Quỷ Thoại Liên Thiên
|
|
Chương 9: Chợ quỷ (Trung) Thế nào gọi là lối vào âm ty? Mặc dù rất nhiều người từng nói rằng đã chính mắt nhìn thấy Âm Dương giới nơi quỷ hồn cư ngụ, nhưng thực ra nơi đó là một nơi hoàn toàn cách biệt với thế giới con người. Đó là nơi người sống không thể ở, cũng không thể đến, chỉ cần bước chân vào đó là vĩnh viễn trở thành cư dân của nó, không có cách nào quay về dương gian được nữa.
Khi còn bé tôi cũng từng nghe không ít chuyện về âm ty, hầu hết đều là do bà nội kể. Bà nói những người ở đó đều không biết lạnh không biết đói, không có khái niệm về thời gian hay không gian. Bọn họ chỉ cố chấp lập đi lập lại những hành động mà khi còn sống họ còn vương vấn nhất, nếu khi còn sống là một tên cờ bạc, vậy khi chết đi sẽ không ngừng đổ xúc xắc; nếu khi còn sống thích hát xướng, vậy khi chết đi sẽ phải hát xướng từ ngày này sang ngày khác.
Khi đó tôi nghe đến đấy thì đã cảm thấy lạnh buốt sống lưng, nuốt nước miếng ngây thơ hỏi bà: "Bà, tất cả mọi người khi chết rồi đều phải đến đó sao?"
Bà nội sờ sờ đầu tôi mỉm cười trả lời: "Không phải, nếu cả đời làm người tốt thì chết đi có thể đến thế giới cực lạc nha. Không cần phải tới chỗ đó."
Khi còn bé tôi chỉ biết tin tưởng vào câu nói đó của bà nội, chỉ cần làm người tốt thì không cần phải xuống địa ngục, không cần bước vào lối âm ty. Nhưng lớn lên mới hiểu, một chữ "người tốt" đơn giản là vậy, nhưng lại không dễ làm chút nào. Dù sao đi nữa thì tôi cũng tự thấy mình càng ngày càng cách thế giới cực lạc xa hơn, xem chừng chết đi rồi thế nào cũng phải đến nơi âm u nọ, vĩnh viễn làm đi làm lại một việc. Đó có thể là chuyện gì nhỉ? Tôi tự hỏi rất lâu, cuối cùng kết luận, chắc là việc...ngủ!
Từ khi Bạch Dực nói sẽ đem tôi tới chợ quỷ kia, tôi ngày đêm đều tưởng tượng về nó, trong đầu lúc nào cũng rối tinh rối mù, lo lắng không thôi. Hậu quả là mấy ngày không sao ngủ nổi, cứ vẩn vơ suy nghĩ về chuyện này. Không chỉ vì hiếu kỳ đối với quỷ thành, mà quan trọng nhất chính là do chiếc khăn tay trắng toát kia quá sức chói mắt, mang theo hơi thở chết chóc nặng nề. Mỗi lần về nhà nhìn thấy cái khăn tay móc trên bệ cửa sổ, lại có cảm giác như ngài Bạch Vô Thường[1] đang rình mò bên ngoài vậy, cực kỳ khó chịu.
Không cần biết nơi kia quỷ dị tới mức nào, chỉ cần Bạch Dực bảo cái khăn tay nọ có khả năng ăn mòn sinh mạng của chúng tôi thôi là tôi đã đứng ngồi không yên rồi. Tôi chỉ là một người bình thường, mà có người bình thường nào lại không sợ chết đâu?
Nhưng trái lại, Bạch Dực từ khi ăn cái bánh kia thì hết hẳn bệnh cảm. Thuốc rốt cuộc mua rồi về xếp xó, anh ta cũng không uống, chỉ ngủ một giấc sáng hôm sau đã khỏe mạnh phơi phới hào hứng đi dạy. Tôi âm thầm cảm khái, người như anh ta hạnh phúc biết bao nhiêu, cho dù bị cảm nặng cũng chỉ hắt xì vài cái là xong chuyện.
Hôm nay đã cách ngày hôm đó mấy ngày, tôi vẫn nhịn không dám nhắc, vì sợ can thiệp vào sự chuẩn bị của Bạch Dực, nhưng nhìn anh ta đã mấy ngày trôi qua mà cứ nhơn nhơn như không có chuyện gì, tôi thực sự có hơi mất kiên nhẫn.
Buông giáo án, tôi dùng ngón tay gõ nhè nhẹ lên bàn làm việc của Bạch Dực: "Này, lão Bạch, anh phải tìm cách giải quyết chuyện đó cho sớm đi chứ!"
Anh ta buông tờ bài tập đang chấm dở xuống, ngẩng đầu nhìn tôi hỏi: "Chuyện gì cơ?"
Tôi bị anh ta cắc cớ hỏi ngược lại một câu, lập tức nổi trận lôi đình, trong lòng nghĩ, chỉ có anh mới không sợ chết! Nhưng việc này chỉ có anh ta mới có thể giải quyết, tôi đành nén giận ôn tồn nói: "Lão Bạch, anh quên rồi sao? Cái, cái khăn tay của Tá Thọ bà ấy...!" Vì sợ người ta nghe thấy, tôi bèn đứng lên, nghiêng người tới phía trước thì thầm vào tai anh ta.
Anh ta lại cúi xuống tiếp tục chấm bài, trả lời tôi mà không thèm ngẩng đầu lên nữa: "Cầm thì ũng cầm rồi còn nói sao được nữa bây giờ, cậu cho là chợ quỷ giống chợ chiều gần nhà chúng ta, muốn đi là đi ấy à? Cái khăn tay đó tôi cũng cầm rồi, muốn chết tôi cậu chết chung, sợ gì?"
"Chết tiệt, coi như anh có bản lĩnh có năng lực, tôi không khách khí nói thẳng nhé, tôi không muốn chết, cũng chưa thể chết được! Tôi còn chưa cưới vợ, cũng không nghĩ tới việc nắm tay một thằng đàn ông khác chết chung, nhé!" Tôi biết mình đang rất quá đáng, nhưng quả thực tôi rất sợ những thứ kia. Tuy nhiều người có thể gọi đấy là mê tín, nhưng đó là chỉ khi họ còn chưa thực sự đụng chuyện mà thôi. Còn nếu đã gặp, mọi người sẽ thấy nó không còn là mê tín nữa. Người Trung Quốc gọi đó là mạng, còn người nước ngoài, văn vẻ hơn, thì gọi là định mệnh...
Bạch Dực nhìn dáng vẻ hoang mang sợ hãi của tôi, thở dài một hơi: "Gấp cái gì! Cái khăn đó ở lại đây ít lâu cũng không lập tức hại chết chúng ta được, chúng ta cũng đã ăn bánh của bà ta rồi còn gì, có biết cái gì gọi là triệt tiêu lẫn nhau không?"
Tôi nghe thế liền gật gù, nhưng rồi nhất thời lại đem lòng tiếc số mệnh vừa bị "trung hòa" này. Nếu không, được sống thọ hơn chút đúng là một chuyện may mắn.
Bạch Dực nhìn mớ bài tập trước mặt, lại xoay người nhìn ra sắc trời ngoài cửa sổ rồi quay lại nói với tôi: "An Tung, không cần gấp, tối nay là lúc chúng ta tới chợ quỷ, cậu phải đi mua cho tôi vài thứ, tối nay sẽ cần tới. Thực sự lần này đi tới 'chỗ đó' cực kỳ nguy hiểm, cậu nhất định đừng mua nhằm thứ giả đó."
Tôi chớp chớp mắt mấy cái: "Vậy tức là anh cũng không dám chắc chúng ta có an toàn trở ra hay không?! Vậy mà anh còn thảnh thơi đến thế?" Thật sự quá mức khâm phục cái cá tính thấy chết không sờn này của Bạch Dực, nhưng vấn đề là anh ta cứ việc không sờn cái mạng của anh ta, còn tôi vẫn còn quý mạng mình lắm!
Bạch Dực cười cười: "Tôi chỉ nói tôi có cách đi vào đó, còn có thể an toàn đi ra hay không là tùy vào may mắn của chúng ta tới đâu. Nhưng cái khăn tay kia mà không trả lại thì sớm muộn gì chúng ta cũng thành cư dân vĩnh viễn của nơi đó luôn!"
Tôi xụ mặt xuống, nghĩ thầm, biết vậy thì từ đầu đừng thèm bắt chuyện với bà già kia cho đỡ khổ, giờ thì hay rồi, đã không có gì có lợi còn đẩy cả hai vào nguy hiểm như vậy. Cắn cắn môi, cuối cùng tôi ngẩng lên dứt khoát nói với Bạch Dực: "Vậy còn lo lắng làm gì! Mau nói cho tôi biết phải mua cái gì, tôi đi mua ngay bây giờ!"
Bạch Dực rút giấy bút ghi nhanh mấy từ, sau đó giật tờ giấy ra đưa cho tôi: "Nhớ kỹ đừng mua nhầm, phải hoàn toàn khớp với yêu cầu đấy, bằng không có khi không về được nữa đâu!"
Tôi run run nhận tờ giấy, nhìn qua một chút, càng nhìn càng cảm thấy kỳ quái.
Trên tờ giấy của Bạch Dực chỉ có vài hàng nguệch ngoạc: bốn cây nến trắng, nhưng phải là loại chống được gió, một lượng máu chó mực vừa phải, một cái đầu gà trống, một xấp vàng mã, hai cái chuông đồng.
Tôi nhìn kỹ tờ giấy, lại ngẩng lên nhìn Bạch Dực: "Lão Bạch, thật sự chỉ cần mấy thứ này thôi sao? Sao giống như đi tảo mộ vậy?"
Bạch Dực cười cười: "Đúng thế, mấy thứ này rất cần để chúng ta có thể lọt vào đó an toàn."
Tôi lo lắng hỏi: "Còn mấy thứ như Khai Quang Phù, Mật tông pháp khí gì đó thì sao?"
"Mấy thứ đó cậu mua nổi à?" Bạch Dực cười nhạo.
Tôi tự động lắc đầu, mấy thứ kể trên, nếu đúng là hàng thật, thì có khi còn đáng giá bằng mấy tháng lương còm của tôi ấy chứ, làm sao mà mua nổi...
Vì vậy anh ta thở dài: "Chỉ cần mấy thứ này được rồi, dù sao thì mấy thứ trên cũng không có tác dụng nhiều lắm đâu..."
Tôi gật đầu, yên lặng gấp tờ giấy lại cẩn thận nhét sâu vào túi.
Hoàn thành xong tiết Mỹ thuật cuối cùng trong ngày, tôi soạn vội sách vở, cho học trò tan học rồi nhanh chóng chạy ra chợ. Thời gian thực sự quá gấp, Bạch Dực nói trong những thứ liệt kê có những thứ chỉ mua được ở những cửa hàng nhất định, cho nên tôi không dám rẽ bừa vào những cửa hàng tạp nham bên đường, chỉ sợ nếu là hàng giả thì hai cái mạng của chúng tôi cũng bị nó hại cho đi luôn. Cái xe đạp bị tôi đạp như đang cưỡi mô tô chạy từ đầu chợ tới cuối chợ, đi một hai vòng như vậy thì những thứ cần thiết căn bản cũng mua xong.
Chỉ còn lại máu chó mực, thực sự tìm không ra. Tôi đi hết những sạp bán thức ăn đều không có, mà cho dù có thì cũng là máu chó vàng chó trắng này nọ, không có máu của chó đen tuyền.
Trong tay xách theo một đống túi lớn bọc nhỏ, tôi đau khổ ra chỗ bán rau ngoài đầu chợ, ngồi xổm xuống bên cạnh cái xe đạp. Lúc này đang là mùa đông nên ngày rất ngắn, thoáng cái mà mặt trời chỉ còn là một vạch hồng mỏng mang ở chân trời phía tây. Trời còn chưa tối hẳn, nhưng đèn đường đã lần lượt sáng lên, tràn ra lòng đường một loại ánh sáng vàng cam nhợt nhạt. Hôm nay là ngày trăng tròn, mặt trăng lúc này đã sáng rực lên, tỏa ra ánh sáng màu ngọc trai bàng bạc, giữa sắc trời xam xám nhạt nhòa, vầng trăng cũng dường như trong suốt. Ánh sáng trăng lúc này cực kỳ huyền hoặc, giống như đang câu hồn người. Giống như chúng ta ngắm trăng, rồi lại phát hiện nó cũng đang ngắm nhìn chúng ta vậy.
Chán nản gục đầu xuống, tôi đau khổ nghĩ vì sao bản thân lại xui xẻo tới vậy, chỉ cần ngày hôm đó đừng có nói chuyện với Tá Thọ bà, thì lúc này đâu đến nỗi...Rõ ràng lúc đó bà ta không muốn tiếp cận tôi, tai bay vạ gió này là do tự tôi rước vào thân, thật sự không còn gì để chối...
Tôi lau mặt, thở dài, trong lòng đã rối tung lên. Nhưng vừa lúc vô tình liếc mắt xuống dưới gầm cái xe đạp dựng cạnh đó, đột nhiên phát hiện dưới xe là một con chó đang nằm, cả người đen bóng! Tôi dụi dụi mắt mình, chỉ sợ bị hoa mắt. Nhưng không, con chó mực kia vẫn đang bình thản nằm không nhúc nhích dưới gầm xe! Đôi mắt tôi sáng rỡ lên, trong lòng cảm ơn trời cảm ơn đất rối rít.
Con chó kia cũng không lớn lắm, là một con chó con, bộ lông đen thuần một sắc không có lấy một sợi lông tạp, bóng loáng như bôi dầu. Nó nằm dưới một cái xe đạp, mắt nhắm nghiền, dường như đang ngủ.
Tôi buông cái túi trong tay xuống, rón rén từng bước tiến tới gần cái xe đạp, chậm rãi nhẹ nhàng cúi người xuống, từ từ bò tới bên cái xe... hai tay mở ra chuẩn bị tóm lấy con chó...Đột nhiên một đôi tay to lớn nặng nề hạ xuống vai tôi, tôi giật bắn người ngẩng lên, hóa ra là ông già trông xe. Ông ta kéo tôi ngã dúi xuống, một tay của tôi cũng bị ông ta bẻ quặt ra phía sau, giống như cảnh sát bắt ăn trộm vậy. Tôi đau tới mức hét ầm lên.
Ông già cũng hét lên: "Dám có can đảm tới đây ăn trộm xe của ông đây, thằng nhãi con này muốn chết rồi phỏng?"
Tôi đau tới mức nước mắt nước mũi giàn dụa, hổn hển nói: "Đại gia, ôi đại gia, ông buông ra, cháu, cháu không có ăn cắp xe đạp, cháu, cháu chỉ cần con chó kia thôi...!"
"Nói dóc!" Ông già rõ ràng không tin, dùng lực bẻ tay tôi một cái, tôi đau đến mức hét lên, một đám người liền ùa tới vây quanh chỉ chỉ trỏ trỏ, có vẻ ai cũng nghĩ tôi đúng là ăn trộm xe.
Tôi vội vã hô to: "Đại gia, đại gia đại ân đại đức, cháu thật sự không ăn cắp xe đạp mà! Cháu là giáo viên, giáo viên đó! Trong túi áo của cháu có thẻ chứng nhận công tác đấy, không tin ông tự xem đi!!!"
Ông già rút cái ví từ túi áo của tôi ra, thấy chứng minh thư, hai tay mới thoáng thả lỏng ra, nhưng vẫn không buông tha. Tôi âm thầm kêu khổ, tự hỏi sao lão già này lại mạnh tới vậy chứ! Ông ta mà ra tay mạnh thêm chút nữa thì tay tôi đã trật khớp rồi. Ông ta quay sang tôi hỏi: "Vậy cậu rình mò bên đống xe đạp làm cái gì? Không ăn cắp xe cần gì phải lén lút như vậy?"
Trong lòng tôi kêu khổ không ngừng, đã bảo mấy lần là vì con chó kia thôi mà. Đang khi chuẩn bị giải thích, chợt tôi nhìn thấy thấp thoáng bóng dáng của Bạch Dực trong đám đông người xung quanh, liền gào to: "Lão Bạch, mau tới giúp tôi đi! Lão Bạch!!!"
Bạch Dực không cam tâm tình nguyện chút nào nhưng vẫn phải tiến tới, vì mọi người đều nhìn sang anh ta. Anh ta ho khan bước về phía tôi, nói với ông già: "Đại gia, ông thả cậu ta đi, cậu ta thực sự không muốn ăn cắp xe đâu...Chỉ muốn mượn ít máu của con chó nhà ông nuôi thôi."
Đúng là phân biệt đối xử, ông già vừa nhìn thấy Bạch Dực thì đã tỏ ra hòa hoãn hẳn, nhanh chóng bỏ tay tôi ra, sau đó chỉ vào con chó nói: "Cậu muốn máu của con chó này? Không được không được, vậy nó sẽ chết mất còn gì!"
Bạch Dực vội vã nói: "Không không, không chết đâu mà sợ, chỉ cần một chút máu của nó thôi mà."
Ông già do dự hồi lâu vẫn có vẻ không muốn đồng ý. Bạch Dực cảm thấy ông ta ngần ngừ, liền lập tức bồi thêm một đòn: "Đại gia yên tâm, chỗ này có 100 đồng, coi như là tiền chúng tôi mua máu của con chó nhà ông!" Nói xong lập tức móc trong túi ra 100 đồng.
Ông già thấy tiền đã lập tức đồng ý. Lại còn hăng hái lấy dao bầu trong nhà mình ra chuẩn bị lấy máu con chó.
Con chó con này quả thực rất tinh ranh, vừa thấy chủ nhân cầm dao bước tới, nó không bỏ chạy nhưng trong mắt hiện lên vẻ cầu xin tha thiết, sau đó rên lên những tiếng cực kỳ đáng thương như đang cầu xin tha thứ.
Ông già nhỏ nhẹ trấn an nó, sau đó nhanh như chớp rạch một đường trên đùi con chó. Máu tươi lập tức chảy ra, con chó rít lên đau đớn, có lẽ do quá đau nên cả cơ thể bé nhỏ cứ run bắn lên. Bạch Dực nhanh như chớp nắm lấy chân nó, cầm chén hứng đủ một chén, sau đó sờ sờ đầu nó, quay lại nói với ông già: "Đại gia, cảm ơn ông đã giúp đỡ. Ông nên nuôi con chó này thật tốt, nó có thể giúp ông tránh được nhiều tai họa đấy."
Ông lão gật đầu, cầm 100 đồng, bế con chó lên đi băng bó.
Cầm chén máu chó trong tay, tôi bước tới bên cạnh Bạch Dực, anh ta đang giúp tôi nhặt mấy cái túi lên, thở dài: "Tôi biết thế nào cậu cũng mua thiếu món này, nhưng không ngờ cậu dám trở thành ăn trộm cơ đấy!"
Tôi vừa nghe thế lập tức phản bác: "Nếu anh đã biết tôi chắc chắn mua không được máu chó sao còn bắt tôi đi?! Mà sao anh cũng có mặt ở chỗ này?" Thực ra tôi cảm thấy rất thắc mắc, vì bình thường anh ta không bao giờ chịu đi chợ.
Anh ta nhìn sang tôi: "Vì ở cái chợ này chỉ có một mình con chó này là chó mực hoàn toàn thôi, hơn nữa còn có linh tính. Trước đây vô tình đi ngang qua tôi mới phát hiện ra, cho nên mới nghĩ nếu cậu mua không được thì để tôi ra đây xin ông già kia một ít."
"Đã biết là có sẵn thì còn tìm mua làm cái gì, hả! Lão Bạch...anh cứ chờ đó...cứ chờ đó!!!" Run run cầm cái chén trong tay, tôi rít lên.
Bạch Dực chớp chớp mắt thản nhiên nói: "Vì nếu cậu mua đâu đó được thì chỉ mất 50 đồng, cậu vốn là người tiết kiệm mà. Đừng quên, mấy thứ này đều phải cưa đôi tiền!"
Tôi ngớ người, nhìn Bạch Dực cười toe toét bước phía trước, đột nhiên có một loại khao khát muốn cầm chén đổ ào lên đầu anh ta[2], mà nguyên nhân duy nhất ngăn tôi không ra tay... chỉ là vì cái chén này vét của tôi tới 50 đồng!!!
Đem hết mấy thứ này về nhà xong, Bạch Dực bắt đầu lục đục làm gì đó không biết, tôi ngồi bên cạnh anh ta háo hức mở to mắt nhìn, anh ta đột nhiên dừng lại nhìn tôi: "Đến giờ ăn rồi đó, đi xuống dưới nhà mua hai tô mì lên đi, nhớ cay cay một chút."
Tôi ngẩn ra, nhưng cũng cho là phải, nên gật đầu xuống lầu mua mì, nhưng khi đóng cửa vẫn không kìm được hiếu kỳ mà liếc vào phòng thêm một lần. Chỉ thấy Bạch Dực lôi dưới gầm giường anh ta ra hai cái hộp, nhìn chúng hồi lâu như đang cân nhắc cái gì. Tôi có ý chờ xem anh ta sẽ làm gì với hai cái hộp thì đã nghe giọng Bạch Dực vang lên: "Nhìn cái gì mà nhìn, nhanh nhanh xuống mua mì đi. Không thấy đói bụng à?"
Tôi vội vàng đóng cửa xuống lầu, chột dạ nghĩ sao anh ta biết tôi đang lén nhìn nhỉ? Chẳng lẽ sau gáy có mắt sao? Tôi lắc lắc đầu, mặc kệ, dù sao đến lúc này cũng chỉ còn biết trông chờ vào anh ta, bằng không những chuyện sau này thật không dám tưởng tượng tới nữa. Tôi nhanh chân xuống nhà dưới mua hai tô mì tương ớt, còn đặc biệt bảo người bán hàng cho nhiều ớt một chút. Có lẽ ông bán hàng là người Tứ Xuyên, vừa nghe nói "nhiều ớt" là lập tức dốc thẳng nửa lọ tương ớt vào hai cái tô. Tôi toát mồ hôi nhìn hai tô mì đỏ lòm, chưa ăn đã cảm thấy dạ dày âm ỉ đau.
Khi quay về phòng, Bạch Dực dường như đã chuẩn bị mọi thứ xong xuôi. Trên bàn bày hai cái hộp hình chữ nhật đứng bằng gỗ màu nâu hồng, khắc hoa văn tinh xảo, nhưng mà... nhưng mà... nhìn sao cũng giống hệt như hai cái hũ đựng tro cốt! Mà trên mặt còn dán hai tấm hình của tôi và Bạch Dực! Hai tấm hình này được chụp trong dịp làm thẻ chứng nhận công tác, tôi thường hay chặn nó dưới tấm kính lót bàn. Không ngờ lại bị Bạch Dực đem ra... dán lên hũ đựng cốt! Thật là quá lắm!
Trong tấm ảnh chụp, tôi đang nở một nụ cười cứng ngắc, đành chịu, tôi vốn không phải một người ăn ảnh. Lúc bình thường không thấy gì, nhưng chỉ cần tấm ảnh bị đặt vào một vị trí khác thường thế này, lập tức cho tôi một cảm giác lạnh toát sống lưng. Không ngờ có ngày lại tận mắt nhìn thấy ảnh mình trên hũ đựng cốt... Mà kinh dị nhất là Bạch Dực cũng không ngần ngại gì dán ngay ảnh chính mình lên cái hũ còn lại.
Tôi kích động chỉ vào hai cái hũ lắp bắp hỏi: "Lão Bạch, đây là ý gì thế? Chúng ta đang sống sờ sờ ra đây mà anh đã lo hậu sự rồi là sao?!"
Bạch Dực chỉ liếc tôi một cái rồi không thèm trả lời, thản nhiên đứng dậy lấy hai đôi đũa tới đưa cho tôi một đôi, sau đó ngồi xuống ăn mì: "Ăn trước đi, sắp tới giờ rồi. Ráng ăn cho hết, hôm nay là cơ hội duy nhất có thể tự do vào chợ quỷ đấy."
Tôi quay đi không nhìn hai cái hũ nữa, lúc này mới có can đảm bưng tô lên bắt đầu ăn, bởi vì thực sự cái cảnh mình nhìn chằm chằm vào hũ đựng cốt của mình mà ăn mì thì có lẽ trên đời này chỉ có hai chúng tôi mới được trải nghiệm mà thôi. Tôi ăn tô mì của mình rất nhanh, vì nó quá cay nên khi ăn xong thì đầu lưỡi của tôi cũng đã tê rần. Bạch Dực cũng ăn rất nhanh, khéo léo vớt hết mì, để tô sang một bên, sau đó nói với tôi: "Mọi thứ tôi đã chuẩn bị xong cả rồi, bây giờ cậu phải dẫn tôi tới cái ngõ hẻm nơi cậu đã gặp Tá Thọ bà ấy, trên đường đi tôi sẽ chỉ cho cậu biết phải làm gì." Nói xong anh ta đưa cho tôi hũ đựng cốt "của tôi" cùng một tấm vải đen. Còn anh ta thì tự cầm cái hũ của mình, bọc trong một tấm vải đen, lưng đeo ba lô. Tôi cũng học theo anh ta bọc cái hũ trong tay mình vào tấm vải đen nọ, sau đó ôm chắc nó trong tay cùng Bạch Dực ra khỏi nhà.
Trời đã hoàn toàn tối đen lại, chứng tỏ lúc này đã khá khuya. Trên đường chỉ còn vài người lác đác bước ra từ những nhà tắm công cộng, vì thế hai chúng tôi, mỗi người cầm trong tay một tấm vải đen bọc hũ đựng cốt, trở thành trung tâm thu hút sự chú ý tò mò của người đi đường.
Tôi dẫn anh ta tới con hẻm lần trước, lúc này trông nó cực kỳ quạnh quẽ, vì nơi này vốn dơ bẩn nên bình thường cũng không có ai đặt chân vào. Trong không khí ngập ngụa một mùi hôi khó chịu. Tôi cau cau mũi, chỉ vào con đường nhỏ trước mặt ra hiệu cho Bạch Dực là ở đây.
Ánh trăng tròn còn sáng hơn cả những ngọn đèn đường chớp tắt xung quanh, soi rọi con hẻm nhỏ. Bạch Dực không tiến tới, chỉ chằm chằm nhìn vào con đường hẹp dài trước mặt. Tôi tự nhiên cảm thấy do dự, không biết anh ta sẽ làm cách nào để vào được quỷ thành, chợt anh ta quay lại nhìn tôi mỉm cười: "An Tung, yên tâm, không sao đâu. Bây giờ tôi sẽ nói cho cậu biết cách đi, cậu theo sát tôi, tuyệt đối không được buông cái hũ trong tay xuống, cho dù bất kỳ chuyện gì xảy ra, cho dù như thế nào đi nữa, cái hũ này cũng không được rời tay. Hiểu chưa?"
Tôi bất an gật đầu, Bạch Dực hiếm khi nào lại nghiêm túc tới mức này. Anh ta lấy ra hai ngọn nến châm lên, một đặt bên chân tôi, một đặt dưới chân chính mình, sau đó dùng máu chó vẽ một vòng tròn xung quanh hai ngọn nến. Ngọn nến liên tục lập lòe lay động, ngọn lửa xanh dài mấy lần bị gió liếm như sắp tắt. Một tầng khói mỏng xám trắng nhẹ nhàng uốn lượn xung quanh hai chúng tôi. Tôi mua loại nến phòng được gió, nên chỉ cần không phải là phong ba bão táp thì nến sẽ không tắt dễ dàng.
Còn lại hai cây nến, Bạch Dực cũng đốt lên, sau đó nhét một cây vào tay tôi. Tôi nhìn ngọn nến trong tay mình, sau đó lại ngơ ngác nhìn sang Bạch Dực, thấy anh ta nghiêng nghiêng cây nến trên nắp hũ đựng cốt cho vài giọt sáp tan chảy rơi xuống, sau đó cắm cây nến lên đỉnh hũ, tôi cũng cứ thế ngơ ngác làm theo.
Bạch Dực nhìn tôi gật đầu, sau đó dùng một ngón tay đặt lên môi, ý bảo không được nói, lại lấy hai cái chuông ra, một treo vào thắt lưng mình, một treo cho tôi, rồi lầm bầm gì đó trong miệng mà bắt đầu tiến về phía trước. Những ngọn gió sắc lạnh mùa đông thổi qua con hẻm nhỏ tối tăm cuốn theo những chiếc lá vàng rơi trên đất, phát ra những âm thanh sột soạt.
Tôi theo sau lưng Bạch Dực, nhìn anh ta dùng ngọn lửa của cây nến lần lượt đốt từng tờ vàng mã, vừa đốt vừa lẩm bẩm gì đó không rõ. Con hẻm này dường như còn thông với những con hẻm khác nữa, vì chúng tôi cứ thế đi hết con hẻm này tới con hẻm khác. Khói xám tỏa ra từ những tờ vàng mã bị đốt không ngừng lượn lờ xung quanh, cảnh vật xung quanh cũng như nhòe đi, mùi ẩm thấp gay mũi của vàng mã như muốn đè bẹp cả mùi rác rến xung quanh. Lúc này trong con ngõ nhỏ chỉ có tiếng bước chân của tôi và Bạch Dực cộng với tiếng chuông nho nhỏ lanh canh bên hông, còn lại đều lờ mờ thành một màu đen đen xam xám, đến cuối cùng thì tôi cũng chẳng còn phân biệt được liệu đây có phải là con hẻm gần trường học hay không nữa, chì biết không ngừng tiến lên phía trước.
Chúng tôi giữ im lặng hoàn toàn, ánh trăng sáng lúc nãy không biết tự bao giờ đã bị che khuất gữa tầng tầng mây đen kịt, bốn phía chỉ còn ánh sáng leo lét yếu ớt từ hai ngọn nến của tôi và Bạch Dực mà thôi. Trong gió, ngọn lửa chập chờn lúc mạnh lúc yếu, rọi hai cái bóng vặn vẹo lên bờ tường xung quanh. Bóng tối như đã nuốt chửng toàn bộ hơi ấm của mặt đất, tôi chỉ cảm thấy quanh mình ớn lạnh từng hồi, tô mì tương ớt cay nóng bỏng lưỡi lúc nãy đã biến mất đi đâu không rõ.
|
Chương 10: Chợ quỷ (Hạ) Không biết đã đi bao lâu, cuối cùng dường như cũng tới được cuối ngõ, nương theo ánh sáng lờ mờ của ngọn nến có thể nhìn thấy một bức tường cao đen đen trước mặt. Nhưng Bạch Dực cứ như không nhìn thấy gì, cứ thế tiến lên phía trước. Tôi muốn kéo anh ta lại nói cho anh ta phía trước là bờ tường, không thể đi qua được, nhưng không hiểu sao mọi lời nói cứ như tắc lại trong cổ họng, không thể thốt nên lời. Trước mặt tôi, Bạch Dực vẫn đi thẳng tới, tôi cũng chỉ biết run run cắn chặt môi, cùng Bạch Dực tiến lên.
Theo từng bước chân, lại cảm thấy choáng váng cả đầu, mắt mũi cũng càng lúc càng nhập nhèm đi như say rượu vậy, tôi lắc mạnh đầu, nỗ lực giữ cho bản thân không ngã sấp xuống.
Lúc này Bạch Dực đi rất chậm, nhưng những lời rì rầm trong miệng của anh ta lại càng lúc càng to lên, tuy tôi không nghe được bất kỳ lời nào có nghĩa, nhưng phát hiện anh ta cứ niệm xong một câu lại tiến lên một bước. Tôi theo sát bên cạnh anh ta, hai chúng tôi cứ thế chậm rãi đi về phía bức tường, thế nhưng thật kỳ quái, chúng tôi càng tiến lại gần nó, nó dường như lại càng rút ra xa chúng tôi hơn, bức tường mà tưởng như chỉ đi vài bước là đụng phải nay càng lúc càng lùi xa, cuối cùng biến mất hẳn.
Đi khoảng trên dưới 100 bước, bức tường đã không còn thấy đâu nữa, chúng tôi đặt chân trên một con đường nhỏ, tuy không trông rõ cảnh tượng bốn phía, nhưng tôi dám khẳng định nó không còn là con hẻm nhỏ gần trường lúc nãy nữa. Tôi quay lại phía sau, chỉ thấy một mảnh đen kịt, xa xa truyền tới tiếng lá reo soàn soạt. Nhưng ở một nơi rất xa rất xa, vẫn thấp thoáng hai điểm sáng lập lòe bé nhỏ.
Bạch Dực không rì rầm nữa, anh ta vừa đi vừa nói với tôi: "Chúng ta đang ở trên đường Âm Dương, hai ngọn nến phía sau chúng ta có máu chó bảo vệ, còn có phù chú, người thường nhìn không thấy, mà ma quỷ cũng không lại gần được. Nó là ngọn đèn chỉ đường của chúng ta, nhất định chúng ta phải trở về trước khi nó kịp tắt. Nếu không, chúng ta sẽ lạc đường giữa lối âm ty ngang dọc này."
Hơi lấy lại bình tĩnh, tôi cúi đầu nhìn ngọn nến trong tay đã cháy sắp tới phân nửa, nghĩ nó giống như một loại đồng hồ báo giờ, vì vậy gật đầu nói: "Tức là trước khi ngọn nến này cháy hết thì cho dù chuyện có xong hay không thì chúng ta vẫn phải trở về đúng không? Vậy đừng tốn thời gian nữa, đi thôi!" Tôi vừa nói vừa bước tới.
Bạch Dực gật đầu rồi cũng nhanh chóng bước theo. Mỗi bước chúng tôi đi, cái chuông đeo bên hông lại vang lên những tiếng ngân trong trẻo, không biết có phải là ảo giác hay không mà tiếng chuông ở đây dường như ngân xa hơn, vang vọng khắp bốn phía. Xung quanh đột nhiên xuất hiện thêm rất nhiều cái bóng lảo đảo tiến tới, như thể bị tiếng chuông hấp dẫn vậy.
Tôi bối rối nhìn quanh, sau đó vô tình nhìn lên trời. Ánh trăng đã lại hiện ra tròn vành vạnh, nhưng ánh sáng ôn nhuận như nước của nó không biết tự bao giờ đã biến mất, mặt trăng hóa thành đỏ rực như máu, thứ màu sắc như máu chảy này thật khiến người ta bất an.
Bùn đất trên đường cũng cực kỳ nhuyễn và ẩm ướt, mỗi bước có cảm giác như đang đạp lên sợi bông mà đi, lúc nào cũng dường như sắp lún xuốn, vì thế tôi không dám nhìn lung tung xung quanh nữa, chỉ chuyên chú nhìn thẳng phía trước mà tiến tới.
Hai người chúng tôi chậm rãi im lìm đi trên đường, tay cầm hũ đựng cốt, như thể hai người đang đi đưa ma mà tiến bước trên con đường nhỏ hẹp hoang vắng, chỉ có tiếng chuông không ngừng ngân nga. Dần dần tôi cảm thấy cái hũ càng lúc càng nặng xuống, đất dưới chân càng lúc càng xốp, bước chân của tôi càng lúc càng khó khăn, giống như đang phải lê bước trên một tấm nệm thật dày.
Bạch Dực nhìn sang tôi, anh ta rõ ràng cũng đang phải cố hết sức, nhưng cho dù như thế thì cả hai chúng tôi đều không thể đổ một giọt mồ hôi nào, cái cảm giác khô ráp này thật khiến người ta cảm thấy cơ thể như muốn bị rút kiệt.
Tôi ra sức ôm cái hũ càng thêm chặt, chỉ sợ nó rơi từ trên tay xuống, nhướn mắt nhìn về phía trước nhưng chỉ nhìn thấy một trời khói trắng xóa. Càng lúc nhiệt độ xung quanh càng xuống thấp, trong không khí dày đặc sương mù ẩm thấp lạnh tới xương.
Cái hũ thực sự càng lúc càng nặng, mà người tôi càng lúc càng nhẹ đi, không còn đủ sức giữ nó nữa, tôi cắn chặt răng, trong lòng tâm niệm câu Bạch Dực nói là cho dù chuyện gì xảy ra đi nữa cũng tuyệt đối không được buông hũ. Thoáng liếc qua Bạch Dực, tôi thấy trên mu bàn tay của anh ta cũng nổi đầy gân xanh, những khớp ngón tay cứng còng lồi hẳn ra ngoài lần da, chứng tỏ anh ta cũng đang khổ sở như tôi vậy.
Phía trước vẫn là một mảnh trắng xóa, tôi thở dài cúi đầu xuống nhìn đường, nhưng dưới chân tôi nào đâu phải là đất đá! Rõ ràng là một tập hợp những gương mặt khác nhau, có cười, có khóc, có vui, có buồn, thập phần quái dị. Biểu hiện trên những gương mặt này cực kỳ đơn điệu, chỉ có một loại cảm xúc duy nhất chứ không có những loại tình cảm nào khác.Giữa đám gương mặt, tôi có cảm giác như thoáng nhìn thấy Nghiêm Thừa và Chu Linh, bọn họ bỡn cợt nhìn tôi, khuôn miệng há hốc, những đường nét vặn vẹo. Bốn phía rùng rùng nổi lên những tiếng người ồn ào, có lúc như đang khóc, có lúc lại như đang cười, gió thổi càng thêm lạnh lẽo, tiếng rên la xung quanh càng thêm bi ai.
Tôi sợ run lập cập, suýt chút nữa là cái hũ đã tuột khỏi tay rơi xuống đất. Bạch Dực lập tức đỡ lấy tôi, đầu tôi dựa vào lồng ngực của anh ta, lại bất thần phát hiện, anh ta...tim không đập! Vô thức thu lại hai tay ôm lấy cái hũ vào ngực mình, không biết nên gọi là y như rằng, hay nên gọi là ngoài dự tính mà phát hiện bản thân... cũng không có tiếng tim đập! Trong nháy mắt đầu tôi như vừa nổ tung ra, thật đáng sợ, chẳng lẽ chúng tôi đã chết rồi sao?! Đột nhiên, tôi kích động chỉ muốn quay đầu lại bỏ chạy.
Bạch Dực dường như cảm thấy tôi định làm gì, vì anh ta đột nhiên giữ chặt lấy người tôi. Tôi ngơ ngác ngẩng lên nhìn, thấy ánh mắt anh ta vẫn bình tĩnh như thường lệ, nhưng đôi môi mím chặt, hiển nhiên là vì anh ta đã dùng một tay giữ lấy tôi, chỉ còn có một tay giữ cái hũ của mình. Có lẽ thực sự là do quá cố sức nên tay anh ta run lẩy bẩy, tôi sợ cái hũ của anh ta rơi xuống đất nên cứng người lại không dám động đậy nữa. Anh ta nhìn tôi hồi lâu, sau đó khó khăn mở miệng nói: "Đừng...quay đầu lại, tin...tôi, tiếp tục đi."
Tôi nhắm chặt mắt, lấy lại bình tĩnh, thầm tự nói với mình: không được quay đầu lại, không được hại chết Bạch Dực, vì tôi gây chuyện mà anh ta lại phải tới đây, cho dù có gian nan cách mấy cũng phải giúp anh ta sống sót quay về. Tôi làm tôi tự chịu, không thể liên lụy tới anh ta!
Khi mở mắt ra lần nữa, những gương mặt lúc nãy đã biến mất, con đường lại trở về thành con đường như cũ. Bạch Dực nhìn sang tôi, ánh mắt cực kỳ ôn hòa. Đột nhiên tôi thật muốn nhìn anh ta mỉm cười, cái hũ trên tay vẫn nặng nề như cũ, nhưng ít ra tôi không phải chỉ có một mình, còn có Bạch Dực, ít ra anh ta vẫn ở bên cạnh tôi.
Tôi khó khăn nhếch nhếch môi cố vẽ thành một nụ cười, nhưng có lẽ lúc này trông tôi còn khó coi hơn đang khóc. Bạch Dực không thu tay về, vẫn một tay đỡ tôi một tay ôm cái hũ của mình, tôi biết anh ta muốn dìu tôi đi. Tôi định đẩy tay anh ta ra, nhưng hai bàn tay tôi lúc này đã lạnh băng, cứng còng lại, khi cố sức cử động tay, tôi phát hiện trong cơ thể mình máu không còn tuần hoàn nữa. Cánh tay không nghe lời tôi nữa, tôi chỉ đành liếm liếm đôi môi khô khốc mà ra sức tiến tới. Cái hũ cứ thế càng lúc càng nặng, chúng tôi cứ thế vừa đỡ vừa dìu nhau, từng bước vẫn cứ thế gian nan, nhưng không thể quay đầu lại, chỉ có thể tiếp tục đi.
Tiếng chuông ngân nga bên tai như muốn giữ cho ý thức của chúng tôi không bị trôi đi mà càng thêm vang dội, quanh quẩn khắp nơi trên con đường.
Chúng tôi dần dần nhìn thấy một vài điểm sáng màu xanh lục phía trước, Bạch Dực nhẹ nhàng nói bên tai tôi: "Sắp tới rồi, cố thêm một chút."
Tôi gật đầu, vốn muốn thở phào một cái, nhưng chúng tôi lúc này đã không còn hô hấp nữa, thật chẳng khác nào hai xác chết có ý thức.
Ánh sáng đèn càng lúc càng gần, tôi phát hiện hóa ra chúng là những ngọn đèn lồng, nhưng lại màu xanh lè, chúng xâu lại với nhau thành hai chuỗi treo dài dài tới tận một cái cổng thờ ở phía đầu đường, xung quanh không có gió nhưng chúng vẫn nhẹ nhàng lắc lư. Cổng thờ sơn toàn bộ một màu đỏ rực, đỏ tới nỗi đổ thành màu đen, trên hai cái cột chạm khắc những hình thù ma quỷ mặt xanh nanh vàng, trên đầu cổng thờ đề bốn chữ đại tự màu son đỏ: U Minh Quỷ Thị.
Ánh sáng phía trước vẫn rất mờ ảo, bốn phía chập chờn sương trắng, nhưng vẫn có thể cảm thấy bên trong cổng thờ có rất nhiều người, con đường cũng không phải là bùn đất nữa mà lát đá tảng. Kiến trúc xung quanh trông không rõ lắm, chỉ mơ hồ thấy được những bờ tường xám ngắt, rõ ràng là phong cách kiến trúc Huy phái, nhưng cột nhà và cửa sổ đều sơn màu đỏ rực, giống như kiến trúc thời kỳ Minh - Thanh.
Tôi biết chúng tôi đã chính thức bước vào chợ quỷ. Vừa bước chân qua khỏi cổng thờ thì sương mù cũng đột ngột tan hết, chỉ để lại những đường khói xám rất mỏng mang theo hơi nước giăng giăng xung quanh. Bên tai đột nhiên tràn ngập thanh âm, có hò hét, có nói chuyện, nhưng lại không nghe rõ bọn họ đang nói gì, chỉ cảm thấy âm điệu bình bình ngang ngang, không có chút lên xuống nào. Cảm giác này quả thực đáng sợ, tuy xung quanh ồn ào náo nhiệt là thế, vậy mà vẫn cảm thấy tĩnh lặng đến gần như áp lực.
Xung quanh rộn ràng nhốn nháo như một cái chợ thứ thiệt. Nhưng mọi người đều mặc áo liệm, đội một cái mũ cao cao, là loại mũ đội cho người chết bằng sa tanh. Bọn họ giống hệt như người sống, nhưng chỉ khác ở chỗ là trên mặt bọn họ cứng đờ không có cảm xúc, bọn họ làm tất cả mọi thứ với một vẻ mặt lạnh băng, không hỉ nộ ái ố. Tôi nhìn bọn họ như đang nhìn một vở kịch quái dị.
Bạch Dực không thèm để ý tới người khác, chỉ chăm chăm tìm kiếm Tá Thọ bà trên đường. Ta đi theo anh ta, phát hiện trong chợ này bán toàn những thứ dành cho người chết, ví dụ như bán áo liệm, khố liệm...ngay cả giường chiếu gối đầu cũng đều là loại dành cho người chết, hai đầu gồ lên, ở giữa lõm xuống. Tiền bạc bọn họ trao đổi là tiền vàng mã nguyên bảo và cả tiền giấy bình thường, nhưng rõ ràng tiền vàng mã có giá hơn, tiền giấy có giá trị khá thấp.
Có cảm giác ở đây giống hệt như một con đường chuyên bán đồ mai táng trên dương thế, nhưng so với trần gian còn quỷ khí ghê rợn hơn, quả nhiên không hổ danh là chợ quỷ.
Ngọn nến đã cháy hơn nửa, tôi có phần khẩn trương nắm hũ đựng cốt trong tay thật chặt, mà bởi vì nắm chặt quá nên miếng vải đen xộc xệch lệch qua một bên, lộ ra tấm ảnh của tôi trên đó. Tôi nhìn qua một cái, lập tức sợ tới bủn rủn cả người, nó đâu còn là ảnh chụp của tôi nữa, mà chỉ còn là một gương mặt trống không, chỉ có mấy lỗ thủng màu đen cho thấy vị trí của mắt mũi miệng, còn lại là trắng ởn. Sao lại như vậy? Tôi nhìn sang Bạch Dực, thấy anh ta không hốt hoảng chút nào, chỉ nhẹ nhàng gật đầu: "Chúng ta hiện tại đang là người chết, chỉ có bảy phách thôi, trong cái hũ này là ba hồn của chúng ta, nếu cậu mà buông nó xuống thì ba hồn sẽ lập tức bị thổ địa nuốt hết, như vậy chúng ta cũng lập tức biến thành người chết thực sự, trở về không được nữa."
Tôi lập tức ôm sát cái hũ vào lòng, cái hũ này chính là mạng của tôi, thảo nào Bạch Dực cứ nhấn đi nhấn lại là nhất quyết không được buông nó ra, nếu không không về được. Nếu nó thế thì ba hồn của tôi có hình dạng giống như tấm ảnh chụp này hay sao? Nghĩ tới đây tôi rùng mình một cái, khô khốc nuốt nước miếng, nghĩ thầm cho dù cái hũ này có nặng như núi Thái Sơn đi nữa cũng đừng hòng tôi buông tay... Có chết cũng không buông, vì hễ buông tay sẽ lập tức chết thật = . =
Xung quanh vẫn thỉnh thoảng lướt qua vài bóng người, nhìn kỹ thì thấy mặt bọn họ trắng bệch như thạch cao, có những bóng ma nữ chỉ có hai gò má và đôi môi là đỏ như máu, còn lại đều trắng ởn, hơn nữa kỳ quái nhất là tròng mắt bọn họ luôn trợn ngược lên, nên chỉ nhìn thấy tròng trắng trắng dã mà thôi.
Tôi sợ tới mức không dám nhìn nữa, mỗi lần đám người chết mặc áo liệm này lướt qua người, cột sống của tôi lại run lên như chạm phải băng. Môi cũng không kìm được mà run run, tôi mạnh bạo cắn chặt môi, muốn ngăn cảm giác run rẩy kịch liệt này lại, nhưng lại phát hiện mình không cảm thấy đau đớn gì cả, lẽ nào vì tôi lúc này đang là người chết nên không còn cảm giác gì sao? Vậy vì sao vẫn cảm thấy sức nặng của hũ đựng cốt? Thật là khó hiểu...
Tôi cứ như thế theo sau Bạch Dực đi giữa con đường vừa ầm ĩ mà vừa quái dị này, giữa hững gương mặt quỷ đáng sợ mà tìm kiếm bóng dáng một bà lão.
Không biết bao lâu chợt nghe thấy mơ hồ từ xa xa, tiếng chuyển bánh xe lộc cộc quen thuộc, tôi kích động nhìn Bạch Dực, Bạch Dực cũng gật đầu, có vẻ chúng tôi đã thực sự tìm ra bà ta.
Tiếng bánh xe càng lúc càng rõ, một bóng người tập tễnh hiện ra giữa đám sương trắng xóa, dần dần tiến về phía chúng tôi. Tôi định thần nhìn bà lão, bà ta vẫn giống hệt như lần trước tôi gặp, nhưng lần này thiếu mất cái khăn tay thêu chữ "Thọ". Chúng tôi tiến tới, Bạch Dực lấy trong ba lô ra cái khăn tay trả lại cho bà ta.
Bà lão vẫn cười, gương mặt nhăn nheo như mặt khỉ, vui vẻ nói: "Không ngờ các vị tìm tới nhanh như vậy, Bạch thiếu gia, đã lâu không gặp."
Tôi kinh ngạc nhìn Bạch Dực, hóa ra anh ta biết bà lão này? Bạch Dực nhìn tôi một cái, sau đó thản nhiên nói: "Bà bà cố tình giao khăn tay cho cậu nhóc này chẳng qua là muốn ta mang cậu ấy tới đây cho bà chứ gì."
Tôi vừa nghe thì đã cảm thấy như bị sét đánh trúng người, cái gì? Tá Thọ bà từ đầu đã muốn dụ tôi tới chợ quỷ? Bà lão nhận lại khăn tay, móc nó vào vạt áo mà cười: "Ta đúng là cần hai vị giúp ta một chuyện."
"Ta sẽ không dẫn cậu ấy tới đây lần nữa đâu." Bạch Dực trừng mắt với bà lão, bàn tay đang ôm bên hông tôi cũng chặt lại.
Bà lão cười khanh khách: "Không, không cần trở lại nữa, chí ít lúc này thì không cần, chỉ cần hai người giúp ta đi tảo mộ một người bạn già của ta là đủ."
Tôi nghe mà ngơ ngác, một bà lão quỷ muốn chúng tôi đi tảo mộ? Dạo này chuyện quái dị đúng là có hơi quá nhiều.
"Có thể giúp bà cũng được, nhưng bà phải đảm bảo sau này không được tới quấy rối chúng ta nữa, đồng thời..." Bạch Dực cười khẽ liếc nhìn tôi, trong mắt lóe lên một chút tính toán khôn khéo thường ngày: "Đồng thời, phải cho chúng ta cái chén của bà."
Tôi ngạc nhiên, chúng tôi cần một cái chén làm gì? Nhưng bà lão lại đột nhiên trở nên trầm tư, dường như rất tiếc nuối, nếp nhăn trên mặt như thể hằn sâu thêm. Cuối cùng giống như đã hạ quyết tâm, bà ta tàn bạo nhìn Bạch Dực, những nếp nhăn trên mặt cũng run run: "Bạch thiếu gia quả nhiên tinh tường, được rồi, cái chén giao cho các vị, nhưng các vị nhất định phải tới đó cho ta. Nếu không ta sẽ lại còn tới tìm các vị nữa!"
Bạch Dực gật đầu, bà lão giao cái chén sứ Thanh Hoa trong tay mình cho chúng tôi, bộ dạng như đang phải bán cháu nội mình đi vậy. Cái chén rất bình thường, dưới đáy chén có một chữ "Thọ" màu đỏ tươi. Bạch Dực rút tay khỏi hông tôi, nhận cái chén, sau đó tiện tay để nó lên nắp hũ đựng cốt của tôi luôn.
Bà lão lại móc ra một tờ giấy đưa cho chúng tôi mà nói: "Trong này có bản đồ, các vị chỉ cần dựa theo tấm bản đồ này đi tìm là được."
Bạch Dực nhận tờ giấy mở ra trước mặt nhìn, tôi thấy trên tờ giấy có sơ đồ một địa phương nào đó, còn có vài dòng chữ. Dường như là một cái hồ rộng, trên có một hòn đảo nhỏ, trên đảo có sơn có thủy, còn có một căn đình, nhìn giống như một nơi ngắm cảnh chứ không phải một chỗ tảo mộ.
Tôi không hiểu mấy, nhưng cũng biết lúc này không nên ở lại đây lâu, vì thế thúc thúc Bạch Dực ra hiệu nên về. Bạch Dực gật đầu nhét tờ giấy vào ba lô, cúi đầu nhìn ngọn nến chỉ còn lại một mẩu ngắn, cười cười với Tá Thọ bà: "Bà bà, thời gian cũng không còn sớm nữa."
Tá Thọ bà chỉ nhìn chúng tôi một cái, sau đó không nói không rằng kéo xe bỏ đi. Lần này bà ta không cho chúng tôi bánh nữa, làm tôi có hơi thất vọng, dường như thái độ của Bạch Dực đã làm bà ta khó chịu thì phải.
Tôi lắc đầu thở dài: "Thật đáng tiếc, nếu bà ta cho chúng ta thêm ít bánh thì hay quá."
Bạch Dực cười: "Cần gì mấy thứ nhỏ nhặt đó, cái chén này là một bảo bối đấy, sau này cậu sẽ thấy."
"Cái chén này là sao vậy, bảo bối của Tá Thọ bà à?" Nghe tới chữ bảo bối, đôi mắt tôi cũng sáng rực lên, tinh thần phấn chấn hẳn.
Bạch Dực cười toe toét: "Cái này là cái chén thọ, thứ tốt đấy."
Tôi liếc nhìn anh ta thầm nghĩ, thứ tốt như vậy nhưng cũng đâu có phần của tôi, lần này chỉ có tôi là bị lừa mà thôi. Hóa ra bà lão này từ đầu đã có ý định lừa chúng tôi tới chợ quỷ rồi, để lại khăn tay là cố tình để chúng tôi phải mang tới trả, còn làm bộ tốt bụng cho chúng tôi bánh. Bây giờ nhớ lại cho dù hôm đó tôi không làm gì cho bà ta, bà ta cũng sẽ mượn cớ cho tôi bánh, sau đó giả bộ làm rơi khăn tay mà thôi... Hừ ~ Đúng là một con quỷ hẹp hòi.
Bạch Dực phỏng chừng biết tôi đang nghĩ gì, nhìn tôi một cách bất đắc dĩ: "Đừng tính toán nữa, dù sao cái chén này cũng là của chung, tôi dùng cậu cũng có thể dùng chứ sao."
Tôi vừa nghe thế lại hăng hái lên hỏi tiếp: "Cái chén này dùng làm gì?"
Bạch Dực liếc nhìn tôi, sau đó nói một cách cực kỳ nghiêm túc: "Dùng để ăn cơm chứ dùng làm gì!"
Tôi thực sự muốn thổ huyết, đang muốn hỏi tới, nhưng Bạch Dực đã nhẹ nhàng buông một câu "Về đã rồi tính tiếp" sau đó chỉ chỉ ngọn nến. Tôi nhìn xuống ngọn nến chỉ còn chừng 3, 4 cm, lập tức cả kinh, mặt xám ngoét lại nhìn Bạch Dực: "Chết rồi... Chúng ta đi tìm bà ta mất nhiều thời gian quá. Có phải chúng ta không còn đủ thời gian trở về đúng không?" Sức nặng trên tay vẫn còn nguyên không chút suy suyển, lúc này do quá sợ hãi mà cái hũ dường như lại nặng thêm vài phần, tôi run run ôm cứng cái hũ, giống như người chết đuối vớ được sợi rơm, bắt đầu hoang mang kích động lên: "Tôi không muốn ở lại chỗ không phải con người này đâu..."
"Hiện tại cậu cũng chẳng phải con người." Bạch Dực độc ác cười, sau đó thấy tôi thực sự có vẻ lo sợ, mới híp mắt thêm một câu: "An tâm đi." Dường như tâm tình của anh ta lúc này rất tốt, không biết lôi đâu ra cái đầu gà trống, hướng về phía cái cổng thờ mà ném mạnh tới.
Tôi ngơ ngác nhìn theo cái đầu gà vẽ thành một vòng cung trong không trung, khi sắp đụng tới cái cổng thờ thì đột nhiên như bị cái gì đó chặn lại, rơi vào đám sương mù phía ngoài xa. Bạch Dực vỗ vỗ vai tôi, ra hiệu tiến tới. Tôi nhìn dáng vẻ ung dung tự tại của anh ta, cũng gật đầu, theo anh ta tiến tới phía trước.
Khi chúng tôi vừa qua khỏi cổng thờ thì lại choáng váng một trận, nhưng cái hộp trong nháy mắt không còn nặng như trước nữa, đột nhiên có cảm giác như mình đã đặt chân vững vàng lên mặt đất. Tôi sờ lên trái tim, nó đang đập, sờ lên mặt mình, mồ hôi ròng ròng, cảm giác như vừa sống lại từ cõi chết. Tôi nheo mắt nhìn quanh, phát hiện mình lại quay về con hẻm nhỏ dơ bẩn ban tối, sau lưng chúng tôi không có cổng đền nào cả, chỉ có một bức tường đá xám xịt. Dưới góc tường là cái đầu gà Bạch Dực đã ném đi lúc nãy, cùng với hai ngọn nến đã sắp cháy hết, leo lét những ánh lửa cuối cùng.
Tôi kích động nắm chặt tay Bạch Dực mà hét lên: "Lão Bạch, chúng ta trở về rồi! Chúng ta còn sống!"
"Cẩn thận cái chén đấy." Bạch Dực cảm thấy tôi có vẻ muốn nhảy xổ tới anh ta chúc mừng, liền nhanh tay lấy cái chén khỏi nắp hũ đựng cốt của tôi, sau đó đưa tay gạt mồ hôi trên trán. Lúc này ngọn nến vừa tắt, một làn khói xám nhẹ nhàng bốc lên. Phương Đông cũng dần sáng lên, mặt trời sắp mọc. Đêm tối đã qua, chúng tôi cũng vừa thoát khỏi chợ quỷ.
Bạch Dực vỗ vỗ tay tôi cười nói: "Được rồi, buông cái hũ xuống đi." Tôi chỉ chờ có thế, buông tay một cái, cái hũ rớt phịch xuống đất sinh ra một tiếng động không lớn không nhỏ. Lúc này tay tôi đã tê cứng cả rồi, duỗi thẳng ra còn không được, đừng nói chi tới việc thả xuống nhẹ nhàng.
"Nó mà bị vỡ thì cậu xong đời đấy." Bạch Dực nhìn tôi, đột nhiên hạ giọng như thì thầm. Tôi kinh hãi vội vàng ngồi bệt xuống hoang mang kiểm tra xem nó cái hũ có bị nứt chỗ nào không.
Đột nhiên nghe từ phía sau tiếng cười khẽ của Bạch Dực, vì thế tôi biết mình lại bị anh ta đùa bỡn, chết tiệt! Ngẩng đầu lên định lườm anh ta, phát hiện Bạch Dực cũng vừa buông cái hũ của mình xuống, rõ ràng anh ta cũng không khá hơn tôi là bao, đôi bàn tay đang run lên kịch liệt thế kia.
Nhét cái chén vào ba lô, Bạch Dực bèn rút lại hai tấm hình trên cái hũ, sau đó châm lửa đốt cả hai cái hũ, lại nhặt cái đầu gà trống lên ném luôn vào lửa. Ngọn lửa kêu lách tách, khi hai cái hũ bị cháy, tỏa ra một mùi khét gay mũi, tôi nhăn nhăn mũi. Chờ lửa đốt sắp tàn, Bạch Dực liền bước qua đống lửa sang bên kia, sau đó vẫy vẫy tay với tôi, vì thế tôi cũng bước qua.
Nhất thời tự nhiên cảm thấy cả người ấm áp hẳn lên, tử khí âm lãnh đều tan hết, nếu như nói lúc nãy là sống lại, thì lúc này thực sự là hoàn hồn. Bạch Dực mỉm cười: "Được rồi, có thể hoàn toàn yên tâm rồi."
Tôi gật đầu, cùng Bạch Dực rời khỏi con hẻm nhỏ, bên ngoài, những bóng người đầu tiên trong ngày đã tấp nập trên đường. Ngoài đường lớn, vang lên tiếng xe cộ qua lại cùng với tiếng còi xe gấp gáp, những âm thanh của nhân gian. Nơi đây, mọi người đều có những tình cảm của riêng mình, đều có nhịp tim đập của riêng mình.
Chợ quỷ - Hoàn
[1] Bạch Vô Thường: là một trong hai người Hắc Bạch Vô Thường, được coi là người "dẫn đường" cho các linh hồn xuống địa ngục. Tương tự như thần chết.
[2] "Cẩu huyết lâm đầu" =))))))))
(*) Biên tập lảm nhảm: Dưới đây là những tư liệu Lục Mịnh tìm được về "quỷ lễ" của Trung Quốc, đọc nghe chơi cho vui, hen:
Ở Trung Quốc có bốn "quỷ lễ" (lễ của quỷ) lớn nhất là ngày mùng ba tháng ba, tiết Thanh Minh, ngày mười bốn (mười lăm) tháng bảy, ngày mùng một tháng mười.
1. Ngày mùng ba tháng ba: Vùng Giang Hoài và Giang Nam coi ngày mùng ba tháng ba nông lịch hàng năm là quỷ lễ, nên cứ chập tối là thường đốt pháo trong sân nhà để làm lũ quỷ đi qua phải sợ mà không vào.
2. Tiết Thanh Minh: là mùa đi tảo mộ.
3. Ngày mười bốn/ mười lăm tháng bảy: tương truyền đây là ngày Diêm Vương mở rộng quỷ môn cho chúng quỷ được một ngày lên nhân gian tùy ý làm bừa, cho nên con người gọi đây là "tháng quỷ", không mua nhà cất nhà cũng không dựng vợ gả chồng. Vào ngày này dân gian thường đốt vàng mã cho người chết. Đây là một ngày lễ quan trọng, vì nó vừa là quỷ lễ của dân gian, vừa là lễ Trung Nguyên của Đạo giáo, vừa là lễ Vu Lan của Phật giáo.
4. Ngày mùng một tháng mười: tục gọi là ngày "tế tổ", dùng để kính nhớ tổ tiên. Ngày này bắt đầu chuyển lạnh, nên ngoài vàng mã, hương đèn, người còn sống còn đốt cho người cõi âm rất nhiều quần áo ấm (xem chương 1 để biết thêm chi tiết).
Sau đây là một số điều cấm kỵ không nên làm trong những ngày quỷ lễ:
1. Treo chuông gió đầu giường: chuông gió dễ dẫn các bạn tới, mà ban đêm là lúc con người yếu nhất, dễ bị "xâm thực" nhất.
2. Đi đêm: Những người bát tự quá yếu không nên đi đêm, coi chừng tự rước lấy phiền toái.
3. Đốt vàng mã tùy tiện: Vàng mã là quà tặng cho các bạn, đốt càng nhiều vàng mã các bạn càng tới đông.
4. Ăn vụng đồ cúng: Đồ cúng là đồ ăn dành cho các bạn, chưa được các bạn cho phép đã dám ăn thì sau đó tự mà giữ mình.
5. Phơi quần áo qua đêm: Nếu có bạn nào đó nghĩ quần áo của bạn đẹp quá, mặc thử, sau đó, thuận tiện lưu lại một ít ký hiệu của mình thì...
6. Gọi tên: Đi đêm tuyệt đối không được gọi tên người khác, phải dùng những từ nhân xưng khác mà thay vào, đừng để các bạn nhớ tên mình...
7. Bơi: Có thể sẽ có bạn nào đó xuất hiện chơi trò "quỷ nhấc chân" với bạn, chỉ cần sơ sẩy một ly là cả cái mạng đi đứt như chơi.
8. Nhìn ngó xung quanh: Các bạn thích nhất là chơi trốn tìm, nếu bạn vô tình tìm ra bọn họ, bọn họ sẽ chiếm lấy bạn luôn.
9. Đặt cây gừa trước nhà (gừa chứ không phải dừa nha): Cây gừa là một loại cây tích tụ âm khí, cũng là loại cây các bạn thích nhất, trừ phi bạn muốn mời các bạn ấy vào nhà chơi...
10. Thức đêm: Con người lúc ban đêm là yếu nhất, ma quỷ lúc ban đêm là mạnh nhất, bạn nghĩ là ai sẽ thắng...?
11. Dựa tường: Các bạn thích nhất là bám vào những bức tường mát lạnh, nếu chúng ta dựa tường, vậy quá lý tưởng cho các bạn chơi trò "quỷ triền thân" rồi.
12. Nhặt tiền rơi ngoài đường: Tiền ngoài đường là của ngưu đầu mã diện, dám nhặt tiền của họ sẽ bị họ tìm tới đòi...
13. Dễ dàng quay đầu lại phía sau: Nếu khi đi ngoài ngoại ô hay những nơi vắng vẻ mà nghe "hình như" có ai đó gọi mình thì cũng đừng quay đầu lại, có thể đó là các bạn...
14. Chen vai sát cánh: Con người có ba đốm lửa, một trên đỉnh đầu, hai ở hai bên vai, nếu dập một trong 3 đốm lửa này, các bạn sẽ có cơ hội "triền thân".
15. Quay đầu dép về phía giường: Các bạn thường nhìn theo đầu dép để phán đoán xem bạn đang ở đâu, nếu bạn quay đầu dép về phía giường mình, vậy OK thôi, các bạn sẽ chui vào ngủ cùng bạn cho nó ấm...
16. Cắm đôi đũa thẳng vào chén cơm trắng: Đó là cách cúng cơm cho người chết, giống như cắm nhang ấy mà, nếu bạn làm vậy, các bạn sẽ tự động diễn dịch ra là bạn muốn cùng họ ăn cơm chung...
17. Độc thân: Độc thân dễ khiến các bạn ước ao, thật đó...
18. Chụp ảnh buổi tối: Khi chụp ảnh buổi tối rất dễ chụp cùng các bạn, sau đó đem các bạn về nhà...
19. Chơi cầu cơ: Lúc bình thường chơi cầu cơ đã là cực kỳ nguy hiểm, đừng nói tới dịp quỷ lễ.
20. Đặt dép chỉnh tề bên cạnh giường: Đôi dép chỉnh tề đặt bên cạnh giường sẽ khiến các bạn ở thế giới bên kia hiếu kỳ, mà vì hiếu kỳ nên các bạn dễ tới quậy...
21. Huýt sáo.
|
Chương 11: Mộ hoang (Thượng) "Thiên mục nhập quy tìm mộ hoang
Tứ long vào nước đoạt phách hồn
Bát phương tụ khí hồn không tán
Bắc tôn long ngoan[1] trấn huyền hoàng."
Bầu trời đêm mùa đông đen đặc như ai đó vừa đánh vỡ cả một nghiên mực sóng sánh lên đó vậy, tối tới mức trông không rõ cảnh sắc xung quanh, tất cả chỉ là những đường viền mờ nhạt. Tôi ngẩng cái đầu bù xù lên, lắc lắc cổ cho bớt mỏi, nhìn những bông hoa tuyết thưa thớt rơi bên ngoài, rồi lặng lẽ tan vào đêm tối, từ trắng chuyển sang đen, từ thực hóa thành hư. Nhìn một lúc, mắt mỏi rồi lại vội vàng chớp chớp mắt, cúi đầu chăm chú vào quyển sách trong tay.
Bạch Dực đang ngồi đối diện tôi, tay lật sách nhanh như máy, trên bàn làm việc của chúng tôi là từng đống từng đống sách, hình dáng đủ kiểu, nhưng tựu chung chỉ có một loại: sách bản đồ. Các loại bản đồ khác nhau trải la liệt trên sàn. Trong góc phòng chất mấy cái tô mì ăn liền, mấy ngày nay đây là thứ duy nhất chúng tôi cho vào bụng.
Đột nhiên Bạch Dực đập bàn một cái rầm, tôi ngẩng phắt đầu dậy, nhanh chóng bước qua chỗ anh ta, nhìn vào tấm bản đồ trong tay anh ta. Anh ta hưng phấn nắm hai vai tôi lắc lắc: "Tìm được rồi! Chính là chỗ này!" Sau đó dùng ngón tay dí sát vào một điểm trên bản đồ.
Tôi dụi dụi cặp mắt sung huyết đỏ ngầu, nhìn chằm chằm chỗ ngón tay anh ta chỉ một lát, rồi sau đó cũng hưng phấn đập bàn một cái rầm, kích động reo lên: "Lão Bạch giỏi quá, đúng là tìm ra rồi!!"
Bạch Dực cười khoái chí, nắm lấy tờ giấy Tá Thọ bà giao cho chúng tôi đang để bên cạnh mà lắc qua lắc lại: "Bà già này đúng là quá tàn bạo mà, ai đời chỗ quan trọng nhất lại vẽ sơ sài như vậy, hại chúng ta mấy ngày nay tìm như muốn điên mới tìm ra cái chỗ quỷ quái này!"
Tôi gật đầu hoàn toàn đồng ý, lần trước đến chợ quỷ thật đúng là đem can đảm bảy tám kiếp ra xài hết ráo, dạo này cứ nhìn thấy những bà lão mặc áo bông kiểu xưa là tự nhiên lại ớn lạnh bỏ chạy. Tuy nói cuối cùng cũng thoát khỏi chỗ quỷ quái đó, nhưng bà lão nọ lại ném cho chúng ta một câu đố khó khăn, muốn chúng ta tìm tới phần mộ không tên không tuổi kia.
Mà đầu mối duy nhất chỉ có mảnh giấy te tua như cái bánh tráng mẻ kia, trên đó chỉ xiên xiên xẹo xẹo vài nét như là một cái hồ, giữa hồ có một hòn đảo nhỏ hình dáng giống một con rùa, bốn phía núi non bao bọc, nhìn giống như một hồ nước ngọt trong đất liền. Nhưng làm thế nào để tìm ra nó thì hoàn toàn không có chỉ dẫn, chỉ có 4 câu thơ ý nghĩa hàm hồ: "Thiên mục nhập quy tìm mộ hoang.Tứ long vào nước đoạt phách hồn. Bát phương tụ khí hồn không tán.Bắc tôn long ngoan trấn huyền hoàng."
Vì thế hai ngày nay chúng tôi gần như không ăn không ngủ vùi đầu đi tìm cái hồ không tên nọ, mãi cho tới lúc nãy Bạch Dực tìm ra.
Tôi vuốt vuốt mặt, nhìn bản đồ, lòng vẫn chưa hoàn toàn yên tâm, vì vậy lại quay lại hỏi Bạch Dực: "Sao anh dám chắc đây chính là cái hồ bà ta muốn chúng ta tới?"
Bạch Dực gỡ kính mắt xuống, nhéo nhéo sống mũi, nhìn sắc mặt anh ta cũng cực kỳ mệt mỏi, hiển nhiên mấy ngày nay đã vắt kiệt sức anh ta. Bạch Dực quay lại ngồi xuống, khép hờ hai mắt nói: "Hình dáng rất giống nhau, hơn nữa cái hồ này có tên là hồ Thiên Mộ, Thiên Mộ với Thiên Mục, tám chín phần mười là nó đấy không sai đâu."
Tôi cầm lấy bản đồ, tỉ mỉ so sánh với tờ giấy, đúng là cảm thấy cả hai hòn đảo nhỏ giữa hồ kia đều rất giống nhau, giống như một con rùa chúc đầu xuống nước. Cũng phù hợp với cụm từ "thiên mục nhập quy" trong bài thơ. Nhiệm vụ của chúng tôi lúc này chỉ là tới đó tìm một ngôi mộ hoang mà thôi.
Tôi gật đầu, xếp bản đồ với tờ giấy lại với nhau, sau đó khẽ nói với Bạch Dực: "Vậy chúng ta còn chờ gì nữa? Binh trọng thần tốc, đi nhanh là hơn!"
Bạch Dực nhìn ra ngoài trời: "Mấy ngày nay trời đổ tuyết lớn quá, đường không dễ đi. Tôi nghĩ chúng ta nên chờ thêm vài ngày là hơn."
Đúng vậy. Mấy năm nay khí hậu cực kỳ bất thường, phía nam không mấy khi đổ tuyết lại chợt hạ liên tục mấy trận tuyết rất to. Nhất là năm nay, mấy ngày trước nhiệt độ còn xấp xỉ 20 độ, hôm qua tự nhiên có một khối khí lạnh tràn về, đột nhiên đổ tuyết, tuyết rơi liên tục suốt mấy ngày, cho đến hôm nay thì ngoài trời đã đóng một lớp tuyết dày sụ. Tôi nhíu mày lo lắng nhìn trời, trong lòng rất gấp, rất sợ đến đó quá muộn sẽ bị bà lão nọ tới trách tội, nhưng nhìn lớp tuyết dày ngoài cửa sổ lại cảm thấy ngần ngại.
Tôi lắc đầu, chán nản quay lại chỗ ngồi, tới phiên Bạch Dực ra đứng cạnh cửa sổ nhìn trời mà nói: "Thực ra cái hồ này cũng không xa, lúc này chúng ta cũng đang được nghỉ đông rảnh rỗi, cả đi lẫn về chắc cũng chỉ tốn vài ngày, nhưng mà..." Anh ta quay lại nhìn tôi, vẻ mặt ngần ngừ như có gì đó muốn nói mà lại không dám, tôi ngẩng đầu nhìn anh ta: "Lão Bạch, có gì thì nói đi, đừng úp mở nữa."
Anh ta tiến tới trước mặt tôi, cúi người xuống, trịnh trọng vỗ vai tôi mà nói: "Chỉ sợ cậu tiếc tiền vé xe lửa tốc hành thôi."
Tôi nhất thời nghẹn họng không biết phải nói gì, cuối cùng nhảy dựng lên gạt tay Bạch Dực ra hùng hổ nói: "Đừng cho ông đây là loại keo kiệt bủn xỉn! Tốc hành chứ gì! Có gì to tát đâu, mạng sống vẫn quan trọng hơn tiền chứ!"
Đúng là nhiều chí khí thì ít tài vận, tôi thầm nghĩ cứ thế này thì phỏng chừng bị Bạch Dực cười đến chết mất. Nhưng anh ta nhìn tôi tức đỏ cả mặt, cũng biết mình đùa hơi quá, nên ho khan một hai tiếng nói với tôi: "Tiểu An, tôi chỉ đùa một chút thôi mà, để chúng ta thả lỏng tinh thần một chút, đừng quá lo lắng mà thôi. Bây giờ đi chuẩn bị đồ đạc đi, tôi đi đang ký vé xe. Nếu bà lão kia gấp đến thế thì việc này chắc cũng không tầm thường."
Tôi đột nhiên nhớ ra, vội gọi Bạch Dực lại hỏi: "Vậy anh xem lần này chúng ta có cần mang theo cái gì không? Theo cách bà ta nói thì chỗ đó có vẻ kinh khủng lắm, nói không chừng ngôi mộ hoang này là một ngôi mộ quỷ không chừng!"
Bạch Dực suy nghĩ một lát, cuối cùng vẫn quyết định lắc đầu: "Bà ta tuy là một quỷ bà bà, nhưng tốt xấu vẫn được coi như bán thần, bà ta sẽ không vô duyên vô cớ bắt chúng ta đi tìm chết nữa đâu, hơn nữa chỗ đó cũng không phải nơi hoang vu không dấu chân người, cho dù có hơi bất thường một chút nhưng chắc không hại tới tính mạng chúng ta đâu."
Tôi vẫn tiếp tục kèo nài: "Nhưng cứ mang theo cái gì đó phòng thân cho chắc ăn chứ, nếu không tôi cứ thấy lo lo thế nào ấy."
Anh ta nhìn tôi một lúc, sau đó bật cười: "Tiểu An ơi là Tiểu An, vậy cậu tính mang theo cái gì nào? Dao à? Hay là súng? Gặp phải mấy thứ kia thì vũ khí cũng là vô dụng thôi!"
Tôi bị anh ta hỏi ngược lại nhất thời đớ người, muốn phản bác nhưng phát hiện mình hoàn toàn đuối lý. Bạch Dực nói đúng, nếu thực sự gặp quỷ thì có cho tôi một khẩu Desert Eagle[2] cũng chỉ là phí đạn mà thôi, hơn nữa tôi cơ bản là không biết dùng súng...
Tôi đành ngậm miệng lườm anh ta một cái, sau đó ngoan ngoãn đứng dậy đi thu dọn đồ du lịch.
Buổi chiều ngày hôm sau, chúng tôi đã có mặt trên chuyến tàu tốc hành đến hồ Thiên Mộ, trên thềm ga còn đọng lại một lớp tuyết mỏng vừa rơi, hai bên đường tuyết chất thành đống vun cao, có đoạn đường còn đóng một lớp băng mỏng trơn trượt, không dễ đi chút nào. Lúc này đã sắp tới cuối năm, số người về nhà mừng năm mới rất nhiều, nên xe lửa khá đông. Tôi và Bạch Dực vất vả lắm mới tìm tới chỗ ngồi của mình, ngồi đối diện nhau.
Chỗ ngồi trên xe gần như đầy nhóc, hơn nữa cảm giác sắp được về nhà ai cũng hân hoan, nên hầu như người khách nào cũng thích trò chuyện rôm rả hăng hái, các loại phương ngôn khác nhau lẫn cùng một chỗ, nghe rất lạ tai.
Bạch Dực vẫn chuyên chú nghiên cứu tờ giấy của Tá Thọ bà và tấm bản đồ. Anh ta là một người cực kỳ tỉ mỉ cẩn thận, nhất định sẽ không bỏ qua bất kỳ một chi tiết nhỏ nhặt nào. Nhưng thật không hiểu vì sao anh ta trải qua biết bao chuyện kỳ quái như thế rồi mà vẫn không bao giờ chịu mang theo các loại bùa hộ mệnh này nọ, cũng chẳng biết vì sao lần nào cũng bình an, hóa nguy thành yên. Đó là lý do tại sao tôi lại tin tưởng anh ta tới vậy. Người như thế không cần nói gì, cho dù chỉ cần một ánh mắt của anh ta thôi cũng đủ cho người khác cảm thấy yên tâm.
Tôi chống tay lên cằm nhìn ra ngoài cửa sổ, phong cảnh bên ngoài khá đơn điệu, chỉ thấy những hàng cây khẳng khiu chạy dài cùng với những cột cây số cùng cột điện lùi nhanh về phía sau. Nhiệt độ bên ngoài rất thấp, nhưng trong xe có hệ thống sưởi, vì thế cánh cửa sổ nhanh chóng bị phủ mờ bởi một lớp hơi nước dày, trông không rõ phong cảnh phía xa lắm.
Chán đến chết quay vào, cuối cùng tôi đành kéo cao cổ áo, vùi đầu vào lớp lông dày trên cổ áo mà bắt đầu lơ mơ ngủ. Lúc đang nửa tỉnh nữa mê, chợt có cảm giác như vừa bước vào một hang động, cửa hang bị bít kín, trong hang có một cái rương nhỏ bằng đồng, trên mặt rương bám đầy bụi, không biết đã nằm đó từ tháng nào năm nào. Tôi từ từ tiến gần tới cái rương, nhưng từ khe rương đột nhiên trào ra...máu tươi, xung quanh tối đen như mực, chỉ có một sắc đỏ tươi quái dị tràn ra từ cái rương nọ. Tôi sợ hãi quay người định bỏ chạy, lại bất thần nhìn thấy Bạch Dực đứng chắn phía sau lưng, nhìn tôi cười một cách kỳ quái. Khuôn mặt của anh ta dần dần nhòe đi, máu từ đuôi mắt và khóe miệng anh ta cũng chảy xuống...
Tôi kinh hoàng bật người tỉnh dậy, trước mắt vẫn là toa xe lửa tốc hành, Bạch Dực ngồi đối diện. Anh ta dường như cũng đã mệt mỏi nên đang gục đầu xuống ngủ gà ngủ gật. Nhưng nhìn gương mặt của anh ta lúc này lại khiến tôi nhớ tới gương mặt của anh trong giấc mơ... đầu tôi lập tức đau thốn lên. Tôi nhúc nhích người, đứng dậy run rẩy đi tới chỗ toilet rửa mặt, dòng nước lạnh như băng khiến mặt tôi đau rát lên, nhưng cũng giúp tôi tỉnh táo hơn vài phần. Ngẩng đầu lên nhìn chính mình trong gương, bọng mắt hơi sưng lên, quanh viền mắt là một vòng màu xanh đen chứng tỏ sự mệt mỏi của nhiều ngày mất ngủ liên tiếp, có lẽ vì thế mà gặp ác mộng chăng? Tôi nhếch miệng cười tự giễu với bản thân trong gương, nụ cười cứng ngắc. Nói thật, cái cảm giác bất an kinh hoàng trong mơ vẫn còn đeo bám tôi, khiến cả người tôi lơ mơ như say rượu.
"Quên đi quên đi." Tôi lắc mạnh đầu, dùng tay áo lau vội mặt mũi rồi nhanh chóng quay về chỗ ngồi.
Bạch Dực đã tỉnh, nhìn tôi chăm chú nói: "Sao sắc mặt tệ vậy, không phải bị cảm đó chứ?"
Tôi nhíu nhíu mày xua tay với anh ta: "Không sao, có lẽ hơi bị say xe chút thôi. Chờ xuống tới nơi đi qua đi lại một chút là ổn ấy mà."
Hồ Thiên Mộ thực sự không cách nhà chúng tôi bao xa, chỉ cần đi hơn 3 tiếng đồng hồ là tới nơi. Vừa nhảy xuống xe, chúng tôi đã được chào đón bởi những cơn gió lạnh cắt da cắt thịt khiến cả người run bần bật lên. Tuy nói khí hậu phía nam ấm áp hơn nhiều so với phương bắc, nhưng khi đến mùa đông thì cảm giác lạnh lẽo mà còn ẩm ướt ở đây thực ra đáng ngại hơn nhiều so với cái lạnh khô hanh ở trên vùng cao. Cảm giác này cứ như bị dao sắc cứa vào người vậy, cho dù có mặc dày tới đâu đi nữa thì vẫn thấy lạnh khó tả.
Bạch Dực chỉ vào cửa ra của nhà ga, nói với tôi: "Đi tìm khách sạn trú tạm cái đã, ngày mai chúng ta hãy tới hồ Thiên Mộ."
Tôi gật đầu, hơi thở thoát ra khỏi miệng thành một làn sương trắng toát, thật sự quá lạnh.
Nơi này là một thị trấn cổ, khách du lịch tìm tới khá đông, nên khách sạn đâu đâu cũng có, vừa ra khỏi nhà ga đã nhìn thấy một đống bảng hiệu của đủ loại lữ quán. Chúng tôi chọn một lữ quán gần hồ, ông chủ là dân bản xứ, làm việc rất nhanh nhẹn, nhanh chóng chuẩn bị phòng ốc cho chúng tôi.
Sắp xếp chỗ ở xong xuôi, chúng tôi xuống nhà ăn dưới lầu chọn vài món ăn cho bữa tối, thì thấy ông chủ đang ngồi bên một cái bàn gần quầy hàng, bèn bước tối ngồi xuống bên cạnh ông ta nói chuyện phiếm, thuận tiện hỏi vài thông tin về hồ Thiên Mộ.
Ông chủ thuộc loại hiếu khách, chỉ cho chúng tôi rất nhiều danh lam thắng cảnh xung quanh để đi du ngoạn, Bạch Dực gắp một miếng rau, làm như vô tình mà hỏi: "Tôi vừa thấy gần đây có một cái hồ lớn lắm, giữa hồ còn có một hòn đảo nhỏ, cảnh sắc cũng không tồi nhỉ."
Ông chủ uống rượu nhà tự pha, miệng nồng nặc mùi rượu nói với chúng tôi: "Mùa này không ra hồ được đâu, trời lạnh lắm, dưới hồ còn có rất nhiều xoáy nước ngầm, nhà đò quanh đây chỉ dám chở hai vị dạo vòng vòng bên ngoài thôi. Cái đảo đó cũng trống huơ trống hoác à, không có cảnh đẹp chi hết, khỏi lên chi cho mắc công." Dừng một chút để nhấp rượu xong, ông ta lại tiếp tục, lần này hạ giọng rất thấp: "Còn nữa, người ta đồn là trên đảo có ma đó, cái hồ này cũng ghê lắm, không có ngư dân nào dám ra gần đảo bắt cá đâu!"
Tôi nhìn Bạch Dực, thấy anh ta nhíu mày, liền quay lại hỏi như thể đang hiếu kỳ: "Ồ? Nói vậy là sao?"
Ông chủ rụt rụt cổ, nhìn xung quanh cẩn thận mấy lần rồi mới mở miệng: "Có người bảo là ai dám chèo ra đó đều bị lật thuyền hết, lúc trước chết nhiều người lắm, có lẽ là do xoáy nước ngầm quá nhiều, cho nên bây giờ dân chèo đò chủ yếu chỉ phục vụ khách du lịch thôi, không dám ra đó bắt cá nữa đâu."
Chúng tôi gật đầu, không hỏi thêm nữa mà chỉ nói chuyện phiếm cho qua thì giờ thôi. Sau khi ăn xong về lại phòng, Bạch Dực cũng vẫn giữ im lặng, chỉ chăm chú chuẩn bị phần hành lý cần thiết để ngày mai xuất phát. Tôi ngồi bên cạnh phụ anh ta một tay, nhưng trong đầu vẫn lẩn quẩn những lời ông chủ nói lúc nãy, liền nói với Bạch Dực: "Lão Bạch, anh nghĩ lần này chúng ta đến đó có nguy hiểm lắm không? Xem ra chỗ đó thực sự rất quái dị đó."
Bạch Dực thở dài trả lời: "Tùy cơ ứng biến."
Ngày hôm sau tôi và Bạch Dực dậy thật sớm ra thẳng hồ, lúc này đang giữa đông nên khách du hồ rất ít, những người chèo đò đều vắng khách, thấy hai chúng tôi mặc đồ như khách du lịch đều tiến tới chào mời. Nhưng chúng tôi vừa nói là muốn ra đảo thì mọi người lại đồng loạt xua tay từ chối.
Cứ như thế chúng tôi đi đến giữa trưa, hai chân cũng run run, vẫn không có ai dám chở chúng tôi tới đảo, chỉ còn biết nhìn ra hòn đảo nhỏ đầy tai ương kia mà lắc đầu.
Sau đó chúng tôi dần dần đi ra khỏi khu vực ngoạn cảnh, đến gần một chỗ nước cạn, chỗ này không được chăm chút gì, cả một cái cây cũng không có ai trồng, chỉ có một bãi đá trống trải. Hôm nay tuyết cuối cùng cũng đã ngừng, nhưng bầu trời vẫn nguyên vẻ ảm đạm như cũ, từng tầng mây dày nặng nề lững lờ, sắc trời tuyền một mà xám hiu quạnh, mà nước hồ phản chiếu sắc trời cũng hóa thành một màu chì nhàn nhạt, hoàn toàn không giống chút nào với những cụm từ hoa mỹ miêu tả Giang Nam nào là "ba quang lâm li, mỹ hảo tinh trí" gì gì đó. Gió thổi bên hồ ào ạt, cuốn lấy những bông tuyết rơi bên mép nước, thổi bay mái tóc của tôi thành một đống mất trật tự. Tôi híp mắt lơ đãng nhìn về phía bên trái, lại kinh ngạc phát hiện ở dưới kè đá gần đó có bóng một chiếc thuyền. Tôi kéo tay Bạch Dực vội vàng tới gần, chỉ là một đoạn đường ngắn, nhưng do tuyết đọng nên cũng suýt trượt chân té vài lần. Bạch Dực vừa kéo tay tôi lại vừa la lên: "Từ từ thôi từ từ thôi, đừng để chưa kịp xuất phát đã té bổ nhào chứ!"
Tôi gật gật đầu nhưng vẫn không giảm tốc, cuối cùng cũng an toàn tới gần chỗ chiếc thuyền. Chiếc thuyền này tuy đã cũ, nhưng trông vẫn có vẻ khá chắc chắn. Trong khoang thuyền có đặt mấy tấm gỗ để thay bàn ghế, xem chừng đúng là thuyền dành cho khách du ngoạn.
Tôi nhìn bốn phía một chút, không thấy người chèo thuyền đâu, liền gấp gáp xát xát tay vào nhau nói với Bạch Dực: "Lão Bạch, hay là bất quá thì chúng ta cứ mượn tạm cái thuyền này mà tự đi cho rồi? Viết thư lại cho chủ thuyền là được mà?"
Đang lúc Bạch Dực định mở miệng trả lời thì phía sau lưng chúng tôi chợt vang lên tiếng giày lạo xạo. Quay lại nhìn, thấy một người ăn mặc như dân chèo thuyền dẫn theo ba du khách nữa đi tới. Tự nhiên tôi nghĩ, sao mà khéo thế nhỉ?
Bạch Dực lên tiếng trước: "Sư phụ, có thể chở chúng tôi ra giữa hồ đến hòn đảo nhỏ kia có được không?"
Bác lái đò là một người đàn ông trung niên, da màu đồng khỏe mạnh do hàng ngày đều làm công việc phơi dưới nắng, gương mặt bình thường, nhưng bên trái chỗ dưới trán có một vết sẹo to bằng đồng tiền, thoạt nhìn đã biết là loại người quanh năm sống bằng nghề chài lưới. Ông ta nhìn chúng tôi một chút, sau đó hiền hậu cười: "Được thôi, vừa kịp lúc khai trương giúp tôi luôn."
Ba du khách theo phía sau ông ta là ba thanh niên, hai nam một nữ, gật đầu với tôi và Bạch Dực coi như là chào hỏi rồi bước lên khoang thuyền trước.
Tôi liếc nhìn Bạch Dực ra ý nói không ngờ còn có người khác dám tìm lên đảo, lúc này trời đã dần về chiều, hòn đảo nọ thực sự không thể coi như một danh lam thắng cảnh gì hấp dẫn lắm. Trong lòng tôi còn hơi băn khoăn, nhưng cũng biết không thể trù trừ thêm nữa, bằng không trời sẽ tối, ngày hôm nay coi như uổng công.
Bạch Dực dường như không lo lắng gì cả, thấy người lái đò đồng ý chở chúng tôi lên đảo liền lập tức tới bắt chuyện thương lượng tiền nong. Người lái đò có vẻ là một người thành thật, vì thế chuyện tiền bạc rất nhanh chóng được giải quyết, tôi và Bạch Dực nhanh chóng lên thuyền.
Thuyền nhẹ nhàng tách khỏi bến, bác lái đò này quả thực là một người lão luyện, tuy trên hồ sóng rất lớn mà xem ra con thuyền vẫn ổn định như cũ. Ba thanh niên ngồi hàng ghế đối diện với tôi và Bạch Dực có vẻ rất yên lặng, chỉ chăm chú nhìn cảnh sắc bên ngoài thuyền chứ không lên tiếng. Tôi cũng không dám mạo muội bắt chuyện, bèn nhìn sang Bạch Dực, thấy anh ta dường như cũng bắt chước bọn họ mà nhìn ra cảnh vật bên ngoài.
Tôi nói thầm trong lòng: "Chúng ta có phải là đi chơi thật đâu mà trông anh nhàn nhã thế không biết!" Ba người kia làm thinh khiến tôi cũng tự nhiên cảm thấy lóng ngóng, không biết làm gì khác hơn là cũng nhìn ra ngoài cửa sổ. Lúc này mới thấy, khi đứng trên bờ thì không thể nhìn thấy hết được, hiện tại tiến vào lòng hồ mới phát hiện ra, phong cảnh ở đây quả thực rất đẹp. Xung quanh là núi non trùng điệp, cho dù đang giữa mùa đông cũng vẫn giữ được một vẻ đẹp tráng lệ mà cô tĩnh, đó là một loại vẻ đẹp tú lệ uyển ước đặc thù mà chỉ có ở trời nước núi non chốn Giang Nam mới tồn tại mà thôi. Nếu giả sử lúc này mà là giữa hè trời trong nắng ấm thì cảnh sắc chắc chắn còn đẹp không thể tả xiết hơn nữa.
Chỉ có điều, phong cảnh tuy rất đẹp nhưng trong khoang thuyền lại yên tĩnh tới mức hơi ngột ngạt, chỉ có tiếng bác lái đò thỉnh thoảng vang lên thuyết minh một chút về phong cảnh xung quanh.
"Tứ long vào nước đoạt phách hồn. Bát phương tụ khí hồn không tán..." Bạch Dực đột nhiên thì thầm hai câu thơ trên tờ giấy của Tá Thọ bà, tôi ngạc nhiên quay lại nhìn anh ta, lại phát hiện vẻ mặt anh ta dường như rất kinh hãi về cái gì đó. Vì thế tôi liền ghé sát mặt tới hỏi: "Lão Bạch, anh làm sao vậy?"
Bạch Dực quay lại nhìn tôi thì thào: "Tôi hiểu hai câu thơ này có ý gì rồi!" Anh ta chỉ vào chỗ núi non xung quanh bảo tôi: "Cậu xem, cái hồ này bị vây giữa bốn ngọn núi, giống hệt như bốn con rồng lớn vây quanh hồ vậy. Theo phong thủy mà nói thì cảnh tượng này hình thành nên một loại địa phương âm khí tích tụ nặng nề, không thoát ra ngoài được. Thế nhưng nếu thực là như thế thì chỗ này hẳn đã phải sớm xảy ra chuyện quái dị rồi mới phải, sao còn có thể bình yên tới giờ? Thật là kỳ quặc."
Tôi gật đầu, địa thế ở đây nhìn kỹ thì quả thực giống như thế cục "tứ long vào nước" trong bài thơ, nhưng nếu là phong thủy hiểm ác như vậy thì chắc chắn không chỉ có hòn đảo nhỏ giữa hồ mới nguy hiểm, mà cả cái hồ này lẽ ra đã thành một bể âm khí dày đặc rồi mới phải.
Đột nhiên phía đuôi thuyền hơi rung lên, tôi vội vàng hỏi người chèo thuyền có chuyện gì, nhưng ông ta vẫn thoải mái trả lời: "Không sao đâu, chúng ta vừa đụng phải xoáy nước ngầm đó mà, ở đây mấy thứ này nhiều lắm. Nhưng tôi đã chèo trên hồ này cả nửa đời người, quen thuộc từng xoáy nước ở đây rồi, yên tâm đi."
Tôi thấy dáng dấp tự tin của ông ta cũng yên tâm mà gật đầu. Thuyền lại yên ổn tiến lên phía trước, người chèo thuyền nói thêm: "Ở đây trước kia gọi là hồ Thiên Mục[3], vì càng gần giữa hồ xoáy nước càng nhiều. Sau cải cách, khu này thành chỗ du lịch rồi thì mọi người sợ cái tên kia không được may mắn nên sửa tên nó thành hồ Thiên Mộ."
Ba thanh niên nọ cũng không có vẻ gì là sợ hãi khi thuyền chòng chành, chỉ thờ ơ nhìn bốn phía, dường như không thèm quan tâm tới mấy cái xoáy nước ngầm vậy. Lúc này tôi mới thấy y phục của bọn họ khá phong phanh, giống như trang phục mùa thu, hơn nữa dưới chân họ còn đọng lại một bãi nước, dường như là lúc nãy đi giữa tuyết bị tuyết bám vào quần áo, lúc này mới tan ra. Tôi hơi rùng mình một cái, bọn họ không thấy lạnh à?
Đột nhiên cô gái ngồi giữa chú ý thấy tôi đang quan sát bọn họ, liền ngẩng đầu lên nhìn tôi. Mặt không thể gọi là xinh đẹp hơn người, có vẻ hơi tròn, nói đúng ra là trông cả ba người đều có vẻ mập mạp. Cô gái giật giật môi như đang nói cái gì, nhưng không có lời nào phát ra.
Tôi muốn nghe rõ hơn những gì cô ta đang nói, thì cô ta đã quay mặt nhìn ra hồ. Người chèo thuyền hô to: "Sắp tới nơi rồi, lúc mặt trời lặn tôi sẽ quay lại đây đón mọi người nhé."
Chúng tôi đều gật đầu, ba người kia xuống thuyền trước, sau đó tôi và Bạch Dực cũng cùng nhau nhảy xuống, vẫy vẫy tay với người chèo thuyền. Ông ta cũng vẫy tay đáp lại, sắc trời mông lung khiến tầm nhìn bị hạn chế, chẳng mấy chốc mà bóng con thuyền đã khuất khỏi tầm mắt chúng tôi. Quay đầu lại quan sát kĩ hòn đảo, tôi rùng mình phát hiện nơi này hoang vắng cực kỳ, dường như đã rất nhiều năm không có ai đặt chân tới, tuyết đọng lại từng lớp dày trên mặt đất, cây cối xơ xác trụi hết lá, một cơn gió thổi qua, từng đợt tuyết ầm ào rơi xuống.
Tôi nuốt nuốt nước miếng, nhìn nơi này mà trong lòng chợt dậy lên một nỗi bất an không tên, dường như hòn đảo này sinh ra một lực hấp dẫn nào đó đối với toàn bộ mọi thứ xung quanh, sự bất an của nó đến từ chính lực hấp dẫn này. Bạch Dực vội vàng mở bản đồ và tờ giấy ra đối chiếu, xung quanh ngoại trừ tiếng nước đập vào bờ thì chỉ có tiếng bước chân của hai chúng tôi, còn ba người kia đã đi trước chúng tôi một quãng khá xa. Bọn họ không đi song song cạnh nhau mà lại đi thành hàng một, cúi thấp đầu, đi rất chậm, giống như một đám người hành hương quái dị. Nếu không phải chúng tôi cần phải dừng lại kiểm tra bản đồ thường xuyên thì đã sớm bỏ bọn họ lại phía sau rồi.
Bạch Dực nhìn quanh, rồi nhìn lại bản đồ một chút, sau đó nói với tôi: "Sắp tới rồi, có lẽ nằm ngay trên đỉnh núi thôi, chúng ta trèo lên thôi."
Tôi nhìn về phía đỉnh núi, chỗ nọ tĩnh lặng đến rợn người, ngay cả tiếng chim kêu vượn hót cũng không có, ba người nọ cũng đang thong thả tiến lên đỉnh núi, cho dù bị vấp phải đá hay quật phải cành cây vẫn thản nhiên như không. Tôi ngạc nhiên nhìn một chút, vậy mà cũng chịu nổi sao trời, vì thế liền kéo tay áo Bạch Dực nói nhỏ: "Anh xem ba người kia kỳ quái quá."
Bạch Dực ngơ ngác quay đầu lại, quái dị nhìn tôi một lát, sau đó nhẹ nhàng nói một câu: "Ở đây còn ai khác nữa đâu...?"
Tôi nhất thời ngẩn người ra, cái gì? Không còn ai khác, vậy... vậy ba người kia là... cái gì?! Tôi run rẩy chỉ vào ba người đang đi phía trước: "Ba người phía trước kìa... anh... anh không thấy sao?"
Bạch Dực cau mày: "Không, ở đây chỉ có chúng ta thôi."
Đột nhiên tôi cảm thấy tứ phía nhiệt độ như vừa hạ xuống dưới 0 độ, máu trong người cũng như bị đông cứng, chỉ có tiếng thở gấp và tiếng tim tôi đập như nổi trống trận. Thối lui mấy bước, tôi ngẩng đầu nhìn ba người kia, phát hiện cô gái quay lại nhìn tôi, giật giật môi, lần này tôi nhìn rất kỹ, cô ta đang nói: "Trong số các người có một người là quỷ..."
Trong số chúng tôi có một người là quỷ, lẽ nào... lúc nãy khi đi qua xoáy nước ngầm tất cả chúng ta thực sự đã gặp nạn? Trong đó có một người đã chết? Bốn phía vẫn yên tĩnh đến quỷ dị, ba người kia vẫn bước chân đều đều, nhưng thế nào cũng không sao nhích về phía trước được, như thể bọn họ đang giẫm chân tại chỗ vậy. Mà Bạch Dực nhìn không thấy bọn họ sao!?
|
Chương 12: Mộ hoang (Hạ) Một đống suy nghĩ chạy ngang dọc trong đầu, tôi ra sức lắc mạnh đầu, nhớ tới Bạch Dực đã có lần nói, có một số người do chết quá đột ngột nên thậm chí còn không nhận ra là mình đã chết nữa. Vậy chẳng lẽ là tôi đã chết? Không thể nào, rõ ràng lúc nãy thuyền chỉ hơi chòng chành chứ đâu có lật, người chèo thuyền và Bạch Dực đều nhìn thấy tôi mà? Hay là Bạch Dực chính là người chết? Không có khả năng... Tôi nhanh chóng quẳng suy nghĩ này khỏi đầu. Người ta nói quỷ thoại liên thiên[4], mà ba người đi trước chúng tôi đây mặc quần áo phong phanh lại ẩm ướt, hiện tại nghĩ lại bọn họ cũng không giống người sống, rất có thể là do rơi xuống nước chết đuối, vì thế tôi cần gì phải nghe lời bọn họ nói? Thế nhưng nếu bọn họ là quỷ thì lẽ ra Bạch Dực đã phải nhìn thấy họ rồi mới đúng chứ? Sao lần này anh ta không thấy...?
Bạch Dực dường như thấy sắc mặt tôi càng lúc càng tái nhợt đi, vội đưa tay định đỡ tôi, nhưng đúng lúc đó tôi nhìn xuống gấu quần của anh ta, phát hiện hai gấu quần cũng ướt sũng, giấc mộng trên xe lửa hôm qua tự nhiên ập đến, cảm giác quỷ dị khiến đầu tôi choáng váng. Tôi vô thức lùi lại tránh khỏi tay anh ta, run run nói: "Ở đây không chỉ có chúng ta thôi đâu... Còn ba người nữa, bọn họ cũng lên thuyền đến đây cùng với chúng ta mà!"
Tay Bạch Dực ngừng lại, anh ta nhìn tôi trầm mặc một lúc, sau đó mới thong thả nói: "Ý cậu là ngoài chúng ta ra thì ở đây còn ba người nữa?"
Tôi gật đầu, đang định mở miệng trả lời, chợt phát hiện phía sau lưng Bạch Dực bất thần vươn ra hai cánh tay, hai bàn tay to bè, móng tay màu tím bầm, da trắng nhợt gần như trong suốt. Dần dần từ sau lưng anh ta lộ ra gương mặt của cô gái nọ, tôi kinh hoảng nghĩ thầm, chẳng phải bọn họ đang ở trên sườn núi trên kia sao? Nhìn lại, phát hiện trên sườn núi không còn ai. Tôi quay phắt người lại phía sau, hai thanh niên còn lại đã đứng chực sau lưng tôi tự lúc nào. Trên tóc bọn họ toàn là nước, hai cái đầu trương phình lên, giống như là... giống như là... thi thể ngâm lâu ngày trong nước vậy!!!
Tôi vội vã lui lại, đụng phải Bạch Dực, lại theo bản năng nắm chặt tay anh ta chạy về phía đỉnh núi. Bàn tay anh ta cũng ướt sũng, dường như có hơi...phù...? Tôi run rẩy nắm chặt tay hơn, quay đầu lại cẩn thận nhìn Bạch Dực. May mắn quá, vẻ mặt anh ta vẫn bình thường, chỉ có đôi chân mày nhíu chặt vào với nhau, ánh mắt nhìn chằm chằm lên đỉnh núi, trong miệng lẩm bẩm điều gì không rõ.
Tôi tận lực không dám hoài nghi Bạch Dực, chỉ cắn chặt môi liều mạng leo lên. Ba con quái vật kia cũng bắt đầu đuổi theo, mái tóc của đứa con gái phủ lên vai như một đám rong biển, hai gã con trai thì gần như bò rạp sát đất, trên người toàn là nước nhỏ long tong. Trong tai tôi phảng phất tiếng đứa con gái nghe thê lương như tiếng gió rít qua khe cửa, nó đang không ngừng gào thét: "Trong các ngươi có một kẻ là quỷ, trong các ngươi có một kẻ đã chết..."
Thân thể tôi dường như bị rút sạch sức lực, bước chân cũng càng lúc càng trì lại như đeo đá, chỉ trong chớp mắt, ba quái vật nọ đã muốn đuổi kịp sau lưng. Đứa con gái rõ ràng đang mỉm cười, gương mặt trương phồng tím ngắt, dưới làn da gần như trong suốt đã bắt đầu lấm tấm những nốt thi ban[5] đen bầm. Cái miệng đen ngòm ngáp ngáp, như đang gào thét gì đó với chúng tôi, nhưng không có âm thanh nào phát ra. Nhưng nhìn theo khẩu hình của nó thì rõ ràng nó đang nói với tôi: "Nam nhân bên cạnh ngươi là quỷ!" Hai gã con trai bên cạnh bám chặt vào vách đá như hai con cóc, từ trên người chúng, nước cứ liên tục trào ra.
Đột nhiên Bạch Dực lôi mạnh tôi một cái, kéo tôi chạy thẳng lên phía bắc. Tôi nhắm chặt mắt lại, há hốc miệng chật vật chạy theo sau.
Chạy một lúc lâu, Bạch Dực mới ngừng lại, nói: "Được rồi, chạy tới đây là đủ rồi."
Phía trước đã hoàn toàn không còn đường tiến nữa, tôi mệt tới nỗi ngồi sụp hẳn xuống, vừa chạy cật lực xong, cả người đều là mồ hôi hột. Gạt mồ hôi trên trán, tôi quay sang Bạch Dực hỏi: "Anh thực sự không trông thấy bọn họ sao?"
Bạch Dực không nói gì, ánh mắt của anh ta lại bị hai tròng kiếng phản chiếu ánh sáng mặt trời che mất. Tôi không khỏi trở nên hoài nghi, liền nói thêm: "Đứa con gái còn nói trong số chúng ta có một người là quỷ nữa chứ. Hừ, có mà ba bọn chúng mới là quỷ ấy, chết tiệt thật!"
Lúc này tự nhiên Bạch Dực mở miệng nói: "Sao cậu biết chắc chúng ta không phải quỷ chứ?"
Giọng nói của anh ta rất trầm, tựa như ánh nến lung lay chớp tắt giữa lối trần gian và địa ngục, tự nhiên tôi cảm thấy mình như vừa rơi thẳng vào một hang động đen đặc sâu hoắm nào đó, cảm giác kinh khủng trong nháy mắt tràn ngập cơ thể, tới mức gần như sự tuyệt vọng.
Tôi vô thức sờ lên ngực trái mình, tim còn đập, tôi còn sống. Tôi ngẩng lên nhìn Bạch Dực, bàn tay run rẩy vươn ra định sờ thử xem anh ta tim còn đập hay không. Đột nhiên bàn tay tôi bị bàn tay mạnh mẽ của anh ta nắm chặt lại, tôi hít mạnh một hơi, đau tới mức trợn to mắt. Bạch Dực cầm tay kéo tôi gần lại, vì quá mệt mỏi và sợ hãi nên trước mắt tôi lúc này cái gì cũng trở nên mông lung, tôi không trông rõ vẻ mặt của Bạch Dực, chỉ cảm thấy gương mặt anh ta cũng tái nhợt khác thường, cảm giác âm lãnh thấu xương trong nháy mắt ngập tràn không khí xung quanh tôi...
Anh ta hỏi: "Cậu tin tôi thật sao? Lẽ nào cậu chưa từng nghi ngờ tôi?"
Tôi nhanh chóng lắc đầu: "Đương nhiên không! Nếu ngay cả anh mà tôi còn không tin được, vậy tôi còn biết tin tưởng ai bây giờ? Mẹ nó, tôi còn biết trông cậy vào ai bây giờ?!" Tôi cảm thấy mình như sắp ngất đi, mà có thể ngất đi lúc này được mới tốt, dù sao có khi chúng tôi đều đã thành quỷ cả rồi cũng không chừng! Kỳ thực, hoài nghi hay không hoài nghi, tôi cũng không rõ nữa, có lẽ phải nói người tôi đang hoài nghi là chính bản thân mình mới đúng, nhưng tôi không dám nói ra mà thôi.
Anh ta chậm rãi buông lỏng tay, lại bỗng nhiên nở một nụ cười nhẹ: "Hóa ra cậu lại dựa dẫm vào tôi tới mức này."
Đi chết đi! Dựa dẫm?! Lúc này hai người đương nhiên tốt hơn một người nhiều chứ! Một người đối mặt với bốn quỷ ấy à?! Tôi nào phải thần Chung Quỳ[6] chuyển thế, cho nên 2 vs 3 đương nhiên tốt hơn 1 vs 4 nhiều chứ!!! Tôi đã muốn đứng không vững nữa, một tay đỡ ngay mắt, một bên mắt tôi đang đau thốn từng cơn, đã không còn phân biệt được ai là thực, ai là giả nữa. Mà trong hoàn cảnh ai là người ai là quỷ cũng không biết, ngay chính bản thân mình cũng nghi ngờ này mà tôi vẫn một mực đặt lòng tin vào Bạch Dực, đúng là có hơi kỳ lạ thật.
Anh ta đỡ lấy tôi, sau đó mới nói: "Ba kẻ kia hẳn là Thủy Mị, thứ thủy quái kinh khủng nhất, là loại ác quỷ sinh ra từ những kẻ bị chết đuối. Bọn chúng có thể tạo ra đủ mọi loại ảo giác, sau đó kéo nạn nhân xuống nước thành kẻ chết thay cho chúng. Không ngờ lần này chúng lại lên được bờ, bất quá chúng chắc chắn không lên được chỗ này đâu, phương bắc mạng kim thủy, thủy quỷ không thể lên phía bắc được. Nhưng chúng ta cũng bị nhốt cứng ở đây luôn rồi."
Tôi nhìn quanh một chút, phát hiện chỗ này là một vách núi, trước mặt là vực thẳm, con đường duy nhất xuống dưới đã bị ba con Thủy Mị kia chặn mất. Thời gian lúc này không còn sớm nữa, nếu không xuống nhanh sẽ lỡ thời gian hẹn với nhà đò mất. Mà ba con Thủy Mị kia có vẻ cũng cao cường, có khi chờ không tới lúc chúng tôi chết đói thì chúng đã tìm cách bò lên tới nơi cũng không chừng.
Vì thế tôi gật đầu: "Vậy hiện tại chúng ta nên làm gì đây? Lẽ nào phải xuống dưới 2 chọi 3 với ba con quái vật kia sao?"
Gió vẫn điên cuồng thổi, lúc nãy khi chạy trốn chúng tôi đã bỏ lại toàn bộ hành lý dưới kia rồi, hiện tại có muốn uống miếng nước cũng không đào đâu ra cả, thật là đạn tận lương tuyệt, đường cùng mạt lộ mà!
Bạch Dực nhìn dãy núi bốn phía, sau đó lại nhìn lên đỉnh núi, nhẹ nhàng gật đầu: "Cũng có thể còn có cách khác!" Anh ta nhanh chóng lấy trong túi áo ra tờ giấy của Tá Thọ bà, chỉ vào câu cuối cùng trong bài thơ mà nói: "Một nơi thế này tuyệt không thích hợp để mai táng người chết, như thế, quỷ bà kia muốn chúng ta đi bái tế chắc chắn không phải là một người nào cả, mà có lẽ... là một thứ gì đó mới đúng."
Nói xong, anh ta tìm một tảng đá lớn, dùng tay phủi phủi tuyết bám trên đó rồi ngồi xuống, nghiên cứu kỹ lại bài thơ.
Tôi không dám quấy rối anh ta, không biết làm gì khác hơn là nhìn tứ phía xung quanh, trong mắt là một mảng hoang vu, dưới kia, ba on quái vật vẫn tiếp tục ra sức leo lên, nhưng dường như bị một bức tường vô hình nào đó cản lại. Đứa con gái chợt ngẩng đầu âm lãnh nhìn tôi, giống như nhìn một tên tử tù sắp lên đoạn đầu đài.
Cái nhìn oán độc hung ác này khiến tôi cả người ớn lạnh. "Trời đã đủ lạnh rồi, đừng có leo lên mà thêm phiền phức cho người ta biết chưa!" Tôi lầm bầm chửi một câu, sau đó lại quay lại nhìn Bạch Dực, thấy anh ta vẫn âm trầm ngồi một chỗ suy nghĩ, liền lắc đầu thở dài, lẩm bẩm: "Cái đảo rùa này sao mà âm tà đến vậy không biết! Nếu sớm biết thế này thì không nhận lời bà lão kia làm gì cả, cùng lắm thì tổn thọ vài năm thôi chứ gì, còn hơn là phải lo lắng không biết có qua nổ ngày mai hay không thế này!"
Đột nhiên Bạch Dực ngẩng đầu lên, mắt sáng ngời nhìn tôi: "Cậu vừa nói gì thế?"
Tôi hơi chột dạ, tôi không có ý làm phiền anh ta suy nghĩ, vì thế hơi ấp úng đáp lời: "Nếu sớm biết thế này thì..."
Bạch Dực khoát tay: "Trước đó nữa!"
Tôi nhớ lại từ từ nói: "Cái đảo rùa này sao mà âm tà đến thế..."
Anh ta reo lên "Đúng, chính là thế! Tôi biết nó đang chôn cái gì ở đây rồi!" Sau đó quay sang nói với tôi: "Đi, phải trèo lên cao nữa, chúng ta chỉ còn cách phải leo tới trên đó thôi!"
Nói xong lập tức bám vào vách đá tìm cách leo lên, tuy ngọn núi này không thể gọi là dốc, xung quanh còn có nhiều bụi cây cho chúng tôi bám vào mượn thế leo lên, nhưng không có gì bảo hộ mà cứ vậy leo núi, thật sự có hơi điên cuồng, lỡ mà ngã xuống thì chưa chắc tìm được xác nữa.
Bạch Dực vươn tay ra trước mặt tôi: "Tin tôi, đi theo tôi đi. Đây là cơ hội duy nhất của chúng ta!"
Tôi nhìn về phía ba kẻ dưới kia, không ngờ thấy bọn chúng bắt đầu chậm chạp bò lên. Xem ra phương bắc khắc quỷ là sự thật, nhưng cũng không phải là tuyệt đối. Tôi run cả người, nghĩ thầm cho dù có ngã chết cũng nhất định không thể để chúng bắt được mình rồi giết chết, vì thế kiên quyết nắm tay Bạch Dực, cố sức bước những bước đầu tiên.
Hiện tại ba con quái vật kia và chúng tôi đã hình thành một đường thẳng người truy ta chạy quái dị, may mắn là vì đang hướng về phía bắc nên tốc độ của bọn chúng không nhanh được như trước, cho nên khoảng cách giữa hai bên cũng càng lúc càng tách xa nhau. Tôi bình tâm, tiếp tục leo lên, sử dụng cả tay lẫn chân, nắm lấy tất cả những chỗ có thể bám vào. Bạch Dực ở trên tôi một khoảng ngắn, cũng đang cật lực leo.
Từ khi lên đảo tôi đã nghĩ trên đảo này có một lực hấp dẫn kỳ quái nào đó, lúc này lực đó càng thêm rõ ràng, dường như càng lên cao thì càng mạnh, hơn nữa, càng có khuynh hướng âm hàn hơn. Vẻ âm hàn này dường như biến thành một dạng tử khí chết chóc nào đó, toàn bộ cây cối xung quanh vì âm khí cổ quái này mà đều rạp hết xuống, như thể đang quỳ xuống cúng bái thứ gì đó trên đỉnh núi vậy. Càng leo lên cao, cây cỏ càng ít đi, chúng tôi càng khó leo. Tốc độ của Bạch Dực rõ ràng đã chậm hẳn lại, khiến tôi ở dưới cũng sốt ruột.
Ba con quái vật phía dưới rõ ràng cũng cực sợ âm khí lạnh lẽo trên này, vì bọn chúng đã ngừng lại không dám leo tiếp nữa, chỉ dán chặt vào vách đá như đang chờ chúng tôi rớt xuống.
Là Thủy Mị mà còn phải sợ hãi thứ đang ở trên đỉnh núi, vậy trên đó rốt cuộc đang chôn giấu cái gì? Tôi nuốt nước miếng, ngẩng đầu nhìn Bạch Dực, anh ta vẫn đang cắn răng liều mạng leo lên, nhưng sắc mặt đã xanh mét lại, cả người run bắn lên, xem chừng anh ta cũng bị ảnh hưởng bởi thứ lực hấp dẫn kỳ quặc trên kia.
Đang khi tôi còn lo lắng không biết anh ta có kiên trì lên nổi tới đỉnh núi hay không, thì chợt viên đá mà anh ta đặt chân lên bất đồ rơi ra, anh ta trượt chân, cả người rơi thẳng xuống! Tôi hít mạnh một hơi, theo phản xạ nắm được tay anh ta, vì thế hai chúng tôi trong nháy mắt biến thành cảnh một tay tôi bám chặt vào một cành cây, tay còn lại túm chặt lấy Bạch Dực.
Kính mắt của Bạch Dực đã rơi hẳn xuống dưới vách núi, mấy thứ kia thấy tế, cũng bắt đầu nhốn nháo kích động, rõ ràng là đang chờ chúng tôi rơi xuống, bọn chúng đều đưa tay lên, ra vẻ muốn tóm lấy chúng tôi.
Tôi chưa từng tưởng tượng ra trọng lượng của một người lại có thể nặng đến mức này, tôi nghiến chặt răng, gân xanh trên hai mu bàn tay đều hằn rõ lên. Những đám cây leo trên vách đá tuy mềm mại nhưng lại dẻo dai khác thường, vì cố sức tóm chặt lấy chúng nên lòng bàn tay tôi đã bị cứa rách hết, một dòng máu mảnh trườn theo lòng bàn tay xuống cổ tay, nhiễm đỏ một phần tay áo, cơn đau thốn óc khiến trong phút chốc cơ thể tôi cũng như muốn mềm đi.
Bạch Dực nhìn tôi, gương mặt lạnh lẽo, rất sến súa mà nói rằng: "Buông tay!"
Tôi không muốn lãng phí sức lực đi cãi nhau với anh ta về cái vấn đề vớ vẩn buông hay không buông này thêm nữa, chỉ cắn chặt răng tìm cách cuốn tay mình nhiều vòng quanh bụi dây leo, cuối cùng cả hai chúng tôi cũng không còn rơi xuống nữa. Tôi vốn muốn dùng cả cơ thể mình dán chặt vào vách đá để ngăn chặn việc rơi xuống, nhưng còn Bạch Dực ở dưới nên không dám.
Bạch Dực thấy tôi không có ý buông tay, liền tự tìm cách giãy khỏi tay tôi, tôi hoàn toàn bị rơi vào thế bị động. Tay Bạch Dực đã sắp trượt khỏi tay tôi. Thấy thế tôi vội vàng quay xuống gào to: "Nếu anh mà chết ở chỗ này tức là lỗi của tôi đó, chết tiệt, tôi cả đời cũng không yên tâm nổi đâu! Nếu anh mà ngã xuống tôi cũng sẽ nhảy xuống cho coi! Muốn chết cả hai cùng chết!" Lời vừa ra khỏi miệng tôi đã muốn hối hận; mẹ nó đúng là thành phim sến lúc 8 giờ tối mất bà nó rồi, cứ thế này có phải tiếp theo sẽ là cành cây gãy không?
Bạch Dực nhìn lại tôi, môi mím chặt không nói gì. Tôi gấp tới mức hai mắt đỏ bừng, ai bảo đàn ông không chảy nước mắt, lúc này tôi phải cố lắm mới ngăn bản thân không khóc rống lên hay không gào thét cứu mạng đây này!
Chợt anh ta mỉm cười, một lần nữa nắm chặt tay tôi, tôi nhìn lại, trong lòng nghĩ, có giỏi sao không đòi sống đòi chết nữa đi, vì thế trừng mắt với anh ta một cái. Nhưng vẫn dùng hết sức kéo anh ta lên một chút. Bạch Dực dường như đã tìm được chỗ đặt chân, vì sức nặng trong tay tôi đã nhẹ đi không ít, tôi thở phào nhẹ nhõm, may mà bụi dây leo này không đứt, không chặt đường sống của chúng tôi... Cũng cảm ơn trời, cuối cùng đã thoát khỏi tình tiết muôn thuở của phim truyền hình.
Bàn tay nắm bụi cây đã rách một đường dài, máu tuôn không ngừng, gần như nhuộm đỏ cả bàn tay và cổ tay. Bạch Dực cuối cùng cũng đã đứng vững, bèn nhanh chóng ôm lấy tôi, dùng tay còn lại của mình bám chắc vào một gốc cây to mọc chìa ra ngoài gần đó, sau đó nhìn tôi bảo: "Buông tay ra đi."
Tôi nhìn bàn tay bị thương te tua của mình, khẽ thở dài, sau đó đứng thật vững, một tay còn nguyên lành ôm lấy tay Bạch Dực, tay bị thương từ từ buông đám dây leo ra. Lúc này tôi mới phát hiện là cánh tay đó của mình đang run bắn lên, tê dại đi, chẳng còn sót lại chút khí lực nào. Máu trên tay rơi xuống dưới, đám quái vật lập tức nhốn nháo lên như cá mập đánh hơi thấy mùi máu tươi. Xem ra máu người dường như có thể giúp chúng mạnh hơn đủ để trấn áp sức uy hiếp từ đỉnh núi, vì bọn chúng lại một lần nữa bắt đầu leo lên.
Bàn tay này coi như tạm thời hết xài, tôi tự thấy bản thân quả thực không thể leo lên nữa, đành nản chí thở dài một hơi, nghĩ thầm sống được mới ngoài hai mươi năm, không ngờ hôm nay lại bỏ mạng ở đây. Tôi nhắm chặt mắt, chịu đựng con đau, dù sao thì cũng sắp tới đường cùng rồi, tinh thần mới vừa rồi còn rất mạnh mẽ lúc này lại nhũn cả ra, cả người cũng mềm oặt lả đi.
Bạch Dực nhìn bàn tay của tôi, lại nhìn lên đỉnh núi không còn bao xa ở trên kia, kéo tay tôi khoác lên vai anh ta, sau đó vững vàng nói: "Để tôi cõng cậu lên."
Tôi mở mắt, có lẽ là do mất máu quá nhiều nên lúc này đã không trông rõ trước mắt nữa, chỉ lắc lắc đầu, khàn khàn nói: "Anh leo lên đi, nếu cõng cả tôi theo thì anh không thể lên được đâu!"
Bạch Dực không thèm nói nhiều, buông bàn tay còn lành lặn của tôi ra mà nắm lấy bàn tay bị thương. Tôi đau đến co rúm cả người lại, vô thức ôm chặt lấy anh ta, lòng thầm mắng, chết tiệt, có muốn nắm cũng đừng nắm cái tay bị thương chứ! Anh ta nhìn tôi nói: "Cậu đã không bỏ tôi lại, làm sao tôi có thể bỏ cậu lại chứ? Hoặc là cùng nhau ngã xuống, hoặc là cùng nhau leo lên thôi!"
Tôi không nói gì, hay nói đúng hơn là không thể nói gì, chỉ gật đầu, dùng hai tay quàng qua vai ôm lấy cổ anh ta. Lại lơ đãng nhìn xuống dưới, thấy ba thứ kia có được máu của tôi cứ như phát điên lên, không còn trông giống người nữa mà cứ như ba con thằn lằn màu trắng thật to đang điên cuồng bò lên, ánh mắt dại đi, trong miệng hộc ra những thứ dịch thể màu xanh đen, gớm ghiếc muốn chết.
Bạch Dực thấy tôi đã nằm yên ổn trên vai mình, liền dùng một tay giữ người tôi, một tay dùng sức leo lên, từng tấc từng tấc một. Nói thật, tôi sắp ngất xỉu tới nơi, chỉ biết dùng toàn bộ phần sức lực yếu ớt cuối cùng để ôm chặt lấy Bạch Dực. Lúc này chỉ cần buông tay, khỏi cần nói, nếu không ngã xuống chết thì cũng sẽ bị mấy thứ kia cắn xé.
Gió thổi ù ù bên tai khiến cho mọi giác quan càng thêm trì độn đi. Tôi không trông rõ mặt Bạch Dực nữa, cảm thấy máu trong người cũng sắp đông cứng, cả người lạnh như băng, chỉ có chút hơi ấm tỏa ra từ người Bạch Dực khiến tôi còn mông lung cảm thấy sự sống, cảm thấy mình chưa chết.
Tôi những muốn nói gì đó, nhưng phát hiện cổ họng đã khô đặc lại, nước mắt, cuối cùng nhịn không được trào ra. Bạch Dực biết tôi không chống cự được bao lâu nữa, liền nghiêng đầu lại nhìn tôi, nhíu nhíu mày, anh ta cũng sắp hụt hơi, nhưng vẫn ra sức nói với tôi: "Cố lên."
Tôi vô thức gật đầu, không biết bản thân thực sự có thể chống đỡ tới cùng hay không? Đoạn đường cuối cùng, Bạch Dực gần như phải trườn lên, không biết có nên gọi là kỳ tích hay không nữa. Thủy Mị ngại thứ đang nằm trên đỉnh núi nên không dám tới gần. Tuy chúng cũng điên cuồng tìm cách leo lên núi, nhưng tốc độ so ra vẫn chậm hơn chúng tôi rất nhiều.
Lên tới đỉnh núi, tôi rốt cuộc có cảm giác chân chạm đất. Bạch Dực nằm vật xuống bên cạnh tôi, hai tay cũng đã bị phá rách nham nhở. Nhưng vừa khi lấy lại sức một chút anh ta đã nhổm dậy, tháo khăn quấn cổ xuống bao lấy bàn tay đang chảy máu của tôi.
Anh ta vỗ vỗ hai má tôi: "Chúng ta lên tới đỉnh núi rồi, cố lên!"
Vì mất máu hơi nhiều nên lúc này tôi thực sự khát nước, vô thức rên rỉ: "Khát nước, tôi khát quá..."
Một lát sau dường như có cái gì đó dán sát vào đôi môi nứt nẻ của tôi, tôi bèn theo bản năng đưa đầu lưỡi liếm lấy, cảm thấy thứ đó dường như dừng lại trong phút chốc, sau đó, một dòng nước ấm áp chậm rãi rót vào miệng tôi, thực sự là cứu mạng mà, tôi theo bản năng sinh tồn vội vàng nuốt lấy.
Sau đó nước liên tục được đưa vào miệng tôi, có nước, tinh thần tôi cũng bắt đầu tỉnh táo lại. Nhưng mắt vừa mở ra thì lập tức lại trợn tròn lên, vì tôi sực nghĩ tới việc làm sao mà lại có nước trong hoàn cảnh này được... Hóa ra là Bạch Dực ngậm tuyết vào miệng cho tan... sau đó đút cho tôi... Mẹ nó, sao lại quay về phim truyền hình sến lúc 8 giờ tối thế này?!
Khi anh ta một lần nữa sắp chạm môi vào môi tôi, tôi lập tức bật dậy đẩy anh ta ra, một ngụm nước chưa kịp nuốt bị sặc vào khí quản, tôi ho rũ người ra, vừa ho vừa run run chỉ tay vào Bạch Dực, mắt nhìn chằm chằm vào đống tuyết trên đất.
Anh ta thấy tôi đã sống lại, liền quay lại vẻ mặt như thường, bình thản đứng đắn giải thích: Yên tâm, tôi lấy tuyết dưới sâu, không lấy tuyết trên bề mặt đâu, sạch sẽ lắm mà."
Tôi vất vả lắm mới bình tĩnh lại được, hung hăng trừng mắt với anh ta, trong lòng nói bẩn hay sạch đâu phải là chỗ quan trọng! Nhưng nếu tranh cãi về vấn đề này bây giờ thì quả thực xấu hổ, thôi thì tập trung vào chính sự thôi. Tôi choáng váng đứng lên, nhất thời quên mất một tay đang bị thương, dùng tay nhấc người lên, lập tức đau tới mức tỉnh hẳn cả người. Lắc lắc lư lư ngồi xuống, lúc này tôi mới nhớ ra mình đang ở đâu, chuyện gì đang xảy ra, phía dưới còn có thứ gì, và chúng tôi phải làm gì để thoát thân.
Nhưng trông Bạch Dực lúc này khá bình tĩnh, tôi ngẩng lên nhìn anh ta ra ý hỏi, anh ta không trả lời mà chỉ ra hiệu cho tôi nhìn bốn phía. Tôi làm theo, phát hiện chỗ này hẳn là chỗ cao nhất đảo, là một mô đất nhỏ bẳng phẳng, chính giữa có một phiến đá dựng như mộ phần, bên trên để một cái rương, cái rương nhỏ bằng đồng, giống hệt như cái xuất hiện trong giấc mơ của tôi!
Gió vẫn thổi ào ạt như những lưỡi dao vô hình, cuốn theo một đám tuyết trên mặt đất thành những cơn lốc màu trắng mờ che mắt người, tôi dụi dụi mắt nhìn lỹ lại một lần nữa, thực sự là cái rương đã xuất hiện trong mơ.
Bạch Dực vất vả nâng tôi - lúc đó đã ngã sấp xuống đất - đứng dậy, sau đó chậm rãi tiến tới gần cái rương. Tôi yếu ớt hỏi anh ta: "Nó là cái gì vậy?"
"Đây là thứ duy nhất có thể cứu mạng chúng ta - Huyền Hoàng Bích. Cũng là thứ chúng ta có trách nhiệm tới bái tế." Bạch Dực không quay lại nhìn tôi, chỉ nhẹ nhàng trả lời.
Tôi nghi hoặc hỏi: "Sao lại đặt thứ này ở đây? Mà sao anh biết là nó?"
Lần này Bạch Dực quay lại nhìn tôi, xoa xoa mồ hôi trên trán: "Cậu quên tôi đã nói với cậu rằng chỗ này tụ tập rất nhiều âm khí sao? Một nơi thế này chính xác có thể nuôi dưỡng được ba con quái vật như dưới kia. Nhưng chỗ này lại có thể ngăn chặn bọn chúng, tại sao? Câu trả lời chỉ có một, đó là ở đây có đặt thứ gì đó trấn áp được âm khí, mà câu cuối cùng trong bài thơ của chúng ta là 'Bắc tôn long ngoan trấn huyền hoàng'."
Anh ta có vẻ cũng sắp đứt cả hơi, vì khi nói những lời này giọng anh ta run run, phải dừng lại thở dốc một lúc rồi mới tiếp tục được: "Trong 'Chu Lễ. Xuân quan. Đại tông bái' có ghi chép rõ: Dùng sáu loại ngọc làm lễ vật, lễ bái thiên địa tứ phương; dùng Thương Bích bái thiên, dùng Hoàng Tông bái địa, dùng Xích Chương dâng cho phía nam, dùng Thanh Khuê dâng cho phía đông, dùng Bạch Hổ dâng cho phía tây, dùng Huyền Hoàng dâng cho phía bắc. Các loại ngọc này thực ra đại diện cho sáu thuộc tính khác nhau, thiên là nhật, địa là nguyệt, đông là Thanh Long, nam là Chu Tước, tây là Bạch Hổ, mà bắc chính là Huyền Vũ. Phương bắc cũng là nơi vạn quỷ tụ tập, cho nên đại diện cho phương bắc, thần Huyền Vũ, có trách nhiệm trấn áp mọi hồn ma phách quỷ; cho nên lễ vật dâng cho Huyền Vũ là Huyền Hoàng Bích cũng đương nhiên trở thành loại ngọc có khả năng trấn áp chúng quỷ."
"Ý của anh là chúng ta nên mượn tạm viên ngọc này đi làm bùa hộ mệnh?" Tôi kinh ngạc nhìn lại cái rương, trông nó có vẻ khá nặng.
Anh ta cũng quay lại nhìn cái rương đồng: "Thứ này xem chừng đã được để ở đây trên dưới trăm năm rồi, nếu bây giờ mà động vào thì âm khí tích tụ trong nó không phải thứ con người có thể chịu nổi đâu. Hơn nữa thứ này không mang đi được, bằng không nơi này sẽ hóa thành đất quỷ mất. Nhưng đúng là có thể dùng nó để trấn áp ba con quái vật dưới kia dễ dàng."
Tôi nghe thế cảm thấy hơi chợn, quả nhiên vẫn cần một người phải liều mạng? Vì thế cắn răng nhìn sang chỗ cái rương: "Để tôi tới lấy ngọc. Dù sao lúc này tôi cũng muốn đi hết nổi rồi, chết thì chết thôi mà, để tôi lấy cho!"
Bạch Dực nhìn tôi, tôi biết mình vừa nói với anh ta một câu không lấy gì làm hay lắm, nhưng trong tình huống nước sôi lửa bỏng này, chỉ có biện pháp này là có thể cứu một trong hai chúng tôi mà thôi. Vì thế tôi cắn cắn môi không thèm suy nghĩ nhiều nữa, mà chậm rãi tiến về phía cái rương.
"Để tôi làm thì hơn." Bạch Dực chợt bình thản nở nụ cười, bàn tay ngăn tôi lại.
Chết tiệt! Có phải là đi ăn chùa đâu mà hăng hái thế? Đây là ôm bom cảm tử, cảm tử đó biết chưa, đừng có làm người ta sởn gai ốc nữa đi, ngày hôm nay sến súa quá đủ rồi! Tôi gạt tay anh ta ra, lảo đảo bước tới gần như ôm lấy cái rương, sau đó quay lại trừng mắt quát Bạch Dực: "Tôi đã bảo để tôi làm! Anh đừng nghĩ tôi vô dụng như vậy, cái gì cũng cần phải nhờ anh tới cứu! Lần này để tôi làm anh hùng một lần đi!"
Lúc này, ba con quái vật kia không biết bằng cách nào mà cũng đã leo dần tới đỉnh núi. Gương mặt đầu tiên tôi nhìn thấy là của nữ quỷ, cả người nó đều tràn ra một thứ dịch thể màu xanh đen hôi thối, cơ thể nó phồng lên, sưng phù như một đống bột nhão quá nước kinh khủng, chậm rãi nhúc nhích bò lên. Sau đó tôi phát hiện ra sau lưng nó là hai cái đầu của hai gã con trai còn lại, có thể nữ quỷ này đã hấp thu cả hai đồng bạn của mình mới có đủ sức mạnh leo lên tới đỉnh núi này. Trông nó có vẻ cực kỳ táo bạo, đôi mắt đỏ lừ, cái miệng mở rộng, lộ ra hai hàng răng nhỏ sắc lẻm nhọm hoắt, hoàn toàn có thể nghiến đứt xương khớp của chúng tôi.
Tôi thấy chúng tôi đang rơi dần vào hoàn cảnh chỉ mành treo chuông, liền không chờ Bạch Dực lên tiếng, cấp tốc mở cái rương trong tay ra. Cái khóa trên nắp rương đã rớt ra từ lâu, tôi dùng cánh tay bị thương kẹp chặt rương, sau đó dùng cái tay lành lặn còn lại mở nắp rương ra.
Quái vật thấy tôi sắp mở rương, lập tức điên cuồng gào thét lao thẳng tới chỗ tôi. Bạch Dực lúc này cũng đã nhìn thấy nữ quỷ, dường như sức mạnh của Huyền Hoàng Bích ở đây khiến nó không thể ẩn thân được.
Anh ta nhanh như chớp lao ra chặn nữ quỷ lại, sau đó rút từ trong túi áo ra một cái túi gấm nho nhỏ mà tôi chưa nhìn thấy bao giờ, sau đó một tay túm chặt lấy nữ quỷ, tay còn lại rắc một ít bột từ trong túi gấm vào thẳng mặt nó. Nữ quỷ như thể đã hoàn toàn phát điên, nhưng bột phấn làm cả cơ thể nó nổi lên những bong bóng nước nhỏ, nó đau đến mức gầm rú điên cuồng, cả người tỏa ra một mùi hôi thối kinh người.
Tôi không có thời gian nhìn cảnh tượng kinh khủng trước mắt, chỉ cắn răng dùng lực, cuối cùng cái rương cũng mở bung ra. Tôi run run cầm lấy khối ngọc bích bên trong, một trận khí âm hàn kinh khủng nhất thời dội thẳng vào người. Ngọc bích là một khối ngọc màu trắng sữa pha vàng nhạt, xung quanh không có bất kỳ vàng bạc nào để trang sức, chỉ là một viên ngọc thuần khiết thiên thành hình khối tròn, viên ngọc lạnh lẽo lạ thường, so với nó, thậm chí băng tuyết đóng dày xung quanh thực sự không là cái gì cả. Trong nháy mắt, linh hồn của tôi giống như bị rút cạn, máu trong người cũng như đông cứng lại hết, đôi chân dường như đã hòa thành một khối với đám băng tuyết xung quanh, mọi cảm giác trên người tôi đều như ngưng trệ lại, giống như đang bị giam trong một khối nước đá khổng lồ, tôi có cảm giác như cơ thể mình đang phải tiếp nhận toàn bộ khối âm khí ghê người đã tích tụ ở đây bao nhiêu lâu rồi vậy.
Tôi không thể thở được nữa, nữ quỷ kia vừa nhìn thấy viên ngọc bích trong tay tôi chợt gào thét rất to, hai cái đầu còn lại trên người nó cũng bắt đầu rít gào lên. Tôi dùng cả hai tay mình giữ viên ngọc, quỳ rạp xuống đất, hai bàn tay tôi dần dần đổi màu, làn da chậm rãi biến thành một màu trắng ngà của ngọc. Nữ quỷ kia đang khốn khổ gào thét, lăn lộn trên mặt đất, dường như đang từ từ tan ra... cuối cùng, chỉ còn sót lại một đám nước đen ngòm, ở giữa chúng, là ba bộ xương khô, hai nam một nữ, mặc y phục mùa thu...
Bạch Dực quay phắt lại nhìn tôi, vội vàng gào to bảo tôi mau buông viên ngọc ra, nhưng tôi không thể buông nó xuống được nữa, viên ngọc giống như dính chặt trên tay tôi vậy. Không! Phải nói là nó đang muốn nuốt chửng tôi, tôi cảm giác cơ thể mình càng lúc càng hóa thành một khối ngọc.
Bạch Dực thấy thế vội chạy tới, nhưng tôi lập tức kêu to: "Đừng tới đây! Thứ này... thứ này có thể nuốt chửng người!"
Nhưng anh ta vẫn không dừng lại, mà ngược lại, còn chạy tới nhanh hơn. Thoáng một cái đã ôm chặt lấy tôi, trong miệng không ngừng lẩm nhẩm mấy câu thơ trên tờ giấy: "Thiên mục nhập quy tầm mộ hoang. Tứ long vào nước đoạt phách hồn. Bát phương tụ khí hồn không tán. Bắc tôn long ngoan trấn huyền hoàng... Linh hồn của vạn vận yểm trong thần ngọc, hôm nay chúng tôi đến bái lạy, tạ ơn bắc tôn...!"
Anh ta niệm mấy lần, cuối cùng tôi cũng cảm thấy cơ thể mình dần dần có lại cảm giác, viên ngọc bích trên tay cũng rơi xuống mặt đất đầy tuyết. Nhưng luồng khí âm hàn trong cơ thể tôi thì còn nguyên đó, khiến tôi run lẩy bẩy. Tôi thậm chí phải dùng răng cắn chặt môi, để hai hàm răng không va vào nhau.
Bạch Dực vỗ nhẹ lên lưng tôi, nhẹ giọng an ủi: "Không sao, không sao nữa, xong hết rồi. Chúng ta hoàn thành lời hứa rồi."
Tôi ngẩng lên nhìn Bạch Dực gật gật đầu. Anh ta buông tôi ra, cởi áo khoác ngoài của mình ra mà khoác lên người tôi. Tôi giật giật thử ngón tay, nhưng phát hiện bàn tay đã đông cứng lại, ngay cả nhúc nhích đầu ngón tay cũng không được, âm khí của mấy trăm năm tích tụ quả nhiên không tầm thường.
Bạch Dực nhìn bộ dạng hoạt kê của tôi, nhẹ nở nụ cười, cầm hai bàn tay tôi nhét vào trong túi áo, sau đó thỏa mãn gật đầu, ngẩng lên nhìn ánh tà dương phía xa xa. Mặt trời sắp lặn, bầu trời vẫn âm u đầy mây, nhưng ánh chiều tà vẫn đủ sức nhuộm cả mặt hồ thành một màu vàng nhạt mê hồn. Quả là "thu thủy cộng trường thiên nhất sắc"... Bên bờ hồ, bóng một con thuyền lá khẽ lắc lư theo làn sóng.
Bạch Dực vỗ vỗ người tôi nhẹ nhàng bảo: "Về thôi, việc này coi như xong."
Tôi run run nói: "Lúc... lúc về... tôi muốn ăn...ăn lẩu...muốn uống... uống canh nóng..."
Anh ta cười đồng ý, sau đó đỡ tôi men theo con đường phía nam đi xuống dưới. Mé phía nam có bậc thang, cho nên dễ đi hơn rất nhiều so với mé phía bắc, nhưng với tình trạng của tôi lúc này thì quả thực không hề đơn giản chút nào. Chờ đến khi xuống tới bến thuyền, ông chèo thuyền đã chờ sẵn ở đó hút thuốc, ông ta nhìn chúng tôi như hai kẻ chạy nạn, vội vã tới đỡ chúng tôi, sau đó hỏi có chuyện gì xảy ra.
Chúng tôi lắc lắc đầu nói là không cẩn thận ngã xuống núi, chứ không dám kể thật. Ông ta gật đầu khen chúng tôi may mắn, sau đó cho chúng tôi lên thuyền, nhanh chóng trở về.
Khi trở về mặt hồ rất phẳng lặng, không thấy xoáy nước ngầm nào. Người chèo thuyền cũng không nói gì, chúng tôi nhanh chóng cập bờ, thanh toán tiền rồi từ biệt ông ta. Ông ta lại chống sào, chiếc thuyền con nhanh chóng biến mất giữa mênh mang sóng nước.
Khi chúng tôi quay về văn phòng quản lý du lịch gần đó, người ta thấy chúng tôi người đầy thương tích, liền lập tức giúp chúng tôi băng bó, còn gọi điện cho bệnh viện địa phương tới. Chúng tôi chỉ dám đơn giản nói là ra hòn đảo nhỏ giữa hồ du ngoạn, không cẩn thận để bị trượt té xuống núi.
Nhưng một nhân viên cứu hộ có tuổi đang có mặt ở đó nghe thế, liền lập tức kinh hoàng hỏi: "Sao hai người ra được hòn đảo đó chứ! Thiệt tình, tên khốn nào dám làm trái quy định như vậy! Đã dặn kỹ là tuyệt đối không được chở khách ra đảo kia mà!"
Chúng tôi nhìn nhau, lần này là tôi lên tiếng: "Có thật không, người chèo thuyền cho chúng tôi là một bác trung niên, da màu đồng, dáng người rất vạm vỡ, trên trán bên trái có một vết sẹo to bằng đồng xu..."
Ly nước trong tay ông nhân viên cứu hộ chợt "xoảng" một cái rơi xuống đất vỡ tan tành. Ông ta kinh hoàng lắp bắp: "Sao... sao có thể như vậy chứ... mùa thu năm ngoái ổng mang theo ba sinh viên chèo thuyền ra đảo, gặp phải xoáy nước ngầm chết đuối hết rồi mà... đến giờ còn chưa tìm được thi thể..."
Cổ tôi cứng đờ ra, tôi run rẩy hỏi thêm: "Ba sinh viên kia... có phải hai nam một nữ... không ạ...?"
Ông ta nhìn chúng tôi chằm chằm mà không trả lời. Tôi nhìn ra bên ngoài cửa sổ văn phòng cứu hộ, dường như phảng phất nhìn thấy giữa làn nước dập dờn của hồ Thiên Mộ bóng một con thuyền nho nhỏ, chập chờn phiêu đãng...
Mộ hoang - Hoàn
[1] Long ngoan là một tên gọi khác của Huyền Vũ
[2] Một loại súng lục nòng lớn bán tự động, được sản xuất chủ yếu ở Israel. (Wikipedia Việt Nam)
[3] Tức là "ngàn con mắt", ý chỉ những xoáy nước trong hồ
[4] Trong trường hợp này xin hiểu là "quỷ thì thường nói lung tung để mê hoặc con người"
[5] Thi ban là những nốt tụ máu dưới da, thường xuất hiện sau khi chết một khoảng thời gian.
[6] Thần Chung Quỳ là vị thần chuyên diệt quỷ trong thần thoại Trung Quốc.
|
Chương 13: Song hỉ quỷ sát (Thượng) Một mùa cuối năm nữa lại sắp đến, cho dù khí trời lúc này rất lạnh, nhưng tất cả mọi người đều hối hả chuẩn bị cho ngày tết. Sự vui sướng đón mừng năm mới tạm thời đẩy lui cái giá rét của trời đông. Rất nhiều người chọn khoảng thời gian này để tổ chức những sự kiện vui mừng, ví dụ như trong trường chúng tôi có tới mấy cô giáo cùng chọn thời điểm này để kết hôn. Mấy ngày nay các cô ấy toàn là nhìn chằm chằm vào tờ lịch bàn, háo hức chờ ngày vui sắp tới.
Nhưng cũng thật kỳ lạ, thời gian này ngoại trừ nhiều đám hỉ thì cũng có rất nhiều đám tang. Có lẽ là do khí hậu quá lạnh, những người thể chất yếu hay những ông già bà cả gần đất xa trời chịu không nổi cái rét cuối năm đều chọn lúc này để ra đi. Hễ bước ra đường là lại gặp những người đeo băng tang trên tay áo, sắc mặt u buồn, trông chẳng có không khí mừng năm mới gì cả.
Thời cổ, người Trung Quốc quan niệm đời người có hai đại hỉ sự, thứ nhất đương nhiên là kết hôn, đó là khi một người tự mình có gia đình riêng, sinh con đẻ cái; nhưng hỉ sự thứ hai chính là khi chết đi, tục gọi là "hồng bạch song hỉ". Tôi thực sự đến bây giờ vẫn không hiểu người chết đi rồi vì sao lại được coi là đáng mừng? Có phải bởi vì người đó sắp được lên cõi cực lạc hay không? Rốt cuộc thoát khỏi bể khổ nhân gian?
Tôi nhìn chằm chằm vào màn hình vi tính, thờ ơ chơi game online, nhưng đầu óc vẫn không ngừng suy nghĩ miên man về đủ thứ chuyện, có thể coi đây là một thói quen từ lâu của tôi. Sau lần đến hồ Thiên Mộ, tôi về tới nhà chỉ nằm dài ra nghỉ ngơi dưỡng sức, dịp năm mới này cũng quyết định không về quê nữa, nếu không để ba mẹ tôi nhìn thấy mấy vết thương kinh khủng này sẽ tưởng tôi vừa đi đánh trận ở Afghanistan về mất.
Bạch Dực cũng không về quê, anh ta nói là đã qua tuổi ở nhà mừng năm mới với cha mẹ rồi, có về hay không cũng thế. Hơn nữa để lại tôi một mình ở đây cũng không an tâm, cho nên hai anh chàng độc thân chúng tôi cùng nhau mừng năm mới... Nghe ra cũng thật cô đơn...
Khi tôi sắp hoàn thành nhiệm vụ (trong trò chơi) thì chợt nghe có tiếng gõ cửa, bèn vội vàng thu nhỏ cửa sổ trò chơi lại, lật đật xỏ chân vào dép ra ngoài mở cửa.
Lúc đó tôi cứ tưởng là Bạch Dực quên mang ví tiền nên quay về lấy. Vốn anh ta nói muốn đi sắm ít đồ tết, tuy chỉ có hai người cùng nhau mừng năm mới nhưng vẫn có những thứ nhất định không thể thiếu. Tôi lại rất lười mấy chuyện này, càng không muốn chường mặt ra đường giữa trời đông tuyết, nên quyết định ở nhà một mình cuộn chăn chơi game.
Vuốt vuốt mái tóc đã bắt đầu dài phủ gáy, tôi vừa mở cửa vừa càu nhàu: "Sao anh phiền phức quá vậy, cửa nhà...đâu có khóa...ơ..."
Vừa mở cửa liền phát hiện bên ngoài không phải là Bạch Dực mà là một cô gái trẻ, thân hình rất gầy gò, mặc áo khoác dạ màu đen, tóc dài ngang vai, trên cổ choàng khăn trắng, nhìn cũng có vẻ thanh tú, nhưng sắc mặt tái nhợt nên trông hơi yếu đuối.
Tôi vừa nhìn thấy đó là một cô gái liền lập tức sửa lời: "A, xin lỗi bạn. Tôi tưởng là anh bạn cùng phòng chứ, bạn tới tìm ai?"
Tôi đã xác định từ đầu là cô ấy không đến tìm tôi. Từ nhỏ tới giờ, nói ra thật xấu hổ nhưng chưa bao giờ tôi được các cô gái tới tìm đích danh cả. Quả nhiên cô gái trả lời: "Dạ, em tới tìm anh Bạch Dực, nghe nói anh ấy ở đây..."
Giọng nói của cô rất êm tai, nhưng vừa nghe nói cô gái tới tìm Bạch Dực, không hiểu vì sao lòng tôi lại có chút khó chịu. Nhưng tôi chỉ nhanh chóng quy kết là do mình ghen tị với anh ta mà thôi... Chỉ tiếc là đã mất công tìm tới tận đây mà lại không đúng lúc, vì thế tôi đành cười cười nói thật: "Bạch Dực vừa ra ngoài mua ít đồ rồi, lúc này không có nhà."
Cô gái hơi nhíu nhíu mày, dường như rất ưu phiền. Cô ta vốn đã thanh tú, vừa nhíu mày một chút thì lập tức hình thành một loại vẻ đẹp yếu ớt sầu bi, giống như Lâm muội muội[1] vậy. Vừa nhìn thấy dáng vẻ này của cô ấy tôi đã mềm lòng, đành gợi ý: "Nếu không, bạn có thể vào nhà chờ anh ấy một chút? Anh ấy chắc cũng sắp về rồi."
"Em tên Triệu Vân Vân, học viên của Học viện hí kịch. Nghe nói anh Bạch Dực rất rành mấy thứ 'bất bình thường' nên em đến nhờ anh ấy giúp." Cô gái khẽ liếc nhìn tôi, nhỏ nhẹ giải thích, hai hàng chân mày cũng từ từ giãn ra.
Lại là Học viện hí kịch nữa sao? Thảo nào giọng nói lại mềm mại như vậy. Nhưng mà sao Bạch Dực biết nhiều học viên của cái học viện này thế không biết? Tiểu tử này, bộ muốn chọc tôi tức chết sao hả trời?! Tôi "à" một tiếng, tránh người sang một bên ra hiệu cho cô gái vào phòng. Bên ngoài trời rất lạnh, cô ta trông sắp chết rét tới nơi, làm sao tôi có thể để cô ta chờ ngoài cửa được chứ?
Tôi cười gật đầu với cô gái: "Tôi tên là An Tung, đồng nghiệp kiêm bạn cùng phòng với Bạch Dực. Bạn vào ngồi chờ chút đi, anh ấy chắc sắp về rồi."
Triệu Vân Vân mím mím môi, không từ chối gì mà nhẹ nhàng bước vào phòng. Trong phòng có mở máy sưởi, cô gái đương nhiên phải cởi áo khoác và khăn quàng cổ ra. Tôi đứng phía sau lưng cô ta, hơi băn khoăn, trông cô ta chẳng có vẻ gì là bất bình thường cả, vậy tìm tới Bạch Dực làm cái gì không biết?
Nhưng khi cái khăn quàng cổ của cô gái vừa lơi ra thì tôi đã thoáng nhìn thấy trên cổ cô ta có một vết hằn màu đỏ, nhưng khi muốn nhìn kỹ lại thì cô gái đã kéo cao cổ áo che khuất mất. Mà đương nhiên tôi cũng không thể nhìn chằm chằm khiếm nhã vào cái cổ của một cô gái, nếu không sẽ bị mắng là lưu manh mất. Cũng có thể chỉ là một sợi dây đỏ để buộc ngọc bội hay gì đó chẳng hạn, có khi là do tôi thần hồn nát thần tính thôi.
Cô gái nhìn quanh gian nhà, sau đó mỉm cười khen: "Không ngờ phòng của các anh mà cũng sạch sẽ không kém gì phòng các bạn nữ thế này."
Tôi rót cho cô gái một ly trà, cười đáp lời: "Tất cả là nhờ tay Bạch Dực cả đấy, anh ta có hơi sạch sẽ quá đáng." Nhưng trong lòng thầm nghĩ, bộ cô tưởng cứ hễ là phòng của đàn ông là phải dơ dáy lộn xộn như cái ổ chó, bít tất treo trên cửa, quần áo vất trên ghế hay sao?
Khi cô gái đưa tay nhận ly trà từ tay tôi, tôi chợt nhìn thấy trên cổ tay cô ta cũng có một vòng màu đỏ. Tôi vô thức mở to mắt nhìn, nhưng chưa kịp nhìn kỹ thì tay cô ta đã rụt lại chìm vào trong lớp lông dày lót ngoài tay áo. Thật kỳ lạ, năm nay là năm tuổi của cô ta hay sao mà phải cột nhiều dây đỏ lên người như thế?
Triệu Vân Vân nhấp một ngụm trà, có vẻ như làm ấm người lên một chút rồi mới mở miệng: "Em được cô giáo Bạch Nguyệt Linh giới thiệu, nghe nói cô giáo là cô của anh Bạch Dực. Cô giáo bảo anh Bạch Dực rất rành mấy thứ..." Cô gái chợt nhỏ giọng, bàn tay đang cầm ly khẽ siết lại, cắn cắn môi mấy cái rồi mới tiếp: "Nghe nói anh ấy có thể trừ tà đuổi quỷ. Em hiện nay đang gặp phiền toái lớn, nếu anh ấy không giúp em, sợ là... sợ là..."
Vừa lúc đó, cánh cửa phòng phía sau lưng chúng tôi chợt kẽo kẹt một tiếng, một cơn gió lạnh thốc vào, cô gái dường như kinh hoảng vì một cái gì đó, nhanh như chớp quay phắt lại phía sau nhìn trừng trừng cánh cửa đang từ từ mở ra. Cho đến khi nhìn thấy dáng Bạch Dực tay xách nách mang túi to túi nhỏ bước vào phòng, cô mới thở phào nhẹ nhõm. Nhưng tôi thì chẳng có gì sợ hãi cả, tôi biết là anh ta.
Bạch Dực tha về rất nhiều thứ, không thèm ngẩng đầu lên mà chỉ gọi vọng vào: "Ra đây phụ một tay đi, nặng chết người ta bây giờ, đã bảo cậu cùng đi mà cậu lại cứ ở nhà chơi game mãi!"
Tôi vội vàng chạy ra cầm lấy vài cái túi, vừa mang vào trong vừa nói: "Hừ, có bao giờ anh nhìn thấy hai thằng đàn ông dắt tay nhau đi sắm tết chưa? Người ta nhà nào cũng là vợ đi với chồng, cha mẹ đi với con cái, ai đời hai thằng nam nhi chi chí mà đòi đi mua đồ với nhau hả?!"
Bạch Dực lườm tôi một cái, cười hừ hừ: "Cậu mà là vợ tôi thì coi như tôi xui trọn kiếp rồi!"
Tôi định tiếp tục cãi lại vài câu, nhưng Triệu Vân Vân ở phòng trong đã ho khan vài tiếng, dường như đã bắt đầu ngượng ngùng với nội dung câu chuyện của chúng tôi. Bạch Dực quay lại hỏi tôi: "Trong nhà có ai vậy? Sao nghe như giọng con gái thế?"
Lúc này Triệu Vân Vân cũng bước ra, nhỏ nhẹ chào Bạch Dực: "Em tên Triệu Vân Vân, cô Nguyệt Linh giới thiệu em tới đây, em muốn nhờ Bạch tiên sinh giúp em một chuyện."
Bạch Dực nhướn mày nhìn, sau đó vèo một cái biến thành nét mặt lạnh tanh nghiêm túc như thường lệ, chỉ có tôi đứng ngay bên cạnh anh ta mới nghe anh ta lầm bầm: "Lại nữa sao trời... lần trước chuyện con bé Chu Linh kia còn chưa đủ chắc... Cứ muốn gây rắc rối cho cháu mình là sao..."
Sau đó chỉ thấy anh ta khẽ gật đầu, không nói gì thêm, chỉ chăm chú mang hàng hóa trên tay vào trong nhà. Tôi lắc đầu nhìn theo anh ta, vội vàng đưa Triệu Vân Vân vào nhà ngồi lại. Trong lòng thầm than thở: Bạch Dực ơi là Bạch Dực, ở đây mà anh còn sĩ diện cho ai nhìn không biết?
Một lát sau Bạch Dực mới quay lại ngồi xuống ghế, phòng của chúng tôi hơi nhỏ nên để có chỗ cho anh ta ngồi tôi đành phải đứng dựa người vào bên ghế của Bạch Dực. Cô gái nhìn chúng tôi chăm chú, sau đó nhấp một ngụm trà, chúng tôi thì yên lặng chờ đợi cô ta lên tiếng.
Lúc này căn phòng rất yên tĩnh, chỉ có tiếng đồng hồ tích tắc, phải vài phút sau, cô gái mới từ từ bắt đầu câu chuyện của mình: "Em sợ lắm, sợ là mình sắp chết mất! Xin các anh, các anh cứu em với, em biết mình rất đường đột khi chạy thẳng tới đây, nhưng quả thực em không dám chắc mình có còn sống được tới năm mới hay không nữa!"
Chúng tôi ngẩn người ra nhìn cô gái, gì cơ? Sắp chết? Nhìn cô ta bình thường thế kia cơ mà? Tôi và Bạch Dực quay sang nhìn nhau hoang mang, cuối cùng Bạch Dực ho khan một tiếng hỏi: "Bạn họ Triệu đúng không? Bạn...có thể nói rõ một chút được chứ, sao lại sắp chết?"
Triệu Vân Vân cau mày, trong mắt tràn ngập bóng mờ ảm đạm của sự tuyệt vọng, đôi môi hơi run lên, nhưng vẫn quật cường mà mím chặt lại. Cô ta mở miệng định nói gì đó, nhưng dường như không sao nói nổi, nên lại vội vàng cầm ly trà lên uống liền mấy hớp, vội tới mức ho sặc sụa.
Tôi lo lắng nhìn cô gái: "Rốt cuộc là có chuyện gì xảy ra nào? Đừng vội, nói từ từ thôi."
"Em có một người bạn trai, nhưng cách đây ít lâu anh ấy bị tai nạn xe cộ, chết rồi..." Nói đến đây, vành mắt cô gái hơi đỏ lên. "Bọn em quen nhau được ba năm rồi, vốn định chờ khi em tốt nghiệp sẽ kết hôn. Gia đình hai bên cũng gặp gỡ nhau bàn bạc xong hết rồi, vậy mà..." Triệu Vân Vân cúi thấp đầu, giọng nói rất nhẹ rất nhu, nếu không phải căn phòng quá mức tĩnh lặng thế này thì sẽ không nghe được.
Cô dừng một chút, cánh mũi hơi sụt sịt, sau đó tiếp tục nói: "Em có mặt ở lễ tang của anh ấy, có rất nhiều người tới dự, mọi người đều khóc lóc thương cảm, càng nghe em càng cảm thấy đau lòng. Nhưng anh ấy lại không nghe thấy được, anh ấy chỉ im lặng nằm trong quan tài nắp thủy tinh trong suốt đó, cái gì cũng không biết nữa... Em nhìn kỹ mặt anh ấy một lần, sau đó không dám nhìn nữa, gương mặt anh ấy đã hoàn toàn biến dạng, sưng phù lên, mà không phải tái nhợt đi, mà là xanh bầm lên. Tủy não chảy ra từ lỗ tai của anh ấy dính cả lên tóc, cả người anh ấy mặc toàn màu đen, giống như là một bức tượng sáp thật to, cái chăn bông màu xanh đỏ lòe loẹt phủ lên ngang người anh ấy... Tất cả cảnh tượng đó trông có vẻ... phi thực thế nào ấy, thậm chí khi đó em vẫn không thể tin được anh ấy lại đang nằm trong đó. Em chỉ cảm thấy buồn nôn thôi, nhưng đó dù sao vẫn là di thể của người em yêu nhất, cho nên em chỉ nôn khan vài cái rồi sau đó không dám nhìn anh ấy nữa. Người nhà anh ấy đều vây quanh quan tài khóc lóc thảm thiết gọi tên anh ấy, nhưng thực ra không có ai dám nhìn thẳng vào anh ấy cả, ai cũng cố ý tránh mặt anh ấy ra. Giữa linh đường chỉ toàn mùi hoa bách hợp nồng nặc, cái mùi như mùi thối rữa đó làm em tưởng tượng có ngày mình cũng sẽ nằm xuống một cái quan tài như vậy, ai cũng khóc lóc, nhưng không có ai dám nhìn thẳng vào mặt em nữa..."
Thân thể Triệu Vân Vân run lên, hai tay ôm lấy hai vai. Cô gái nhắm nghiền mắt như để tự trấn định, sau đó tiếp tục: "Em lùi ra xa khỏi quan tài, vì thực sự không thể chịu nổi nữa. Ảnh chụp của anh ấy đặt trước quan tài, nụ cười trên gương mặt trong ảnh vừa quen thuộc lại vừa xa lạ, nhìn ảnh chụp cứ như nhìn vào linh hồn của anh ấy vậy, mơ hồ toát ra chút quỷ khí... Anh ấy đang cười, nhưng rõ ràng là cười nhạo, cười nhạo em vì sao lại còn sống.
Em dựa hẳn người vào tường, không khóc, tuy em cũng cực kỳ thương tâm, nhưng nước mắt lại không sao rơi xuống nổi. Mẹ anh ấy gào khóc thảm thiết, em nghe tiếng khóc của bác ấy mà sống lưng lạnh toát. Tự nhiên lúc đó em chỉ muốn mọi thứ kết thúc mau mau, để em được đi khỏi đó, rời khỏi anh ấy, rời khỏi cái chết mà thôi... Lúc em quay người lại định đi về, tự nhiên em mới phát hiện ở cửa lớn có một cô gái đang đứng, cô ta có vẻ mặt rất khoái trá, rõ ràng là đang cười. Cô ta mặc sườn xám màu đỏ rực, đôi giày thêu cũng màu đỏ, búi tóc cao, cô ta đang nhìn ảnh chụp của anh ấy ở giữa linh đường mà mỉm cười, em dường như còn nghe thấy được cả tiếng cười của cô ta.
Lúc đó em nghĩ mình coi như cũng là bạn gái của anh ấy, không thể cho phép một cô gái xa lạ ăn mặc lố lăng như vậy xuất hiện trong đám tang của anh ấy, tỏ vẻ không tôn trọng anh ấy như thế. Cho nên em mới gọi một người bạn chung của chúng em, cậu ấy là bạn học của bạn trai em trước đây, chỉ cho cậu ấy thấy cô gái đứng ở cửa: 'Sao lại có loại người như thế chứ, ăn mặc như vậy mà dám tới lễ tang của anh Kiệt!'
Cậu ấy cũng đã nhìn thấy cô ta, lập tức nổi giận đùng đùng, vì thế liền tiến tới định đuổi cô ta đi. Cô gái nhìn thấy chúng em tiến lại gần nên quay mặt lại nhìn chúng em, lúc này em mới thấy cô ta có gương mặt trắng bệch như thạch cao, đôi môi và hai bên má tô đỏ nhìn như một con búp bê xấu xí. Cô ta mặc sườn xám ngắn tay kiểu cũ, phía dưới là váy dài xẻ một bên, nhìn hoàn toàn giống hệt như mấy cô dâu thời kỳ dân quốc, cô ta không thèm để ý đến chúng em, chỉ đứng đó mà cười, cười hạnh phúc như thể một tân nương sắp kết hôn vậy.
Đột nhiên em thấy lạnh cả người, nên không dám tới gần nữa, em nghĩ cô gái này có hơi quái dị. Nhưng bạn em thì tiến thẳng tới gào vào mặt cô ta: 'Cô đang làm cái gì ở đây, hả! Chỗ này không phải chỗ cho cô tới dở trò điên!'
Cô ta đột nhiên không cười nữa, chỉ từ từ nhìn sang bạn em, tròng mắt của cô ta trợn trắng lên, hàm răng trắng ởn nhe ra. Cô ta lại bật cười, nhưng không phải mỉm cười như lúc nãy mà là cười như điên như dại. Từ trong miệng cô ta thoát ra một mùi tanh tưởi ghê rợn, em và bạn em đều phải quay mặt đi, đến lúc chúng em quay lại... cô ta... đã biến đâu mất rồi. Em nhìn sang bạn em, cậu ấy cũng cực kỳ kinh hoàng. Sau đó, cả hai chúng em không ai dám nhắc tới chuyện cô gái đó nữa."
Bạch Dực đẩy đẩy gọng kính, vẻ mặt trở nên cực kỳ nghiêm túc, chứng tỏ chuyện của cô gái này hoàn toàn không đơn giản. Cô gái lấy lại bình tĩnh nói tiếp: "Chúng em cứ tưởng mọi chuyện thế là xong, hũ tro cốt của Kiệt cũng được chôn cất chu đáo. Em cứ tưởng mình sẽ quay lại cuộc sống bình thường, một mình đối mặt với tương lai sau này... Ai ngờ... đó chỉ mới là sự khởi đầu cho hàng loạt sự kiện kinh khủng tiếp theo...!"
Cuối cùng cô gái cũng không kiềm chế được nữa, bắt đầu bật khóc nức nở. Tôi nghĩ trong lòng: nếu như cô ta cứ thế này ra ngoài người ta sẽ tưởng chúng tôi làm gì cô ta mất... vì vậy vội vàng tìm cách an ủi: "Không sao, không sao hết, bây giờ bạn vẫn bình an cơ mà. Bạn nói hết đi, nói xong Bạch Dực nhất định có cách giúp bạn!" Vừa nói xong tôi lập tức cảm thấy đau nhói sau lưng, Bạch Dực vừa bí mật đấm cho tôi một cú, tôi quay lại nhìn, thấy anh ta trừng mắt lườm tôi vẻ bất mãn. Tôi đành làm bộ như không biết, chờ cô gái nói cho xong.
Cô gái lau nước mắt, tiếp lời: "...Vâng, từ lúc đó cả em và cậu bạn đều bắt đầu nhìn thấy những chuyện quái dị. Ví dụ như trên người bọn em bắt đầu xuất hiện những dấu hằn màu đỏ, có đôi lúc còn nghe tiếng con gái khóc ai oán bên tai. Em tưởng đó chỉ là ảo giác, tưởng là vì mình quá đau khổ mà ra, nhưng có một ngày cậu bạn kia hẹn em ra ngoài gặp, em mới biết mọi chuyện không đơn giản như vậy! Ngày hôm đó nhìn thấy cậu ấy em thực sự kinh hoàng, cậu ấy vốn là một thanh niên rất năng động, vậy mà lúc này gầy trơ cả xương sườn, tròng mắt cũng như muốn lồi hẳn ra, giống hệt như một bộ xương biết đi vậy! Cặp mắt của cậu ấy rất tuyệt vọng, cũng rất hoảng hốt. Lúc gặp nhau, cậu ấy yếu tới mức không gọi tên em nổi nữa, chỉ giơ tay ra hiệu cho em tới ngồi thôi. Em vừa ngồi xuống, cậu ấy đã nắm chặt lấy tay em, tay cậu ấy lạnh như băng ấy, cậu ấy bảo: 'Thôi xong rồi, chúng ta sắp chết hết rồi. Đứa con gái kia, nó cứ một mực theo bên cạnh tớ. Tớ, tớ sợ mình không sống được bao lâu nữa...' Cậu ấy kích động tới nỗi cả người run bần bật, lúc đó em an ủi cậu ấy: 'Không thể nào, trên đời này không có quỷ, cậu đừng dọa tớ.'
Nhưng cậu ấy hất tay em ra, hét lên như bị động kinh vậy: 'Cậu không biết, không biết gì hết... nó lúc nào cũng coi chừng tớ, tớ biết nó ở đó... lúc tớ ngủ nhìn thấy nó ngồi bên giường, lúc tớ uống nước nhìn thấy nó trong ly nước... Nó lúc nào cũng ở bên cạnh tớ, cho đến khi tớ chết đi mới thôi!'
Nói xong cậu ấy kéo tay áo lên chỉ cho em xem, trên tay cậu ấy là một vết siết màu đỏ, hơn nữa còn siết rất sâu, gân xanh chung quanh chỗ đó đều nổi hết cả lên. Em nhìn thấy mà nhăn cả mặt, cậu ấy nói: 'Nó cũng sắp đến tìm cậu cho mà xem, tớ mà chết rồi thì cậu sẽ là đứa tiếp theo! Tất cả là lỗi tại cậu, vì sao cậu lại chỉ nó cho tớ thấy, tớ mà chết rồi, kế tiếp sẽ là cậu!!!'
Cậu ấy độc địa nhìn em, sau đó vội vàng chạy khỏi nhà hàng. Em ngồi lại tại chỗ, lúc quay lại nhìn theo quả thực em đã nhìn thấy một cái bóng theo sát sau lưng cậu ấy, một cái bóng mặc đồ đỏ... Không bao lâu sau đó thì bạn em đã chết, bác sĩ bảo là do bị suy hô hấp, nhưng em biết, thực ra cậu ấy bị siết cổ chết! Em thực sự sợ quá, bởi vì cậu ấy đã nói em là người kế tiếp, mà lúc nào em cũng có cảm giác như có ai đó luôn theo sát mình. Nó ở kia kìa..."
Cô gái run run chỉ tay ra ngoài cửa sổ, chúng tôi nghiêng đầu nhìn sang, chỉ kịp thoáng thấy một cái bóng mày đỏ nhẹ nhàng lướt qua. Tôi nuốt nuốt nước miếng, cả người tự nhiên cảm thấy lạnh toát, sau đó chột dạ quay lại hỏi: "Sao bạn biết chắc là mình cũng sẽ chết như cậu bạn kia?"
Cô gái kéo tay áo của mình lên, chúng tôi lập tức nhìn thấy trên tay cô ngang dọc toàn những vết siết màu đỏ máu. Cô gái run run nói: "Những vết đỏ này càng lúc càng nhiều lên... Cuối cùng em cũng sẽ chết thảm như anh ấy thôi!" Nói xong lại ôm mặt khóc nức lên.
Bạch Dực nhíu mày, nhìn tôi hỏi: "Nên làm sao bây giờ?"
Tôi thầm nghĩ, cái này sao lại hỏi tôi, tôi cũng đâu có biết phải làm thế nào! Vì vậy tức giận trừng mắt nhìn lại: "Làm sao tôi biết được!"
Bạch Dực lắc đầu nhu nhu huyệt Thái Dương, sau đó thở dài: "Việc này quá mức phiền phức, bạn Triệu, bạn tạm về trước đi, mấy ngày nữa chắc chưa tới nỗi nguy hiểm đâu. Mấy ngày nay nếu được thì đừng tắm, cố gắng giữ cho cơ thể thật khô ráo. Còn nữa, hạn chế đến nhà người khác, cứ bình tĩnh đợi trong nhà mình, bọn tôi sẽ nghĩ biện pháp." Sau đó anh ta kéo ngăn tủ bàn lấy ra một vòng hương trầm, giao cho Triệu Vân Vân nói: "Hương này khi nào buổi tối ngủ thì đốt lên để bên cạnh người. Tuy không thể trị tận gốc nhưng có thể hóa giải phần nào nỗi khổ hiện nay của bạn."
Cô gái lập tức ôm lấy vòng hương như đang ôm lấy cứu tinh, kích động cảm ơn Bạch Dực liên tục, sau đó ra về, ra đến cửa còn quay lại cúi chào chúng tôi rất sâu, xin chúng tôi nhất định phải cứu mình, tôi cảm giác được sự sợ hãi kinh khủng của cô.
Chờ cô gái ra khỏi cửa xong, đóng cửa lại rồi, không để tôi kịp lên tiếng thì Bạch Dực đã gắt lên: "Sau này đừng có chưa hỏi han rõ ràng đã nhận lời người ta ngay như vậy! Cậu làm gì có bản lĩnh giúp cô ta chứ hả?!"
Tôi nghĩ, một cô gái nhỏ khóc sướt mướt tới tìm mình xin được giúp đỡ, có thể nào lại từ chối cô ấy hay sao? Nhưng cũng biết lần này mình quả thực quá bộp chộp nên đành ấm ức hừ một tiếng rồi thôi.
Bạch Dực nhìn lại tôi, sau đó thở dài: "Cậu có biết cô bé chọc tới cái gì hay không? Nói thật nhé, tôi cũng không biết mình có giúp được cô ta hay không nữa kìa, có khi số cô ta là phải chết cũng nên."
Tôi cảm thấy lạnh cả sống lưng, ngay cả Bạch Dực mà cũng phải nói là không chắc, lẽ nào chuyện này nguy hiểm tới mức đó sao?
Nghĩ tới đây giọng tôi cũng như vỡ ra: "Lão...lão Bạch, lẽ nào nguy hiểm tới vậy sao? Không phải anh rất giỏi mấy thứ này sao?"
Anh ta lườm tôi một cái: "Thứ cô ta gặp phải là Song Hỉ Quỷ, nếu thực sự là nó thì 90% là phải chết vào tay nó rồi."
Vừa nghe thấy thế, tôi lập tức nhảy dựng lên, vội vàng hỏi: "Thực sự không cứu được sao? Phải nhìn cô ấy chết như thế sao?!"
Bạch Dực đứng lên phủi phủi quần áo đáp: "Nếu đã nhận lời thì đành giúp hết sức thôi. Nếu không cô ta mà chết rồi, kế tiếp coi chừng là chúng ta đấy. Loại quỷ này thực ra là một loại Sát[2], nó chết vào đúng ngày kết hôn của mình, vì oán khí quá nặng đến mức không sao tiêu tan nổi, nên biến thành lệ quỷ. Kỳ thực rất khó gặp phải chúng nó, chỉ có vào ngày đại hỉ hay đại bi mới gặp được thôi. Tất cả những người đã nhìn thấy nó sẽ phải chết. Cho nên... chúng ta cũng cần một phương pháp đặc biệt..."
|