Quỷ Thoại Liên Thiên
|
|
Chương 19: Tương Tây thi cổ (Thượng) Người chết rồi coi như là chấm dứt, nhưng không ai cam lòng cứ thế biến mất không để lại chút tăm tích nào trên đời này, vì thế người sống bắt đầu vì người chết lo toan mọi hậu sự, đi đưa đám thành hàng dài dằng dặc, rải tiền âm phủ đầy đường phủ kín cả quan tài. Có nhiều người khi sống rất vất vả, nhưng chết rồi còn được xe Cadillac mui kín có rèm che đưa tới nơi an nghỉ cuối cùng, bất quá, mục đích chỉ là đi hỏa táng mà thôi. Nửa đêm hôm ấy, tôi nhận được một cuộc điện thoại từ một số lạ, lòng tôi băn khoăn không biết là ai, nửa đêm nửa hôm không ngủ còn gọi điện thoại cho người ta thế này. Tiếp điện thoại lên, bên kia lập tức truyền tới một chuỗi tạp âm xè xè chói tai, tiếng người nghèn nghẹt bên đầu kia điện thoại cũng trở nên kỳ lạ hơn. Tôi a lô a lô mấy lần như lính liên lạc chờ điện báo, mãi một lúc sau tín hiệu mới khá hơn một chút, cuối cùng cũng nghe được bên kia nói gì. Người bên đầu dây kia là một người đàn ông, giọng nói khàn khàn nghèn nghẹt như bị cái gì chặn ngang cổ, ngôn ngữ toàn là phương ngữ vùng Lô Khê[1]. Tôi trước đây có một người bạn học người miền này, nên mới nghe đại khái hiểu là người kia muốn tìm Bạch Dực. Tôi gác ống nghe lên vai, quay lại gọi Bạch Dực đang ngủ dậy: "Lão Bạch dậy mau, có người tìm này." Bạch Dực đi ngủ rất sớm, lúc này bị tôi hét gọi dậy bèn giật mình một cái, sau đó lồm cồm ngồi dậy tìm kính mắt đeo lên. Lúc nhận điện thoại còn đưa tay vỗ ót tôi một cái: "Nửa đêm nửa hôm đừng có gọi tên người ta to như vậy, quỷ nghe thấy bây giờ! Đầu tôi bị cậu gọi mà nhức bưng bưng rồi đây này!" Nói xong lập tức đổi giọng ôn tồn nói với bên kia: "A lô, xin hỏi ai đấy?" Tôi lè lưỡi làm mặt quỷ, sau đó cũng nán lại bên cạnh nghe, tiếng tạp âm trong điện thoại vẫn rất to, nghe như tiếng TV khi mất sóng vậy. Chỉ thấy Bạch Dực nghe một lúc, sau đó nghiêm túc gật đầu đáp: "Biết rồi, sẽ tới nhanh." Bạch Dực cúp điện thoại, vuốt vuốt tóc, khoác thêm một cái áo khoác rồi ngồi lên giường trầm tư. Đúng lúc này, đồng hồ trên tường chỉ 12 giờ đêm, ngoài đường vang lên tiếng pháo lẻ tẻ của những người ham vui thức khuya. Anh ta nhìn chằm chằm vào cái đồng hồ treo tường hồi lâu, sau đó quay lại hỏi tôi: "Cậu có ý kiến gì với người chết không?" Tôi gãi đầu nhìn anh ta ngạc nhiên, thầm nghĩ: 'Mới đầu năm đầu tháng đừng ăn nói xui xẻo chứ', nhưng vẫn trả lời: "Không có ý kiến gì đặc biệt, người chết chẳng qua là người từng sống thôi chứ gì. Nhưng nghĩa tử là nghĩa tận, cho nên người ta mới sinh ra cấm kị với người đã chết." Anh ta nghiêm trang gật đầu: "Tốt, tư tưởng không tệ, có muốn theo tôi đến Tương Tây một chuyến không?" Tôi ngạc nhiên hỏi: "Đến đó làm gì? Xem cản thi à?" Anh ta lắc đầu trả lời: "Không phải, là lễ giỗ 10 năm của ông cố ngoại tôi, người nhà đều phải về, cho nên nếu cậu không có gì kiêng kị thì theo tôi về đó một chuyến." Tôi nghiêng đầu suy nghĩ hồi lâu, đúng là khoảng thời gian này rất nhàm chán, kỳ nghỉ năm mới cũng sắp hết. Vì không về nhà ăn mừng năm mới nên ba mẹ có gửi tiền tới, nhưng vẫn chưa dùng vào việc gì. Huống chi nghe nói ở Tương Tây phong cảnh rất đẹp, nhất là vùng Miêu Cương, mang theo văn hóa thần bí kỳ lạ. Nghĩ vậy tôi gật đầu vỗ vai lão Bạch nói: "Được, tôi và anh cùng về, thuận tiện đi du lịch một chuyến, nói xem, người nhà anh có bao ăn bao ở không?" Bạch Dực vuốt vuốt cằm như đang tự hỏi: "Đó không phải là vấn đề quan trọng, quan trọng là tôi nên giới thiệu cậu thế nào đây, dù sao thì..." Tôi nghĩ cũng phải, lễ lạc trong nhà người ta chắc chắn không hoan nghênh người lạ, nhưng lúc này Tương Tây rất coi trọng ngành du lịch, chắc là có nhiều quán trọ và địa điểm tham quan chứ nhỉ? Đôi mắt của anh ta nhìn trân trân lên trần nhà sau đó nhẹ nhàng lia xuống mặt tôi: "Lấy danh nghĩa là nương tử của tôi cũng được chứ nhỉ?" Lại nữa... sau một giây trầm mặc, tôi bắt đầu bạo phát, gầm lên một tiếng, nắm tay lập tức huơ tới. Rõ ràng là anh ta cố tình chọc cho tôi điên lên mà! Câu chuyện của chúng tôi rốt cuộc kết thúc trong hỗn loạn, tôi xốc lại quần áo ngủ xộc xệch, lắc lắc đầu, bàn tay nắm chặt đã run lên, đánh nhau không phải là thế mạnh của tôi, tôi biết rõ, cho nên đành mắng một câu rồi quay về giường đi ngủ. Trong lòng nghĩ: 'Cùng lắm thì không thèm đi nữa, thế nào chẳng có cơ hội khác... Mà cổ thành Phượng Hoàng mỹ lệ của ta ơi, thiếu nữ Miêu Cương mỹ lệ nữa..." Không ngờ hôm sau Bạch Dực vẫn mua vé xe lửa cho tôi, tôi có phần cảm kích nhìn anh ta, có thể thấy rõ Bạch Dực hoàn toàn không phải kẻ hay chấp nhất, sẽ không vì một trận đánh nhau mà phá hủy toàn bộ tình cảm huynh đệ gắn bó bấy lâu. Tôi hớn hở chộp lấy vé, Bạch Dực vừa uống trà vừa nói: "Có lẽ lễ giỗ lần này hơi vội, hình như vốn định bảo tôi về từ dịp năm mới, nhưng vé xe lửa lúc đó rất khó mua cho nên chờ bây giờ mới gọi điện thoại. Chiều nay chúng ta xuất phát. Cậu đi chuẩn bị ít hành lý đi, sau đó còn phải đi gấp." Tôi gật đầu, trong mắt có chút kích động, lập tức soạn túi du lịch ra nhét mấy thứ quan trọng cần cho chuyến hành trình vào đó. Những người xuất thân từ trường Mỹ thuật luôn luôn rất quen thuộc với việc du lịch, vì khi học thế nào chẳng phải đi đây đi đó vẽ phong cảnh, cho nên tôi biết rất rõ cần phải mang theo những gì. Lúc này cũng vậy, tôi nhanh nhẹn soạn mấy thứ đồ dùng rửa mặt. Bạch Dực cũng không rảnh rỗi, anh ta đang thu thập những thứ của mình, trong số đó có một cái bao mà trước giờ tôi chưa từng thấy, dường như dùng một lớp giấy dầu rất cũ bao xung quanh, buộc chặt lại. Sau đó lại nhét hết vào túi ni lông cho khỏi thấm nước, cuối cùng mới nhét vào túi du lịch. Bạch Dực thấy tôi đang hiếu kỳ nhìn sang, liền cười khổ: "Không có gì đâu, phòng ngừa lỡ như cần tới thôi. Nhanh tay lên, xe lửa sắp tới rồi." Chúng tôi xách theo hành lý, mua thêm hai hộp cơm hộp rồi đi ra nhà ga. Nói thật lòng, đi du lịch bằng xe lửa là một kinh nghiệm vất vả, nhưng cũng cực kỳ thú vị. Cái cảm giác "rong ruổi trên đường dài" này là một cảm giác cực kỳ phóng khoáng, dễ làm người ta thả lỏng tinh thần. Cho nên tôi mới thích đi du lịch, có thể thỏa mãn được trí tò mò luôn tràn ngập của mình. Người trên xe lửa không nhiều, bởi vì những ai muốn hồi hương đều đã về từ trước rồi. Mà những người không về nhà thì lúc này cũng đang lo chuẩn bị bắt đầu một mùa công tác mới. Chúng tôi ngồi giữa một toa xe vắng vẻ, mặc dù có hệ thống sưởi, nhưng dường như có ai đó mở cửa sổ nên vẫn cảm thấy từng đợt gió lạnh ùa vào. Ngay chỗ tiếp giáp giữa hai toa tàu có một nhân viên nhà ga đang đứng, thản nhiên nhìn ra cảnh sắc bên ngoài, vẻ mặt cực kỳ lãnh đạm. Có lẽ ông ta đã nhìn thấy những cảnh vật này không biết bao nhiêu lần rồi, tôi nghĩ vậy, cũng nghển cổ nhìn ra ngoài cửa sổ. Cảnh sắc trước mặt chuyển dần từ những tòa nhà cao tầng, mái nhà chen chúc nhau thành những cánh đồng lúa bát ngát. Lúc này đang là mùa đông nên có nhiều nơi vẫn còn tuyết đọng, những tấm màn plastic bao bên ngoài những cái chòi canh lúa sột soạt lay động theo gió, trông xa giống hệt như những làn khói trắng mờ. Tôi ngồi ngược hướng với hướng tàu chạy, nên nhìn một lúc thì đầu bắt đầu choáng váng, từng cột từng cột điện lướt qua trước mắt khiến đôi mắt đặc biệt mỏi. Bạch Dực dùng bình thủy giữ ấm hãm một bình trà, chỉ uống một ngụm sau đó đưa sang cho tôi. Chúng tôi ăn cơm hộp vào bữa trưa. Thực ra trong ba lô còn nhiều đồ ăn vặt, nhưng không muốn ăn hết quá mau nên tôi không lấy ra. Chúng tôi chọn xe lửa tốc hành, nhưng vẫn phải ngồi suốt mười mấy tiếng đồng hồ. Nói cách khác là đến nửa đêm hôm đó xe mới tới nơi, lúc này ngoài cửa sổ đã là một mảnh tối đen như mực. Chỉ có vài ngọn đèn dầu xa xa của những gia đình nông dân cho chúng tôi biết mình đang ở thế giới loài người chứ không phải đang ngụp lặn trong một đường hầm không gian xa xôi nào đó. Tôi lấy tay chống cằm, ánh mắt xa xăm nhìn vào khoảng không đen thẳm trước mặt. Chỉ có đôi mắt thỉnh thoảng hơi chớp, còn những cơ khác trên mặt đều cứng lại. Bạch Dực lại đẩy cho tôi một ly trà, sương trắng ùa vào bám lên cửa kính thành những vệt màu xám loang lổ, nhìn ra thế giới bên ngoài thông qua lớp kính phủ đầy sương cứ như đang nhìn vào một thế giới tưởng tượng. Tương Tây kỳ thực là một khu vực rất lớn, vốn có danh xưng là một trong bốn "yết hầu Tương, Ngạc, Du, Kiềm". Hồ Nam, Thành Đô, Quý Châu đều có một phần thuộc về địa phận Tương Tây, nhưng ở đây chỉ có một số ít dân tộc thiểu số sinh sống, chủ yếu là người Thổ Gia và người Miêu. Cho nên chỗ này còn được gọi là địa vực Miêu Cương, khí hậu ẩm ướt khiến nó sinh nhiều rắn rết trùng độc. Bà nội tôi từng kể rằng sau giải phóng vẫn còn có nhiều người hành nghề cổ độc vu bà và cản thi. Hai thứ nghề nghiệp này có thể nói là những nghề quỷ dị và thần bí nhất. Nhưng hình như đều có quy định do tổ nghề truyền lại, ví dụ như cổ độc bà chỉ chọn những cô gái làm đồ đệ, hơn nữa còn thử thách cô gái bằng cách hạ cổ lên người cô ta, yêu cầu cực kỳ hà khắc. Còn cản thi cũng có những yêu cầu riêng của nghề mình, ví dụ như người hành nghề ít nhất phải đủ 16 tuổi, thân cao trên 1.7m, tướng mạo phải xấu một chút, tốt nhất là càng xấu càng hay, đồng thời cũng không được cưới vợ. Nơi này còn là một con đường thông thương buôn bán cực kỳ quan trọng, hai đường chuyên vận chuyển trà ngày xưa là Điền và Xuyên đều đi qua vùng này, cho nên đối với các thương nhân cổ đại thì khu vực này là một đầu mối giao thông buôn bán then chốt. Nhưng nơi này lại bị cái đường sá gồ ghề hiểm trở, thập phần khó đi, có thể nói là bán xa không bằng ngồi gần, nhưng lợi nhuận khổng lồ vẫn khiến rất nhiều thương nhân chọn con đường hung hiểm này, cũng có khi vì nó mà đánh mất tính mạng. Cho nên đương nhiên là phải sinh ra một nghề giúp những người không may bỏ mạng nơi đất khách quê người được mang về quê hương cố thổ chôn cất. Bạch Dực nhìn đồng hồ đeo tay một chút, sau đó nói với tôi: "Sắp tới nơi rồi." Nói xong rút từ trong ba lô ra một cái túi gấm nhỏ xíu kín đáo đưa cho tôi: "Chỗ này lắm tai nhiều họa, đeo cái này theo bên người để phòng ngừa vạn nhất, trong này có bột hùng hoàng và chu sa trộn lẫn, có thể phòng tránh được rắn rết." Tôi cầm lấy cái túi nhỏ, cảm giác không khác mấy với mấy cái túi hương bán trong dịp tết Đoan ngọ, đưa lên mũi ngửi ngửi còn nghe thấy một mùi dược hương nhè nhẹ. Tôi liền giấu kỹ vào áo trong. Một ông già ngồi ghế bên cạnh chợt nghển cổ nhìn sang, ông ta mặc trang phục Thổ Gia truyền thống, trên người có một mùi rất kỳ lạ. Hít hít mấy cái, ông ta liền cười nói: "Ôi cha, không dè tên nhóc này cũng biết tới loại bột tránh cổ này, xem ra có khiếu với cổ thuật lắm đây." Bạch Dực nhẹ nhàng cười đáp lại: "Vậy xem ra bác cũng là dân trong nghề rồi?" Ông lão nhìn cũng không cao tuổi lắm, nhưng thanh âm cực kỳ khô khốc cứ như một cái máy hát bị hỏng, nếp nhăn kéo dài bên khóe mắt lên tới tận bên thùy tai, sắc mặt đỏ như gan lợn. Ông ta nói vẻ khen ngợi: "Tên nhóc này mắt tốt, ít ai nhìn mà biết lão đây có nghề, vậy để lão cho mi mấy thứ có ích lắm đây." Vừa nói ông ta vừa lôi trong cái túi vải buồm để cạnh người ra hai tờ giấy màu vàng ệch, Bạch Dực vừa trông thấy thì trong mắt đã đầy kính trọng: "Hóa ra là một vị khởi cước sư phụ, thất kính thất kính." Ông ta cười ha hả, Bạch Dực và tôi đều lễ phép dùng hai tay nhận tờ giấy, trên đó dùng thuốc màu màu đỏ vẽ những kí hiệu hết sức ngoằn ngoèo kỳ quái, không giống chữ, cũng không giống tranh. Bạch Dực nhét tờ giấy vào túi tiền, sau đó hỏi thăm: "Sư phụ đây là đang đi đón Hỉ thần sao ạ?" Ánh mắt ông lão chợt dịu lại, thoáng cái biến thành một ông lão cực kỳ bình thường, ông ta lắc lắc đầu: "Không, lão đi thăm thằng con, nó đang học đại học trên thành phố ấy, ta ra đó thăm nó." Bạch Dực gật đầu: "Xem ra sư phụ đã rửa tay chậu vàng. Cũng tốt, an hưởng tuổi già." Nói chuyện hồi lâu, cuối cùng xe lửa cũng tới trạm cuối. Có lẽ là do ngồi lâu quá nên lúc đứng lên, tôi lập tức bị tê chân đau đến cau mặt. Tôi nhăn nhó túm chặt lấy Bạch Dực, anh ta nhìn tôi, cười khổ nói: "Đúng là không có tiền đồ, chỉ ngồi xe thôi mà cũng có thể thảm tới mức này cho được!" Tôi lắc lắc chân rầu rĩ: "Lão Bạch đừng chọc tôi nữa!" Sau khi chờ một chút cho cảm giác của hai chân trở lại bình thường rồi, tôi mới buông anh ta ra cầm hành lý từng bước từng bước đi ra cửa. Ông nhân viên nhà ga nọ nhìn thấy dáng đi lung lay buồn cười của tôi, trên khóe miệng cứng ngắc rốt cuộc nở một nụ cười nhẹ. Đi tới sân ga mới phát hiện khí trời xung quanh vô cùng ẩm ướt, sương mù dày đặc mang theo một thứ mùi cổ quái, không giống mùi mốc, nhưng cũng không dễ ngửi, tất cả cộng với gió rét táp vào mặt thành một loại khí hậu không thân thiện chút nào với du khách. Xa xa là phòng kiểm vé, trước phòng treo một ngọn đèn nhỏ tỏa ra thứ ánh sáng màu cam nhạt leo lét mờ ảo, ngoài ra không thể nhìn thấy xa hơn được nữa, trên sân ga không còn ai, chỉ còn hai chúng tôi run rẩy đứng trong gió, cộng với hai bóng người mờ nhạt đứng dưới bóng đèn tù mù của quầy kiểm vé. Tôi hỏi Bạch Dực: "Có đúng là người nhà anh sẽ tới đón chúng ta không?" Bạch Dực lắc lắc đầu, anh ta cũng không chắc lắm, chúng tôi đành xốc lại hành lý trên vai mang vé ra phòng kiểm vé, tới nơi mới phát hiện hai bóng người lúc nãy nhìn thấy là hai tấm biển quảng cáo, trong phòng chỉ có một nhân viên kiểm vé đang gà gật. Hai tấm biển bị gió thổi xiêu qua lắc lại, nhìn từ xa trông có vẻ giống người thật đang cử động. Nhân viên lười biếng nhận hai tấm vé, xé một góc rồi trả lại cho chúng tôi, sau đó không thèm liếc chúng tôi nửa con mắt đã ngoẹo đầu kéo cao cổ áo khoác lên tiếp tục giấc ngủ, tôi nghĩ xem ra lúc nãy chúng tôi đã làm phiền mộng đẹp của anh ta không chừng. Chúng tôi lếch thếch rời khỏi trạm xe lửa, đứng chờ trước cửa nhà ga hồi lâu, nhưng vẫn không có ai ra đón. Bạch Dực gọi điện thoại thử, nhưng không có ai tiếp máy. Tôi lo lắng nhìn quanh, không biết phải làm sao, đây là lần đầu tiên tôi tới đây, với tôi mà nói tất cả mọi thứ quanh đây đều rất xa lạ. Bạch Dực nhìn sắc trời, lo lắng nói: "Không nên ở lại đây, bằng không chúng ta tự đi tới đó vậy, nó là một khu trại nhỏ ấy mà..." Tôi hoài nghi nhìn anh ta: "Anh có biết đường không đấy? Lúc này là nửa đêm đó nghe..." Anh ta nheo mắt nhìn ra xa: "Coi như là biết đường, đi thôi, có lẽ không nhớ nhầm đâu." May mà nhiệt độ ở đây không thấp lắm, hơn nữa đi một lúc thì liền đổ mồ hôi, buổi tối ở đây không có mấy xe cộ qua lại, chúng tôi vất vả lắm mới chặn được một cái xe tải nhỏ, nhìn thì biết là vừa đi chở hàng về. Bạch Dực móc ra 50 tệ, nói cho tài xế địa chỉ để anh ta chở chúng tôi tới nơi. Tài xế nhanh nhảu nhận lời, dùng khẩu ngữ Tương Tây luôn miệng nói ở đây không có nơi nào anh ta không biết. Lúc tài xế đưa tay nhận tiền, tôi để ý anh ta có hai bàn tay đen thui, như là ngâm quá lâu vào cái gì vậy. Mặt anh ta gầy khẳng, nhưng hai bên má da thịt lại đùn lên, mỗi lần anh ta cười thì toàn bộ cơ mặt cứ như nhăn lại với nhau thành một miếng da nhàu nhĩ, giống như một cái mặt nạ sắp hư. Anh ta cho hai chúng tôi vào thùng xe ngồi, vừa bước vào thì một mùi cay nồng đã xông thẳng ra, khiến tôi chảy nước mắt ròng ròng. Tôi nhìn bốn phía, nào là tiêu, cùng mấy bịch ớt khô. Hóa ra đây là xe chở gia vị, người dân ở đây nổi tiếng ăn cay, cho nên chắc anh tài xế này đã sớm quen với cái mùi cay nồng này rồi. Tôi phải liên tục chùi nước mắt, nhưng thoáng cái trước mắt đã mờ đi. Tài xế thấy chúng tôi vất vả như vậy cũng hì hì cười: "Tới từ nơi khác đây, đã tới đây là nhứt định phải ăn thử bánh gạo ớt cay của chỗ này đó nghen!" Xem ra anh ta đã gặp qua không ít khách du lịch, cả cách giới thiệu lẫn nội dung giới thiệu đều không khác gì dân hướng dẫn viên du lịch chuyên nghiệp. Tôi chỉ gật gật đầu chứ không dám há miệng, sợ mùi cay xè kia xộc thẳng vào cổ họng. Bạch Dực ngồi cạnh tôi cũng có phần khổ sở, nhưng anh ta ăn cay khá hơn tôi, nên không đến nỗi nước mắt nước mũi tèm lem khó coi như tôi lúc này. Chỉ là không nói gì, nhìn chằm chằm vào mấy bộ da rắn trong xe, nói thật lòng là cái xe chở hàng này bẩn gần chết, mặt kính thủy tinh đều ám bụi tối mù, đệm ngồi đen thui như thể nhiều năm chưa có người giặt giũ. Tôi định mở cửa sổ xe cho thoáng một chút, đẩy bớt mùi cay ra khỏi khoang, nhưng tài xế đã nhanh chóng ngăn tôi lại: "Chú em chớ mở cửa sổ, không là vận xui chui vào liền, con đường chúng ta đang đi hồi đó gọi là 'âm lộ' lận đó!" Tôi khó chịu rụt tay về sụt sịt mũi mà hỏi: "Âm lộ là cái gì?" Tài xế ngoặt tay lái, chậm rãi nói: "Con đường này hồi xưa là chỉ dành cho cản thi đi mà thôi, cho nên tối đến là người sống không bước qua đây nữa đâu, nhưng tụi tui là dân buôn bán, cho nên thế nào cũng phải đi qua, chỉ là lúc đi qua tuyệt đối không được mở cửa sổ ra cho khỏi đụng vô mấy thứ của...người chết mà thôi." Tôi lau lau mặt hiếu kỳ hỏi: "Bây giờ mà còn những người làm nghề cản thi sao?" Tài xế cười u ám đáp: "Sao không, dưng mà không cho ai thấy thôi. Mấy cái nghề này nghe nói có thể gọi quỷ tới đó." Bạch Dực dường như giật mình nhận ra cái gì đó, thoáng biến sắc mặt. Anh ta quay phắt lại nhìn bóng lưng tài xế, khi tôi định lên tiếng hỏi tiếp thì Bạch Dực đã ngầm đá vào chân tôi một cái, tôi quay lại nhìn, anh ta liền lén viết vào lòng bàn tay tôi một chữ "quỷ". Tôi ngẩng đầu lên nhìn kỹ tài xế, nhưng vẫn chưa thấy có gì quái dị. Vì vậy lại quay đầu nhìn Bạch Dực, thì thầm hỏi: "Sao vậy?" Bạch Dực lắc nhẹ đầu ý bảo đừng lên tiếng, sau đó âm thầm nắm trong tay một túi ớt bột to, sau đó mở miệng nói với tài xế: "Ông anh, sau lưng ông anh có một con sâu kìa!" Tài xế đột ngột thất kinh, phanh gấp lại, đưa tay quờ ra sau lưng tìm. Bạch Dực nhân lúc anh ta vừa quay lại, liền lập tức ném hết chỗ ớt bột cay xé trên tay mình vào mặt anh ta, tài xế bị rát, bật gào to lên, vội lấy cả hai tay ra sức dụi mắt. Bạch Dực thừa cơ giật tung cửa xe, túm tay tôi nhảy thẳng ra ngoài. Tôi bị hành động của anh ta làm cho thất kinh, sững người một giây rồi hấp tấp ôm hành lý định nhảy, nhưng cơ thể đột nhiên bị kéo giật về phía sau, khi quay đầu lại liền phát hiện tên tài xế kia hai mắt đỏ ngầu đang túm chặt lấy một chân tôi, lực kéo mạnh như hai gọng kìm, tôi giãy thế nào cũng không được. Cả gương mặt và cơ thể của tên tài xế đều co rút lại, dáng vẻ hòa nhã bình thường lúc nãy đã biến đâu mất, chỉ còn lại sắc mặt hung tàn như ác quỷ. Hai mắt hắn đang bị đau nên lực kéo trên tay càng thêm mạnh, cổ chân tôi gần như bị hắn bóp nát. Hắn rít lên tàn bạo: "Nhãi con, chớ chạy, lâu lắm mới có một tên ngốc như mi khỏi cần chuốc thuốc mê, tiếc lắm!" Bạch Dực đã nhảy hẳn ra khỏi xe, nhưng một tay vẫn cố sống cố chết nắm chặt tay tôi, cho nên tôi có cảm giác như bị hai người bọn họ xé xác vậy. Chợt trên mu bàn tay của tên tài xế đột nhiên nổi lên một khối nhỏ, sau đó, một...con sâu đen thui chậm rãi chui ra từ dưới da của hắn! Con sâu bò tới với tốc độ cực nhanh, thoáng chốc mà nó đã bò lên đùi tôi, tôi nhìn nó, tóc gáy lập tức dựng đứng. Con sâu bò loang loáng tới trên đầu gối, chui vào dưới áo khoác. Một tay tôi bị Bạch Dực giữ cứng, tay còn lại còn phải túm chặt ba lô, nên không có cách nào cản nó lại. Chỉ thấy nó lổm ngổm bò tới bên ngực, lại dường như đụng nhằm cái gì đó làm nó hoảng sợ, đột ngột quay đầu bỏ chạy trở lại. Tên tài xế thấy thế trợn tròn mắt kinh ngạc, thừa lúc hắn đờ người ra thoáng thả lỏng tay, tôi lập tức đá cho hắn một cú thật lực, hắn bị đau buông tay, cả người tôi mất điểm tựa, thoáng cái đã ngã ngửa ra khỏi xe, cùng Bạch Dực lăn lông lốc xuống con đường hơi dốc phía dưới bánh xe, tôi chỉ biết ôm đầu mặc kệ cho trời đất quay cuồng xung quanh mình, cho đến lúc "Hự" một cái cả hai chúng tôi đụng mạnh vào cái gì đó mới dừng lại. May mà y phục mùa đông dày cộm, nếu không thì với cũ ngã lúc nãy chắc chắn đã bị trọng thương rồi. Tôi chật vật chống nửa người lên nhìn xung quanh, tất cả mọi thứ xảy ra quá đột ngột, đầu óc tôi lúc này trống rỗng, chỉ còn hình dạng kinh khủng của con sâu đen thùi lúc nãy là còn in đậm trong trí nhớ. Đang khi xác định lại là không mất mát gì thì tôi chợt nhớ ra Bạch Dực, không biết anh ta lăn tới đâu rồi, lại chợt nghe một tiếng hừ nhẹ sau lưng. Tôi quay lại, cả người Bạch Dực đập thẳng vào thân cây phía sau, sắc mặt tái nhợt, rõ ràng cú va chạm không nhẹ chút nào. Anh ta bưng một bên vai cắn răng hỏi: "Còn muốn ngồi trên người tôi đến bao giờ?!" Tôi định thần nhìn lại, mới phát hiện cả người tôi đang đè lên người anh ta, là anh ta ôm tôi lăn xuống, nếu không phải được Bạch Dực dùng cả cơ thể mình che đỡ thì tôi có lẽ đã đập vào thân cây rồi, nếu xui xẻo có khi còn đổ máu không chừng. Tôi giật nảy người nhổm lên, có lẽ đụng vào vết thương của Bạch Dực, anh ta liền nhăn mặt rên lên. Tôi vội vã lăn ra: "Lão Bạch, lão Bạch, anh không sao chứ? Không bị xuất huyết trong chứ? Chết rồi chết rồi!" Anh ta dùng tay đè chặt chỗ xương sườn: "Không sao, hình như không gãy xương. Cậu cũng không bị thương chứ?" Tôi nghe mà trong lòng cảm động rưng rưng, đúng là người vĩ đại mà, quên mình vì người khác như vậy! Tôi cảm kích gật mạnh đầu: "Không sao, tôi không bị thương!" Anh ta liền thản nhiên tiếp: "Vậy phiền cậu mang giùm cả ba lô của tôi luôn đi." Anh ta chậm rãi đứng lên, tiện đường dựa hẳn sức nặng của mình lên người tôi luôn. Tôi hai vai khoác hai túi hành lý lớn, sau lưng gánh thêm một cái ba lô, lại còn lại dồn sức đỡ Bạch Dực, nhất thời cảm thấy cả người nặng như đeo đá, mồ hôi mẹ mồ hôi con túa ra như tắm. Tôi cắn răng hỏi: "Lão Bạch, tên tài xế lúc nãy là cái gì vậy? Sao từ trên tay hắn lại có sâu bò ra là thế nào?!" Bạch Dực suy nghĩ một chút rồi nói: "Thứ này gọi là cổ nhân, bọn chúng là những gã đàn ông bị cổ bà khống chế, có vài loại cổ thuật cần dùng thịt người làm chất dẫn, cho nên các cổ bà thường thích bắt vài người về làm thuốc, những người đó không hẳn đã chết, nhưng bị cổ bà khống chế thì sống còn không bằng chết." Nhớ lại cảnh con sâu chui từ dưới da người lúc nãy ra, cả người tôi lập tức nổi da gà rùng rùng. Nhắc mới nhớ, nếu không phải nhờ túi hương Bạch Dực cho lúc ngồi trên xe lửa, tôi lúc này rất có khả năng cũng trở thành một cái túi chứa sâu rồi. Nghĩ tới đây, không khỏi đưa tay sờ sờ cái túi hương trong túi áo. Tuy chúng tôi vừa tránh được một kiếp, nhưng cả hai vẫn còn lang thang trên con đường núi độc đạo, xung quanh chỉ có cây cối um tùm mà không có bóng người, sương mù dày đặc hơn cả khi còn chờ trong nhà ga, một thứ mùi ngai ngái quái lạ nào đó tản mác trong không khí, cây cỏ xung quanh bị biến dạng qua màn sương thành những thứ hình thù quái dị, thỉnh thoảng còn có bóng một vài loại động vật nào đó nhanh chóng xẹt qua trước mặt.
|
Chương 20: Tương Tây thi cổ (Trung) Tôi nheo mắt nhìn bốn phía, sương mù dày đặc khiến tầm nhìn bị thu hẹp chỉ còn khoảng 2, 3m. Xung quanh không có lấy một nguồn sáng, dù leo lét. Tôi lục lọi một lúc trong ba lô, lôi ra một cái đèn pin cầm tay, tuy hơi nhỏ nhưng ít ra còn thấy được phía trước.
Dưới đất mọc đầy đủ mọi loại dây leo không tên, nếu nhìn kỹ còn thấy rất nhiều loại sâu bọ và côn trùng bò lúc nhúc trên mặt dây leo. Tôi rùng mình, không dám nhớ tới việc mới lúc nãy mình còn lăn lộn trên mặt đất này. Đang cố gắng chiếu đèn pin nhìn kỹ khắp nơi, đột nhiên nghe Bạch Dực "Ủa" một tiếng, sau đó nhanh nhẹn bật người tới, ngồi xổm xuống đất nhặt một tờ giấy gì đó lên, tôi ngao ngán nghĩ: "Mới vừa rồi còn ra vẻ như sắp chết mà...?"
Tôi khệ nệ vác một đống túi theo sau cũng ngồi xuống nhìn, tờ giấy trong tay anh ta đã rách tươm, nham nhở bốn góc, chỉ còn nhìn được mấy chữ viết bằng mực đỏ chói: "Xin cho phép Gọi người chết đi qua."
Bạch Dực ném tờ giấy xuống đất, sau đó cẩn thận nhìn xung quanh: "Tên cổ nhân kia không nói dối, hèn chi hắn không nhảy xuống xe đuổi theo chúng ta, con đường này quả thực là một âm lộ."
Tôi dùng đèn pin chiếu đến nền đất xung quanh đó, quả nhiên có rất nhiều những tờ giấy giống hệt như vậy vương vãi khắp nơi, đây chính là một loại tiền âm phủ dùng để "mua đường đi" của giới cản thi. Tôi nhìn lại sắc trời, có lẽ còn vài tiếng đồng hồ trước khi trời sáng. Không khí mang theo hơi nước ẩm ướt khó chịu, gió lạnh thổi qua để lại cảm giác rét cắt da.
Bạch Dực vỗ vỗ lưng tôi: "Lúc này không nên ở mãi một chỗ, không an toàn, rắn rết sâu bọ quá nhiều. Tuy chúng ta có bột trừ cổ, nhưng số lượng của chúng nhiều như vậy, tôi nghĩ nên tiếp tục đi, hi vọng phía trước có nhà dân, có thể cho chúng ta nghỉ nhờ."
Tôi gật đầu, rồi sực nhớ ra, liền giận dỗi ném lại cái ba lô của anh ta về cho chủ của nó: "Tự mà mang lấy, nhìn anh là biết nãy giờ giả vờ rồi!"
Bạch Dực cười tà cầm lấy ba lô, không phản bác gì.
Chúng tôi đi thêm khoảng hơn một tiếng đồng hồ nữa vẫn không thấy nhà cửa gì. Sương mù xung quanh như len vào tận trong phổi, gây cảm giác nhức nhối khó tả, mớ hành lý cũng càng lúc càng trì xuống. Mắt tôi hoa lên, trong đầu bắt đầu tưởng tượng một ngôi nhà sàn, cùng một đám cô nương Thổ Gia xinh đẹp đang mang một vò rượu nóng tỏa hương ngào ngạt đi tới...
Đột nhiên trước mắt tôi nhá lên bóng dáng của một nóc nhà... Đúng! Là một nóc nhà! Tôi tưởng mình gặp ảo giác, vội đập vai Bạch Dực hỏi: "Coi...coi ở kia có phải có nhà không vậy?"
Bạch Dực nhíu nhíu mày ngập ngừng trả lời: "Ừ... đúng là nhà, nhưng mà..."
Tôi hưng phấn dựng thẳng người lên: "Vậy còn chờ gì nữa, mau mau tới đó nghỉ chân thôi! Nếu cứ đi tiếp thế này thì chân tôi rụng mất!"
Bạch Dực âu lo khẽ gật đầu, rồi lại cười khổ sở: "Có khi tới được đó rồi cậu sẽ không còn muốn ở lại nữa đâu..."
Nhưng tôi lúc này đã rơi vào trạng thái tâm lý nhắm mắt làm bừa không thèm nghe không thèm nhìn thấy gì khác nữa, chỉ chăm chăm nghĩ tìm một chỗ nghỉ ngơi cho đôi chân rệu rã này, ngoài ra không còn gì quan trọng hơn nữa.
Ngôi nhà trông giống như một ngôi miếu hoang đổ nát xiêu vẹo dựng giữa rừng, đèn nhanh lạnh lẽo đã lâu, quả thực chỉ còn lại cái xác nhà hoang tàn, cánh cửa xô lệch đứt lìa hẳn một cái bản lề, cũng không có cổng che rào chắn gì. Chúng tôi vừa bước tới gần thì đã nghe thấy một mùi hôi thối lợm mửa xông từ trong ra, làm như có xác con gì chết bên trong không bằng. Nhưng vừa bước vào cửa thì tôi liền sững người, bên trong gian nhà chính là bốn năm cỗ quan tài, không có cái nào đóng nắp, mùi hôi thối bốc ra từ đó.
Nghe thấy động tĩnh của chúng tôi, một con vật gì đó có bộ lông trắng xám nhanh như chớp ngẩng cái mõm đen thùi của nó ra từ trong một cái quan tài, đôi mắt xanh lục mở to hung dữ nhìn chúng tôi, sau đó lập tức quay đầu chạy thẳng vào trong rừng. Động tác của nó nhanh tới mức khiến tôi trở tay không kịp, bị nó dọa lùi mấy bước, may mà có Bạch Dực vào sau kịp đỡ lại. Anh ta cũng nhìn bốn phía, sau đó cười khổ nói: "Đây là nghĩa trang, còn gọi là khách sạn tử thi, dùng để cho dân cản thi đem tử thi tới trọ lại, người sống... không thường tìm tới."
Tự mình đào hố chôn mình, tôi lúc này đây không dám có nửa lời than vãn, chỉ cắn chặt răng bước vào phòng. Một trận âm khí lạnh như băng lập tức dội thẳng vào mặt tôi, tôi rùng mình một cái, cảm giác nhiệt độ xung quanh dường như trong thoáng chốc mà tuột hẳn xuống, xung quang tối mò mò, chỉ có những nơi cây đèn pin nhỏ xíu rọi tới là còn trông thấy một chút, trong không khí lẩn quất một mùi hôi gay mũi. Trong gian nhà lớn để bốn năm cỗ quan tài, tất cả đều sứt mẻ bạc hết cả lớp son sơn bên ngoài, lộ ra lớp gỗ bên trong, bốn góc quan tài cũng muốn bị mẻ nham nhở chỉ còn lại bộ khung gỗ lỏng lẻo. Tôi hoàn toàn không dám tới nhìn vào những tử thi trong quan tài, chỉ có thể từ xa xa trông lại, thấy trước mỗi chiếc quan tài đều để một chén cơm không biết đã mốc meo tự đời nào, cơm trong chén đã sớm chuyển thành một màu mốc xanh lục quái dị. Đôi đũa vốn từng được cắm thẳng trên chén cũng xiên xẹo mỗi nơi một cái. Tôi thực sự tò mò vì sao đám động vật kia không hề đụng tới cơm trong chén mà lại chăm chăm nhằm tới những tử thi trong quan tài?
Bạch Dực tìm một chỗ trống, lôi trong ba lô ra hai tấm bạt plastic ngồi xuống. Tôi nghĩ tới phần còn lại của đêm phải nghỉ lại ở nơi kinh khủng này, cả bao tử cũng run lên.
Liếc mấy cái quan tài một lần nữa, tôi vội vàng chạy tới chỗ Bạch Dực ngồi xuống, trong lòng chỉ sợ từ trong quan tài bất thần nhảy ra con cương thi nào đó chạy tới bóp cổ mà thôi. Thực ra mà nói, ở trong này cũng chẳng che chắn được bao nhiêu gió lạnh, vì nóc nhà ngói bạc phếch trên kia đã sớm tốc đi đàng nào rồi, từ bên trong có thể thấy nguyên cả bầu trời sao lồng lộng, gió cũng cứ theo thế mà thốc vào.
Thế nhưng ít ra trong này không có côn trùng sâu bọ. Vì để bảo vệ cho thi thể không bị hư thối và bị biến thành cương thi nên lúc tẩm liệm thế nào người ta cũng ướp vào thi thể rất nhiều độc dược và thủy ngân, cho nên đám sâu bọ kia sẽ không dám tìm tới.
Tôi vòng tay ôm đầu gối ra sức giữ ấm cho cơ thể. Không khí vừa ẩm ướt vừa lạnh lẽo làm tôi có muốn cũng không sao nhắm mắt mà ngủ nổi. Bạch Dực tuyệt không cấm kỵ người chết, đường hoàng ra bẻ một khúc củi quan tài về nhóm lửa. Tuy có vẻ hơi tàn nhẫn với người đã khuất, nhưng cũng phải thừa nhận là nhờ nó mà chúng tôi mới ấm lên một chút được. Trong lòng tôi âm thầm xin lỗi vị "chủ nhà" xui xẻo bên kia, nhưng cũng không biết cách nào khác, nếu cứ để lạnh thế này thì chúng tôi chưa sáng đã viêm phổi mất.
Lửa khá nhỏ, tôi cuộn chặt người ngồi gần như dán sát vào ánh lửa leo lét mà tham lam hứng lấy hơi ấm tỏa ra từ nó. Tuy chỗ này không thể lạnh được như chỗ nhà chúng tôi, nhưng dù sao vẫn là cuối đông, hơn nữa lại còn là nơi có độ ẩm cao như vậy, hơi lạnh mà nó mang lại tuyệt không thể so sánh nổi. Tôi túm chặt áo khoác, liếc nhìn sang Bạch Dực, anh ta đang loay hoay bẻ cành củi ra thành từng mảnh nhỏ ném vào đống lửa con, giúp nó cháy mạnh hơn một chút.
Từ tối tới giờ bị hành xác một trận, lúc này đầu tóc chúng tôi toàn là đất cỏ, trên mặt cũng lem nhem bùn, nếu bây giờ có thêm một cái chăn cho chúng tôi co ro rúc vào thì quả thực nhìn không khác gì dân chạy nạn.
Nghĩ đến thế tôi tự nhiên bật cười. Bạch Dực thoáng ngạc nhiên nhìn sang, sau đó nghiêng đầu hỏi: "Cười cái gì?"
Tôi thu lại nụ cười nhún nhún vai: "Lão Bạch, có phải chúng ta rất rất là xui xẻo không, chỉ đi chơi thôi mà còn có thể ra thế này?"
Anh ta nhìn đống lửa, trêu đùa nói: "Hay là mẹ cậu nói dối tuổi của cậu rồi, hẳn là năm nay là năm tuổi của cậu mới đúng, cho nên mới phạm Thái Tuế thế này."
Tôi cũng không vừa, lập tức quặc lại: "Có khi là anh phạm Thái Tuế ấy chứ! Đừng đổ hết mọi chuyện xui cho tôi!"
Lại sực nhớ ra trong ba lô có ít lương khô, liền lôi ra một hộp bánh quy cho Bạch Dực: "Ăn đi, chắc anh cũng đói rồi chứ hả?"
Bạch Dực cầm hộp bánh, tôi lại mò thêm hai cái bao ni lông ra đưa cho anh ta một cái: "Đem cái này bao ngoài tay rồi hãy cầm bánh, nước chỉ đủ cho chúng ta uống thôi, không đủ để rửa tay, ít ra giữ vệ sinh một chút."
Bạch Dực bắt đầu nhai bánh quy rốp rốp, nhưng chúng tôi không dám ăn nhiều vì cả hai chỉ có một chai nước, chỉ sợ ăn nhiều sẽ mau khát.
Gỗ quan tài nổ thành những tiếng lách tách trong lửa, nghe kỹ còn phảng phất có những thanh âm kỳ quái. Đó dường như là tiếng khóc lóc u oán thương cho những kiếp người bỏ thân nơi xa xứ... có lẽ người nằm trong quan tài cũng là một người như thế chăng? Tôi cảm thấy hơi buồn, vì thế lôi ra một ít bánh đặt trước cái quan tài, chắp hai tay lầm rầm khấn: "Xin lỗi, xin lỗi, chúng tôi không còn cách nào khác, chỉ có thể mượn chỗ của ngài tá túc một đêm... xin đừng trách, đừng trách!"
Khi quay về bên đống lửa, tôi thấy Bạch Dực đang cúi đầu cười thầm, bèn lạnh lùng nói: "Tôi là đang tích đức cho anh đó, anh đem quan tài người ta ra làm củi chụm, tôi phải trả lại cho người ta cơm ăn chứ! Coi như sòng phẳng. Anh lại còn dám cười tôi! Coi chừng vị trong kia ra tìm anh tính sổ bây giờ!"
Dường như chỉ chờ có thế, anh ta lập tức cười phá lên: "Không... tôi chỉ muốn nói cho cậu biết, cái quan tài đó bên trong không có thi thể... vậy thôi... ha ha ha!"
Tôi đực mặt ra nhìn, nhưng cũng không có đủ dũng cảm ra kiểm tra lại xem bên trong quan tài có trống thật không, đành tức tối nhìn anh ta, không thèm nói nữa, dù sao lấy gỗ quan tài ra làm củi vẫn là không có đạo đức! Tôi vùng vằng ngồi lại, không thèm nhìn mặt tên vô đạo đức này nữa.
Tôi chống tay lên má ngồi gảy gảy đống lửa. Bạch Dực ngậm bánh quy nhìn chằm chằm vào mặt tôi, nhìn đến mức tôi cũng muốn gai cả người, liền ngước lên hỏi: "Nhìn tôi hoài làm gì vậy!"
Anh ta bất ngờ vươn tay tới phủi một chiếc lá rụng vương trên tóc tôi, sau đó nhẹ nhàng mỉm cười: "Thực ra cậu cũng rất đẹp đấy chứ."
Tôi sững người sửng sốt, sau đó đưa tay sờ sờ trán Bạch Dực: "Bộ anh bị đụng vào gốc cây mạnh quá nên ngơ ngơ rồi hả? Hay là bị sốt tới mê man rồi?" Vừa nói vừa nghiêm túc kiểm tra... ờ... nhiệt độ cơ thể vẫn bình thường mà? Cũng đâu có thương tích gì? Vì thế liền đảo mắt chán nản, thuận tay đẩy đầu anh ta ra sau: "Anh nói đùa kiểu gì vậy, coi chừng tôi đánh cho anh tỉnh ra bây giờ!"
Bạch Dực chỉ cười tủm tỉm ngồi chống cằm không nói gì, tôi bị anh ta nhìn mãi càng thêm ngượng ngùng, nhưng lại không dám bỏ đi đâu, chỉ biết đỏ mặt cúi đầu nhìn chằm chằm vào ngọn lửa. Mãi một lúc sau thấy anh ta không nhìn sang nữa, mới thở phào nhẹ nhõm.
Gió lạnh vờn trên tóc, tạo cảm giác như có chút siêu thực, bầu trời tối sẫm, tinh tú trốn hết sau tầng tầng mây dày đặc, chỉ những lúc gió thổi xua bớt mây mới lập lòa một vài đốm sáng nho nhỏ yếu ớt, như có như không.
Bên cạnh chợt truyền tới giọng nói trầm ấm của Bạch Dực: "Ngày mai có lẽ trời mưa."
Tôi ừ một tiếng, lại ngẩng đầu nhìn trần nhà thủng lỗ chỗ, ở lại một nơi thế này một đêm quả là một kinh nghiệm khó có được. Đột nhiên trên mái nhà có bóng một con vật nào đó nhoáng qua, tốc độ cực nhanh, tôi chưa kịp nhìn rõ thì nó đã chạy qua, một tầng bụi dày đã lả tả rơi xuống, trúng ngay vào mắt phải của tôi. Tôi á một tiêng, Bạch Dực vội nghiêng người tới hỏi làm sao vậy.
Tôi tức giận trả lời: "Trên mái nhà có con gì vừa chạy qua, làm bụi rơi hết vào mắt tôi rồi!"
Anh ta bất đắc sĩ lắc đầu: "Cậu rõ ràng xui như vậy mà còn nói là mình không phạm thái tuế? Lại đây, tôi thổi thổi cho."
Nói xong lập tức vòng tay kéo đầu tôi gần lại, vạch mí mắt tôi lên chuẩn bị thổi. Tôi không thích tư thế này, liền hơi giãy ra ý nói có thể tự lo. Nhưng ngay lúc còn đang giằng co, chợt bên khóe mắt trái của tôi hiện ra một bóng người đứng ngay trước cửa. Người nọ mặc một bộ trường sam bằng vải thô màu xanh, đeo đai lưng màu xanh đen, trên đầu đội mũ vải dựng cao. Dưới chân đi một đôi giầy rơm, cầm trong tay một cái chuông nhỏ, chỉ có khuôn mặt là trông không rõ lắm. Tôi giật nảy người, đầu suýt chút nữa đã tông vào cằm Bạch Dực, vội vã chỉ ra cửa nói: "Chỗ kia... chỗ kia có người!"
Bạch Dực bất thình lình dùng một tay bịt chặt miệng tôi lại, một đôi mắt sắc bén quét vội qua cửa, nhưng ở cửa không có ai, chỉ nghe một tiếng chuông đang vọng lại từ xa xa. Mắt trái của tôi từ nhỏ đã quái dị, có thể nhìn thấy một vài thứ người khác không thấy được. Đặc biệt là khi nhắm mắt phải, chỉ mở mắt trái, thế nào cũng thấy những thứ kinh khủng diễu xung quanh.
Tiếng chuông càng lúc càng to, nghe thấy cả tiếng bước chân chậm rãi theo sau. Tôi có cảm giác hình như không phải là của một người. Mắt phải của tôi bị dính bụi còn bịt kín, chỉ có mắt trái mở to nhìn xung quanh, chợt phát hiện sương mù xung quanh như dày đặc hẳn lên, đến ánh lửa cũng dần dần chuyển thành một màu xanh lam lạnh lẽo. Tôi sợ hãi muốn mở mắt phải ra để nhìn được bình thường trở lại, nhưng mắt phải vẫn còn bị bụi, huống chi Bạch Dực lúc nãy thổi thổi mấy cái, lúc này nó không chịu mở ra nữa. Tôi muốn nói cho Bạch Dực biết những gì mắt trái của mình đang nhìn thấy, nhưng anh ta đã thấp giọng gằn lại: "Đừng lên tiếng!"
Thanh âm càng lúc càng gần, tôi cảm thấy mấy cỗ quan tài xung quanh cũng dường như bắt đầu động đậy, dộng thình thình như bất an về cái gì đó, lại dường như lo lắng về thứ đang tới gần. Dần dần tôi nghe được tiếng người nói, giọng nói khàn đục u ám như vọng lên từ địa ngục: "Xin cho Gọi người chết đi qua...!" Sau đó giữa màn sương trắng xóa trước cửa xuất hiện một bóng người, bóng người đi tới gần, hóa thành một người đàn ông trung niên, ăn mặc giống hệt như cái bóng lúc nãy đã xuất hiện trước mắt tôi, nhưng lần này có thể trông rõ mặt mũi của ông ta, thật xấu xí đến mức kinh người! Môi vừa dày vừa to, một vết sẹo dài chạy thẳng từ giữa trán xuống tới cằm như muốn xẻ đôi gương mặt ra làm hai nửa, đôi mắt vừa to vừa lồi như mắt ốc bươu.
Ông ta vừa hô to vừa rải tiền giấy xung quanh. Phía sau ông ta có một người đi theo, cao to khác thường, mặc một thân áo mạo màu đen kịt, không có tay áo, nhìn vừa rộng lại vừa dài, cái đầu to đặc biệt, khuôn mặt đen thui, trên đầu đội một cái mũ lông chiên cao, đuôi mũ hếch lên sau lưng. Toàn thân cứng còng, di chuyển về phía trước một cách máy móc, nhưng nhìn kỹ thì có tiết tấu riêng, đặc biệt là chỉ bước lên những tờ tiền âm phủ mà người trước rải xuống đất.
Người mặc trường sam nhìn về phía chúng tôi, rồi thản nhiên như không có chuyện gì mà dẫn người cao to phía sau đi thẳng vào phòng, sau đó để cho người nọ đứng thẳng băng bên cạnh cửa không nhúc nhích, lại lấy ra một đạo bùa từ trong túi áo dán lên trán người cao to nọ, lầm bầm vài câu. Làm xong thì bước sang chỗ chúng tôi ngồi xuống.
Bạch Dực cẩn thận mở lời: "Sư phụ hóa ra là một hành cước sư phụ, hai người chúng tôi chỉ là khách lạc đường, dừng lại đây nghỉ chân mà thôi."
Người mặc trường sam gật đầu, lấy ra một cái tẩu thuốc kiểu xưa, gõ gõ vài cái lên mũi giầy rơm của mình, từ cái tẩu tỏa ra một làn khói nhẹ. Ông ta hút một hơi, thở ra một làn khói trắng, sau đó mới chậm rãi trả lời bằng một giọng cực kỳ thô trầm: "Rất ít người từng chạm mặt chúng ta, các ngươi sao lại có mặt trên con đường này?"
Tôi dụi dụi mắt mấy cái, bụi trong mắt cuối cùng cũng trôi ra hết, giương đôi mắt hồng hồng lên quan sát kỹ người nọ, chỉ thấy giữa mùa đông mà ông ta chỉ mặc một bộ trường sam mỏng manh, trên chân cũng chỉ đi một đôi giầy rơm, nhưng cạnh và lòng bàn chân đầy vết chai nứt nẻ cho thấy ông ta thường xuyên qua lại trên núi.
Bạch Dực vẫn không hề thả lỏng, nghiêm túc lựa lời: "Trên đường đụng phải quỷ, đành phải đến đây trú tạm một lúc."
Trường sam gật đầu, không nói thêm gì nữa, lấy bánh nướng và rượu Thổ Gia trong túi ra ăn uống. Bên hông của ông ta treo một cái chuông, nhưng được dùng vải bịt kín lại nên không phát ra tiếng động.
Trường sam thấy tôi chăm chú quan sát mình, cũng nhìn lại, sau đó cười to, trông ông ta cười nhìn còn kinh khủng hơn là khóc. Ông ta ha hả cười mà nói: "Cậu nhóc này nhãn thần có hồn lắm, ta đi lần này chỉ gặp được có hai người các ngươi, hẳn là có duyên."
Tôi lúng túng nhìn sang Bạch Dực, Bạch Dực vội vã cướp lời: "Trên đường gặp được Hỉ thần, mong hành cước sư phụ cứ yên tâm cất bước, tích nhiều âm đức."
Tuy tôi không hiểu lắm cách hai người nói chuyện với nhau, nhưng từng nghe bà nội kể dân cản thi không bao giờ tự xưng mình là "cản thi", mà tự xưng là "hành cước sư phụ". Giống như đám trộm mộ tự xưng là "đảo đấu", đám trộm vặt tự xưng là "Phật gia" vậy. Còn cái gọi là "Hỉ thần" chính là thi thể hiện đang đứng im phăng phắc trong góc tường kia. Gặp được Hỉ thần là chuyện may mắn, nghe nói có thể phát tài to, nhưng đồng thời cũng phải gánh nhiều sát khí. Cho nên Bạch Dực mới nói người kia cứ yên tâm đi đường của mình, chúng tôi nước giếng không phạm nước sông.
Trường sam gật đầu có vẻ tán thưởng, uống thêm một hai ngụm rượu, nhưng sắc mặt vẫn cứ tái nhợt kinh khủng. Ông ta ồ ồ nói: "Thanh niên bây giờ khó thấy ai hiểu rõ từ ngữ trong nghê như các ngươi, xem ra các ngươi cũng là dân có nghề. Phải không?"
Bạch Dực lập tức lắc đầu: "Chúng tôi chỉ là hai khách du lịch bình thường, không phải 'dân chuyên nghiệp'."
Trường sam tháo mũ ra, gãi gãi đầu, sau đó tìm một chỗ đất trống nằm xuống. Tôi thấy ông ta dường như đã ngủ, liền nhẹ giọng hỏi Bạch Dực: "Lão Bạch, ông ta thật sự là cản thi à? Vậy thứ phía sau cửa kia thực là thi thể sao?"
Vừa nói tôi vừa len lén liếc mắt nhìn người cao to mặc áo đen đứng im trong góc tường kia, trên trán đã bị dán một đạo bùa dài, đứng thẳng tắp như bức tượng không hề nhúc nhích, quả thực nhìn rất giống một cương thi.
Bạch Dực khẽ lắc đầu: "Cản thi rất hiếm gặp, hơn nữa ba mươi sáu công phu truyền lại trong giới bọn họ cực kỳ quỷ dị, nhất là 'Hoàn hồn công', cho tới giờ ngoại trừ những đồ đệ được trực tiếp truyền thụ lại thì không còn ai biết cách làm nữa."
Nghỉ lại trong nghĩa trang đã là chuyện kinh dị, vậy mà lại còn vô tình gặp được nghề cản thi trong truyền thuyết. Tôi nuốt nước bọt, ánh mắt không hề dời khỏi cái thi thể đứng thẳng kia. Bạch Dực cũng không còn cái vẻ thờ ơ như trước nữa mà dùng ánh mắt chăm chú tỉ mỉ quan sát nhất cử nhất động của thi thể.
Sắc trời dần dần chuyển sáng, ngoài cửa sương mù vẫn tràn ngập, nhưng đã có một vai tia sáng len lỏi qua mái nhà mà chiếu xuống nền đất ẩm ướt. Tôi thở phào một tiếng, đêm dài rốt cuộc đã trôi qua. Trên mặt hai chúng tôi đều đầy mệt mỏi. Người mặc trường sam vẫn không hề động đậy, dường như đang ngủ rất say. Thi thể đứng cả đêm vẫn không động đậy nửa bước, y hệt như tượng sáp, nhìn nó, không biết trong lòng cảm thấy sợ hay là có hơi thất vọng...
Dù sao cũng là không quen không biết, chỉ có duyên cùng tá túc dưới một mái nhà một đêm, tôi và Bạch Dực chỉ lẳng lặng thu xếp hành trang sau đó lặng lẽ đi, không nói một tiếng. Cản thi chỉ đi buổi tối, ban ngày nghỉ ngơi, đó cũng là lý do người thường hiếm khi nhìn thấy bọn họ.
Ra khỏi khách sạn tử thi rồi, đột nhiên cảm thấy một thứ áp lực tối tăm nà đó vừa nhẹ nhàng rời khỏi người, dù trên người vẫn còn mang theo một mùi hôi thối đặc trưng. Chúng tôi dựa theo trí nhớ quay trở về con đường nhỏ mà đêm qua đã nhảy xuống khỏi xe, vì đang là ban ngày nên trông nó không âm u kinh khủng như đêm, hơn nữa còn có xe cộ qua lại. Đây đã là thời hiện đại, cho nên rất nhiều thanh niên trẻ không hề tin tưởng vào mấy chuyện "âm lộ", do đó chúng tôi rất nhanh chóng tìm được một cái xe đẩy. Tài xế rất vui lòng chở chúng tôi tới tận nơi, điện thại đi động của Bạch Dực cũng đã gọi được. Hóa ra sóng điện thoại ở đây không phải không có, mà là rất chập chờn, cho nên đôi khi bị mất sóng gọi không được. Khi người nhà Bạch Dực tới ga đón chúng tôi thì chúng tôi đã đi mất tiêu, hai bên không gặp được nhau. Lúc này biết chúng tôi bình an sắp tới, bọn họ cũng thở phào một hơi nhẹ nhõm.
Khi xuống xe bước vào trại, tôi mới thấy đây quả là một khu định cư điển hình của dân tộc Thổ Gia. Một dãy nhà sàn dài, trên mặt đất là đường đất trải đá, tuy khu trại có hơi cũ nhưng vẫn có rất nhiều người cư ngụ. Trong khu trại cũng có điện, nhưng thông tin thì không hiện đại lắm, nói thẳng ra là ở chỗ này viết thư còn chắc chắn hơn gọi điện thoại.
Các cô gái đều mặc áo cánh ngắn, tay áo dài có thêu những hoa văn hình thù khác nhau cùng với quần lụa rộng, nhìn rất yểu điệu. Thấy hai người lạ từ xa tới đều che miệng cười khúc khích. Một ông chú lớn tuổi thấy chúng tôi tới liền lập tức bước ra, vỗ vỗ vai Bạch Dực: "Ai, cuối cùng cháu cũng tới rồi, lại đây cho ông chú nhìn kỹ xem nào!"
Bạch Dực có hơi bối rối, ông chú cứ vỗ vai anh ta liên tục, anh ta cũng chỉ biết gật đầu không ngừng. Tôi đứng ngoài nhìn thấy có hơi buồn cười, Bạch Dực đúng là hoàn toàn không biết cách đáp lại sự nhiệt tình của người khác, cho nên ngoại trừ cứ trả lời nhát gừng từng câu một được hỏi thì cũng không biết làm gì khác.
Có thể thấy ông chú này là người có địa vị cao, có uy tín trong khu trại, rất có thể là người đứng đầu bổn gia, tất cả mọi người đều có vẻ tôn kính ông ta. Ông ta nhiệt tình đón tiếp chúng tôi, đưa chúng tôi vào phòng riêng. Tầng dưới của nhà sàn không ở được vì đã chất đầy bếp ăn, nên chúng tôi lên lầu hai, ở đó có một bà lão đội khăn xếp trao cho chúng tôi hai chén canh dầu.
Tôi cầm chén canh uống một hớp, tẩy bớt hơi lạnh ám vào người từ đêm qua, sau đó buông chén. Ông chú chờ tới lúc đó mới hỏi: "Tiểu Dực, cậu thanh niên bên cạnh cháu là...?"
[1] Huyện Lô Khê thuộc tỉnh Hồ Nam
|
Chương 21: Tương Tây thi cổ (Hạ) Để ngăn chặn Bạch Dực nói bậy bạ gì thêm, tôi vội vàng cướp lời: "Cháu tên An Tung, là đồng nghiệp và bạn cùng phòng của anh Bạch Dực ạ." Bạch Dực không kịp mở miệng, cũng chỉ gật gật đầu ý nói đúng là vậy. Ông chú mỉm cười gật đầu, đẩy đĩa hồ đào ra trước mặt chúng tôi. Bạch Dực lên tiếng hỏi: "Ông, lúc nào lễ giỗ bắt đầu?" Ông chú hơi cau mày, nét mặt trở nên cực kỳ đau buồn: "Ờ... chắc là các cháu phải đợi... đợi thằng con của ông... ai~" Vừa nói tới đây thì ông chú đã nước mắt ngắn dài, hóa ra con của ông đi làm xa, lâu lắm không về thăm nhà, sau lại nghe nói không biết vì lý do gì mà đã truyền tới tin dữ nói là anh ta đã chết. Vì thế theo đúng quy tắc của khu trại, ông chú thuê dân cản thi đưa xác con mình về. Dù sao cáo chết cũng quay đầu về núi, người chết cũng phải mang về quê hương mai táng nơi phần mộ tổ tiên. Tôi và Bạch Dực sửng sốt nhìn nhau, lồng ngực khẽ nảy lên, lẽ nào tay cản thi mà chúng tôi gặp trên đường... lại là thay ông chú đưa thi thể con trai về? Danh tiếng của ông chú trong vùng này rất tốt, huống chi lại chính là bổn gia, con trai của bổn gia qua đời, chuyện này không thể sơ sài, cho nên ngay cả lễ giỗ mười năm của ông cố cũng phải dời lại, chí ít chờ đứa con tha hương này được đưa về nhà rồi mới cử hành lễ tang luôn thể. Bởi vì tôi là người ngoài, danh nghĩa chỉ là đi cùng Bạch Dực tới đây tham quan nên chỉ biết nói một câu chia buồn, ngoài ra không làm được gì khác. Ông chú còn có nhiều việc phải chuẩn bị, vừa phải lo lễ tang cho con trai vừa phải lo lễ giỗ cho ông cố nên chỉ kịp ngồi với chúng tôi uống một chén cháo rồi lại phải vội vã đi. Cả đêm hôm qua không được chợp mắt, lại phải đi quá nhiều, nên hiện giờ tôi không còn sức lực đâu mà du sơn ngoạn thủy nữa. Huống chi vì có lễ tang nên không khí xung quanh cũng rất khó thở, hoàn toàn không có chút nào vui mừng của dịp đầu năm mới. Tuy thế, những gia đình cư ngụ trong khu trại cũng tiếp đón chúng tôi rất chu đáo, không hề bê trễ. Tôi thấy mọi người xung quanh bận rộn qua lại, chỉ biết ngồi đờ ra một chỗ cạnh Bạch Dực nói chuyện. Ăn xong bữa trưa, cũng có đi chung quanh khu trại tham quan một chút, khắp nơi trong trại đều dựng nên những căn lều to nhỏ khác nhau để chuẩn bị lễ điển. Tuy nói bây giờ đã hiện đại lên nhiều, nhưng ở vùng này vẫn duy trì tập quán mời thổ ty tới cử hành những nghi lễ quan trọng, chỉ có quả phụ và phụ nữ có thai là không được phép tham dự. Những người ngoài như tôi chỉ được đứng ngoài nhìn, không thể cùng những người trong trại tham gia hay chuẩn bị cho nghi thức. Thời gian trôi qua trong buồn chán, phong cảnh xung quanh thực sự rất đẹp, nhưng tôi không có sức đi quá xa. Nghi thức bên ngoài càng hấp dẫn hơn, nhưng người ngoài lại không được can thiệp. Bạch Dực cũng bị coi như khách, chỉ đi thăm vài người họ hàng rồi thôi, không có chuyện gì làm, hai chúng tôi đành đi dạo loanh quanh gần khu trại. Cho đến khi có người gọi chúng tôi về ăn cơm chiều, chúng tôi mới theo mấy đứa trẻ trong khu trại quay về, bữa cơm rất phong phú, toàn là đặc sản Tương Tây: có thịt khô xào rau dương xỉ, bắp rang, huyết ba áp[1] , cá chua cay, đặc biệt là những món cá của bọn họ, cực kỳ ngon miệng. Nhưng có lẽ là do ngày mai cản thi sẽ tới nơi nên mọi người đều có hơi bồn chồn, đặc biệt là ông chú, giấu không được sự đau khổ. Có lẽ chúng tôi và con trai ông không cách nhau bao nhiêu tuổi, nên khi nhìn chúng tôi mắt ông ta lại nhòe đi, lúc uống rượu lại dùng tay áo âm thầm gạt nước mắt. Chúng tôi cũng không biết phải nói gì, dù sao người đầu bạc tiễn kẻ đầu xanh cũng là một nỗi đau khổ khó sánh trong thiên hạ. Ăn xong, chúng tôi quay về gian phòng ngủ đã được chuẩn bị cho mình, chúng tôi không thể ngụ lại trong khu nhà chính vì trong đó bây giờ đã được trang hoàng sửa soạn cho lễ tang, đầy đồ vàng mã, không ai dám cho chúng tôi ngủ cùng nơi với những đồ vật của người chết, nên chúng tôi được chuẩn bị cho một gian phòng ở mé sau. Tuy nói là nhà sau, nhưng được quét tước dọn dẹp sạch sẽ, chăn nệm đều là đồ mới. Tôi hoạt động cả một ngày đêm, nên cơm nước tắm rửa xong là lập tức chui về phòng nằm duỗi dài người không muốn động đậy nữa. Toàn bộ cơ thể lúc này mới ẩn ẩn đau nhức không thể cử động lấy một ly, chỉ có cái miệng thở đều đều, trông rất giống một con cá mắc cạn. Có người nói là một ngày đêm trước khi cản thi đưa thi thể về tới nhà, thân nhân của người chết sẽ nằm mơ thấy người chết về nói cho người nhà biết thi thể của mình đã trèo đèo lội suối về nhà để gia đình chuẩn bị lễ tang. Kỳ thực phong tục của người Thổ Gia thường quàn quan tài trong nhà vài ngày trước khi đem chôn, nhưng nếu là do cản thi mang về thì phải lập tức hạ táng ngay, vì thi thể hư thối rất nhanh, mùi hôi thối đó người sống không thể chịu nổi. Chỉ trong vòng một ngày đêm mà tôi đã được tận mắt chứng kiến hai nghề nghiệp quái lạ nhất Tương Tây là cổ độc và cản thi, cho nên lúc này trong đầu vẫn còn quay cuồng suy nghĩ, huống chi ngoài cửa người qua lại vẫn còn tấp nập, đèn đuốc sáng trưng, cho thấy bọn họ bận rộn tới mức nào. Tuy không phải là con cái ruột thịt trong nhà, nhưng tất cả những gia đình trong khu trại đều là sinh hoạt gần nhau, con cái cũng lớn lên bên cạnh nhau, con người khác cũng như con của mình, sao có thể làm ngơ lúc này? Tôi nằm thườn thượt trên giường như con cá chết, xung quanh là một bầu không khí xa lạ, nhưng lại rất yên tĩnh. Nhìn qua khung cửa sổ vuông vức trên đầu, thấy bên ngoài đã tối sầm. Ngọn đèn trường mệnh thắp xa xa như dẫn lối cho linh hồn tha hương quay về quê nhà. Trong phòng ấm áp, chăn nệm cũng thoải mái, tôi nặng nề trở mình, mí mắt dần dần díp lại. Mơ hồ nghe có người đẩy cửa vào, tôi nhắm mắt, biết là Bạch Dực, nghe anh ta nhẹ nhàng hỏi: "Ngủ rồi à?" Tôi ậm ừ một tiếng, sau đó ý thức dần dần chìm vào cơn buồn ngủ ập tới như sóng triều. ... Nửa đêm tôi đột nhiên tỉnh lại. Không biết tại sao, rõ ràng là rất mệt mỏi rất buồn ngủ, vậy mà tự nhiên không sao ngủ tiếp được nữa, tôi đứng dậy, nhìn thấy Bạch Dực đang ngủ rất say trên cái giường sát vách. 'Hay là tại lạ chỗ...?' Tôi nghĩ thầm, mặc thêm áo khoác ra bên cửa sổ đẩy chấn song ra, một cơn gió lạnh lập tức thốc vào. Tôi siết chặt thêm y phục, nơi này quả là một nơi thế ngoại đào nguyên xa rời đô thị đông đúc chật chội, nhưng lại đơn độc tồn tại giữa một vùng trời nước bao la, tự nhiên khiến người ta có cảm giác bức bí bé nhỏ. Bốn phía đen như mực, ánh trăng lẻ loi xa xa không đủ để soi sáng, trời nặng tầng tầng mây, không khí bị sự yên lặng tuyệt đối ngự trị. Tôi hít sâu mấy hơi, chuẩn bị đóng cửa vào ngủ lại, nhưng lúc tay đặt lên khung cửa lại đột nhiên phát hiện dưới ngọn đèn trước cửa lều tang có một bóng người, tôi thầm nghĩ, giờ này còn có người vất vả ở dưới, quả nhiên là lễ long trọng. Nhờ ánh trăng nhàn nhạt, tôi có thể nhìn thấy ít nhiều mọi chuyện diễn ra dưới đất, vì thế nổi lòng hiếu kỳ, nheo nheo mắt chăm chú quan sát bóng người dưới ánh đèn, nhưng vừa nhìn thấy kỹ thì tôi đã sợ tới mức giật nảy cả người. Thứ đang lang thang dưới kia... không thể gọi là "con người" được, đầu và tứ chi của nó là người, nhưng thân thể ở giữa đã biến dạng tới mức thê thảm cực kỳ. Tôi cố nén cảm giác buồn nôn cuồn cuộn trong dạ dày, nhưng thứ kia quả thực quá mức ghê tởm, thân thể của nó căn bản chỉ là một đống thịt nhầy nhụa, ruột lòi cả ra ngoài, thậm chí có thể thấy những phần xương sườn trắng hếu lộ ra ngoài qua đống da thịt nham nhở, trông còn kinh khủng hơn cả zombie. Nó dường như đang lang thang vô mục đích xung quanh mấy căn lều ở dưới, miệng há hốc ngáp ngáp như đang gào thét cái gì, nhưng không hề phát ra thanh âm. Được một lúc, nó lảo đảo chạy ra trước nhà lớn liều mạng dập đầu lia lịa, da thịt trên người cũng theo đó mà rơi rụng. Trên mặt đất xung quanh nó đã đầm đìa máu, trông cực kỳ quỷ dị lẫn ghê rợn. Tôi chưa từng bao giờ gặp phải cảnh tượng kinh hoàng đến thế, cả người run bần bật bấu chặt vào tấm mành cửa sổ nhìn. Khi tôi run rẩy chuẩn bị đóng cửa sổ để khỏi nhìn thấy nữa thì... trên bệ cửa sổ chợt xuất hiên một... cái đầu! Tôi quýnh lên nhìn xuống thân người dưới mặt đất, nó vẫn đang dập đầu, nhưng đầu... đầu không còn nữa! Cái đầu đặt trên cửa sổ sưng phù, to lớn khác thường, bảo đó là cái đầu chi bằng nói nó là một đống thịt còn đúng hơn. Hai mắt nó đảo ngược trắng dã nhìn tôi, từ cái đầu tỏa ra từng trận mùi hôi kinh người. Miệng nó há hốc ra, bên trong lúc nhúc những con sâu đen bóng bò lổn ngổn, vì trong miệng toàn là sâu, nên dường như nó không nói được, chỉ thấy sâu đen phun ra không ngừng. Cảm thấy cái đầu to tướng này chẳng qua chỉ là một cái ổ sâu không hơn không kém, tôi bụm chặt miệng liều mạng thối lui về phía sau, chỉ sợ có con sâu nào bò lên người. Đột nhiên tấm bùa mà ông lão trên xe lửa đã cho tôi để trong túi áo trước bất thình lình bốc cháy. Tôi hốt hoảng móc ra vứt ra ngoài, tất cả những con sâu đụng phải lá bùa đều xèo xèo bốc cháy theo, đám còn lại hốt hoảng chạy ngược lại về phía cái đầu, sau đó cái đầu chao một cái lăn ra khỏi cửa sổ rơi xuống dưới rừng cây bên dưới, chỉ còn nghe thấy những tiếng lộc cộc trong đêm khi nó lăn đi càng lúc càng xa. Đột nhiên tôi cảm thấy cả căn phòng dường như rung lắc dữ dội, hai bên má truyền tới cảm giác đau đớn, bên tai nghe thấy tiếng Bạch Dực mơ hồ mà cấp thiết: "Này! Tỉnh! Tỉnh mau!" Khi tôi mở mắt ra, nhìn thấy lão Bạch đang ngồi bên cạnh, một tay đỡ đầu tôi dậy, tay còn lại đánh mạnh lên hai bên má tôi. Cảm giác đau tê dại trên mặt khiến tôi thoáng chốc tỉnh lại, nhìn quanh bốn phía không còn cái đầu nào nữa, cũng không có những con sâu màu đen bò lúc nhúc, tôi vẫn đang yên ổn nằm trên giường mình. Hành động đầu tiên của tôi sau khi lấy lại ý thức là... vươn tay tát Bạch Dực một cái, vì anh ta rõ ràng là đang nhân cơ hội đánh tôi mà! Tôi đẩy mạnh Bạch Dực ra, bụm mặt gào lên: "Sao tự nhiên đánh tôi!" Anh ta phát điên che bên má bị đánh mà gằn lại tôi: "Câu đó phải là tôi nói mới đúng! Nếu tôi không đánh cho cậu tỉnh lại thì lúc này cậu đã té lăn xuống giường rồi! Làm sao vậy hả?! Gặp ác mộng gì?" Tôi lấy tay đè huyệt Thái Dương đang nhức bưng bưng, đầu óc vẫn còn hơi choáng váng, nhưng cảm giác rõ ràng xung quanh có vẻ có thực hơn lúc nãy. Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ, hướng về phía căn lều có ngọn đèn treo trước cửa, dưới ánh đèn tù mù không có bóng ai, chỉ có một hai con thiêu thân bị ánh sáng đèn hấp dẫn mà bay vè vè xung quanh. Cả người vì quá sợ mà đầy mồ hôi lạnh, tóc cũng ướt sũng, tôi đưa tay chầm chậm vuốt mặt mình, lại nhịn không được mở miệng ra kiểm tra xem có con sâu nào bên trong hay không. Tuy chỉ là một giấc mơ, nhưng là một giấc mơ quá mức chân thực, thật không hiểu vì sao lại làm ra giấc mơ kinh dị đến như thế. Tôi dại ra ngồi đờ trên giường, Bạch Dực đi rót cho tôi một ly trà, đến lúc đó tôi mới phát hiện ra lá bùa cất trong túi áo ngoài đã hóa thành một đống tro tàn tự lúc nào, nhưng y phục không hề bị ảnh hưởng mảy may, làm như lá bùa tự thiêu cháy vậy. Bạch Dực cũng nhìn thấy, nhưng vẫn không nói gì. Tôi uống một hơi cạn sạch ly nước ấm, nhưng vẫn cảm thấy cổ họng khô khốc, vì thế Bạch Dực lại đứng lên rót thêm cho tôi một ly nữa. Tôi nhỏ giọng kể lại toàn bộ giấc mơ lúc nãy cho Bạch Dực nghe, anh ta trầm ngâm ngồi bên cạnh giường tôi, càng nghe chân mày càng cau lại. Cuối cùng, tôi lo lắng hỏi: "Lão Bạch... chẳng lẽ tôi trúng phải cổ độc rồi sao...?" Bạch Dực lắc đầu: "Không, hình như không phải, đây là một loại báo mộng, nhưng mà..." Anh ta không nói hết câu, chỉ vỗ vỗ đầu tôi nói: "Thôi đi ngủ tiếp đi, chắc không còn gì xảy ra nữa đâu." Tuy nghe anh ta nói thế, nhưng trong lòng tôi vẫn phập phồng run sợ, huống chi cảm giác cả người như nhũn ra sau khi gặp ác mộng làm tôi cảm thấy lạnh hơn hẳn, chỉ cuộn chăn bao kín người nằm nghe ngóng, không dám ngủ lại. Nghiêng đầu sang nhìn Bạch Dực, tôi thấy anh ta cũng không ngủ, ánh mắt lạnh lùng điềm tĩnh đến đáng sợ cho thấy anh ta đang suy nghĩ rất lung về cái gì đó. Nhìn anh ta như thế, lòng tôi càng thêm sợ hãi: rốt cuộc đã có chuyện gì xảy ra vậy? Chẳng bao lâu thì có người tới gõ cửa, báo là con trai của ông chú đã "trở về". Tôi và Bạch Dực giật mình nhìn nhau, sau đó vội vàng mặc quần áo cùng nhau ra ngoài xem. Trước cửa khu trại đã chật ních người đứng chờ, bây giờ vẫn còn là giữa đêm, đám đông người bao xung quanh khe khẽ bàn tán với nhau. Có người nhịn không được đã bắt đầu bật khóc thút thít, ngoài đường, người cản thi một tay vung chuông đồng, một tay rải tiền âm phủ đang chầm chậm tiến tới. Mọi người vừa nhìn thấy thi thể phía sau thì đã có người bắt đầu gào khóc thảm thiết. Rằng quả thực con trai của ông chú đã trở về... Người cản thi nhận ra hai chúng tôi giữa đám đông người, nhưng chỉ nhìn một cái rồi không nói không rằng đưa con trai ông chú về phía lều chứa quan tài. Tôi bíu lấy cánh tay Bạch Dực thì thào: "Quái vật tôi nằm mơ thấy ban tối... hình như... hơi giống con trai ông chú...!" Bạch Dực khẽ giật tay ra, thì thầm trả lời: "Đừng nói ra, nghề cản thi ở đây được coi trọng lắm, ngay cả Đại thổ ty cũng phải nể ông ta vài phần đấy." Quả không sai, cả ông chú lẫn thổ ty đều đích thân ra nghênh đón, hai vợ chồng ông chú vừa nhìn thấy thi thể thì đã bắt đầu khóc rống lên. Nhưng đứa con trai của bọn họ chỉ theo tay cản thi đi thẳng về phía gian phòng chuẩn bị lễ tang cho cậu ta mà không buồn nhìn cha mẹ mình lấy một cái. Quá trình khâm liệm chỉ có thể do một mình người cản thi đích thân thực hiện, người bên ngoài tuyệt đối không được nhìn trộm, ngay cả thân nhân của người chết cũng không được ngoại lệ, lúc đem thi thể "đỡ tới" quan tài cũng chỉ được thực hiện giữa đêm khuya, không được cho ai thấy. Nghe nói là do lúc nhập liệm, cản thi phải thực hiện nghi thức "khởi hồn", nếu lúc đó có người sống đứng bên cạnh thì có thể khiến thi thể bị động, gọi là "kinh thi", người sống có thể không được an bình, chưa kể tới khả năng người chết hóa thành cương thi. Thế nhưng tôi càng nghĩ càng thấy không ổn, người trong mộng kia nhất định là thi thể này, mà tại sao cậu ta lại phải báo mộng cho tôi? Mọi người đứng chờ ngoài phòng, khắp nơi đều là tiếng khóc nức nở, tôi và Bạch Dực đứng ngay kề cửa nhìn chăm chăm vào cánh cửa đóng kín, đây chính là vị trí mà tôi mơ thấy quái vật lang thang đêm qua. Ngọn đèn đã chập chờn muốn tắt, xung quanh lạnh hẳn đi, tiếng khóc than xung quanh càng vì thế mà ai oán bi thương. Lúc này là lúc đêm sâu nhất, bốn phía đen thui như mực, ngay cả mảnh trăng khuyết ban tối cũng đã bị che khuất bởi tầng tầng mây đen, trong lòng tôi càng lúc càng bất an, nghĩ thầm chắc hẳn có gì quỷ dị ở đây. Qua hồi lâu, cản thi đi ra, Đại thổ ty bước tới để trả công cho ông ta, người nhà cũng cho tiền lì xì, cản thi nhận tiền xong liền bảo mọi người có thể vào xem mặt người chết. Ông chú kích động vội vã chạy vào, đoàn người bên ngoài, có cả chúng tôi cũng hộc tốc theo sau, thi thể nằm trong quan tài lúc này đã không còn cảm giác quỷ dị như lúc nãy nữa, mà thực sự biến thành một thi thể bình thường, nằm ngay ngắn, sắc mặt trắng nhợt lạnh như băng, trông như vừa đặt lưng xuống ngủ. Vợ chồng ông chú vừa nhìn thấy đúng là con trai mình lập tức lăn ra khóc, nhưng tôi vẫn cảm thấy quang cảnh có gì đó hết sức kỳ quái. Cản thi đứng tựa lưng vào cửa, vẻ mặt thản nhiên lãnh đạm như thể đã nhìn mãi thành quen. Bạch Dực vẫn nhìn thi thể chăm chú, đột nhiên dường như phát hiện ra cái gì, anh ta nhanh chóng xăm xăm bước tới định đụng vào tử thi, cản thi lập tức quát lên: "Không được đụng!" Tròng kính của Bạch Dực thoáng xẹt qua một tia hàn quang, anh ta cười nhạt hỏi: "Sao lại không được?" Trường sam vốn là một gã đàn ông xấu xí, lúc này cặp mắt ốc bươu trừng to càng giống như hung thần muốn giết người, tất cả mọi người nín bặt không dám lên tiếng, chỉ oán hận nhìn Bạch Dực, nhưng vì chúng tôi là khách của bổn gia nên bọn họ không dám cả tiếng mắng. Ông chú hai mắt đỏ ngầu tập tễnh bước ra, khàn giọng hỏi: "Tiểu Dực, có chuyện gì vậy?" Bạch Dực đưa tay đẩy gọng kính, lạnh lùng cười: "Ta nên gọi ngươi là 'sư phụ', hay là 'tên lừa đảo' đây?!" Gương mặt xám xịt của trường sam lộ ra vẻ hung dữ khác thường, hắn tàn bạo gầm lên: "Đồ nhãi ranh không biết nặng nhẹ! Dám đụng vào xác chết để cho nó hóa thành cương thi, tất cả người trong khu trại các ngươi đều phải chết!" Mọi người vừa nghe tới cương thi thì toàn bộ khu trại đều cả kinh, bắt đầu xì xào bàn tán, ông chú vội vàng kéo Bạch Dực lại nói: "Cháu ơi là cháu, đừng gây sự nữa, đây là đại sự ảnh hưởng tới toàn khu trại đó!" Gương mặt tuấn tú của Bạch Dực hiện lên vài phần tức giận, rất ít khi tôi nhìn thấy anh ta để lộ ra vẻ mặt đáng sợ đến vậy, anh ta trừng trừng nhìn trường sam, hỏi tôi: "Tiểu An, có biết tại sao cậu lại nằm mơ như vậy không?" Nhắc tới giấc mơ ban tối, cả người tôi lại run lên, ánh mắt mọi người trong khu trại đồng loạt chĩa sang tôi, tôi bị mọi người chú mục nhìn, cảm thấy có hơi lúng túng, bèn cắn răng hỏi lại: "Vì sao?" Trường sam vừa nghe thế thì thoáng giật mình, vẻ mặt kinh hãi trừng trừng nhìn tôi như thể đang tự hỏi vì sao tôi lại còn sống đứng đây vậy. Bạch Dực chỉ chờ có thế, liền nhanh chóng tiến tới bên quan tài, lúc mọi người còn đang trợn mắt chưa kịp phản ứng thì anh ta đã nhanh như chớp vươn tay tới, giật mạnh áo liệm ra. Chúng tôi lập tức kinh hoàng đến không thốt nổi lời nào, tất cả mọi người đều há hốc miệng, bà thím hét lên một tiếng ngã lăn ra ngất xỉu. Mọi người chung quanh cũng theo đó mà bắt đầu gào thét nhốn nháo. Thi thể nằm trong quan tài... rõ ràng chỉ là một khối gỗ. Chỉ có tứ chi và cái đầu là đúng là của thi thể. Mọi người đều hét lớn hoặc khóc òa lên. Những mẩu tay chân bị cột chặt vào bốn mấu gỗ, mặc áo liệm ra bên ngoài, thoạt nhìn không thể biết bên trong là cái gì. Bạch Dực lạnh lùng gằn giọng: "Đây chính là nguyên nhân cậu gặp ác mộng đấy!" Lại nhìn trường sam một cái, anh ta tiếp tục: "Bởi vì ông 'sư phụ' này... à không, phải nói là hai người mới đúng, bọn họ không phải là dân cản thi, mà chỉ là những kẻ khiêng xác chết mà thôi!" Trường sam thối lui muốn đào tẩu, nhưng cánh cửa đã lập tức bị mấy thanh niên Thổ Gia lực lưỡng đứng chặn lại. Ánh mắt lạnh lùng của Bạch Dực nhìn chằm chằm về phía hắn, tiếp tục nói: "Ngươi để cho đồng bọn của mình đội cái đầu của thi thể lên, sau đó giả vờ như thi thể đi trên đường. Tới nơi rồi thì các ngươi đem tay chân giấu trong bao ra cột vào đầu gỗ giả làm xác chết, còn thi thể thực sự chắc đã bị các ngươi ném vào một nơi hoang vu nào đó rồi nhỉ!" Trong cổ họng trường sam chợt phát ra những tiếng lục cục gầm gừ, một lúc sau, chợt nghe hắn cười gằn một tiếng: "Hừ, không ngờ lại bị hai thằng nhãi ranh lật tẩy, bất quá xác chết kia ta không có đem vứt đi, mà là... dùng vào việc khác có lợi hơn rồi!" Ông chú tức giận tới mức run bắn cả người, ngón tay chỉ vào trường sam hồi lâu, cuối cùng chỉ rít được một tiếng duy nhất: "...Đánh!" Tất cả mọi người như bị châm lửa, hét lên một tiếng rồi xông lên, thi thể của cậu con trai coi như đã mất, cho dù bây giờ có bắt tên lừa đảo kia trả lại thi thể thì cũng đã bị phân năm xẻ bảy, làm sao còn có thể gọi là di thể được nữa? Ông chú trợn mắt to tới mức sắp rách mí, đám thanh niên Thổ Gia đều xắn tay áo vác gậy gộc hò la xông tới, chuẩn bị tóm lấy tên cản thi vô lương tâm mà dần cho một trận. Tôi kinh hoàng đứng nhìn, thầm nghĩ nếu không nghĩ cách can ngăn kịp thì chắc chắn sẽ có án mạng, vì thế chuẩn bị lên tiếng ngăn đám người Thổ Gia lại, nhưng Bạch Dực đã kéo tôi ra sau, tôi thấy anh ta vẫn chằm chằm nhìn trường sam một cách đầy cảnh giác mới để ý, rõ ràng có một đống người hùng hổ xông tới chuẩn bị tóm lấy hắn, vậy mà hắn vẫn cứ thản nhiên đứng yên đó, ánh mắt liếc về phía mọi người ẩn chứa cái nhìn thâm độc. Nói là nhìn mọi người, nhưng thực ra là nhìn hai chúng tôi, trong mắt đầy ý cười lạnh lẽo khiến người ta phải bất an. Lúc tôi nghĩ hắn chuẩn bị đánh trả, thì một thanh niên Thổ Gia đã dùng gậy gỗ đập một cái thật mạnh lên vai hắn. Cây gậy đập vào mục tiêu vang lên một tiếng "bộp". Lập tức cặp mắt của trường sam đảo ngược lên, lộ ra tròng trắng, từ trong miệng hắn hộc ra một đám khói đen mùi tanh hôi lợm mửa. Bạch Dực vừa thoáng thấy thế, lập tức hét lên: "Mau lui lại, đừng đụng tới hắn!" Đoàn người rất có ý thức cảnh giác, vừa nhìn tay cản thi bắt đầu biến đổi là lập tức tránh ngay ra xa, không ai dám tới gần nữa. Thân thể của trường sam thoắt cái nhũn ra như một cái túi da ngâm nước, tròng mắt hắn đảo bốn phía, trong cổ họng sinh ra tiếng lục cục, trên cổ đùn lên một đống những cục u nho nhỏ chuyển động không ngừng, dường như có cái gì đang chạy bên trong vậy! Trên mặt hắn vẫn lộ vẻ tươi cười, ánh mắt cuối cùng dừng lại trên mặt chúng tôi, trong mắt tràn đầy uy hiếp. Bạch Dực đỡ người tôi, lạnh lùng nói qua: "Kỳ thực ngươi chỉ là một tên cổ nhân mà thôi, đồng bọn của ngươi chính là một ả vu bà, kẻ hạ cổ độc cho ngươi cũng chính là ả ta, đúng không? Thi thể đã bị ả đem đi chế cổ rồi chứ gì? Ngươi bất quá chỉ là một thứ con rối mà thôi!" Gương mặt chảy nhũn ra của trường sam càng cười tươi hơn, hắn khanh khách bật cười to. Hai bên má của hắn dần dần sưng phồng lên, lổn nhổn cục u, khoang miệng há hốc ra, trong nháy mắt, từ trong miệng hắn phun ra một đống sâu, nhiều tới nỗi trong thoáng chốc đã bao trùm hết cả gương mặt hắn, chỉ còn một đôi mắt độc ác vẫn nhìn chúng tôi chằm chằm. Dân trong khu trại đều nhốn nháo bỏ chạy, những người ở bên trong thì ép sát người vào những góc phòng, run sợ ôm chặt người, chỉ sợ đám sâu này bám lên mình. Ông chú đứng cạnh chúng tôi đã sợ tới mức té lăn ra đất, không chạy nổi nữa. Nhưng Bạch Dực vẫn thản nhiên nhìn kẻ kia dần dần hóa thành một bãi sâu. Anh ta lấy trong túi áo ra tấm bùa ông lão trên xe lửa đã cho chúng tôi, rì rầm vài lời, tấm bùa lập tức tự bốc cháy, tỏa ra một mùi thơm lạ lùng. Bạch Dực ném lá bùa vào giữa đám sâu, lập tức đám sâu chạm phải lá bùa đang cháy cũng bùng cháy theo, dần dần hóa thành một đám lửa vĩ đại đốt toàn bộ đám sâu xung quanh, kể cả cái xác nhăn nhũn của trường sam. Mọi người kinh hoàng đứng lặng nhìn cảnh tượng đáng sợ trước mắt, trường sam nhanh chóng bị thiêu hết chỉ còn một đám thịt cháy. Một lớp khói đen đặc tỏa ra, hôi thối ghê người. Có nhiều phụ nữ không chịu nổi, lập tức che miệng ói. Cảnh tượng cực kỳ hỗn loạn. Tôi cũng bị đám khói hun đến nghẹt thở, bưng kín mũi miệng, cố hết sức kiềm chế không nôn ra. Bạch Dực vẫn nhìn chằm chằm vào đám lửa đang lụi dần, sau đó mới nói với tôi: "Đây chính là thứ mà truyền thuyết gọi là thi độc cổ nhân, nếu không có lá bùa do vị cao nhân trên xe lửa cho, thì rất khó đối phó." Không khí trước mắt tôi đã mờ đi, thứ này quả thực còn độc hại hơn cả chất thải công nghiệp, khói của nó khiến tôi gần như không mở nổi mắt. Vất vả lắm tôi mới trấn tĩnh lại được, Bạch Dực vỗ vỗ lưng tôi vài cái, tôi lập tức khoát khoát tay, ra hiệu không việc gì. Tôi thở dài nhìn một đám tro than lẫn lộn đen ngòm, không còn phân rõ đâu là người đâu là sâu nữa. Thật khó lòng tưởng tượng chỉ mới vài phút trước thôi, nó còn là một con người hoàn chỉnh. Rõ ràng mọi thứ đều đã được trời an bài từ trước, đã cho chúng tôi gặp được vị cao nhân nọ trên xe lửa. Mà đứa con trai của ông chú cũng không chịu nổi nỗi đau đớn bị đem ra chế cổ, nên suốt đêm quay về báo mộng. Cho nên trong giấc mơ, thi thể của cậu ta mới ghê rợn như vậy. Nhưng tại sao lại là tôi? Cảm thán cùng nghi hoặc xoay vần trong đầu, tuy tất cả mọi người vẫn còn đang bàng hoàng, nhưng phía chân trời đã bắt đầu hửng sáng. Mấy con gà trống trong khu trại cũng cất tiếng gáy vang, xua tan không khí âm u bốn phía. Bạch Dực quay lại tìm ông chú, ông vẫn còn run lẩy bẩy dựa cả người vào quan tài. Bạch Dực vội vàng tới nâng ông ta dậy, quay lại nhìn thi thể mà nói: "Ông chú, con trai của ông vẫn cần phải hạ táng chu đáo, để cho cậu ta được an tâm mà siêu thoát. Còn đám than ngoài kia, cho người dùng xẻng đào hố chôn thật chặt, tuyệt đối không cho phép bất kỳ ai được chạm vào, vì thi cổ là một loại cổ độc rất âm hàn, sinh lực cũng rất ngoan cường. Tuy cháu đã đốt hết, nhưng có thể ở giữa vẫn còn có một hai con chưa cháy." Ông chú vừa nghe thấy thế liền lập tức đứng bật dậy, vội vã gọi mấy thanh niên quanh đó: "Mau! Mau! Đi lấy cái xẻng đào đất chôn hết chỗ tro này cho ta! Sau này không ai được phép tới chỗ này nữa!" Mấy thanh niên Thổ Gia gần đó gật đầu, nhưng xem ra ai cũng sợ, chỉ nhìn nhau mà không dám ra tay. Mãi mới có người dùng hết dũng khí đào một cái hố to, mọi người cùng nhau lấp kín đống tro lại, tuyệt không để nó lộ ra ngoài. Ông chú chờ cho đến khi mọi việc xong hết, mới quay lại nước mắt ngắn dài nói: "Con trai của ta quả thực số khổ mà!" Rồi lại ngã xuống bên quan tài khóc một lúc lâu, mãi mới có người tới dìu vào nhà. Bạch Dực nhìn xung quanh một hồi, rồi mới gật đầu ra hiệu chúng tôi có thể đi. Lúc tôi chuẩn bị rời đi, chợt khóe mắt trái của tôi vô tình thoáng liếc qua cái đầu của thi thể con trai ông chú. Từ trong miệng bò ra một con sâu đen bóng, nhanh như chớp nhảy ra ngoài mất dạng, mà khóe miệng của người chết, trong nháy mắt, nhếch lên thành một nụ cười quỷ dị... "Đa số côn trùng các loại có thể tích trữ dùng làm lương thực qua ngày, duy chỉ có một thứ côn trùng độc hại người, tức thị là cổ, biến hóa khó lường, một ngày ăn nhằm phải, tất biến thành hậu hoạn." -[Chư bệnh nguyên hậu luận - Cổ độc hậu] Tương Tây thi cổ - Hoàn _____________________________________________ Chú thích về nghề cản thi (Dịch từ bài có cùng chủ đề trên trang web Baidu): "Cản thi" là một loại phép thuật trong truyền thuyết của dân tộc Miêu Cương có thể sai khiến thi thể hoạt động. Người Miêu chia phép thuật ra làm hai loại: hắc vu thuật và bạch vu thuật, trong đó cản thi thuộc về bạch vu thuật. "Cản thi" tức là điều khiển thi thể nhảy từng bước từng bước theo sau lưng pháp sư để quay về cố hương. Nhưng không phải là đem thi thể về tới tận nhà, mà chủ yếu chỉ là đưa thi thể đi qua những khu vực núi non hiểm trở, đường xá gồ ghề mà thôi. Đến khi xuống tới những nơi bằng phẳng thì có thể cho thi thể vào quan tài đưa tiếp về nhà. Cản thi thực ra không ngại ban ngày hay ban đêm, chỉ là để tránh làm người qua đường hoảng sợ cho nên dân cản thi thường chọn ban đêm mà đi, lại càng khiến cho nghề này được khoác thêm một tầng bí ẩn khiến người ngoài sợ hãi. Cản thi thông thường cần hai người mặc áo bào pháp sư, cho dù có bao nhiêu thi thể đi nữa thì cũng chỉ cần hai người bọn họ (sư phụ và đồ đệ) điều khiển. Hai người không được thắp đèn lồng, trong tay cầm chuông nhiếp hồn, vừa đi vừa rung để người đi đường biết mà tránh xa, nhà nào có nuôi chó thì biết mà xích chó lại. Nếu số thi thể nhiều hơn một thì dùng dây thừng nối các thi thể lại với nhau, mỗi thi thể cách nhau khoảng 6, 7m, lúc đi đêm, các thi thể đều đội mão lông chiên cao, trên trán dán một đạo bùa vàng. "Khách sạn tử thi": Trên đường có những khách sạn tử thi, loại "khách sạn" này thực chất là một nơi để cản thi và thi thể dừng lại nghỉ. Cửa khách sạn quanh năm đều mở rộng, nhưng người sống không bao giờ bước vào. Bậu cửa của những nơi này đều rất cao, nên thi thể không thể bước qua được, chỉ dừng lại ở sau cửa, đứng yên ở đó. Cản thi ban ngày thì vào khách sạn tử thi nghỉ lại, ban đêm lại đi tiếp, có khi gặp trời mưa to gió lớn phải dừng lại mấy ngày. Phạm vi hoạt động của nghề cản thi thực ra rất hẹp, chỉ gói gọn trong phạm vi khu vực Tương Tây. Tương Tây nằm ở phía tây Hồ Nam, bao gồm bốn khu vực chính là Nguyên Lăng, Lô Khê, Thần Khê và Tự Phổ. Thứ nhất là vì chỉ có Tương Tây là có khách sạn tử thi, thứ hai là vì dân Tương Tây nghe hiểu tiếng chuông, nghe thấy tiếng chuông tự biết tìm cách tránh đường, thứ ba là vì Tương Tây có những con đường bên ngoài khu dân cư, còn các tỉnh thành khác đường đi chủ yếu vẫn là xuyên qua thôn xóm, dễ làm người sống kinh sợ, nên nghề cản thi chỉ thịnh hành ở khu vực này. Điều kiện hành nghề: Ở Tương Tây từ xưa đã coi cản thi như một nghề quang minh chính đại, muốn học nghề này phải bái sư. Lúc bái sư phải đáp ứng được hai yêu cầu: thứ nhất là can đảm, thứ hai là khỏe mạnh. Muốn học nghề, đầu tiên phải bị thật xấu xí, càng xấu càng tốt. Hơn nữa còn có thử thách. Thử thách thứ nhất là sư phụ sẽ đem người muốn học xoay mạnh vài vòng, xoay xong yêu cầu người muốn học phải lập tức nhìn lên mặt trời mà đoán xem đâu là đông tây nam bắc; nếu không đoán được thì khi đi cản thi ban đêm sẽ không phân nổi phương hướng, không có tư cách cản thi. Thứ hai là phải có khả năng khiêng vác được vật nặng, vì khi gặp những sườn núi quá dốc, thi thể không thể tự mình leo lên được, thì người cản thi phải tự cõng thi thể từng bước từng bước một leo lên. Thử thách cuối cùng là sư phụ sẽ đem một mảnh lá bằng đồng giấu trong một nhà mồ hoang vắng, yêu cầu người học việc tới lấy nó về. Nếu không làm được thì không đủ can đảm để làm nghề cản thi. Nếu vượt qua tất cả những yêu cầu trên thì có thể chính thức bái sư học nghề. Bình thường, dân cản thi cũng giống hệt người thường, làm nghề nông. Chỉ có những lúc có ai cần cản thi, mới tìm đến họ, hỏi: "Sư phụ, xin mời hành một lần cước" hoặc "Sư phụ, xin mời đi hành cước". Lúc đó họ mới đem ra một tờ giấy màu vàng đặc chế, cho người thân của người chết ghi tên tuổi và ngày sinh - ngày mất của người chết lên đó, lại đem ra một lá bùa khác dán lên tờ giấy đó và cất kỹ trong người. Khi hành nghề, cản thi lúc nào cũng phải ăn mặc giống nhau: đi giầy rơm, mặc trường sam bằng vải bố màu xanh, thắt đai lưng màu sậm, đầu đội mũ vải cao, trong túi cất một đống bùa. Sư phụ dạy đồ đệ, đầu tiên là dạy vẽ bùa. Loại bùa đặc thù này được viết bằng mực đỏ trên nền giấy vàng, lúc gặp chuyện cần kíp có thể dán lên cửa hoặc một thân cây nào đó nằm ở phía tây, hoặc cũng có lúc đốt lên hòa vào nước rồi uống. Kế tiếp là dạy ba mươi sáu loại công phu, thứ nhất là "trạm lập công", giúp thi thể đứng thẳng lên, thứ hai là "hành tẩu công", giúp thi thể di chuyển được; thứ ba là "chuyển loan công", giúp thi thể đi trên đường có thể xoay chuyển; ngoài ra còn có "hạ pha công" (để xuống núi); "quá kiều công" (để qua cầu); "ách cẩu công" vân vân. Ách cẩu công dùng để cho chó ven đường nhìn thấy thi thể khỏi sủa, vì tiếng chó sủa có thể khiến thi thể bị hoảng hốt, dễ sinh ra biến; chưa kể chó nhìn thấy thi thể sẽ lập tức chạy tới cắn xé. Cuối cùng là "hoàn hồn công", một loại công phu đặc biệt có thể giúp thi thể di chuyển dễ dàng linh hoạt như người còn sống, với điều kiện hồn phách của thi thể phải còn. Loại công phu này trên thực tế là xoa lên người chết một loại thảo dược đặc thù chỉ có ở Tương Tây. Phương pháp: Khi có người vừa qua đời, bạn bè của người chết sẽ tìm tới cản thi để thương lượng giúp đưa thi thể về quê nhà. Khi pháp sư tới, việc đầu tiên là hỏi thăm ngày sinh và ngày tử của người chết xem có xung khắc gì hay không. Tiếp theo, pháp sư sẽ niệm chú rồi dùng hết sức đâm cây kiếm gỗ đào của mình vào tấm ván giường của người chết. Nếu kiếm gỗ xuyên qua được, tức là người chết đồng ý cho pháp sư điều khiển, pháp sư lúc đó mới tiếp nhận vụ cản thi. Nhưng nếu kiếm không xuyên qua được hoặc bị gẫy thì pháp sư sẽ lập tức quay lưng bỏ đi không tiếp, vì thi thể không chấp nhận cho hắn điều khiển, nếu cứ cố tình ra tay thì có khả năng xảy ra sự biến. Tiếp nhận rồi, cản thi cũng không lập tức lên đường mà chờ thêm vài ngày, cho đến khi có khoảng bốn năm thi thể mới tập trung lại đi một lần. Nhưng thi thể mà pháp sư đã làm phép kỳ lạ là không hề hư thối, mặc kệ khí trời thế nào. Lúc lên đường, pháp sư dán lên các thi thể một đạo bùa, thì thầm niệm chú, thi thể lập tức bật dậy đi theo phía sau pháp sư. Vén màn bí mật: a. "Gọi người chết": Người viết bài này (tức là người viết nó trên Baidu - Lục Mịnh) đã có lần nhặt được một tờ giấy trên đường, trên đó ghi "Xin cho Gọi người chết đi qua", sau này lại tận mắt được chứng kiến một chuyện kỳ lạ có liên quan tới nghề này. Gọi người chết, cũng tức là cản thi, nhưng phải dùng giọng nói, hét to ra lệnh cho người chết phải đi thế nào. Kỳ thực lúc nhặt được tờ giấy tôi không hề tin, nhưng vào cuối năm 1949, lúc đó tôi là nhân viên quản lý vận tải đường sông ở Tứ Xuyên. Một ngày kia sau giờ ngọ, tôi đi trên đường cái ngoài vùng núi Bành Sơn, có một người đi ngang qua tôi, tôi lập tức chú ý tới, vì người đó bước chân rất quái dị, cứng còng không tự nhiên. Tôi dừng lại nhìn kỹ, bên tai có một người qua đường nhỏ giọng nói: "Là Gọi người chết đấy!" Anh ta nhìn thấy vẻ mặt ngơ ngác của tôi nên cố tình đánh động. Tôi nghe thế, càng cố gắng quan sát kỹ hơn: "người chết" mặc trường bào đen, không có ống tay áo, nhìn có hơi cao to hơn bình thường, toàn thân cứng còng nhưng đi một cách rất có tiết tấu tiến về phía trước. Phía trước người chết có một người mặc áo cánh ngắn, bên tay trái xách một cái giỏ cũ, tay phải cầm một cây đèn cũ. Người mặc áo cánh ngắn cũng đi rất kỳ lạ: luôn luôn hơi nghiêng người xoay nửa mặt về phía người chết, ánh mắt nhìn theo người chết chằm chằm, chỉ thỉnh thoảng mới quay về phía trước nhìn đường. Đi một chút anh ta lại thả một tờ giấy lên mặt đường, tôi nghĩ ngay đó là "tiền mãi lộ" dùng để mua đường đi của dân cản thi. Bị lòng hiếu kỳ thôi thúc, tôi đi theo hai bọn họ một đoạn khá xa, những lúc phải leo dốc hay xuống dốc, leo lên cầu hay xuống cầu, người mặc áo đuôi ngắn liền hô to cho người mặc áo đen biết, người áo đen cũng cứ nghe theo hiệu lệnh mà tiến. Lúc đó, tôi nghĩ: Gọi người chết thực ra là "dẫn người chết" thì đúng hơn. Hôm đó đáng tiếc có việc không thể theo tới cùng, sau đó có người kể lại cho tôi biết đoạn kết: Hóa ra chiều tối hôm đó bọn họ đến một quán trọ, người trong quán trọ vừa thấy thì đã biết bọn họ làm nghề gì rồi, vì bọn họ tìm chỗ ngủ rất sớm, khách thường còn chưa tới thì họ đã tìm chỗ trụ lại rồi. Chưởng quỹ liền reo lên: "Hỉ thần tới!" Ông chủ quán nhìn thấy người mặc áo đen phía sau thì vừa mừng vừa sợ: sợ là sợ người chết, mừng là vì "Hỉ thần" là điềm phát tài, bèn dọn cho bọn họ một phòng thật kín đáo, lúc đưa cơm phải đưa thêm một cái bô nước tiểu, vì "Gọi người chết" phải canh thi thể không thể ra ngoài. Đưa cơm phải đưa hai phần, một phần là để cúng Hỉ thần. Nhưng lúc đó Tứ Xuyên vừa giải phóng, có mấy người bộ đội đồn trú ở đó đi kiểm tra nhân khẩu, ông chủ quán cứ thế nói thực, mấy người bộ đội liền tới gõ cửa phòng, yêu cầu mở cửa. Lúc mở ra quả nhiên thấy một người cao to mặc áo bào đen đứng yên trong phòng, trên bàn có hai phần cơm đã hết, chén đũa vừa mới rửa còn ướt. Người mặc áo cánh ngắn khai rõ tên tuổi của người chết, bảo là bọn họ đi từ phương bắc tới. Nhưng sáng hôm sau, mấy người bộ đội cảm thấy kỳ quặc nên lén quay lại theo dõi, thấy hai người kia rời quán trọ từ rất sớm, hai người bộ đội thấy người mặc áo cánh ngắn lúc này lại là một thanh niên trẻ, trong khi đêm hôm qua là một người hơn năm mươi, liền lập tức yêu cầu bọn họ về đồn điều tra. Lúc đó mới biết được sự thật: Hóa ra bọn họ có hai người, thi thể cũng là có thật, một người đóng vai "Gọi người chết" đi trước dùng giọng nói dẫn đường, người còn lại cõng thi thể trên lưng, giấu toàn bộ cơ thể trong chiếc áo bào đen vừa rộng vừa dài, không nhìn thấy đường, chỉ dựa vào cái lỗ tai mà tiến về phía trước, đồng thời còn phải ra sức giữ cho lưng thật thẳng, quả thực là một nghề vất vả! Bọn họ phải đi suốt ngày đêm, chỉ dừng lại ăn cơm có một lần, vì việc cõng người chết quá cực nhọc nên bọn họ phải thay phiên nhau, do đó mới có chuyện anh bộ đội kia nhìn thấy hai khuôn mặt khác nhau. Người bình thường không thể biết, vì bọn họ đi quá sớm, vả lại làm gì có ai đi theo họ từ ngày này sang ngày khác để kiểm chứng xem có bao nhiêu người? Nghe xong, mấy anh bộ đội cũng khâm phục sức khỏe và khả năng to lớn của bọn họ, vả lại nghĩ bọn họ cũng chỉ khổ cực dùng sức lao động kiếm ăn, liền chỉ khuyên bọn họ không nên dùng ma quỷ lừa gạt người khác mà nên đường hoàng làm việc. b. Khiêng người chết: Âm mưu này cũng cần hai người, một đóng vai cản thi, một giả dạng người chết. Một người đi trước rải "tiền mãi lộ", người đi sau mặc trường bào, mặt mày che khuất, trông có vẻ cực kỳ quái dị, khiến người bên đường sợ mà không dám đi theo nhìn. Thực ra, mãi lộ tiễn là một loại biển báo giúp người phía sau có thể bước lên mấy tờ tiền giấy mà an toàn tiến tới trước. Trước khi tới nơi hai ba ngày, bọn họ báo cho gia quyến người chết, chuẩn bị tốt quan tài khâm liệm. Sau khi tới nơi là lập tức nhập liệm, quá trình này hoàn toàn do một mình cản thi chịu trách nhiệm, không cho bất kỳ ai tới gần hay nhìn trộm, nói là vì nếu có người khác bên cạnh thì có khả năng sẽ bị biến thành cương thi, mà quá trình "đỡ người chết ra khỏi quan tài" cũng phải tiến hành lúc nửa đêm. Khâm liệm xong xuôi mới cho người thân vào, người thân nhìn thấy đúng là mặt mũi của người chết liền khóc than thảm thiết, không ai có thể ngờ đó chỉ là một âm mưu. Thực ra, sự thực nằm ở dưới lớp áo liệm. Dưới đó chỉ còn có cái đầu và tứ chi của người chết mà thôi, bị cột chặt vào mấy đầu mẩu gỗ, nhìn từ bên ngoài thì không thể phân biệt được. Còn phần còn lại của thi thể, không biết đã sớm bị bọn họ quăng đi đâu mất rồi! [1] Món thịt vịt đặc biệt của vùng Tương Tây, cách làm là khi giết vịt thì hứng huyết vào bột nếp, sau đó dùng bột nếp pha máu vịt đó đồ thành bánh, xào với dầu cải rồi hấp chung với thịt vịt.
|
Chương 22: Tiệc vườn đào dưới trăng (Thượng) Đến Tương Tây một chuyến về, tôi và Bạch Dực đều mệt mỏi tới mức chỉ có thể nằm gục trong nhà. Chắc không có ai trên đời này đi du lịch mà lại chật vật như chúng tôi được đâu nhỉ, thực lòng mà nói, từ sau khi trở về chỉ cần nhìn thấy con gián con sâu thôi là da đầu tôi lại run lên. Đương nhiên, không thể cho Bạch Dực biết...
Về tới ký túc xá được vài ngày, chúng tôi mới bắt đầu hoàn hồn, nhưng mặt khác, nhờ giúp cho khu trại một việc lớn như vậy nên nghiễm nhiên trở thành đại ân nhân của ông chú, mọi người tặng cho chúng tôi rất nhiều đặc sản. Số đặc sản này không thể dễ dàng mua ngoài chợ, vì trong đó có vài món chỉ được dùng để đem cúng tổ tiên mà thôi.
Bạch Dực thực ra nấu ăn khá ngon, chỉ có điều anh chàng này lười chảy thây, thà đi bộ xuống dưới lầu mua đồ ăn hàng ngày cũng không thích tự mình vào bếp. Nhưng từ khi số đặc sản quý hiếm này vào nhà, anh ta bắt đầu thích ra tay, tôi được ăn ngon, ngày nào cũng mặt mũi tươi hơn hớn.
Mà cũng không hẳn chỉ có ăn, bởi vì trước nay ăn ngoài quá nhiều nên trong nhà không có đầy đủ gia vị. Cho nên người ăn chực như tôi có trách nhiệm phải ra ngoài mua tương gạo mắm muối.
Một tay cầm chai dầu ăn, một tay xách túi gạo, tôi vội vã trở về, trong lòng suy tính đến chuyện tìm mua một cái xe đạp mới.
Người trên đường đông như trẩy hội, thậm chí còn có thể nhìn thấy mấy ông hòa thượng đầu bóng lưỡng mặc áo cà sa đi lại ngoài đường. Miếu Hạ Hải là ngôi miếu đông người lui tới đèn nhang nhất ở thành phố này, miếu không quá lớn, nhưng nghe đồn năm xưa khi Trịnh Hòa sang phương Tây[1] có dừng lại chỗ này tu sửa đội thuyền, lúc thuyền rời bến liền lập ở đây một cái miếu, ban đầu là để thờ Long Vương cùng tổ tiên, nhưng sau này không hiểu vì sao dần dần trở thành một ngôi chùa Phật giáo. Tuy nhiên điều đó cũng không hề ảnh hưởng gì tới lượng khách thập phương đến viếng.
Tôi cố tình đi chậm lại, chỉ sợ đụng nhằm người qua đường. Vì trong số những người tới thắp hương thì người già cả là nhiều nhất, chẳng may đụng phải thì chẳng khác nào tự động nhận về một bà cố ngoại mà hầu hạ.
Nhưng phàm là càng muốn tránh cái gì thì càng dễ xảy ra cái đó, đang đi thì tôi bị một người mặc áo khoác đen bằng len, mang kính râm bản rộng đụng phải. Túi gạo của tôi bị hất rớt xuống lòng đường, tôi còn chưa kịp mở miệng thì gã kia đã gào lên trước: "Đồ chết tiệt, đi đường cái kiểu gì vậy hả, con mắt mọc trên đỉnh đầu à!"
Tôi nhặt túi gạo lên, cũng không chịu nhường: "Là anh đi không có mắt, bị quỷ bám sau người thì có!"
Vừa nghe tới hai chữ "quỷ bám", người kia chợt giật thót mình như bị điện giật, cả người co rụt lại. Rồi lại như vừa nhận ra cái gì mà đùng đùng nổi giận, vươn tay chộp cổ áo tôi. Trên hai tay tôi nào là dầu nào là gạo nên không thể đánh trả, trong lòng thầm nghĩ: nếu biết muốn đánh nhau thì đã buông hết mấy thứ này xuống đất rồi, cứ như vầy chỉ có chịu đòn thôi. Nghĩ thế, tôi nhắm chặt hai mắt lại, chuẩn bị chịu một đấm trước cái đã, rồi sẽ cho tên khốn này một trận sau.
Thế nhưng chỉ thấy hắn cứ thế nắm chặt cổ áo tôi mà không ra tay, tôi liền mở mắt ra nhìn, thấy phía sau cặp kính bản rộng kia là một đôi mắt nhắm tít, cái miệng toe toét cười hết cỡ. Sau đó từ cái miệng đó thốt một câu: "Anh hùng đi trên đường! Bên hông mang bảo đao!"
Tôi đờ ra nhìn, nhưng vẫn theo quán tính trả lời: "Lục lâm làm hảo hán! Can đảm lưỡng Côn Lôn!"
Chờ tôi vừa dứt lời, anh chàng đeo kính râm đã phá lên cười ha ha, tôi cảm giác như hai bên đang đóng phim võ hiệp cổ trang vậy, nhưng lại rất quen thuộc, dường như đã từng nói với ai đó những lời như vậy...
Người nọ tháo kính râm ra, thân mật vỗ vỗ vai tôi: "Ây, mới có vài năm không gặp mà cả lão sư huynh đây cũng quên rồi sao?"
Tôi gãi gãi đầu cố gắng lục lại trong trí nhớ xem người này là ai, thế nhưng nghĩ mãi vẫn không nhớ ra, lại nhìn người kia trước sau vẫn tươi cười không đổi, tôi không muốn làm hắn ta mất hứng, đành vờ vịt hỏi: "Ủa! Hóa ra là sư huynh! Xin lỗi, trí nhớ của tôi tệ quá, sao lại tới chỗ này?" Dù sao cũng là người ta nhận mình trước, có nhận sai thì cũng là người ta phải xấu hổ trước.
Vẻ mặt của hắn chợt thoáng cái mà sầm hẳn xuống, tôi nhìn xuống cái túi ni lông hắn cầm trên tay, thấy bên trong là một đống bùa lộn xộn, còn có cả một bức tranh "Quan Âm tống tử".
Hắn nắm chặt chuỗi tràng hạt trong tay nói: "Ai dà... nói ra dài lắm, sư huynh đệ chúng ta mấy năm không gặp rồi, vầy đi, để tớ mời khách, chúng ta kiếm một quán ăn nào đó vừa ăn vừa nói chuyện?"
Tôi nhớ tới bữa cơm Bạch Dực đã làm sẵn sàng ở nhà, nếu không về ăn anh ta sẽ giận, hơn nữa tôi cũng không có ý lãng phí một bữa ngon như vậy, liền lắc đầu nói: "Không cần, bạn cùng phòng của tôi nấu cơm sẵn rồi, hay cùng về nhà ăn một bữa?"
Hắn gật đầu, không hề khách khí mà đỡ giúp tôi túi gạo ra ý cho tôi dẫn đường.
Hai bên nói chuyện một lúc tôi mới nhớ ra anh chàng này là ai, tên hắn là Thương Lạc Tử, lúc nhỏ cùng tôi học chung một lớp hội họa do trường Mỹ thuật mở gần nhà, chúng tôi ai cũng gọi hắn là Lục Tử, ai bảo tên của hắn quá khó đọc làm gì. Lúc xưa hai chúng tôi từng bị xưng là Hỗn Thế Ma Vương, trò nghịch ngợm nào cũng từng thử qua. Nhưng đã rất nhiều năm không có liên hệ gì với hắn rồi, hắn được coi là một thiên tài trong ngành chúng tôi, lúc tôi còn đang học vẽ tĩnh vật thì hắn đã học đắp tượng thạch cao, mà khi tôi còn đang lọ mọ nguệch ngoạc vẽ màu nước thì hắn đã theo giáo sư học vẽ tranh thủy mặc. Sau đó có tin là hắn tham gia một khóa học đào tạo chuyên sâu mà đã chuyển nhà, từ sau đó không còn liên hệ gì với đám nhóc chúng tôi nữa.
Đột nhiên có thể chạm mặt nhau ở một thành phố xa lạ, cả hai đều có cảm giác có duyên phận, hai anh em đương nhiên đều cực kỳ mừng rỡ, nhưng sao tôi cứ có cảm giác Lục Tử đang có gì đó lo lắng sợ hãi, cứ đi vài bước hắn lại dừng lại ngó ngang ngó dọc. Khiến tôi cũng phải tự hỏi là liệu đã có chuyện gì xảy ra cho hắn chăng?
Khi chúng tôi về tới nhà thì Bạch Dực dường như đã nấu xong cơm, từ xa đã nghe thấy một mùi thơm ngát mũi, kích thích dạ dày người ta. Tôi đẩy cửa ra nói với Bạch Dực: "Lão Bạch, tôi về rồi nè. Tôi dẫn theo một người bạn cũ tới ăn cơm nữa."
Bạch Dực đang đem thức ăn sắp ra bàn, ngoảnh lại nhìn chúng tôi một cái, không thèm nói gì mà chỉ hơi gật đầu. Kỳ thực tôi rất thấp thỏm, vì vốn biết tính Bạch Dực không thích người ngoài bước chân vào nhà, ngay từ đầu anh ta cũng đã giao hẹn với tôi là không được tùy tiện dẫn người lạ vào nhà. Nhưng lần này quả thực không có cách nào khác. Tôi đến trước mặt anh ta lặng lẽ giải thích: "Lão Bạch, đúng là tôi có hơi đường đột, nhưng anh ta là bạn học cũ của tôi, giao tình rất sâu, đã nhiều năm không gặp, hôm nay lại tình cờ gặp lại trên đường nên... Anh thông cảm nhé, hỗ trợ tôi một chút."
Bạch Dực thở dài một cái, cầm áo khoác xăm xăm bước ra cửa như muốn ra khỏi nhà, tôi thất kinh vội vàng kéo anh ta lại: "Không, không cần nhường phòng cho chúng tôi, hình như cũng không có gì quan trọng đâu mà, bên ngoài lạnh lắm, cơm còn chưa ăn, anh ra ngoài làm gì?"
Lục Tử thấy chúng tôi giằng co trong góc phòng, liền chủ động tươi cười tiến tới lên tiếng với Bạch Dực: "Tôi tên Thương Lạc Tử, hì hì, là bạn học cùng khoa với Tiểu An trước đây, xin chào."
Bạch Dực thoáng nhíu mày, tôi vội vàng nháy nháy mắt với anh ta, ý nói anh ta đừng để bụng, cũng hi vọng anh ta nể mặt mũi tôi một chút mà đừng phá hư bầu không khí.
Tôi thành thạo đem dầu ăn và gạo cất vào góc phòng, sau đó định cầm lấy cái túi của Lục Tử để cất vào một xó cho hắn, để hắn ngồi chơi được thoải mái, ai ngờ tôi vừa chạm vào cái túi thì hắn đã giật nảy người lên níu lại: "Ấy ấy, cái này... cái này để mặc tớ, bùa này vừa được khai quang hết rồi, người ngoài không chạm vào được..."
Tôi ngẩn người, cảm thấy hắn có hơi quái dị, hình như không còn giống với Lục Tử của trước đây nữa. Tôi chằm chằm nhìn hắn hồi lâu, hắn vội tránh mắt đi, không dám nhìn thẳng tôi.
Khi tôi còn đang hoài nghi về hắn thì Bạch Dực đã bới ra ba chén cơm nói với chúng tôi: "Vậy ăn cơm cái đã, ăn xong thì nói chuyện."
Ba người chúng tôi ăn cơm trong trầm lặng, trong bữa cơm, Lục Tử chỉ hỏi tên Bạch Dực và vài chi tiết linh tinh khác rồi cúi đầu lặng lẽ ăn. Tôi và Bạch Dực nhìn nhau, cả hai đều đã phát hiện người này quả thực dường như đang sợ cái gì, lúc nào cũng nơm nớp như chim sợ cành cong, chỉ ăn một bữa cơm mà trông cũng hãi hùng như vậy. Nhưng dù sao cũng là bạn cũ, tôi cũng không tiện nói gì thêm. Cuối cùng bữa cơm cũng xong. Hắn uống một ngụm trà, tôi nhìn vào nồi cơm trống không tới đáy mà thầm cảm thán, sợ mà còn có thể ăn tới mức này? Hay là đã mấy ngày hắn không ăn uống đàng hoàng?
Hắn nhìn tôi, cười đầy xấu hổ: "Ây da, không ngờ anh Bạch Dực nấu ăn lại ngon như vậy, còn ngon hơn cả ngoài tiệm..."
Bạch Dực ngồi lên ghế, cầm chén trà đẩy về phía tôi mà điềm nhiên trả lời: "Chỉ là vài món ăn bình thường, không đáng nhắc tới. An Tung, đi dọn chén đi."
Cách trả thù của anh ta đúng là luôn rất thực tế, muốn anh ta nguôi giận thì mau đi rửa chén. Chờ tôi rửa chén xong quay lại, thấy cả hai người vẫn duy trì một thứ im lặng hết sức kỳ quái, một người bình thản đọc báo uống trà, một người ngồi đối diện đờ ra, hoàn toàn không có ý định bắt chuyện với nhau.
Vì thế tôi đành xoa xoa tay hỏi Lục Tử: "Lục Tử, cậu tới miếu Hạ Hải làm gì vậy, lúc trước cậu đâu có tin mấy cái này?"
Trông hắn lại càng xấu hổ hơn: "Thì bây giờ tin không được sao, hề hề..."
Tôi cảm thấy tên này chắc chắn đã xảy ra chuyện gì rồi, chỉ vì không dám nói cho nên còn chờ tôi tới hỏi mà thôi. Tôi đành thở dài ngồi xuống đối diện với hắn: "Lục Tử, có phải xảy ra chuyện gì phiền phức rồi đúng không? Trông cậu kìa, chẳng còn chút uy phong nào của ngày xưa cả!"
Hắn vuốt vuốt mặt, rụt rè đánh giá tôi một lúc, sau đó do dự hồi lâu rồi mới thử thăm dò: "Ây da, Tiểu An, cậu thông minh hơn hồi xưa nhiều đó, bị cậu nói trúng rồi, tớ dạo này gặp phải một chuyện... kỳ quái..."
Vừa nghe hắn nói thế tôi đã cảm thấy hơi khó chịu, theo cách hắn nói thì lúc xưa tôi rất ngu xuẩn sao? Ngay cả chuyện rành rành như vậy mà cũng nhìn không ra?
Bạch Dực vẫn không nói tiếng nào, chỉ lật báo uống trà, hoàn toàn tỏ ra thờ ơ với chuyện chúng tôi đang nói. Tôi gặng hỏi Lục Tử: "Chuyện kỳ quái gì? Sao lại làm cậu ra nông nỗi này?"
Hắn nhíu chặt mày, trên mặt xuất hiện một tia tối tăm, nhấp một ngụm trà rồi mới e dè nói: "Chuyện này quả thực khó mở miệng..." Rồi chợt hắn thấp giọng lại như thì thào: "Phỏng chừng lần này tớ chọc phải quỷ thật rồi! Mà lại còn là một con nữ quỷ mới chết chứ!"
Tôi càng nghe càng khó hiểu, tên ngốc này làm sao vậy? Bệnh thần kinh à? Hay là thực sự gặp phải thứ không được bình thường? Ăn nói gì mà kỳ quặc vậy? Khóe mắt tôi hơi nheo lại, cố giữ giọng thật bình tĩnh mà hỏi lại: "Vậy rốt cuộc là cậu chọc nhằm thứ gì?!"
Hắn không nghe được vẻ khó chịu trong giọng nói của tôi, nghe tôi hỏi thế ngược lại như được cởi tấm lòng, lập tức thao thao nói tiếp: "Kỳ thực tớ theo một ông chú buôn bán tranh chữ cổ. Có lúc cũng gặp được những thứ thực sự quý giá, mà những bức tranh cổ như vậy thì khi nào vào tay cũng tơi tả rách nát nết, cho nên cần phải có người phục chế lại. Tớ chính là người phụ trách việc phục chế sửa chữa cho chúng."
Nói đến đây tôi mới nhớ, tôi theo chuyên ngành Mỹ thuật tạo hình bình thường, còn hắn theo chuyên ngành Quốc họa thư pháp, cho nên sau này cũng không thường gặp chúng tôi nữa.
Thực ra nghề phục chế tranh cổ là một loại nghề có từ xưa, các trường phái khác nhau có những tuyệt chiêu riêng, đại bộ phận đều qua bốn bước là yết, tẩy, bổ, toàn. Trong số đó đặc biệt bước đầu tiên, yết, là quan trọng nhất. Chu Gia Trụ[2]trong "Trang hoàng chí" cũng có viết: "Toàn bộ tính mạng của tranh cổ đều nằm trong bước yết." Bước này đòi hỏi phải có sự cẩn thận tỉ mỉ đến tuyệt đối, mới có thể sửa chữa cho một bức tranh sắp bị hủy hoàn toàn trở thành một bức gần như mới, đồng thời vẫn phải bảo lưu được toàn bộ tinh túy thần thái vốn có của tranh.
Tôi hỏi: "Vậy phiền phức lần này của cậu là đến từ bức tranh nào à?"
Hắn lắc đầu: "Tớ cũng không dám chắc, nhưng dạo này bọn tớ mới có được một bức "Tiệc vườn đào dưới trăng", theo chuyên gia giám định cho chú tớ thuê về báo lại thì nó chính là một bức tuyệt phẩm thời trung kỳ Minh triều, mà lại còn là do chính tay đại danh đỉnh đỉnh Từ Vị vẽ ra cơ đấy!"
Tôi thất kinh, nếu thực là tranh của Từ Vị, thì chẳng phải là văn vật chí bảo cấp quốc gia rồi hay sao?! Đến đây thì ngay cả Bạch Dực cũng ngẩng đầu lên kinh ngạc nhìn Lục Tử.
Tuy tôi không có nhiều kiến thức lịch sử, nhưng xuất thân từ Mỹ thuật tạo hình đương nhiên phải biết những kiến thức liên quan tới ngành này, nếu không làm sao dám đi làm giáo viên? Từ Vị, tự Văn Trường, lúc già được xưng là Thanh Đằng đạo sĩ, cùng với Trần Đạo Phục đại danh đỉnh đỉnh, đệ tử của Văn Trưng Minh, cùng đồng xưng là Bạch Dương Thanh Đằng. Là một nhân vật trọng yếu kế thừa tinh hoa của "Ngô Môn phái", bút pháp phóng túng ngông cuồng của ông sau này được coi như bước khai sáng mới cho nghệ thuật vẽ tranh chữ. Kiệt tác lúc già của ông ta, "Mặc hoa", hiện nay đang được giữ gìn ở bảo tàng Bắc Kinh. Như thế có thể tưởng tượng thấy nếu đúng là tác phẩm của ông ta thì quý giá biết chừng nào!
Tôi chằm chằm nhìn Lục Tử, trong bụng thầm nghĩ, anh chàng này không nói đùa đó chứ, tranh giả tranh nhái thời này không hề thiếu, đừng hòng cầm đồ giả tới đây lừa người! Hắn dường như thấy được sự hoài nghi của tôi, liền nghiêm trang nói: "Tiểu An, là cậu không biết đó thôi, đa phần đồ quý giá trân phẩm đều được cất giấu trong những bộ sưu tập cá nhân, có những thứ mà nếu chủ nhân của nó chịu trưng ra thì đủ để khiến cho cả giới mỹ thuật lẫn sưu tập phải rúng động chứ không chơi! Chúng tớ có chuyên gia giám định chuyên môn, theo giám định của bọn họ, đó đích thực là một tác phẩm từ thời còn trẻ của Từ Vị đã bị thất lạc từ lâu, trên đề từ của bức tranh có chép là tặng cho Trần Đạo Phục, lúc đó đã rất nổi tiếng!"
Hắn tiếp tục nói: "Lúc chúng tớ mới có nó trong tay, nó quả thực rách mướp tới mức sắp hư hỏng hoàn toàn, nhưng khi chú tớ vừa nói đó là tranh của Từ Vị thì tớ đã dồn hết toàn bộ công sức ra để phục chế nó. Chỉ mới giai đoạn đầu tiên là bôi dược liệu chống phân hủy, ngăn côn trùng cùng một vài bước chuẩn bị thôi mà đã mất tròn hai tuần lễ liền. Ban đầu thì vẫn không thấy gì kỳ quái, chỉ thấy bức tranh thực sự rất sinh động, giống như dưới tầng tầng lớp lớp tán hoa đào có thể thấy bóng hai người nâng chén đối ẩm dưới ánh trăng, nét mực đã đạt tới cảnh giới siêu phàm, có thể thấy rõ tác giả của nó phải là một thiên tài mới làm nổi!"
Đích xác, công việc phục chế tranh cổ, trên thực tế giống như một cuộc trò chuyện với tác giả từ thời cổ đại, không chỉ phải bao quát được bố cục lẫn thủ pháp của bức tranh, mà quan trọng hơn là phải hiểu được tính cách của tác giả, cùng với tình cảm gửi gắm trong tranh. Chỉ có như thế mới có thể phục hồi lại hoàn toàn thần thái ban đầu của tranh. Toàn bộ quá trình, tựa như một buổi lễ gọi hồn.
Tôi nghiêm túc hỏi: "Vậy trong quá trình phục chế đã xảy ra chuyện gì sao?"
Bạch Dực đã bỏ tờ báo xuống tự lúc nào, cả người dựa sát vào tôi mà chăm chú lắng nghe.
Lục Tử nhéo nhéo mũi, nói đầy vẻ mệt mỏi: "Ngay cái đêm tớ chuẩn bị yết bức tranh đột nhiên có một cô gái xuất hiện. Thực ra mà nói chuyện này cũng không có gì là lạ, câu thấy đấy, con gái ai chẳng thích một người lãng tử nghệ sĩ lại đẹp trai như tớ đúng không!"
Tôi liếc hắn một cái, kỳ thực trong lòng thầm mắng, có mà đầu trâu mặt ngựa thì có! Cùng là đẹp trai, nhưng hắn và Bạch Dực hoàn toàn không thể so sánh với nhau. Bạch Dực là anh khí mười phần, đẹp thực sự; còn Lục Tử, nhìn sao cũng thấy lưu manh thế nào ấy.
Tôi cắt ngang lời tự khen say sưa của hắn: "Đại ca, tôi biết cậu sát gái nổi tiếng rồi, tiếp tục vào chuyện chính cho người ta nhờ! Chúng tôi không phải tuần san báo lá cải, không cần nghe tiểu thuyết tình cảm ba xu!"
Hắn ho khan vài tiếng, xấu hổ nói: "Rồi rồi, nói vào chuyện chính, thực ra cô gái đó ăn mặc không rõ theo một triều đại nào cả, nói chung cả người quần áo trắng toát, chân mang một đôi giày đen, tóc dài cập lưng, mặt không trang điểm nhưng nước da trắng nõn, chỉ nhìn thôi cũng đủ thấy là một giai nhân, hơn nữa dáng người cũng không tồi... Cô ta tới tìm tớ, nói là muốn làm quen, muốn kết bạn. Tớ cũng rất vui, thực ra lúc đó tớ vừa chia tay cô bạn gái thứ tư, có một người đẹp như thế tới làm quen, đàn ông ai mà không động lòng, đúng không?"
Tôi day day huyệt Thái Dương, lạnh lùng nói: "Không nói vào việc chính, lão Bạch, mở cửa, tiễn khách!"
Hắn lập tức xua xua hai tay hốt hoảng nói: "Ấy, tớ đang nói theo quá trình đấy chứ! Rồi rồi, vấn đề chính là cô ta rất kỳ quái, cảm giác có hơi... siêu thực, sau đó ngày nào cũng tới tìm tớ, không ăn cũng không uống, chỉ nói chuyện phiếm với lại... hì hì... chúng tớ thường hay bàn luận về tranh cổ và thư pháp, cô ta cực kỳ tài hoa, đặc biệt am hiểu sấu kim thể, có vài chỗ thậm chí còn tinh hơn cả tớ là người đã học về hội họa suốt mấy chục năm. Nhưng mỗi lần muốn dẫn cô ta ra ngoài, cô ta lại từ chối. Cô ta chỉ ở trong phòng tớ đợi, mà chỉ lúc nào có mình tớ ở nhà mới xuất hiện. Có lúc tớ còn tưởng cô ta là gián điệp của công ty đối thủ, nhưng cô ta lại hoàn toàn không có hứng thú tới mấy thứ của tớ, cũng không bao giờ bước vào phòng làm việc của tớ cả. Đối với cô ta, thực ra là tớ bắt đầu có cảm giác yêu."
Nói đến đây, trên mặt hắn xuất hiện một loại thần tình rất mâu thuẫn, có thể thấy lần này Lục Tử thực sự nghiêm túc, hắn suy nghĩ một lúc rồi tiếp: "Công việc của tớ vẫn tiến triển bình thường, nhưng chuyện quái dị cũng theo đó mà xuất hiện, ví dụ như mỗi lần làm việc, tớ lại có cảm giác như bên cạnh có thêm ai đó, đôi khi nghe như có ai đó thì thầm bên tai, toàn là nói về những chỗ quan trọng nhất của bức họa, nhưng khi quay đầu lại thì chẳng nhìn thấy ai cả; những khi tớ muốn chấm bút lông vào nghiên mực thì phát hiện cây bút lông tớ cần đã gác sẵn trên thành nghiên, mà tớ nhớ rõ ràng là đã cắm nó vào giá bút rồi..."
Lục Tử nói tới đây thì bắt đầu tỏ ra kích động, hắn hít sâu một hơi rồi mới tiếp tục nói được: "Cô gái kia hầu như đêm nào cũng xuất hiện, nhưng tớ có cảm giác mỗi lần xuất hiện thì vẻ mặt của cô ta lại thay đổi một ít, hình như... thay đổi gương mặt vậy, nhưng nhìn kỹ thì vẫn có dáng dấp giống như lần đầu tiên gặp mặt, cho nên tớ nghĩ là có lẽ do quen nhau lâu rồi nên không còn cảm giác xa lạ nữa chăng..."
Tôi rụt rụt cổ, đưa tay sờ sờ sau gáy, thực ra chuyện này cũng không có gì đáng sợ cho lắm, những chuyện mà tôi và Bạch Dực đã trải qua, chuyện nào cũng có thể khiến anh chàng trước mặt này phải sợ tới phát điên. Chuyện nhỏ cỡ này tôi đã sớm miễn nhiễm rồi, ngược lại còn cảm thấy hơi... thất vọng, vì tôi chờ đợi một câu chuyện kinh dị hơn cơ. Tự nhiên lúc đó tôi đã nghĩ, hình như cậu chàng này nhiễm "Liêu Trai chí dị" quá nên tự cho mình là Ninh Thải Thần cũng không chừng.
Nhưng đôi mắt của Bạch Dực thì lại cực kỳ chăm chú nhìn thẳng vào người ngồi đối diện, anh ta càng nghe càng tỏ ra có hứng thú, đến mức dựa hẳn vào người tôi mà nghe không sót lời nào. Tôi có hơi ngạc nhiên, lại cảm thấy có phần ngại ngùng, định kiếm cớ nào đó đẩy anh ta đi.
Nhưng Bạch Dực đã lên tiếng trước: "Sau lại thế nào?"
Lục Tử càng suy nghĩ lung hơn, gương mặt quanh năm không đứng đắn bất ngờ lộ ra một vẻ âm khí lành lạnh, hắn nói: "Vì công tác đòi hỏi cho nên phòng ngủ của tớ nằm trong phòng làm việc luôn, để ăn uống ngủ nghỉ gì cũng có thể ở lỳ trong phòng làm việc mà tự lo được, có thể là do lần này lượng công việc quá lớn, mà từ khi gặp cô gái nọ, sức khỏe tớ cứ càng lúc càng kém đi, cho nên có một lần tớ phát sốt, tự nhốt mình trong phòng ngủ, định ngủ một giấc rồi dậy uống thuốc. Đang lúc tớ mơ mơ màng màng, tự nhiên có một bàn tay lạnh buốt sờ lên trán. Tớ giật nảy người, mở mắt nhìn lại thì thấy cô ta ngồi bên giường, vẫn mặc áo trắng tinh từ đầu xuống chân, tớ an tâm lại một chút, bảo cô ta là người có bệnh, cô ta cũng an ủi tớ, bảo tớ phải từ từ dưỡng bệnh. Thế nhưng ngay lúc đó tớ mới sực nhận ra một vấn đề! Đó là... tớ đã khóa cửa ngoài rồi cơ mà! Cô ta... làm sao mà cô ta vào được?! Mà từ trước tới giờ cô ta đã vào nhà tớ bằng cách nào?!"
Nói tới đây Lục Tử kích động tới mức nắm chặt hai tay: "Đột nhiên ý thức được điểm ấy rồi, tớ mới nhận thấy xung quanh cô ta toàn là những chuyện kỳ dị, da của cô ta quá trắng, trắng tới mức gần như trong suốt, cô ta lúc nào cũng im lặng nhìn tớ, nhưng lần này sự im lặng của cô ta làm tớ sởn cả gai ốc! Khóa nhà tớ là khóa Thụy Sĩ được đặt làm riêng theo yêu cầu, cho nên có thể nói chỉ cần tớ khóa cửa là cả căn nhà hóa thành một tòa pháo đài ngay, trừ phi cô ta là không khí, còn nếu không thì tuyệt không thể nào lẻn vào được, khả năng duy nhất đó là... cô ta vốn ở ngay trong nhà tớ, chưa bao giờ đi ra ngoài!"
Nói xong, Lục Tử run run rút từ trong túi áo ra một bao thuốc, rút ra một điếu, châm lửa rít mấy hơi thật mạnh, sau đó mới từ từ nhả khói như muốn tự trấn tĩnh, hắn đưa bàn tay giữ điếu thuốc lên dùng ngón tay cái day day trán: "Tớ nằm trên giường, mà cô ta chẳng nói một tiếng nào, chỉ dùng đôi tay lạnh như băng mà sờ lên mặt tớ, giây phút đó tớ sợ đến run người, chỉ muốn nhanh nhanh chạy ra ngoài thôi. Cô ta cảm thấy tớ muốn chạy, thế là mặt mũi bắt đầu vặn vẹo nhăn nhó, nước da trắng mịn tự nhiên trở nên khô vàng như củi vậy! Ánh mắt của nó cũng thoắt cái hóa thành ác độc, nó nhe răng ra, từ trong miệng nó chảy ra rất nhiều mực đen... vậy mà nó còn cúi xuống mặt tớ đòi hôn! Má nó ơi, tớ thét lên một tiếng! Lúc cái mặt nó ghé sát tới, tớ ném thẳng cái gối vào mặt nó. Ánh mắt nó càng trở nên oán độc hơn, hỏi tớ tại sao không thích nó, nó không đẹp sao! Tớ lúc đó nhìn nó chỉ muốn ói thôi, đẹp cái đầu ấy!
Nó càng tỏ ra tức tối hơn, lao tới người tớ, bóp chặt cổ tớ ghì xuống... mạnh tới mức không giống con người! Đầu lưỡi tớ hộc cả ra, lúc mắt tớ cũng sắp trợn trắng lên thì trong áo tớ rơi ra một viên cổ ngọc, là quà tặng ông chú tặng tớ lúc mới nhập môn. Nó nhìn thấy viên ngọc, lập tức giật người lên chạy ra ngoài.
Thế là tớ lảo đảo choàng dậy mặc quần áo, bỏ chạy luôn. Sau đó không dám về nhà nữa. Nói thật, bức tranh cổ kia tớ mới phục chế được có một phần ba! Sau đó tớ cứ như phát rồ, đi mua hết bùa này đến pháp nọ, chỉ mong con nữ quỷ đó đừng bám lấy tớ nữa!"
Tôi cúi đầu suy nghĩ, rốt cuộc là loại yêu quái gì thế nhỉ, nhưng suy nghĩ mãi vẫn không ra, đành ngẩng đầu lên nhìn Bạch Dực, chỉ thấy anh ta đang vuốt vuốt cằm, mắt nheo lại, cái nhìn mông lung, chứng tỏ đang suy nghĩ rất lung. Dù sao tài năng và năng lực của anh ta tôi rất tin tưởng, cho nên lúc này chỉ quan tâm tới Lục Tử đang bồn chồn ngồi đối diện mà vỗ vỗ vai hắn: "Lục Tử, huynh đệ nhiều năm không gặp, nhìn cậu hóa thành cái bộ dạng này tôi cũng không đành, vầy đi, bây giờ cậu về trước kiếm chỗ nào đó ở tạm. Chờ tớ... và anh Bạch Dực nghĩ ra cách rồi quay lại kiếm cậu sau?"
Lục Tử nghe tôi nói thế thì suýt khóc, vội vàng nói như cầu xin: "Đừng mà, Tiểu An! À không! Anh Tung! Nếu cậu giúp được thì mau mau cứu tớ đi! Nếu không đối phó xong với cái thứ đó thì bức tranh 'Tiệc vườn đào dưới trăng' của tớ tiêu mất, nếu tớ không hoàn thành nó đúng hạn thì từ nay không còn làm việc được nữa, danh dự cũng mất trắng đó!"
Tôi lườm hắn một cái, biết thế thì khoan nhận lời giúp vội. Nhưng dù sao cũng là bạn bè nhiều năm, trước đây còn sống cạnh nhau, cũng không thể nhìn người ta thân bại danh liệt. Vì thế ngẩng đầu quay lại nhìn Bạch Dực: "Lão Bạch, anh xem... thế nào?"
Lục Tử không hổ là làm gian thương lâu năm, thoáng liếc qua là biết ngay tôi không có ký lô nào, người quan trọng chính là Bạch Dực, lập tức thay đổi sách lược quay sang Bạch Dực cười cầu tài, còn kín đáo đưa cho anh ta một điếu thuốc: "Anh Bạch, vừa nhìn em đã biết anh là người có bản lĩnh mà, chỉ cần anh giúp em lần này, sau này em nhất định đền đáp xứng đáng mà, chỉ cần anh nói một câu thôi, thì Lục Tử này cho dù có lên núi đao xuống biển lửa cũng tình nguyện theo anh làm việc mà!"
Bạch Dực cầm lấy điếu thuốc sau đó nói với Lục Tử: "Bức tranh của cậu để ở đâu? Tôi muốn đến xem."
Hắn có vẻ hơi sửng sốt khi nhìn thấy vẻ hứng thú của Bạch Dực, nhưng rất nhanh chóng hoàn hồn: "Bức tranh còn để trong phòng làm việc của em, hai người có thể tới coi."
Bạch Dực mặc áo khoác vào, sau đó quay sang tôi: "Cậu có muốn đến xem luôn không?"
Tôi nghe thế liền gật đầu, OK, tôi đây cũng không còn nhát gan như hồi xưa nữa đâu nha, đi xem thì đi chứ, vì thế cũng vớ lấy cái áo khoác, sau đó phẩy phẩy tay nói: "Đi! Cùng nhau đi xem, xem có phải bức tranh thành tinh hay không!"
[1] Nguyên văn là "Trịnh Hòa hạ Tây Dương", là để chỉ chuyện Trịnh Hòa thời Minh phụng mệnh đi sứ sang các nước phía Tây bảy lần bằng đường biển, không chỉ nâng kỹ thuật hàng hải của Trung Quốc lên một tầm cao mới mà còn giúp đẩy mạnh quan hệ kinh tế, văn hóa giữa Trung Quốc và các nước châu Á khác. Từ năm 1405 đến năm 1433, ông đã mang theo hơn 240 chiến thuyền, 27400 binh sĩ và thuyền viên đến rất nhiều nước ở Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, được coi là một nhà hàng hải vĩ đại của thế giới.
[2] Một nhà sưu tầm cổ vật đời nhà Minh, tác phẩm chính là "Trang hoàng chí"
__________________________________
Trong này có nhắc đến nhiều vấn đề thuộc về thư pháp và thư họa, Lục Mịnh không tiện ghi chú từng phần một. Chỉ nói qua là Văn Trưng Minh, Trần Đạo Phục và Từ Vị đều là những thư pháp gia nổi tiếng của Trung Quốc. Đặc biệt là Từ Vị, được coi như một thiên tài điên, từa tựa như Van Gogh của phương Tây, bút pháp phóng túng mới mẻ, rất được coi trọng.
Còn dưới đây là "Mặc hoa", tác phẩm của Từ Vị được nhắc tới trong bài. Nói cho đúng, đây là tác phẩm thuộc thể loại "thư họa", tức là vừa có tranh vừa có thơ đề. Và nó cũng không phải là một bức tranh duy nhất, mà là một chùm tranh gồm nhiều bức, nhiều loại hoa.
|
Chương 23: Tiệc vườn đào dưới trăng (Trung) Thực ra căn phòng của Lục Tử trông rất bình thường, nhìn bên ngoài chỉ giống như hàng ngàn vạn căn hộ tiêu chuẩn khác khắp Trung Quốc. Hắn giải thích với chúng tôi: "Hai người không biết đấy chứ, những người sưu tầm buôn bán cổ vật như chúng tôi sợ nhất là phô trương để cho người ta biết, hay nhất là mình làm gì đừng có ai hay, bằng không không làm sao ngăn nổi trộm đạo cướp bóc. Phòng làm việc của cả công ty tớ tất cả đều nằm trong những khu dân cư bình thường, bề ngoài không thấy có gì đặc biệt, kỳ thực bên trong khóa kỹ như ngân hàng Thụy Sĩ vậy!"
Nói xong hắn rút ra một cái chìa khóa đặc chế, xoay qua xoay lại vài lần trong ổ khóa, mới mở được cửa, chúng tôi thò đầu vào nhìn thử, bên trong rất vắng lặng, có cảm giác lạnh lẽo khác thường, các cửa sổ đều đóng chặt, trong nhà u ám, rất có cảm giác của một ngôi nhà có ma.
Hắn đóng cửa lại sau lưng chúng tôi, cởi giầy, rồi mang chúng tôi vào thư phòng bên trong. Đây mới chính là chỗ làm việc chính yếu của hắn, trông còn rộng lớn và tiện nghi hơn cả phòng khách, trong góc là cái két sắt lớn, bên cạnh nó là một cái bàn làm việc rất rộng, trên bày đầy bút lông và nghiên mực, còn có những dụng cụ trông rất hiện đại tinh vi, ngay cả kính hiển vi cũng có, có thể thấy trong nghề này hắn là một tay chuyên nghiệp tới mức nào, nếu không thì cũng sẽ không được giao vào tay một tác phẩm của Từ Vị.
Hắn đeo một đôi bao tay giải phẫu vào, mang khẩu trang, đưa cả khẩu trang cho chúng tôi, rồi nhẹ nhàng mở két sắt lấy ra một cuộn tranh được bọc rất kỹ, sau đó cẩn thận bày nó ra trên một tấm bản gỗ (dùng để giữ tranh) mài nhẵn được phủ bằng một lớp véc ni đặc biệt.
Bức trang thực sự rất rách nát, trông giống như một bìa tàu hũ ki, Lục Tử nương nhẹ từng ngón tay mà từ từ mở nó ra. Mãi vài phút sau, cả bức tranh "Tiệc vườn đào dưới trăng" mới hoàn toàn lộ ra dưới con mắt của chúng tôi.
Cảm giác đầu tiên là bức tranh có một kết cấu cực kỳ khác thường, dưới tầng tầng tán hoa đào dày đặc, thấp thoáng nhìn thấy hai bóng người ngồi dưới trăng mà đối ẩm, một người đang đứng, ngẩng đầu nhìn ánh trăng, một người ngồi nâng chén rượu. Bố cục phóng túng, khí thế thoải mái, không câu nệ khung cách. Cái này cho dù có là hàng giả đi nữa thì cũng tuyệt đối là một tác phẩm thượng thừa!
Lục Tử vừa lúi húi vuốt vuốt phủi phủi bức tranh vừa giải thích sơ về nó cho chúng tôi nghe, tranh vẽ bằng giấy Tuyên Thành, cả bức tranh dài chừng 194 cm, bề ngang mép trên là 54 cm, mép dưới là 53 cm. Nhưng đã bị tổn hại hết sức nghiêm trọng, đặc biệt bị sâu mọt gặm gần hết, việc phục chế cực kỳ vất vả.
Bạch Dực nhìn chăm chú bức tranh hồi lâu, đột nhiên trong mắt hiện lên một tia sáng kỳ dị, anh ta chỉ vào người đang ngồi nâng chén hỏi chúng tôi: "Hai người xem, người này hình như đang nâng chén nói chuyện với một người thứ ba khác thì phải?"
Chúng tôi đều đổ dồn mắt vào bức tranh, quả nhiên, người đang ngầng đầu nhìn trời dường như đang ngâm thơ, nhưng người đang nâng chén kia quả thực không hề nhìn người đang đứng, mà là nâng chén hướng về phía rừng hoa đào, nét mặt cực kỳ nhu hòa, như đang mời rượu một người bằng hữu thân thiết nào đó vậy.
Tôi hỏi: "Lục Tử, trong bức tranh này còn có người thứ ba nào không?"
Lục Tử cắn môi, chậc chậc lưỡi hai cái, sau đó tỉ mỉ quan sát lại một lần, cuối cùng đáp: "Không, trong tranh quả thực chỉ có hai người, theo giám định thì dường như hai người này chính là Bạch Dương Thanh Đằng, tức là Trần Đạo Phục và chính Từ Vị đấy. Người lớn tuổi hơn đang ngẩng đầu ngắm trăng kia chắc là Trần Đạo Phục, còn người nâng chén rượu chắc hẳn chính là tác giả bức tranh, Từ Vị, Từ Văn Trường."
Tôi nhíu nhíu mắt nhìn chằm chằm bức tranh, cảm giác trong tranh thực sự còn một người thứ ba nữa, không phải là hai người đối ẩm, mà là ít nhất phải có ba người, mà có thể còn là rất nhiều người, cảm giác cực kỳ quỷ dị.
Nhìn vào tầng tầng hoa đào, chợt trong óc tôi nảy ra một ý, quay ra nói với hai người kia: "Hai người xem, Từ Vị đang nâng chén hướng về phía rừng đào, phải chăng đây chính là người thứ ba? Từ Vị bình sinh tiêu sái phóng tùng, lúc niên thiếu càng ngông cuồng thoải mái. Hai người nghĩ thử xem, có khi nào người ông ta đang nâng chén mời thực ra không phải người, mà chính là hoa đào hay không?"
Lục Tử nghe thế, hơi giật mình hói: "Vậy chẳng lẽ nữ quỷ kia không phải quỷ mà thực ra là tiên nữ hoa đào? Trong Liêu Trai không phải có rất nhiều chuyện trong tranh có tiên sao, vậy ra, ha ha, xem ra tớ lần này là đào hoa nha!"
Tôi nhíu nhíu mày, lạnh lùng cắt ngang: "Cậu cứ nghĩ là không phải quỷ thì không đáng sợ thật à? Nói cho cậu biết, yêu tinh quỷ mị vân vân đều có thể lấy mạng cậu đấy, cho dù hoa đào người ta có muốn kén cậu làm rể đi nữa thì e chỉ có nước chôn cậu dưới gốc cây của người ta thôi!"
Lục Tử vuốt mặt hì hì cười, nhưng chợt nụ cười của hắn đông cứng lại. Hắn run run chỉ ra cửa: "Hai người, lúc hai người tới... có ai mang giày vải màu đen không...?"
Tôi nghĩ thầm, thời buổi này là thời nào, không phải diễn hí kịch, có mang cũng phải mang giày da bình thường chứ? Tôi cũng theo tay hắn chỉ nhìn ra ngoài cửa, ngoại trừ mấy đôi giày của chúng tôi, quả nhiên còn có một đôi giày vải đen thêu rất khéo, chỉnh tề sắp bên cạnh. Tôi nhìn sang Lục Tử, trông hắn chẳng có vẻ gì là đang đùa cả, bèn thì thào vào tai hắn: "Lục Tử, hình như tiên nữ hoa đào tới tìm cậu rồi kìa..."
Hắn chạy vội ra cửa nhìn, sau đó sợ tới mức mặt trắng nhợt ra, quay lại nói với chúng tôi: "Hai vị, xin nghĩ cách giúp tôi mau đi, tôi thà chết chứ không lấy vợ quỷ đâu ~"
Bạch Dực rất bình tĩnh, chỉ chăm chú quan sát bức tranh rách nát trên bàn, tỉ mỉ xem xét từng phân từng phân một, mặc kệ chúng tôi nhốn nháo về đôi giầy đen trước cửa cũng không thấy anh ta ngẩng đầu lên, dường như đã sớm biết sẽ xảy ra chuyện này vậy, chỉ có chúng tôi thấp thỏm lo sợ.
Tôi vô thức xích lại gần Bạch Dực, kéo kéo tay áo anh ta mà nói: "Lão Bạch, ở đây có cái gì thật ấy, đừng nhìn tranh nữa, thử nhìn xung quanh xem!"
Bạch Dực bị tôi kéo kéo đành ngẩng đầu lên: "Cậu cho tôi là đạo sĩ hàng yêu thật đấy à? Cầm gương bát quái đi chiếu khắp phòng? Ít ra hiện nay cô ta còn không có hứng thú với chúng ta, hoặc là không có ý tấn công chúng ta, chúng ta lo lắng làm cái gì, dù sao tất cả vấn đề đều nằm hết trong bức tranh này rồi."
Lục Tử sợ tới mức cuống quít cả lên, hắn thấy chúng tôi cũng không biết phải làm sao, vì thế hấp tấp nói: "Vậy chúng ta nên đi ra thôi, thứ kia coi chừng còn ở trong nhà!"
Chưa để cho hắn kịp nói xong thì ngoài cửa đã nhoáng qua một cái bóng trắng, Lục Tử sợ tới mức run bắn lên trốn biệt vào sau lưng Bạch Dực, tôi cũng nuốt nước bọt đánh ực một cái, nhưng chỉ nghe thấy vài tiếng chân vội vã, đợi mãi cũng không thấy chuyện quái lạ nào phát sinh.
Lục Tử dường như đã tới cực hạn rồi, hắn mồ hôi lạnh đầm đìa, lắp bắp nói: "Chúng ta đi, đi thôi, đi ngay, tranh này tớ không sửa nữa. Ai muốn làm thì cứ, cứ làm, đây, đây chỉ muốn toàn mạng thôi!"
Bạch Dực lên tiếng cản Lục Tử, nhưng đôi mắt vẫn chỉ nhìn chằm chằm vào bức họa: "Nếu cậu tin chúng tôi thì để chúng tôi ở lại đây một đêm đi, chúng tôi nhất định có cách giúp cậu!"
Lục Tử còn chưa kịp đồng ý thì tôi đã nhảy dựng lên, cái gì! Căn nhà ma này mà đòi tôi ở lại?! Tôi lập tức chen vào: "Lão Bạch, anh thấy đấy, tôi không làm được cái gì giúp anh đâu! Tôi về trước đi. Ở đây chỉ cần mình anh là đủ rồi còn gì!"
Bạch Dực lắc đầu: "Đây là chuyện của bạn cậu, lẽ nào cậu muốn đổ hết lên người tôi?"
Lục Tử lập tức quay lại nhìn tôi, ánh mắt tội nghiệp năn nỉ, tôi nhìn căn nhà khắp lượt, trong ngực vẫn cứ phấp phỏng bất an. Lục Tử lập tức nói: "Tiểu An, chúng ta chẳng phải gần như là lớn lên bên cạnh nhau sao? Còn nhớ khi còn bé cậu làm vỡ kính cửa sổ nhà số 15, cuối cùng là tớ nhảy ra chịu thay cho cậu chứ ai! Còn nữa..."
Tôi lập tức bịt miệng hắn lại, nếu không thì dám hắn sẽ đem chuyện tôi lúc nhỏ bắt nạt cô bé ở tầng trên cũng lôi ra mà kể lể mất. Không còn cách nào khác, đã đụng phải hai vị ôn thần này thì chỉ còn cách liều mình bồi quân tử mà thôi. Tôi chán nản gật đầu: "Rồi rồi, coi như là tôi vì cậu mà làm vậy! Đừng có mang mấy chuyện lúc tôi còn nhỏ ra mà tỉ tê nữa!"
Bạch Dực nghe thế liền bật cười: "Quen cậu lâu vậy mà chưa thấy cậu nghĩa khí thế này bao giờ! Xem ra lúc còn bé cậu quả thực rất ghê gớm nhỉ?"
Tôi trừng mắt với anh ta, sau đó quay sang hỏi Lục Tử: "Chúng tôi ngủ đâu bây giờ? Chỗ cậu cả cái sô pha cũng không có, làm sao mà ngủ?"
Lục Tử thoải mái đáp: "Hì, đừng nói chỉ có hai người các cậu, có mà ba người tớ vẫn tiếp được như thường, lại đây!"
Nói xong dường như sực nhớ ra là ngoài hai chúng tôi quả thực còn một "khách không mời", hắn bèn ngậm tăm dẫn chúng tôi vào gian phòng ngủ bên cạnh, cách bố trí rất sang trọng, đặc biệt nhất chính là một cái giường khổng lồ trông có vẻ cực kỳ sang trọng, quả thực là cho dù có là ba người vẫn đủ chỗ lăn qua lăn lại thoải mái trên đó.
Tôi hỏi: "Sao phải mua cái giường gì mà lớn quá vậy?"
Hắn đáp: "Thì để dễ dàng hơn cho chuyện hàng ngày chứ sao..." Đột nhiên lại cười một cái rất tà, chết tiệt, tên khốn này hóa ra là thường đem gái về đây ngủ, bây giờ còn bảo chúng tôi cứ lên đó nằm? Tôi khinh bỉ nhìn hắn, hắn bèn ho khan vài tiếng, nhìn ra chỗ khác lảng tránh ánh mắt của tôi.
Đi qua lại chỉ cho chúng tôi vị trí của vài thứ cần thiết xong, Lục Tử chạy ra khỏi nhà như bỏ trốn, trước khi đi hắn còn nói: "Tớ đành phải nhốt hai người trong nhà khóa cửa ngoài, chìa khóa chỉ có mình tớ có, xin lỗi hai người. Chỉ vì mấy thứ trong nhà, nếu mất bất kỳ món nào thì tớ cũng chết!"
Lòng tôi sôi sục tức giận, tên khốn này còn dám nghi ngờ chúng tôi! Cái cuộn tranh nát như bã đậu của hắn, có trộm về cũng chỉ để vác nợ thôi chứ được cái gì! Nhưng Bạch Dực vẫn có vẻ hết sức tự nhiên, không hề khách khí mà pha một ấm trà Thiết Quan Âm, sau đó vừa uống trà vừa ngồi trong thư phòng đọc sách về tranh chữ.
Tôi cảnh giác nhìn bốn phía, muốn tìm vị trí của nữ quỷ kia, nhưng ngoại trừ tiếng Bạch Dực thỉnh thoảng lật trang sách, ngoài ra không còn động tĩnh nào khác. Cảm giác thật giống như trong tác phẩm "1408" của Stephen King[1], trong đó cảm giác kinh khủng nhất không đến từ sự uy hiếp của những thế lực bí ẩn, mà chính từ bầu không khí đầy áp lực lẫn cảm giác hoang mang sợ hãi không biết cái gì sẽ xảy ra tiếp theo.
Ngày hôm nay Bạch Dực có vẻ yên lặng bất thường, anh ta vốn đã không thích nói nhiều, hiện tại lại im như thóc, chỉ chăm chú uống trà đọc sách. Tôi bèn đến ngồi xuống bên cạnh anh ta, nói: "Lão Bạch, thứ kia có khi nào chỉ bám theo Lục Tử mà mặc kệ chúng ta không? Lúc nãy mới ồn ào là vậy mà Lục Tử vừa đi là yên tĩnh lại ngay?"
Bạch Dực rót cho tôi một ly trà rồi thủng thẳng nói: "Thực ra chuyện này có thể không nằm tại bức tranh, cũng không nằm tại nữ quỷ. Mà là nằm tại chính bản thân câu chuyện."
Tôi nghe anh ta nói như vịt nghe sấm, phải hỏi lại: "Nằm tại chính bản thân câu chuyện? Là cái gì?"
Anh ta nhấp một ngụm trà, sau đó đẩy kính mắt, nói: "Nói với cậu bây giờ cậu cũng không hiểu, dù sao cậu cũng chỉ cần nhớ ở bên cạnh tôi là được, đừng hỏi lung tung."
Tôi cảm thấy tức đến nỗi xém chút nữa là đập bàn hất đổ trà rồi, anh ta quả thực quá coi thường tôi đi, làm như tôi là một đứa vô dụng không làm gì nên hồn không bằng! Nói gì thì nói, tôi cũng theo anh ta vào sinh ra tử bao nhiêu lần rồi chứ bộ, cái gì mà còn chưa thấy qua?!
Anh ta không chịu nói, tôi cũng không thèm hỏi lại. Tôi liếc nhìn anh ta một cái, sau đó đứng lên vào phòng ngủ trước.
Trong phòng ngủ có máy vi tính, tôi mở máy lên mạng xem phim, lúc này đương nhiên tuyệt không phù hợp xem phim kinh dị... Bộ phim rất buồn chán, tôi xem một lúc thì bắt đầu gà gật... khi vừa nhắm mắt lại, tự nhiên cảm giác có ai đó khẽ chạm vào vai, rất nhẹ nhàng. Tôi tưởng Bạch Dực, liền bĩu môi hất vai ra, lúc này không phải là lúc làm hòa, ai bảo anh ta coi thường tôi làm chi!
Thế nhưng cảm giác đè nặng lên vai vẫn không mất đi, dần dần tôi cảm thấy rợn người... vì trên vai không phải là tay... mà là giống như một... cái đầu... Bạch Dực không thể nào dựa đầu vào vai tôi... tôi thuận tay sờ sờ... một gương mặt con gái, lạnh như khắc từ băng đá... tóc rất dài... dựa trên vai tôi. Tay tôi lập tức như bị điện giật mà rụt mạnh về, nhưng vẫn tiếp tục nhắm tịt mắt, không dám mở ra. Trọng lượng đè trên vai vẫn không hề giảm bớt, âm nhạc trong máy vi tính cũng tự nhiên thay đổi, biến thành một khúc nhạc xưa cực kỳ quái dị, văng vẳng tiếng tỳ bà ai oán, chỉ nghe bên tai tiếng ngâm nga khe khẽ bằng một thứ ngôn ngữ cổ xưa mà tôi không hiểu...
Tôi biết, có một người đang ghé đầu vào vai tôi... hay là... chỉ có cái đầu?!
Bạch Dực vẫn đang ngồi trong thư phòng, tôi không dám gọi anh ta, cổ họng run lên, đôi mắt vẫn nhắm thật chặt. Tiếng hát rất chậm rãi rất nhẹ nhàng, nhưng tôi hoàn toàn không có cảm giác cái đầu trên vai động đậy chút nào, tiếng hát dường như chỉ đơn giản là thoát ra từ cái đầu, giống như một cái hộp phát nhạc vậy. Miệng nó dán sát vào tai tôi, nên tiếng hát cứ như xuyên thẳng vào tai.
Bởi vì cũng đã từng trải qua quá nhiều chuyện, nên lúc này tôi lập tức nghĩ ra cách nếu không thể hét lên thì phải làm sao tạo ra được âm thanh để đánh động Bạch Dực ở phòng bên cạnh biết là tôi đang gặp chuyện, vì thế tôi cắn răng thả người cho cơ thể rơi tự do xuống khỏi ghế, vai đập một cái "rầm" xuống sàn nhà, cả người tôi nhất thời tê dại đi. Cũng may cái ghế rơi xuống đất, vang lên một tiếng rất to.
Tôi cắn chặt răng rên lên vì đau, nhưng vẫn nhất quyết không mở mắt ra, chỉ nghe bên tai một tiếng thở dài rất nhẹ, tôi cảm giác thứ kia dường như đã đi, sau đó là tiếng bước chân vội vã của Bạch Dực. Khi một đôi tay mạnh mẽ vươn tới đỡ nửa người tôi lên, tôi liền từ từ mở mắt, nhưng... rơi vào mắt tôi là một gương mặt tóc tai bù xù che khuất cả gương mặt, cả mặt bị chôn vùi trong mớ tóc không biết là nam hay nữ, chỉ cảm thấy cực kỳ gầy yếu. Mắt tôi hoa lên, sợ tới mức hét lên một tiếng, đẩy bật kẻ kia ra mà ù té chạy tới cửa, vừa đúng lúc Bạch Dực đi vào, cả người tôi liền húc thẳng vào anh ta. Tôi không dám quay lại, chỉ đưa tay run rầy chỉ vào trong phòng: "Quỷ, quỷ, thật là quỷ đó!!!"
Bạch Dực vỗ vỗ lưng tôi: "Trong phòng không có gì hết." Từ từ mở mắt ra nhìn lại, quả thật không có ai. Cái ghế ngã chỏng chơ trên đất, máy vi tính vẫn tiếp tục phát bộ phim tình cảm nhàm chán. Bản nhạc xưa đã biến mất. Vậy thứ kia đã tới bằng cách nào nhỉ?
Tôi sợ tới mức phát sặc, vừa ho khụ khụ vừa ra sức hít thở, Bạch Dực đỡ tôi về thư phòng, tôi mới từ từ bình tĩnh lại được, nhưng hai chân cứ run run không kiềm nổi. Lúc này mới thấy tôi coi thường Lục Tử, chế nhạo hắn là nhát gan, nhưng thực ra tôi cũng chẳng hơn gì được người ta.
Vì vậy tôi cũng ngoan ngoãn lại, an tĩnh ngồi chờ bên cạnh Bạch Dực. Dù sao ngẫm lại, tất cả những chuyện trước giờ gặp phải, đâu có chuyện nào thực sự tự giải quyết được đâu, toàn là nhờ tới Bạch Dực ra tay phút cuối, quả thực không có tư cách giận anh ta. Lòng tin vừa được bơm phồng không được bao lâu thoáng chốc đã xẹp xuống, tuy uất ức vì bản thân quá yếu đuối, nhưng cuối cùng thì nỗi sợ đã chiến thắng toàn bộ sĩ diện. Bạch Dực xem sách một lúc, sau đó thở dài một cái, dường như cảm thấy sự buồn bã của tôi mà hạ sách xuống nói: "Thực ra chỉ vì tôi không muốn đợi một mình, có thêm cậu thì dễ chịu hơn mà thôi."
Tôi ngạc nhiên hỏi lại: "Lão Bạch, anh cũng sợ quỷ sao?"
Anh ta lắc đầu, nhìn tôi trả lời: "Đôi khi, cô độc một mình còn đáng sợ hơn cả quỷ. Cái cảm giác bị mọi người quên lãng chính là thứ cảm giác dễ sợ nhất."
Tôi ngơ ngác nhìn, trong lòng tự hỏi lão Bạch đã trở thành nhà thơ từ lúc nào? Tôi đành vỗ vỗ vai anh ta nói: "Yên tâm, anh đẹp trai như vậy, lại có bản lĩnh, cảm giác tồn tại mạnh hơn tôi nhiều!"
Anh ta cười cười đứng lên, tôi thấy anh ta muốn đi, cũng vội vàng đứng bật dậy định theo, nhưng anh ta nhẹ nhàng nói: "Tôi chỉ đi đổi quyển sách khác đọc mà thôi, cậu muốn xem sách gì không?"
Tôi bối rối ngồi xuống ghế, liếc nhìn anh ta, anh ta liền đưa cho tôi một cuốn sách: "Trước hết đừng vào phòng ngủ, bỏ lên mạng đi, đọc cái này, là tiểu thuyết đời Đường đấy, có khi làm cậu có hứng thú."
Cuốn sách này tôi đã xem qua lúc còn đang học đại học, triết lý dễ hiểu, những bài học đưa ra rất gần gũi, năm đó là do một người bạn học khoa Văn học vứt lại trên giường tôi, cho nên lúc không có chuyện gì làm tôi cũng mở ra xem.
Ở giữa có một câu chuyện kể về hoa đào, kể lại chuyện một nhà thơ nổi tiếng đời Đường là Thôi Hộ, một ngày kia đi qua Nam trang ở Đô Thành, vô tình nhìn thấy dưới tán hoa đào một nữ tử dung mạo cực kỳ xinh đẹp. Ông đem lòng yêu nàng, nhưng lúc đó còn đang bận công danh nên đành đi gấp. Sau đó ông đỗ tiến sĩ, nhận chức quan Tiết Độ Sứ Lĩnh Nam, vì thế quay lại chốn xưa muốn tìm người con gái năm nào, nhưng dưới gốc hoa đào năm ấy nay chỉ còn thấy một lá cờ tang trắng toát mà không còn cô nương xinh đẹp dưới hoa nữa. Sau này mới biết, người con gái ấy không sống tới lúc đợi ông trở về đã sớm hương tiêu ngọc vẫn.
Vì lẽ đó, Thôi Hộ mới viết nên bài thơ lưu truyền thiên cổ: Khứ niên kim nhật thử môn trung. Nhân diện đào hoa tương ánh hồng. Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong.
Bạch Dực nghe tôi khe khẽ ngâm bài thơ này, đột nhiên ghé sát tới hỏi: "Lúc nãy vừa ngâm cái gì thế?"
Tôi nói cho anh ta biết về bài thơ "Đề Đô Thành Nam trang" và điển tích của nó, anh ta chợt gật mạnh đầu, quay trở lại bên bàn làm việc.
Lục Tử lúc nãy bỏ chạy rất vội vàng nên chưa kịp cất bức tranh đi. Bạch Dực cầm lấy kính lúp, chăm chú quan sát lại bức tranh một lần nữa thật tỉ mỉ.
Sau đó, anh ta chậm rãi buông kính lúp xuống, nhìn tôi mỉm cười: "Xem ra bản lĩnh ăn may của cậu đúng là khó ai bì kịp đấy!"
Tôi tự nhiên được khen một câu chẳng đâu vào đâu, đầu tiên là theo phản xạ cười hì hì, nhưng sau đó càng nghĩ càng thấy khó hiểu: "Rốt cuộc chuyện này là sao vậy?" Anh ta vui vẻ nói: "Cứ chờ tới tối, cậu tự hỏi 'cô ta' là biết ngay ấy mà!"
Tôi trừng mắt lườm anh ta, hỏi, có mà hỏi cái đầu anh ấy! Nếu có gan thì anh cứ nhìn thẳng vào gương mặt bù xù đó của nó mà hỏi xem, cô em định ở chỗ này chờ ăn cơm tất niên sao, coi chừng tên Lục Tử kia không chịu cho ăn ké đâu...
Nhắc đến ăn chúng tôi mới chợt cảm thấy đói, đã tới giờ cơm tối rồi. Trong tủ lạnh nhà Lục Tử có rất nhiều đồ ăn, hắn là một kẻ ăn xài hoang phí, những kẻ buôn bán cổ vật và tranh hiếm như bọn họ kỳ thực rất giàu có, vì chỉ cần bán được một món hời thôi là có thể ăn nhiều năm rồi. Cái này gọi là ba năm không làm việc, làm việc ăn ba năm.
Bạch Dực xào một chảo mì, nấu một bát canh rồi đuổi tôi ra ngoài. Nhưng căn nhà lúc này quá ư quỷ dị, tôi không dám rời anh ta một tấc, cho dù anh ta đi toa lét cũng nhất quyết đòi đi theo.
Phòng ngủ trở thành khu vực cấm, Bạch Dực không hề ghé mặt vào đó lấy một lần, máy vi tính bên trong vẫn cứ mở, bộ phim đã chiếu hết từ lâu, gian phòng tối mò mò chỉ có ánh đèn màn hình vi tính lấp lóe như trêu ngươi. Yên lặng, yên lặng đến kỳ quái. Không có bất kỳ chuyện quái dị nào. Chỉ có đôi giày vải đen thui ngoài cửa vẫn lẳng lặng xếp đó, nói cho chúng tôi biết "vị kia" vẫn còn ở trong nhà.
Trời nhanh chóng tối sầm lại, tôi vội vàng đi mở hết đèn trong nhà lên, toàn bộ thư phòng trong nháy mắt sáng rỡ lên dưới ánh đèn huỳnh quang trắng lóa. Lúc này tôi mới chú ý đến một bức tranh mỹ nữ treo trong góc phòng rộng chừng vài tấc, ánh mắt của cô gái trong tranh dường như tự tiếu phi tiếu, đôi lúc còn có cảm giác là cô ta đang... nhìn tôi nữa.
Tôi giật mình nghĩ: tên khốn Lục Tử này, sao lại không treo tranh thần Chung Quỳ hay tượng phật gì đó mà lại treo cái thứ quỷ này!
Bạch Dực buông cuốn sách thứ năm xuống, vẻ mặt vẫn bình tĩnh thoải mái cứ như dẫu cho trời có sập xuống cũng vẫn có thể chống đỡ, vì thế tôi hi vọng hỏi: "Anh có phải biết cách trừ con quỷ này rồi phải không? Nếu biết thì làm mau mau đi rồi về nhà, khỏi cần ở lại đây qua đêm mà!"
Anh ta uống thêm một chén Thiết Quan Âm đã pha đến loãng, nhíu nhíu mày trả lời: "Cô ta không chịu ra, theo cách Lục Tử nói thì có lẽ chỉ khi nào ở một mình mới có thể gặp cô ta mà thôi. Nói cách khác là chỉ khi nào chúng ta không phòng bị, hay là khi ở một mình thì cô ta mới ra. Nhưng theo lời cậu kể lúc nãy thì không thể chờ lâu hơn được nữa, chờ nữa cô ta sẽ tích tụ thêm oán khí càng lúc càng sâu, cuối cùng hóa thành lệ quỷ, lúc đó thì chỉ uống trà đọc sách như chúng ta bây giờ tuyệt không phải là đối thủ của cô ta."
Nói xong, anh ta lại quay lại cuốn sách mới lấy trên tay. Tôi ngoan ngoãn ngồi bên cạnh anh ta, cảm nhận bầu không khí càng lúc càng yên tĩnh một cách quỷ dị, những suy nghĩ trong đầu cũng càng lúc càng hỗn loạn. Tôi nhéo nhéo mũi, soát lại toàn bộ vấn đề từ đầu đến cuối.
Trong bức tranh có quỷ, nhưng Bạch Dực nói chuyện này không phải tại bức tranh, cũng không phải tại con quỷ, mà là tại bản thân câu chuyện nó như thế. Tôi quả thực không hiểu nghĩa câu nói này. Thực ra nếu bức tranh không có quỷ thì nó cũng chỉ là một bức tranh bình thường mà thôi, nhưng sau khi đã phát hiện bí mật kỳ lạ ẩn sau nó rồi, thì tự nhiên cảm thấy cả bức tranh cũng dường như lạ lùng hẳn lên, như thể đang ẩn chứa một bí ẩn nào đó chờ được công bố vậy. Nếu Từ Vị thực sự đang mời hoa đào uống rượu, vậy phải chăng ông ta có quen biết yêu tinh hoa đào này? Mà lại còn là bạn thân thiết là đằng khác. Còn nếu Từ Vị không phải đang mời hoa đào, vậy thì người thứ ba trong tranh là ai? Chuyện này có quan hệ gì tới chuyện bây giờ?
Trong đầu tôi nảy ra hàng loạt câu hỏi, mỗi lúc mỗi khó trả lời hơn.
Đang khi âm thầm suy nghĩ, chợt bả vai bị ai đó vỗ mạnh một cái, tôi giật nảy người nhìn lên thì thấy Bạch Dực đã đứng lên từ lúc nào, chỉ chỉ vào phòng ngủ mà nói: "Tới giờ đi ngủ rồi."
Tôi nhìn anh ta, rồi lại nhìn lại gian phòng u ám như một vùng cấm địa kia mà lắc đầu quầy quậy: "Không đi không đi! Có thể thứ kia còn ở trong đó, làm sao tôi ngủ được với nó?"
Bạch Dực ngáp một cái, vẫy vẫy tay: "Vậy cứ chờ ở đây đi nhé, tôi đi ngủ trước. Hôm nay cũng mệt quá rồi."
Nói xong lập tức đi thẳng vào phòng ngủ, tôi ngồi phía sau ấm ức hừ một tiếng, nhưng rồi lại vô thức liếc nhìn qua bức tranh mỹ nữ treo trên tường, tự nhiên cảm thấy sống lưng gai gai lạnh. Nhớ tới lời Bạch Dực bảo con quỷ chỉ xuất hiện khi nào có người ở một mình, tôi lập tức bật dậy lật đật chạy theo sau anh ta.
|