Phồn Hoa Thịnh Khai
|
|
2.2: Hạ
Edit: Tĩnh Nguyệt.
Xuân phong lí, chi thượng lục xuất đầu, đạp thanh giao lí ngôn xuân ý, tiếu đông phong.
Tao đầu vi đãng, hồi mâu xử, hàm tình vô ngữ, nhãn ba dạng, luyến thiều hoa.
Bên phía Đông thành là nơi cư ngụ của thế gia đại tộc, quan lớn quyền quý. Người nơi đó sống kiểu quần cư, cửa son đài cao, hùng vĩ đại khí, phủ đệ một tòa san sát một toà, đình viện vừa dài vừa rộng, diêm giác (mấy cái sừng ở mái hiên) ở mỗi nhà đều nặng. Có sư tử đá đứng canh cửa, đại môn sơn son thiếp vàng, hiển lộ thân phận cao quý của nhân gia.
Giữa các tòa phủ cao môn thâm viện, khiến người chú ý nhất chính là một tòa gia trang cao lớn nằm chệch về hướng Đông một chút, không phải bởi vì nó gần hoàng thành nhất, càng không vì nó sâm nghiêm uy vũ, mà bởi chủ nhân của tòa gia trang đó chính là đương kim tướng quốc.
Tướng quốc Triệu đại nhân, tướng quốc Triệu Hi.
Đương thời, không ai là không biết đại danh của Triệu Hi, mười năm về trước, khi hắn mới vừa nhược quán (20) thì đã giành bảng vị Trạng Nguyên, độc chiếm ngôi đầu, làm oanh động cả kinh thành. Tiên hoàng tán thưởng tài năng của hắn, càng thêm tín nhiệm. Đường công danh của Triệu Hi cứ thế rộng mở, một đường thăng chức không ngừng, trong vòng mười năm, hắn lập nên khai phong phủ doãn, duy tân lại phương thức làm việc, xử án, cho dù là Binh Bộ Thị Lang hay hình ngục Án Sát Sử, vô luận là quan chức nào, trong lúc hắn tại chức, cũng đều có tiếng có tài, được tiên hoàng khen ngợi, Đông Cung thái tử lúc ấy, nay là Thánh Thượng đối với hắn ưu ái có thừa, trong vòng mười năm ngắn ngủi, hắn đứng trên đỉnh núi công danh lợi lộc mà nhân sinh vẫn mãi theo đuổi.
Tường thái năm thứ hai, Triệu Hi lên làm Tướng quốc, dưới một người trên vạn người, hưởng hết phong lưu.
Hiện giờ, Triệu Hi là đại nhân vật có quyền khuynh thiên hạ, một nửa quan viên trong triều đều là môn hạ của hắn. Quyền thế nắm vững trong tay, ai muốn điều động quan viên đi nơi nào đều phải có được sự chấp thuận của hắn. Trong kinh thành, không người nào là không biết uy danh Triệu Hi, hơn nữa, mọi người càng sùng kính hắn. Bởi vì, tuy thân phận hắn hiển hách, nhưng thái độ làm người hợp lễ, cho tới bây giờ cũng chưa từng dung túng hạ nhân làm ác, hoàn toàn bất đồng với các quan viên quyền to chức trọng khác. Nhắc tới Triệu tướng quốc, ai ai cũng gật đầu liên tiếp, đều nói là vì hắn nên kinh thành mới có thể an bình như thế, thậm chí còn có lão nhân gia vì hắn mà lập bài vị trường sinh.
Triệu phủ ——
Đây là một gian thư phòng được trang trí cực kỳ tao nhã, rộng rãi sáng ngời, giữa tường là một bức thanh lục sơn thủy (tranh sơn thủy màu xanh), phía bên trái là một loạt các giá sách làm từ gỗ đàn hương, các thư hạp lam sắc mỏng có chứa thư quyển bên trong được sắp xếp ngay ngắn theo thứ tự, bên cửa sổ thì an trí một đại thư trác (bàn), trên bàn có đặt nghiên mực, bút giá, và các dụng phẩm cần thiết, các bình hoa mai thanh nhã được đặt trên giá hoa làm bằng gỗ tử đàn ) bên cạnh thư trác, bên trong cắm một nhành tịch mai mảnh dẻ, e lệ khoe sắc.
Không khí tĩnh lặng thoang thoảng hương mai nở làm dịu lòng người tràn ngập khắp cả thư phòng, phía sau thư trác, có một người nam nhân đang đề bút tả tự (viết chữ).
Đột nhiên ở gian ngoài truyền đến thanh âm huyên náo.
Bút phong chợt ngừng một chút rồi tiếp tục tung hoàng.
“Ôn tướng quân, thỉnh ngài chờ một chút, ta lập tức bẩm báo Tướng gia! A, xin ngài đừng xông loạn a. Ôn tướng quân, đừng làm khó dễ tiểu nhân, ai, Ôn tướng quân ——” rõ ràng là ngăn cản không được.
Cánh cửa vô lễ mở ra, Triệu Hi không hề kinh hãi, vẫn tiếp viết cho xong chữ cuối cùng, sau đó hắn gác bút, nhìn cái tên vô lễ bất lịch sự tự tiện xông vào nhà người khác kia, “Thanh Hạc, ngươi hồ nháo cái gì?”
Giao tình giữa hai nhà vốn không bình thường, nói một cách ngắn gọn thì, Ôn Thanh Hạc vừa là môn hạ của Triệu Hi, vừa là người mà hắn trông lớn lên, bởi vậy giọng điệu thập phần ôn hòa.
“Tướng gia, hạ quan đến đây chỉ muốn xin uống một chén trà thôi.” Ôn Thanh Hạc cười hì hì nói.
“Ngươi uống trà ở Hàm Hương Viện còn chưa đủ hay sao?”
Một câu nói nhẹ nhàng bâng quơ của Triệu Hi làm cho Ôn Thanh Hạc cả sắc mặt đều thay đổi, “Người nào nói cho Tướng gia biết thế?”
“Tình yêu giữa ngươi và hoa khôi đầu bảng của Hàm Hương Viện, trong thành Đông kinh này không ai mà không biết, không ai mà không hiểu?” Lời hắn nói vẫn vân đạm phong khinh.
“Vậy —— đại ca của đệ cũng biết?” Sắc mặt Ôn Thanh Hạc kịch biến, tái nhợt hẳn đi.
“Ngay cả ta cũng biết, vậy thì ngươi nói thử xem?” Triệu Hi cố tình nói không rõ ràng.
“Khổ rồi!” Hắn la to, kêu khổ thấu trời, tuy Ôn Thanh Hạc là tướng quân của một nước, kẻ địch vừa nghe danh đã vỡ mật, nhưng trước mặt đại ca, hắn vĩnh viễn chỉ là một tiểu hài tử, đại ca hơn hắn mười tuổi, từ nhỏ đã quản giáo hắn nghiêm ngặt, hiện giờ nếu biết hắn qua lại thân mật cùng với nữ tử thanh lâu, hắn bị trách mắng thì chỉ là chuyện nhỏ, chỉ sợ đại ca sẽ làm chuyện gì không hay với Tuyết Yên mà thôi!”Không được rồi, không được rồi, đệ phải mau mau chạy đến giải thích với đại ca!”
“Ngươi tính giải thích với hắn là ngươi đối với nữ tử kia chỉ là vui chơi qua đường?” Chỉ một câu nói thản nhiên lại ngăn cản được cước bộ của tên kia.
Ôn Thanh Hạc ngừng một chút, khổ não kêu lên: “Tướng gia ——”
“Nếu ngươi không có ý định nói những lời này, thì đừng có đi gặp đại ca ngươi làm gì cho phí công, ngươi cũng biết tính cách hắn ra sao mà.” Triệu Hi lắc đầu, hảo hữu kia của hắn, đầu óc cổ hủ như tượng đá, một khi hắn biết tiểu đệ mình yêu thượng thanh lâu nữ tử, không kiếm cách chia rẽ bọn họ mới là lạ.”Ngươi yên tâm, hắn còn chưa biết, không ai dám nói với hắn.”
Ôn Thanh Hạc thở phào nhẹ nhõm, xoay người ngồi xuống, “Vậy thì tốt rồi.”
“Đệ đối với nữ tử kia là thật tâm hay sao?” Triệu Hi nhẹ nhàng cười nói.
Trầm mặc một chút, hắn gật gật đầu, “Tuyết Yên thật ra là một nữ tử rất rốt, tuy rằng nàng xuất thân phong trần, gần bùn mà không nhiễm bẩn, rất đáng để ngưỡng mộ, nếu có thể, đệ hy vọng thuyết phục được đại ca cho đệ thú nàng nhập môn.”
“Đại ca đệ sẽ không đồng ý.” Không phải là đả kích hắn, Triệu Hi thật sự không biết là thế gia có mấy trăm năm căn cơ kia có thể cho phép nữ tử phong trần nhập môn
“Đệ biết, nhưng đệ sẽ không từ bỏ đâu.” Ôn Thanh Hạc kiên định nói, rồi vẻ mặt lập tức biến đổi, “Tướng gia, đệ hôm nay đến tìm huynh là có việc khác cơ.” Hắn từ trong lòng xuất ra một chỉ thư, vết mực chỉ vừa mới khô, “Người xem từ này viết như thế nào?”
Triệu Hi tiếp nhận, mở ra, lướt qua chữ viết ở trên mặt, lập tức ngâm ra tiếng:
Xuân phong lí, chi thượng lục xuất đầu, đạp thanh giao lí ngôn xuân ý, tiếu đông phong.
Tao đầu vi đãng, hồi mâu xử, hàm tình vô ngữ, nhãn ba dạng, luyến thiều hoa.
Gió xuân mơn mởn thổi, chồi non e ấp nở, thanh minh đi lễ đạp thanh, xuân tình dạt dào, trong gió xuân thoảng tiếng cười miên man.
Ngượng ngùng gãi đầu, ngoảnh nhìn lại chốn ấy, tình ý tràn đầy mà chẳng thốt nên câu, đôi mắt khẽ xao động, lưu luyến cảnh xuân.
Chỉ một khuyết từ (đoạn thơ) thôi mà đã kể rõ tâm tình ẩn ý của thiếu nữ, tựa hồ có thể thấy ngày đó có cô thiếu nữ kia y phục thướt tha, mày ngài điểm phấn, ở vùng quê ngoại thành, trong tiết thanh minh se se lạnh, đi dự hội đạp thanh, bất chợt duyên nợ sao nàng gặp được thiếu niên mà nàng đã thầm ngưỡng mộ, tâm động nhưng lại khó mở lời.
“Tướng gia, như thế nào?” Ôn Thanh Hạc nhìn thấy Triệu Hi có vẻ thất thần bèn hỏi.
“Là ai viết đây?” Triệu Hi phục hồi tinh thần lại.
“Là từ một lạc đệ thư sinh (thư sinh thi rớt), giờ đang điền từ cho các cô nương ở Hàm Hương Viện.” Ôn Thanh Hạc nói.
“Tài hoa hiếm thấy, thế nhưng vì sinh kế mà phải viết từ cho các nữ tử thanh lâu, thật uổng tài a.” Hắn thở dài: “Đúng rồi, đệ nói y là lạc đệ thư sinh, y tham gia khoa kỳ năm nào, năm nay gọi hắn đến khảo thí lại đi.”
“Tướng gia, ngài là chủ khảo năm trước phải không?” Ôn Thanh Hạc cố ý hỏi.
“Đệ biết rõ còn hỏi?” Triệu Hi liếc Ôn Thanh Hạc một cái.
“Vậy thì chắc người cũng biết thư sinh này? Là Chung Nhuận mà năm trước người hạ một bút gạch bỏ tên y ra khỏi bảng vàng đó!” Một câu của Ôn Thanh Hạc làm chấn kinh Triệu Hi.
“Là y?” Triệu Hi nhíu mày, hắn còn nhớ rõ tên thư sinh cuồng vọng kia, y dám tại lâu lý, không kiêng nể gì ai mà bình luận thời cuộc, vừa vặn bị hắn nghe thấy, tâm sinh chán ghét, vì thế lúc khảo quan trình lên danh sách thí sinh nhập đệ (đậu), hắn liền lập tức vạch ngang danh phong của y.”Tên thư sinh cuồng ngạo kia à!” Hắn bực mình quăng chỉ thư lên bàn.
“Tướng gia, người này ta đã gặp, từng cùng y đàm đạo, tuy rằng Chung Nhuận tư tưởng không kềm chế được, nhưng quả thật y là người có tài, Tướng gia vốn khoan dung độ lượng, ai ai cũng đều bội phục, ngược lại đối với y, sao người lại không thể rộng lòng tha thứ?” Ôn Thanh Hạc thẳng thắn mà nói.
“Không cần phải nói nữa, người này ta thật sự không muốn dùng.” Triệu Hi rõ ràng không muốn nói tiếp.
Ôn Thanh Hạc trong lòng thở dài, hắn vốn nghĩ muốn giúp Chung Nhuận giải trừ thành kiến của Tướng gia, không thể ngờ được vẫn là phí công.
“Đúng rồi, Thanh Hạc, thư sinh mà ta nhờ đệ thăm dò có tin tức gì không?” Triệu Hi nhớ tới một việc, nghiêng người thân thiết hỏi han.
Ôn Thanh Hạc lắc đầu, “Thư sinh tá túc tại Hàn Sơn Tự không đến một ngàn thì cũng có tám trăm, người mà huynh muốn tìm, tuy rằng tướng mạo xuất chúng, nhưng đêm đó khi y tới trọ, thì trời đã khuya, chỉ có một, hai tiểu hòa thượng gặp qua hắn, sắc trời lại quá mờ, thấy không rõ khuôn mặt, giả sử bây giờ gọi bọn họ đi nhận người thì cũng không nhận ra được.”
Hắn thất vọng đến cực điểm, tuy đã biết trước cơ hội tìm được y là rất nhỏ, nhưng hắn vẫn có chút thất vọng, ngơ ngẩn hẳn ra, “Chẳng lẽ là vô duyên tương thức?” Hắn nói nhỏ.
“Tướng gia, ngài thật sự không nhớ rõ bộ dáng của người nọ?” Ôn Thanh Hạc lại hỏi. Ngay cả người kia nhìn ra sao cũng không biết thì làm sao tìm được người ta?
Hắn lắc đầu, “Lúc ấy ta thấy y đứng dưới đèn, ánh đèn hôn ám, chỉ mơ hồ thấy được diện mạo y, bảo ta tả tỉ mỉ thì ta không biết phải tả ra sao, nhưng là nếu cho ta gặp lại, thì ta chắc rằng mình có thể nhận ra y.”
“Vậy thì khó lắm đây.” Ôn Thanh Hạc thở dài nói: “Có lẽ thư sinh kia đã không còn ở kinh thành.”
“Sẽ không đâu.” Triệu Hi phủ quyết, “Người kia tới là để đi thi, với tài hoa của y thì không lý nào lại không nằm trong bảng cao trung? Nhưng ta đã tra khắp bảng tiến sĩ, lại không thấy y, chẳng lẽ y có việc nên không thể tham gia khảo kỳ?” Hắn suy đoán nói.
Ôn Thanh Hạc không nói gì, gian khổ học tập suốt mười năm, chỉ để được đề tên bảng vàng, nếu không phải vì nguyên nhân bất thường nào, thì không có ai dám bỏ phí cơ hội. Tên thư sinh kia không tham gia khảo kỳ, có thể là do gia môn hắn có việc gấp, cũng có thể bởi vì thân mình không tốt nên mới không thể tham gia, dựa theo lời nói của Tướng gia thì người kia tá túc ở Hàn Sơn Tự, một thân một mình, thế nên có lẽ trong túi y không có nhiều tiền, ở kinh thành cũng không thân thích bằng hữu chi, mùa đông ở nơi đây rất bệnh, nếu sinh bệnh cấp tính thì, không —— không! Hắn lắc đầu, xóa đi ý nghĩ này.
Có lẽ còn một khả năng khác, hoặc là y tham gia cuộc thi, nhưng bởi vì nguyên nhân nào đó mà danh lạc Tôn Sơn, nghĩ như vậy, có một ý niệm rất nhanh nổi lên trong đầu hắn, nhưng chỉ trong chớp mắt, đợi đến khi hắn muốn nắm bắt nó, thì làm cách nào cũng không thể nhớ lại được.
“Thanh Hạc, ngươi cố gắng tìm lại thử xem, có khi đã bỏ sót đâu đó chưa xét sao.” Triệu Hi nói, ngay cả hắn cũng không rõ ràng vì sao chính bản thân lại khó có thể quên thư sinh mà mình ngẫu ngộ trong đêm đông giá lạnh kia. Sớm biết như thế, hắn nhất định sẽ kêu y, để y quay lại nhìn mình, cho dù sẽ bị y oán giận, nhưng thế còn tốt hơn là không biết tung tích của người ta.
Triệu Hi thở dài, hắn cứ bần thần, nhớ mãi không thôi đối với một tên thư sinh ngay cả tên mà cũng còn không biết, coi như là việc lạ.
Ôn Thanh Hạc yên lặng gật đầu.
“Ôn ca ca, huynh đã về!” Đột nhiên từ ngoài cửa sổ vang lên thanh âm kiều mỹ, y giác màu vàng nhạt chợt lóe lên, cửa thư phòng bị đẩy mở ra, một bóng dáng tiếu lệ xông vào.
“Tử Nhi?” Ôn Thanh Hạc ngạc nhiên tiếp lấy thân người đang nhào tới.
Nữ tử xinh đẹp động lòng người phát ra tiếng cười thanh thúy tựa chuông bạc, “Ôn ca ca, đã lâu không gặp!”
“Đúng vậy.” Hắn nhìn Triệu Tử Nhi từ trên xuống dưới, “Mấy tháng không thấy, tiểu cô nương nay đã biến thành tiểu nữ tử tú lệ rồi nha!”
Triệu Tử Nhi che miệng cười mỉa, “Miệng Ôn ca ca ngọt như vậy, chả trách có thể cướp đi tâm của hoa khôi tỷ tỷ ở Hàm Hương Viện!”
Mặt hắn đen một nửa, làm sao tất cả mọi người đều biết vậy?
Triệu Hi ho nhẹ một tiếng, cảnh cáo, “Tử Nhi, không được ăn nói lung tung!”
Nàng nhẹ bĩu môi, nhưng vẫn khiếp sợ trước uy nghiêm của huynh trưởng, nhỏm dậy từ trong lòng ngực của Ôn Thanh Hạc, Tử Nhi đứng qua một bên, bất chợt, nàng thấy được chỉ trương nằm trên thư trác. Tính tò mò lại nổi lên, Tử Nhi cầm lấy nó, hóa ra là một khuyết từ, trong lòng khẽ niệm, “Đại ca, đây có phải là từ do Chung Nhuận viết hay không?” Sau khi ngâm qua hai lần, nàng đột nhiên hỏi.
“Sao muội lại biết?” Triệu Hi có chút giật mình.
“Từ này rất hay! Mỗi khuyết từ mà y điền, muội đều có, từ của y vừa uyển chuyển hàm súc lại vừa thanh tân động lòng người, thật sự rất muốn được gặp y một lần, Triệu Tử Nhi tiếc nuối, mộng tưởng lại nổi lên, “Vì để thấy được mặty, muội còn trộm phẫn nam trang chạy tới Hàm Hương Viện, đáng tiếc y không gặp ngoại nhân ——” Chết rồi! Nàng vội che miệng lại, kinh hãi lén nhìn ca ca đang đứng một bên, quả nhiên, khóe miệng ca ca trầm xuống. Không xong!
“Tử Nhi,? Càng ngày muội càng làm càn, mau trở về phòng! Tháng này cũng không được phép xuất môn!” Thanh âm Triệu Hi trầm xuống.
“Đại ca ——” nàng khóc thét ra tiếng.
“Còn hồ nháo nữa thì ta sẽ đưa muội quay về Kim Lăng.”
Một câu nói lạnh lùng làm cho nàng ngoan ngoãn thu hồi lại kháng nghị. Tuy rằng đại ca sủng nàng, nhưng cũng không cho phép nàng thách thức uy nghiêm của hắn. Tử Nhi nhìn về phía Ôn Thanh Hạc, nhãn tình cầu xin giúp đỡ, ai ngờ thần sắc hắn băn khoăn, cúi gầm mặt xuống, không biết là đang suy nghĩ cái gì mà không chú ý đến nàng khiến nàng mất hứng, cắn môi hờn dỗi.
Triệu Hi nhướng mày...
Chung Nhuận!
Đến tội cùng thì ngươi là nhân vật như thế nào?
Một tên thư sinh cuồng ngạo vô lễ, thế nhưng làm cho Ôn Thanh Hạc tâm phục, làm cho Tử Nhi mê muội. Xem ra hắn thật sự không thể không gặp y được, hắn thật muốn biết, tên học trò cuồng ngôn ở tửu lâu ngày ấy, tự xưng mình thanh cao, không ham muốn công danh lợi lộc như những kẻ trên chốn quan trường kia có điểm nào bất đồng với người khác!
Tối ngày hôm ấy, Hàm Hương Viện vẫn náo nhiệt như thường, nhưng bên trong hậu viện của Phiêu Tuyết Lâu lại đắm chìm trong an tĩnh, trong bóng đêm tịch mịch, cầm thanh ca thanh thoang thoảng vọng đến, như có như không, càng khiến cho tiểu lâu nơi đây tăng thêm vẻ cô độc cùng phiêu dật.
Tuyết Yên thân thể không khoẻ nên đã sớm ngủ, chỉ còn lại có Chung với Ôn Thanh Hạc mới ghé thăm hồi nãy, nhấp rượu đàm đạo.
“Ha ha, không thể ngờ được chuyện xưa của hiền đệ thú vị như thế.” Ngồi nghe Chung Nhuận kể lại những chuyện vui thú lúc nhỏ, Ôn Thanh Hạc không khỏi ôm bụng cười to.
Nhẹ rót một ly rượu cho chính mình, Chung Nhuận cười khẽ, nhớ tới đứa trẻ thuở thơ ấu sống với đồng ruộng, chuyên môn lỗ mãng chỉ thích đi gây sự vẫn cảm thấy thật hưng thú.
Cười xong rồi, hai người lại bàn chút chuyện phong hoa tuyết nguyệt, thi từ nhã phú, rồi từ từ đề tài chuyển tới phương diện kinh tể trì quốc.
“Hiền đệ, kỳ thật ta có xem qua văn chương của đệ.” Ôn Thanh Hạc đột nhiên nói.
Bàn tay đang cầm ly rượu chợt dừng một chút, Chung Nhuận nhất thời không hiểu ý trong lời nói của hắn.
“Là quyển tử của đệ năm rồi.” Ôn Thanh Hạc nói thêm.
“Nga, nguyên lai là cái đó.” Uống một hơi cạn sạch, y buông ly rượu.
“Thiên văn kia đệ viết rất tốt, văn tự trôi chảy, diễn đạt ngắn gọn, chỉ có những câu châm biếm không thích hợp lắm, khảo quan xếp đệ vào ba danh đầu trong giáp, danh sách đợi chờ hậu tuyển.”
Kỳ thi năm trước, Chung Nhuận nguyên tưởng rằng chính mình sẽ căm phẫn không thôi, ban đầu y rất tự mãn, cho rằng mình một bụng đầy kinh luân thì danh hàm tiến sĩ là không thành vấn đề, không thể ngờ đến lúc hoàng bảng được đăng, bản thân danh lạc Tôn Sơn, khiến người khác khinh thường, chưởng quầy khách điếm trở mặt vô tình, trong cơn bão tuyết mịt mù, đuổi y ra khỏi quán, thiếu chút làm cho y chết đông trong tuyết. Ký ức đau đớn bất kham là thế, nhưng hiện giờ nghĩ lại, tựa như thoáng qua, không đáng nhắc tới.
Thấy Chung Nhuận không phản ứng, Ôn Thanh Hạc mới yên lòng tiếp tục nói: “Chủ khảo năm trước chính là đương kim tướng quốc Triệu đại nhân, huynh là môn hạ của người, danh sách đưa tay Triệu đại nhân lại bị bác bỏ, đệ cũng biết là vì cái gì?”
“Văn của đệ không hợp với ý của đại nhân?” Từ miệng của người khác, y đã sớm biết được tướng đại nhân có thành kiến với y, nhưng không biết thành kiến này từ đâu mà tới. Y thở dài, cho dù nói là không để ý, nhưng phân tục tâm vẫn rất muốn biết vì cái gì mà văn của mình lại không vừa mắt với chủ khảo quan. Đây từng là chuyện khiến y trầm tư suy nghĩ hết ngày này qua ngày khác.
Ôn Thanh Hạc không trực tiếp trả lời, “Hiền đệ, hẳn là ngươi vẫn còn nhớ rõ những lời mình nói ở Thiên Nguyệt Lâu vào tháng mười năm ngoái chứ?”
Thiên Nguyệt Lâu? Chung Nhuận nhíu mày trầm tư, nga, y nhớ ra rồi! Tháng mười năm trước, có một ít đồng hương sĩ tử mời y đi Thiên Nguyệt Lâu, y từ chối không được, đành phải đi. Qua khỏi hai tuần rượu, y có chút say, lúc đó hăng hái, không biết đến trời trăng mây nước, ngôn ngữ không kiêng kị gì ai, y đã nói gì sao? Đúng rồi! Chung Nhuận bừng tỉnh đại ngộ, chẳng lẽ là bởi vì... Y nghi hoặc nhìn về phía Ôn Thanh Hạc.
“Ngày đó đại nhân cùng huynh đúng lúc cũng dùng bữa ở Thiên Nguyệt Lâu, đại nhân nghe được ngôn luận của đệ, cảm thấy không vui, người cho rằng đệ luôn miệng nói không thích quan trường, nhưng vẫn thượng kinh đi thi. Ngày ấy nhìn thấy quyển tử của đệ, càng cảm thấy tức giận, bởi vậy mới loại tên đệ ra.”
Thì ra là thế! Chung Nhuận cười khổ, ban đầu y phẫn hận đến cực điểm, đến nay mới biết được họa là do mình ngôn hành bất nhất (lời nói và việc làm không thống nhất)mà ra!
“Hiền đệ, huynh vẫn nghĩ đệ là loại người trước sau như một.” Ôn Thanh Hạc cân nhắc ngôn từ thích hợp, “Mấy ngày nay qua lại với đệ, ta mới biết được đệ thật ra giống như một ẩn sĩ, tâm không đặt ở chốn quan trường thứ cho ngu huynh lỗ mãng, nếu hiền đệ chí không tại nơi này, làm gì phải miễn cưỡng mình mà đi dự khảo kỳ?”
Miễn cưỡng chính mình? Không, một chút cũng không có miễn cưỡng. Chung Nhuận nhớ tới mạt bóng dáng thanh lệ kia ở gia hương, liên tục cười khổ, cảm thán nói: “Ôn đại ca, chuyện của quá khứ thì hãy để nó trôi đi, bàn lại cũng không có ý nghĩa gì, huynh cứ coi đệ giống như một tên phàm phu nóng lòng đoạt danh lộc đi!”
Tâm sự của người này thật sự trùng trùng điệp điệp a! Ôn Thanh Hạc trong lòng âm thầm thở dài, đáng tiếc giao tình giữa hắn và y còn chưa đủ sâu nặng để cho y mở rộng cửa lòng, “Nếu hiền đệ đã nói như vậy, ta cũng không hỏi nhiều, đến đến, uống rượu uống rượu, lương thần mỹ cảnh như thế này (ngày vui cảnh đẹp), không uống chẳng phải là lãng phí? ‘
Ôn Thanh Hạc tuy xuất thân thế gia, nhưng vẫn tại hành quân ngũ, tính tình hào sảng, có được bằng hữu như thế, thật sự là phúc của y a! Tiếu dung giương lên, tiếp nhận ly rượu, Chung Nhuận uống cạn, tửu hương thanh liệt lượn lờ trong khoang miệng, nguyệt sắc sáng tỏ xuyên thấu qua màn trúc hạ xuống thân người, ẩn đâu trong đó, có chút say.
|
3.1: Thượng
Edit: Tĩnh Nguyệt
Hoa gian nhất hồ tửu,
Độc chước vô tương thân.
Cử bôi yêu minh nguyệt,
Đối ảnh thành tam nhân.
(Nguyệt Hạ Độc Chước – Lý Bạch)
Một bầu rượu giữa hoa tươi,
Một mình ta uống không người quen thân.
Đành nâng ly rượu mời Trăng,
Ta đây, Bóng đấy, cùng Trăng, ba người.
(Đoàn Đức Thành dịch)
Màn đêm thăm thẳm, nguyệt nương ẩn trong đám mây dạ sắc trên bầu trời rộng lớn. Chung Nhuận có chút say chuếnh choáng nên từ biệt Ôn Thanh Hạc, tuy rằng không thể uống được nữa, nhưng giữa đêm tối tĩnh lặng như vậy, y không thể ngăn cản tình hoài trào dâng nơi đáy lòng, có chút thương cảm, có chút bất đắc dĩ, đã vậy thì cứ uống cứ say là tốt nhất? Cầm lấy bầu rượu, y vừa lắc vừa đi, “Nâng chén mời trăng (Cử bôi yêu minh nguyệt), cáp, đến uống một chén nào, hảo tửu a, kính ba người nha, ha hả, ngươi, ta.” Túy nhãn mông lung, y chỉ vào nguyệt lượng đang dần dần ló ra từ đám mây, cước bộ lảo đảo, “Còn thiếu một, người kia.... ......” Âm điệu của y thấp dần, gần như thì thào tự nói, “Người ấy đang ở nơi nào? Ngàn dặm xa xôi, phải chăng nàng cũng đang ngắm nguyệt hạ?”
Mạnh mẽ ẩm hạ một ngụm rượu, rượu nóng hừng hực làm bỏng cả yết hầu khiến y ho khan không dứt, lửa nóng tán đi, cơn ho mới dùng một chút, y quả nhiên là một thư sinh bất tài vô dụng mà! “Cáp, đến đến đến, uống nữa nào!” Say đến nỗi đầu óc có chút mơ hồ, môi đặt tại miệng bình, bên khóe miệng còn vương chút tàn rượu, “Hết rồi?” Rượu đâu? Y nhìn nhìn bên trong bầu rượu, chỉ thấy một mảnh tối đen còn sót lại, tựa như đời y vậy, tối tăm không thấy ánh sáng! Quăng bầu rượu qua một bên, y phất tay áo, ngửa mặt lên trời cười to nói: “Vậy thì về thôi! Về thôi!” Sau đó y lê bước hướng đến tiểu ốc phía sau khu rừng trúc, vì quá say nên y có cảm giác đôi chân mình như nhũn cả ra, một phút thất thần, chân trái quáng vào chân phải, cả người ngã gục trên cỏ.
Ngã ra trên thảm cỏ, y cuồng tiếu, cười đến điên dại, y chẳng biết nên cười mình ngu dốt hay cười cho cái si dại của bản thân, y cứ cười, cười để ngăn lại nỗi cô độc ở trong lòng, cười cho thỏa những lời mỉa mai, châm biếm, cười cho cái cuồng ngạo mà y vẫn tưởng, cười cho đến khi cả người không còn sức lực, yết hầu khô khốc mới ngừng lại. Y thẫn thờ ngồi bệt trên đất, không có khí lực để đứng lên, cũng không nhớ tới mình cần phải đi đến nơi nào, cứ ngồi đó ngây ngốc cả ra, ánh mắt vô định nhìn thẳng về phía trước, bao quát cả không trung tối tăm, tửu ý thấm dần, mệt mỏi trào dâng, rốt cục y cũng chống đỡ không nổi nữa, mi mắt chợt hạ, y dựa vào giả sơn, bất tri bất giác chìm vào giấc ngủ.
Mây đen tản đi, Nguyệt nhi lộ diện, ánh trăng nhu hòa chiếu xuống trên người Chung Nhuận. Nhưng y vẫn say ngủ không hề biết, dưới nguyệt quang băng lãnh, gương mặt y khi ngủ lại an tường đến vậy, hình như một hồi điên cuồng mới vừa nãy tựa như một giấc mộng, là một giấc mộng của kẻ điên khi say.
Bốn phía một bề im ắng, từ sâu bên trong rừng trúc, có một nam nhân chậm rãi đi ra, hắn đứng ở trước mặt Chung Nhuận. Một lúc lâu sau, nam nhân mới cúi người xuống, đầu ngón tay thon dài mơn trớn hai gò má đỏ ửng vì rượu của y, ngón tay ấy, chợt run lên một chút, “Vì sao lại là ngươi?” Nam nhân than nhẹ một tiếng, biết bao nhiêu tình tự ẩn đâu trong đó chẳng nói nên lời.
~*~
Miệng lưỡi khô khốc, Chung Nhuận từ từ tỉnh lại, chỉ cảm thấy đầu đau như muốn nứt ra, đầu lưỡi tràn đầy vị chát. Thật là, y đã uống quá nhiều rồi, khẽ lắc lắc đầu, ngón tay nhẹ miết hai bên Thái Dương, làm dịu lại cơn đau gần như muốn nổ tung cả đầu.
Cố gắng đứng dậy, y rót một ly trà, nước trà trong ấm đã lạnh tự bao giờ, uống xong chén trà, nhất thời y cảm thấy nhẹ nhàng khoan khoái rất nhiều, cảm giác khô nóng trong cơ thể ngay lập tức tản đi rất nhiều, ý nghĩ trở cũng theo đó mà trở nên thanh tỉnh, y rốt cục mới biết cảm giác có chỗ không đúng lúc mới vừa tỉnh dậy là từ nơi mà y đang nằm ra.
Y nhớ rõ ràng là hồi nãy mình dựa vào giả sơn bên cạnh rừng trúc mà ngủ, như thế nào đến khi tỉnh lại ở trong phòng? Chung Nhuận mê mang nhìn lướt qua trúc y mộc trác (bàn làm từ gỗ trúc) , đây là phòng của y! Chẳng lẽ là y giữa lúc vô ý thức, mơ mơ màng màng mà đi về phòng? Cả đầu thật nặng, đang suy nghĩ nhớ lại thì đầu như bị kim đâm, đau nhoi nhói, đôi mày nhíu lại thành một đoàn, y đành buông bỏ, nghĩ nhiều chi vô ích, chẳng bằng ngã người nghỉ ngơi thêm chút nữa.
Nhìn ánh trăng chiếu rọi qua song cửa sổ, hình như vẫn là nửa đêm, cơn gió đầu mùa xuân có chút se se lạnh, tấm chăn mỏng mảnh tựa hồ không ngăn được cái lạnh về đêm, y bước xuống giường, hơi hơi đứng thẳng người dậy, đi tới định đóng cửa lại.
“A!” Vừa mới đứng lên, y đã bị bóng đen trước mặt làm cho giật mình, sợ tới mức ngã lăn ra trên giường, đó là một bóng người, người nọ mặt hướng về phía y, đưa lưng về phía ánh trăng, khiến y không thể thấy rõ diện mạo của hắn.
“Xin hỏi người tới là ai?” Y bình ổn thần trí, trấn định mà hỏi. Chắc hẳn không phải là trộm, có kẻ trộm nào thèm nhìn đến căn phòng rỗng tuếch này, chỉ sợ vừa liếc mắt qua đã hừ lạnh khinh thường một tiếng rồi bỏ đi.
Thật lâu vẫn không thấy người đó trả lời.
Thấy tính tình người này có vẻ kiêu ngạo, hơn nữa lại thân thể không khoẻ, làm cho Chung Nhuận càng muốn phát hỏa.
“Ngươi chính là Chung Nhuận?” Người nọ mở miệng. Thanh âm của người này trầm thấp, lại ẩn chút từ tính, dựa vào đó mà đoán thì tuổi tác của hắn chắc trên dưới ba mươi.
Đầu vai của y để ý lắm mới thấy lúc nghe được câu hỏi nó khẽ giật nhẹ một chút, Chung Nhuận nhíu mày khó chịu, câu hỏi của người thấy thế nhưng lại giống câu của Ôn Thanh Hạc lúc mới lần đầu gặp y?”Đúng là tại hạ.” Hắn đáp, trong lòng nhanh chóng phỏng đoán dụng ý đến thăm giữa đêm khuya của đối phương, đến tột cùng thì hắn là ai? Hơn nữa tựa hồ hắn biết rất nhiều về y. Mặc dù ánh trăng bàng bạc, có chút mờ nhạt, nhưng y vẫn có thể nhìn ra quần áo của đối phương có màu tử hồng (tím đỏ) , tử sắc là phục sức của quý nhân. Ở kinh thành, y không nhớ là mình có quen biết với vị đại nhân vật nào ở lứa tuổi như vậy.
“Nghe nói từ của ngươi viết rất hay?” Qua một hồi lâu sau, người nọ đứng trong bóng tối mới cất lời chậm rãi hỏi, giọng điệu nghe ra có chút thờ ơ.
“Chỉ tàm tạm mà thôi, là do mọi người quá đề cao coi trọng rồi.” Khẩu khí làm ra vẻ ta đây biết rõ của người mới tới làm cho y rất không thoải mái.
“Chung công tử quá khiêm tốn rồi.” Người đó lại cười đáp lời.
“Không đảm đương nổi một tiếng 『 công tử 』 của túc hạ. Ta thật muốn hỏi túc hạ là người phương nào? Vì sao nửa đêm lại đi vào phòng ốc sơ sài này của ta?”? Sau đó y nhìn chằm chằm vào đối phương đang đứng trong bóng tối, cố ý kéo dài âm điệu, “Chẳng lẽ là đạo phỉ sao?”
“Chung công tử quả thật biết nói đùa.” Người tới chợt bậc cười khanh khách, “Bất quá tại hạ đích thực là đã thất lễ.” Hắn di chuyển cước bộ, bước tới đứng bên cửa sổ, ở ngoài, ánh trăng như thủy ngân chiếu xuống, quang mang nhu hòa bao phủ lấy hắn, diện mạo của người đó hiện hiện rõ ra dưới ánh trăng.
Đó là một khuôn mặt đầy khí khái nam nhân, kiếm mi tu mục (đôi mày được tỉa gọn) , đôi mắt sáng rực, khí vũ hiên ngang. Hắn mặc tử bào, bên hông dùng kim đái buộc lại, nút thắt được che bởi ngọc bội, hắn khoanh tay đứng đó, tao nhã quý khí, khí định thanh nhàn, nhưng lại khiến cho người ta không có cách nào bỏ qua uy nghiêm mà hắn toát ra trên người.
Chỉ có nhân tài nắm giữ quyền thế mới có thể thản nhiên tự đắc như vậy. Chung Nhuận thầm giật mình, người này tuyệt đối không phải cái loại quý công tử ham ăn biếng làm, chỉ biết mê đàm chuyện phong hoa tuyết nguyệt? Công tử gì đó, những người ấy thì quy tắc của kẻ làm sang, nhưng khí chất lại không đủ quả quyết để chơi trò đấu trí, bàn luận như thế này.
“Tại hạ họ Triệu, Triệu Tường Dư. Hôm nay cùng bằng hữu đi thưởng rượu ngắm trăng, tiệc vừa bắt đầu non nửa thì phải ghé vào canh y (nhà xí) , không ngờ lại bị cảnh sắc lịch sự tao nhã nơi này hấp dẫn, một đường thẳng tới, bất tri bất giác đi vào viện này, thấy được một tiểu ốc bên cạnh rừng trúc mát mẽ hữu tình, lại không có ánh sáng, tại hạ mới trộm nghĩ nơi này không có người ở, cho nên mới mạn phép tiến vào, thỉnh Chung công tử thứ lỗi cho sự lỗ mãng của tại hạ.”
Người ta đã lấy lễ tạ lỗi như thế rồi mà mình còn chấp nhất không chịu bỏ qua thì đó là sai lầm của mình. Chung Nhuận nghĩ vậy, bèn nói.”Thì ra là thế, trách không được đại nhân. Hồi nãy, giọng điệu của tại hạ có chút bất kính, không biết kiêng nể ai, còn chờ đại nhân thứ lỗi cho.” Quan sát sắc mặt, Chung Nhuận khách khí nói. Y mặc dù không thích quyền quý, nhưng cũng không muốn học mấy tên ngốc đầu ngốc tử chuốc họa vào thân. Triệu Tường Dư? Hắn cẩn thận cân nhắc, nhưng mà suy nghĩ cả nửa ngày, trong đầu cũng tìm không ra người nào có gia cảnh xuất thân cao sang mang tên này. Quên đi, dù sao cũng không quan hệ gì với y, bỏ đi, nghĩ làm gì. Có ai ngờ, vận mệnh sau này của y tương liên chặt chẽ với người này, muốn dứt mà chẳng dứt được, muốn buông mà chẳng buông đành, đến chết mới thôi.
“Nếu ta biết được tính danh của ngươi, ngược lại ngươi cũng biết tên của ta, thì không cần đa lễ làm gì nữa.” Triệu Tường Dư mỉm cười, biết rõ cách y xưng hô với hắn từ đâu mà ra. Lúc ấy, những người bất đồng giai cấp thì không có phục sức tương đồng (giống nhau), bất luận kẻ nào cũng không được đi quá giới hạn. Trên tam phẩm thì phục trang tử sắc, còn những kẻ bình dân thì mặc bạch y.
“Đại nhân cùng tại hạ thân phận khác biệt, cấp bậc bất đồng, trăm triệu lần không thể thất lễ.” Chung Nhuận từ tốn nói, lời này là thật, y đối với người này, ấn tượng tuy không tồi, mặc dù còn giận hắn việc xâm phậm vào tiểu ốc của người khác, nhưng tâm thì vẫn khâm phục phong thái, khí phách của y, bất quá, y không muốn vướng vào một đống rắc rối sau này, tương giao cùng cao quan quyền quý tuyệt đối là chuyện phiền toái nhất trên đời, một khi gặp phải, cả đời đừng mơ tưởng đến an bình. Ôn Thanh Hạc là ngoại lệ, hắn tuy là mệnh quan triều đình, nhưng dù sao cũng là võ tướng, có nghĩa khí của kẻ binh nghiệp, quan hệ với triều đình không lớn, không lây dính nhiều khí của chốn quan trường, thế nên y mới yên tâm mà kết giao.
“Tất cả mọi người đều nói Chung công tử không hề câu nệ thế tục lễ giáo, hôm nay gặp rồi, mới biết được ngươi nguyên lai chỉ là tục nhân.” Triệu Tường Dư cố ý nói lời này để chọc giận y.
Không ngờ Chung Nhuận không những không giận, ngược lại còn cười đáp, “Khắp thế gian này, nơi nào cũng đầy những con mọt làm ô uế thư quyển, còn Chung Nhuận ta chính là một tên đại đại tục bối.”
Trong mắt Triệu Tường Dư âm thầm toát ra tán thưởng, “Người có thể nói những lời này thì không phải tục nhân.” Hắn mỉm cười, nói: “Xem ra Chung công tử không nguyện ý cùng tại hạ kết giao, tại hạ cũng không miễn cưỡng nữa, kết giao vì bị ép buộc thì không có ý nghĩa gì. Hơn nữa chung công tử mới gặp ta lần đầu, hiểu biết không sâu, cự tuyệt cũng là chuyện đương nhiên.”
“Tại hạ không dám, tại vì thân phận chênh lệch, hậu ái của đại nhân ta nhận không nổi.” Chung Nhuận đáp lại cực kỳ khách khí.
Triệu Tường Dư cao giọng cười to, liên tục lắc đầu, thư sinh này cực kỳ thú vị, miệng nói một đằng, thần sắc trên mặt lại hiển hiện một nẻo, khóe miệng y có chút không kiên nhẫn mà khẽ trễ xuống, biểu lộ ra tình tự trong ngoài bất nhất. Hành vi cao ngạo, nội tâm cũng ngay thẳng, bộc trực, thú vị, rất thú vị!
Không rõ hắn đang cười cái gì, khóe miệng y lại trễ dài ra thêm ít nữa, Chung Nhuận chọn cách làm như không nhìn thấy, liếc mắt nhìn bầu trời đêm bên ngoài cửa sổ, đã gần sắp canh ba rồi, y đứng lên, vuốt thẳng lại vài nếp nhăn trên xiêm y, thản nhiên nói, “Sắc trời đã muộn rồi, thỉnh đại nhân mau mau quay về, mọi người chắc đang sốt ruột chờ người trở về để tiếp tục bữa tiệc.”
“Thật ra thì cũng không sao đâu, so với chuyện uống rượu nghe khúc, ta lại nguyện ý cùng công tử đàm thi luận phú hơn, chẳng phải thêm phần phong nhã hay sao?” Hắn lơ đểnh, chút không để ý bản thân mình mới là nhân vật chính của tràng yến hội kia.
Người này nghe không hiểu lệnh đuổi khách? Chung Nhuận tiến lên vài bước, lại phát hiện hóa ra đối phương cao hơn mình nửa cái đầu, y âm thầm lui về phía sau từng bước một cho đến khi y có thể nhìn thẳng vào mắt của đối phương mới dừng lại.
Nhìn thẳng vào ánh mắt tinh thước (rực rỡ, sáng tựa sao) của nam tử kia, Chung Nhuận cả kinh, nhãn liêm rũ xuống, tránh đi tầm mắt của người kia, “Đại nhân quả thật nhã hứng mười phần, hồi nãy tại hạ đã uống chú rượu, hơn nữa không chú ý đêm nay gió lạnh, nên thân thể cảm thấy không khoẻ, chỉ sợ không thể bồi người tận hứng được.” Đã nói đến mức này, dù có là đầu đá đến cách mấy thì cũng phải hiểu đi, y tự nhủ thầm trong lòng.
“Công tử thân thể không khoẻ, có muốn tại hạ giúp ngươi thỉnh đại phu hay không?” Nhìn khóe miệng y nhẹ giật vài cái, trong mắt nam nhân chợt nổi lên ý xấu hiếm thấy, nguyên lai đùa một người thú vị đến như thế!
Người này! Chung Nhuận mục trừng khẩu ngốc, cơ hồ muốn chửi ầm lên, tửu ý vừa rồi mới bị trà lạnh áp chế nay lại nổi lên, cảm giác hỗn loạn làm cho đầu y bỗng trở nên lâng lâng, buông lời không thèm suy nghĩ, ” Cái tên kia, sao ngươi cứ dây dưa mãi không chịu dứt thế, một vừa hai phải thôi, ta muốn nghỉ ngơi, ngươi nghe có hiểu hay không? Mặc kệ ngươi là cái gì quan, cái gì lại cũng không có quyền gây trở ngại không cho người khác đi ngủ chứ!”
Cái kiểu không thèm kiêng nể gì hết, chơi lật bài ngửa, xé da trơ mặt mà đuổi người đi này nằm ngoài dự kiến của y, nhưng Triệu Tường Dư không những không sinh khí, ngược lại tâm tình càng thêm vui vẻ, hớn hở.
Cởi bỏ lớp ngoài nho nhã lễ độ nhưng lại băng lãnh kia, không hề mở miệng một tiếng”Đại nhân”, một câu “Tại hạ” nữa, nhãn mâu do say rượu nên có chút mê ly, đôi gò má vì người tức giận mà hơi hơi phiếm hồng, tóc tựa hồ gần dựng thẳng lên giống một cái cây, nhìn Chung Nhuận như vậy không hiểu sao tâm tình của hắn chợt tốt lên. Triệu Tường Dư cứ đứng ở đấy nhìn y tỏ vẻ thích thú, muốn ngừng mà không được.
Tửu lực trào lên, đầu có điểm choáng váng khiến Chung Nhuận lười cùng tên kia so đo, nếu đã không khách khí mà nói đến mức này, y cũng không thèm để ý đến cái gọi là lễ nghi nữa, giờ phải nghỉ ngơi cho đã mới được, sau khi tỉnh lại rồi thì mới quản chuyện của hắn. Tội quá, bây giờ y chỉ muốn ngủ mà thôi, dù cho thiên hoàng lão tử đến cũng đừng mơ mà ngăn đươc y!”Tùy ngươi muốn làm gì thì làm, muốn uống trà thì tự mình đi rót, không ai rảnh mà hầu ngươi, muốn ngủ thì cứ tự nhiên lăn ra đất mà nằm, muốn ngắm trăng thì ra ngoài mà ngắm, trước khi đi nhớ đóng cửa sổ lại, đến lúc bước ra thì phải khép chặt cửa vào, miễn cho lại thêm một kẻ không có mắt mũi khác lạng quạng tiến vào.” Y lạnh lùng nói, thay đổi biện pháp mắng chửi người.
“Thất lễ thất lễ, là ta quấy rầy.”
Y không nghĩ tới một khắc sau đối phương lại buông lời giải thích, còn pha lẫn vài phân thành khẩn, ngơ ngác mất mấy giây, y mới phản ứng lại, trên mặt y có chút ngượng ngùng, hổ thẹn với lời nói xấc xược vô lễ hồi này của mình “Không sao, là do tại hạ tính tình không tốt, còn thỉnh đại nhân đừng phiền lòng để bụng.”
Lại biến trở về thành thư sinh thanh tao nho nhã. Triệu Tường Dư phải tận lực áp chế mới ngăn mình không cười ra tiếng, hắn còn chưa muốn chọc cho đối phương thẹn quá hóa giận đâu! Bị người khác biết được bản chất tính tình thật sự của mình, có người sẽ vui vẻ tiếp nhận đối phương kết giao hảo hữu, ngược lại cũng có kẻ sẽ bài xích đối phương, xem ra, Chung Nhuận là loại người thứ hai, nếu hắn muốn tiếp cận y, thì giờ phút này vẫn nên bồi y diễn trò cho thỏa đáng, tránh nhạ chuyện khiến y trở mặt làm gì.”Đêm đã khuya, ta nên cáo từ, hy vọng ngày khác có thể cùng công tử hàn huyên đàm thoại lâu hơn.”
Chung Nhuận đang trong cơn buồn ngủ, thấy hắn nói lời khách khí như vậy thì cũng không keo kiệt làm gì, dùng lễ đáp trả, “Nhất định nhất định!” Trong lòng thì lại ước từ nay về sau ngay cả cơ hội gặp mặt cũng đừng có mới là tốt.
Triệu Tường Dư khẽ mỉm cười, cái bộ dáng mong muốn đuổi hắn đi càng nhanh càng tốt đã chứng minh rằng y khẩu thị tâm phi.
Sau một phen khách sáo đưa đẩy qua lại, nam nhân rời đi.
Chung Nhuận thở dài nhẹ nhõm, không biết vì sao, ngay lúc người tự xưng là “Triệu Tường Dư” xuất hiện trước mặt, y bỗng dưng có loại cảm giác khẩn trương, không muốn tiếp xúc nhiều với người này, có thể do y chỉ là bình dân bá tánh bình thường, không quen nhìn quý khí của hắn, cũng có lẽ là do cảm giác yêu ghét của mỗi người khác nhau.
Không cần để ý đến hắn nữa, dù sao chuyện hai người gặp được nhau tối nay chỉ là cực kỳ ngẫu nhiên mà thôi. Y lắc lắc đầu, đang muốn đi đóng cửa sổ lại, thì vô tình ngẩng đầu lên, ánh sáng mong lung từ nguyệt nương pha màu bàng bạc khắp không gian, bầu trời đêm nay không ánh sao, lại có vẻ sáng ngời hơn bình thường, làm y ngây ngốc.”Nguyệt sắc mênh mông, sáng trong tựa nữ nhân tâm a.” Thở dài một tiếng, đột nhiên cơn buồn ngủ biến mất tự lúc nào.
Quay đầu trở về giường, đã không còn lòng dạ nào mà ngủ, y bèn phủ thêm một kiện áo khoác, đẩy cửa bước ra. Chậm rãi đi dọc theo đường mòn giữa các bụi hoa, từ bên kia rừng trúc truyền đến thanh âm trêu đùa đứt quãng của khách nhân cùng các cô nương trong việc hòa lẫn với nhạc thanh ti trúc cầm huyền. Y không dừng lại, tiếp tục cất bước theo cửa hông đi ra khỏi Hàm Hương Viện.
|
3-2: Hạ
Edit: Tĩnh Nguyệt
...Gió lạnh thổi từng cơn khiến người tê dại, thân không tiền chẳng biết lang bạt nơi nao, y không chỗ để đi, gần như chết rét giữa cơn tuyết lạnh ấy. Mỉa mai, nực cười thay, y lại được thanh lâu nữ tử mà thường ngày y luôn khinh bỉ ra tay sở cứu...
Tại một con ngõ nhỏ yên lặng cuối phố, không khí trong trẻo nhưng có chút thanh lãnh làm y bất chợt rùng mình, một mảnh yên tĩnh bao phủ chung quanh, chỉ nghe thanh phu canh gõ mõ cầm canh, còn có tiếng chó sủa ngẫu nhiên từ xa xa truyền tới. Y cầm theo đèn lồng, một mình một người đi vào ngõ nhỏ trống vắng, gần đầu đường lộ ra ánh nến vàng nhạt leo lét cháy, đến gần thì mới thấy, nguyên lai là từ gian hàng ăn khuya của lão nhân. Tối nay sinh ý tựa hồ không tốt lắm, trước cửa quán chẳng thấy bóng khách nhân lai vãng, hai tay lão nhân đan xen nhau, giấu vào trong y tụ, lui cổ, dựa người vào thổ tường gà gật ngủ.
Nghe được tiếng bước chân, lão nhân mở mắt rất nhanh, thấy người tới là y, gương mặt đầy nếp nhăn nở nụ cười đơn thuần hàm hậu, “Công tử, vẫn một bát cháo ngọt như cũ hả?” Lão ở ngỏ nhõ này trông coi việc buôn bán đã nhiều năm, đối với khách nhân thường xuyên lui tới lão đều nhớ rõ, nhất là vị công tử trẻ tuổi hằng đêm thường xuyên lui tới trong nửa năm gần đây .
Chung Nhuận gật gật đầu.
“Ai, lập tức có liền!” Lão nhân lập tức đứng dậy hâm nóng bếp lò, không bao lâu, một chén cháo ngọt nóng hôi hổi được đưa lên.
Ăn được non nửa bát, thân thể vừa rồi còn run lên vì cơn gió đêm đầu mùa rét lạnh dần dần nóng lên, y thả mấy đồng tiền xuống bàn, “Cám ơn lão nhân gia.” Chắp tay tạ ân xong, y lại tiếp lục lộ trình của mình.
Hàm Hương Viện cách tường thành không xa, không bao lâu, Chung Nhuận đã tới biên thành, thủ vệ canh giữ nơi đó đều biết mặt y nên tùy ý để Chung Nhuận đi đến một góc hẻo lánh trên cổng thành. Góc nhỏ ở Tây thành lâu này cũng không biết là do người của triều đại nào xây dựng nên, chỉ biết đương triều ngày này, bởi vì nó quá mức cũ nát, sau khi thành lâu được tu sửa thì nơi này bị bỏ hoang, chỉ còn lại một tòa thành lâu cô độc lẻ loi đứng lặng ở nơi đó làm dấu tích minh chứng cho thời gian.
Chung Nhuận rất thích nơi này, an tĩnh, không người quấy rầy, y có thể lẳng lặng ngồi ở dưới bầu trời đêm mênh mông, thả suy nghĩ của vào vào vũ trụ rộng lớn, dứt bỏ thế tục công danh lợi lộc, thả lỏng tâm tư, để nó bay lên chín tầng mây.
Ngồi trên đóa khẩu* (lỗ châu mai) , y nhìn về phía đông nam, xa xa chỉ thấy một mảng không trung hắc ám bao phủ lấy mọi thứ, đồng cỏ bát ngát hoang vu kéo dài không thấy đích, che đi ranh giới giữa thiên và địa, mơ hồ nhập lại làm một.
Nàng, chắc đã chìm sâu vào giấc ngủ. Chỉ mong nàng có một giấc mộng thật đẹp, cũng nguyện nàng, trong mộng —— không có y.
Nhớ lại hơn một năm kể từ ngày thượng kinh khảo thí, trong lòng y cảm khái vạn phần. Y của năm trước, kiêu ngạo đắc ý, tự cho mình là tài trí hơn người, tài trí không thua kém, ai Trạng Nguyên bảng vàng đề danh là điều tưởng chừng như nằm trong bàn tay, sĩ tử thư sinh bên cạnh lúc nào cũng đi theo tán dương nịnh nọt, khiến y không biết trời cao đất rộng là gì. Ngờ đâu đến khi hoàng bảng được dán lên, y danh lạc Tôn Sơn, như từ trên đám mây rơi xuống bùn lầy dưới mặt đất, rơi cực thảm, đám người ngày xưa lúc nào theo sau nịnh bợ y bây giờ trở mặt bỏ đá xuống giếng, còn nhóm sĩ tử thường thường bậc trung, tài hoa không bằng y ngẩng đầu vênh mặt, lãnh nhãn chế ngạo, chưởng quầy khách điếm ngày hôm trước còn dùng khuôn mặt tươi cười thỉnh cầu y đề tự, lại không hề để ý đến bão tuyết bên ngoài, biết y trong túi không còn một đồng mà vẫn đuổi thẳng ra ngoài ? Gió lạnh thổi từng cơn khiến người tê dại, thân không tiền chẳng biết lang bạt nơi nao, y không chỗ để đi, gần như chết rét giữa cơn tuyết lạnh ấy. Mỉa mai, nực cười thay, y lại được thanh lâu nữ tử mà thường ngày y luôn khinh bỉ ra tay sở cứu.
Trải qua nhân sinh ấm lạnh tình người, từng chút một nhớ lại dĩ vãng tưởng chừng như đã nhạt nhòa, khi ấy, y luôn tự cho là thanh cao, mặc dù khinh thường quan trường nhưng lại không cam lòng bị những kẻ tầm thường, ăn không ngồi rồi, sống bám vào người khác hoa tay múa chân với y, cá tính cũng tranh cường cuồng ngạo, trong mắt không bao giờ chịu dung một hạt cát (ý nói không chịu thua kém ai). Bây giờ nghĩ lại, y lúc đó, vừa đáng thương lại vừa đáng cười.
Hồi ức qua đi, thần trí quay về, y tự lắc đầu giễu mình, y kiêu ngạo, không ngờ lại hại chính mình, hại con người ôn nhu tự thủy kia. Y với nàng, kiếp này chỉ sợ vô duyên. Đã biết trước như vậy, nhưng mà, vì sao trong lòng vẫn còn ngơ ngẩn, luyến tiếc khôn nguôi?
Mất mác cùng trống trơn, y thở dài một hơn, từ bên hông lấy cây tiêu nhỏ, nhẹ đưa lên miệng, cúi đầu mà thổi ra một khúc nhạc du dương pha lẫn chút thê lương, xuyên màn đêm tầng tầng lớp lớp, vượt qua mái ngói trùng trùng điệp điệp, mang tâm sự truyền đến lòng người, gợi lên mạt sầu ti sâu tận trong tim của những người không ngủ được trong đêm khuya vắng lặng nàt.
Đêm càng dài, sầu càng thâm!
Trong không trung truyền đến tiếng tiêu động lòng người, khiến cho nhóm kiệu phu đi qua ngõ nhỏ kìm lòng không đặng, cước bộ chợt dừng, tiếng tiêu kia chứa đầy cảm xúc tâm linh, ngay cả bọn họ là những kẻ không thông tiêu nhạc cũng bị tình tố như khóc như oán trong đó hấp dẫn, có người nhớ tới mẫu thân bệnh tật đã lâu mà mình vẫn chưa thể về thăm, có người nhớ tới tiếng khóc than kêu đói của hài tử, có người nhớ tới thanh mai trúc mã không thể kết duyên nên nghĩa phu thê, dù cho bọn họ là những kẻ tâm địa cứng rắng đến đâu, cũng nhịn không được nhỏ vài giọt ai lệ.
Kiệu liêm bị xốc lên, nam nhân bên trong dùng phiến cốt vén rèm, lắng nghe kia tiếng tiêu xuất thần kia, một hồi lâu, mới phục hồi tinh thần lại, “Tần Giác, “ hắn gọi.
“Có thuộc hạ.” Vừa dứt lời, một hắc y nam tử nửa quỳ ở trước kiệu.
“Ngươi đi xem thử là người nào đang thổi tiêu.” Nam nhân bên trong kiệu ban lệnh.
“Vâng” Hắc y nhân lĩnh mệnh.
Tiếng tiêu kia phiêu đang trên bầu trời đêm. Nam nhân nhìn lên, chỉ thấy một vầng trăng sáng treo lơ lửng bên mái hiên nhà người.
Rất nhanh, hắc y nhân tên gọi “Tần Giác” đã trở lại, “Bẩm báo Tướng gia, là thư sinh danh kêu Chung Nhuận thổi tiêu ở trên thành lâu.”
“Nga, Chung Nhuận?” Nam tử bên trong kiệu chậm rãi lặp lại, dùng phiến tử vỗ tay tán thưởng, bên khóe môi lộ ra đường cong tựa tiếu phi tiếu.
Chung Nhuận tuy rằng thân ở thanh lâu, nhưng tình cảnh y ở Hàm Hương Viện cũng đến nỗi quẫn bách xấu hổ như người bên ngoài ác ý phỏng đoán. Mới đầu, tú bà lãnh nhãn đối đãi với y, tên thư sinh nghèo túng được Tuyết Yên cứu trở về, ngày thường đều chỉ chó mắng mèo, chẳng qua ả ngại mặt mũi Tuyết Yên mới không xách gậy gộc đuổi y ra ngoài. Sau này, khi y viết từ cho các danh tử, vàng bạc tài bảo liền theo tuyệt bút cuồn cuồn mà đến, khiến tú bà mừng rỡ, mặt mày hớn hở cả lên, đương nhiên lãnh nhãn đối y được lập tức thay bằng nhiệt kiểm (niềm nở), ngôn ngữ cũng đổi thành tán thưởng nịnh bợ. Bởi vậy, mỗi ngày của y vẫn đều quá mức tự tại.
Phần lớn thời gian y đều nhàn rỗi, những lúc vô sự, thì viết mấy bức thư họa, đổi một ít tiền thưởng. Cô gia quả nhân (một mình đơn côi), có rượu có thực, một người ăn no cả nhà không đói bụng, xem như thảnh thơi.
Ấy là một buổi sáng ngày xuân rực rỡ, Thiên Nguyệt Lâu trước sau vẫn náo nhiệt như cũ, điếm tiểu nhị cao giọng thét to, bưng rượu và thức ăn xuyên qua các gian bàn, thực khách thì chơi đoán số phạt rượu, rất khoái hoạt. Thiên Nguyệt Lâu mặc dù không có nghiêm lệnh quy định, nhưng có mặc khế (quy định ngầm) ai ai cũng hiểu, đại đường lầu một là nơi người bình thường uống rượu ăn cơm, lầu hai tiếp đãi văn nhân, nhã sĩ, đại quan, quý nhân, còn lầu ba lại dành cho những nhân tài thân phận địa vị không tầm thường đi lên.
Chung Nhuận ngồi ở đại đường trong một góc không người chú ý. Một mình uống rượu. Người mượn rượu giải sầu tự uống với bản thân còn vui hơn có bằng hữu theo cùng, cũng không có ai đi để ý, chỉ có một số ít người chú ý tới một kẻ quần áo thật bình thường, nhưng dù ở trong đám người thô phu ồn ào vẫn tựa như hạc trong đàn gà. Tuổi còn trẻ mà có được khí chất như vậy, chắc chẳng có bao người.
Chung Nhuận không hề quan tâm đến tầm mắt cố ý vô tình đảo qua mình, cứ nhàn nhã ngồi đó thưởng rượu, Rượu của Thiên Nguyệt Lâu, quả nhiên danh bất hư truyền! Y nhẹ khép mắt, tinh tế thưởng thức tửu hương thanh liệt.
Lúc này, ngoài đại môn vang lên một trận xôn xao, có một đám cử tử (thư sinh) cùng nhau tiến vào, niên kỷ còn nhỏ, nhưng trên mặt mỗi người đều mang theo vài phần kiêu căng, vây quanh một người tuổi tác khá trẻ khuôn mặt anh tuấn, phong độ tiêu sái, đều khí độ, cao ngạo không kém.
Không khí huyên náo nơi Đại đường lập tức ngừng lại, khách nhân mỗi người đều nín thở kính sợ mà nhìn đám người niên khinh sĩ tử này. Đối với bọn họ mà nói, địa vị của những người đó, bọn hắn có cầu cả đời cũng không được.
Chung Nhuận liếc nhìn một cái, nở nụ cười lãnh liệt trào phúng, y của một năm trước cũng hăng hái kiêu căng như thế, khi đó y sao có thể nghĩ đến hôm nay mình lại rơi vào tình cảnh thế này, từ đó có thể thấy được số kiếp này quả nhiên là hỉ nộ vô thường. Bất quá, tuy rằng y mất đi rất nhiều, nhưng cũng có được không ít, nếu không nghèo túng, y sẽ không thấy được những tính toán âm ám sau gương mặt a dua tươi cười của người khác, cũng nhìn không rõ thê lương vô tình của thế gian, lại càng không có được thực tâm bằng hữu giống Ôn Thanh Hạc vậy.
Điếm tiểu nhị vốn đã nhìn quen mỗi người mỗi vật, vội nháy mắt mấy cái, liền đon đả nghêng đón, “Chư vị công tử, thỉnh lên lầu!”
Chỉ thấy nhóm cử tử đó ngưỡng đầu cao ngạo, khinh miệt nhìn lướt qua đại đường, vừa lòng mà hừ một tiếng, sau đó cùng nhau bước lên lầu.
Một lát sau, đại đường mới lặng ngắt như tờ lại bắt đầu náo nhiệt, nhất thời ai ai cũng bàn luận.
“Ngươi thấy vị công tử dẫn đầu kia không? Hắn tên là Thượng Quan Thanh, là trưởng tử của Binh Bộ Thị Lang, tài hoa phong lưu, hạ bút như thần, hôm nay diện kiến quả nhiên là thiên chi kiêu tử a. Xem ra Trạng Nguyên lang năm nay nhất định là hắn!”
“Này cũng chưa chắc à nha.”
“Nghĩa là sao?”
“Ngươi còn nhớ rõ Chung Nhuận năm trước danh chấn nhất thời hay không? Lúc đó chẳng phải y cũng tài hoa hơn người! Sau này ngay cả bảng tiến sĩ cũng không vào được?”
“Ai, ngươi có điều không biết, thư sinh kia tuy rằng văn vẻ viết rất tốt, nhưng gia cảnh lại chẳng có gì đặc biệt, chỉ là thư sinh bình dân, vị Thượng Quan công tử không giống với y, không nói đến gia thế nhà hắn, chỉ riêng việc hắn được Triệu tướng quốc tán thưởng cũng đã hơn khối người rồi!”
“Tướng quốc đại nhân đã từng khen hắn? Sao ta lại không biết?”
“Chẳng trách ta linh thông tin tức hơn so với ngươi. Đại chất (cháu lớn) nhà ta làm việc trong quan phủ, hắn nói có lần Thượng Quan đại nhân mở tiệc chiêu đãi Tướng quốc đại nhân, giữa tiệc Thượng Quan công tử làm một khuyết từ dâng tặng, rất được Tướng quốc đại nhân tán dương đó nha!”
“Hắc, đừng vội nở mặt, chuyện này ta cũng biết, nhưng có phần ngươi lại không biết, lúc ấy Đại nhân tuy rằng tán thưởng từ của Thượng Quan công tử, nhưng không phải sau đó còn nói hắn vẫn thua một người hay sao?”
“Ngươi nói như vậy cứ như đang chế giễu ta, người kia là ai?”
“Ta cũng không biết, nghe nói lúc ấy những người dự tiệc cũng hỏi, nhưng Tướng quốc chỉ cười cười không đáp mà thôi.”
“Người nào mà tài hoa hơn hẳn Thượng Quan công tử a?”
“Ai mà biết được!”
Chung Nhuận vẫn đang tự rót tự uống, người khác nghị luận điều gì cũng không liên quan tới y, nếu là lúc trước, y có lẽ sẽ sôi nổi lý luận một phen, nhưng hiện tại thì lại cảm thấy những điều đó giờ đây trở nên cực kỳ vô vi.
Buông chén rỗng xuống, hắn với tay lấy bầu rượu trên bàn, châm châm, lại không có giọt nào chảy ra, hết rượu rồi, y tiếc nuối lắc lắc đầu.
“Ta có thể ngồi ở chỗ được không?” Một bóng người xuất hiện trước bàn chặn đi ánh sáng.
Y cũng không ngẩng đầu lên, “Xin cứ tự nhiên.”
Người tới cũng không khách khí ngồi xuống đối diện y, “Nếu không ngại, ta xin mời công tử uống vài ly rượu?”
“Không cần, đa tạ huynh đài.” Y lạnh nhạt cự tuyệt.
“A, Chung công tử còn lạnh lùng hơn cả lúc đầu nha!” Người tới đàm tiếu.
Thanh âm có điểm quen thuộc làm ngẩng đầu lên, là kẻ tự xưng “Triệu Tường Dư” xâm nhập vào phòng y tối hôm trước. Hôm nay hắn mặc thường phục trù bạch, cùng cách ăn mặc với nho sinh bình thường, nhưng dù có đơn giản cách mấy vẫn không che đi được quý khí của hắn.
Chung Nhuận ảm đạm cười, “Triệu đại nhân lại cười chê nữa rồi. Tại hạ hưng tẫn (hết hứng), phải đi trước rồi, Triệu đại nhân, cứ tự nhiên” Tiếp theo y đặt một thỏi bạc lên bàn, xoay người rời khỏi Thiên Nguyệt Lâu.
“Di, Chung công tử chán ghét ta đến như thế sao?”
Đi chưa được mấy bước, người nọ liền không vội không chậm mà đi theo.
Chung Nhuận dừng chân, quay đầu, “Ta thật muốn hỏi Triệu đại nhân một chút, tại hạ có điểm nào làm đại nhân tán thưởng đến thế, cứ theo đuổi không dứt?”
“Theo đuổi không dứt?” Triệu Tường Dư trầm ngâm ngẫm nghĩ một lát, lập tức mỉm cười, “Nói rất hay.”
Y nhíu mày, lại nghe thấy người nọ nói: “Ta đối Chung công tử nhất kiến như cố (gặp như đã quen lâu), tâm sinh thân thiết, cố nghĩ muốn thân cận, này cũng là nhân chi thường tình đó mà.”
Chung Nhuận yên lặng không nói gì, nhất thời không muốn làm rõ những ý tứ trong lời nói của người kia.
Trầm mặc một lát, y mở miệng nói: “Triệu đại nhân, nếu không còn việc gì khác, xin cho ta đi trước.”
“Không biết Chung công tử muốn đi đâu?” Triệu Tường Dư không để ý tới vẻ mặt lạnh nhạt của y, hỏi.
“Thiên Thai Tự.” Cho dù không muốn trả lời, nhưng gia giáo thuở nhỏ của Chung Nhuận không cho phép y làm lơ.
“Không biết tại hạ được vinh dự đồng hành với công tử hay không?” Triệu Tường Dư tiến thêm một bước hỏi, cho tới bây giờ hắn chưa từng nhiệt tình đối đãi với kẻ lạnh nhạt như vậy, nhưng đối với thư sinh lạnh lùng này, hắn cố tình muốn thân cận, cho dù sắc mặt đối phương chẳng lấy làm vui gì, cũng chẳng sao, hắn vẫn muốn tới gần.
” Tùy ý Đại nhân.” Chung Nhuận nhíu nhíu mày, do dự một chút rồi mới trả lời, giằng co với nam nhân không quen biết này càng thêm vô nghĩa, chi bằng cho hắn theo đi, đỡ phiền.
Triệu Tường Dư nhướng mày, bày ra nụ cười thắng lợi, đi tới vài bước cùng y sóng vai đồng hành.
|
4.1: thượng
Edit: Tĩnh Nguyệt
Một tên thư sinh trói gà không chặt mà dám lấy thân mình ngăn chặn đám ác phó thần tình dữ tợn kia. Tuy rằng thân thể y gầy yếu, tựa hồ chỉ cần một cơn gió cũng đủ thổi y đi mất. Nhưng cả người Chung Nhuận lại toát ra khí thế kiên định lẫm liệt, khiến mấy tên đại hán kia dao động, nhất thời đám gia phó kia không dám tiến lên nửa bước, cả bọn dừng bước, hai mặt nhìn nhau.
Phố xá đông người qua lại, lai khách tứ phương tập hợp, quán cái bên đường bày ra hàng hóa rực rỡ muôn màu, có gạo từ phía nam, trái cây, tơ tằm cùng lá trà; có hải sản vùng Duyên Vũ, đồi mồi; còn cả Ngưu dương từ Tây bắc, than đá, giấy từ Phúc Kiến in thành bộ sách; sơn mài từ Chiết Giang, cả phiến tử từ Nhật Bản, mực của Triều Tiên, các hương liệu dùng cho thức ăn.
Lững thững dạo chơi giữa biển người, Chung Nhuận không nói lời nào, Triệu Tường Dư cũng vậy, Chung Nhuận không đi nhanh được, Triệu Tường Dư cũng để ý điều chỉnh cước bộ, ra khỏi con đường ồn ào, cả hai dường như nhập vào không khí cực kỳ yên lặng của chung quanh.
Đi được nửa canh giờ, hai người ra khỏi cửa thành, nhắm thẳng hướng Đông Nam mà đi.
Thiên Thai Tự nằm trên đỉnh tiểu sơn ở ngoại ô thành, dù hương khói ngày thường cũng không phải nghi ngút gì cho cam, nhưng có phong cảnh tuyệt đẹp, thường thường hấp dẫn một số văn nhân nhã sĩ đến đây ngâm thi đối cảnh.
Cỏ non ven đường xanh mướt, hoa cúc mỏng manh lay động theo gió, rất trong lành đáng yêu, con đường dẫn lên núi quanh co khúc khuỷu, u ý động lòng người, đến khi thấp thoáng có thể thấy được sơn môn, thì bỗng từ đâu truyền đến một trận ồn ào, nguyên lai là một đám công tử quần áo hoa lệ dẫn theo gia phó ca kỹ thanh thế hạo đại, hơn phân nửa là mới vừa du xuân về. Kẻ sĩ rung đùi đắc ý ngâm thơ, gia phó ca kỹ một bên phụ họa nịnh hót.
Gặp phải một đống người cố làm ra vẻ thật sự không thú vị, Chung Nhuận đang muốn né tránh, không ngờ một người trong đó bỗng cất cao giọng đứng lên, “Yêu, đây không phải Chung huynh hay sao?”
Chung Nhuận ngước nhìn lại. Chỉ thấy kẻ sĩ kia trông có vẻ quen mắt, lại vẫn nhận không ra.
Kẻ đó lớn tiếng cười nhạo nói: “Chung huynh quả nhiên là quý nhân hay quên sự, ngay cả Lương Thế ta cũng không nhớ được sao.”
Người bên cạnh vội vàng nói: “Lão gia nhậm chức quan, phú quý bức người, cái tên bình dân này làm sao mà sánh được.”
“Nguyên lai là Lương huynh, đã lâu không gặp.” Y khách khí nói. Chung Nhuận nhớ ra, người nọ là thí sinh đồng kỳ năm trước, gặp mặt không nhiều lắm, trong ấn tượng Lương Thế hình như tương đối khinh thường y.
Triệu Tường Dư có chút bất mãn, tên “Lương Thế” này tới tìm phiền toái cũng coi như có thể bỏ qua đi, chỉ có điều thái độ hữu lệ của Chung Nhuận đối với tên đó khác hẳn vẻ lạnh nhạt đối với hắn.
Lương Thế nở nụ cười hỉ hả, phe phẩy cây quạt, đi vòng quanh người y hai lòng, lên tiếng tấm tắc, “Chung huynh, nghe nói gần đây ngươi thập phần tiêu dao, cô nương ở Hàm Hương Viện mỗi người xinh đẹp tựa thiên tiên, Chung huynh ở nơi đó được đối đãi ôn nhu, hoa tửu uống miễn phí, chẳng phải đã vui đến quên cả trời đất, giống như thần tiên vậy, thật khiến cho tiểu đệ hâm mộ đến chết. Ai!” Hắn thở dài thở ngắn.
“Tiểu đệ bất tài, năm trước được Thánh Thượng ân điển đỗ tiến sĩ, năm nay triều đình cắt cử làm tiểu quan, bận đến nỗi khiến tiểu đệ sứt đầu mẻ trán, hôm nay thật vất vả mới có được nửa ngày nhàn nhã cùng bằng hữu du ngoạn. Không nghĩ lại được diện kiến Chung huynh, so sánh ra, chung huynh thảnh thơi thật đúng là khiến cho tiểu đệ ganh tỵ a!”
“Đúng vậy, chúng ta đều đại nhân công việc bận rộn, làm sao so với chung huynh tùy ý tự tại?” Một sĩ tử vóc dáng mập mạp đứng giữa chêm lời.
Một nữ tử diễm mạt trang điểm thật đậm rúc vào bên cạnh Lương Thế đích cao thấp đánh giá Chung Nhuận một phen, che miệng cười duyên ra tiếng, “Yêu, công tử gia hảo tuấn tú nga! Lương đại nhân, vị này là công tử thế gia nào a? Bộ dạng xuất sắc như thế, cho dù để ta hầu hạ, ta cũng nguyện ý!”
Lương Thế cười rộ lên, “Yên Hồng, tính ra vị Chung công tử này cũng là người trong nghiệp với ngươi đó?”
“Người trong nghiệp?” Ca kỹ tên là”Yên Hồng” một đầu sương sớm, kinh ngạc hỏi han.
“Không sai!” Lương Thế tà nghễ Chung Nhuận liếc mắt một cái, cao giọng nói: “Người đứng ở trước mặt ngươi chính là vị điền từ công tử danh chấn thiên hạ đó! Chuyên môn? Là điền khuyết từ cho các ca kỹ trong viện, không phải là người cùng nghiệp thì là gì?”
“Điền từ công tử?” Yên Hồng ngữ điệu nỉ non nhấn mạnh hỏi lại, nụ cười quyến rũ trên mặt dần dần liễm đi, thái độ nghiêm túc hẳn ra, bộ dạng phục tùng hạ mắt đứng ở một bên, không nói điều gì.
Lương Thế nguyên tưởng rằng có thể tìm được cơ hội hảo hảo giễu cợt Chung Nhuận một phen, không nghĩ tới Yên Hồng lại phản ứng như vậy, nhất thời cảm thấy mất hứng,
“Ban đầu, phong thái của Chung huynh làm cho tục nhân chúng ta đố kỵ được ngay, hôm làm sao lại ra nông nỗi này?” Thấy Lương Thế đang cười mỉa, thổ tử nọ vội vàng châm chọc.
“Chu huynh, lời này của ngươi dở quá, phong thái Chung huynh vẫn như trước a, ngươi không thấy được Chung huynh ở Hàm Hương Viện tự do tự tại như cá gặp nước? Diễm phúc của Chung huynh có ai bì kịp?” Ma điểm sĩ tử nhìn như giải vây kì thực lại cười nhạo.
“Ta bất tài nên không dám với tới thượng quan, mà được làm hạ thần thì cũng coi như là an ủi, Chung huynh, ngươi nói có phải hay không?” Có người phụ họa, Lương Thế dũng cảm hẳn lên, ra vẻ hỏi han.
Đối mấy lời châm chọc khiêu khích từ những người này, biểu tình Chung Nhuận vẫn không thay đổi, chỉ cười nhạt như trước, tựa hồ lời nói y nghe không phải ác ngữ mà là mỹ ngôn.
Ngược lại, sắc mặt Triệu Tường Dư hơi trầm xuống.
“Chung huynh sao lại không nói lời nào? Có thể nào là tự biết xấu hổ nên không dám nói?” Lương Thế “Bá” một tiếng, mở quạt nghênh ngang, biểu tình ngạo mạn vô lễ.
“Quan dân, ngư thủy, thục tri thục nhạc” Sau một lúc lâu, Chung Nhuận chậm quá đáp trả.
(Cái này dựa trên từ hán việt thì ta nghĩ nghĩa của nó là quan với dân như cá với nước, phải hiểu nhau, biết nhau thì mới đồng lòng vui vẻ được, chứ không có cái kiểu ngạo mạn ta là kẻ trên, ngươi là kẻ dưới như thằng cha kia.)
“Hừ!” Sắc mặt Lương Thế trầm xuống, “Cãi bướng hả? Đừng tưởng rằng ngươi có chỗ dựa mới thì lên mặt, ta thấy ngươi cả đời này sống trong cảnh bần cùng túng thiếu, ngóc đầu không lên nổi!”
” Lương huynh chỉ giáo tại hạ ghi vào tâm.” Y vẫn không nóng không giận trả lời lại.
Lương Thế tức giận đến mức mũi đều lệch qua một bên, quăng thẳng hình tượng thiếu gia biến vào hư không, hắn chửi ầm lên: “Ngươi cho ngươi là ai, dù trước kia ngươi có tài, chẳng phải bây giờ vẫn sống nghèo túng quỵ lụy người khác? Hiện tại ta là quan, ngươi là dân, chỉ cần một ngón tay của ta cũng đủ để trị ngươi rồi, để xem ngươi có thể kiêu ngạo đến bao lâu!” Hắn bắt đầu lên mặt dọa người.
“Làm càn!” Bỗng một tiếng quát nhẹ vang lên. Thanh âm không lớn, lực đạo cũng chưa đến mười phần, nhưng uy nghiêm trong đó lại nặng tựa như đá, khiến cho không khí trở nên căng thẳng.
Nghe lời khiển trách này, Lương Thế cả người sợ hãi, lập tức nhắm lại miệng. Hắn nơm nớp lo sợ, nhìn về hướng phát ra tiếng nói, chỉ thấy một gã nam tử trên dưới ba mươi tuổi, dáng người tu trường, không có khí tức thư sinh văn nhược. Hắn mặt như quan ngọc, mày tu mắt hẹp, mũi cao môi mỏng, mỗi động tác chuyển mắt hé miệng đều toát ra hàn khí khiến người lạnh thấu xương.
Đây là quý nhân nơi nào? Trực giác nổi lên, Lương Thế vừa định quỳ xuống, thì đột nhiên thấy được y sam mà người đó mặc, bạch y tố quan (áo trắng mũ trắng), đây rõ ràng là tên bình dân nào đó giả dạng quan lớn mà! Giỏi thật, thiếu chút đã nữa làm cho hắn mất thể diện! Lương Thế gạt đi nỗi kinh sợ vừa nãy, lớn giọng quát “Ngươi là ai, ai?” Ngữ khí tỏ ra mãnh liệt nhưng đến chữ cuối cùng vẫn nhuyễn đi nửa phần.
Mà những người khác đi theo hắn cũng bắt đầu hùa theo, nhao nhao la mắng.
Chỉ có sĩ tử mập là không có tham dự, hắn nhìn Triệu Tường Dư một cách cổ quái, lộ ra vẻ mặt kinh ngạc pha lẫn chút hoài nghi.
“Bất quá chỉ là một tên bình dân bần cùng mà cũng bày đặt lên mặt, ngươi có biết ta là không?” Thanh thanh yết hầu, Lương Thế hừ mũi một tiếng, tiến lên từng bước, “Nói cho ngươi biết, cha ta là.....”
Triệu Tường Dư nâng mắt, gấp chiết phiến gạt đi ngón tay đang chỉ mặt hắn, “Mặc kệ ngươi là ai hoặc phụ thân ngươi làm gì, điều đầu tiên ngươi cần phải học chính là lễ tiết.” Ngữ khí thản nhiên không hề giận dữ, nhưng lại có vẻ ngưng trọng áp bách, đáng tiếc, luôn có những kẻ đầu óc bã đậu, nghe hoài chẳng hiểu.
“Lớn mật!” Lương Thế bạo gầm lên như sấm, “Bình dân nho nhỏ mà dám lên mặt dạy đời bản đại nhân? Giỏi, ngươi lớn mật lắm! Người đâu!” Càng nghĩ càng tức, hắn giận dữ phất tay, “Đem tên dân đen vô lễ xấc xược, không biết tôn ti này hảo hảo giáo huấn cho ta!”
“Dạ!” Gia phó đồng thanh tuân mệnh, cùng cầm gậy tiến lên, khí thế như lang như hổ.
Ánh mắt Triệu Tường Dư trầm hạ, bàn tay đang cầm chiết phiến giơ lên, chuẩn bị tiếp đòn.
“Chậm đã!” Đột nhiên có một bóng người nháy lên, ngăn ở trước người hắn. Chung Nhuận dũng cảm đứng ra, bảo vệ hắn! Một tên thư sinh trói gà không chặt mà dám lấy thân mình ngăn chặn đám ác phó thần tình dữ tợn kia. Tuy rằng thân thể y gầy yếu, tựa hồ chỉ cần một cơn gió cũng đủ thổi y đi mất. Nhưng cả người Chung Nhuận lại toát ra khí thế kiên định lẫm liệt, khiến mấy tên đại hán kia dao động, nhất thời đám gia phó kia không dám tiến lên nửa bước, cả bọn dừng bước, hai mặt nhìn nhau.
Tay đang nâng lên thì chợt dừng lại, sâu trong ánh mắt của Triệu Tường Dư bỗng hiện lên một tia quang mang khó có thể nhận biết.
“Lương Thế, ngươi không được làm càn! Dưới chân Thiên tử, vẫn nên khiêm tốn một chút thì hơn.” Chung Nhuận tức giận nói. Tuy rằng y không muốn qua lại với Triệu Tường Dư, nhưng nếu hôm nay vì chuyện riêng của y mà làm liên lụy đến Triệu Tường Dư, đời này y sẽ không bao giờ an tâm được.
“Tránh ra! Bằng không ta sẽ không nể tình mối tương giao trước đây giữa ta và người, giáo huấn cả ngươi lẫn hắn!” Lương Thế tức giận đến nỗi thất khiếu ngưu yên(bảy lỗ nổi khói) , lớn tiếng quát tháo, ngũ quan coi như đoan nghiêm bắt đầu vặn vẹo, khiến các nàng ca kỹ kiều diễm hoảng sợ, câm lặng đứng ở một bên.
Vẻ mặt của y trầm ngưng một chút, lúc trước tuy rằng Lương Thế không coi ai ra gì, ngày thường ỷ vào nhà mình có tiền, luôn luôn khinh thường thư sinh nghèo khó như bọn, đôi lúc còn giễu cợt mỉa mai, nhưng chưa đến nỗi dung túng cho ác phó đánh người, không nghĩ tới khi hắn nhậm chức, làm một viên quan thất phẩm nhỏ nhoi, lại đắc ý, vênh váo đến mức này, ánh mắt y càng khinh thường hơn trước, nguyên lai đây mới là nhân tài của triều đình, trụ cột của xã tắc!”Ta nghĩ giữa ta với Lương đại nhân vốn không có giao tình gì, nếu như ngươi không sợ nhục nhã, thì đương nhiên ta cũng không sợ ngươi giáo huấn.” Y lạnh lùng nói.
“Ngươi!” Lương Thế thở hổn hển, gân xanh bốc lên, mặt đỏ bừng, vừa định ra lệnh gia phó thì sĩ tử mập bỗng kéo lấy y tụ của hắn, nói nhỏ vài câu bên tai.
Chung Nhuận nghe không rõ tên đó nói gì, chỉ thấy Lương Thế đầu tiên là lắc đầu, tiếp theo gân xanh chìm xuống dưới, trên trán lại bắt đầu đổ mồ hôi lạnh, thô mi (lông mày thô) xoắn lại, ánh mắt trừng trừng, thần tình không thể tin được, sau đó sắc mặt hết đỏ rồi lại xanh, hết xanh rồi lại trắng? Hắn vội mở ra một tấm vải bố, nhìn rất đẹp mắt.
Không biết là đã xảy ra chuyện gì, y chỉ biết tên Lương Thế kia thấp giọng nói vài câu với ma điểm sĩ tử, tiếp theo đó vội vàng lui lại, nói là chạy trối chết cũng không quá.
Chuyện gì đây? Tình huống đột nhiên chuyển biến, những tưởng rằng hôm nay y nháo đến vậy, chắc chắn sẽ chuyện không may, không ngờ nó lại kết thúc dễ dàng như vậy, nhìn bóng dáng Lương Thế đang chạy thục mạng như người bị đốt, Chung Nhuận cảm thấy khó hiểu.
“Có lẽ là hắn nao núng, dù sao nếu không may xảy ra chuyện gì, một mình hắn không đảm đương nổi.” Triệu Tường Dư cười nhạt: “Chung công tử, chúng ta tiếp tục đi thôi, không đáng để cho những kẻ chỉ biết suốt ngày ăn chơi trác táng như tên đó làm mất nhã hứng.”
Trong lòng Chung Nhuận còn đang nghi hoặc về hành động của Lương Thế, y mơ hồ cảm thấy có điều gì đó không đúng, bất quá, nếu sự tình đã được giải quyết, thì cũng không cần phải tiếp tục truy xét làm gì. Y lắc đầu, đem nỗi ngờ vực quăng ra sau đầu, tiếp tục đi lên núi.
|
4-2: Hạ
Edit: Tĩnh Nguyệt
Thiên Thai Tự nằm ở giữa sườn núi, không bao lâu, hai người đã tới nơi.
Sơn môn mộc mạc trang nghiêm, liễu xanh vươn cành che đi tường hồng ngói xanh, cạnh bên có thanh tuyền róc rách chảy, dọc theo mặt nước trong vắt, từng phiến hoa đỏ thẫm đang lững lờ trôi, đâu đó trên ngọn cây, những chú chim nho nhỏ cùng nhau líu ríu cất tiếng hoan xướng, hết sức uyển chuyển êm tai, làm tăng thêm vẻ u tĩnh tịch mịch của nơi này.
Nhắm mắt cảm nhận gió xuân đang lướt qua mặt, ngửi được hương vị của cỏ non mơn mởn, tâm tình Chung Nhuận bất chợt thả lỏng, “Nếu có thể được ở một nơi thanh tịnh như thế này, đời này chẳng còn gì vui hơn.”
Triệu Tường Dư cười nói: “Liệu Chung công tử có bỏ được công danh lợi lộc, như hoa mỹ quyến (sắc đẹp, hoài ức) hay không?”
Tâm tình vui sướng làm cho y thiếu đề phòng, “Trước mắt ta không có công danh lợi lộc, lại càng không như hoa mỹ quyến, thì làm sao luyến tiếc cho được? ‘
“Nếu có thì sau?” Triệu Tường Dư tiến thêm một bước, hỏi.
Y cười sang sảng, “Công danh lợi lộc như phù vân thoảng qua, cần gì phải để tâm trông chờ? Như hoa mỹ quyến à, dù cho có ba nghìn con sông đi chăng nữa, ta đây chỉ cần một bầu là tốt rồi.” (chỉ cần một người tốt là đủ, mặc cho xung quanh có bao nhiêu người đẹp đi chăng nữa.)
Triệu Tường Dư có chút đăm chiêu, không nói lời nào.
Chung Nhuận một mình tiến vào tự miểu. Bên trong có một hòa thượng đang vội vàng đi ra, gặp y, vái chào một tiếng rồi yên lặng quay bước về.
Triệu Tường Dư đều đem tất cả để vào mắt.
Cũng giống như tất cả tự miễu khác, Thiên Thai Tự cũng từ sơn môn, Thiên vương điện, Đại Hùng bảo điện cùng với một số các kiến trúc khác cấu thành chủ thể, đi qua Thiên vương điện, Chung Nhuận đột nhiên hỏi: “Ngươi có cảm nhận được chỗ nào không ổn hay không?”
Triệu Tường Dư nhìn quanh, nói: “Trong điện này không có phật Di Lặc.” Đúng là vậy, trong đây thiếu tượng phật Di Lặc, còn dư ra một vòng linh quang lẻ loi đứng đó.
“Ngươi cũng biết nguyên do trong đó?” Chung Nhuận nhìn khoảng không trong bảo các, lại hỏi.
Triệu Tường Dư lắc đầu, “Chuyện này ta thật sự không biết.”
“Ta có quen với phương trượng của Thiên Thai Tự này, tuy biết nhau không lâu, nhưng giao đàm lại rất hợp. Có một lần ta hỏi người nguyên nhân. Người nói cho ta biết, mười mấy năm trước đây, ngôi chùa này có trùng tu một lần, đáng lẽ ban đầu dự định dùng gỗ mộc để khắc phật Di Lặc, nhưng đến khi trùng tu thì lại không có, là ý của phương trượng trụ trì lúc đó, Không Trúc đại sư. Lúc ấy rất nhiều người đã phản đối, nhưng Không Trúc đại sư vẫn rất kiên trì, người nói, kiếp sau mờ mịt vô thường, chẳng thà cố gắng tu chỉnh bản thân để sinh ra phúc, còn hơn cả đời làm công đức, chấm dứt quả của kiếp này. Thật ra, Không Trúc đại sư rất thú vị, phật môn thường nói nhân quả báo ứng, luân hồi chuyển thế, kiếp này tu hành, người là sư, nhưng so với phổ la đại chúng thì người lại không tin vào lời này.”
“Kỳ thật Không Trúc đại sư là người hiểu rõ nhất.” Ánh mắt Triệu Tường Dư từ bảo các rơi xuống trên người y, “Người không tạo tượng phật Di Lặc, không phải khuyên các tín đồ không nên tin vào kiếp sau, mà là người hy vọng thế nhân không nên cảm thấy những khổ cực mà mình trải qua kiếp này là do kiếp trước mà ra, vô luận là nhân của kiếp trước, hay là quả của kiếp sau, thì kiếp này vẫn nên thanh thản mà sống. Khi còn tại thế, Không Trúc đại sư là bằng hữu với thúc phụ của ta, bởi vậy chuyện của người, ta có biết một phần, ngoài ra người cũng không giống với các đại sư khác, cả đời người không đọc kinh niệm pháp, không tu thành phật, cũng không tu kim thân, suốt ngày người bôn tẩu dân gian, độ người qua ải.”
Y từ từ nghe xong, thở dài: “Thì ra là thế, không coi nặng tiền căn hậu quả, chỉ coi trọng cuộc đời này, Không Trúc đại sư mới là người am hiểu nhất a!”
Triệu Tường Dư thầm đồng cảm trong lòng.
Hai người không nói lời nào, chìm đắm trong cảm hóa từ đức hạnh của Không Trúc đại sư.
Dừng ở trong bảo các trống vắng một hồi lâu, Chung Nhuận mở miệng: “Ngươi khác hẳn với đại quan quý nhân mà ta đã từng gặp.”
Triệu Tường Dư cười nói: “Nguyên nhân chính là ta không phải đại quan hay quý nhân gì.”
Chung Nhuận cười khổ, “Triệu Tường Dư, ngươi đừng trêu ta, ta biết địa vị ngươi cao quý bức người, bất quá chỉ là ngươi không muốn nói ra tục danh của mình, ta biết ngươi không muốn bị thân phận trói buộc, cho nên cũng không hỏi tới làm gì.”
Nụ cười trên gương mặt Triệu Tường Dư dần dần liễm hạ, “Quả thật, ngươi rất hiểu ta, không uổng cho ta ——” hắn vội vàng dừng lời, cũng không nói thêm gì nữa.
Y không để tâm đến việc Triệu Tường Dư im lặng bất ngờ, vẫn tiếp tục nói, “Ban đầu ta cho rằng ngươi chỉ là một đại nhân thích tùy hứng đi trêu đùa người khác, lấy đó làm vui, hôm nay mới biết được nguyên lai ngươi thật lòng muốn kết giao với một kẻ nghèo hèn như ta, đúng là lúc trước ta đã lấy dạ tiểu nhân đo lòng quân tử.” Y quay đầu, mỉm cười, “Ta danh Nhuận, tự Phi Khanh, nếu đại nhân không chê cười, ngài có thể gọi thẳng tục danh của ta. Nếu đại nhân có hứng thì hàn xá lúc nào cũng mở rộng cửa chờ ngài quang lân, tại hạ hâm rượu tương đãi!”
Thần sắc Triệu Tường Dư đầy vẻ phức tạp.
“Đại nhân chê ta trèo cao?” Chung Nhuận nhạy bén cảm nhận được hắn đang do dự, nhíu mày hỏi.
“Không, không.” Triệu Tường Dư vội vàng điều chỉnh tâm tình của mình, cười nói: “Ta chỉ đang nghĩ, nếu chúng ta là bằng hữu mà ngươi vẫn gọi ta『 đại nhân 』 thì có vẻ xa cách qua, Phi Khanh, năm nay ngươi bao nhiêu?”
“Năm nay ta hai mươi mốt.” Y trả lời.
Triệu Tường Dư nói: “Ta lớn hơn ngươi tám tuổi, nếu ngươi xem trọng ta, thì sau này gọi ta một tiếng đại ca là được? Lúc ấy nghe nó mới thân thiết, ngươi nói có phải hay không, Phi Khanh?”
Không biết tại sao, khi Triệu Tường Dư mở miệng ân cần gọi tự của y, tâm Chung Nhuận hơi hơi dao động, một loại cảm giác cổ quái lan tràn khắp người, khiến cho y hoảng loạn gật đầu mấy cái.
Khóe miệng nhếch lên, là cười, lại tựa hồ cười không nổi, rốt cục y cũng như nguyện tiếp nhận hắn, nhưng còn bí mật hắn đang giữ thì sao, trong lòng hắn vẫn còn đang lo lắng, biểu tình của Triệu Tường Dư tối nan giải.
Chung Nhuận còn đang cúi đầu nên không nhìn thấy.
Ấy là sau giờ ngọ một ngày xuân ấm áp, ngoài cửa sổ, dương liễu phiêu phiêu lay động, cơn gió nhẹ nhàng thổi qua, vấn vương bên cành lá, Chung Nhuận và Tuyết Yên cùng ở trên Phiêu Tuyết Lâu, một người làm thơ, một người ca xướng, không khí vui vẻ ấm áp.
“Tốt, hai người các ngươi, chẳng thèm quan tâm đến khách nhân gì hết, một mình phong lưu xướng hoạ, hoàn toàn lơ đi kẻ mãng phu như ta!” Ôn Thanh Hạc đứng ở đợi ở đại môn một hồi lâu, chờ tiếng đàn dứt một đoạn mới cất bước đi vào, nhìn thấy hai người kia ăn ý liếc nhìn nhau, trong lòng hắn có chút tư vị không thoải mái, nếu không phải biết trước giữa hai người họ quả thật chỉ có hữu tình, mà hắn lại cực kỳ tin tưởng nhân cách của Chung Nhuận, chỉ sợ là đã ném bàn đập ghế tung quyền tung cước với nhau rồi.
Hai người đều quay đầu lại.
Tuyết Yên khẽ cười, buông tỳ bà trong tay xuống, mời hắn thượng tọa.
Chung Nhuận cất tiếng cười sang sảng, “Ôn đại ca là trọng thần trong triều, mỗi ngày công vụ đều ngập đầu, muốn chạy cũng không chạy nổi, chúng ta những kẻ rảnh rang, nhàn nhã vô sự lo lắng, nên chỉ biết tùy tiện làm vài thứ giết thời gian mà thôi.”
Ôn Thanh Hạc sau khi nghe xong, ngoài cười nhưng trong không cười nói: ” Hiền đệ thật có tài ăn nói, nếu có thể dùng nó để kết giao với mấy vị đại nhân trong triều thì tốt rồi.” Hắn nhớ tới mấy ngày trước đây, hắn cố công cố sức thuyết phục Chung Nhuận đi gặp Tướng gia, ai ngờ người này lại nhất quyết cự tuyệt, khiến hắn vốn đã nói đỡ trước vài lời với Tướng gia để người đồng ý, nay lại muối mặt đi xin lỗi, may mắn là cữu gia không có so đo. Nhưng trong bụng hắn vẫn còn chất chứa rất nhiều oán khí, vì thế lời nói không khỏi tránh chút mỉa mai, móc máy người khác.
“Đại ca, đệ biết huynh có hảo tâm, nhưng mà cùng quyền quý tương giao không phải là chuyện đệ thích, xin huynh đừng làm đệ khó xửa.” Chung Nhuận cười khổ.
“Nàng nghe đi, được kết giao với các đại quan trụ cột trong triều là chuyện người khác mơ cũng không được, mà y ngược lại dám bảo ta làm khó xử y!” Ôn Thanh Hạc tức giận, hướng sang tố khổ với Tuyết Yên.
Tuyết Yên cười cười, rót một chung trà, “Huynh đó, đâu phải là huynh đâu biết tính cách của y, y vốn là người hung vô chí lớn, chỉ cầu có một bát cơm, đạm bạc sống qua ngày là đủ rồi, huynh muốn y đi kết giao với quyền quý chẳng phải là duyến mộc cầu ngư?” (trèo cây tìm cá, ý nói nhầm việc)
“Tuyết Yên thật hiểu ta.” Chung Nhuận mỉm cười.
“Hảo hảo, hai người các ngươi là tiên nhân thánh nhân, chỉ có ta là tục nhân thôi!” Ôn Thanh Hạc có chút căm giận.
“Ai, sao huynh lại cứ suy nghĩ theo kiểu tiêu cực ấy chứ.” Tuyết Yên không biết phải làm sao, người này bình thường tính tình rất tốt, nhưng mỗi khi giận dỗi lại giống như con nít phùng mang trợn má..
“Ý tốt của Ôn đại ca đệ xin nhận, nhưng chuyện đến nhà bái thiếp đại quan không phải là thứ mà đệ muốn làm.” Tính tình Chung Nhuận có phần cường trực, muốn cho y thỏa hiệp, hầu như không có khả năng.
“Ta không bảo ngươi phải đi nịnh bợ người khác, chẳng qua là muốn để chi Tướng gia gặp mặt ngươi, hóa giải khoảng cách thôi!” Cơn tức của Ôn Thanh Hạc cũng đã hạ gần nữa, nhưng vẫn lầu bầu cằn nhằn.
Chung Nhuận và Tuyết Yên liếc mắt nhìn nhau, Tuyết Yên lắc đầu, y đành phải buông tay, bày ra một bộ dạng bất đắc dĩ.
Nhìn hai người, Ôn Thanh Hạc lại lên tiếng cảm thán: “Phi Khanh, huynh biết đệ không thích chốn quan trường, nhưng mà chẳng lẽ đệ định vĩnh viễn sống như thế này? Đệ từ Chiết Giang ngàn dặm xa xôi, vượt bao khó khăn đến kinh thành này, chẳng lẽ chỉ để hưởng thụ phồn vinh chốn kinh thành? Tuy rằng huynh biết đệ không lâu, cũng hiểu đệ chỉ có thú vui điền viên nhã nhạc, nhưng cuối cùng đệ vẫn lựa chọn vào kinh ứng thí. Là vì cái gì? Ta Lúc trước, huynh có từng hỏi đệ thử, đệ không muốn nói, huynh hiểu, mỗi người đều chuyện mà mình luôn ghi khắc tâm khảm không thể nói, cho nên huynh không có gặng éo. Thế nhưng, hôm nay huynh vẫn phải hỏi lại một lần nữa, đệ tới đây với mục đích gì? Đệ có thể không cần trả lời, huynh chỉ hy vọng để hảo hảo suy nghĩ cẩn thận một chút.”
Nụ cười trên mặt Chung Nhuận chợt biến, thần sắc y nghiêm túc hẳn lên, đối với câu hỏi của Ôn Thanh Hạc y chỉ có thể cười trừ cho qua, nhưng y không thể lơ đi chân thành trong đó. Y biết, Ôn Thanh Hạc thật tâm lo lắng cho y. Hơn nữa —— cũng đã lâu rồi thiến ảnh ( nhân dáng xinh đẹp) kia không xuất hiện trong đầu y, Chung Nhuân âm thầm thở dài, từ sau khi lạc đệ, y vốn hiểu mình và người kia có duyên không phận, sao còn ôm mối hoài tưởng làm chi?
“Ôn đại ca, lòng tốt của huynh, đệ thực cảm kích, lời huynh nói, đệ đều để trong tâm, cũng sẽ hảo hảo cân nhắc lại.” Sau một lúc lặng im suy nghĩ, y chậm rãi nói.
“Huynh hơn đệ vài tuổi, cho nên vốn xem đệ như là đệ đệ ruột của ta, vì thế khó tránh khỏi có lúc nhiều lời, Đệ hảo hảo suy ngẫm, hiểu rõ được cái gì quan trọng với đệ nhất. Huynh không phải muốn bức đệ đi làm quan, nhưng huynh cũng không nguyện ý đệ buông xuôi chính mình, ngây ngốc sống như vậy cả đời” Ôn Thanh Hạc thành tâm nói.
Chung Nhuận chỉ yên lặng gật đầu.
“Hì hì!” Tuyết Yên cười rộ lên, đánh vỡ trầm mặc, “Xem hai người kia, cực kỳ giống như lão phu tử không quản công dạy dỗ với tiểu học đồng ngoan ngoãn ngồi nghe giảng!”
Hai người nghi hoặc liếc nhìn nhau, lập tức bật cười.
“Tuyết Yên thật là một nữ tử tuyệt vời nha, Ôn đại ca, chừng nào huynh mới thú nàng về làm đại tẩu cho ta?” Chung Nhuận nửa đùa nửa thật nói.
“Chỉ cần nàng gật đầu, ta tùy thời đều đạp đại môn, nghênh thú nàng về, chỉ có điều nàng vẫn không chịu, cứ như đang đùa ta vậy.” Ôn Thanh Hạc miệng vẫn đùa vui, nhưng lời nói lại cực kỳ chân thành.
“Muội nào dám trêu đùa Ôn tướng quân? Để Lý mụ mụ nghe được, nhất định bà sẽ bị dõa cho vỡ mật.” Tuyết Yên khéo léo cười đùa lảng tránh câu hỏi.
Ôn Thanh Hạc vẫn duy trì nét cười trên mặt, nhưng Chung Nhuận thấy được vẻ thất vọng lướt qua ẩn trong nụ cười ấy, rồi quay đầu lại nhìn Tuyết Yên, nàng cũng đang cười nhưng nụ cười thêm vài phần miễn cưỡng.
Người hữu tình với nhau, lại không thể cùng sống, người ngoài nhìn cũng cảm chút đơn côi. Y nhìn ra ngoài cửa sổ, có một đôi chim nhỏ bay qua, ngươi thượng ta hạ, chầm chậm đuổi theo nhau, được đôi chim liền cánh, còn gì hạnh phúc bằng.
Đang ngẩn người ta, thì ngoài cửa đã vang lên tiếng nói giòn tan của Tiểu Linh, “Tiên sinh, ngài có thư.”
Chung Nhuận vừa mở đã thấy, mở đầu chính là hai chữ “Phi Khanh” nét bút long phi phượng vũ, lướt mắt đọc nhanh, gương mặt y lộ lên vẻ tươi cười, “Tiểu Linh, người đưa thư còn ở đó không?”
“Còn, đang ở cửa chờ hồi âm của tiên sinh đó.” Tiểu Linh đáp lời.
“Vậy thì phiền muội đi chuyển lời giúp ta, nói ta sẽ ra gặp hắn ngay.” Tâm tình Chung Nhuận trở nên tốt hẳn.
Ngày ấy ở Thiên Thai Tự, đôi bên hợp ý trò chuyện với nhau, thẳng đến lúc mặt trời ngã về tây mới lưu luyến tự chia tay. Ngày qua ngày cứ như thoi đưa, mỗi rảnh bọn họ ra ngoài du ngoạn, ngày thường cũng tín thư tới lui không ngừng. Thường thường mỗi tối người kia đều sai kẻ hầu truyền thư đến, có đôi khi chỉ là tham thảo thi cú, lại có lúc bàn về nhạc thanh, lúc nãy y mới hồi âm, vừa mới tẩy rửa xong, thư đáp của hắn đã tới.
“Vâng” Tiểu Linh tuân mệnh rời khỏi.
“Ôn đại ca, đệ có việc nên cáo từ trước, hôm nào lại cùng nhau đối ẩm tiếp.” Xin lỗi vài câu, Chung Nhuận vội vội vàng vàng rời đi.
“Y có hẹn với ai thế?” Ôn Thanh Hạc nhìn bóng dáng hấp tấp của y, ngạc nhiên nói. Vị huynh đệ này của hắn, thái độ làm người có chút quái gở, hắn cũng phải dùng một chút công phu mới được y thật lòng coi hắn như huynh trưởng, nhưng bây giờ là ai có năng lực nhanh như như vậy đã đánh vỡ tâm phòng của y?
“Muội cũng không biết nữa.” Tuyết Yên lắc đầu, “Cả hai mới kết giao một hai tháng gần đây. Hình như là người đó tên là Tường Dư, muội không có gặp, chỉ nghe Chung Nhuận nói qua, dựa vào ngôn ngữ của y, tựa hồ rất có hảo cảm với người này.”
“Tường Dư?” Hắn nhíu mày, “Có lẽ ta từng nghe qua.”
Tuyết Yên cười rộ lên, “Huynh đừng có đa tâm quá, Chung Nhuận cũng không phải là tiểu hài tử, nên lui tới với người nào, y biết cân nhắc.”
Ôn Thanh Hạc cũng cười, “Xem ra ta thật giống như mẫu kê vội vàng che chở cho tiểu kê.”
Xuân phong ấm áp. Không tốn nhiều sức, Chung Nhuận đã tìm thấy người kia trong đoàn người bên bờ đê.
Triệu Tường Dư ngạo nhiên khoanh tay đứng dưới tàng cây, không chút để ý lướt mắt nhìn bốn phía. Tuy nhìn người, nhưng bên trong mắt lại không chứa nhân ảnh nào. Mặc dù vẫn thượng bạch y, nhưng cái lãnh nhiên mà bản thân hắn sở độc, vẫn làm hắn tách biệt hoàn toàn với đám người còn lại.
Chung Nhuận liếc mắt một cái đã thấy được người kia. Khí chất duy ngã độc tôn, có lẽ là do hắn rất xuất sắc, hoặc là vì nguyên nhân khác.
Còn chưa chờ y lên tiếng, Triệu Tường Dư đã ngẩng đầu thấy được, chợt lộ ra nét cười, đã không còn là chàng trai xuân phong phơi phới, nhưng là nụ cười kia vẫn ấm áp như vậy, giống như gió xuân, có lẽ đây mới là tiếu dung chỉ thuộc về loại người già dặn như hắn, còn những người trẻ tuổi, luôn luôn để lộ một chút sắc bén khó gần bên ngoài
Nhịp tim y chợt loạn, vội bước nhanh tới.”Chờ lâu không?” Y tùy ý hỏi. Tuy rằng nam nhân này hơn y vài tuổi, nhưng trong lòng y không thể xem hắn như trưởng bối mà đối đãi được.
“Vừa mới tới thôi.” Nam nhân cũng không bận lòng với sự tùy ý của y, thậm chí còn cảm thấy vui.
“Hôm nay chúng ta đi đâu? Lên núi hay là du hồ?” Chung Nhuận hưng trí bừng bừng hỏi han. Y đến Đông kinh đã hơn một năm, vì hoàn cảnh đẩy đưa nên chưa có dịp thăm thú cảnh sắc nơi đây. Mấy ngày nay, dưới sự dẫn dắt của người ấy, y đã được du ngoạn tới rất nhiều địa phương thú vị.
“Hôm nay chúng ta ra khỏi thành, đi đâu thì tới nơi đệ sẽ biết.” Khó có khi Triệu Tường Dư lộ ra vẻ mặt bí hiểm như thế này, hắn vẫy tay một cái, nô bộc dắt đến hai con ngựa cao to, bộ lông bóng loang, vừa thấy liền biết ngay đó là lương câu.”Lên ngựa đi.” Triệu Tường Dư nhảy lên trước tiên, bỗng thấy y do dự không tiến, bèn hỏi, “Có chuyện gì sao?”
Nhìn con ngựa đang thở phì phò, Chung Nhuận có chút xấu hổ, y ngẩng đầu nói: “Hôm nay chỉ sợ là không thể phụng bồi huynh được.”
Triệu Tường Dư nghi hoặc nhìn nhìn con ngựa, lại thấy đôi tai y đỏ lựng lên, bừng tỉnh đại ngộ, “Hóa ra là đệ không biết kỵ mã.”
|