Pendragon 1 ~ Con Buôn Tử Thần
|
|
PENDRAGON 1 - CON BUÔN TỬ THẦN
Tác Giả : D.J. Machale Thể loại : Tiểu Thuyết, Xuyên Không, Dị Giới, Huyền Huyễn, Khoa Huyễn Copier: VHT Số Chương : 22 Trạng Thái : FULL
:o :o :o :o :o :o :o NHẬT KÍ #1: DENDURON
Mark ơi, mình hy vọng bạn đang đọc những dòng này.
Ôi, thật ra mình mong được bất kỳ ai đọc những dòng này, vì điều duy nhất có thể làm mình không hóa điên lên ngay lúc này, là phải viết hết lên giấy, để rồi đây, khi mọi chuyện chấm dứt, những trang nhật ký này sẽ chứng minh giúp là mình hoàn toàn không phải là một thằng dở hơi hoang tưởng. Bạn biết không, hôm qua có hai chuyện xảy ra đã làm đời mình đổi thay mãi mãi.
Chuyện thứ nhất là: sau cùng thì mình đã được hôn Courtney Chetwynde. Phải, đúng là cô bạn Courtney Chetwynde mỗi lần suy nghĩ điều gì là lại cắn môi dưới, cô bạn có đôi mắt màu xám sâu thăm thẳm nhìn như thấu tim gan người khác và đẹp ngất ngây trong đồng phục bóng chuyền, và... luôn tỏa ra mùi hương hoa hồng thoang thoảng đó. Sau thời gian dài quen nhau... lâu ơi là lâu, sau cùng mình đã được hôn cô bé. Tuyệt vời!
Chuyện thứ hai là mình bị phóng qua một cái hang giun gọi là “ống dẫn” để băng qua vũ trụ, tiến vào một hành tinh có lối sống như thời Trung cổ tên là Denduron, và mình lọt thỏm ngay vào giữa một cuộc nội chiến rất khốc liệt.
Nhưng hãy trở lại chuyện Courtney trước nhé.
Đây không phải là một cái hôn bình thường, kiểu chạm nhẹ lên má nhau và nói “rất vui được gặp bạn” như cậu tưởng đâu. Đây là một nụ hôn đúng nghĩa: mắt nhắm lại, môi kề môi và chúng mình sát gần nhau đến... ba mươi giây. Mình cảm thấy nhịp tim cô ấy đập trên ngực mình. Hay đó chính là tim mình đang đập rộn ràng? Hay là nhịp tim của cả hai đứa? Mình chẳng biết gì ngoài cảm giác rất... rất tuyệt vời. Ước gì mình được sống lại giây phút đó một lần nữa. Nhưng ngay lúc này chuyện đó chỉ là mơ mộng hão huyền.
Mình biết, trong mối lo sợ cận kề cái chết hiện nay mà chỉ mơ màng đến cô nàng Courtney Chetwynde lộng lẫy thì quả là xuẩn ngốc. Nhưng có lẽ chính vì mình sợ mình sắp chết nên tâm trí mình không ngừng nghĩ đến cô ấy. Ngay lúc này đây, kỷ niệm của nụ hôn là điều duy nhất có thật với mình. Mình sợ... nếu mất kỷ niệm đó là mình sẽ mất tất cả, và nếu điều đó xảy ra thì... Ôi, thật tình mình cũng chẳng biết chuyện gì sẽ xảy ra, vì mình hoàn toàn không biết chuyện gì đang xảy ra với mình đây. Có thể là viết tất cả ra, mình sẽ bắt đầu hiểu được phần nào.
Để mình lần lượt kể lại từng sự kiện đã dẫn đến việc mình phải viết những dòng này. Cho đến hôm qua mình sống rất thoải mái. Ít ra thì cũng thoải mái như bất kỳ thằng nhóc mười bốn tuổi nào khác có thể sống. Chuyện trường lớp rất dễ chịu; mình nổi bật trong các môn thể thao; ba má mình rất dễ thương; thường thường mình cũng đâu có ghét nhỏ em gái Shannon của mình. Mình có những bạn bè tuyệt vời, đứng đầu bảng là cậu đó, Mark. Nhà mình rộng rãi, mình có hẳn một không gian riêng để chơi nhạc hoặc làm bất cứ điều gì mà không bị ai quấy rầy. Marley, con chó cưng của mình, là một chó săn hoàn hảo chưa từng thấy; và... mới đây mình đã được hôn Courtney Chetwynde. Còn mong gì hơn nữa chứ?
Nhưng vấn đề là... mình còn có một ông cậu. Cậu Press.
Bạn nhớ ông ấy không? Cậu Press chính là người luôn xuất hiện trong những bữa tiệc sinh nhật của mình với những món quà đầy ấn tượng đó. Ông không chỉ đem đến một chú ngựa tơ, mà là cả một xe đầy nhóc ngựa tơ đủ để làm một cuộc đua ngựa nho nhỏ. Chính ông đã biến ngôi nhà mình thành mê cung bằng những tia la-de đó. Trên cả tuyệt vời, đúng không? Sinh nhật mình năm ngoái, ông đã đổ lên bàn tiệc cả núi bánh pizza. Bạn nhớ ra ông cậu mình chưa? Mỗi lần cậu Press xuất hiện, như từ trên trời rơi xuống, là một lần gây sốc. Chẳng hạn như cho mình bay bổng trên một phi cơ riêng. Thật mà, vì ông là một phi công. Lần khác, ông cho mình một máy vi tính vô cùng hiện đại, thậm chí chưa hề bầy bán trong cửa hiệu nào. Bạn biết cái máy tính của mình rồi đó, cái máy mà không cần nhấn số, chỉ cần nói lên các con số là đủ ấy. Cũng là của cậu Press cho đấy. Mình có thể nói với bạn, ông là người mà ai cũng ước ao có được một ông cậu như thế.
Nhưng cậu Press luôn có vẻ gì đó hơi bí ẩn. Cậu là anh của má mình, nhưng bà ít khi nói về cậu. Dường như bà cảm thấy nói về ông là chuyện... không bình thường. Mỗi lần mình hỏi, má chỉ nhún vai nói đại loại như: “Ồ, con biết mà, cậu con là người kín đáo. Bài vở hôm nay sao rồi?” Nghĩa là... má lảng tránh câu hỏi của mình.
Mình chẳng hiểu ông sống bằng nghề ngỗng gì mà luôn có cả đống tiền. Mình đoán, chắc cậu Press phải nắm công việc gì đó rất cao trong chính phủ, chẳng hạn như nghiên cứu về không gian hay gì gì đó. Đó là việc rất bí mật. Vì vậy mình không dám hỏi nhiều. Cậu chưa lập gia đình, nhưng thỉnh thoảng lại xuất hiện tại nhà mình với một vài nhân vật rất đặc biệt. Một lần cậu đến với một bà, bà ta chẳng hề thốt một lời. Cậu giới thiệu bà ta là “bạn”, nhưng mình có cảm giác bà ta là “bồ” của cậu thì đúng hơn. Màu da bà ta đen sẫm, nên mình nghĩ bà là người Phi châu. Bà rất đẹp. Điều lạ lùng là bà ta cứ lom lom nhìn mình, tủm tỉm cười. Đôi mắt bà rất dịu dàng, nên không làm mình sợ hãi hay bối rối.
Có thể bà không nói năng gì là vì bà không biết tiếng Anh. Tuy nhiên mình vẫn cứ cảm thấy gai gai khắp người.
Thú thật mình chưa hề gặp ai trầm tĩnh như cậu Press. Cho đến hôm qua...
Tối qua là trận bán kết giải bóng rổ toàn tỉnh. Bạn biết mình quan trọng đối với đội nhà như thế nào rồi đấy! Mình là tay săn bàn xuất sắc nhất trong đội trường Trung học Cơ sở Stony Brook. Không phải mình khoác lác, mà sự thật đúng là như thế. Vậy nên trận đấu mà không có mình là không ổn. Thôi được, có lẽ mình chẳng quan trọng đến vậy đâu, nhưng bỏ thi đấu chắc chắn không phải là tính cách của mình. Ba má đã tới hội trường trước với em gái Shannon của mình rồi. Bài làm ở nhà còn cả đống nên mình phải thanh toán rồi mới đi được. Mình sẽ chỉ còn đủ thời gian để nhai một cái bánh nướng, tọng một trái chuối, cho Marley ăn, rồi tót lên xe đạp, phóng tới trường. Nhưng đó chỉ là kế hoạch.
Phải chi mình làm bài tập nhanh hơn một chút xíu thôi, hay đừng vớ vẩn chơi trò ném bóng với con Marley, hoặc tới trường hãy đi tiểu, thì chắc đã chẳng có chuyện gì xảy ra.
Nhưng... chuyện đó đã xảy ra!
Mình vừa vơ vội ba-lô, tiến ra, mở tung cửa trước và... đứng ngay trước mặt mình là... Courney Chetwynde.
Mình lặng người. Cô ấy cũng vậy. Cứ như có ai đó vừa bấm nút “bất động” lên hai sinh vật. Nhưng những ý nghĩ dồn dập trong trí não mình không bị dòng tĩnh điện nào làm ngưng trệ. Mình “si” cô bé từ những ngày mới cùng chung tiểu học. Bao giờ cô ấy cũng rất... hoàn hảo. Nhưng không phải cái kiểu quá là hoàn hảo, không ai có thể với tới được đâu. Cô ấy đẹp và thông minh, rất tuyệt vời trong các môn thể thao, cười ròn tan và hay nói chuyện khôi hài. Mình nghĩ đó mới là điều căn bản. Sự thật là cô ấy hay nói đùa. Có lẽ điều đó nghe có vẻ hơi ngố. Nhưng nếu bạn nói đùa và biết rằng làm như vậy mọi người sẽ nhìn bạn như một tên ngố, mà vẫn tiếp tục tuôn ra cả tràng chuyện khôi hài để làm mọi người ha hả cười ghẹo bạn, thì bạn có thật sự ngố không?
Tất nhiên mình không phải là kẻ độc nhất cảm thấy như vậy về Courtney. Mình chỉ là một kẻ trong cái hàng dài “trồng cây si” cô ấy thôi. Vậy mà cô ấy đang đứng trước cửa nhà mình. Ngay lập tức, từng tế bào trong bộ não mình rối rít hoạt động, cố tìm ra một câu nói vừa tự nhiên vừa hoàn hảo nhất. Lời đầu tiên thốt ra trong thời điểm cực kỳ quan trọng này sẽ khắc ghi ấn tượng của đối phương về bạn mãi mãi sau này. Nó sẽ, hoặc chứng tỏ mình đủ bản lĩnh làm chủ tình hình, sẵn sàng xử lý mọi tình huống bằng trí thông minh và sự điềm tĩnh, hoặc nó làm mình lắp bắp mấy câu ngu ngốc, đầu óc mụ mẫm từ dấu hiệu đầu tiên của áp lực. Tất cả ý nghĩ đó thoáng qua đầu mình không đến vài giây trong thời gian cả hai đứa “bất động”. Nhưng cô ấy đến tận nhà mình, mình phải lên tiếng trước chứ. Vì vậy, mình xốc lại cái ba-lô trên vai, mỉm cười, nói:
-Ủa???
-Ủa??? Thậm chí không được một từ cho ra hồn. Đời thuở nhà ai lại nói “ủa” trong trường hợp này? Trừ khi bạn vào vai diễn viên cơ bắp Sylvester Stallone. Mình đã tưởng cô ấy tắt nụ cười trong thất vọng não nề, quay phắt ra về, không thèm nói lời nào. Trái lại, cô ấy cắn môi dưới (nghĩa là nàng đang suy nghĩ đó), rồi nói:
-Chào.
Vậy là ổn. “Chào” dù sao cũng khá hơn “ủa”. Mình khởi sự nhập cuộc chơi:
-Có chuyện gì vậy?
O.K. Có lẽ mình chưa sẵn sàng nhập cuộc, dù sao đưa banh về phần sân của cô ấy cũng dễ hơn. Và lúc đó mình mới nhận ra một điều kỳ lạ: Courtney có vẻ bối rối. Không phải vì sợ hay gì khác, mà vì không được tự nhiên cho lắm. Mình bỗng tự tin hẳn lên. Thì ra Courtney Chetwynde cũng căng thẳng như mình. Rất tốt.
Cô ấy mỉm cười, ngập ngừng nói:
-Biết bạn sắp phải đến trận đấu và còn nhiều việc khác nữa, mình không muốn làm bạn bị trễ...
Trận đấu nào nhỉ? A, phải rồi, trận bán kết. Gần như mình quên tịt vụ này. Mình nói dối:
-Còn nhiều thời gian mà. Vào nhà đi.
Mình hoàn toàn tỉnh táo lại. Khi cô ấy đi qua mình để vào nhà, hương hoa hồng thoang thoảng tỏa ra. Mình đã phải ráng hết sức bình sinh để không cố hít hà mùi thơm tuyệt vời đó. Đây không phải lúc tỏ ra quá “ngáo” đến thế được. Vì cô ấy đã vào nhà mình. Cửa đã khép lại và chỉ có hai đứa mình thôi.
Sau đó, mình chẳng biết phải làm gì. Courtney quay lại, đôi mắt xám chưng hửng nhìn mình. Cầu trời cô ấy không nhận thấy hai đầu gối mình đang mềm nhũn ra.
Giọng thăm dò, Courtney lên tiếng trước:
-Mình không biết là có nên đến đây không?
-Mình rất mừng là bạn đã đến.
Bóng vẫn bên phần sân cô ấy, nhưng mình cố làm cho Courtney yên tâm. Cô ấy bảo:
-Thật sự mình cũng chẳng hiểu lý do mình đến, có lẽ chỉ để chúc bạn may mắn trước trận đấu. Nhưng... mình nghĩ còn quan trọng hơn chuyện đó nữa.
-Thật vậy sao?
-Mình không biết chính xác phải nói thế nào đây, Bobby, nhưng từ khi chúng ta còn là những đứa trẻ con, mình đã... có cảm tình với bạn.
-Hả?
-Trời đất! Nói ra những lời này, mình cảm thấy lố bịch quá.
Cô ấy quay đi, không nhìn mình nữa. Mình đang mất nàng rồi. Phải làm sao cho Courtney bớt bối rối, mình nói:
-Courtney, mỗi khi nghĩ đến bạn, mình nghĩ đến rất nhiều điều, nhưng tuyệt đối chưa bao giờ mình nghĩ bạn là người lố bịch.
Cô ấy quay lại, nhìn mình nhoẻn cười.
-Mình không biết phải nói thế nào, nên... nghĩ sao nói vậy nghe. Bobby, bạn có điều gì đó thật đặc biệt. Mình biết bạn thông minh, chơi thể thao rất cừ, được nhiều người hâm mộ và... nhưng còn hơn vậy nữa, bạn... Mình không biết diễn tả sao đây? Bạn có một sức lôi cuốn làm mọi người yêu mến và tin cậy. Không vì bạn cố gắng chứng tỏ hay ráng lấy lòng ai. Có lẽ chính vì bạn không hề có những cử chỉ, thái độ như ta đây hơn những người khác, nên bạn thật sự là một người bạn tốt...
Courtney ngập ngừng rồi cho nổ một quả bom làm mình chới với:
-Từ năm lớp bốn bạn là người đã chinh phục mình hoàn toàn.
Có nằm mơ mình cũng không bao giờ “mơ” được chuyện này! Mình câm như hến. Hy vọng lúc đó mình không há hốc mồm, mặt thộn ra.
Cô ấy nói tiếp:
-Thật sự, mình chẳng hiểu sao lại nói với bạn chuyện đó lúc này. Nhưng mình có cảm giác kỳ lạ là, nếu không nói bây giờ thì sẽ chẳng còn dịp nào để nói nữa. Vì vậy mình muốn cho bạn biết những gì mình cảm thấy và... làm chuyện này... Thế là chuyện đó xảy ra. Nụ hôn ấy mà. Cô ấy bước tới, hơi ngập ngừng một giây, như để xem mình có ngăn lại không, (ồ đúng vậy, cứ như chuyện đó xảy ra là một điều nguy hiểm vậy), và chúng mình hôn nhau. Không cần kể lại chi tiết, nhưng chắc bạn đủ hiểu mình là một kẻ hạnh phúc đến nhường nào. Đó là ba mươi giây kỳ lạ nhất đời mình. Hai mắt nhắm tịt, nhưng mình vẫn nhìn thấy trọn vẹn một tương lai tràn đầy hình ảnh của Courtney và những nụ hôn. Mình không biết có thể vừa hôn vừa nhoẻn cười được không, nhưng nếu là có thể thì mình đã làm vậy đó. Rồi, mình mở mắt và... mọi chuyện chấm dứt.
-Chào cháu, Bobby.
Cậu Press đang đứng lù lù trước mắt! Ông ấy hiện ra từ xó xỉnh nào vậy? Mình rời khỏi
Courtney nhanh như chớp, đến nỗi hai mắt cô ấy vẫn còn đang nhắm tịt. Thật tình lúc đó trông Courtney rất tếu, như đang hôn không khí vậy, nhưng Courtney mau chóng tỉnh lại. Mark, tin không? Lúc đó mình đã không phì cười đâu.
-Cháu chào cậu.
Mình suýt nói “ủa”, ngốc vậy đó. Chẳng hiểu sao mình phải hoảng hốt vậy. Có gì quá đáng đâu? Hai đứa mình chỉ hôn nhau. Cứ cho đó là nụ hôn của sự liên kết lớn nhất mọi thời đại, nhưng vẫn chỉ là một nụ hôn thôi mà. Vừa phát hiện chuyện gì đang xảy ra, Courtney mất hết bình tĩnh và cô ấy bối rối thật sự. Dường như Courtney muốn biến ngay khỏi nhà mình. Mình cũng vậy, chỉ muốn biến theo ngay cô ấy đến bất kỳ đâu.
Courtney tiến tới cửa lắp bắp:
-Mình... tốt hơn là mình... về thôi.
-Đừng. Đừng đi.
Mình kêu lên, không muốn phải hứng “ngột ngạt” một mình. Nhưng cậu Press lại nghĩ khác:
-Phải. Cháu nên về đi.
Ngắn gọn, thẳng thừng, đơn giản đúng như vậy đó. Cung cách nói của ông làm mình lo ngại. Chẳng hề giống cậu Press chút nào. Thường thường, cậu Press thật sự của mình sẽ xem việc bắt gặp thằng cháu đang làm trò “vớ vẩn” là một chuyện rất khôi hài. Thật vậy, như lần bắt gặp mình ngồi tỉ tê với nhỏ Nancy Kilgore tại cổng sau, cậu cũng chỉ ha hả cười, làm mình mắc cỡ muốn chết luôn. Thỉnh thoảng cậu lại đem chuyện đó ra chọc ghẹo, nhưng đó là những khi chỉ có riêng hai cậu cháu với nhau thôi. Lần này khác hẳn. Lần này cậu không hề cười.
Vừa bước ra phía cửa, Courtney vừa nói:
-Chúc tối nay bạn may mắn trong trận đấu. Mình sẽ cổ vũ hết mình. Cậu Press nghiêng mình mở cửa cho cô ấy. Courtney bối rối, vội vàng gật đầu cám ơn và liếc nhìn mình với ánh mắt ẩn chứa một thoáng cười. Courtney vừa đi khỏi, cậu Press đóng cửa, quay lại nhìn mình.
-Xin lỗi, Bobby. Nhưng cậu cần cháu giúp. Cậu muốn cháu đi cùng cậu.
Nữa, lại thêm một điều không giống cậu Press chút nào. Cậu là người rất thoải mái. Theo mình đoán, cậu khoảng trên dưới năm mươi, nhưng không cư xử như những ông già khó khăn lẩm cẩm đâu. Luôn chọc ghẹo mọi người, dường như chẳng coi điều gì là quan trọng. Nhưng tối nay, cậu tỏ ra vô cùng nghiêm túc. Hình như cậu còn có vẻ hơi... e sợ. Mình bảo:
-Nhưng tối nay cháu phải có mặt trong trận bán kết. Cháu bị trễ rồi đó...
-Mấy giây trước, hình như cháu đâu có lo bị trễ?
Ghi điểm chính xác. Nhưng thật sự mình bị trễ rồi và đây là một trận đấu quan trọng.
-Ba má và em Shannon tới đó rồi. Nếu cháu không tới kịp thì...
-Họ sẽ hiểu. Cậu đã không nhờ đến cháu, nếu cậu nghĩ việc này không quan trọng hơn một trận bóng rổ... hay chuyện hôn cô bé xinh đẹp vừa ra khỏi đây. Mình định cãi lại vấn đề thứ hai, nhưng cậu tỏ ra rất căng thẳng. Đó là một điều thật khác thường. Dường như đọc được tư tưởng mình, cậu nói ngay:
-Bobby, cháu từng biết cậu từ khi cháu còn bé, có bao giờ cháu thấy cậu như thế này chưa?
Mình không cần trả lời. Rõ ràng có chuyện nghiêm trọng đã xảy ra. Cậu nói dứt khoát:
-Vậy là cháu đã hiểu chuyện này nghiêm trọng đến thế nào rồi. Mình không biết phải làm sao. Ngay lúc này, một đội bóng đang chờ mình giúp để đoạt danh hiệu vô địch cúp toàn tỉnh. Chưa kể gia đình, bạn bè và một cô bạn gái đang mong mỏi thấy mình chạy ra sân. Nhưng đứng trước mặt mình là một người cùng huyết thống đang cần mình giúp đỡ. Từ nhỏ cho đến khi mình khôn lớn, cậu Press đã làm rất nhiều điều cho mình mà không đòi hỏi một điều nhỏ nào đáp lại. Sao mình có thể từ chối cậu được?
-Nhưng cậu phải hứa giải thích mọi chuyện cho huấn luyện viên của cháu, ba má và cả Courtney Chetwynde nữa.
Cậu Press chỉ nở nụ cười quen thuộc, nói:
-Họ sẽ hiểu.
Cố tìm những lý do chính đáng khác để không phải đi cùng cậu, nhưng chẳng có lý do nào, mình đành thở dài nói:
-Vậy thì cậu cháu mình đi thôi.
Cậu Press mở cửa ngay lập tức. Mình nhún vai bước ra. Cậu chỉ ba-lô của mình, bảo:
-Cháu sẽ không cần đến cái này đâu.
Không hiểu sao mình cảm thấy đó là một điều bất thường đáng ngại, nên hỏi:
-Cậu Press, tất cả chuyện này là sao?
Nếu lúc đó cậu nói hết sự thật, chắc mình đã chạy ngay lên lầu, vào phòng, chui tọt xuống gầm giường rồi. Nhưng ông không nói, chỉ ngắn gọn bảo:
-Rồi cháu sẽ biết.
Ông là cậu mình và mình tin ông. Vậy là mình bỏ ba-lô xuống sàn, ra khỏi cửa. Cậu Press không đi theo ngay. Mình nhìn lại và thấy ông đang đứng ngó quanh nhà. Có thể điều này do mình tưởng tượng: trông ông có vẻ buồn buồn, như thể đây là lần cuối cùng ông đến nơi này. Sau vài giây, ông nói:
-Cháu yêu ngôi nhà này và gia đình lắm, phải không?
-Dạ... tất nhiên.
Mình trả lời. Thật là một câu hỏi ấm ớ. Đảo đôi mắt đầy khắc khoải quanh nhà lần nữa, rồi khi cậu Press quay lại nhìn mình, vẻ buồn trên mặt ông không còn nữa. Thay vào đó là vẻ quả quyết của một người đang bận tâm đến công việc ở một nơi khác. Ông nói:
-Đi thôi.
Bước qua mình, ông tiến xuống lối đi trước nhà dẫn ra đường. Cậu Press luôn luôn mặc một kiểu: quần jean, bốt cao cổ, sơ mi lao động màu nâu sẫm. Phủ bên ngoài là áo khoác da nâu nhạt, dài tới gối. Vạt áo khoác phất phơ khi ông bước đi. Hình ảnh này mình đã thấy nhiều lần trước đây, nhưng vì lý do nào đó, lần này trông ông như một người đang gặp phải một chuyện bế tắc. Trong một thời điểm và nơi chốn khác, có thể ông là một tay cao bồi bụi bặm đang phóng ngựa vào thành phố, hoặc là một tùy viên quân sự tay xách cặp hồ sơ quan trọng. Cậu Press quả thật là một nhân vật độc đáo.
Đậu trước nhà là một xe mô-tô. Mình chưa bao giờ thấy một chiếc mô-tô ngon lành đến thế. Nó giống như mấy cái xe đua đầy màu sắc, nhỏ bằng bao diêm mà mình đã chơi cách đây không lâu. Nhưng chiếc xe này rất lớn và rất... thật. Cậu Press luôn lịch lãm đúng thời trang mà. Lấy một nón bảo hộ trên yên xe, cậu ném cho mình. Hai cậu cháu đội nón. Cậu đề máy xe và mình rất ngạc nhiên vì tiếng máy nổ không lớn lắm. Mình cứ tưởng tiếng máy sẽ rú lên rầm rầm. Nhưng chiếc xe này nổ rất êm, chỉ như... phải rồi, như một hỏa tiễn sắp được châm ngòi. Mình nhảy lên sau cậu, cậu quay lại hỏi:
-Sẵn sàng chưa?
Mình thành thật trả lời:
-Chưa.
-Tốt. Cậu sẽ ngạc nhiên nếu cháu bảo “đã”.
Cậu Press sang số, nhấn ga, và hai cậu cháu mình bay xuống con phố yên tĩnh của vùng ngoại ô, nơi có mái nhà mình suốt mười bốn năm qua. Mình hy vọng có ngày được thấy lại ngôi nhà đó.
|
TRÁI ĐẤT THỨ HAI
... Mình hy vọng có ngày được thấy lại ngôi nhà đó.
Rời mắt khỏi bó giấy da đang cầm, Mark Dimond ngước lên hít một hơi thật sâu. Tim nó đập rộn ràng. Nét chữ trên giấy dường như đúng là nét chữ của thằng bạn thân nhất, Bobby Pendragon, nhưng câu chuyện này không thể nào tin nổi. Nó lại nhìn xuống mấy trang giấy, nhìn những dòng chữ gấp gáp, mực đen nhòe nhoẹt trên một thứ giấy da cổ lỗ màu vàng. Nhìn rất thật, rờ mó cũng thật, nhưng quá nhiều chuyện chứa đựng trong những trang giấy này dường như gần với sự thật của một cơn mê sảng hơn.
Mark ngồi an toàn trong khoang vệ sinh thứ hai tính từ cánh cửa phòng vệ sinh của nam sinh trên lầu ba tại trường Trung học Cơ sở Stony Brook. Nó thường chui vào đây, khóa cửa, để suy nghĩ. Phòng vệ sinh này ít khi được sử dụng, vì nằm cuối tòa nhà, gần khoa nghệ thuật, tránh xa khỏi quỹ đạo đánh đấm nhau. Thỉnh thoảng nó đến đây để tắm rửa hay đi vệ sinh, nhưng thường là để né tránh. Dưới chân nó là cả đống cuống cà rốt. Vừa nhai ngấu nghiến cà rốt, Mark vừa chăm chú rà soát lại mấy trang giấy. Nó đã đọc ở đâu đó là cà rốt làm tăng thị giác. Nhưng sau mấy tháng nuốt cả đống cà rốt, nó vẫn phải đeo kính và răng thì vàng khè.
Mark biết nó đâu phải là một thằng hoàn toàn thật khùng, nhưng nó cũng không thể chơi với đám trẻ kém thân thiện. Mối quan hệ duy nhất với cái thế giới “được chấp nhận” của nó chính là Bobby. Hai đứa cùng lớn lên và trở thành đôi bạn thân gắn bó với nhau. Khi Bobby bắt đầu lớn và được hâm mộ, thì Mark vẫn còn đặt một chân trong thế giới trẻ con. Nó vẫn đọc chuyện khôi hài của tụi nhóc, vẫn giữ tượng các nhân vật hành động bằng chất dẻo trên bàn học. Nó chẳng biết nhạc pop là gì, còn quần áo của nó thì chẳng thời trang một chút nào. Nhưng tất cả những chuyện đó không là vấn đề gì với Bobby. Mark làm Bobby vui cười, Mark làm Bobby suy nghĩ. Hai đứa tranh luận hàng giờ với những chuyện linh tinh như luật Tu Chính Đầu Tiên, giá trị tương đối của diễn viên điện ảnh Pamela Anderson trước và sau khi giải phẫu thẩm mỹ. Nhiều thằng vừa là bạn vừa là đàn em của Bobby rất khoái bắt nạt Mark, nhưng chỉ những khi không có mặt Bobby. Tụi chúng nó quá biết, đụng tới Mark là đụng tới Bobby, và chẳng tên nào dại dột dám kiếm chuyện với Bobby. Nhưng giờ đây rõ ràng đã có kẻ đang kiếm chuyện với Bobby. Mark đang nắm những bằng chứng đó trong tay. Mark không muốn tin những gì viết trong những trang giấy này. Trong trường hợp bình thường, Mark sẽ cho đây là một trò đùa của Bobby. Nhưng có những chuyện xảy ra làm Mark không thể nghĩ đây là một trò đùa được. Dựa lưng vào bức tường gạch men mát lạnh, nó nhớ lại những gì đã xảy ra đêm qua.
Mark luôn ngủ để đèn. Nó sợ bóng tối. Bí mật này ngay cả Bobby cũng không hề biết. Dù đôi khi Mark nghĩ để đèn ngủ còn dễ sợ hơn là không có chút ánh sáng nào. Vì đèn ngủ tạo ra những cái bóng. Như cái áo jacket sẫm màu treo sau cánh cửa, trông cứ như ngáo ộp đứng rình. Hình ảnh ghê sợ đó đã xảy ra mấy lần rồi, nhất là những khi Mark không đeo kính. Không có kính Mark chẳng nhìn rõ được gì quá cuối giường. Tuy nhiên, thỉnh thoảng bị hoảng hốt khi chợt thức giấc, vẫn còn hơn ngủ trong bóng tối om om.
Đêm qua, chuyện đó lại xảy ra. Mark nằm trên giường, chập chờn ngủ. Mở một mắt sắp ríu lại, nó sững sờ tưởng như nhìn thấy có người đứng cuối chân giường. Trong đầu nó cố tự nhủ: chỉ là những cái bóng do đèn chiếu của một ô-tô chạy qua rọi vào đó thôi. Nhưng bụng dạ nó lại thôi thúc nó phải thức dậy. Trí não nó trong tình trạng báo động toàn phần. Nó cố tập trung đôi mắt cận thị vào kẻ xâm nhập trái phép kia để xác định đó chỉ là bóng của cái ba-lô. Không được. Nó chẳng nhìn rõ được đó là vật gì. Với tay mò mẫm lên bàn ngủ kế bên, Mark làm đổ cái ly lủng củng toàn bút và máy chơi điện tử Game Boy, nhưng cũng tìm được cặp kính và đeo vội lên mắt. Nhìn về cuối giường... Mark chết sững vì sợ.
Ánh trăng dịu dàng xuyên qua cửa sổ, rọi lên... một người đàn bà đang đứng. Bà ta cao lớn, da đen sẫm. Chiếc khăn choàng sặc sỡ trễ xuống một bên vai, để lộ ra cánh tay cơ bắp cuồn cuộn. Mark thấy bà ta đẹp như một nữ hoàng Phi châu. Nó rụt chân, ấn gót, đẩy lưng sát tường sau giường, hy vọng mong manh là có thể làm vỡ bức tường để chạy trốn. Người đàn bà đưa một ngón tay lên môi, nhẹ “suỵt” một tiếng. Mark lặng người, đờ đẫn ra vì quá sợ. Nó nhìn vào đôi mắt người đàn bà và điều kỳ lạ xảy ra. Nó bỗng trở nên bình tĩnh. Bây giờ nghĩ lại, Mark không biết có phải lúc đó nó đã bị người đàn bà thôi miên hay niệm thần chú, vì thật kỳ lạ, bao nhiêu sợ hãi trong nó đều tan biến hết. Người đàn bà có đôi mắt dịu dàng thân thiện, như bảo Mark không có gì đáng sợ đâu.
Bà ta nhẹ nhàng nói: “Shaaa zaa shuu saaa”. Giọng bà ta như luồng gió ấm áp thổi qua cây cỏ. Vui vẻ và êm dịu, nhưng không mang một ý nghĩa gì. Sau đó người đàn bà đi tới ngồi lên giường, kế bên Mark. Mark không nhảy khỏi giường, vì chẳng hiểu sao, nó cảm thấy... rất an toàn. Thọc tay vào trong cái túi bằng lông vũ đeo trên sợi dây quanh cổ, người đàn bà lấy ra một cái nhẫn. Mark thấy cái nhẫn giống như nhẫn của học sinh trường cao đẳng, với một mặt đá màu xám đen gắn ngay chính giữa. Trên nhẫn có khắc những chữ được viết bằng thứ ngôn ngữ mà trước giờ Mark chưa từng nhìn thấy. Bà ta thì thầm:
-Bobby gửi cháu nhẫn này.
-Bobby? Bobby Pendragon? Chẳng biết chuyện gì đang xảy ra, nhưng Mark hy vọng được nghe người đàn bà lạ lùng xuất hiện trong phòng ngủ của nó vào nửa đêm cho biết vài tin tức về thằng bạn thân nhất của mình.
-Bà là ai? Sao lại biết Bobby?
Bà ta nhẹ nhàng nâng bàn tay phải nó lên và lùa cái nhẫn vào ngón tay nó. Chiếc nhẫn vừa vặn như in. Mark nhìn cái nhẫn kỳ lạ, rồi lại nhìn người đàn bà. Nó hỏi:
-Sao? Cái gì thế này?
Bà ta nhẹ chạm ngón tay lên môi Mark, làm nó im lặng. Lập tức nó cảm thấy hai mắt nặng nề. Mới một giây trước còn rất tỉnh táo mà giờ đây nó cảm thấy rã rời, chìm vào giấc ngủ. Chỉ một thoáng nó đã thiếp đi.
Sáng hôm sau, Mark thức dậy vào lúc 6 giờ 15 như thường lệ khi đồng hồ báo thức reo vang. Ý nghĩ đầu tiên là ghét cay đắng tiếng chuông đồng hồ. Ý nghĩ thứ hai là nó vừa trải qua một giấc mơ thật kỳ lạ. Mark chặc lưỡi, nghĩ chắc tại nó đã giảm khẩu phần rau tươi trước khi đi ngủ. Nó với tay, định bấm nút tắt chuông... và thấy...
Kìa, trên ngón tay nó là chiếc nhẫn người đàn bà đã cho. Mark ngồi bật dậy, nhìn trừng trừng mặt đá xám và những chữ viết kỳ lạ. Chiếc nhẫn có thật! Nó cảm thấy trọng lượng của chiếc nhẫn. Vậy là không phải mơ. Chuyện gì đang xảy ra thế này?
Vội vã mặc quần áo, không nói gì với cha mẹ về chuyện xảy ra, nó ra khỏi nhà. Chỉ một người có thể cắt nghĩa cho nó hiểu chuyện này: Bobby Pendragon. Nhưng có chuyện gì đó đã xảy ra với Bobby làm Mark nôn nao. Tối qua là trận bán kết bóng rổ và... Bobby đã không có mặt. Ba má nó, em gái nó đều đến dự, nhưng vắng mặt Bobby. Sau hiệp một, Mark định đến hỏi gia đình Pendragon là Bobby đi đâu, nhưng họ đều đã rời hội trường. Thật lạ lùng.
Đội bóng của trường Stony Brook đã bị thua. Mọi người la ó, muốn biết chuyện gì đã xảy ra với ngôi sao của họ. Về tới nhà, Mark phôn cho Bobby, nhưng không ai trả lời. Nó định ngày mai tới trường sẽ hỏi Bobby cho ra chuyện. Rồi nó lên giường đi ngủ và... đã gặp người khách kỳ lạ trong đêm. Bây giờ Mark muốn biết nhiều điều về Bobby hơn là chuyện vì sao bạn nó đã vắng mặt trong trận đấu bóng rổ.
Khi Mark tới trường, đề tài sôi nổi nhất là vụ trận đấu tối qua. -Ê, Dimond, thằng bạn siêu sao của mày đâu rồi?
-Nó chuồn rồi?
-Chuyện gì vậy?
Tất cả đều la thét nó về vụ Bobby. Như vậy chỉ chứng tỏ một điều: Bobby không có mặt tại đây. Tất nhiên Mark chẳng biết trả lời sao trước những câu hỏi dồn dập đổ xuống nó, nó chỉ biết nhún vai, tiếp tục bước đi. Nó đến tủ đựng đồ của Bobby, nhưng Bobby cũng không có mặt tại đó. Trái lại, một đám nhóc còn đông hơn đang giận dữ chờ phục kích Mark.
-Nó sợ tè ra quần rồi, phải không?
-Không dám dự cuộc thi đấu chứ gì?
Mark vội thoát ra khỏi đám này, chạy về phòng Bobby. Bobby cũng không có tại đây.
Vậy thì nó ở đâu? Chắc phải có chuyện không hay rồi.
Và rồi chuyện đó xảy ra. Lúc đầu chỉ là một chút vặn vẹo, rồi mau chóng mạnh dần.
Chính là cái nhẫn. Cái nhẫn đang vặn mình. Cảm giác như nó đang xiết lại, nới lỏng, xiết lại, rồi lại nới lỏng ra.
-Dimond! Ê, Dimond! Nó đâu rồi?
Thêm một đám nhóc nữa ào ào ùa vào thét hỏi. Nguy rồi! Mark cuống quít, tay trái nắm chặt cái nhẫn trên ban tay phải, cắm đầu chạy. Nó phóng vụt qua đám nhóc. Mấy thằng lớn hơn xô ngược nó lại, làm nó suýt ngã sóng soài. Nhưng may mắn là Mark vẫn trụ lại được. Ngay lúc đó chuông reo và tất cả đều phải trở lại phòng, nhưng Mark vẫn tiếp tục chạy, cho đến khi nó lên tới “Pháo Đài Cô Độc” của nó - phòng vệ sinh nam trên lầu ba.
Chạy tới giữa phòng, Mark xòe bàn tay phải, bàn tay cứ như không thuộc về nó. Cái nhẫn vẫn liên tục co giãn như nhịp đập của tim. Rồi, mặt đá xám bắt đầu lóe sáng. Mới một thoáng trước chỉ là một khối xám cứng rắn, giờ nó sống động như một viên kim cương lóng lánh. Những tia sáng phát ra từ chiếc nhẫn tràn ngập khắp căn phòng.
Không chịu đựng thêm nổi nữa, Mark lột vội cái nhẫn, quăng đi. Chiếc nhẫn bật vào bức tường gạch men, nẩy tung lên, rồi ngừng lại giữa phòng. Những tia sáng vẫn tiếp tục lan tỏa, lung linh nhảy nhót trên trần và mấy bức tường, làm căn phòng sống động với vô vàn ngôi sao sáng ngời tuyệt đẹp.
Mark kinh ngạc nhìn vòng nhẫn lớn dần, lớn dần cho đến khi kích cỡ gần bằng cái đĩa nhựa trong trò chơi ném đĩa, và rồi trong cái vòng to lớn đó, mặt sàn bỗng trở thành một hố đen. Chiếc nhẫn đã mở ra một miệng hố đen ngòm thăm thẳm... không biết tới đâu. Từ lòng hố sâu hoăm hoắm đó, Mark nghe văng vẳng những nốt nhạc. Đó không phải là một giai điệu, mà là một mớ hỗn độn những âm thanh êm dịu cứ lớn dần, lớn dần...
Mark giựt lùi, tránh xa cái nhẫn kỳ lạ, không biết nên chạy khỏi đây, hay ở lại nhìn những gì đang diễn ra. Nó vừa mê mẩn vừa khiếp đảm. Tiếng nhạc từ dưới hố vang lên lớn tới nỗi Mark phải bịt chặt hai tai. Dù đây là chuyện gì, Mark cũng không còn muốn tham dự nữa. Nó vùng chạy ra phía cửa. Vừa chạm tay mở cửa thì...
Tất cả hiện tượng đều biến mất. Tiếng nhạc thình lình ngưng bặt, như có người nào đó ngắt điện. Ánh sáng lóa mắt cũng chợt tắt. Chỉ một thứ không chịu ngừng: tiếng trống ngực của Mark. Dù chuyện gì đã xảy ra thì cũng đã chấm dứt rồi. Nó cố bình tĩnh lại. Buông tay khỏi cánh cửa, Mark nhìn lại phòng vệ sinh. Chiếc nhẫn nằm trên sàn đúng nơi Mark đã quăng nó xuống, với nguyên hình dáng cũ, mặt nhẫn đã trở lại là mặt đá màu xám.
Nhưng trên sàn còn có một vật khác nữa. Ngay bên cạnh cái nhẫn là một cuộn giấy. Cuộn giấy màu vàng được thắt chặt bằng một sợi dây da. Bất kỳ sự việc gì cái nhẫn gây ra, thì kết quả là để gửi cuộn giấy này tới đây, trên sàn phòng vệ sinh.
Mark thận trọng rón rén tiến đến gần cuộn giấy, cúi xuống, nhặt lên bằng bàn tay ướt đẫm mồ hôi. Đúng là một cuộn giấy. Chẳng có gì đáng sợ, chỉ kỳ quặc thôi. Mark tháo sợi dây da, từ từ mở cuộn giấy ra. Bốn tờ đầy chữ viết. Mark nhìn dòng đầu của trang thứ nhất. Những gì thoáng đọc làm Mark giật thót người như điện giật. Không thở nổi, không suy nghĩ được điều gì. Cuộn giấy kỳ lạ này là một lá thư gửi... cho nó.
Thư bắt đầu: Mark ơi, mình hy vọng bạn đang đọc những dòng này.
|
NHẬT KÍ # 1 (TIẾP THEO) DENDURON
Ngồi sau cậu Press trên chiếc mô-tô phóng vù như thế này, mình chẳng hỏi cậu được điều gì. Giữa tiếng xe máy, tiếng gió rào rào, hai cậu cháu đều đội mũ bảo hộ kín mít, không thể nào nói chuyện nổi. Vì vậy mình chỉ còn biết tưởng tượng, cố đoán xem cậu cháu mình đang đi đâu và vì sao.
Tuy nhiên có một điều rất rõ rằng: cậu Press đang phóng xe ra khỏi thị trấn. Mình sống tại vùng ngoại ô - êm đềm tĩnh mịch, O.K., có thể nói là buồn tẻ của thành phố New York (NewYork: Là thành phố lớn nhất Hoa Kỳ, bao gồm năm khu: Bronx, Brooklyn, Manhattan, Queens và Staten Iland). Mình đã được vào thành phố vài lần với ba má, hầu hết là trong những sự kiện đặc biệt, chẳng hạn như những buổi lễ huy hoàng tại Radio City, hay những buổi trình diễn tại trung tâm mua sắm Macy trong ngày lễ Tạ Ơn. Mark, nhớ không, một lần mình và bạn đã nhảy tàu điện để đi xem một bộ phim James Bond? Ngoài những chuyện đó ra, thành phố đối với mình vẫn tràn đầy bí mật.
Tuy nhiên, không cần phải một tài xế xe New York mới nhận ra cậu Press đang phóng xe vào một vùng... rất tệ của thành phố. Nơi này chẳng giống chút nào với New York mà mình đã từng thấy, chỉ trừ những hình ảnh được xem trong truyền hình về những tội ác xấu xa vừa mới xảy ra. Ngay khi vượt qua ngã tư đường cao tốc Bronx (Bronx: Là một trong năm khu của thành phố New York, nằm trên phần đất liền phía bắc Manhattan), cậu cháu mình lọt vào giữa một nơi toàn nhà cửa cháy rụi. Không một bóng người trên đường. Hoàn toàn trống vắng hoang sơ, vậy mà mình có cảm giác thật lạ lùng, mình tưởng như những cửa sổ tối om của những ngôi nhà hoang phế, rất nhiều cặp mắt đang dõi theo cậu cháu mình đang lướt qua. Tất nhiên lúc này là ban đêm.
Mình có sợ không? Bạn cứ thử hình dung mình muốn lộn mửa và ghì chặt cậu Press đến nổi tưởng như có thể làm gãy xương sườn của cậu, thì sẽ biết mình sợ hay không. Có đấy mình rất sợ. Cậu Press lái mô-tô tiến đến một trong nhưng cái ki-ốt cổ lỗ sĩ trên những bậc thang dẫn xuống hầm tàu điện ngầm. Hai cậu cháu nẩy lên khi xe chồm lên lề đường. Rồi cậu Press tắt máy. Thình lình tất cả trở nên hoàn toàn im lặng. Vậy đó, sau nửa giờ cưỡi trên lưng mô-tô, tất cả dường như lặng ngắt. Lặng ngắt thật sự, như đang ở trong một thành phố ma.
-Tới rồi.
Cậu Press tuyên bố, rồi nhảy xuống xe. Mình làm theo và rất mừng được tháo bỏ mũ bảo hộ. Cuối cùng thì mình đã có thể nghe lại được rồi. Cậu Press móc mũ lên xe, bước xuống lối vào hầm tàu điện ngầm.
-Cậu. Khoang đã. Bỏ xe và mũ lại đây sao?
-Mình ngạc nhiên hỏi. Không thể nào tin nổi. Thậm chí cậu còn không rút cả chìa khóa ra khỏi xe. Dù không là một chuyên gia về tội phạm, nhưng mình cũng dư sức biết là để đồ đạc tại đây là tất cả sẽ “bốc hơi” trong nháy mắt.
Bước xuống bậc thang,ông vội trả lời:
-Chúng ta không cần những thứ đó nữa.
-Sao không đi mô-tô mà lại đi tàu điện, hả cậu?
-Vì nơi chúng ta đến không thể đi bằng mô-tô được.
Vừa điềm nhiên trả lời ông vừa bước xuống thêm mấy bậc
Mình không nhúc nhích. Mình chờ đợi câu trả lời rõ ràng hơn, nếu không mình sẽ không bước thêm bước nào nữa. Cảm thấy mình không đi theo, cậu Press dừng bước, quay lại nhìn mình. Vẻ hơi bực, ông hỏi:
-Sao vậy?
-Cháu vừa bỏ qua một trận đấu quan trọng nhất đời cháu, ngày mai cả đội sẽ “làm thịt” cháu vì chuyện đó. Vậy mà cậu muốn cháu phải đi theo vào hầm tàu điện ngầm ở nơi tồi tệ nhất thành phố New York ư? Cháu nghĩ cháu đáng được biết là cậu cháu mình đang đi đâu chứ.
Dù biết đã vượt qua đoạn đường khá xa, nhưng nếu không được trả lời rõ ràng, mình sẽ cuốc bộ về. Tất nhiên, nếu cậu Press bỏ mình lại đây, mình sẽ chẳng biết đi ngã nào. Nhưng dù sao ông cũng là cậu mình, chắc ông cũng không để mình lần mò về một mình đâu.
Cậu Press dịu lại. Trong một thoáng mình lại thấy khuôn mặt của người cậu mình đã biết từ khi còn bé tới giờ.
-Bobby, cháu nói đúng. Cậu đã bắt cháu phải quá tin vào cậu. Nhưng nếu chúng ta ngừng lại để cậu có thể cắt nghĩa cho cháu biết tất cả, thì e rằng chúng ta sẽ quá trễ mất.
-Quá trễ chuyện gì?
-Một số người đang bị khốn đốn. Họ trông mông vào cậu giúp đỡ, và cậu thì trông mong vào cháu giúp cậu.
Vừa hãnh diện vừa nóng ruột, mình hỏi:
-Thật sao? Họ khốn đốn như thế nào ạ?
-Chuyện đó dài dòng lắm.Tốt hơn là cháu phải thấy.
Mark, mình không biết phải làm sao. Hơn nữa, dù muốn bỏ đi, mình cũng không biết phải ra khỏi đây bằng cách nào. Và người đàn ông này, cậu mình, đang nhìn thẳng vào mắt mình mà bảo cần mình giúp đỡ. Còn lựa chọn nào khác nữa đâu. Sau cùng mình đành phải thú thật ý nghĩ độc nhất trong đầu:
-Cháu sợ.
-Cậu biết. Nhưng xin hãy tin cậu, Bobby, cho đến khi mọi việc còn trong khả năng của cậu, cậu sẽ không để bất kì chuyện gì xảy ra cho cháu đâu.
Giọng ông thành khẩn làm mình thực sự yên tâm được... khoảng một giây. Mình hỏi:
-Chuyện gì xảy ra khi “không” nằm trong khả năng của cậu?
Cậu Press mỉm cười:
-Sẽ không có gì đáng ngại trong lúc này đâu. Cháu đi cùng cậu chứ?
Người ta thường bảo ngay trước khi sắp gặp vận rủi, đời bạn thoáng hiện ra trước mắt. Điều đáng ngạc nhiên là chuyện đó không xảy ra với mình. Mình không nghĩ đến trận đấu. Thậm chỉ không nghĩ đến cả Courtney Chetwynde. Mình chỉ nghĩ về mình và cậu Press. Tại đây và ngay lúc này. Mình coi đó là một điềm lành. Mình trổ hết tài nghệ diễn xuất khi nói:
-Hây, hô. Đi thôi.
Cậu Press pha lên cười, tiếng cười lâu lắm rồi mình mới được nghe lại, rồi chạy vội xuống những bậc thang. Trong khi nhìn cậu biến vào hầm tàu tối đen, mình cố hết sức làm ra vẻ không hề ngốc nghếch trong quyết định đi cùng cậu. Xuống tới bậc cuối cùng, mình thấy cậu Press đang đứng trước một bức tương bằng ván ép đầy hình vẽ chữ viết chặng ngang lối vào. Nhà ga đã bị đóng và bức tường gỗ cũ kỹ cho thấy nó đã đóng cửa lâu lắm rồi. Khoái quá, mình liến thoắng nói:
-A, có vấn đề rồi. Mình không đi được, phải không cậu?
Quay lại nhìn mình, như một ông thầy thông thái phán những lời khuôn vàng thước ngọc, cậu Press nói:
-Không có vấn đề nào hết. Chỉ có những thách thức thôi.
- A, nếu thách thức là đón tàu tại một nhà ga đã đóng cửa thì... cháu có thể gọi là một vấn đề.
Cậu Press không chịu thua, thận trọng với tay về phía bức tường gỗ, nắm một tấm ván giật mạnh. Dường như cậu không giật mạnh lắm đâu, nhưng ngay lập tức bốn tấm ván khổng lồ chỉ còn là một bức tường lỏng lẽo, một tấm mở ra để lộ một con đường dẫn vào nhà ga tối om.
Ông mỉm cười tinh quái:
-Ai nói về chuyện đón tàu nào?
Cậu nhẹ nhàng đặt tấm ván to đùng tại bậc thang, rồi bước vào bên trong. Mình không ngờ cậu Press khoẻ đến vậy. Mình cũng chẳng hiểu vì sao hai cậu cháu lại bước vào một nhà ga đóng cửa, trong khu vực tồi tệ nhất thành phố, vào ban đêm khuya khoắt như thế này.
Cậu Press thò đầu ra hỏi:
-Đi chứ?
Mình suýt bỏ chạy ngược lên thang, leo lên mô-tô tự phóng về. Nhưng mình đã không làm thế. Rất có thể chiếc xe đã bị đánh cắp mất rồi. Chẳng còn chọn lựa nào khác hơn là đành phải đi thao cậu.
Ga này đã được đóng cửa từ lâu lắm rồi. Nguồn sáng duy nhất là ánh đèn đường rọi qua những song sắt vỉa hè ga. Những bóng đổ chằng chịt đang chéo nhau trên tường làm nhà ga càng thêm tăm tối. Một lúc sau mắt mình mới quen được với bóng tối và mình đã có thể nhìn thấy một phần lịch sử bị lãng quên. Chắc chắn đã có thời nơi đây là một nhà ga sầm uất. Những tác phẩm khảm gạch men công phu lên tường hẳn là rất đẹp khi còn mới, nhưng bây giờ chỉ là một đống khổ rạn nứt cáu bẩn như một tấm lưới nệm khổng lồ, dơ dáy. Rác rưởi khắp nơi, băng ghế ngổn ngang lật úp; kính bao quanh bốt bán vé vỡ vụn. Tóm gọn lại một chữ là: buồn!
Khi mình đứng trên đầu những bậc thèm xi măng, nhà ga hoang tàn này bỗng có dấu hiệu của cuộc sống. Bắt đầu là một tiếng rung nhè nhẹ, rồi từ từ tiếng rầm rầm lớn dần. Có thể nhà ga đóng cửa, nhưng tàu điện vẫn chạy qua đây. Trước hết, mình thấy tia đền pha tiến vào, rọi sáng đường ray và những bức tường. Rồi là... đoàn tàu băng băng phóng tới. Chẳng có lý do nào tàu ngừng lại ga bỏ hoang này, nên nó rầm rầm phóng qua như tên bắn. Trong một thoáng, mình tưởng nhà ga sống lại những ngày huy hoàng trước kia. Nhưng cũng chỉ một thoáng, hình ảnh đó biến theo con tàu. Trở lại sự yên lặng chết chóc. Dấu hiệu duy nhất của đoàn tàu vừa mới chạy qua đây là những mảnh giấy nhàu nát xoáy cuộn theo luồng gió sau con tàu.
Mình nhìn cậu Press, xem ông có tỏ ra thương cảm số phận hẩm hiu của một lịch sử New York xưa cũ như mình không? Đôi mắt sắc của ông chăm chú đảo quanh nhà ga trống vắng, như đang tìm kiếm một điều gì. Rõ ràng ông đang rất lo lắng nhưng không muốn làm mình mất bình tĩnh. Mình chỉ biết ngẩn ngơ hỏi:
-Chuyện gì vậy, cậu?
Hấp tấp bước xuống mấy bậc thềm, đứng sát mình, cậu Press nói như không còn đủ thời gian:
-Nghe này, Bobby. Nếu có chuyện gì xảy ra, cậu muốn cháu biết phải làm gì.
-Xảy ra? Cái gì xảy ra?
-Mọi chuyện sẽ ổn cả, nếu cháu biết phải làm gì. Chúng ta không đến đây để đón tàu. Chúng ta có mặt tại đây vì nơi đây là... cổng.
-Cổng? Cổng nào?
-Cuối sân ga là những bậc thềm dẫn xuống đường ray. Đi xuôi đường ray khoảng ba mươi mét, dọc theo tường có một cái cửa. Trên cửa có hình vẽ giống như một ngôi sao.
Lúc đó, với mình, sư việc có vẻ dồn dập quá. Mình phải chạy vòng qua những cái cột, những đống vỏ lon, để theo kịp cậu Press đang bước vội về cuối sân ga. Cậu hỏi:
-Cháu nhớ những gì cậu nói chứ?
-Dạ, bậc thềm, cửa, ngôi sao. Vì sao chúng ta...
-Cái cửa chính là cổng. Nếu vì lí do nào mà cậu không ở bên cháu, hãy mở cửa, vào trong và nói “Denduron”.
-Denda... cái gì ạ?
-Den-du-ron. Nói lại đi!
-Denduron. Cháu nhớ rồi. Nó là gì vậy? Mật khẩu phải không cậu?
-Nó sẽ đưa chúng ta đến nơi chúng ta sắp đến.
O.K. Nhưng chẳng biết còn những bí ẩn gì nữa không? Sao không nói đại là “Úm ba la” cho dễ nhớ nhỉ? Mình bắt đầu nghĩ tất cả chuyện này chỉ là một trò đùa thú vị đây. Nhưng mình vẫn lo lắng, nên hỏi:
-Cậu dặn dò cháu làm gì? Mình cùng đi mà.
-Kế hoạch là vậy, nhưng lỡ có gì...
-Đứng lại ngay!
Trời đất không chỉ có cậu cháu mình ở dưới hầm này. Hai cậu cháu đứng khựng lại ngó quanh và thấy một... tay cớm. Bố ráp hay gì đây. Xâm nhập vùng cấm, mình đóan vậy. Vẻ rất tự tin, không, kênh kiệu thì đúng hơn, gã cảnh sát hỏi:
-Cho tao biết tụi bây đến đây làm gì, được không?
Tay cảnh sát gọn gàng tươm tất trong bộ ka-ki nâu, một phù hiệu to đùng và khẩu súng tổ chảng - nhưng rất may là vẫn còn nằm trong bao. Kể cả nếu bị bắt, mình thật sự yên tâm khi thấy gã cảnh sát. Vì nói thật, cậu Press bắt đầu làm mình hoảng. Mình không nghĩ cậu đã làm điều gì sai quấy, nhưng cuộc phiêu lưu này mỗi phút giây lại thêm kỳ quặc. Bây giờ, có cảnh sát xuất hiện, có thể cậu sẽ phải cắt nghĩa rõ ràng hơn. Mình nhìn cậu, chờ đợi cậu trả lời tay cớm. Nhưng mình chẳng thích những gì mình thấy một chút nào. Cậu Press nhìn tay cảnh sát từ đầu tới chân. Mình có thể cảm thấy cậu đang tính toán. Tính toán gì? Hy vọng là không. Khẩu súng bên hông gã cớm trong khiếp lắm. Im lặng kéo dài cho đến khi... lại thêm một kẻ nữa nhập cuộc:
-Các người không để cho tớ yên được sao?
Tất cả ba chúng tôi đều quay nhìn đống rác lù lù nơi góc tối om. Ít ra thì trông giống như đống rác cho đến khi cái đống đó nhúc nhích và nhận ra đó là một kẻ vô gia cư. Cải chính: hắn có nhà, chính là nơi chúng tôi đang đứng. Đó là một gã cao to, nhưng mình không thể bảo là hắn bao nhiêu tuổi. Toàn thể con người hắn là một mớ râu tóc và giẻ rách. Tất nhiên là hắn bốc mùi chẳng thơm tho gì. Hắn cố đứng dậy, lê bước về phía chúng tôi, líu lưỡi lắp bắp nói như một gã khùng:
-Yên ổn, thế... thế thôi. Tớ chỉ muốn được... được tí ti yên ổn... tí... ti thanh thản...
Cậu Press đứng thật vững trong thế thủ, đảo mắt nhanh giữa kẻ vô gia cư và tên cớm. Cậu đang suy nghĩ tính toán gấp.
Tay cảnh sát không thèm quan tâm tới gã khùng lang thang, bình tĩnh bảo cậu cháu mình:
-Tao nghĩ tốt hơn là cả hai hãy đi theo tao.
Mình nhìn cậu Press. Cậu vẫn đứng yên. Gã vô gia cư tiến lại gần hơn, lèm bèm:
-Lâu đài! Đây là... là lâu lâu đài của tớ. Tớ muốn tất cả các người...
Cậu Press hỏi:
-Sao? Mi muốn chúng ta phải làm gì?
Mình không thể tin là cậu Press lại bắt chuyện với gã khùng này. Lúc đó sân ga lại bắt đầu rung lên. Một đoàn tàu nữa lại bắt đầu tiến tới.
-Tớ... tớ muốn, các người cút ráo đi. Để cho tớ yên.
Chẳng hiểu sao cậu Press lại nhoẻn cười. Điều tính toán của cậu đã có câu trả lời. Cậu quay lại tay cảnh sát hỏi:
-Ngươi không rành địa phận này, đúng không?
Hả? Cậu có ý định gì vậy? Sau lưng chúng tôi, đèn pha của tàu điện đã bắt đầu rọi vào ga. Chỉ vài giây nữa tàu sẽ qua chỗ này.
Gã lang thang vung tay nhấn từng lời quát tháo với tay cớm:
-Mày. Tao nói mày đó. Cút khỏi lâu đài của tao ngay!
Mình sợ tay cảnh sát sẽ rút súng để tự vệ. Nhưng không. Hắn cứ đứng đó, trừng trừng nhìn cậu Press. Trông hai người như hai tay đấu súng, người này đang chờ người kia chớp mắt. Rồi, tay cớm nhếch mép cười hỏi cậu Press:
-Bằng cớ gì mi nói vậy?
-Bộ đồng phục. Cảnh sát khu vực này mặc màu xanh, không phải ka-ki nâu.
Tay này không phải là cảnh sát sao? Vậy hắn là ai? Tiếng còi tàu và tiếng bánh sắt nghiến trên đường ray gần dần. Cậu Press bình thản nói:
-Tuy nhiên ta cũng hãnh diện vì mi đã tự đến đây.
Cậu Press biết gã này là ai! Tên vô gia cư tiếp tục áp sát tay cớm (hay tay gì gì đó) hơn:
-Vậy đó, vậy đó, nếu mày không cút, tao sẽ...
Thình lình tên cớm ném cái nhìn cho gã lang thang. Cái nhìn lạnh lẽo làm mình nín thở. Gã lang thang đứng khựng lại. Chưa bao giờ mình thấy một ánh nhìn dữ dội đến thế. Gã vô gia cư lặng người, rồi bắt đầu run cầm cập giống như lên cơn sốt.
Tiếng còi rúc lên. Tàu sắp vào ga.
Gã lang thang có vẻ muốn tháo chạy. Nhưng ánh mắt như tia la-de của tên cớm làm hắn bất động. Rồi chuyện xảy ra, mà dù có muốn, suốt đời mình cũng không thể nào quên nổi. Gã lang thang há hốc mồm, hộc lên một tiếng kêu thống thiết đầy khiếp đảm, rồi vùng chạy. Nhưng hắn không chạy đi, mà chạy ra đường ray. Con tàu ào ào phóng vào ga trong khi gã này chạy về hướng tàu dang tiến tới!
-Đừng! Ngừng lại!
Mình gào lên. Nhưng hắn vẫn cắm cổ chạy và... nhảy tới trước đoàn tàu. Mình quay vội đi nhưng vẫn không tránh khỏi nghe một tiếng “huỵch” dễ sợ và tiếng rú bị ngắt tức thì của hắn ta. Tàu vẫn tiếp tục chạy. Mình cá là không ai trên con tàu đó biết chuyện đã xảy ra. Nhưng... mình biết và muốn ói. Mình nhìn cậu Press. Ánh mắt cậu đầy đau khổ.
Nhưng chỉ một thoáng sau cậu đã lấy lại vẻ bình thường, quay nhìn tên cớm đang nhếch mép cười tự mãn. Cậu nghiến răng nói:
-Việc làm đó không xứng đáng với mi chút nào, Saint Dane.
Saint Dane. Lần đầu tiên mình nghe tên này. Mình có cảm giác đây không phải là lần cuối.
Saint Dane thản nhiên nhún vai, nói:
-Chỉ muốn cho thằng nhỏ nếm chút mùi những gì sẽ dành cho nó thôi mà.
Mình không ưa kiểu cách của hắn chút nào.
Và rồi, Saint Dane bắt đầu biến dạng. Mình không thể tin vào chính cả mắt mình, nhưng đó là sự thật. Mặt mũi, áo quần, tất cả những gì thuộc về hắn đều thay đổi. Mình khiếp đảm, sững sờ khi hắn trở thành một con người hoàn toàn khác. Tóc hắn dài phủ vai, thân hình vươn tới chiều cao hơn hai mét. Da hắn trắng nhợt như thây ma. Bộ đồng phục cảnh sát bằng vải ka-ki nâu biến thành bộ áo toàn một màu đen. Nhưng khiếp đảm nhất là đôi mắt. Đôi mắt chuyển thành màu xanh lạnh ngắt như nước đá với một sự hung bạo ma quái, làm mình chợt hiểu hắn hoàn toàn có khả năng đẩy một con người đâm đầu vào đoàn tàu để tìm cái chết.
Chỉ một thứ không thay đổi: khẩu súng của hắn. Mình ngạc nhiên khám phá ra, cậu Press cũng vậy. Hắn vẫn còn khẩu súng. Với vẻ thuần phục làm mình tưởng như trước đây cậu mình đã làm chuyện này nhiều lần rồi, cậu Press thọc tay vào áo choàng, rút ra khẩu súng tự động. Saint Dane cũng rút súng ra ngay. Mình chết sững. Mark, bạn nghe câu “con nai trước ngọn đèn săn” bao giờ chưa? Là mình đó. Mình không thể nào nhúc nhích nổi. Mình bổng ngã nhào xuống đất. Cậu Press xô mình xuống sau một băng ghế gỗ. Hai cậu cháu được bảo vệ khỏi Saint Dane, nhưng được bao lâu?
Cậu Press nhìn mình. Bằng một giọng quá trầm tĩnh đối với hoàn cảnh này, cậu nói đơn giản một câu:
-Chạy.
-Nhưng còn....
-Chạy!
Ngay sau đó cậu núp sau băng ghế gỗ rồi bắt đầu bắn. Mình ở lại đó vừa đủ để thấy Saint Dane nhào vào sau một cây trụ. Cậu Press bắn rất cừ. Gạch trên cây trụ vỡ nát, rào rào rơi xuống. Rõ ràng cậu đang cố kiềm chân Saint Dane để mình chạy. Nhưng chạy đi đâu?
-Bobby, cái cửa.
Đúng rồi! Cái cửa với hình ngôi sao và “úm ba la”. Hiểu. Mình mới bắt đầu bò đi thì cậu gọi với theo:
-Coi chưng tụi quig.
Hả? Quig là cái quỷ quái gì? Bùm! Một viên gạch tan tành ngay trên đầu mình. Lúc này Saint Dane đã bắn trả, và mình là mục tiêu của hắn. Thu hết can đảm, mình chạy. Phía sau, những tiến nổ chói tai vang rền trong nhà ga hoang phế. Mình chạy qua một trụ cột và bùm! Thêm một viên gạch vỡ tan. Mảnh vụn lộp độp lên gáy mình. Tới cuối sân ga, mình thấy những bậc thang dẫn xuống đường ray đúng như lời cậu Press đã nói. Trong một giây, mình ngừng lại, nghĩ chắc là mình khùng mới bà xuống đường ray tàu điện ngầm. Sự chọn lựa thật khó khăn, nhưng thà gặp một đoàn tàu lù lù phóng tới còn hơn đụng độ với gã Saint Dane kia. Vì vậy mình vội hít một hơi, rồi leo xuống.
Xuống tới đường ray, hình như đã cách xa hẳn cuộc đọ súng. Thỉnh thoảng vẫn còn nghe tiếng nổ, nhưng bây giờ mình quan tâm tới những gì trước mặt hơn những gì đang diễn ra phía sau lưng. Có lúc mình đã định trở lại giúp cậu Press, nhưng nhảy vào giữa hai làn đạn không phải là ý tưởng hay ho gì. Mình chỉ biết mong cho cậu xử lí được gã kia. Điều duy nhất mình có thể làm lúc này là nghe theo lời chỉ dẫn của cậu.
Chung quanh tối thui. Mình phải lần mò dọc bức tường nhớp nháp để tránh rủi ro bước lên đường ray. Mình đã được nghe về “hành lang” dòng điện thứ ba cung cấp cho tàu. Nếu lỡ bước lên đó là bị chín như heo quay ngay. Vì vậy mình ráng đi sát tường. Cậu Press đã bảo cánh cửa cuối sân ga chừng ba mươi mét. Mình cố hình dung một sân đá banh để ước lượng ba mươi mét xa chừng nào. Nhưng không thành công. Chỉ có cách cứ lần mò cho tới khi tay mình đụng cánh cửa bí mật đó. Sợ nhất là khi qua cánh cửa mà không biết, thế rồi...
G... ừ... ừ... ừ!
Tiếng gầm từ phía sau mình. Cái gì vậy? Một đoàn tàu? Năng lượng phát ra qua hành lang thứ ba? Không đúng. Vì mình nghe tiếng gừ gừ từ mọi phía.
G... ừ... ừ... ừ.
Chắc chắn không phải chuột. Chuột đâu thể gầm gừ. Tốt. Mình rất ghét chuột. Trong bóng tối lờ mờ, mình nhìn quanh và... cái mình nhìn thấy làm tim mình ngừng đập. Bên kia đường ray, nhìn thẳng vào mình,là một đôi mắt. Đôi mắt thấp trên mặt đất, phản chiếu ánh sánh, làm chúng loé lên màu vàng. Đó là một con vật. Có phải là loài quig cậu Press dặn phải coi chừng không? Hay là một con chó hoang? Dù là gì thì nó là một con vật to lớn và... nó có cả đống bạn bè, vì có nhiều đôi mắt khác nữa xuất hiện. Chúng có cả bầy và tiếng gầm gừ cho mình biết, chúng không thân thiện chút nào. Mình phải làm bất cứ điều gì có thể làm mà không đe doạ chúng. Mình quyết định rất từ từ, rất thận trọng, lần dần tới cánh cửa và...
G...Ừ...Ừ... Ừ!
Quá muộn mất rồi! Cả bầy chó, hay quig, hay là bất cứ cái giống quỷ quái gì, phóng ra từ bóng tối, tấn công mình. Lập tức hành lang dòng điện thứ ba chẳng còn nguy hiểm gì với mình nữa. Mình chạy. Bầy đàn của chúng chắc phải đến cả chục con. Mình nghe tiếng nghiến răng, tiếng móng chân chúng cào trên đường sắt khi chúng rượt theo mình và... và mình không muốn nghĩ đến chuyện xảy ra nếu bị chúng vồ được. Mình nhớ là lúc đó trong đầu thoáng hy vọng bầy quái đó chạm phải hành lang dòng điện thứ ba và... bốc hơi hết ráo. Nhưng chuyện đó đã không xảy ra. Hy vọng duy nhất của mình là phải tìm ra cánh cửa kia. Chung quanh tối om, mình luôn va vấp phải đá, rác, thang ngang đường tàu và đủ thứ khác, nhưng mình vẫn tiếp tục chạy. Còn cách nào khác nữa đâu? Lăn kềnh ra đó là tiêu luôn.
Rồi, như phao cứu sinh đối với người sắp chết đuối, mình thấy cái cửa. Ánh sáng duy nhất phát ra từ cái bóng đèn cũ kỹ, cáu bụi treo trên đương rầy, nhưng vẫn đủ sáng cho mình nhìn thấy một cái cửa lõm trong bức tường xi-măng và hình ngôi sao mờ mờ trên mặt gỗ. Chính nó đây rồi. Mình băng băng chạy tới và... phát hiện ra nó không có nắm cửa. Làm sao mở được?
Nhìn lại, mình thấy bầy quái thú đã gần kề. Mình chỉ còn vài giây ngắn ngủi. Mình tì toàn bộ sức lực vào cánh cửa và... cửa mở tung vào trong, làm mình ngã lộn nhào. Vội vàng bò ngược lại, mình đóng sập cửa vừa lúc... Rầm rầm rầm!... Bầy thú quăng mình vào cánh cửa gỗ. Mình dựa lưng cố giữ để cửa không bị bung ra. Nhưng bầy thú quá mạnh. Chúng điên cuồng cào móng rào rào lên mặt gỗ. Mình không thể ngăn cản được chúng lâu hơn nữa.
Thôi, mình tạm ngừng chuyện ở đây, Mark ạ. Vì những gì xảy ra khi đó còn quan trọng hơn mấy vụ con quái thú kia nhiều. Thật khó tin, nhưng vẫn là sự thật. Rõ ràng mấy con chó hoang, hay quig, hay cái giống gì gì đó, không vồ được mình. Nếu không mình đã không thể viết được những dòng này. Vậy đó. Mình nghĩ chuyện xảy ra sau đó mới là sự kiện quan trọng nhất của toàn thể cơn ác mộng. Tất cả những gì hãi hùng, kì lạ xảy ra cho đến lúc đó, vẫn không làm mình có thể ngờ được những gì đang chờ mình khi vượt qua cánh cửa này.
Trong khi cố thủ với bầy thú, mình nhìn khung cảnh nơi mới lọt vào. Đó là một địa đạo tối tăm, sâu hun hút. Không lớn lắm, chỉ cao khoảng gần hai mét. Tường bằng đá xám, lởm chởm. Đường hầm này trông không có vẻ được khoan bằng máy, mà như được đào bằng tay, với những dụng cụ thô sơ. Mình không thể biết hầm kéo dài tới đâu, vì nó chìm trong bóng tối. Rất có thể nó kéo dài vô tận.
Mình không biết xoay trở sao đây. Vì nếu mình chạy xuống đường hầm, cửa sẽ bung ra và bầy thú xông vào ngay lập tức. Mình kẹt cứng rồi. Rồi... mình chợt nhớ lời cậu Press. Có một từ. Ông bảo khi vào được sau cánh cửa, hãy nói từ đó, mình sẽ được đưa tới nơi cậu cháu mình sắp đến. Nhưng từ đó là gì? Dennison? Dendelion? Dandruff? Thật sự mình không thể tin một từ ấm ớ như vậy lại có thể đem mình ra khỏi hoàn cảnh khó khăn này. Nhưng đó là lựa chọn duy nhất.
Rồi mình nhớ ra. Denduron. Từ đó chẳng có ý nghĩa gì với mình, nhưng nếu nó đem mình ra khỏi đây, nó sẽ là từ đáng yêu nhất trên đời. Vậy là mình đứng thẳng, dựa lưng sát cửa, nhìn đường hầm tối om om mà thét toáng lên:
-DENDURON!
Lập tức tiếng cào cửa im bặt. Dương như bầy thú không bỏ đi, mà chúng chỉ thình lình không còn ở đó nữa. Mình thử nhích khỏi cánh cửa một chút... và không có gì xảy ra. Ít ra là không có điều gì xảy ra với cánh cửa. Nhưng... đường hầm lại hoàn toàn khác hẳn. Nó phát ra tiếng o o. Lúc đầu nho nhỏ, rồi tầng số cao dần. Mình tự hỏi có phải bức tường đang vặn vẹo và di chuyển không? Mình nhìn xuống nền hầm như đường ống của một thùng phuy khổng lồ, mềm mại, sống động. Rồi đến những vách tường bắt đầu thay đổi. Đá xám bỗng trong suốt. Những bức tường đá rắn chắc, lởm chởm chợt như làm bằng pha lê. Ánh sáng toả khắp nơi, như chính từ trong các bức tường phát ra.
Quả là một khung cảnh đáng khinh ngạc. Kinh ngạc tới nổi mình không hiểu nổi tất cả chuyện này có ý nghĩa gì. Ngay lúc đó mình nghe tiếng nhạc. Làn điệu không rõ ràng, chỉ là hàng loạt âm thanh dịu dàng cùng rộn ràng vang lên. Mình gần như bị thôi miên. Những nốt nhạc hoà nhau lớn dần, lớn dần như đang tiến lại gần hơn.
Điều làm mình hồi tỉnh là một cảm giác rất lạ. Đang đứng ngay cửa hầm, toàn thân mình bổng rần rần. Cảm giác đó không khiếp đảm, chỉ là lạ thôi. Mỗi lúc mình mỗi cảm thấy rần rần hơn, và rồi mình cảm thấy bị kéo giật. Lúc đầu mình không nhận ra, nhưng cảm giác đó bắt đầu rõ ràng hơn: Mình đang bị kéo vào đường hầm! Một bàn tay khổng lồ vô hình túm lấy mình, kéo đi. Mình cố ghì lại, nhưng sức kéo càng mạnh hơn. Hoảng hốt, mình quay lại nhìn xem vật gì đang túm lấy mình. Mình ngã xuống nền hầm, vội quắp móng tay sâu xuống đất, nhưng vô ích. Mình vẫn bị hút vào con đường hầm khủng khiếp, không cách nào ngăn lại được.
Đây là điểm chính của vấn đề. Chính từ đây đời mình đã đổi thay. Những gì xảy ra sau đó đã thay đổi tất cả những gì mình biết, từng tin, tất cả những gì mình nghĩ là sự thật.
Mình bị hút vào cái hang thỏ đó, Mark ạ. Và mình bị đưa tới một thế giới thần kỳ.
|
TRÁI ĐẤT THỨ HAI
Mark phải khỏi phòng vệ sinh này ngay! Nó nhảy xuống khỏi cái bàn cầu, làm Mark ngã ngửa và giật nước tuôn ra ào ào. Gỡ sợi dây khỏi bồn cầu Mark nhét cuộn dấy da vào trong ba-lô. Nó lúng túng dến mức không sao mở dược chốt cửa. Cuối cùng nó tông sầm cửa ra sau , cửa bật mở, để thấy...
Thằng Andy Mitchel đang dứng lù lù,dựa tường , phì phèo điếu thuốc.
-Chà, mày ở trong đó hơi bị lâu đó, Dimond. Ổn cả rồi chứ?
Mark lạnh người như vừa bị bắt quả tang đang làm một chuyện xấu. Nó lắp bắp - mỗi khi bối rối là nó lại bị cà lăm:
-Tao...tao...ổn
Mitchel búng điếu thuốc qua phòng tắm, rơi trúng phóc bồn tiêu? . Bình thường thì cú búng thuốc điệu nghệ đó đã làm mark phục lăn , nhưng lúc này đầu óc nó còn bận rộn về những chuyện khác. Thằng Mitchel lại nói:
-Không sao. Mày làm gì trong toa lét là chuyện của mày. Cái gì trong ba-lô vậy?
Mark ôm ghì ba-lô sát ngực , cứ như trong đó cứa toàn giấy tờ quý giá. Nó tính toán phải nói sao để thằng Mitchel đừng hoạnh hoẹ thêm gì nữa.
-À... tờ... tờ Playboy.
Thằng Mitchel cười rất đểu:
-Thằng chó, đưa tao coi.
Nó chộp lấy ba-lô, Mark giật vội lại:
-Xin lỗi, tao đang bận. Mitchel chưa kịp nói thêm lời nào , Mark đã phóng chạy. Nó không biết chạy đi đâu nhưng cứ chạy thục mạng.Những dòng chữ trong cuộn giấy rối bời trong đầu nó. Chuyện đó thật không ? Đây là là những chuyện người ta vẫn thấy trên phim hay mấy quyển sách giả tưởng. Toàn những truyện giải trí,l àm gì có thật
Nó có thể bỏ qua tất cả, coi như là chuyện tưởng tượng, ngoại trừ người khách lạ hôm qua và cái nhẫn trên ngón tay nó đã làm cho cuộn giấy xuất hiện trong nhà vệ sinh. Cả hai việc đều hiển nhiên có thật. Chẳng có lời giải thích có lô-gic nào cho những gì đả xảy ra, vậy nên tất cả các quy luật thông thường của hiện thực phải đựơc ném ra ngoài cửa sổ mới đúng . Nó cần phải nói chuyện với Bobby. Nhưng nếu đây là chuyện thật, thì Bobby đang mắc kẹt, làm sao trả lời cho nó được.
Đã chín giờ rưỡi sáng rồi. Đáng lẽ giờ này Mark và Bobby phải có mặt. Trong giờ hình học. Tất nhiên là Mark không có mặt trong lớp, vì nó đang chạy như điên qua nhưng phòng trống hoác của trường .Dường như môn hình học lúc này chẳng còn quan trọng nữa. Nhưng nó vẫn thử tạt qua lớp, cầu cho Bobby đang ngồi tại đó.
Mark thận trọng tiến đến cửa, hít một hơi và nhìn vào trong lớp: bàn của Bobby trống trơn. Không ổn rồi. Mark cần nói với ai đó, nhưng là ai? Nó muốn được chia sẻ những chuyện đang xảy ra, nhưng điều quan trọng hơn là... nó chưa đến nỗi hoàn toàn mất trí. Ngay lúc đó nó chợt nhớ đến một người có thể lí giải được chuyện này. Courtney Chetwynde.
Các lớp thể dục của trường Stony Brook tách riêng nam nữ. Chỉ những buổi học thể hình, cần chung dụng cụ, mới sáp nhập. Thường thường, một bức tường to lớn, có thể nâng lên hạ xuống, ngăn đôi năm và nữ. Tuy nhiên vẫn có một ngoại lệ.
Đó là trường hợp của Courteney Chetwynde. Khi thành lập các đội chơi thể thao, Courtney không chơi trong đội nữ. Cô bé vừa cao vừa khoẻ, lợi thế của cô vượt trội hơn các đồng đội nữ là điều không công bằng. Vì vậy, dù trái với quy luật của trường, tỉnh và tiểu bang, Courtney vẫn được phép có mặt trong đội nam. Không ai phàn nàn gì. Các cô gái hớn hở vì không phải tranh đua với một đối thủ luôn luôn nhảy cao hơn họ. Các cậu trai. Chỉ cần sao 30 giây Courteney chứng tỏ khả năng, đã hân hoan chào đón cô bé tham gia vào đội. Thật ra, hầu hết các cậu đều e dè Courtney. Khi Courtney vào trận, cả sân sôi nổi hẳn lên.
Hấp! Courtney vọt cao hơn lưới, đập trái banh lướt qua đầu đối thủ. Anh chàng ngẩn tò tè và Courtney duyên dáng “hạ cánh an toàn’’ trước khi trái banh chạm mặt sân. Courtney mỉm cười nói:
-Dứt điểm.
Banh được trả về. Cô sửa soạn giao banh.
-Cố lên, C.C.
-Tiến lên!
-Ghi thêm điểm đi!
Courtney có cú giao banh chết người và mọi người đều chờ đợi cô bé đóng chiếc đinh cuối cùng lên quan tài của đối phương. Nhưng ngay khi Courtney bước tới vạch giao banh, cô thoáng thấy Mark Dimond. Anh chàng nhỏ bé đứng ngoài cửa phòng tập, vẫy tay lia lịa. Ngay khi thu hút được sự chú ý của Courtney, Mark liền ra hiệu bảo cô bé tới chỗ mình. Courtney đưa một ngón tay lên như bảo: “Chờ một giây”, nhưng chỉ làm Mark rối rít ngoắt mạnh hơn.
Courtney nhăn mặt, ném banh cho một đồng đội:
-Cậu giao banh đi.
-Cái gì vậy? Cú dứt điểm mà.
-Biết. Đừng làm hỏng đó.
Vừa nói, Courtney vừa tiến ra chỗ Mark. Cậu đồng đội ngẩn ra nhìn rồi nhún vai quay vào sân. Các anh chàng đội bên kia thở phì nhẹ nhõm.
Courtney mở cửa, thấy Mark đứng chờ trong hành lang vắng hoe. Cô bực bội hỏi:
-Chuyện gì mà rối lên vậy?
Mark lúng túng, đứng không yên, hết nâng chân này, lại nhấc chân kia lên. Courtney lom lom ngó cả giây rồi hỏi:
-Bạn mắc tiểu à?
-Không... chỉ... chỉ... là chuyện của Bobby.
-Bạn ấy đâu? Sao tối qua bỏ thi đấu?
Mark càng thêm bối rối, dường như không dám hỏi câu sắp hỏi:
-Hai ... hai.... bạn gặp nhau... tối ... tối qua tại nhà... Bob... Bobby? Courtney trừng trừng nhìn Mark, như không tin vào tai mình nữa. Rồi cô bé nổ một tràng:
-Đó là lý do cậu kéo mình ra đây hả? Bobby đã bỏ một trận thi đấu lớn nhất và... khoan... Này, Bobby kể cho cậu nghe về chuyện này tối qua hả? Tôi sẽ giết cậu ấy.
-Court... Courtney... bình tĩnh... không phải vậy... vậy đâu.
Mark cố ngăn Courtney, nhưng cô bé đã bị cuốn vào cơn giận lôi đình.
-Tôi cóc cần biết cậu ta là ai. Cậu ta không có quyền đem chuyện riêng tư đi rêu rao như vậy...
-Im đi!
Mark quát lên. Courtney im bặt. Cô bé quá kinh ngạc vì sự dũng cảm của Mark. Chẳng giống anh bạn Mark bé nhỏ chút nào. Hai đứa lom lom nhìn nhau, không biết phải làm gì. Lúc này Courtney đã chú ý nghe, Mark suy nghĩ thận trọng trước khi chậm rãi nói, cố không lắm bắp. Nó đẩy cặp kính cận ngay ngắn trên sống mũi rồi nói:
-Mình nghĩ Bobby đang gặp chuyện không bình thường. Chuyện hai bạn tối qua là một phần trong vụ này... Mình xin lỗi nếu làm bạn khó chịu... nhưng mình cần được biết: Tối qua hai bạn có gặp nhau tại nhà Bobby không?
Courtney ráng dò ý Mark. Cậu ta vốn là một đứa nhút nhát,rụt rè; kiểu sòng sọc vào chuyện riêng của người khác như thế này hoàn toàn không phải tính cách của Mark. Rõ ràng có chuyện quan trọng khác hơn là chuyện tụi con trai tán nhảm với nhau về một đứa con gái. Cô có thể nhìn thấy điều đó trong mắt Mark. Cậu ấy có vẻ sợ. Courtney nói:
-Đúng. Bọn mình đã gặp nhau. Nhưng bây giờ bạn ấy đâu?
-Mình... mình không biết. Hy vọng là bạn ấy đang ở nhà. Bạn đi với mình để nói chuyện với Bobby chứ?
Hai đứa lại nhìn nhau. Courtney cố dò ý Mark. Mark thì cầu cho Courtney đồng ý đi cùng, để có thể san sẻ gánh nặng về những gì nó biết. Có thể cô bé sẽ giúp nó làm sáng tỏ chuyện này.
Bước qua Mark, Courtney bảo:
-Đi.
Dù có phải đến tận nhà để tìm Bobby, Courtney cũng đi. Cô cần nói cho rõ chuyện. Mark nhẹ lòng vì đã có một đồng minh. Nhưng nó vẫn chưa có ý định nói với Courtney những gì nó biết. Liệu cô ta có tin mình không? Tuy nhiên nó mừng vì lúc này đã có người để chuyện trò.
Gia đình Pendragon sống trên một con đường cụt, không xa trường bao nhiêu. Lúc này là giờ cơm trưa, vì vậy Mark và Courtney tính đến nhà Bobby tìm hiểu rõ ngọn ngành chuyện gì đã xảy ra, rồi trở về trường vẫn kịp. Đi trên lề đường, Mark phải rảo chân mới theo kịp những bước dài, hăm hở của Courtney. Nó muốn kể về người khách nửa đêm, về cái nhẫn, cuộn giấy và chuyện của Boddy. Nhưng nó sợ cô bé gạt phăng đi và cho nó là thằng tâm thần. Mark phải lựa lời cẩn thận . Nó e dè hỏi:
-Bạn biết cậu Press của Boddy không?
-Biết
-À...ừ...Tối qua bạn có gặp ông ấy không? -Thật rủi là...có. Chính ông ta là người bắt gặp hai đứa mình...
Tim Mark như ngừng đập. Không phải vì chuyện Courtney và Boddy hôn nhau hay vì chuyện hai đứa nó bị cậu Boddy bắt gặp. Vấn đề là câu trả lời của Boddy càng xác định thêm những gì đã viết trong cuộn giấy. Mark sợ, nếu vài sự việc đúng, thì toàn bộ việc đó đếu đúng là sự thật.Ý nghĩa đó làm nó muốn phát bệnh.
Gần tới nhà Boddy, Mark mong sao Boddy ở nhà và sẽ làm sáng tỏ mọi việc. Nó tưởng tượng, tay cầm cuộn giấy, vào nhà, và thấy Boddy cười sằng sặc. Boddy bảo sao ngố vậy, chẳng bao giờ mình nghĩ các bạn tin đây là sự thật. Chỉ là một trò đùa, giống như Orson Welles thảng thốt trên đài phát thanh báo tin chiến tranh giữa các thế giới, làm mọi người hốt hoảng vì tưởng bị người sao Hoả tấn công.
Đó là điều Mark hi vọng. Đó là địa chỉ nhà Boddy. Nhưng những gì hai đứa trong thấy ngay sau đó đã làm tiêu tan hết hy vọng của nó.
Số 2 Linden Place. Đó là địa chỉ nhà Boddy. Mark đã đến đó cả ngàn lần. Từ khi còn ở nhà trẻ, hai đứa vẫn thường qua lại nhà nhau. Nhà Boddy như ngôi nhà thứ hai của nó. Má Boddy gọi Mark là đứa con thứ hai của bà. Vì vậy nó không thể tin được những gì sắp thấy. Mark và Courtney bước lên lề đường dẫn đến hàng rào bao quanh sân trước nhà Boddy, rồi dừng phắt lại. Hai đứa cùng nhìn vào số 2 Linden Place, chết sững.
Courtney chỉ bật lên được mấy tiếng:
-Ôi! Chúa ơi!
Mark không thốt được lời nào.
Nhà số 2 Linden Place đã biến mất. Hai đứa trợn tròn mắt nhìn bãi đất trống. Không chút dấu vết nào của ngôi nhà. Không một mảnh gỗ, một viên gạch, một cục đá, một bụi cỏ. Không có gì ngoài đất. Mark nhìn cây sồi to lớn, nơi nhiều năm trước ông Pendragon đã treo một xích đu cho tụi con trai chơi đùa. Cây còn đó nhưng không có xích đu. Thậm chí vết thẹo trên cành bị câu đu xiết nhiều năm, giờ nhẵn thín. Không để lại chút đấu vết nào. Hoàn toàn không còn gì.
Courtney bật nói trước:
-Lầm địa chỉ rồi.
-Không lầm đâu.
Mark thì thầm. Courtney không thể chấp nhận chuyện này, phăng phăng đi vào bãi đất trống:
-Nhưng tối qua mình đã ở đây! Lối vào nhà ngay chỗ này! Đây là cửa trước! Mình và Boddy đứng tại...
Giọng cô bé lạc đi, mắt nhìn Mark với vẻ khiếp đảm:
-Mark, chuyện gì đã xảy ra vậy?
Lúc này là thời điểm tốt nhất. Mặc dù chính nó cũng chẳng biết chuyện gì đã xảy ra, nhưng bãi đất trống càng xác định hơn mối lo sợ của nó. Tất cả những gì trong những trang giấy Boddy gởi cho nó đều là sự thật. Nó có nhiều câu hỏi hơn là câu trả lời, nhưng lúc này nó đã có vài đều để trả lời Courtney, dù là những câu trả lời rất lạ lùng. Nó muốn san sẻ cùng Courtney. Một mình giữ hết điều này làm nó quá căng thẳng. Vì vậy, lấy từ trong ba- lô ra cuộn giấy da mầu vằng, Mark nói:
-Mình muốn bạn đọc cái này. Của Boddy gởi đó.
Courtney hết nhìn cuộn giấy lại nhìn Mark. Cô bé miễn cưỡng cầm cuộn giấy, rồi ngồi xuống. Ngay tại đó. Ngay chính giữa mảnh đất trống của số 2 Linde Place, không xa nơi cô và Boddy đã trao nụ hôn đầu.
Courtney nhìn xuống mấy trang giấy và bắt đầu đọc
|
NHẬT KÍ # 1 (TIẾP THEO) DENDURON
Mình tưởng đời mình chấm dứt rồi. Tất cả chỉ còn chờ sự đau đớn nữa thôi. Chuyện đó xảy ra có nhanh không. Có đau đớn lắm không? Hay nó sẽ bắt đầu từ bàn chân, dần dần lên đùi, lên thân thể và nhắm ngay vào đầu trong một thoáng bùng nổ chói lói của sự đau đớn cùng cực trước khi tất cả chỉ còn là bóng tối?
Mình cầu xin cho chuyện đó qua mau.Nhưng nó không đến nhanh. Thật ra nó hoàn toàn không xảy ra. Chẳng chút đau đớn. Mình không chết. Trái lại, mình cảm thấy rơi xuống cái hang rắn này. Như đang trượt xuống từ cầu trượt trong công viên vậy. Nhưng cầu trượt trong công viên nước thực sự mạnh hơn nhiều. Bây giờ mọi chuyện qua rồi, nghĩ lại mình lại cảm thấy thú vị. Ấy là lúc này mình mới nghĩ vậy, chứ lúc đó mình sợ vãi linh hồn.
Ngay khi nhận ra không bị hút vào hầm chứa rác khổng lồ, mở mắt nhìn quanh, mình mới cảm thấy mình đang di chuyển rất nhanh.
Như mình đã viết lúc trước, vách đường hầm lởm chởm đá. Nhưng chúng cũng trong suốt như bằng pha lê. Điều lạ lùng là, mình không bị va chạm vào vách, mà bay xuống, chân tới trước như ngồi cầu tụt trong công viên, nhưng cảm giác như đang trôi bồng bềnh vậy. Mình không thể cảm nhận được sự tồn tại của vách đường hầm. Có nhiều đoạn xoáy, rẽ, nhưng mình không bị va vào vách hay bất cứ gì như khi lao qua các đoạn rẽ trong trò trượt nước. Cứ như mình đang bay bổng trên một tấm thảm thần biết chính xác đưa mình tới đâu.
Có cả những âm thanh nữa. Những nốt nhạc bổng trầm khác nhau, giống như những cung bậc mình đã nghe khi đường hầm này chuyển động, nhưng tách bạch hơn nhiều, như được thoát ra từ một dụng cụ thử âm thoa. Đó cũng là một trong những lí do khiến mình cảm thấy là mình trôi xuống rất nhanh. Vì mình đang lướt qua nhưng nốt nhạc. Âm thanh xuất hiện rất nhanh từ phía trước, rồi lướt vụt qua mình rồi biến mất phía sau. Cảm giác thật lạ lùng.
Mình ngoái lại nhìn, không có gì, chỉ là đường hầm bằng pha lê hun hút hết tầm mắt. Nhìn xuống dưới hai chân, cũng giống vậy. Hang rắn ngoằn ngoèo. Vô tận.
Một lát sau mình đã hơi quen. Không cách nào ngừng lại được, chống lại làm gì? Và đây là điều đáng sợ nhất (cứ như những chuyện xảy ra cho đến lúc này chưa đủ sợ!): Nhìn qua bức tường pha lê, mình có thể thấy phía bên kia toàn một màu đen. Vậy là mình đoán: đang ở dưới lòng đất. Nhưng nhìn kỹ hơn, dường như màu đen bị hàng ngàn hàng ngàn ngôi sao làm tách ra.
Kỳ lạ chưa? Mình khởi hành trong một nhà ga tàu điện ngầm và đang xuống sâu hơn trong lòng đất, vậy thì làm sao có thể thấy được những vì sao? Nhưng những đốm sáng kia rõ ràng là những ngôi sao, không thể là gì khác được.
Mình không biết đã bay như thế được bao lâu. Ba phút? Ba tháng? Giác quan bình thường đã chào tạm biệt mình từ lâu rồi. Mình phó mặt cho nó cuốn mình tới đâu thì tới, bao lâu cũng được, không thành vấn đề.
Rồi mình nghe một âm thanh khác lạ. Không phải những nốt nhạc êm dịu đã hướng dẫn mình trong cuộn hành trình kì quái này.Âm thanh rắn rỏi, trắc trở. Hình như mình đã tới cuối đường. Mình nhìn xuống dưới hai chân và thấy: đoạn cuối đường hầm ngoằn ngoèo sáng lên trong bóng tối. Mình băng băng trôi về hướng đó. Chung quanh mình, tất cả vách tường bắt đầu thay đổi. Từ trong suốt như pha lê, chúng trở lại là những tảngđá lởm chởm, xám xịt.
Sự khiếp đảm lại tràn ngập trong mình. Sắp đụng vào trung tâm trái đất? Không phải bị lọt vào tâm điểm của dung nham nóng chảy chứ? Có phải chuyến bay kì diệu vừa qua chỉ là đoạn mở đầu cho một cái chết thiêu? Bất kỳ chuyện gì xảy ra, thì cũng sắp xảy ra rồi. Vì vậy mình làm một việc duy nhất mình có thể nghĩ ra để sẵn sàng chờ đón kết cuộc: nhắm tịt hai mắt lại.
Nhưng kết cuộc chẳng có gì thê thảm. Mình có cảm giác rần rần như lúc mới vào miệng hầm. Rồi mình nghe tràn ngập âm thanh. Tất cả những nốt nhạc êm dịu hoà quyện vào nhau như mình đã được nghe từ đầu cuộc hành trình. Mình cảm thấy một trọng lượng nặng nề đang đè lên lồng ngực. Điều tiếp theo mình biết là mình đang đứng dậy. Tiếng nhạc tan biến dần. Chiếc thảm thần nhẹ nhàng đưa mình tới một nơi đã được ấn định.
Cảm giác thật kỳ lạ trong khi trọng lượng trở lại, sau một chuyến đi nhẹ hẫng. Mình như một phi hành gia vũ trụ trở về từ không gian, cần làm quen lại với sức hút của trái đất. Mình mở mắt, quay lại nhìn vào đường hầm. Nó giống hệt cửa hầm mình đã bước vào tại ga. Xám xịt, tối tăm và trải dài chẳng biết tới đâu.
Mình đã tới nơi an toàn. Nhưng đây là đâu? Một nhà ga tàu điện ngầm khác? Hay đang ở Trung Quốc? Mình nhìn quanh để xem đang là đâu trong đường hầm này, và thấy mình đứng ngay trước lối vào một cái hang. Lúc này, đã tỉnh táo lại, mình nhận ra mình đang rất lạnh. Âm thanh dữ dội mình nghe cuối cuộc hành trình chính là tiếng gió gào gầm rú. Chẳng biết đang ở đâu,nhưng chắc chắc là mình không còn ở trong lòng đất nữa.
Bước mấy bước run rẩy khỏi miệng dường hầm, mình tiến vào hang. Khi bước vào không gian rộng hơn này, mình chợt thấy dấu hiệu khắc trên vách đá ngang tầm mắt: hình ngôi sao giống như trên cánh cửa trong hầm tàu điện. Kỳ lạ không!
Rồi mình thấy một luồn sáng tràn vào từ khoảng trống cuối hang. Ánh sáng chói loà tới mức làm toàn thể lòng hang trông như hắc ín. Thình lình mình cảm thấy chóng mặt vì cảm giác đã ở trong bóng tối quá lâu. Mình muốn ra ngoài, và ánh sáng đó chỉ lối cho mình, mình loạng choạng đi về phía nguồn sáng. Tới nơi, mình phát hiện đây chính là cửa hang. Ánh sáng chan hoà cũng cho mình biết lúc này đang là ban ngày. Mình đã ở trong đường hầm bao lâu rồi? Suốt đêm? Hay đây là ban ngày bên Trung Quốc? Chưa quen với ánh sáng, mình phải che hai mắt lại, lim dim bước hẳn ra ngoài. Ngay lập tức mình nhận ra bên ngoài lạnh hơn nhiều. Bên ngoài áo sơ mi cụt tay, mình chỉ có mỗi cái áo ấm của trường Stony Brook. Gió lạnh như cắt da. Trời ơi, lạnh cóng! Tiến thêm mấy bước, mình nhìn xuống bên dưới và thấy... tuyết! Mặt đất phủ toàn tuyết. Đó cũng là một trong những lý do trời sáng rực đến như vậy. Ánh nắng phản chiếu trên tuyết làm mình loá mắt. Mình biết để mắt quen với ánh sáng chói lọi này cũng không mất bao lâu, vậy thà chờ cho đến khi có thể nhìn rõ còn hơn là chui lại vào hang cho ấm. Mình muốn biết mình đang ở đâu.
Sau mấy giây, mình ngập ngừng buông tay ra khỏi mắt. Cuối cùng hai con ngươi cũng co lại đủ để nhìn được, và những gì nhìn thấy suýt làm mình ngã lộn xuống.
Mình đang đứng trên một đỉnh núi! Mà đây không phải là một quả núi nhỏ để trượt tuyết như chúng mình tới Vermont đâu (Vermont là bang lớn thứ hai ở New England (Mỹ), có 223 núi cao trên 600 mét và chủ yếu là rừng. Là nơi nổi tiếng để cắm trại, trượt tuyết, câu cá, đi săn (Nxb)). Núi này vòi vọi như đỉnh Everest (Everest: Đình núi cao nhất thế giới (8.850m), nầm giữa rặng Himalya ở biên giới Tây Tạng và Nepal (Nxb). O.K., có thể không cao đến thế, nhưng mình cảm giác như đang đứng trên nóc nhà của thế giới vậy. Cánh đồng nhấp nhô phủ tuyết tăm tăm mút mắt luôn. Dưới đó, tuốt đằng xa, tuyết nhường chỗ cho một thung lũng xanh tươi mơn mởn. Nhưng từ chỗ mình tới đó là một dốc đứng thăm thẳm.
Trong đầu mình không ngừng vang lên câu hỏi: “Mình đang ở nơi quái quỷ nào thế này?” Câu hỏi hay đấy, nhưng đâu có ai để hỏi.Vậy là mình quay trở vào hang cho an toàn, để suy tính. Ngay trước lúc dợm chân quay lại, mình chợt thấy: cách miệng hang mấy mét, rải rác những tảng đá vàng, nhẳn, nhọn hoắt, cao chừng sáu tấc. Chúng vương khỏi mặt tuyết như những măng đá. Hoặc là thạch nhũ. Mình chẳng nhớ thế nào mới là măng đá thế nào mới là thạch nhũ. Chúng cứ chĩa lên nhọn hoắt. Chẳng biết chúng là gì, nhưng một từ cứ luẩn quẩn trong đầu mình: bia mộ. Mình cố xua đuổi ý nghĩ u ám đó, lội qua tuyết, trở lại hang.
Chính lúc đó mình nhìn thấy điều kỳ lạ nhất. Mặt trời đúng là đang lên phía trên những tảng đá tạo nên cái hang này, vậy mà mình lại phải che mắt, chống lại ánh sáng từ một hướng khác! Vậy là sao? Mình nhìn lại đằng sau và phát hiện: không chỉ có một mặt trời! Ôi! Mark, mình thề, có tới ba mặt trời! Ba mặt trời ba hướng khác nhau. Tưởng bị loá mắt, mình chớp lia lịa. Nhưng không, ba mặt trời vẫn y xì tại chỗ. Đầu óc mình mụ mẫm luôn, chẳng nghĩ ngợi được gì nữa. Chỉ một điều mình biết rõ: đây không phải là nước Trung Hoa.
Mình đứng đó, trên đỉnh núi, chỉ một mình, giày ướt sũng trong tuyết, trừng trừng nhìn ba mặt trời rực sáng. Mình không thể mắc cỡ khi thú thật điều này: mình nhớ má. Mình muốn được ngồi trước ti-vi, giành nhau bộ điều khiển từ xa với em gái Shannon của mình. Mình muốn cùng ba rửa xe. Mình muốn chơi ném vòng với bạn, Mark ạ. Thình lình tất cả những gì mình yêu quý trong đời trở nên xa xôi quá. Mình muốn về nhà, nhưng tất cả điều mình có thế làm là đứng đó mà khóc. Thật đó, mình đã khóc!
Rồi những âm thanh lại vang lên từ trong hang. Cũng là những âm thanh rộn ràng đã hút mình vào đường hầm và quăng mình tới nơi này. Có người sắp đến. Cậu Press chăng? Rất có thể. Mìn chạy vào hang, vui mừng quá thể vì sẽ không còn một mình nữa. Nhưng mình bàng hoàng nhận nghĩ: lỡ không phải là cậu Press? Lỡ đó chính là thằng cha Saint Dane thì sao? Lần cuối cùng dây dưa với gã đó, gã đã bắn vào cậu cháu mình. Mark, cho bạn biết nhé, bị làm bia bắn không giống như trong phim hay trò chơi game Nintendo đâu. Nó rất thật và khủng khiếp. Đến tận lúc này, mình vẫn còn cảm thấy nhột nhạt ở gáy, chỗ mấy mảnh gạch vụn văng trúng.
Không biết phải làm sao, mình ngừng lại giữa hang, chờ đợi. Dù là ai thì cũng phải ra khỏi đường hầm. Cậu Press hay Saint Dane? Hoặc có thể là mấy con chó khủng khiếp từng muốn xơi tái mình? Ai sắp xuất hiện đây? Thù hay bạn?
-Bobby?
Ôi! Đúng là cậu Press rồi! Ông bước ra khỏi đường hầm với tà áo choàng phất phơ hai bên đùi. Mình có thể ôm ghì lấy ông. Mà thật vậy, mình chạy tới ông như một thằng nhóc còn nhỏ xíu. Nếu đây là cảnh trong phim thì mình đang chạy nhè nhẹ với hình ảnh quay chậm. Mình vòng hai tay ôm xiết lấy ông, với cảm giác vui mừng khôn xiết và biết ơn vì mình không còn đơn độc nữa, vì con người mình yêu quý đã không bị thằng cha Saint Dane bắn chết. Cậu Press mình đã được an toàn.
Nhưng cảm giác này chỉ kéo dài được chừng... ba giây. Lúc này, khi mối sợ hãi đe doạ đến chết chóc không còn nữa, thì thực tế tràn về. Chỉ duy nhất một người chịu trách nhiệm cho việc mình có mặt tại đây. Cậu Press. Người mình đã tin tưởng. Người mình đã thương yêu. Cũng chính là người đã kéo mình ra khỏi nhà và suýt làm mình chết... hơn tám lần rồi.
Mình xô cậu thật mạnh, hết sức bình sinh, để cậu phải lăn đùng xuống đất. Đó là điều mình muốn. Mình muốn cậu thấy mình giận thế nào. Nhưng... như mình đã từng thấy: cậu Press khoẻ vô cùng. Mình xô vào cậu chẳng khác nào đánh vật một bức tường, rốt cuộc chỉ làm mình ngã ngồi trên mặt đất. Đứng bật dậy - không muốn bị coi như một thằng ngốc - mình gào lên:
-Chuyện quái gì đang xảy ra thế này?
-Bobby, cậu biết là cháu bối rối vì...
-Bối rối? Bối rối không phải là từ để khoả lấp chuyện này.
Chạy xồng xộc tới cửa đường hầm, mình gào tiếp:
-Denduron! Denduron!
Mình nói bất cứ câu gì để thoát ra khỏi đây. Nhưng chẳng có gì xảy ra. Cậu Press nói cứ như đã dự trù sẵn:
-Đây chính là Denduron. Chúng ta đang ở tại Denduron.
Mình nhìn vào đường hầm: -OK, vậy thì - Mình lại gào - TRÁI ĐẤT! NEW YORK! TÀU ĐIỆN!
Chạy vào đường hầm, mình hy vọng tiếng nhạc thần kỳ sẽ đưa mình bay bổng về nhà. Êm ru. Mình trở ra ngoài và chạm ngay mặt cậu Press. Mình gào lên:
-Không cần biết chuyện này là thế nào, không cần biết đây là đâu, cháu chỉ cần về nhà, về nhà, về nhà ngay lập tức. Đưa... cháu.. về nhà!
Cậu Press chỉ lẳng lặng nhìn mình. Hẳn ông biết mình giận và sợ đến dường nào, nên mình nghĩ ông đang đắng đo từng lời. Rủi thay, dù cho có lựa lời, thì cũng chẳng có cách nào hay hơn để chuyển tải lời ông nói:
-Bobby, cháu không thể về nhà. Bây giờ cháu đã thuộc về nơi này rồi.
Vậy đó. Mình quay lưng lại ông, thẫn thờ, không biết phải làm gì, nghĩ gì nữa. Chỉ muốn khóc thôi. Mình cũng muốn thụi cho ông mấy quả, muốn cãi lý với ông, muốn thức dậy và thấy đây chỉ là cơn ác mộng khủng khiếp.
Cậu Press vẫn cứ lẳng lặng nhìn mình và chờ mình bình tĩnh lại. Nhưng tất cả những thông tin lộn xộn nhồi nhét vào cái sọ bé nhỏ tội nghiệp của mình chỉ làm mình bật ra được một câu hỏi ngẩn ngơ:
-Vì sao?
-Cậu đã nói với cháu, có những người tại Denduron cần chúng ta giúp đỡ.
Giọng ông nhỏ nhẹ như nói với một đứa con nít, càng làm mình thêm lộn ruột. Mình la lớn:
-Nhưng cháu không biết những người đó. Mặc kệ họ. Cháu chỉ quan tâm tới cháu thôi. Cháu muốn về nhà. Cậu không hiểu sao?
Cậu nghiêm giọng:
-Cậu hiểu rất rõ. Nhưng không thể được.
-Vì sao? Chuyện gì về những người này mà quá quan trọng vậy? Nơi này là đâu? Cái... Denduron này là ở đâu?
-Rất khó cắt nghĩa để cháu hiểu...
-Cậu cố thử đi.
Mình đã chán ngấy tất cả những chuyện bí mật rồi. Cậu Press ngồi lên một tản đá. Mình coi như đó là dấu hiệu cậu sẵn sàng bắt đầu giúp mình hiểu rõ mọi chuyện. Ông nói:
-Chúng ta đang ở rất xa trái đất. Nhưng nơi này không phải là một hành tinh khác như cháu nghĩ. Đây là một lãnh thổ. Giống như trái đất là một lãnh thổ.
-Lãnh thổ, hành tinh thì khác gì nhau. Chỉ là một từ để gọi.
-Không phải vậy. Nếu chúng ta có một phi thuyền và phóng khỏi đây, đi đến nơi được coi là trái đất, thì sẽ chẳng có trái đất nào ở đó để cho cháu đến. Vì nó không có ở đó. Ít ra là, mọi chuyện không giống như những gì cháu biết. Khi cháu đi xuyên qua ống dẫn...
-Ống dẫn?
-Bằng lối đó cháu đã tới đây. Xuyên qua ống dẫn. Khi tới những lãnh địa qua đường ống dẫn, cháu không chỉ đi từ nơi này tới nơi khác, mà là xuyên qua không gian và thời gian. Cậu biết là rất khó lý giải, nhưng rồi cháu sẽ hiểu.
Mình không chắc là có muốn hiểu không. Thà cứ ngốc lại đỡ hơn. Mình nhìn cậu Press và lần đầu tiên mình giật mình: đây không phải con người mình từng biết. Vẫn biết ông là một nhân vật bí mật, nhưng bây giờ ông có vẻ giống như một thành phần hoá học hơn mình tưởng nhiều. Mình hỏi:
-Cậu là ai? Thật sự, cậu không phải là một người bình thường.
Cậu Press mỉm cười, nhìn xuống. Không hiểu sao mình có cảm giác câu trả lời cũng chẳng dễ chịu gì.
-Cậu là cậu của cháu, Bobby. Nhưng đồng thời cũng là một “Lữ khách”. Giống như cháu vậy.
Lai thêm một từ mới. “Lữ khách.” Mình chẳng muốn là một “Lữ khách” tí ti nào. Mình chỉ muốn là Bobby Pendragon, cầu thủ bóng rổ trong đội hình của trường trung học Stony Brook. Nhưng... cuộc đời đó dường như đã quá xa xôi rồi.
-Nếu chúng ta không còn trên trái đất, sao cháu vẫn thấy giống như đang ở trên trái đất? Cháu vẫn thở được, ở đây cũng có tuyết, và có trọng lực bình thường...
-Tất cả các lãnh địa đều rất giống trái đất, nhưng không hoàn toàn giống hệt.
-Chẳng hạn như ba mặt trời ở đây?
-Thí dụ rất hay.
-Và những tản đá vàng kỳ cục nhô khỏi mặt tuyết?
Cậu Press bỗng căng thẳng:
-Đâu? Bên ngoài hả? Bao nhiêu?
-Cháu... không rõ. Mười. Mười hai.
Ông đứng vội dậy cởi áo choàng:
-Chúng ta phải đi thôi. Ném áo choàng xuống đất, cậu Press hấp tấp tới cuối hang, nơi có một đống cành khô. Ông bắt đầu giở chúng ra.
Mình lo lắng hỏi:
-Chuyện gì vậy?
Ông đặt ngón tay lên môi, suỵt một tiếng. Vẫn tiếp tục rút những cành khô, ông nói nhỏ như sợ bị nghe lén:
-Bọn quig.
À, quig. Không phải từ mới. Nhưng mình rất ghét từ này. Mình tí tởn nói:
-Không phải quig đâu. Quig giống như chó mà, đúng không?
Cậu thì thào:
-Tuỳ theo từng lãnh thổ. Trên Trái Đất Thứ Hai chúng giống như chó. Tại đây thì không.
Mình hỏi, mà thật tình không muốn biết câu trả lời:
-Vậy thì... quig là con gì?
-Chúng là những con thú hoang dã đặc biệt trong mỗi lãnh địa. Saint Dane sử dụng chúng để giữ không cho Lữ khách lại gần ống dẫn.
Lại là cái tên đó. Saint Dane. Nhưng làm cách nào một con người “sử dụng” một con thú hoang dã vào công việc? Mình chưa kịp hỏi, cậu Press đã dở hết đống cành khô, để ra một đóng lộn xộn lông và da thú. Ông bắt đầu cởi quần áo. Nhặt lên một mảnh da trông phát khiếp, ông bảo:
-Mặc cái này vào. Chúng ta không thể mặc quần áo của Trái Đất Thứ Hai tại lãnh địa này.
-Cậu đùa ạ?
-Đừng cãi Bobby. Những thứ này làm cháu ấm.
-Nhưng...
-Không nhưng gì hết. Lẹ lên!
Cậu Press thì thầm. Rõ ràng ông sợ lũ quig. Mình nghĩ là mình cũng sợ, nên mới vội vàng cởi quần áo. Dù khiếp đảm chờ câu trả lời, nhưng mình vẫn hỏi:
-Cởi đồ lót luôn sao, cậu?
-Tại Denduron không ai mặc đồ lót.
Câu trả lời mình chẳng muốn nghe tí nào. Dù biết sẽ rất khó chịu, nhưng mình đành phải theo lời cậu Press: mặc quần áo lót lông bên trong, quần áo da bên ngoài. Đôi ủng da rất êm và tại Denduron người ta không mang bít-tất. Khi lấy thêm quần áo khỏi đống cành khô, có một vật khác dần dần lộ ra. Mình nhấc tấm da lông lá cuối cùng lên và thấy một chiếc xe trượt tuyết giành cho hai người. Trông nó giống như xe trượt do chó kéo tại Alaska, nhưng chẳng có gì là hiện đại. Bánh trượt là những thanh gỗ, sườn xe làm bằng cành cây, ghế ngồi đan bằng cây sậy, còn bánh lái là cái gạc hươu to đùng. Nhưng còn thêm mấy thứ làm mình bối rối.
Buộc hai bên sườn là những cây giáo trông phát khiếp. Chúng được làm bằng những cây chuốt nhẵn. Mũi bằng thép, trông sắc như dao mổ. Đuôi giáo gắn lông vũ. Dù thô kệch và lạc hậu, tất cả trang thiết bị đó có vẻ là một vũ khí đáng gờm. Chúng được treo hai bên sườn xe trượt như một dạng hảo tiễn thời tiền sử, sẵn sàng để phóng. Mình hỏi, tràng trề hy vọng: -Súng của cậu không hạ được bầy quig sao?
-Trong lãnh địa này không được dùng súng. Chúng ta chỉ có thể sử dụng những gì do nơi này làm ra. Cháu phải nhớ điều quan trọng đó. Hiểu?
-Cháu hiểu.
Ông nhét một vật vào tay mình. Đó là một vật nhỏ, được chạm khắc, tròng vào một sợi dây da. Trông giống như...
Như đọc được ý nghĩ của mình, cậu Press nói ngay:
-Đó là cái còi. Phải luôn giữ bên mình cháu.
Mình muốn hỏi để làm gì, nhưng mối bận tâm lúc này là hy vọng cậu sử dụng giáo cũng giỏi như súng. Còn cái còi nhỏ xíu này là cái quái gì chứ, nó đâu có bảo vệ được cậu cháu mình nếu gặp nguy hiểm. Nhưng mình cũng tuân lệnh, choàng nó vào cổ. Cậu Press hỏi:
-Sẵn sàng chưa?
-Chưa.
Câu trả lời quen thuộc của mình. Thật tình, mình đã sẵn sàng. Mình cảm thấy hơi giống một người sống trong hang, nhưng bộ quần áo kỳ cục này vừa vặn với mình. Chỗ nào quá rộng, mình buộc bằng dây da theo lời cậu chỉ dẫn, Mình thật sự thoải mái. Chỉ tiếc một điều là không giữ được bộ đồ lót. Nếu có bị ngứa ngáy, nổi mụn tràn làn chắc không tìm ra phấn rôm ở Denduron này.
Cậu Press bắt đầu kéo xe trượt ra vùng sáng về phía cửa hang. Mình đẩy phụ. Cậu dặn:
-Khi ra tới chỗ có tuyết, cháu phải nhảy lên, ngồi phía sau ngay. Cậu sẽ giữ lái phía trước. Nếu may mắn chúng ta sẽ đi khỏi trước khi bầy quig thức giấc.
- Nếu không may mắn thì sao?
- Chúng ta không chạy nhanh hơn chúng đâu. Hy vọng duy nhất là hạ được một con.
- Hạ? Cậu nói rõ hơn đi.
Nhưng ông không nói. Hai cậu cháu đã tới cửa hang. Cậu Press nhìn mình:
-Cậu rất tiếc, thật sự rất tiếc vì chuyện này. Cậu chỉ biết nói rằng, cháu sẽ sớm được biết vì sao.
Ông nói như vẻ đoan chắc như mình thật sự tin ông. Còn mình thì sợ phải tin ông. Vì nếu những gì cậu Press nói đều đúng, mình sẽ không còn lựa chọn nào khác mà chỉ còn cách đối diện với những rắc rối đang chờ phía trước. Và căn cứ vào những gì đã xảy ra cho đến lúc này, sẽ chẳng có gì thú vị cả. Mình chỉ bảo:
-Hy vọng cậu biết lái cái này.
-Nắm chặt vào.
Hừ, “nắm chặt”. chẳng lẽ mình vung vẫy hai tay trong không khí để giữ thăng bằng, như trên một trục lăn!
Cậu cháu mình kéo xe ra khỏi cửa hang, lên nền tuyết. Phải mất mấy giây mắt mình mới quen được với ánh sáng. Điều đầu tiên mình thấy là những tảng đá vàng mang niềm gở nhô trên tuyết trắng. Dù cậu Press có tỏ ra sợ, nhưng mình không hiểu so mấy cục đá đó có thể nguy hiểm được. Ông im lặng ra dấu cho mình leo vào xe, rồi vòng ra sau, bắt đầu đẩy. Cái xe cổ lỗ đời tiền sử đó lướt đi rất êm. Tước mặt mình là những tảng đá vàng; mình đếm được mười hai tảng, rải rác trên khoảng rộng nhiều mét. Cậu cháu mình lướt đến gần chúng êm ru. Mình nhìn cậu Press. Cậu đặt tay lên môi như muốn nhắc nhở mình phải im lặng. Tiến thêm mấy mét, hai cậu cháu lọt giữa những tảng đá vàng. Cậu Press thận trọng điều khiển xe sao cho không chạm vào bất cứ vật gì. Ngay khi chúng mình vừa tăng tốc, độ dốc càng dốc đứng hơn. Nhìn ra trước, mình bỗng không còn lo gì đến bầy quig nữa. Chúng mình sắp lao xuống dốc núi tuyết dựng đứng, lởm chởm đá tảng trên một mảnh gỗ lung lay được ràng bằng dây da. So với cảnh tượng khủng khiếp đó thì mấy con thú cao sáu tấc có nghĩa lý gì chứ?
Mình sắp tìm ra lời giải đáp đó.
Ngay khi sắp ra khỏi bãi đá vàng, thì trước mặt chúng mình mặt tuyết bắt đầu rùng mình. Chỉ còn phải vượt qua một tảng đá nữa thôi. Nhưng một là quá đủ. Thình lình, ngay trước mặt, tuyết nứt ra, tảng đá nhọn màu vàng đứng dậy. Nhưng đó không phải là tảng đá nhọn màu vàng. Đó là cái sừng nhô lên từ lưng một quái vật gớm ghiếc mình chưa từng thấy bao giờ. Con quig vươn mình khỏi tuyết cho đến khi thân thể nó hoàn toàn xuất hiện. Trông nó giống như một con gấu xám khổng lồ. Nhưng cái đầu to đùng với cả những cái nanh nhọn hoắt - cả hàm trên và hàm dưới - giống như lợn nòi. Chân nó cũng to vật vã với những móng vuốt lớn như những phím đàn piano. Những phím đàn sắc bén. Mắt nó giống mắt những con chó trong nhà ga tàu điện ngầm. Vàng khè, hung hăng và... tập trung vào hai cậu cháu mình.
Cậu Press vừa chạy vừa đẩy xe trượt vòng qua con quái, cố gắng tăng thêm tốc độ. Cậu la lên:
- Lấy cây giáo.
Mình không thể rời mắt khỏi con quái vật. Nó vươn mình trên hai chân sau chồm tới. Tiếng gầm của nó khủng khiếp đến mức có thể làm người chết bật dậy. Hoặc... ít ra cũng đánh thức được cả bầy quig. Quả vậy. Phía sau cậu cháu mình, tuyết chung quanh những tảng đá vàng sôi sùng sục. Tất cả bầy quig đang thức giấc.
-Bobby, dịch ra!
Cậu Press nhảy lên xe, làm mình choàng tỉnh. Nhào tới trước mình nắm lấy một cây giáo. Xe trượt lao vùn vụt, nảy lên trên tuyết. Mình vất vả giữ thăng bằng. Gò người sang một bên, mình cố gắng cởi dây buộc một trong hai cây giáo trên sườn xe.
-Lẹ lên!
Tiếng cậu Press từ phía sau, bình tĩnh nhưng khẩn khiết. Mình quay lại nhìn: phía sau, hàng chục con quig đang rùng mình rũ tuyết.
Đáng lẽ mình không nên nhìn. Sợi dây buộc giáo sắp gỡ được, thì ngay lúc mình nhìn lại. xe trượt đụng phải một mô đất, nẩy tưng lên. Trước khi mình biết chuyện gì đã xảy ra thì cây giáo đã lỏng ra và rơi khỏi xe. Mình vội với theo, nhưng quá muộn.
Cậu Press lại la lên:
-Lấy cây khác. Mau!
Mình nhào qua bên kia xe, một tay nắm chặt cây giáo, một tay lúng túng cởi dây. Mình không thể để mất thêm cây giáo này. Rồi mình cũng cởi được dây.
-Đón này.
Mình la lên, ngả người chuyền cây giáo cho cậu Press. Ngay sau đó, mình quỳ gối, nhìn lại. Khiếp đảm, mình nhìn lũ quig đang tấn công. Tiếng gầm gừ khắp phía, cậu cháu mình đã lọt vào tầm nhắm của những con gấu hung tợn. Mình không biết cây giáo nhỏ bé làm được gì để chống lại bầy đàn tấn công dữ dội kia. Cậu Press gào lên:
-Giữ vững bánh lái.
Mình bò lên phía trước, nắm lấy cái gạc hươu. Xe trượt lướt đi rất hoàn hảo. Ai thiết kế ra chiếc xe này, đã biết nó sẽ làm gì. Tuy nhiên, cậu Press đã nói đúng. Chúng mình không đủ nhanh để thoát khỏi tụi quig. Chúng nó sắp gần kề.
Con quig dẫn đầu cách bầy đàn nó một khoảng xa. Đó là mối nguy hiểm sát bên cậu cháu mình. Mình ngoái ra sau, nhìn những gì đã xảy ra. Cậu Press thật ngầu. Cậu đứng sững trên xe, hướng ra sau, cây giáo trong tay. Đã quen thấy cậu hiên ngang trong những trường hợp tương tự như thế này, nên chẳng có gì làm mình ngạc nhiên thêm được nữa. Như thuyền trưởng Ahab săn con cá voi khổng lồ Moby Dick, cậu Press chờ con quig đầu đàn. (Moby Dick - con cá voi trắng khổng lồ và thuyền trưởngAhab là hai nhân vật nổi tiếng trong văn chương Mỹ. Tiểu thuyết Mody-Dick (1851) của nhà văn Haman Melville được chuyển thể thành nhiều bộ phim phiêu lưu mạo hiểm rất ăn khách. (Nxb))
Giọng làu bàu, ông giễu cợt nó:
-Nào nào, lại gần chút nữa coi.
Con quái khát máu đã gần kề, nó chồm lên, hai hàm há hốc, sẵn sàng táp lấy cậu Press. Ông la về phía mình:
-Cái còi! Thổi ngay đi!
Còi? Cái còi thì làm được gì? Nhưng đây không phải lúc lý sự. Một tay điều khiển gạc hươu, một tay mình lần mò tìm cái còi đeo trên cổ. Con quái gần sắp chộp được cậu Press rồi. Cuối cùng mình cũng túm được cái còi. Kéo sợi dây da ra khỏi đầu, mình đưa còi lên miệng thổi.
(vongtronkhuyet type)
Âm thanh rất khác lạ. Chắc chắn cái còi này được thiết kế để bắt chó ngừng sủa với cường độ cao chói lói chỉ có chó mới nghe nổi. Nhưng quig hình như không khoái nghe âm thanh lạ lùng này. Con quái bỗng há hốc mõm ghê tởm, tru lên làm tóc gáy mình dựng đứng. Đó là âm thanh đau đớn, như thể âm thanh phát ra từ cái còi đang cào xé đầu óc nó.
Đúng lúc ấy cậu Press ra tay. Cậu phóng cây giáo như một vận động viên Olympic phóng lao. Ngọn giáo lao thẳng vào cái mõm đang há toang hoác của con quái vật. Con quái hộc lên đau đớn khi mũi giáo đi suốt tới cuống họng nó. Con quig lăn xuống, chân co giật làm tung lên lớp tuyết mỏng. Máu trào ra từ cái mõm há hốc như suối chảy.
Thật kinh tởm! Nhưng chưa kinh tởm bằng những gì xảy ra sau đó. Bầy quig kia đuổi kịp con đầu đàn, nhưng thay vì rượt theo cậu cháu mình, chúng ngừng phắt lại nhào vào tên anh em của chúng. Đó là miếng mồi đầy quyến rũ, giống như bạn thấy lũ cá mập phát hiện mùi máu trong nước vậy. Đến bây giờ mình vẫn còn nghe những âm thanh khi chúng phanh thây xé thịt đồng loại. Mình không bao giờ muốn phải nghe lại những tiếng toàng toạc của thịt tươi, tiếng răng rắc của xương gãy đó nữa. Mà… con mồi đó vẫn sống. Tiếng gầm rú của nó nghe thật khiếp đảm. Cám ơn trời, tiếng kêu thảm thiết đó không kéo dài.
Mình nhìn lại lần cuối. Phải chi mình đừng làm vậy, vì ngay lúc đó một con quig ngửng nhìn lại mình. Móng vuốt và mõm nó nhễu nhão đầy máu. Bây giờ mình mới hiểu ý cậu Press khi cậu nói chỉ cần hi vọng “hạ” được một con.
Cậu mình bỗng la lên:
-Coi chừng!
Mình vội nhìn phía trước. Một tảng đá lớn như một chiếc ô-tô lù lù trước mặt. Mình bẻ mạnh gạc hươu. Xe trượt lách sang một bên, nhưng đuôi bị lật ngang, làm chiếc xe va mạnh vào tảng đá. Cậu cháu mình vẫn tiếp tục di chuyển được, dù cú di chuyển quá mạnh, quăng cậu Press lên sàn xe. Nếu không nắm chặt gạc hươu mình cũng đã bị quăng theo rồi. Nhưng khi nắm chặt gạc hươu mình đã để rơi mất cái còi. Tụi quig mà đuổi theo sẽ rất gay go. Hai cậu cháu không có còi, cũng chẳng còn cây giáo nào. Sao mình lại ngốc đến mức tháo sợi dây khỏi cổ như vậy chứ?
Xe trượt phăng phăng vì con dốc gần như dựng đứng. Mình đã có thể thấy sắp tiến đến hàng cây. Để đến được điểm đó, mình chỉ còn phải điều khiển xe lướt trên tuyết và tránh những tảng đá. Lúc này cậu cháu mình đang tiến thẳng vào một khu rừng.
-Thành công rồi!
Cậu Press la lớn. Ông tiến lên đầu xe. Niềm vui lớn nhất của mình là trao bánh lái lại cho ông. Mình cũng la lớn hỏi:
-Xe không có thắng, phải không cậu?
-Ước gì có thắng!
Câu trả lời phát ớn! Đây đâu phải là con dốc dễ thương để chơi trò trượt băng? Ồ, không. Cậu cháu mình sẽ đâm đầu vào hang loạt cây cối kia mất thôi. Muốn ngừng lại là phải cho xe ủi vào một vật cứng. Mình chẳng muốn đâm đầu vào một vật cứng chút nào. Chắc chắn sẽ bị thương. Cậu Press lại la lớn:
-Phải! Nghiêng qua phải!
Mình làm theo và cậu Press đưa hai người vòng qua một thân cây.
-Bám chặt cậu. Nhìn điểm sắp tới! Sang trái.
Cứ như đang ngồi phía sau chiếc mô-tô của cậu Press vậy, muốn cua qua bên nào là hai cậu cháu phải ngả người sang bên đó. Nhưng xe mô-tô còn có thắng và không phải lạng lách qua bãi mìn toàn cây như thế này. Khiếp thật! Trên cái xe trượt cà tàng, chúng mình phóng như trên hoả tiễn, lách qua những cây thông rắn như đá.
Xe vù vù vượt qua những thân cây san sát. Trái, phải, lại phải. Cậu Press luôn miệng bảo mình ngả người qua bên nào. Còn mình luôn phải nhìn phía trước và cố đoán ông định rẽ sang đâu. Cành cây vun vút quất vào mặt cậu cháu mình. Tiếng cây vèo vèo lướt qua sát bên tai. Càng xuống dưới rừng cây càng rậm rạp hơn. Cậu Press kêu lớn:
-Phía trước có một khoảng trống. Tới đó, cậu sẽ bẻ lái gấp sang phải. Hy vọng chúng ta không bị lật.
Hy vọng! Hy vọng sao đừng bị hất ra khỏi xe, lộn tùng phèo vào một thân cây!
Tiếng cậu vẫn oang oang:
-Khi cậu bẽ lái, nhớ ngã hết cỡ về bên phải. Sắp tới rồi.
Qua những hàng cây, mình thấy một bãi màu trắng. Chắc đó là khoảng rừng trống. Nhưng cậu cháu mình vẫn di chuyển rất nhanh và cây cối còn rải rác rất nhiều. Trái, trái, phải. Thêm vài lần rẽ nữa là sẽ đến bãi đất trống. Mình la toáng lên:
-Thành công rồi!
Nhưng không. Khi rẽ trái, một rễ cây nằm dưới tuyết hất hai cậu cháu sang phải. Chiếc xe lướt đi ngoài vòng kiểm soát. Khi đó, giữa cậu cháu mình và bãi đất an toàn kia chỉ còn vài cái cây nữa thôi. Xe trượt đâm sầm vào một thân cây, quay vòng vòng. Sức va đập thật khủng khiếp, làm mình chao đảo. Nhưng mình vẫn trụ lại được trên xe. Cậu Press, kém may mắn hơn, bị bắn ra ngoài.
Mình vẫn tiếp tục lướt đi. Thanh trượt bên phải đã rời ra, nhưng chiếc xe vẫn bon bon tiến tới. mình nằm cuối xe, cách bánh lái là cái gạc hươu cả… dặm. Đã nhìn thấy bãi đất trống, mình thoáng nghĩ là sẽ tới được đó. Nhưng xe trượt đâm vào một mô đất và thình lình mình bay bổng lên. Xe một đằng, mình một nẻo. Rồi mình rơi bịch xuống. chỗ này tuyết không dày, nên thay vì đáp xuống mặt tuyết êm ái, thân hình mình nện lên mặt đất cứng ngắc. Mình gần như đứt thở, đầu đập mạnh xuống đất. Trời đất quay mòng mòng một màu trắng. Mình không nghĩ được gì nữa. Không cựa quậy nổi nữa, nhưng… như thế lại tốt.
Không biết mình nằm đó bao lâu, vì mình tỉnh rồi lại mê đi. Lúc đó, mình nhớ là có nghe những âm thanh kỳ lạ. Lúc đầu xa xa, rồi lại gần rất nhanh. Mình đã sợ là lũ quig đã xong bữa trưa, bây giờ định bắt cậu cháu mình làm món tráng miệng. Nhưng không phải. Âm thanh này giống như tiếng vó ngựa. Ít nhất cũng hơn một con.
-Bobby! Bobby! Nếu nghe được tiếng cậu, cũng đừng nhúc nhích. Ở yên tại đó. Milago sẽ tìm ra cháu. Họ sẽ giúp cháu.
Ông ấy nói gì vậy? Milago là ai? Cần phải thấy chuyện gì đang xảy ra. Mình lăn sang một bên, dù rất đau. Chắc cú ngã đã làm mấy chiếc xương sườn của mình nát như tương rồi. Không thể đứng dậy. Dù có muốn cũng không chắc đứng nổi. Đầu nhức nhối và chóng mặt vô cùng, nhưng mình cũng ráng bò qua tuyết, tiến tới nơi có tiếng nói cậu Press. Một ụ tuyết vồng lên – có thể chính cái ụ này đã phóng mình lên không – mình phải bò bằng bụng, rất đau, tới ụ tuyết đó. Tới nơi, mình thận trọng lén nhìn qua ụ tuyết.
Mình nhẹ cả người khi thấy cậu Press đang đứng bên lề khoảng rừng trống, không xa mình lắm. Cậu mình không hề hấn gì, có vẻ còn khá hơn tình trạng mình lúc đó nhiều.
Bên kìa khoảng rừng trống, đang mau chóng xiết vòng lấy cậu Press, là những con ngựa mình đã nghe tiếng vó. Trên lưng bốn con ngựa có bốn người cỡi. Mình thấy họ giống như những hiệp sĩ thời cổ. Họ mặc toàn giáp bằng da đen. Mũ và tấm che mặt cũng bằng da đen. Cả bốn con ngựa cũng phủ trên mình những tấm da đen giống vậy. Trông họ giống hệt nhau, hình như những bộ giáp này là đồng phục. Họ còn mang cả kiếm nữa, cứ như từ trong truyện Hiệp Sĩ Bàn Tròn bước ra (Theo truyền thuyết của Anh, Hiệp Sĩ Bàn Tròn là nhóm những người được tấn phong phẩm cấp hiệp sĩ cao nhất tại triều đình vua Arthur. Bàn tròn – nơi họ hội họp - thể hiện sự bình đẳng của mọi thành viên trong nhóm. (Nxb))
Trong khi họ xiết vòng vây quanh cậu Press, cậu vẫy tay thân thiện:
-Chào. Các bạn khoẻ chứ?
Đây đâu phải nước Mỹ? Cũng không phải trái đất. Sao cậu Press lại nghĩ những người này nói được tiếng Anh?
Một hiệp sĩ cộc cằn nói lớn:
-Buto! Buto aga forden.
Mình nghĩ đúng mà. Họ không biết tiếng Anh. Nhưng cậu press vẫn trả lời bằng tiếng Anh.
-Không đâu. Tôi đi săn thỏ cho gia đình mà.
-Soba board few!
Một hiệp sĩ khác quát lên. Thật quái lạ! Họ nói một thứ ngôn ngữ lạ hoắc, còn cậu Press cứ nói tiếng Anh, vậy mà dường như hai bên hiểu nhau. Mình thì mù tịch, chẳng hiểu gì hết. Còn gì mới lạ nữa không đây?
Hiệp sĩ đã nói với cậu Press đầu tiên chỉ ngón tay vào cậu thét lớn:
-Buto! Buto aga forder ca dar!
Căng rồi! Chẳng biết “Buto” có nghĩa quái quỉ gì, nhưng mình đoán chắc không phải là câu chào thân thiện. Cậu Press đưa cao hai tay vẻ ngây thơ vô tội, nhúng vai như không hiểu họ đang nói gì. Ông nói với nụ cười:
-Không. Tôi dò thám Kagan làm gì chứ? Tôi là một thợ mỏ, chỉ lo nuôi sống gia đình thôi.
Do thám? Thợ mỏ? Kagan? Đầu mình lùng bùng luôn.
Thế rồi mọi chuyện trở nên nghiêm trọng hơn. Tay hiệp sĩ đó rút ra từ yên ngựa một cây roi như cây roi chăn bò và quất cậu Press. Phập! Cây roi cuốn lấy cánh tay cậu. Cậu bật lên một tiếng kêu đau đớn. Gã hiệp sĩ giật mạnh roi, kéo cậu quì xuống.
Mình định đứng lên, chạy tới cậu. Nhưng bên sườn đau nhói làm mình nghẹt thở. Đầu óc lại quay mòng mòng làm mình suýt ngất đi. Nhưng mình vẫn cố nhướng mắt nhìn cậu Press. Hai hiệp sĩ khác rút ra hai sợi dây thừng từ yên ngựa, tung thòng lọng lên cậu mình cứ như ông là một con bò tơ trong trò rodeo (Cuộc đua tài của những người chăn bò(cưỡi ngựa, quăng dây…)). Rồi chúng thúc ngựa, phóng qua khoảng rừng thưa, kéo lê cậu Press đi theo.
Điều cuối cùng mình thấy là: những gã hiệp sĩ áo đen ngồi trên ngựa, ha hả cười kéo cậu mình qua mặt tuyết. Khi chúng khuất dạng vào rừng, mình chẳng thấy chẳng nghe gì nữa. Đầu óc mình quay cuồng, mất kiểm soát. Mình lịm đi dần. Điều cuối cùng mình còn nhớ được là mình tưởng như chỉ mấy tiếng đồng hồ trước, mình còn đứng trong bếp ném trái banh ten-nít cho con Marley chụp. Và mình hy vọng có người nhớ dắt nó ra ngoài đi dạo vào buổi tối.
Rồi tất cả chỉ còn là màu trắng. Mình ngất đi.
CHẤM DỨT NHẬT KÍ # 1
|