứng Thiên, Diêu đại nhân sớm chuẩn bị sẵn sàng vuốt mông ngựa, dẫn người ra cửa nghênh đón: “Tứ điện hạ quang lâm hàn xá, thật là vẻ vang cho kẻ hèn này! Mời vào mời vào, thần đã sắp sẵn rượu ngon thức ngon, chuẩn bị tẩy trần cho điện hạ.”
Chưa dứt lời, Cố Quân đã trưng khuôn mặt Diêm vương, khóe mắt chân mày đều viết rõ một câu – tẩy trần cái đếch gì, cho chết đói luôn đi.
Suốt đêm ấy, Cố Quân không nghĩ ra phải nói chuyện thế nào với Trường Canh, đành phải ở trong phòng mình nốc ừng ực từng chén rượu Lâu Lan mang theo, một lát sau, lại có người gõ cửa.
Cố Quân: “Vào đi.”
Trường Canh nhẹ nhàng mở cửa đi vào: “Nghĩa phụ.”
Cố Quân không lên tiếng, trên mặt hỉ nộ khó phân.
Trường Canh với tay đóng cửa, hơi cúi đầu, giống như nhìn Cố Quân lâu rất mất sức.
Trường Canh: “Nghĩa phụ, con rất nhớ người.”
Cố Quân trầm mặc giây lát, rốt cuộc thở dài: “Lại đây, ta xem nào.”
Trường Canh ngoan ngoãn đi tới, trên người Cố Quân thoang thoảng mùi rượu xa lạ, hơi ngọt, dường như là rượu Tây Vực, trên vai đeo giáp cứng sắt lạnh quanh năm không tháo. Trường Canh vốn tưởng rằng mình có thể khắc chế, ngờ đâu đã đánh giá cao bản thân – tựa như y cũng không liệu được Cố Quân lại đích thân đến Giang Nam tìm y vậy.
Y âm thầm hít sâu một hơi, tự tiện tiến tới ôm Cố Quân.
|
Chương 29: Giao họa
Trong nháy mắt, Cố Quân chẳng còn giận nổi nữa.
Y đưa tay đón lấy Trường Canh, thuận thế vỗ vỗ lưng Trường Canh, cằm cọ bả vai đối phương, cảm thấy cánh tay kia đã không còn là một bộ xương trống rỗng không thật nữa.
Cố Quân cũng rất muốn thẳng thắn nói một câu “Ta cũng nhớ ngươi”, nhưng y từng này tuổi rồi mà chưa từng nói thế bao giờ, câu này lên lên xuống xuống trong lòng, cuối cùng vẫn sợ hãi, lâm trận bỏ chạy về bụng.
Y chỉ nhàn nhạt cười nói: “Lớn tướng rồi mà còn làm nũng.”
Trường Canh nhắm mắt lại, trong lòng biết không được vô lễ nữa, tình cảm không thể tự kiềm chế, nhưng tứ chi thân thể thì có.
Y biết điều buông Cố Quân ra, bình tĩnh đứng bên cạnh, dằn ngọn lửa rừng không nhìn thấy đang lan tràn trong lòng. Y biết mình muốn quá nhiều, nhiều đến vô lý, thậm chí vì vậy mà sinh ra đủ loại oán phẫn, và chúng đều thật đáng ghét, thế nên chẳng mảy may dám để lộ.
Trường Canh hít sâu một hơi, hỏi: “Sao nghĩa phụ lại đến Giang Nam?”
Cố Quân lườm một cái, nói vẻ không vui: “Còn mặt mũi mà hỏi, không phải đều là do ngươi à?”
Trường Canh không dám nhìn y nhiều, hơi cúi đầu.
Nhưng Cố Quân chỉ cho là mình nặng lời, những lời răn dạy đã ra đến đầu lưỡi lại bị chính y vội vàng ngậm vào. Y co ngón cái vào lòng bàn tay, bẻ qua bẻ lại từng đốt. Cảm giác mệt mỏi khi bôn ba ngàn dặm lúc này mới ùa lên, y kiềm chế sự mỏi mệt thình lình kéo đến này, đắn đo mấy lần, sau cùng cố hết sức bình tĩnh ôn hòa mà nói với Trường Canh: “Ngồi xuống, nói với ta vì sao cùng con lừa… khụ.”
Cố Quân ý thức được kêu “con lừa trọc” trước mặt Trường Canh hình như không thích hợp lắm, mà “đại sư” thì y tuyệt đối không gọi nổi, thế là kẹt lại.
Trường Canh: “Liễu Nhiên đại sư muốn xuôi phương Nam du lịch, là con tự chủ trương khăng khăng đòi đi theo, nghĩa phụ nếu vì vậy mà gây phiền toái cho y, thì lòng con cũng rất áy náy.”
Cố Quân: “…”
Trường Canh quá giỏi ăn nói, vừa biết giải vây cho con lừa trọc kia, vừa biết làm sao để không khiến y phát hỏa, một câu nói rõ trong ngoài khác nhau, khiến Cố Quân cũng suýt nữa “áy náy” theo. Y lần thứ hai thầm giật mình, bây giờ chẳng qua mới một năm, đứa trẻ trước kia nói chuyện thẳng tuột như chày gỗ từ đâu học được trò này nhỉ?
“Lúc bằng tuổi con, nghĩa phụ đã Nam hạ bình định phỉ loạn, con thì vẫn văn không thành võ không tựu, thế nên con muốn rời khỏi hầu phủ đi thăm thú thế giới bên ngoài,” Trường Canh trộm nhìn Cố Quân một cái, phát hiện trong đôi mắt ấy lại có tơ máu, lập tức không nói nổi nữa, sự áy náy tràn lòng từ ngực dâng lên họng, lí nhí, “… Chỉ là thủ đoạn bốc đồng, còn khiến nghĩa phụ bôn ba, con sai rồi, người phạt con đi.”
Cố Quân trầm mặc một lúc, chợt nói: “Ta lần đầu tiên tùy quân xuất chinh, kỳ thực là Đỗ lão tướng quân liên hợp cựu chúng của lão Hầu gia, cưỡng cầu tiên đế.”
Trường Canh ngẩng phắt đầu lên.
Cố Quân không hề là người khiêm tốn, rượu vào cũng thường xuyên khoác lác, mấy chuyện bốc phét như “che mắt bịt tai cũng có thể hạ hai mươi thiết khôi lỗi trong nửa nén nhang” y đều từng nói. Nhưng nghĩ kỹ lại thì, y thiếu niên thành danh, nắm giữ ấn soái Tây chinh, trùng chỉnh Huyền Thiết doanh, một chuỗi lịch sử huy hoàng, rõ ràng việc nào nói ra cũng đủ khoe nửa đời, mà Cố Quân lại chưa bao giờ nhắc tới.
Cố Quân lại lấy ra một cái chén, rót một chén rượu hơi chua cho Trường Canh: “Đây là rượu của người Lâu Lan, ngươi cũng lớn rồi, có thể nếm vài hớp.”
Trường Canh uống một ngụm, chẳng thưởng thức ra vị gì, liền bỏ xuống. Y với Cố Quân rất lâu không gặp nhau, gặp một lần máu đã chảy lộn xộn rồi, thật sự không cần phải thêm rượu nữa.
Cố Quân: “Ta khi đó chẳng hiểu cái gì, đi theo chỉ làm rối thêm, lại thiếu niên khinh cuồng, không chịu khiêm tốn thừa nhận. Trên đường tiễu phỉ, một lần nọ ta hấp tấp liều lĩnh một mình hành động gây ra họa lớn, một chiến dịch nhỏ mất hơn ba mươi trọng giáp phải đổ cả đống vàng bạc vào, còn liên lụy Đỗ lão tướng quân trọng thương… Ngươi có nghe nói về Đỗ Trường Đức tướng quân chưa?”
Trường Canh từng nghe Liễu Nhiên kể, hòa thượng kia thuộc như lòng bàn tay về văn võ bá quan triều trước triều này, chỉ sợ còn thuộc hơn cả chân kinh của Phật tổ.
Mười mấy năm trước phu phụ lão An Định hầu lần lượt mắc bệnh qua đời, Cố Quân còn nhỏ, là Đỗ lão tướng quân chu toàn giữa biên cương và triều đình, một mình chèo chống đại cục, đáng tiếc sau đó vết thương cũ tái phát, chết trên đường viễn chinh Tây Bắc, bấy giờ mới để Cố Quân lúc ấy chẳng qua mười bảy tuổi làm Thống soái Tây chinh.
Cố Quân: “Nếu không phải do lần đó, lão nhân gia vốn có thể khỏe mạnh tráng kiện, không đến mức vì một trận phong hàn mà tái phát vết thương cũ. Năm ấy Nam hạ tiễu phỉ khải hoàn về triều, lão nhân gia dâng tấu báo lên triều đình, không nhắc một chữ đến sai lầm của ta, chỉ toàn khoe công, để ta ở lại trong quân.”
Cố Quân nói đến đây thì dừng lại một chút.
Y bỗng cảm thấy hơi khó tin, dọc đường toàn nghĩ đến sau khi bắt Trường Canh phải giáo huấn thế nào, từ văn đấu cân nhắc đến võ đấu, ai ngờ tự dưng biến thành ngồi xuống khai báo chuyện cũ năm xưa mất mặt của mình.
Y vốn tưởng rằng mình sẽ giữ kín như bưng những chuyện đó, nhưng hiện giờ giở ra xem, đột nhiên cũng có thể thản nhiên đối mặt.
Quả thực vượt ngoài tầm lý giải của y với bản thân.
Có lẽ Thẩm Dịch nói đúng, con thơ và cha già, quả thật đều là trọng trách nặng trĩu, có thể đè người ta cúi đầu, nhìn rõ chính mình.
“Sở dĩ ta ở trên vị trí này, không phải vì ta lợi hại hơn ai, mà là vì ta họ Cố,” Cố Quân nhìn Trường Canh nói, “Đôi khi, xuất thân của ngươi quyết định ngươi phải làm gì, không thể làm gì.”
Đây là lần đầu tiên Cố Quân giải thích cho Trường Canh nguyên do mình không thể dẫn y đi Tây Bắc, tuy rằng hết sức khó hiểu.
Trường Canh nhìn y chăm chú.
Cố Quân đắn đo một chút, lại nói: “Nhưng nếu ngươi thật sự đã suy nghĩ rõ mình nên đi con đường thế nào, thì cũng không cần băn khoăn quá nhiều, chỉ cần ta còn sống, ta luôn có đủ sức lực để quét sạch những chướng ngại không nên có giúp ngươi.”
Trường Canh vốn tưởng rằng mình đi theo Liễu Nhiên hòa thượng đã luyện được cái miệng gặp ai cũng dám mở ra nói chuyện, nhưng hiện giờ mới phát hiện, “ai” này, vẫn phải loại trừ Cố Quân ra, khi đối mặt với Cố Quân, y biến thành ăn nói vụng về vô cùng.
Y vẫn cho rằng mình là gánh nặng tiên đế ném cho Cố Quân, là kẻ tham lam thèm nhỏ dãi thế giới không thuộc về mình, nhưng thì ra không phải vậy.
Trường Canh thầm nghĩ, không thể còn ai đối xử với y như Cố Quân.
Đúng lúc này, ngoài cửa đột nhiên hiện lên một bóng người: “Đại soái.”
Cố Quân định thần lại, khoát tay nói với Trường Canh: “Nghỉ sớm một chút, đi theo hòa thượng kia ăn không ngon ngủ không yên – A, hay ngươi muốn ở lại ngủ với ta?”
Trường Canh: “…”
Trong đầu y “Đùng” một tiếng nở hoa, lập tức đỏ mặt tới mang tai.
Cố Quân cười nói: “Còn biết xấu hổ rồi cơ đấy, trước kia mơ thấy ác mộng sợ phát khóc, không phải đều là ta ru ngươi ngủ à?”
Trường Canh thật sự không biết nên đối mặt với phỉ báng thẳng thừng này thế nào – chủ yếu là Cố Quân nói thẳng thắn vô tư như thực sự có vậy!
Thiếu niên ban nãy còn thiệt xán sinh hoa rốt cuộc tịt ngòi, như bước trên mây mà chạy khỏi phòng Cố Quân.
Sau khi Trường Canh đi khỏi, Cố Quân mới vẫy tay gọi người ngoài cửa: “Vào đi.”
Một tướng sĩ mặc huyền ưng giáp lập tức theo lời tiến vào.
Huyền ưng nói: “Thuộc hạ phụng mệnh đuổi bắt vị tăng nhân kia…”
Liễu Nhiên lén dụ dỗ tiểu hoàng tử xuất kinh, dù rằng việc này quả thật rất quá đáng, nhưng hiện tại đã tìm được người rồi, Cố Quân cũng không tiện đắc tội nặng với Hộ Quốc tự, huống chi ban nãy Trường Canh còn nói giúp.
Cố Quân: “Thôi, nói một tiếng với Trọng Trạch, triệt lệnh truy nã đi, cứ bảo là một hiểu lầm, hôm khác ta mời vị Liễu Nhiên đại sư kia ăn một bữa cơm chay.”
“Trọng Trạch” chính là tên tự của Diêu Trấn Diêu đại nhân – tuy y nói thế, nhưng chỉ cần Liễu Nhiên có đầu óc, tất không dám tới dự tiệc, Cố Quân nắm chắc khiến hắn nhìn khuôn mặt mình thì ngay cả nước cũng uống không nổi.
Huyền ưng nọ thấp giọng nói: “Thuộc hạ vô năng, còn chưa phát hiện tung tích vị cao tăng kia, nhưng chập tối hôm nay thấy ông ta lên một con đò, bèn theo quan binh lên lục soát, lại phát hiện việc này.”
Nói đoạn hắn lấy một cái túi vải nhỏ cất trong lòng, mở ra phát hiện là một mảnh vải, trên dính chút bột phấn màu vàng.
Cố Quân nhận lấy nhìn qua liền nhíu mày.
Thứ này y rất quen, tên là “toái tâm”, là một loại khoáng thạch sinh ra làm bạn với tử lưu kim, nghiền thành bột bỏ vào tử lưu kim theo tỉ lệ nhất định, có thể phòng ngừa vận chuyển đường dài tử lưu kim bất ngờ bốc cháy, khi sử dụng dùng công nghệ đặc thù lọc ra là được, rất thuận tiện.
Nhưng bình thường triều đình vận chuyển tử lưu kim, không phải dùng cự diên chở trên trời thì là đi quan đạo, do trú quân các nơi phái binh hộ tống, một con đò hòa thượng cũng có thể lên tùy tiện, sao lại có thứ này được?
Cố Quân: “Ngươi không làm lớn chuyện chứ?”
Huyền ưng: “Đại soái yên tâm.”
Cố Quân đứng dậy, bước tại chỗ hai bước: “Vậy thì, lệnh truy nã không được triệt, cứ tuyên bố với bên ngoài là ta nhất định phải bắt được hòa thượng kia, mấy huynh đệ giúp ta theo dõi con đò đó, xem nó đến từ đâu, đi về đâu…”
Cố Quân nói đến đây thì chợt dừng lại, y ngạc nhiên phát hiện tầm mắt mình bắt đầu mờ dần, trên người huyền ưng đứng cách không xa có một hư ảnh không đậm không nhạt.
“Hỏng rồi,” Cố Quân không biến sắc nghĩ, “Đi quá nhanh, không mang thuốc.”
Chẳng trách mang máng cảm thấy hình như đã quên chuyện gì, cái thùng cơm Thẩm Dịch cũng không chịu nhắc nhở y.
Huyền ưng: “Đại soái?”
Cố Quân điềm nhiên tiếp tục: “Nếu có thể, tốt nhất biết được chủ thuyền là ai, đặc biệt chú ý bình nhật ai hay qua lại với họ.”
Huyền ưng không nghi ngờ gì: “Vâng.”
“Từ từ, còn nữa,” Cố Quân gọi hắn lại, “Nếu tìm được hòa thượng kia, dẫn hắn tới gặp ta.”
Huyền ưng lập tức lĩnh mệnh mà đi.
Đuổi huyền ưng này đi rồi, Cố Quân vặn đèn măng-sông trên bàn sáng lên, im lặng ngồi xuống.
Giang Nam không sản xuất tử lưu kim, nếu mấy con đò đó thật sự có vấn đề, thì lai lịch không ngoài hai đường – hoặc là ở Giang Nam có quan viên bán lậu, hoặc là đến từ hải ngoại.
Nếu là đường trước thì còn dễ nói, Giang Nam phú thứ, trời cao Hoàng đế xa, họ nhân lúc nơi đây phổ biến khôi lỗi trồng trọt mà lén lút ăn bớt thôi, việc này tự có Án sát Đốc sát xử lý, không tới phiên y tự ra tay.
Nhưng nếu là giả thiết sau, chỉ sợ là phức tạp rồi.
Đại Lương bảy đại quân chủng đều không yếu, đặc biệt “giáp” và “ưng” là hai nhánh lợi hại nhất, do ba đời Linh Xu viện dốc hết tâm huyết gầy dựng nên, chỉ xét trang bị, cũng tuyệt đối không thua kém người Tây Dương giỏi món này.
Độc mỗi “giao” là không ổn.
“Giao” của Đại Lương tuy là dùng trong thủy chiến, nhưng bình thường chỉ phòng thủ trên biển, cực ít rời bến, không thể so với thuyền lớn buồm to lướt gió rẽ sóng của người Tây Dương.
Ngày trước cũng thế – năm đó khi thương lộ trên biển nối liền đông tây nam bắc, trên tuyến duyên hải, đậu lại bến cảng cơ hồ toàn là thuyền phương Tây. Khi đó Vũ đế cầm quyền, Đại Lương tài đại khí thô, căn bản chẳng cần thông thương hằng ngày với man di Tây Dương, đều là người Tây Dương chạy tới đào vàng.
Khi đó, cái gọi là “thông thương”, là người ta đưa hàng tới tận cửa, bên này mới hạ mình mở bến cảng, miễn cưỡng giữ lại mấy món linh tinh, thưởng cho họ ít tiền tiêu vặt.
Cho đến tiên đế và đương kim Hoàng đế, tuy nhìn thấy lợi nhuận của thông thương hải vận, đều rất nhiệt tình, nhưng do tuyến Tây Bắc liên tục mất ổn định, việc phòng vệ trên biển của “cự giao nhập hải” thủy chung bị gác lại, không phải không có tiền, thì là không đủ tử lưu kim.
Nếu trên con đò ấy thật sự có kẻ lén buôn bán tử lưu kim, như vậy vô cùng có khả năng uy hiếp đến phòng vệ tuyến Đông Hải.
Rồi còn Liễu Nhiên hòa thượng, dẫn họ đến con đò ấy, rốt cuộc là vô tình, hay ủ mưu đã lâu?
Chỉ một lúc mà mắt Cố Quân đã càng mờ, y sờ ngực, tìm được kính lưu ly, đeo tạm lên mũi, như vậy ít nhất một con mắt có thể hơi nhìn rõ.
Cố Quân cười khổ một tiếng, nghĩ bụng: “Giờ phải làm sao đây?”
Trường Canh chân không chạm đất trốn về phòng mình, tim đập vẫn chưa ổn định, vừa đẩy cửa đã nhìn thấy một hòa thượng trắng toát, chưa kịp bình tĩnh đã lại lần nữa căng thẳng, vội vàng đóng cửa, hạ giọng nói: “Liễu Nhiên đại sư, sao ngươi lại ở đây?”
Liễu Nhiên cười tủm tỉm chắp tay – A di đà Phật, bần tăng chỗ nào chả vào được.
Hòa thượng này chắc là từng luyện chiêu lai vô ảnh khứ vô tung, hết sức xuất quỷ nhập thần, ngay cả phủ Án sát cũng có thể ra vào bất cứ lúc nào, thật sự là một thần nhân.
Hòa thượng ra dấu nói với Trường Canh: “Có lẽ An Định hầu lần này đại khái có thể tha cho ta rồi, điện hạ không cần lo lắng.”
Trường Canh không có lo lắng cho hắn, tâm tư sáng tỏ, nghĩ qua liền ngộ ra, hỏi: “Ngươi cố ý lợi dụng ta để dụ y tới à? Phủ Ứng Thiên rốt cuộc có cái gì?”
Liễu Nhiên nhìn y tán thưởng, chậm rãi giơ hai tay làm thủ ngữ: “Đông Hải giao yêu sắp hóa rồng, hòa thượng đặc biệt dẫn đến đại thiên kiếp.”
Hắn định ám chỉ điều gì? Ngụy vương muốn tạo phản sao?
Hay là có chuyện gì khác?
Nhất thời, mấy ý nghĩ lướt qua trong lòng Trường Canh, trước kia y chỉ biết hòa thượng này nhập thế, nhưng không ngờ hắn nhập thế sâu đến vậy, trong ánh mắt không tự chủ được có chút nhìn kỹ và phòng bị.
Song không đợi y hỏi nhiều, Liễu Nhiên đã làm thủ thế đuổi theo, quen đường quen lối nhảy qua cửa sổ, Trường Canh chần chừ một chút, rồi tháo bội kiếm đi theo.
|