Thất Gia
|
|
Chương 3: Người xưa còn đó Người xưa còn đó
Thanh âm đó dù có hóa thành tro y cũng chẳng nghe lầm. Một tiếng "Hách Liên Dực" bâng quơ của Bạch Vô Thường bên bờ Vong Xuyên không khuấy động được gì trong lòng y cả, bao nhiêu năm đã trôi qua, cộng thêm việc bản thân cố gắng quên đi, cái tên ấy đã bị chôn vùi ở nơi sâu nhất trong ký ức, thiếu chút nữa không đào được lên. Song, y vẫn nhớ như in thanh âm của người đó, vẫn nhớ những hành động nhỏ của người nọ, vẫn nhớ vài ba thói quen của hắn, như khi đặt ngón tay lên trán y, hắn nhất định sẽ không dằn lòng được mà gạt tóc y sang hai bên. Những thứ ấy dường như đã cắm rễ thật sâu, vào tận trong xương tủy y. Có đôi khi Cảnh Thất nghĩ rằng, kỳ thực nếu không có cuộc dây dưa vướng mắc không chết không thôi cùng Hách Liên Dực ngày đó, chắc cũng sẽ chẳng có một Thất gia ngồi bên đá Tam Sinh ròng rã sáu mươi năm trời. Nghiệt duyên, cũng giống như ra đường gặp phải phân chim vậy, ngươi tìm đủ trăm phương ngàn kế muốn tránh thoát, vắt óc suy nghĩ cách đề phòng, song nhất định sẽ có một con chim không biết từ nơi nào bay tới, tập kích bất ngờ, một cục phân chim vẫn cứ nhắm chuẩn trúng đầu ngươi, không sớm thì muộn rơi tõm xuống, từ đó trong lòng ngươi sẽ cảm thấy vận xui bám theo mình như hình với bóng. Cảnh Thất thầm thở dài một tiếng trong lòng, y biết ban nãy khi bản thân bị Bình An làm giật mình thức giấc thì nhịp thở đã thay đổi. Y cũng không muốn làm bộ làm tịch nữa, liền mở mắt ra. Cứ như thế một bóng thiếu niên tràn vào trong mắt. Hắn chỉ mới hơn mười tuổi, thế nhưng vóc người lại tựa cây ngọc cành lan. Cảnh Thất thầm nghĩ, chỉ là Hách Liên Dực này, quả thực...còn "non" quá. Thiếu niên kia thấy y đã tỉnh, vẻ tức giận trên gương mặt biến mất trong chớp mắt, vội cúi người xuống, mềm giọng hỏi: "Ngươi sao rồi, có thấy khó chịu chỗ nào không?". Một kiếp làm người, trông thấy kẻ mà năm xưa mình từng yêu say đắm, cũng từng làm mình tổn thương sâu sắc, trong lòng y nhất định sẽ dâng trào biết bao nỗi niềm, kéo dài không dứt, chỉ hiềm thời gian đã trôi qua đến mấy trăm năm. Giờ này Cảnh Thất gặp lại hắn, cũng chỉ thấy đôi chút bất ngờ, không phản ứng kịp. Y nghĩ, thì ra bộ dạng Hách Liên Dực là thế này ư? Tại sao...y lại thấy xa lạ đến thế. Hách Liên Dực thấy y ngẩn người không nói, cho rằng y đã sốt đến hồ đồ, liền cẩn thận đưa tay sờ trán y lần nữa. Hắn chau mày, quay đầu lại nói với hạ nhân: "Thuốc còn chưa được hay sao? Cứ để hắn sốt thế này thì đầu óc sẽ hỏng mất". Cảnh Thất nghĩ, đầu óc ta vốn đã có chút vấn đề rồi, lần này đằng nào cũng bị sốt thêm phen nữa, nên cứ để mọi thứ thuận theo lẽ tự nhiên vậy. Y hoàn hồn lại, đột nhiên phát hiện tình cảnh bây giờ là lão đại đang đứng, y lại nằm, tức thì cảm thấy không thoải mái. Y gắng gượng ngồi dậy, nuốt nuốt nước bọt làm trơn cổ họng, sau đó mở miệng nói: "Thái tử điện hạ...". Hách Liên Dực vội vàng đỡ y nằm trở lại giường, bật cười mà nói: "Lần này ngươi ốm một trận, ngược lại học được thêm nhiều lễ nghi rồi, cứ nằm đó, đừng cử động". Đương kim hoàng thượng có một vài tật xấu nói lớn không lớn nói nhỏ cũng chẳng nhỏ, ví như thỉnh thoảng nghĩ ra cái gì là làm luôn cái ấy, ví như dăm ba ngày lên cơn gàn dở, ví như năm ấy hoàng thượng cao hứng mà khăng khăng lập đích không lập trưởng*, con út Hách Liên Dực vừa ra đời liền hạ chỉ, muốn lập cục thịt đỏ hỏn còn chưa đầy tháng ấy làm thái tử, lại ví như vài chục năm sau đó, ngày nào cũng giống ngày nào, hoàng thượng ném vị thái tử mình tự tay lập lên sang một bên, chưa từng đả động đến. Nói một câu bất kính, thì là chỉ sợ sự hiện diện của thái tử điện hạ còn thua cả con sáo lão nhân gia nuôi trong thượng thư phòng. *Đích tử là con trai do vợ cả sinh ra. Trưởng tử là con lớn tuổi nhất. Lập đích mà không lập trưởng là một trong những cơ chế kế thừa vương vị. Trong đó có quyền ưu tiên thừa kế thuộc về con của hoàng hậu, người con trưởng dù lớn tuổi nhất nhưng nếu là con của tần phi thì không được kế vị. Hơn nữa ở bên Hách Liên Dực còn có hai vị huynh trưởng như lang như sói, nhị hoàng tử Hách Liên Kỳ lớn hơn hắn đến mười tuổi, lão đại Hách Liên Chiêu lại càng đủ lông đủ cánh từ lâu, chẳng ai để một gã thái tử "hờ" là hắn vào trong mắt, đều nghĩ rằng hắn chỉ là một trò cười hoàng thượng tạo ra sau những giây phút "Chim anh vũ làm đại tướng quân", "Nàng dâu làm thái sư" với "Tiên sinh kể chuyện rong lên làm tể tướng" mà thôi. Chỉ có mình thế tử Nam Ninh vương Cảnh Bắc Uyên được nuôi dưỡng trong cung từ nhỏ là thân thiết với hắn. Cảnh Bắc Uyên tuổi còn nhỏ, không có phụ mẫu chỉ dạy từ bé đã quá quen với những hành vi khác người của hoàng bá phụ, cũng bị tiêm nhiễm không ít tật xấu của con người mặc hoàng bào mà hoang đường bậc nhất thiên hạ ấy. Y cùng Hách Liên Dực tuy rằng thân phận khác biệt tính tình lại càng theo kiểu "kèn thổi ngược, trống đánh xuôi", song lại có điểm chung là đều cùng cảnh có mẹ sinh ra, không cha nuôi dạy. Hách Liên Dực thở dài một tiếng, giắt lại chăn cẩn thận cho y, nhẹ nhàng vỗ về tựa như dỗ dành trẻ nhỏ: "Những lời này vốn dĩ ta không nên nói. Ngươi cũng đừng thương tâm quá làm gì, lần này lão vương gia đi rồi, đối với ông ấy thực ra cũng là giải thoát, lo liệu xong tang sự thì cùng về cung với ta, cuộc sống vẫn tiếp diễn như xưa thôi". Cảnh Thất không lên tiếng, chỉ lẳng lặng nhìn gương mặt nghiêng của thiếu niên thật kỹ. Lúc này hai người đều trong cảnh bơ vơ, không có ai nương tựa, lớn lên bên nhau từ tấm bé, tình cảm không thể nói là không sâu nặng, thế mà lại rơi vào cảnh sống không thấy mặt chết chẳng gần nhau. Cảnh Thất kinh ngạc phát hiện ra, thứ tình cảm đan xen yêu hận, bỏ thì thương, vương thì tội khi đờ đẫn ngồi chờ người này bên bờ cầu Nại Hà năm đó thình lình chập chờn thoáng chốc rồi biến mất tăm, trong lồng ngực chỉ vương lại một khoảng trống trơn. Hách Liên Dực thấy y mở to đôi mắt vì sốt cao mà hơi ươn ướt, bộ dạng mê man, không khỏi vươn đầu ngón tay điểm nhẹ lên trán y: "Bắc Uyên à?". Cảnh Thất chớp mắt: "A...Ừm, thần biết rồi". "Ngươi biết cái gì nào?", Hách Liên Dực dở khóc dở cười, đúng lúc này Bình An bưng bát thuốc tiến vào, hắn tiện tay đỡ lấy, bảo Bình An đứng ở một bên, sau đó đích thân đỡ Cảnh Thất dậy, muốn bón thuốc cho y. Thân thể của thiếu niên nhích lại gần, mang theo một làn hơi ấm, Cảnh Thất còn chưa kịp nghĩ ngợi cẩn thận đã vô thức muốn tránh né, không kìm được mà lùi lại phía sau một chút, toàn thân đổ sụp xuống, giơ một cánh tay lên chắn trước người. Làm xong động tác ấy y mới nhớ ra lúc này bản thân và Hách Liên Dực còn chưa trở mặt, đang trong giai đoạn thiếu niên thân thiết với nhau, tư thế phòng thủ chặt chữ như thế quả thực không ổn. Y chỉ cảm thấy bộ não của bản thân bị cơn sốt làm cho choáng váng, những thứ bên trong cứ nhão nhoẹt cả ra, ký ức kiếp trước và tình huống kiếp này hòa thành một khối hỗn độn. Hách Liên Dực thấy thế cũng không nghĩ gì nhiều. Hắn thấy mặt y trắng bệch, rụt lùi lại phía sau như thế thì cứ nghĩ là y không muốn uống thuốc, liền cưỡng chế kéo y lại, cười bảo: "Trốn cái gì mà trốn? Đã từng này tuổi rồi còn sợ uống thuốc ư?". Cảnh Thất mau chóng "tát nước theo mưa", vội vàng chưng ra vẻ mặt sợ đắng không muốn uống, mắt liếc nhìn bát thuốc đen sánh, rồi lại ngẩng đầu trông Hách Liên Dực, tiếp tục lùi ra đằng sau. Hách Liên Dực cúi đầu, nhấp thử một ngụm thuốc nhỏ, sau đó quay sang nói với Bình An: "Đi bưng một ít mứt hoa quả đến đây cho chủ tử nhà ngươi". Chẳng biết vì sao, Bình An lại thấy sợ vị thái tử điện hạ đối với ai cũng dịu dàng hòa nhã này từ tận đáy lòng. Hắn không dám nói lời thừa, vội vàng thưa một tiếng, sau đó bưng mứt hoa quả đặt trên chiếc bàn nhỏ tới. Hách Liên Dực dỗ dành Cảnh Thất: "Ta đã nếm thử rồi, không đắng đâu, chỉ có mấy ngụm thôi mà, uống xong sẽ cho ngươi ăn mứt hoa quả, có được không nào?". Toàn thân Cảnh Thất tức khắc nổi da gà, nhất thời hiểu ra cái gì gọi là "Tâm vì thân mà lụy"*, y lẳng lặng cầm lấy bên còn lại của bát thuốc, kề tay của Hách Liên Dực mà nuốt xuống. Y và Hách Liên Dực nói chuyện với nhau một lát, câu được câu không, hơn phân nửa là Hách Liên Dực khuyên nhủ, bóng gió xa gần, Cảnh Thất thì lòng mang ý khác, ứng phó cho qua. Trong thuốc có một số thành phần giúp người ta ngon giấc, uống xong chẳng bao lâu, y đã cảm thấy mi mắt bắt đầu nặng nặng, Hách Liên Dực ngồi bên giường, nhẹ giọng bảo: "Ngươi ngủ đi, ta nhìn ngươi ngủ rồi sẽ đi sau". *Nguyên văn là "Tâm vi hình địch": Hình là hình thể, thân thể. Ý câu này có nghĩa là tâm hồn bị cuộc sống, công danh, lợi lộc...thúc ép, trở thành nô lệ cho thân thể. Hình dung một con người không được tự do về mặt tư tưởng, phải làm những chuyện trái với ý muốn của mình. Câu này có xuất xứ từ bài Quy khứ lai từ của Đào Tiềm Đào Uyên Minh đời Tống. Nguyên văn câu này là "Ký tự dĩ tâm vi hình dịch, hề trù trướng nhi độc bi" (Tạm dịch: Đã để tâm vì thân mà lụy, cớ sao còn than vãn sầu bi?). Ý ông muốn đề cập đến việc bản thân không muốn ra đời làm quan, thế nhưng vì cảnh cơ hàn đói khổ, đã phải cắn răng phục vụ triều đình.
Thế là Cảnh Thất liền nghe lời mà nhắm mắt, bên tai chỉ nghe được một tiếng thở dài. Đương nhiên y biết vì sao Hách Liên Dực lại thở dài, hoàng hậu sớm qua đời, hoàng thượng thì cái gì cũng có hứng thú, chỉ trừ việc trị quốc, đại hoàng tử và nhị hoàng tử xem công cuộc "nồi da xáo thịt" là niềm vui và sự nghiệp cả đời, đám đại thần khi đấu đá lẫn nhau thì kẻ nào kẻ nấy tài cán khôn ngoan, đến lúc bắt tay làm việc thì lại một chín một mười về cái sự "bùn nhão không đắp nổi tường", trình độ ăn hại quả thực khiến người ta trăng trối nghẹn lời, không đành lòng nhìn tiếp. Nếu Hách Liên Dực thật sự lễ độ ôn hòa, yếu mềm khiếp nhược như những gì hắn thể hiện bên ngoài thì cũng đành thôi, chỉ hiềm lại không phải vậy. Chẳng có người nào hiểu rõ hơn Cảnh Thất, rằng trong lòng người này chỉ canh cánh nghĩ về giang sơn, hắn là người vừa sinh ra đã định sẽ đăng quang đến những đỉnh cao tột bậc, rung chuyển càn khôn. Thậm chí có khi Cảnh Thất còn nghi hoặc, rằng không biết cái vị hoàng thượng mà sở thích lớn nhất cuộc đời chính là nghe con súc sinh toàn lông với lá trong thượng thư phòng mắng chửi đám quần thần văn võ trong triều một lượt kia đã "ngủ gật điểm tên", nên mới lập được một vị thái tử như thế. Trong phòng lặng yên không tiếng động, thoang thoảng mùi hương nhàn nhạt tỏ ra từ người Hách Liên Dực, Cảnh Thất mơ màng một chốc, sau đó bất chấp tất cả mà ngủ thiếp đi, đến khi trời nhập nhoạng mới bị Bình An lay tỉnh, toàn thân đổ mồ hôi, cơn sốt đã hạ, người cũng tỉnh táo hơn một chút. *** Hôm đó là đêm giỗ đầu của lão vương gia, khách đến thăm đều đã có người lo liệu chu toàn. Lúc này khách khứa đều đã ra về cả, vị nhi tử hiếu thảo phải đi trông coi linh đường, Cảnh Thất tắm rửa qua loa một lượt xong liền lảo đảo đứng dậy, Bình An muốn đưa tay ra đỡ, Cảnh Thất chỉ xua tay: "Không cần, ta không sao, lo việc dẫn đường của ngươi đi". Trong linh đường phảng phất một luồng khí âm u, ngoài cửa treo đèn lồng trắng lớn, gió thổi ngang qua liền khẽ lung lay, tựa như dẫn thẳng tới cõi âm ty địa ngục, lão quản gia đã chờ trong đó từ sớm, chuẩn bị sẵn những thứ như giấy, hương thơm, nến lớn. Thấy y đến, lão liền gọi người mang áo lông cáo tới, để y khoác ban đêm, Cảnh Thất đã từng đầu thai làm cáo, phải chịu nỗi khổ bị rút gân lột da, vừa trông thấy vật ấy đã chán ghét vô cùng, rồi lại không tiện làm lão quản gia bẽ mặt, y chỉ hơi chau mày lại, vẫn ngay ngắn đứng yên để đôi tay run rẩy của lão quản gia choàng áo lên người. Sau đó y thò bàn tay nhỏ ra, len lén cào mấy cái trên áo, trong lòng nói: Người anh em phải chịu khổ rồi, đêm nay ta sẽ đốt thật nhiều tiền vàng, cho ngươi một phần, nhớ cầm cho cẩn thận, xuống dưới ấy cũng lo lót một phen, kiếp sau đừng sinh ra trong bộ lông này nữa. Lão quản gia kéo bàn tay nhỏ của Cảnh Thất, dẫn y tới trước linh vị, cúi người nói: "Tiểu vương gia, cậu dập đầu lạy lão vương gia một cái đi, từ nay về sau tòa vương phủ này phải do cậu gánh vác rồi". Gương mặt lão nhân lộ ra vẻ bất đắc dĩ của người đã bước vào cái tuổi gần đất xa trời. Cảnh Thất nương theo tay của lão mà quỳ xuống, ngoan ngoãn lạy vị phụ vương mà mặt mũi tròn méo ra sao y đã quên bẵng từ lâu. Đầu Thất là ngày mà các linh hồn du đãng trở về từ biệt, Cảnh Bắc Uyên không biết lão già chỉ một lòng đuổi theo hình bóng thê tử mà chẳng nhớ trên nhân gian mình vẫn còn một nhi tử, cũng chẳng biết bản thân hôm nay đã trở lại dương gian, có còn trông thấy được quỷ quái chốn âm ty, trong lòng lại thấy có chút nhớ nhung. Tuy nói không có tình cảm gì, song hôm nay được sống lại một lần, gặp lại một vài người xưa cũ, suy cho cùng...cũng là chuyện tốt. Đúng vào lúc này, một gã gia đinh bước vào bẩm báo, nói có Bình Tây đại tướng quân đến thăm, lão quản gia liền đưa mắt nhìn Cảnh Thất, Cảnh Thất thoáng ngẩn người, sau đó vội bảo: "Mau mời vào". Trong lời nói lộ rõ vài phần kích động. Khi còn sống, lão vương gia không có nhiều bằng hữu, vị Bình Tây tướng quân Phùng Nguyên Cát này chính là một trong số đó, tính ra Cảnh Thất còn phải gọi ông ấy một tiếng "sư phụ", mấy đường võ mèo cào của y chính là do Phùng đại tướng quân chỉ bảo cho. Chỉ lát sau, một vị hán tử cường tráng tiến vào, sải bước như bay, Bình An theo sát phía sau, nửa đi nửa chạy. Cảnh Thất biết tính Phùng Nguyên Cát không câu nệ, thấy ông cũng không hành lễ, chỉ nở một nụ cười mang vài phần ảm đạm - y nhớ rất rõ ràng, thọ mệnh của Phùng Nguyên Cát đã sắp tới đoạn kết. Phùng Nguyên Cát lại cứ nghĩ là do phụ thân y mới mất, ông thở dài một hơi, sau đó vươn bàn tay to tựa phiến quạt hương bồ xoa đầu y, nói: "Khổ cho cháu rồi". Sau đó cũng lạy linh vị của lão vương gia một lạy, Cảnh Thất đáp lễ, sau đó nói với Bình An rằng: "Mang một chiếc đệm cói nữa tới đây cho đại tướng quân". Lão quản gia hơi há miệng: "Cái này...". Cảnh Thất xua tay: "Không sao, cứ mang tới đây là được, các ngươi đều lui xuống cả đi, ta có mấy lời muốn nói với đại tướng quân". Lão quản gia đã tận trung với vương phủ cả một đời người, từ trước tới nay vẫn đặt quy củ lên trước nhất. Tuy rằng Cảnh Thất nay chỉ mới mười tuổi, song trong lòng ông, lão vương gia không còn nữa thì tiểu chủ tử nói sao ông sẽ làm như vậy, rốt cuộc cũng không nhiều lời, khom người lui xuống. Trong linh đường chỉ còn lại mỗi chậu than và hai người, Phùng Nguyên Cát ngồi phịch xuống đệm cói, ông là người thô kệch, chỉ biết đánh trận, ngẫm nghĩ cả nửa ngày trời vẫn không biết nên nói thế nào, đành vụng về bảo: "Cái lão tiểu tử Minh Triết này, lúc sống đã không được tích sự gì, giờ lại đi rồi, cháu...thân thể cháu mỏng như tờ giấy thế này, vẫn phải chú ý giữ gìn hơn mới được". Cảnh Thất cong khóe miệng lên cười, duỗi thẳng chân ra, thả lỏng mà ngồi xuống đất, lơ đãng bốc chút vàng mã ném vào trong chậu than: "Cháu vẫn ổn mà, chỉ có điều, tướng quân sắp phải rời kinh đúng không?". Phùng Nguyên Cát sững người, giương mắt lên nhìn y: "Sao cháu biết?".
|
Chương 4: Vinh hoa như mây khói Vinh hoa như mây khói
Vào thời điểm này trong kiếp trước, Cảnh Thất vẫn còn là một thiếu niên nhỏ tuổi, chỉ trong một đêm đã mất phụ thân, bảy phần sợ tương lai mờ mịt không chỗ nương nhờ, ba phần đau phận đời xa xót, nỗi xúc động quá lớn hóa thành bi thương. Tiểu hài tử có quá nhiều chuyện luẩn quẩn trong lòng, tích tụ lại, liền ngã bệnh liệt giường, đến cả đêm Đầu Thất cũng không thể canh giữ bên linh cữu lão vương gia, bởi vậy không biết được chuyện Phùng đại tướng quân đến thăm giữa đêm khuya. Phòng Nguyên Cát và lão vương gia qua lại bao năm, ông lại là người không câu nệ lễ tiết, không quản đêm muộn tới lễ bái người xưa, ngược lại lộ ra chút chân tình khó thấy trong những năm thói đời giả dối này. Chẳng ngờ kiếp này được tái sinh làm người, y lại có thể gặp mặt ông lần cuối trước lúc rời kinh. Nghe ông hỏi vậy, Cảnh Thất bỗng chốc nở nụ cười: "Tốt xấu gì cháu cũng là thị độc* của thái tử, hiện nay thái tử đã đến tuổi vào triều nghe chính sự, những chuyện lớn nhỏ trong triều, tuy rằng không đến lượt cháu được nghe, nhưng dù sao cũng biết được phong thanh". *Thị độc có hai nghĩa: Một là những người hầu đế vương đọc sách luận bàn đạo lý, hoặc hầu các thái tử học bài, nghe giảng kinh thư. Hai là chỉ một chức quan chuyên giảng sách cho đế vương, hoàng tử. Chức vụ này khá tương đồng với Thị Độc Học Sĩ, nhưng cấp bậc thấp hơn một chút. Ở đây "thị độc" dùng với nghĩa thứ nhất. "Ha", Phùng Nguyên Cát bật cười một tiếng, bị một câu này của Cảnh Thất vô ý chạm đúng vào tâm sự, trong khoảnh khắc ấy, vẻ bi phẫn trên gương mặt ông có muốn dằn xuống cũng không xong, chỉ có điều trước nay ông vốn là một nam tử kiên cường, không muốn để lộ trước mặt thiếu niên non nớt này, liền vội vã quay đầu sang chỗ khác, đưa mắt nhìn sắc trời xám xịt bên ngoài linh đường, im lặng một lúc lâu mới khống chế được giọng nói cũng như thần sắc. Ông nén giọng mình xuống, gắng sức bình tĩnh nói: "Ngay đến một tiểu tử như cháu cũng băn khoăn đến việc này, thế mà người nên nghe lại mắt điếc tai ngơ". Thương thay đêm khuya ngồi chiếu vắng; chẳng hỏi muộn dân hỏi quỷ thần** ** Là hai câu thơ cuối trong bài thơ Giả Sinh của Lý Thương Ẩn. Khả liên dạ bán hư tiền tịch, Bất vấn thương sinh vấn quỷ thần. Giả Sinh tức Giả Nghị (200 - 168 TCN), là một chính trị gia và tác giả nổi danh đời Tây Hán.
Cảnh Thất nghe, lông mày khẽ nhếch lên một cái, y còn chưa kịp mở lời đã thấy Phùng Nguyên Cát quay đầu lại, trầm giọng nói: "Những lời này vốn ta không nên nói ra khỏi miệng, cháu cũng coi như gió thoảng qua tai, đã biết chưa?". Trong linh đường, ngọn nến trắng chập chờn theo cơn gió nhẹ, một tờ tiền vàng cháy dở giữa chậu than, sắc mặt thiếu niên cũng phảng phất như mượn được từ đâu ánh lửa, lẳng lặng ngồi đó, một đôi đồng tử đen bóng tựa điểm sơn*, dõi ánh nhìn thâm thúy qua đây, như thể chuyện gì cũng đều biết cả. Phùng Nguyên Cát nhìn mà không khỏi mềm lòng. Đối với ông, Cảnh Bắc Uyên cũng xem như con cháu trong nhà, lúc này Cảnh Minh Triết ném bỏ gánh gồng, ông lại phải xa bước Nam Cương, chuyến đi này không biết là sống hay chết, chỉ cảm thấy bóng dáng khoác áo gai chịu tang trong linh đường của thiếu niên thông tuệ trước tuổi này, quá ư đơn bạc, cũng quá đỗi lẻ loi. Nghĩ vậy ông liền mềm giọng: "Nam Cương nổi loạn, hoàng thượng vừa hạ chỉ cho ta đi dẹp yên, lần này đi...lần này đi chỉ sợ ngày dài đường xa, ta không ở kinh thành, không chăm lo được cho cháu, hãy tự chăm sóc bản thân cho tốt nhé". Ông dừng lại một hồi, cuối cùng vẫn không yên tâm được, lại dặn thêm rằng: "Ta biết từ trước đến nay cháu vẫn thân thiết với thái tử, thái tử cũng là người tốt, chỉ có điều...". *Ý chỉ nhựa cây sơn. Phùng Nguyên Cát tuy rằng đọc chẳng được bao nhiêu quyển sách, nhưng suy cho cùng cũng là người lăn lộn chốn quan trường tới mấy chục năm. Ông nói lời này ngập ngừng do dự, Cảnh Thất lại hiểu rõ được ý tứ của ông, đương kim hoàng thượng thoạt nhìn đang độ tráng niên, nhưng chẳng qua chỉ là một cái xác ngoài đẹp đẽ đã bị đàn ca nữ sắc khoét cho rỗng ruột, giờ giang sơn này còn chưa biết sẽ do ai làm chủ, đến lúc đó ba vị hoàng tử phải đấu với nhau một trận tơi bời, Phùng đại tướng quân là sợ bản thân bị kéo vào trong vũng lầy ấy. Cảnh Thất khẽ cười, ném thêm chút tiền vàng vào trong chậu than: "Cháu chẳng qua chỉ là một vương gia nhàn tản mang chút hư danh, dựa bóng ông cha, lại còn là một đứa con nít miệng còn hôi sữa, nuôi dưỡng ở chốn đế đô, thỉnh thoảng mang tới cho hoàng bá phụ chút niềm vui được con trẻ cận kề dưới gối. Trong mắt các vị đại nhân, cháu cũng chỉ như vị 'Đốc Sát Ngự Sử' trong thượng thư phòng mà thôi, đang yên đang lành có ai hơi đâu để mắt đến cháu? Đại tướng quân lo nghĩ quá rồi". Đại nhân "Đốc Sát Ngự Sử" kia chính là con chim sáo hiện đang được hoàng thượng sủng ái nhất, gần như đã chửi mắng một lượt tất cả các bá quan văn võ trong triều. Phùng Nguyên Cát nghe những lời như cợt nhả như chế nhạo này của thiếu niên, trong lòng lại trầm hẳn xuống, thầm nghĩ nó mới được chừng này tuổi mà đã biết suy xét đến thế này ư? Sau ông lại tỉ mỉ nhìn bộ dạng cụp mi cười khẽ của y - khoan thai mà thâm trầm, đâu có chút dáng vẻ nào của thiếu niên chưa lớn. Cảnh Thất nói: "Cháu không có chuyện gì, thế nhưng tướng quân có biết, trận đánh Nam Cương này, chỉ có một con đường chết mà thôi?". Phùng Nguyên Cát nghe mà chấn động, không kiềm được bèn buột miệng hỏi rằng: "Cớ sao cháu lại nói vậy?". "Nam Cương tuy nhỏ, song kể từ khi Thái tổ giành được thiên hạ, đoạt được Cửu Châu mà sánh vai với triều đại trước, mảnh đất này liền giống như miếng xương chặn ngang cuống họng. Thái Tông võ công cao cường, trong vòng chưa đầy ba mươi sáu năm đã bắc chinh hai lần, khiến người Man ở hoang mạc phương Bắc (Bắc Mạc) phải cúi đầu xưng thần, song đến cuối cùng vẫn phải ngậm hờn trước non nước phương Nam, anh hùng mạt lộ. Mảnh đất Nam Cương lắm núi cao nhiều nước dữ, rừng già chướng khí, tạm thời không nhắc đến việc đi đường bất tiện, chỉ riêng việc tướng sĩ Trung Nguyên không làm quen được với khí hậu nơi đó đã đủ nguy nan rồi, huống gì..." Đương nhiên không cần y lôi sử sách ra giảng giải, từ giây phút nhận được thánh chỉ Phùng Nguyên Cát đã ôm lòng chịu chết rồi, chỉ không ngờ lại bị thiếu niên này nói thẳng ra, ông không khỏi cắt lời: "Lời này ai dạy cháu nói?". Cảnh Thất thuận miệng nói bừa: "Chu thái phó". Phùng Nguyên Cát lắc đầu, thái phó Chu Tự Dật, tên thì nghe phóng khoáng phiêu dật, thế nhưng lại là kẻ gàn dở bảo thủ hàng đầu, mở miệng nói được ba câu không rời lời thánh hiền nửa từ, tuyệt đối sẽ không cùng trẻ nhỏ bừa bãi luận bàn chuyện trong triều. Huống gì hắn chỉ là một thư sinh, văn nhân cổ hủ, cũng chưa chắc đã hiểu được những đạo lý binh đao này. Cảnh Thất chỉ cười không nói. Phùng Nguyên Cát có ý muốn nghe y nói, liền bảo: "Cháu nói tiếp đi". Cảnh Thất đứng dậy có phần gắng sức, thân người khẽ động, đứng dậy đi đóng cánh cửa linh đường lại, sau đó ngồi về chỗ cũ, thở một hơi thật dài như vừa làm xong chuyện gì nặng nhọc lắm, ngần ngừ một lát mới thấp giọng nói rằng: "Đương kim thánh thượng ăn chơi sa đọa, nhìn thì có vẻ hoang đường bữa bãi, thế nhưng trong lòng không phải không chột dạ...". Lời còn chưa nói hết, Phùng Nguyên Cát đã nghiêm giọng quát rằng: "Đương kim thánh thượng là người cháu có thể phê bình xằng bậy sao? Lời này đại nghịch bất đạo!". Cảnh Thất vươn tay ra, nhẹ nhàng vỗ vào người đại tướng quân, ý bảo ông bình tĩnh lại, chớ vội nóng nảy, vạt áo trắng thuần dậy lên một luồng gió mát, tướng quân sắc mặt lạnh lùng giọng nói uy nghiêm, thiếu niên lại không hề bị ảnh hưởng mảy may, tiếp tục nói: "...Vì vậy chắc chắn sẽ muốn làm ra công tích gì đó để viết vào sách sử, cũng để thể hiện ngài coi giữ xã tắc có công, tướng quân không phải người ngoài, Bắc Uyên xin nói thẳng, những người đó - trộm nhớ nửa khối binh phù trên tay ngài đã lâu, hết lần này tới lần khác ngài lại tường đồng vách sắt, mềm cứng không ăn, lại có trong tay binh hùng tướng mạnh, tất nhiên sẽ bị người đề phòng. Thế nên mới đoán ý bề trên, muốn mượn cơ hội này trừ khử đại tướng quân. Phùng đại tướng quân, lời này cháu nói có sai không?". Phùng Nguyên Cát lặng thinh không nói. Cảnh Thất thở dài một tiếng: "Cháu chẳng qua cũng chỉ là một kẻ hậu bối bất tài, nói những lời này đã vượt khỏi quy củ, lại cực kỳ bất kính, vốn dĩ vạn lần không nên, thế nhưng...". Đôi mày thon dài mà có vẻ quá ư thanh tú của y khẽ nhướng lên, để lộ ra vài phần sắc bén, cười lạnh mà rằng: "Đại tướng quân, ngài không vì mình, chẳng lẽ lại trơ mắt đứng nhìn hoàng thượng bị đám tiểu nhân che mắt bịt tai, tự hủy trường thành* sao?". *Sách Nam Sử - Đàn Đạo Tế truyện có ghi chép lại rằng: Thời Nam Bắc triều, Tống quốc có đại tướng quân Đàn Đạo Tế, bởi vì danh tiếng quá lớn, các tướng dưới quyền đều dũng mãnh thiện chiến khiến hoàng đế nghi kỵ trong lòng, lại bị các đại thần dèm pha, lừa ông trở về kinh thành định trừ bỏ. Đàn Đạo Tế bị nhốt vào trong đại lao, đã quát lớn rằng: "Các ngươi làm như vậy chính là tự hủy trường thành của các ngươi!" Từ đó về sau, người đời thường dùng câu "tự hủy trường thành" để ví với những người tự làm yếu sức mạnh của bản thân, tự phá hủy sự nghiệp của mình. Phùng Nguyên Cát nhìn y, trên mặt tối tăm một mảnh, không nhìn rõ thần sắc, một lát sau ông mới ưu tư thở dài, đáp rằng: "Rõ ràng là một đứa trẻ, vì cớ gì phải lo lắng chuyện của người lớn, phải nói những lời của người lớn chứ?". "Nếu nước có thể quốc thái dân an, trời có thể gió hòa mưa thuận, thì cháu có thể làm trẻ nhỏ cả đời cũng có hề chi." Phùng Nguyên Cát không để ý tới câu nói sắc bén đến cắt lòng của y, chỉ nhẹ giọng hỏi rằng: "Vậy theo ý của cháu, ta phải làm thế nào đây?". Cảnh Thất vừa định nói, đã bị ông đưa tay lên chặn ngang lời. "Không, cháu không cần nói nữa", Phùng Nguyên Cát quan sát y, mang theo vô vàn cảm thán: "Bắc Uyên, bộ dạng của cháu giống mẫu thân nhiều hơn, chỉ có độc đôi mắt là thừa hưởng từ Minh Triết, thế nhưng tính tình lại chẳng giống một ai". Ông đứng dậy, chắp tay sau lưng, từ trên cao nhìn thiếu niên đang quỳ ở đó - thân thể y còn chưa phát triển hoàn toàn, trải qua biến cố lần này lại gầy gò ốm yếu, nét mặt thì tinh tế đến độ trông giống một nữ hài, song chẳng hiểu sao dáng y ngồi đó, hơi ngẩng đầu nhìn lại thấy ung dung vững chãi đến khó tả, khiến ông có thứ ảo giác rằng mình đang luận bàn với người cùng thế hệ. Chẳng qua chỉ là...ảo giác mà thôi. Trong lòng Phùng Nguyên Cát rất rõ ràng, Cảnh Bắc Uyên xét đến cùng chỉ là một đứa trẻ lớn lên giữa chốn thâm cung. "Những lời này vốn dĩ ta định để hai ba năm nữa mới nói ra cùng cháu, có điều...chỉ sợ là không kịp. Tâm tính cháu sớm trưởng thành, ta nghĩ cũng sẽ hiểu được, còn việc cháu nghe lọt mấy phần vào tai, ta không cưỡng ép. Năm ấy ta hoàn toàn không tán thành việc Minh Triết đưa cháu vào cung, thế nhưng ba hồn của hắn đã mất đi bảy vía, chỉ sợ khó mà chăm lo cho cháu chu toàn, nhìn thấy cháu lại nhớ đến vương phi, chỉ càng thêm đau lòng. Ta vốn định đón cháu tới chỗ ta, thế nhưng Phùng mỗ tuy thanh danh vang dội, người người nịnh bợ một câu 'đại nhân', 'tướng quân', song suy cho cùng cũng chỉ là một kẻ võ biền xuất thân từ quân ngũ. Năm đó cháu còn chưa đầy một tuổi, ta ôm ở trong lòng còn sợ làm cháu bị đau, tiểu thế tử của Nam Ninh vương phủ cao quý nhường kia, đặt vào trong tay ta chỉ sợ sẽ không nuôi sống nổi. Thế là ta bỏ ý định đó đi, định bụng đợi cháu lớn thêm chút nữa..." Phùng Nguyên Cát rất ít khi nhẫn nại mà dông dài như vậy, Cảnh Thất lặng thinh không dám thốt một lời nào, đột nhiên phát hiện ra y mất đi vị trưởng bối này quá sớm, sớm đến độ bản thân kỳ thực hoàn toàn không hiểu rõ người này. "Nhưng giờ xem ra, ta không chờ được đến khi cháu trưởng thành rồi." Phùng Nguyên Cát nở nụ cười tự giễu, thanh âm lại thình lình trở nên nghiêm khắc: "Cháu sinh ra trong nhà phú quý giàu sang, lớn lên trên bàn tay của đàn bà con gái, thế nhưng cháu không thể quên, cháu sinh ra vốn là một nam nhân!". Cảnh Thất sững người...Sao tự dưng đại tướng quân lại nói lời này? Phùng Nguyên Cát quay người lại, ánh nhìn sáng rực như đuốc chiếu qua: "Cảnh Bắc Uyên, nam nhi sinh ra trên thế gian này, không cầu chư hầu biết tiếng, thế nhưng cầu đội trời đạp đất, không cầu vinh hoa phú quý, nhưng chỉ cầu sống phải kiêu hãnh, chết ngẩng cao đầu. Phùng Nguyên Cát ta ăn bổng lộc của vua, xấu hổ nhận của mọi người một tiếng 'Bình Tây đại tướng quân', việc nên làm là đánh Man Di, bình nội loạn, trừ gian tặc, giữ biên cương. Những chiêu trò nham hiểm, dơ bẩn xấu xa cháu thấy ở trong cung, hừ, Phùng Nguyên Cát không phải không làm được, mà là coi khinh không làm!". Từng chữ từng chữ đanh thép hùng hồn, Cảnh Thất thật lâu sau vẫn không chịu tiếp lời, trong linh đường chỉ có chậu than thỉnh thoảng vang lên những tiếng "tanh tách", hai người một lớn một nhỏ, một ngồi một đứng, im lặng hồi lâu. Cảnh Thất yếu ớt tiếp lời: "Đại tướng quân, quá cứng thì dễ gãy". Phùng Nguyên Cát giễu cười: "Thà gãy cũng không cong". Cảnh Thất chợt cảm thấy, nam nhân đứng đó còn cao lớn hơn bóng người trong ký ức của y rất nhiều. Trước nay ông vốn cố chấp cứng đầu, không nhận khuyên răn, chẳng nghe ý kiến, một con đường dù có dẫn tới Hoàng Tuyền cũng phải đi cho bằng hết, có va phải tường Nam* cũng không quay đầu, thấy quan tài cũng không rơi lệ, rõ ràng là một cục đá ôi mùi bị ném vào nhà xí**. Thế nhưng...cũng xứng với tiếng khen quật cường bất khuất. *Các công trình kiến trúc của Trung Quốc phần lớn đều xây về hướng Nam, những ngôi nhà lớn của những người có địa vị, thế lực đều có một bức tường xây làm bình phong ở cổng, gọi là tường Nam. Thế nên đi ra khỏi cửa thì phải đi sang bên trái hoặc đi sang bên phải, nếu cứ đi thẳng nhất định sẽ va phải tường Nam. Người ta thường dùng ví dụ này để ví von hành vi cố chấp của một người, không nghe người ngoài khuyên bảo. **Thời xưa được làm bằng cách khoét gỗ trên đá tảng, nếu là đá mềm thì sau một thời gian sử dụng sẽ bị phân và nước tiểu bào mòn, sụp lún, bởi vậy khi chọn vật liệu người ta phải chọn thứ đá rất cứng. Đá này bị phân và nước tiểu ngâm một thời gian dài, trở nên rất thối. Dân gian thường dùng câu nói này để ví von một người thái độ cố chấp, ngang ngược, không để lời của người khác vào tai, làm việc vô lý. Anh hùng dù rơi vào đường cùng thì vẫn cứ là anh hùng, Cảnh Thất tự giễu mà cười một tiếng, chỉ là y luyến tiếc một nhân tài như thế, nên mới nói lời vô lễ, mạo phạm đến ông. Phùng Nguyên Cát thở dài một tiếng, vẻ mặt ôn hòa trở lại, bàn tay tựa phiến quạt hương bồ vươn tới, xoa đầu y: "Tuổi cháu còn nhỏ, đừng học theo những người kia...". Đừng học cái gì của những người kia? Ông ngẩn người, lại không biết phải nói tiếp thế nào, đừng học những người kia một bụng âm mưu, một bồ nham hiểm, gian trà làm điều hung ác ư? Thế nhưng đứa bé này...rốt cuộc cũng không giống như mình. "Đại tướng quân", một tiếng gọi khẽ còn mang âm điệu non nớt của trẻ nhỏ khiến ông hoàn hồn, Phùng Nguyên Cát mềm lòng nghĩ, tuổi nó còn nhỏ thế này đã biết kẻ gian người tốt, lại suy nghĩ cho mình, thật là khó được. Ban nãy ông nặng lời quá, chỉ sợ đứa trẻ vốn mang quá nhiều tâm tư này nghĩ ngợi nhiều, thế là ông liền dịu sắc mặt lại, đáp lời một tiếng. Cảnh Thất ngẫm nghĩ một hồi, y biết vị Phùng đại tướng quân này rốt cuộc cũng không phải người đi chung lối với mình, những lời đã tới bên khóe miệng lại nuốt trở về, chỉ nhẹ giọng nói rằng: "Đại tướng quân, Nam Cương xa xôi cách trở, mong đại tướng quân hãy chú ý giữ gìn". Thói đời hiện tại tựa như ngày xuân tàn lụi, mặt đất phủ kín hoa phai, người trong cuộc bị hoa giăng che mờ đôi mắt, không thấy mùa hạ cam go đang giương nanh múa vuốt lại gần. Trên không có minh quân, dưới không có hiền thần, mà y dù cho chuyển thế trở về, cũng chỉ là một đứa trẻ ranh không quyền không thế, trên người mang một cái danh Nam Ninh vương gia, thế nhưng cũng có khác gì con rối mua vui, trên người dát đầy bạc đầy vàng? Y bất lực. Y không ngăn được ông khẳng khái đi chịu chết, không ngăn được giang sơn Đại Khánh lung lay chực đổ... Cuối năm ấy, tin Nam Cương thắng lớn truyền về, Phùng Nguyên Cát không hổ danh là tướng tuyệt thế - Đại vu sư của Nam Cương nghị hòa, đồng ý đưa vu đồng - người thừa kế của bản thân vào đế đô làm con tin, cả nước vui mừng. Điều tiếc nuối duy nhất là đại tướng quân Phùng Nguyên Cát tử trận. Quan binh Đại Khánh tổng cộng bốn mươi vạn người, tướng sĩ tinh nhuệ gần như đã bỏ xác lại Nam Cương. Thế nhưng đối với người nam nhân cao quý đang ngồi trong đại điện thênh thang chốn đế đô kia, đó chẳng qua cũng chỉ là một bóng mờ nho nhỏ đằng sau thắng lợi, bốn mươi vạn người và một vị tướng quân, đổi cho ngài một hư danh lưu vào sử sách, cũng coi như hy sinh đúng chỗ rồi. Huống gì từ giờ sẽ không còn nam nhân kia trừng mày quắc mắt can gián bới móc những tật xấu của ngài nữa, ngày tháng trôi qua cũng sảng khoái hơn nhiều. Đại hoàng tử Hách Liên Chiêu cuối cùng cũng có cơ hội chen một tay vào trong quân quyền vốn vững vàng như tường đồng vách sắt, càng vô cùng đắc ý. Cuối năm sắp tới, khắp chốn hân hoan. Người người đều nói rết trăm chân, chết rồi vẫn đứng. Thế nhưng cũng có câu "Đê dài ngàn dặm, gặp tổ mối cũng xong". Cùng lắm chỉ là một bên phong ba bão táp từ ngoài đánh tới, một bên là rách nát thối rữa từ lõi phá ra mà thôi. Một năm ấy, ngày đông rét mướt vô cùng, đế đô ca múa thái bình như xưa.
|
Chương 5: Hư tình giả ý Hư tình giả ý
Cũng không biết có phải y làm du hồn đã thành quen, hoặc là thân thể trẻ nhỏ đang trong thời kỳ phát triển, mà y thèm ngủ nhiều hơn. Suốt mấy tháng liền, Cảnh Thất cứ cảm giác thân thể mình ủ rũ, lười biếng vô cùng. Bình An thầm nhủ trong bụng, chủ tử nhà mình quả thực là "xuân thu mỏi mệt hạ lim dim", ba tháng ngày đông ngủ say như chết, bộ dạng con người cử chỉ chả ra sao, ngày qua ngày sống cứ như heo vậy. Báo một tiếng cáo ốm với hoàng thượng, trừ những lúc đi thỉnh an theo lệ ra, thì trên cơ bản y cửa chính không ra cổng trong không vượt, còn "có phép tắc" hơn tiểu thư nhà khác mấy phần. Kiếp trước làm người, trong lòng Cảnh Thất thương nhớ Hách Liên Dực, từ sau khi hiểu chuyện, liền quen nếp việc gì cũng phải nghĩ cho thái tử mấy phần, lo trước cái lo của thái tử, vui sau cái vui của thái tử, lao lực nhọc nhằn, cúc cung tận tụy. Quả thực y đã đem hết cái "Hiếu" cái "Tâm" chưa kịp dùng để báo đáp phụ thân của mình dồn cả cho thái tử điện hạ. Đến kiếp này, đột nhiên không có người chấp nhất trong lòng nữa, y thấy trống rỗng vô cùng, nhưng cũng lại nhẹ nhõm hơn nhiều. Nói cho cùng thì Cảnh Thất cũng nghĩ thoáng ra rồi, hiện tại y vẫn còn nhỏ, Đại Khánh này tuy nói là mục từ rễ mục lên, thế nhưng dù sao bên ngoài vẫn còn cái vỏ vinh quang phồn thịnh, ngày một ngày hai cũng không sập được. Còn đợi đến khi nguy cơ loạn trong giặc ngoài thật sự nổi lên thì vây cánh của thái tử cũng đã tương đối cứng cáp, ngày đó đến thì dẫu trời có sập xuống cũng còn bọn họ chống đỡ cơ mà. Trong phút chốc, y bỗng nhiên hiểu được vì sao hai mươi năm qua hoàng thượng không lên triều sớm - thứ thích hợp nhất với kiếp con người còn gì hơn hai chữ "yên vui"? Mỗi ngày ngủ đến khi mặt trời mọc cao ba sào, đứng dậy hai qua loa mấy miếng thức ăn, hí hoáy luyện chữ,nổi hứng lên thì đề mấy bài thơ cẩu thả, lật xem mấy trang sách dạy đánh cờ, qua quýt coi mấy tờ nhàn thư*, từ địa lý nước non tới thoại bản dân gian, truyền miệng phố phường không gì không đọc, đọc một lúc thấy nhức mắt thì ngả nghiêng trên nhuyễn tháp** ngủ tiếp một hồi. Theo như Bình An nhẩm tính, tuy rằng thời gian "đọc sách" của vương gia nhà mình rất dài, nhìn thì có vẻ tuổi còn nhỏ đã biết cố công học tập, thế nhưng lần nào hắn vào phòng châm trà rót nước, hết mười lần thì có đến tám chín lần thấy tiểu vương gia đang nhắm nghiền hai mắt, "đọc sách" bằng...mí mắt. *Chỉ những quyển sách phục vụ mục đích giải trí, không liên quan đến những vấn đề nghiêm túc, trọng đại. Trước đây thường dùng để chỉ những cuốn sách không phải là kinh sử điển tịch như: dã sử, bút ký, tiểu thuyết... **Tháp là một loại ghế ngồi, mặt bằng phẳng hình chữ nhật. Tháp khá giống giường thế nhưng thường nhỏ hơn, có thể dùng để nằm hoặc để ngồi. Quả thực đã phát huy câu "ăn no chờ chết" đến cực điểm tinh hoa. Bước vào trong vương phủ, hình như thời gian đều bị kéo dài ra. Càng lười càng ngủ, càng ngủ càng lười. Sau cùng, đến khi Hách Liên Dực có được phút nhàn rỗi mà xuất cung thăm y, cũng thấy ngay có điều không ổn. Chỉ đáng thương thiếu niên thái tử thường ngày phải hết lòng lo lắng, mỗi lần tới Nam Ninh vương phủ thuận miệng một câu "Chủ tử nhà các ngươi đâu?", câu trả lời nhận được bao giờ cũng nằm trong mấy dạng sau: "Đã đi nghỉ rồi ạ", "Còn chưa thức dậy ạ", "Đang nghỉ tạm trong thư phòng ạ", "Đang nghỉ ngơi ở sân sau ạ". Địa điểm thì tùy vào thời gian tìm tới khác nhau mà có sự biến động, còn chuyện y làm thì chỉ có một chủ đề duy nhất - ngủ! Cứ thế lâu ngày Hách Liên Dực còn nghĩ y mắc phải bệnh gì, cẩn thận dẫn theo thái y tới thăm. Khi bắt mạch thái tử điện hạ rất căng thẳng đứng canh ở một bên, thỉnh thoảng lại hỏi một câu: "Thế nào rồi?". "Cái này...", thái y chần chứ một lúc, thật ra vừa bước chân vào cửa, chưa cần bắt mạch, chỉ cần quan sát sắc mặt thôi là lão đã biết vị Nam Ninh vương gia này ăn ngon ngủ kỹ đào đâu ra bệnh, có điều không thể nói thẳng ra như thế được, bởi lẽ làm vậy sẽ khiến trình độ của lão có vẻ...không cao. Thế là Hồ thái y liền làm bộ làm tịch gãi cằm một chút, kéo dài giọng, chậm rãi mở lời: "Sách Tố Vấn* viết rằng, trăm bệnh đều từ khí mà ra, tức giận thì khí dâng cao, vui thì khí bình hòa, buồn thì khí tiết ra, hoảng thì khí hạ xuống, lạnh thì khí thu vào, nóng thì khí tiết ra, hoảng thì khí loạn, mệt thì khí tiêu hao, lo thì khí kết tụ. Thất tình lục dục của con người cái gì cũng sinh ra khí, khí sinh ra thì phế phủ không điều hòa...". *"Vấn", tên đầy đủ là Hoàng đế nội kinh tố vấn, là tập sách lý luận về trung y sớm nhất được ghi nhận, tương truyền được viết để dâng cho hoàng đế vào thời kỳ Xuân Thu Chiến Quốc. Sách này vốn có chín quyển, sau được Vương Bằng đời Đường chỉnh lý bổ sung, sửa thành hai mươi tư quyển, tám mươi mốt thiên. Lão thao thao bất tuyệt trích dẫn kinh điển một tràng không ngừng nghỉ, Hách Liên Dực tuy không hiểu lão đang nói cái gì, thế nhưng lại biết rõ một chuyện, ấy là mức độ bốc phét trong "bệnh" của Cảnh Thất quả thực có hơi cao. Thế là hắn sa sầm mặt xuống, liếc mắt nhìn Cảnh Thất. Đợi đến khi khách khí gọi người tiễn lão thái y đi rồi, Hách Liên Dực mới quay đầu lại, hỏi một câu ý vị sâu xa: "Bệnh ngươi không nhẹ nhỉ?". Cảnh Thất nghiêm trang đáp: "Thái tử điện hạ có điều không biết, chứng bệnh này của thần tuy rằng không đến nỗi mất mạng, thế nhưng cũng không dễ chữa trị, thái y lan man dài dòng như thế, kỳ thực là vì lực bất tòng tâm". Hách Liên Dực nhướn mày nhìn y: "Là bệnh gì thế?". "Tiền triều từng có một quyển sách tên là Vấn Thạch, tương truyền là tuyệt học cả đời của một vị thần y họ Đỗ, chương thứ chính trong sách chuyên ghi lại những chứng bệnh nan y, trong đó có một loại bệnh, gọi là "chứng tham ngủ". Chứng bệnh này cực kỳ hy hữu, trăm năm trước chẳng qua cũng chỉ có vài trường hợp, Hồ Thái y tuổi hãy còn trẻ, chưa gặp chứng ấy bao giờ cũng là chuyện bình thường." Hách Liên Dực nghe y phân tích, gương mặt cười mà như không cười, trông tiểu tử này gật gật gù gù hệt như đám bịp bợm giang hồ lừa lọc đảo điên, nhưng cũng không cắt lời. Cảnh Thất ngay cả bản nháp cũng không cần viết, đĩnh đạc mà rằng: "Người mắc phải chứng tham ngủ, lúc ban đầu không khác gì người bình thường, chỉ có phần tham ngủ, uể oải hơn một chút, về sau cả ngày đều trong trạng thái mơ màng, vừa nhắm mắt vào là có thể ngủ liền một ngày một đêm, sấm đánh bên tai cũng không nhúc nhích, đợi thêm vài năm nữa trôi qua, sẽ có thể chìm vào giấc ngủ dài, không ăn không uống, ít thì ba mươi đến năm mươi năm, nhiều thì...". "Nhiều thì được bao lâu?", Hách Liên Dực bưng ly trà lên, ngồi ở một bên nghe y thao thao bất tuyệt. Ánh mắt của Cảnh Thất lóe lên, cười nói: "Nghe người ta bảo, người dài nhất có thể ngủ đến sáu mươi ba năm không tỉnh". Hách Liên Dực cảm thấy trong nháy mắt, dường như có một thứ thần thái nào đó không diễn tả được thành lời lướt qua gương mặt của thiếu niên thanh tú ấy, như giễu cợt mỉa mai, lại phảng phất vài phần vui đùa cười cợt. Thế nhưng chỉ một thoáng liền thôi, nhanh đến mức khiến hắn cho là mình hoa mắt trông lầm. Hách Liên Dực chớp mắt, trước mắt chỉ còn sót lại gương mặt lờ đờ biếng nhác của tên tiểu tử bịp bợm, nhìn thế nào cũng thấy uất nghẹn cả người, thế là hắn liền tiện tay cuộn tròn quyển sách y đặt ở một bên lại, sau đó gõ đầu y: "Là chứng ham ngủ ư? Theo ta thấy thì là bệnh lười mới đúng?". Cảnh Thất vừa cười vừa né. Từ sự kháng cự và không thích ứng lúc ban đầu, y dần dần quen với những màn đùa giỡn không cố kỵ điều gì giữa đám thiếu niên, chỉ là thỉnh thoảng sẽ chợt nảy ra đôi phần cảm khái, ví như: "Thì ra ta và người này cũng đã từng có thời điểm lòng không vướng mắc thế này". Quỷ Vô Thường làm việc quá mức vô thường, người trước mặt kia dù trong tương lai tài trí kiệt xuất thế nào, thủ đoạn độc ác, trở mặt vô tình ra sao thì hiện giờ trong mắt Cảnh Thất, hắn chẳng qua cũng chỉ là một đứa trẻ quật cường cắn răng không chịu cam lòng, không chịu cúi đầu khuất phục. Hách Liên Dực dù sao cũng hơn y vài tuổi, chẳng mấy chốc đã bắt được y, dằn trong lồng ngực cấu véo một hồi, nắn cho gương mặt bé xíu của Cảnh Thất đỏ hồng lên mới thả người ra, oán hận bảo: "Ngươi đi với phụ hoàng cái khác không học được, ngược lại thành tài được một ngón võ: Thần long thấy đầu không thấy đuôi". Con không chê cha dở, huống gì lão ca có hoang đường nữa cũng vẫn là một vị hoàng đế chỉ cần mở miệng là có thể chém bay đầu kẻ khác, Cảnh Thất bị giật mình bởi một câu nói thẳng thừng không kiêng dè gì của hắn. Con người Hách Liên Dực từ trước đến nay vốn làm việc thận trọng thỏa đáng, là người chủ trương "đi không thừa một bước, nói không thừa một câu", một câu nếu không quẹo đủ chín khúc quanh mười tám khúc vòng trong bụng thì tuyệt đối không chịu tùy tiện thốt ra. Nhưng dù sao hiện tại hắn vẫn còn nhỏ, sự khôn ngoan sắc sảo còn chưa hoàn thiện, Cảnh Thất không trở lại trong cung, hắn ngay cả một người có thể nói thực lòng cũng không có, nếu không phải đã nín nhịn quá mức rồi thì cũng chẳng đến nỗi nói không lựa lời như thế. Lời vừa ra khỏi miệng là Hách Liên Dực đã biết mình nói lỡ, trong lòng thầm nghĩ may mà Bắc Uyên chẳng phải người ngoài. Thế là hắn thở dài một tiếng, chuyển đề tài: "Ta thấy ngươi sống trong vương phủ cũng sung sướng nhàn hạ gớm nhỉ!". Cảnh Thất lặng thinh hồi lâu, bấy giờ mới nói:"Thái tử, tiền lệ đã định, thị độc của hoàng tử triều ta phần lớn là con cháu thế gia, chưa kế thừa tước vị. Phụ vương mất sớm, hôm nay...Dựa theo quy củ, việc đọc sách của thần nên do vương phủ tự mời Tây Tịch*...". Y dừng lời, liếc mắt nhìn Hách Liên Dực, thế gia của Đại Khánh đời đời cha truyền con nối, bất kể tuổi tác, phụ thân qua đời, tước vị sẽ truyền lại cho con trai trưởng, bất kể đứa bé đó mười tuổi hay mới lên năm, kế thừa tước vị xong người ấy cũng coi như đã trưởng thành rồi. *Tiên sinh dạy học tại nhà. Cổ nhân quy định ghế phía Đông là ghế của chủ, ghế phía Tây là ghế của khách hoặc thầy, vì vậy thường gọi những tiên sinh dạy học tại nhà hoặc phụ tá, quân sư là Tây Tịch. Thế nhưng dẫu sao Cảnh Thất cũng là người lớn lên trong cung từ nhỏ, nếu y thật sự muốn tiếp tục làm thị độc của thái tử thì cũng hợp lý hợp tình, không coi là chuyện lớn - giống như kiếp trước vậy. Trừ phi là do bản thân y không tình nguyện mới viện cớ này, Hách Liên Dực thầm hiểu trong lòng, không khỏi thất vọng vô cùng: "Bắc Uyên...". Cảnh Thất tự nhận bản thân đã sớm không còn trẻ trung gì nữa, cái sự hăng hái của thiếu niên cũng bị mài mòn cạn kiệt, không muốn tiếp tục hao tâm tổn sức với đám người đó nữa - đương nhiên nguyên nhân chủ yếu hơn là, y không muốn dính dáng quá nhiều đến con người tương lai sẽ bước lên ngôi cửu ngũ chí tôn này. Có điều không dây dưa về phần không dây dưa, cũng không thể đắc tội với hắn được, nghĩ bụng một hồi y liền nói: "Thái tử có biết ai đã tới đây vào đêm Đầu Thất của phụ vương thần không?". Hách Liên Dực sửng sốt. "Là Phùng đại tướng quân Phùng Nguyên Cát." Cảnh Thất thấp giọng nói, ngón tay gõ nhẹ lên mép bàn, đôi mắt cụp xuống. Lúc này, Hách Liên Dực mới hoàn hồn lại, thần sắc đau xót, vẻ thương tiếc lần lượt hiện lên gương mặt, một lúc lâu sau mới cười lạnh một tiếng: "Đại hoàng huynh của ta...đúng là rất được. Bản lĩnh khác thì chẳng thấy đâu, thế nhưng riêng phần vu oan giá họa, hại nước hại dân, nếu huynh ấy nhận mình đứng thứ hai thì không ai dám mặt dày đòi tranh thứ nhất". Hắn thình lình đứng dậy, chắp tay đi lại trong phòng vài bước: "Rồng ngủ say không tỉnh, hổ lạc bước đồng bằng, đám sài lang hoành hành, nếu như ta...hừ!". Nếu là gì, hắn không nói, tất cả nỗi đau thương phẫn nộ của thiếu niên đều hóa thành một tiếng cười lạnh bị nghiến giữa kẽ răng, gương mặt nhìn nghiêng cứng đờ lại. Cảnh Thất nói: "Không quyền không thế, chỉ đành buông tay nghe mệnh trời thôi. Thế nên hôm đó thần đột nhiên cảm thấy, nếu thần không tiến cung mà ở lại trong vương phủ, thì ít nhất có thể giúp thái tử có một chỗ để 'về'". Hách Liên Dực quay đầu lại, rất nhiều năm sau hắn vẫn nhớ như in bộ dáng của thiếu niên ngày hôm ấy, y khoác chiếc trường bào màu xanh nhạt có phần ảm đạm, co chân ngồi đó, hai tay bưng một ly trà, khóe mắt cong cong, mắt cười sao mà lém lỉnh. Không có những lời tôn kính dư thừa, không ra vẻ trải đời lên mặt, chỉ là xưng thần gọi thái tử hời hợt, giọng điệu nói ra như đang tán gẫu chuyện đời thường - ít nhất có thể giúp thái tử có một chốn quay về. Thiếu niên không biết vị sầu, trong lòng thiếu niên còn có quá nhiều ngờ vực, thiếu niên còn chưa nếm trải cái cảm giác nắm quyền sinh sát trong tay. Chỉ đáng tiếc, cánh xuân tươi đẹp há chờ thiếu niên...Mà thôi, những chuyện ấy để sau này hãy nói. Lần đầu tiên Cảnh Thất chính thức ra cửa gặp người, đã vào sáu tháng sau, khi hoàng thượng cố ý truyền chỉ tới vương phủ, gọi y tiến cung - nguyên nhân là bởi vì con tin từ Nam Cương đã tới. Cách nghĩ của hoàng đế bệ hạ kỳ thực rất đơn giản, nghe nói vu đồng của đại vu sư mới chỉ mười một mười hai tuổi, vẫn còn là một đứa trẻ, ngàn dặm xa xôi từ Nam Cương tới kinh thành, đường dài lại khó đi, có hợp khí hậu không tạm thời chưa nhắc tới. Tối thiểu ngôn ngữ đã không thông hiểu, cũng thật đáng thương. Đại Khánh từ trước tới nay vốn lấy nhân nghĩa để trị quốc, đối phương từ xa mà tới, dù thế nào cũng phải đón tiếp nồng hậu,khiến hắn cảm thấy như ở quê nhà mới được...Đương nhiên, trị quốc bằng nhân nghĩa và xuất quân đánh Nam Cương là hai chuyện khác nhau, chuyện nào ra chuyện nấy. Vừa khéo Cảnh Thất lại là người lớn lên trước mắt ngài, đứa bé này vừa biết giỡn biết đùa, lại ham an nhàn ưa trốn việc, còn biết giở mánh khóe ra, hợp ý ngài lắm. Ngài cảm thấy Cảnh Bắc Uyên là một đứa bé "ngoan" hiếm thấy, nhân dịp này cũng có thể kết thêm một bằng hữu. Thế là trời vừa sáng, Cảnh Thất đã bị một đám người vây quanh, trong ba lớp, ngoài ba lớp, mặt lên người y bộ triều phục kích thước tí hon. Sau đó Cảnh Thất mắt nhắm mắt mở chậm rãi vào cung, gặp được người đã định sẽ cùng y dây dưa cả một đời.
|
Chương 6: Vu đồng Nam Cương Vu đồng Nam Cương
Khi xe tiến qua cổng lớn kinh thành, Ô Khê liền không kìm được mà len lén vén rèm lên. Từ Nam Cương tới Trung Nguyên, hành trình mất tròn mấy tháng. Đến nơi hắn mới biết thì ra Trung Nguyên trong truyền thuyết lại có đất đai rộng lớn nhường này, có dân cư đông đúc đến vậy. Thành quách nối tiếp nhau, xe cộ đi lại như mắc cửi, hành trình dài như thể có đi cả đời cũng không tới được. Những cánh rừng rậm quanh năm bao phủ trong sương mù và chướng khí cùng những làng trại dựng lên giữa núi lớn đất Nam Cương, đứng trước mặt non sông tươi đẹp trải dài vạn lý thế này liền trở nên nhỏ bé không đáng kể, thậm chí còn có mấy phần nghèo nàn cùng quẫn nữa, vậy là thứ gì đã hấp dẫn quân đội Trung Nguyên, khiến bọn họ nhất định phải tấn công tộc nhân của hắn cho bằng được? Ô Khê đã từng hỏi đại vu sư, đại vu sư là người có quyền uy nhất cũng là người có trí tuệ nhất trong bộ lạc, lời ngài nói ra đại diện cho ý chí của đại thần Già Hi. Ô Khê tương lai cũng sẽ trở thành đại vu sư, thế nhưng hắn vẫn còn là một đứa trẻ, còn rất nhiều rất nhiều điều không hiểu. Đại vui sư nói với hắn rằng: "Đây là thử thách của đại thần Già Hi, đại thần Già Hi có mặt ở khắp mọi nơi, nhìn rõ tất cả những việc mọi người làm, ngày hôm nay gieo xuống nguyên nhân, hôm sau sẽ thu hoạch kết quả. Chỉ có điều sinh mạng của phàm nhân quá ngắn ngủi, thế nên giống như côn trùng chẳng mấy chốc đã lìa đời vậy, vô tri vô giác, không hiểu được ý chí của thần. Đợi đến khi con lớn lên, đợi đến khi con gặp được rất nhiều người, biết được rất nhiều chuyện rồi, thì con mới có thể lờ mờ hiểu ra một chút". Lúc đại vu sư nói những lời này, những nếp nhăn bên khóe mắt nheo lên, ánh mắt ngài tĩnh lặng nhìn về phía núi non giăng mắc sương mù phía đằng xa, tối đen như mực, hệt như có một hồ nước đọng tĩnh lặng. Ô Khê nhìn ánh mắt ngài, đột nhiên cảm thấy một vẻ phiền não khó tả. Đại vu sư vỗ đầu Ô Khê, nói với hắn rằng: "Con đã mười tuổi rồi, cũng bắt đầu có chút suy nghĩ, có cách nghĩ của riêng mình. Còn rất nhiều chuyện dù ta có dạy chưa chắc con đã nhớ được, cũng đã đến lúc để con ra ngoài trải nghiệm rồi". Ô Khê vươn tay nắm chặt lấy tấm áo choàng dài của đại vu sư, mím chặt môi, không nói lời nào. Đại vui sư thở dài một tiếng: "Mảnh đất Trung Nguyên tựa như cạm bẫy, có sự náo nhiệt và giàu sang mà con không tưởng tượng được ra, có những con người xinh đẹp nhất, những đồ vật tinh xảo nhất, cũng có thể con sẽ cảm thấy rằng, so với Trung Nguyên thì Nam Cương chỉ là nơi tồi tàn bị núi cao ngăn trở, con sẽ luyến tiếc rời đi nơi ấy, sẽ quên mất bản thân mình là ai". "Con sẽ không thế", Ô Khê ngẩng mặt lên nhìn ngài, trịnh trọng giơ một cánh tay lên: "Con thề với thần linh rằng con nhất định sẽ trở về, cả đời này con sẽ không quên tộc nhân của mình. Con sẽ dẫn dắt tộc nhân báo thù, con sẽ nhớ kỹ những người đã từng ức hiếp chúng ta, sẽ khiến cho những kẻ đó đều chết không yên ổn!". Đại vu sư nghe thế liền cười, thần sắc ngài lúc cười rộ lên không giống với sứ giả của thần ở trên cao, cũng không giống vị thủ lĩnh nói một không hai, mà chỉ giống một lão nhân bình thường, mang theo đôi phần hiền hòa và mỏi mệt. Ngài nhìn đứa trẻ kia ngày một trưởng thành, có nỗi trông mong không nói thành lời, rồi lại vì trông mong ấy quá dày quá nặng, mà dần dần để lộ sầu lo: "Nhớ lấy những lời con nói hôm nay, nhớ lấy quê nhà của con, bất kể có đi tới bao xa, phải nhớ rằng tộc nhân của con vẫn đang chờ đợi". Trung Nguyên khiến mắt hắn hoa lên, Ô Khê trong lòng rất hiếu kỳ, đi qua chỗ nào cũng chỉ hận không thể mọc thêm một đôi mắt nữa để xem cho kỹ càng cặn kẽ. Thế nhưng trong nỗi hiếu kỳ còn xen vài phần bồn chồn thấp thỏm, mỗi ngày trước khi đi ngủ, nó đều phải lặng yên lặp lại một lượt những lời dặn dò của đại vu sư trước lúc lên đường. Đất Trung Nguyên mênh mông như thế, lại chẳng có nơi nào phồn hoa được giống kinh thành, phồn hoa đến độ khiến hắn cảm thấy không chân thực. Xuyên qua tấm rèm xe đã bị vén lên, một luồng khí vị đặc biệt phả thẳng vào, Ô Khê cẩn thận phân biệt, đó là thứ hương vị phát ra từ đám đông người và xe chen chúc, sền sệt mà dinh dính trong đó có lẫn vào một chút ít hương thơm, thứ hương rất nhạt, như mang theo một loại mê hoặc nào đó vậy. Hắn ngẩng đầu, dọc hai bên đường đứng chật ních người, có người xách lồng chim, có kẻ cầm theo rổ, mọi người hứng thú dạt dào nhìn theo đoàn người của hắn, hệt như đang vây xem thứ động vật gì kỳ dị lắm. Chiếc xe chậm rãi chạy êm hẳn, lăn bánh trên con đường bằng phẳng lát từ những khối đá xanh thật lớn, lúc đi trong thành đoàn người có đi qua một con sông quanh co uốn lượn, có mấy chiếc thuyền cực kỳ lớn, cũng vô cùng rực rỡ im lìm thả neo trên mặt nước. Dòng nước chảy qua, khẽ vang róc rách, dương liễu ven sông buông nhành lá xuống, cứ như muốn thả mình vươn tới tận trước mặt Ô Khê vậy. Hắn giơ tay muốn túm lấy, thế nhưng lại không bắt được. Vào lúc này xe dừng lại, có tiếng chân ai bước lại, Ô Khê buông rèm xe xuống, chỉnh tư thế ngồi cho ngay ngắn, cửa xe mở ra từ đằng trước, nó trông thấy tộc nhân A Tâm Lai cùng đi theo cũng giống mình vậy, hắn đứng ở một bên, thắt lưng ưỡn thẳng tắp, như thể muốn bản thân trông có vẻ cao lớn hơn một chút. Phía sau lưng hắn là một ông lão vẻ mặt tươi cười, đội cái mũ cao kỳ quái, ống tay áo rộng thùng thình buông xuống tới tận đầu gối, bàn tay cũng bị che ở bên trong, vừa mở miệng liền nghe thấy thanh âm vừa nhỏ lại vừa the thé: "Ôi chao, đây chính là vu đồng đại nhân đấy sao? Tạp Gia xin có lễ". Lỗ Bách Xuyên đi theo lập tức dùng tiếng Man Nam Cương giải thích với hắn rằng: "Vị này là Hỷ công công hầu hạ bên thánh giá, là người được hoàng thượng tin cậy nhất. Hoàng thượng cố ý phái Hỷ công công tới nghênh đón ngài ngoài cổng Tuyên Đức, còn thiết yến trong cung đón gió tẩy trần cho ngài, đây là sự ban ân vô cùng lớn đấy ạ!". Lỗ Bách Xuyên là người Hán sống ở vùng biên giới của Nam Cương, là một trong số những người dẫn đường được Phùng Nguyên Cát chiêu mộ khi đánh trận, tinh thông cả tiếng quan thoại lẫn tiếng Man, con người lại lanh lợi biết luồn lách lên cao, lăn lộn trong quân cũng coi như thành được một nửa tâm phúc. Khả năng nói tiếng Hán của đoàn người từ Nam Cương tới chỉ giới hạn trong những câu đối thoại giản đơn, hơi phức tạp hơn một chút là sẽ rơi vào tình trạng nửa hiểu nửa không ngay, thế nên hắn đã được sai riêng tới làm thông dịch riêng cho vu đồng. Gương mặt của Ô Khê bị một tấm vải đen che lại, chỉ để lộ đôi đồng tử rất đen, nhìn lướt qua Lỗ Bách Xuyên. Nụ cười trên mặt Lỗ Bách Xuyên thoáng cứng đờ, hắn có cảm giác đôi mắt của Ô Khê không giống của trẻ con, nó đen như thế, hoang dã như thế, cứ như được khắc cùng một khuôn với lão vu sư bất tử cổ quái kia vậy, bộ dạng lạnh lùng đưa mắt nhìn sang của nó lúc nào cũng khiến người ta buốt giá cả người. Ô Khê từ từ đứng dậy, Lỗ Bách Xuyên nịnh nọt vươn tay ra đỡ, lại bị A Tâm Lai đánh bay tay ra. Lỗ Bách Xuyên giận dữ quay đầu,lại trông thấy nam nhân hung hãn kia đang nổi giận đùng đùng trừng mắt nhìn mình, phần thân trên trần trụi lộ ra hình xăm sắc màu sặc sỡ, khiến cho người võ sĩ trẻ tuổi trông có phần hung tợn. Trong khoảnh khắc, cơn giận của Lỗ Bách Xuyên liền xẹp xuống ngay trong bụng, hắn xấu hổ lùi sang một bên nhìn A Tâm Lai khom lưng xuống, dùng một động tác cực kỳ khiêm nhường để Ô Khê nắm lấy cánh tay của mình, cẩn thận đỡ hắn xuống xe. Ô Khê giương mắt lên, nhìn Hỷ công công giọng the thé kia một chốc, hắn thoáng do dự, rồi lại nhớ tới lời đại vu sư đã dặn, sau khi tới Trung Nguyên phải giữ gìn bản thân, cứ coi như là vì bảo vệ cho người trong toàn tộc. Thế là cuối cùng hắn vẫn hơi cúi đầu xuống. Hỷ công công lập tức nghiêng người, tỏ ý không dám nhận lễ này: "Lão nô không dám nhận, vạn vạn lần không dám!". Hoàng thành nằm ở trung tâm của kinh thành, cung điện nối tiếp nhau, chỉ cần thoáng lơ đãng thôi là sẽ bị mất phương hướng trong khối điện ngọc cung vang này, hệt như giăng mắc tới tận cung mây vậy. Ô Khê ngẩng đầu nhìn, trong lòng nghĩ, đúng là cao thật...Hắn bắt đầu thấy có chút sợ hãi rồi, thế nhưng hắn không thể biểu hiện ra, bởi vì phía sau hắn còn đám người A Tâm Lai, còn cả đám binh tướng của kẻ thù, hắn không thể khiến tộc nhân của mình mất mặt. Ô Khê lẳng lặng hít một hơi thật sâu, chỉnh trang lại y phục của bản thân, theo Hỷ công công đi vào trong đó. Khi đoàn võ sĩ của Nam Vương tới đại điện, văn võ bá quan đang xì xào bàn tán lập tức lặng thinh, nhìn một đoàn Nam Man khí thế cực kỳ hung hãn xếp hàng tiến vào. Sinh sống ngoài trời quanh năm khiến bờ vai bọn họ nhìn có vẻ rất rộng, trên bả vai của nam nhân nào cũng có những hình xăm giống như đồ đằng*, làn da màu mật lộ ra, tóc để xõa xuống. *Đồ đằng (Totem) là tượng trưng cho thần hộ mệnh và tổ tiên của quần thể người nguyên thủy, là một hiện tượng văn hóa xuất hiện rất sớm trong lịch sử loài người. Đồ đằng xuất phát từ chữ "Totem" trong tiếng Indias, là "động vật, cây cỏ, đồ vật hoặc hiện tượng tự nhiên mà tộc người nguyên thủy coi là biểu tượng thiêng liêng của bộ tộc mình và tin rằng những thứ đó có mối liên hệ siêu tự nhiên và có sự gần gũi máu thịt" (Nguyễn Kim Thản, Hồ Hải Thụy và Nguyễn Đức Dương, Từ điển tiếng Việt, 2005). Ví như đời nhà Thương có câu "Trời cho chim đen giáng xuống thành Thương" (Thiên mệnh Huyền điểu, giáng nhi sinh Thương), bởi vậy chim đen đã trở thành đồ đằng của tộc Thương. Cảnh Thất nhận được ân điển của hoàng thượng Hách Liên Bái, ngồi bên cạnh pho tượng phật lớn này. Bấy giờ y đang nhân dịp không người chú ý, lén lén lút lút há miệng ngáp một cái, vừa mới ngáp được một nửa thì nghe thấy tiếng báo, liền kìm trở lại, sau đó thì cố sức nháy cho mấy giọt lệ dâng lên trong mắt ứa ra ngoài. Y vẫn còn nhớ mang máng kiếp trước chỉ nghe nói Nam Man cúi đầu xưng thần, tâm lý ưa hư danh của hoàng thượng được thỏa mãn, cũng không thấy ngài nghĩ ra chiêu trò gì nữa, càng không có chuyện con tin gì gì đó vào kinh. Quả nhiên kiếp này sống lại, vẫn có một số chuyện không giống như trước nữa. Y cũng không khỏi có phần tò mò, đưa mắt nhìn vọng ra xa. Y muốn nhìn xem dân Nam Man dũng mãnh đã hạ gục toàn bộ bốn mươi vạn quân tinh nhuệ của Đại Khánh rốt cuộc trông tròn méo ra sao. Thế nhưng vừa đưa mắt y liền trông thấy một đứa trẻ bị đám võ sĩ kia vây quanh. Thân thể nhỏ yếu bị bọc trong chiếc áo choàng đen sẫm, ngay cả gương mặt cũng không trông thấy, chỉ để lộ đôi mắt, trông có vẻ nồng nặc quỷ khí, sống lưng hắn ưỡng thẳng vô cùng, nhìn như hoàn toàn không sợ sệt mà đón nhận ánh mắt quan sát của tất cả mọi người. Thế nhưng không hiểu vì sao, Cảnh Thất lại cảm thấy đứa trẻ ấy có đôi chút đáng thương. Võ quan của Đại Khánh quỳ xuống, hô to vạn tuế vạn tuế vạn vạn tuế, đoàn võ sĩ Nam Man đưa mắt nhìn nhau, sau đó cũng đồng loạt quỳ xuống, chỉ có vu đồng mặc áo choàng đen kia là còn đứng đó, trông có vẻ vô cùng lẻ loi. Bộ Lễ Giản thượng thư lông mày dựng ngược, mắt trợn trừng lên, lão e hèm mấy tiếng nặng nề, rồi giận dữ nói: "To gan, các ngươi đã thuần phục Đại Khánh ta, lúc này đây lấy thánh thượng làm đầu, nếu đã gặp quân phụ, đương nhiên phải hành lễ ba quỳ chín lạy. Cớ sao lại không quỳ?!". A Tâm Lai lớn tiếng đáp rằng: "Hoàng đế của Đại Khánh, chúng ta thua trận, xưng thần với ngài, quỳ xuống cũng là chuyện nên làm, thế nhưng vu đồng là đại vu sư tương lai, là sứ giả của đại thần Già Hi, không quỳ trước bất cứ người nào cả!". Giọng của A Tâm Lai rất khỏe, tiếng nói vừa ra, cả đại điện đều vang vọng thanh âm của hắn. Cảnh Thất híp mắt nhìn qua, người này nhìn thì cao lớn vạm vỡ, thế nhưng nghe âm thanh nói chuyện kia, chỉ sợ vẫn còn là một đứa trẻ, có cái ương bướng của nghé con mới sinh không sợ hổ. Giản thượng thư sa sầm mặt xuống, giận dữ đến độ ria mép dựng ngược cả lên: "Hoàng đế của chúng ta là chân mệnh thiên tử, cửu ngũ chí tôn, dù cho thần linh bé tí nơi biên cương tộc man các ngươi có đích thân giáng thế cũng không khinh suất được, huống gì chỉ là một hài đồng cao ba thước mang danh xưng gì đó!". A Tâm Lai trừng mắt nhìn lão bằng đôi mắt tựa chuông đồng, song Giản thượng thư nào phải gã kém cỏi như Lỗ Bách Xuyên. Vị lão đầu ấy nhìn qua thì mũ cao áo rộng, gió thổi cũng bay, mặc dù làm quan bộ Lễ lấy quy củ làm đầu, nhưng thực ra cũng chỉ là một lão lừa già ngang bướng, cả đời này của lão có hai sở trường, một là mắng người, hai là mắng xong trừng mắt nhìn nhau với đối phương. Ngay đến Hách Liên Bái cũng phải tránh lão mấy phần. Lão cùng A Tâm Lai một già một trẻ, mắt to trợn trừng mắt nhỏ, chẳng ai chịu nhường ai. Cảnh Thất hơi cúi thấp đầu, cố ép xuống khóe miệng đã nhếch lên. Ô Khê lại đột nhiên vươn tay ra, đè vai A Tâm Lai xuống, sau đó nó tiến lên phía trước mấy bước, ngay ngắn quỳ xuống: "Nam Cương vu đồng Ô Khê, bái kiến Đại Khánh hoàng đế bệ hạ". Nó còn chưa vỡ giọng, thế nhưng thanh âm lại rõ ràng vang dội, không chút âm điệu trẻ con, hai bàn tay chống trên mặt đất, lộ ra ngón tay có phần tái nhợt, sau đó cúi người xuống, cung kính dập đầu một cái. Cảnh Thất thấy được, trong khoảnh khắc ấy, đám võ sĩ Nam Man đứng sau lưng đều siết chặt nắm tay lại, còn chàng trai trẻ mới khiêu khích Giản thượng thư ban nãy thì hệt như bị sương đánh tuyết đè, cả vành mắt cũng đỏ lên. Hách Liên Bái "chậc" một tiếng, xua tay: "Mau bình thân cả đi". Sau đó ngài liền quay đầu sang trừng mắt liếc Giản thượng thư: "Giản ái khanh này, không phải trẫm nói khanh đâu, thế nhưng Đại Khánh chúng ta là thiên triều thượng quốc, nên có tấm lòng bao dung người khác. Hắn chỉ là một đứa trẻ, ngàn dặm xa xôi tới nơi này, mới được bao nhiêu tuổi? Khanh bắt chẹt hắn làm chi? Người đâu, ban ghế cho Vu Đồng". Đợi đến khi đối phương quỳ rồi, dập đầu rồi, ngài mới trách giận lão thượng thư, khiến người ta triệt để biến thành kẻ xấu, vừa khéo tôn lên lòng nhân ái của bản thân. Cảnh Thất cảm thấy hoàng thượng nhà mình quả thực là nhân vật có một không hai trong thiên hạ! Lại thấy vị hoàng thượng khôi hài này hơi nhoài người về phía trước, tò mò quan sát tiểu vu đồng của Nam Cương, hệt như đứa trẻ vậy, mở miệng liền hỏi: "Vu đồng Nam Cương, trẫm hỏi ngươi, nếu đã được gọi là vu đồng, vậy ngươi có bản lĩnh gì hơn người hay không?". Ngài vươn tay ra hiệu: "Tu luyện vu thuật của các ngươi có thể thành tiên, có thể trường sinh bất lão không? À...đúng rồi, ngươi có biết thuật đi xuyên tường không?". Đại điện lặng ngắt trong chốc lát, có ai đời đường đường đáng cửu ngũ chí tôn tiếp đãi kẻ đến đầu hàng,câu nói đầu tiên không phải trấn an, cũng không phải uy hiếp, càng không phải thể hiện quốc uy Đại Khánh, lấy đó chứng tỏ rằng đối phương thua không oan uổng, về sau phải ngoan ngoãn nghe lời, mà là hỏi đối phương có biết thuật đi xuyên tường hay không? Phỏng chừng có không ít người mang tâm tình hao hao Cảnh Thất, muốn giấu mặt sau tay áo dài giả đò không tồn tại, nếu không thì giống như Giản lão thượng thư, tuy không nói năng gì, thế nhưng ria mép dựng ngược hết cả lên, trông có vẻ như sắp ngất ngay tại trận.
|
Chương 7: Một hồi náo nhiệt Một hồi náo nhiệt
Bàn tay rụt trong tay áo của Ô Khê nắm chặt lại, móng đâm thẳng vào lòng bàn tay, bộ dạng tay chống dưới cằm, nở nụ cười tủm tỉm của nam nhân trên cao vời vợi kia khiến hắn cảm thấy khó chịu không nói thành lời được. Hắn nghĩ, cách người đó nhìn mình giống như đám quý nhân đang vây xem con mèo con chó mua vui cho người vậy. Trên trần đại điện cao cao là một khoảng trời nho nhỏ, con rồng trên cây cột lớn kia sinh động như đang sống, lượn tròn mà lên, vút thẳng tầng trời. Ánh nhìn của tất cả mọi người đều phủ xuống từ trên cao, rơi xuống thân thể hắn. Ô Khê cứ nghĩ bản thân mình luôn luôn bình tĩnh, hắn đã cùng đại vu sư học tập rất nhiều điều, biết cái gì là đúng, cái gì là sai, thế nhưng chưa bao giờ hắn rơi vào tình trạng hoàn toàn mất kiểm soát bản thân như hiện tại. Ở Nam Cương, đại vu sư là thần của dân chúng, tộc nhân kính trọng đại vu sư như kính trọng đại thần Già Hi vậy, vu đồng là đại sư tương lai, nghe nói vu đồng chính là tiểu sứ giả từ trên trời giáng xuống, phải chọn lựa rất kỹ càng, sau đó rời khỏi gia đình mình, được nuôi bên cạnh đại vu sư từ nhỏ, học đủ loại kiến thức, trong mắt của các tộc nhân, chẳng hề vì hắn nhỏ tuổi mà thiếu chút tôn sùng. Bỗng chốc bên trong hắn có một nỗi kích động trào dâng, điên cuồng va đập, muốn xông khỏi thân thể, muốn lao về phía tất cả những người đã khinh miệt hắn như vậy. Ô Khê cúi đầu nhìn chếch sang, lại trông thấy vẻ mặt của A Tâm Lai và những người khác - những dũng sĩ và tộc nhân quả cảm can trường của hắn, đang đứng đó, nhỏ bé, tầm thường, trên gương mặt là nỗi bi phẫn khi dám giận mà không dám nói. Những nam nhân dù có đối mặt với dã thú và rắn độc cũng chưa từng lùi bước, giờ phút này đang đứng ở đây, phải ngẩng đầu thật cao mới có thể trông thấy kẻ ở trên cao vời vợi kia. Giống như một đám côn trùng mặc người xâu xé vậy. Ô Khê hít một hơi thật sâu, dùng đầu lưỡi cứ hễ nói tiếng quan thoại là lại không được linh hoạt cho lắm mà từ từ nói: "Những điều hoàng thượng nói, có lẽ là vu thuật của người Trung Nguyên, những thứ ấy Nam Cương chúng tôi không có". "Hả? Vậy các ngươi tu luyện những thứ gì?" Ô Khê lẳng lặng liếc mắt nhìn ngài, tạm thời chưa bàn đến Hách Liên Bái bị đường nhìn của hắn chiếu thẳng vào, đến cả Cảnh Thất đứng một bên cũng không khỏi cảm thấy ánh nhìn của đứa bé này thực cổ quái, có thứ gì đó rất khác thường, nhìn vào khiến lòng người cảm thấy khó chịu đến kỳ lạ, hoàn toàn không đáng yêu như những đứa trẻ khác. Ô Khê đứng dậy: "Để tôi biểu diễn cho hoàng thượng xem có được không?". Hách Liên Bái gật đầu ngay: "Được, ngươi có cần thứ gì trợ giúp không?". Ô Khê không nói lời nào, đôi mắt lộ ra bên ngoài hơi cong lại, tựa như đang cười, Cảnh Thất thấy thế lại không khỏi chau mày, lúc Ô Khê quay người lại, vừa khéo chạm phải ánh mắt nhìn sang dưới đôi mày chau lại của Cảnh Thất. Bấy giờ hắn mới chú ý đến đứa bé đang lơ đễnh, đứng hơi nghiêng người bên cạnh hoàng đế Trung Nguyên. Có điều Ô Khê cũng chỉ quét đường nhìn hời hợt qua người y một lượt, sau đó quay người đi hai bước, tới bên cạnh Thượng thư bộ Lễ Giản thượng thư Giản Tự Tông kia. Ô Khê ngẩng đầu, đôi mắt vừa to lại vừa đen cong lên, hắn đặt tay lên ngực mình rồi hành lễ. Giản Tự Tông không biết hắn có ý gì, chỉ chau mày quan sát hắn từ trên xuống dưới một lượt. Đột nhiên, Giản Tự Tông cảm thấy có gì đó không ổn, mắt lão như bị thứ gì đó che lại vậy, chỉ cảm thấy đôi chút mơ hồ, vội vàng lùi lại đằng sau hai bước, đôi tai ù lên, ngỡ ngàng nhìn bốn phía, nhưng người đứng dần ngay bên cạnh cũng không thấy rõ ràng. Trong lòng Giản Tự Tông biết mình đã bị trúng chiêu của tên tiểu tử này rồi, vừa ngạc nhiên vừa sợ hãi, lão chỉ tay vào Ô Khê, giận dữ quát lên: "Ngươi...". Thế nhưng vừa đưa mắt nhìn lại, trước mặt đâu phải tiểu tử áo đen che kín mặt, rõ ràng là một nữ tử thanh xuân váy áo hồng đào. Giản Tự Tông chỉ thấy nữ tử kia nhoẻn miệng cười với lão, lộ ra hàm răng trắng đều tăm tắp, hai gò má ửng sắc hồng nhạt, hai hàng mày dài hơi thấp xuống, khéo léo để lộ thứ phong tình không diễn tả được thành lời, đuôi mắt cong cong tựa móc câu, lại có ba phần hao hao như hoa khôi Tiểu Hà Nguyệt trong ngõ Cổ Liễu. Gương mặt Giản Tự Tông lập tức đỏ lên. Chỉ thấy mỹ nhân kia bước lên vài bước, bàn tay vươn lên cởi bỏ váy áo, Giản Tự Tông ngạc nhiên thầm nhủ, sao lại có hạng nữ nhân dâm đãng thế này, còn cả gan không màng liêm sỉ nhường kia. Lão đang định ngăn cản nàng ta thì lại chợt phát hiện ra, xung quanh lão đã chẳng còn bóng người nào, trong đại điện trống trơn không thấy bách quan quần thần đâu nữa, chỉ còn lại hai người là lão và nữ tử kia. Lão lại nhìn lần nữa, chỗ này đâu phải đại điện nào, rõ ràng là lầu Sinh Yên phủ ngập màn sa đỏ rực. Nữ tử rất giống Tiểu Hà Nguyệt kia đã sấn người tới, áo ngoài cởi ra hơn phân nửa, đôi bồng đào mềm nửa hở nửa che, trên đó nổi bật một nốt chu sa đỏ thắm, ánh mắt nàng mê man như phủ một tầng sương, thẹn thùng, e lệ lại vương vài phần giận dữ, đủ loại cảm xúc xoay vần trong đó. Nhưng chớp mắt nhìn một cái, lão lại chẳng thấy gì nữa cả, chỉ còn sót lại một đôi mắt hạnh long lanh nước. Giản Tự Tông thấy tình cảnh ấy, chỉ cảm thấy có một luồng nhiệt kéo qua phần thân dưới, ba hồn bảy vía đã sớm bay mất hơn phân nửa, kìm lòng không đặng mà vươn tay ôm chặt lấy mỹ nhân kia. Chỉ cảm thấy người trong lòng vùng vẫy chối từ, càng tăng thêm mấy phần quyến rũ như thấm sâu vào xương tủy, khiến lão mất hồn, chỉ hận là không thể cùng nàng ngã người vào hương ấm, vào đám sa đỏ phủ đầy mặt đất, làm mưa làm gió cùng tới Vu Sơn*. *Thường dùng để chỉ cảm giác hoan lạc của những cặp tình nhân. Vào đúng lúc ấy, lão lại nghe bên tai vang lên một tiếng cười khẽ, người cười hình như còn chưa trưởng thành, thanh âm hơi the thé, thế nhưng cực kỳ lạnh lão, khiến người ta không khỏi run rẩy trong lòng. Giản Tự Tông đang ôm lấy nữ tử kia mà "thưởng thức", lại bị tiếng cười này dọa cho đổ mồ hôi lạnh, chân tay cứng lại, trợn tròn mắt. Kế đó lão thấy phần ngực nhói lên, bị đối phương dùng sức đẩy ra. Giản Tự Tông ngẩng đầu nhìn, người đứng đó nào phải Tiểu Hà Nguyệt của lầu Sinh Yên, rõ ràng là ông thị lang bộ Hộ người hai lạng thịt, mặt đầy nếp nhăn, mồm thì móm mém - Triệu đại nhân Triệu Minh Tích! Tất cả mọi người có mặt đều trợn mắt há mồm, sững người tại chỗ. Ban đầu chỉ thấy Ô Khê chẳng hiểu vì sao lại tới tìm Giản Tự Tông - người ban nãy vừa bắt chặt hắn mà nói chuyện, mọi người vẫn chưa hiểu đầu đuôi ra sao cả, lúc ấy hai người đứng cách nhau tròn hai thước, mắt to mắt nhỏ trừng trừng nhìn nhau chỉ trong thoáng chốc, liền thấy Giản Tự Tông đột nhiên lùi lại phía sau hai bước, chỉ tay về phía trước, thế nhưng còn chưa kịp nâng lên đã lại thả xuống. Sau đó đôi mắt Giản đại nhân nhìn không chớp về phía trống trơn đằng trước, cũng không biết ông trông thấy ai mà gương mặt lại đỏ bừng lên, nhìn sao cũng cảm thấy có phần đê tiện, kế tiếp con người xưa nay vốn bảo thủ giữ lễ nghi bậc nhất ấy lại cất giọng cười "khà khà", nước miếng chảy ra từ khóe miệng, ánh mắt cực kỳ dung tục, khác một trời một vực với vị đại nhân luôn mồm liêm sỉ lễ nghĩa ngày thường. Ánh mắt mọi người đều nhìn dại cả ra, Hách Liên Bái thì cố sức nhướng người về phía trước, chỉ hận không thể tới ngay bên cạnh nhìn cho rõ ràng. Sau đó Giản Tự Tông đột nhiên làm một động tác còn đáng sợ hơn, lão lại mở rộng hai tay, ôm chầm lấy Triệu Minh Tích đứng cạnh bên với tư thế mãnh hổ vồ mồi! Có trời cao làm chứng... Vị đại nhân Triệu Minh Tích đó có bộ mặt không nói là trời kinh đất hãi, thế nhưng ít nhất cũng có thể khiến quỷ khóc thần sầu, dọa hết hồn trẻ nhỏ, vậy mà Giản thượng thư lại cứ như đang ôm thiên hạ đệ nhất mỹ nữ trong lòng vậy, nét mặt cực kỳ dâm dật, mà chỉ ôm không thì cũng cho qua, lão lại còn rên hừ hừ mà bắt đầu động tay động chân, mồm cứ đứt quãng gọi cái gì mà "Tiểu Hà Nguyệt", "Bảo bối của lòng ta" mãi. Hách Liên Bái thấy mà nghẹn họng, mắt nhìn trân trối, một lát sau mới ngơ ngác bảo: "Chuyện...Chuyện này bắt đầu từ đâu thế? Ai da, Giản ái khanh à, dù khanh có...có đem lòng cảm mến Triệu đại nhân đi chăng nữa, thì cũng không thể bất chấp việc ông ấy đã đề huề vợ con rồi được!". Cảnh Thất thiếu chút nữa nện đầu mình xuống đất. Hoàng đế bệ hạ nói một lời chúng nhân kinh hãi, lý trí của văn võ bá quan sắp trở về vị trí cũ lại bị ngài đánh văng tít tắp. Cảnh Thất lẳng lặng lùi sang bên mấy bước chân, ánh nhìn dõi về phía vu đồng. Thầm nhủ ban nãy y đã cảm thấy tiểu tử này cổ quái, không ngờ lại có chút mánh lới từ thuật thật, tiểu độc vật này còn nhỏ thế mà đã "có thù tất báo" như vậy, tương lai quả thực rất khó lường. Lúc này mà còn không có ai đứng ra nói năng gì thì sẽ to chuyện mất, Giản Tự Tông chính là lực lượng trung kiên của bè cánh đại hoàng tử, Hách Liên Chiêu ban nãy nhất thời không phản ứng lại được, giờ cuối cùng cũng bước ra, gầm lên giận dữ; "Phụ hoàng, mệnh quan triều đình bị bỡn cợt trước mắt bao người thế này thì còn ra thể thống gì nữa?!". Tiếng gầm giận dữ này rốt cuộc cũng khiến cho mọi người tỉnh táo lại. Triệu Minh Tích uất nghẹn đến độ gương mặt tím bầm lại, thế nhưng thân người gầy guộc hệt con cá khô của ông tạm thời không đẩy được Giản Tự Tông bỗng chốc hóa thành "Liêm Pha không già"*, luống cuống tay chân vừa xô vừa đẩy vừa giận dữ gầm lên, đối phương lại chẳng có phản ứng gì, ngay cả triều phục cũng bị vạch ra non nửa. *Liêm Pha là tướng tài nhà Triệu. Trong Sử ký - Liêm Pha Lận Tương Như liệt truyện có chép: Sau khi Liêm Pha bị bãi chức đã chạy đến Ngụy quốc, Triệu vương muốn dùng lại ông, lại ngại ông tuổi cao sức yếu, bèn phái người đi thăm dò tình hình sức khỏe của ông. Kẻ thù của Liêm Pha là Quách Khai đã hối lộ sứ giả, sứ giả tới gặp Liêm Pha, Liêm Pha một bữa ăn một đấu gạo, mười cân thịt, sau đó mặc giáp lên ngựa, thể hiện bản thân vẫn còn dùng được. Thế nhưng do nhận được của hối lộ, sứ giả đã về báo lại rằng: "Liêm Pha tướng quân tuy già, thế nhưng còn ăn khỏe, có điều ngồi cùng với thần, chỉ một lát đã đi đại tiện đến ba lần". Triệu Vương nghe vậy nghĩ ông đã già, liền không dùng nữa. "To gan!" "Sỉ nhục người đọc sách, sỉ nhục người đọc sách!" "Người đâu, còn không tới kéo tên yêu nghiệt này ra ngoài!" Những tiếng kêu liên tiếp vang lên hệt như bầy ong vỡ tổ, bấy giờ Hách Liên Bái mới ho nhẹ một tiếng, khó xử nhìn Ô Khê. Đương nhiên ngài không thể lôi Ô Khê ra ngoài thật, thứ nhất là tuy vu đồng tà môn cổ quái, thế nhưng suy cho cùng vẫn là một đứa trẻ, ngài đường đường là vị vua nhân nghĩa, sao có thể bụng dạ hẹp hòi, đi chấp nhặt với một đứa bé con được? Vả lại... cái trò biểu diễn vu thuật tệ hại này quả thật là do ngài tò mò mà ra, Hách Liên Bái chung quy vẫn không thể tự giơ tay tát mặt mình được, thế là liền vỗ bàn một cái thật mạnh, quát rằng: "Các ngươi ầm ĩ cái gì?!". Dù sao ngài cũng là thiên tử, văn võ bá quan trong cơn kích động liền khựng ngay lại, sau đó đồng loạt quỳ xuống, Ô Khê cười, cũng quỳ theo họ, có điều sống lưng lại ưỡn thẳng tắp. Chỉ có mình Hách Liên Chiêu là khác, lúc này tuy hắn đã quỳ xuống, thế nhưng vẫn dám hô to gằn lớn: "Phụ hoàng! Phụ hoàng, Giản thượng thư là lão thần của Đại Khánh ta, đức cao vọng trọng, làm thế này... làm thế này là ép ông ấy phải lao đầu vào cột đá trên đại điện này đó phụ hoàng!". Hách Liên Bái khẽ ho một tiếng, nói với Ô Khê rằng: "Cái này... vu đồng Nam Cương, chuyện này quả thực không ra thể thống gì cả, ngươi mau giải thuật trên người Giản đại nhân đi? Trẫm biết sự lợi hại của vu thuật đất Nam Cương các ngươi là được rồi". Ô Khê lại nói: "Hoàng thượng, đây chẳng qua chỉ là một trò xiếc cỏn con thôi, thứ tôi gieo lên người ông ấy là một loại tình cổ*, ở chỗ chúng tôi gọi là Dấu Tiên Một Tấc Tiên Tung, gieo trên người ai thì người đó sẽ trông thấy người mà bản thân thực sự nhớ nhung trong lòng, ở chỗ chúng tôi, nhớ nhung ai thì phải tốt với người ấy, không đúng sao? Vì cớ gì phải đâm đầu chết?". *Một loại bùa gây mê, thường xuất hiện trong các câu chuyện thần thoại, cổ tích của Trung Quốc. "Cái này...", Hách Liên Bái sờ sờ mũi, chỉ đành ậm ờ cho qua chuyện: "Trung Nguyên là mảnh đất giáo hóa, đương nhiên không giống với chỗ Man Di của các ngươi rồi, đợi khi ngươi ổn định chỗ ở, trẫm đương nhiên sẽ hạ chỉ phái một tiên sinh tới dạy ngươi đọc sách và đạo lý, đến lúc đó ngươi sẽ hiểu, có một số chuyện... có một số chuyện không thể làm giữa chốn đông người được". Cảnh Thất nghiêng mặt sang một bên, thiếu chút nữa thì "thất thủ", chỉ vì một câu "không thể làm giữa chốn đông người được" của hoàng thượng. Kỳ thực Hách Liên Bái cũng có thể xem như người phong lưu, đôn hậu, cũng có phần tình cảm, nếu ngài không ngồi trên long ỷ này, thật ra cũng có thể xem là một người thú vị. Bấy giờ Ô Khê mới gật đầu: "Thì ra là không thể làm giữa chốn đông người, ta hiểu rồi". Một câu nói không biết đã đâm trúng tâm can của bao nhiêu vị có mặt trong đại điện. Bọn họ chỉ thấy thứ yêu nghiệt Nam Cương này quả thực chết không hết tội, tuổi còn nhỏ mà đã lòng dạ xấu xa, lời nói mỉa mai châm biếm, có thể nhìn ra hắn có lòng gây rối. Chỉ thấy Ô Khê vươn hai tay ra, vỗ nhẹ mấy cái theo một thứ nhịp rất đỗi lạ lùng, cười lạnh một tiếng, Giản Tự Tông kia hệt như bị người làm phép định thân, đột nhiên đứng đờ ra, Triệu Minh Tích nhân cơ hội đó, thở hổn hển, liều mạng dùng sức đẩy lão ra. Bấy giờ, hứng thú của Cảnh Thất lại nổi lên, những người khác không hay biết, chứ thật ra Giản Tự Tông hệt như trụ cột của phe phái đại hoàng tử vậy, năm ấy y giúp Hách Liên Dực "dọn dẹp" đám huynh đệ tranh quyền đoạt vị kia, bao nhiêu việc bẩn thỉu đều do y nghe tận tai trông tận mắt, đương nhiên biết Giản Tự Tông mồm đầy nhân nghĩa đạo đức này là hạng người gì, chỉ đáng tiếc kiếp trước y chỉ lo đấu đá tranh giành, cũng không có một nhân vật thình lình xuất hiện dọc ngang trời đất xông pha liều lĩnh là Nam Cương vu đồng, gây ra một phen náo nhiệt thế này. Bề ngoài y vẫn ngây ngô cái hiểu cái không, đứng bên hoàng thượng ra vẻ mình không tồn tại, cảm giác hả hê khi người gặp họa lại bộc phát trong lòng, thầm đoán xem đợi đến khi Giản thượng thư tỉnh táo lại, lão sẽ phản ứng thế nào. Triệu Minh Tích phẫn nộ chỉ vào Giản Tự Tông, toàn thân run bần bật như "sàng đan sảy thóc", gương mặt căng lên, đến độ những nếp nhăn chi chít cũng sắp bị san phẳng, thế nhưng cả nửa ngày cũng không thốt ra được một chữ. Phải nói rằng, đảng tranh phái đấu đã trở thành tiết mục cố định giữa các phe phái lớn với nhau, có điều suy cho cùng thì không phải người nào cũng có thể tìm được mấy gã "khó ngửi" giống mình mà lập phe lập phái. Thế nào cũng phải có một nhóm người, thuộc vào loại "Bà không thương cậu không yêu", "Chó nuôi trong nhà chẳng thèm đoái hoài", không dựa dẫm vào ai, cũng chẳng ưa người nào, mở miệng câu nào là chết ngay câu ấy, tóm được người nào là cắn lấy không tha, rất xui xẻo, vị Triệu đại nhân kia chính là loại người này. Đáng thương cho Triệu đại nhân thường ngày cắn người, miệng hắn to xong pha hung hãn, cắn phát nào chuẩn phát đấy, cắn phát nào điếng người phát ấy, công phu đoán dò thánh ý để mắng chửi người cần mắng chửi, chụp mũ kẻ cần chụp đã luyện đến độ "nước chảy mây trôi", thế mà lúc này lại phẫn nộ đến độ một câu tiếng người cũng không thốt được ra, chỉ run rẩy liên hồi. Cảnh Thất nghĩ, xem tính tình của Triệu Minh Tích như thế, có lẽ vị đại thần này sẽ nâng sự kiện đáng xấu hổ này lên một tầm cao mới, sau đó đâm đầu vào cột. Quả nhiên, chỉ thấy vị Triệu đại nhân kia giận dữ gầm lên một tiếng: "Tên tiểu nhân vô sỉ đến mức độ này! Hạng súc sinh ngoài mặt thì nhân nghĩa đạo đức trong bụng lại toàn những thứ đê tiện hạ lưu như thế mà cũng có thể luồn lách vào chốn triều đình, sỉ nhục mệnh quan triều đình trước mặt bao nhiêu người. Triệu Minh Tích ta tuy bất tài, thế nhưng rốt cuộc cũng từng đọc qua vài quyển sách, biết cái gì gọi là lễ nghĩa liêm sỉ! Chẳng thèm đứng cùng hàng ngũ với hạng gian thần vô đức thế này!". Kích động xong, quả nhiên ông liền lao thẳng đầu về hướng cây cột đá trong đại điện, may mà Triệu đại nhân tuổi cũng đã cao, lại không có tinh thần hăng hái "tuổi càng già chí càng cao" như Giản thượng thư, chạy cũng không nhanh cho lắm, thế là bị người khác xúm vào giữ lại. Triệu Minh Tích quỳ trên mặt đất, nước mắt nước mũi chan hòa, to giọng gào cái gì mà "Thẹn với thánh nhân", "Từ nay trở đi còn đâu mặt mũi..." Thì ra nam nhân mà làm ầm ĩ lên thì cũng chẳng kém hơn nữ nhân là mấy, đầu Hách Liên Bái sắp bị Triệu Minh Tích làm ầm ĩ sắp vỡ tung ra rồi, mặt mũi tái xanh. Thế là Cảnh Thất lại bắt đầu suy xét, làm ầm ĩ hồi lâu như thế, Giản Tự Tông đại khái cũng nên hoàn hồn lại rồi, lúc này hẳn là đến phiên Giản thượng thư đi đâm cột.
|