Pendragon 1 ~ Con Buôn Tử Thần
|
|
TRÁI ĐẤT THỨ HAI (Hàn sỹ type)
Mark Dimond bồn chồn lui tới, trong khi Courtney Chetwynde ngồi trên ba-lô của cô trong cảnh đất trống trơn tại số 2 Linden Place, đọc những trang giấy da. Mark muốn cô bạn nó đọc nhanh hơn, muốn cô ngửng lên bảo với nó là mọi chuyện ổn cả, muốn cô tìm ra một manh mối đâu đó trong những trang này chứng tỏ rằng chẳng có gì là thật hết. Nhưng điều mong mỏi nhất là, nó muốn quay lại và thấy ngôi nhà của Bobby trở lại như xưa.
Courtney cứ nhẩn nha đọc hết mấy trang giấy, rồi ngước nhìn Mark với vẻ tò mò, hỏi tỉnh bơ:
-Cậu vớ được cái này ở đâu vậy?
Mark thọc tay vào túi, lấy ra cái nhẫn mặt đá xám. Sau chuyện xảy ra trong nhà vệ sinh, nó chưa có dịp đeo thứ trang sức tai ương này lại vào ngón tay.
-Mình lấy được từ…cái nhẫn này. Nó như một vật sống vậy. Tỏa sáng, lớn dần và mở ra một miệng hố với những âm thanh, rồi thình lình…cuộn giấy lù lù ngay đó.
Courtney nhìn cái nhẫn, rồi lại nhìn cuộn giấy da. Mark có thể thấy đầu óc cô bạn đang lộn tùng phèo khi cố gắng để hiểu tất cả những gì nó vừa đẩy sang cho cô. Sau cùng, Courtney đứng dậy, ném cuộn giấy qua vai như ném mấy tờ báo cũ và cười khinh khi:
-Đủ rồi đó.
-Này!
Mark kêu lên, vội vàng chạy theo cuộn giấy. Một cơn gió nhẹ cuốn mấy tờ giấy lệt sệt trên mảnh đất trống, làm Mark phải bò toài ra nhặt trước khi chúng bay đi mất. Courtney la lối:
-Các người tưởng tôi là gì? Một con ngốc à?
Tật cà lăm của Mark trở lại:
-K…k…không…không…phải phải…vậy…
-Bảo với Boddy Pendragon, tôi không quá ngu để tin vào trò đùa ngốc này đâu.
-N…n…nhưng…
-Chuyện gì nữa? Muốn tôi phải lo quính lên, đi nói với mọi người là tối qua Boddy vắng mặt trong buổi thi đấu là vì cậu ta trôi trong ống dẫn tới một không gian khác và phải đánh nhau với bầy thú ăn thịt đồng loại, và nếu không cứu được người cậu thoát khỏi các hiệp sĩ áo đen, cậu ta sẽ có thể vắng mặt trong trận đấu tới nữa chứ gì?
-À, ừa, đúng…đúng vậy…
-À, ừa, đúng vậy. Hay quá ta! Để rồi Boddy xuất hiện, nhảy cỡn lên mà la:”Ngạc nhiên chưa!”. Lúc đó tôi chỉ có nước cuốn gói sang tiểu bang khác, vì mọi người sẽ không bao giờ quên vụ tôi ngu tới nổi tin vào trò đùa ác mó lố bịch nhất trong lịch sử các trò đùa ác mó. Đừng hòng!
Courtney xách ba-lô, hầm hầm bước đi. Mark hét:
-Courtney, đứng lại!
Courtney quay phắt lại, ném cho Mark cái nhìn khinh khỉnh. Ai mà bị Courtney Chetwynde nhìn kiểu đó thì chỉ còn nước mau đào hố mà chôn mình cho sớm. Mark phải lấy hết sức bình sinh để tiếp tục. Nó nói một cách rất chân thật và không hề lắp bắp:
-Chính mình cũng khó mà tin nổi. Nhưng không phải chuyện đùa đâu. Mình không biết tất cả những gì trong cuộn giấy kia có thật không, nhưng mình đã được thấy những điều mà mình không cắt nghĩa được. Mình thề là mình đã thấy. Và điều đó đủ làm mình tin là có chuyện gì đó rất kỳ quái đã xảy ra cho Boddy.
Courtney đứng im. Có phải cô bé bắt đầu tin? Hay chỉ đợi nó nói xong, sẽ lại bảo: cậu tưởng tôi ngu lắm à?
Mark chớp lấy cơ hội, nói tiếp:
-Mình biết có quá nhiều điều không thể nuốt được. Nhưng nếu chỉ là trò đùa tinh quái, thì ngôi nhà của Boddy đâu?
Courtney nhìn khu đất trống đằng sau nhà Mark. Mark không biết cô bạn đang nghĩ gì. Có phải đang nhớ lại tối qua đã tới đây, vào một căn nhà lúc này đã biến mất, và hôn Boddy Pendragon? Mark nói thêm:
-Courtney, mình sợ. Muốn biết chuyện gì đã xảy ra, nhưng mình nghĩ, một mình mình sẽ không thể nào tìm hiểu được chuyện gì.
Courtney trừng trừng nhìn Mark một chập nữa, như cố gắng đọc suy nghĩ của nó, rồi bước qua Mark, lẳng lặng tới đứng giữa bãi đất trống. Cô bé từ từ quay vòng 360 độ để nhìn tất cả. Không một dấu vết nào chứng tỏ một gia đình bốn người và một con chó đã sống tại đây mười hai tiếng đồng hồ trước. Courtney thuộc loại người bao giờ cũng chiếm thế thượng phong trong mọi việc. Courtney luôn biết cách xoay chuyển tình thế khó khăn để đem đến lợi ích cho mình, dù đó là trận bóng chuyền hay cuộc tranh luận với ba mẹ. Nhưng vụ này khác hẳn. Cô không thể kiểm soát được tình thế, vì cô không biết quy luật. Courtney trầm ngâm:
-Được. Nhưng chúng ta không thể nháo nhào cố gắng tìm hiểu tất cả mọi chuyện cùng một lúc. Có…có quá nhiều điều…
Courtney nửa như nói với Mark, nửa như bật thành lời suy nghĩ của mình:
-Mình chẳng biết tí gì về quig hay Lữ khách hoặc cống dẫn…
Mark chỉnh lại:
-Ống dẫn.
-Là cái gì cũng vậy. Với mình cứ như toàn chuyện hoang đường. Nhưng ngôi nhà này…ngôi nhà này biến mất là sự thật. Nếu chúng ta tìm hiểu được chuyện gì đã xảy ra với ngôi nhà này, có thể sẽ là khởi điểm để chúng ta tìm ra Bodddy.
Lần đầu tiên Mark toác miệng cười. Nó đã có đồng minh và đó chính là người nó biết có thể làm mọi việc sáng tỏ. Nó nói:
-Tụi mình bắt đầu từ đâu?
Vừa sải dài những bước chân ra đường. Courtney vừa nói:
-Chúng mình phải tìm ra ba má của bạn ấy. Lẽ nào họ cũng biến mất nốt!
-Tuyệt!
Thình lình Courtney quay lại, ghé sát mặt Mark. Mấy ngón tay rắn chắc nắm ngực áo nó:
-Dimond. Mình thề. Nếu bạn định giở trò lừa mình, mình sẽ đập bạn không ngốc đầu lên nổi mà buộc dây giày đâu đấy.
-Biết rồi.
Mark làu bàu, nhét cuộn giấy vào ba-lô và đi theo Courtney ra đường lộ. Ra tới hè đường, nó nhìn lại lần cuối mảnh đất từng có ngôi nhà của thằng bạn thân nhất Nó có thể thông cảm cho sự nghi ngờ của Courtney. Chuyện trong cuộn giấy thật khó mà tin nổi, mặc dù có vài đều chứng tỏ là thật. Ít ra là những dòng về Courtney. Phần đó thì dễ rồi. Phần còn lại mới hoàn toàn khó tin. Và cũng thật bí ẩn. Không có dòng chữ nào Boddy nói về ngôi nhà nó bị biến mất. Nếu đúng như những gì Boddy đã viết, thì khi nó và câu Press ra đi bằng xe mô-tô, ngôi nhà vẫn còn đó. Đã có chuyện xảy ra sau khi Boddy đi, như vậy có nghĩa là Boddy không biết gì về chuyện ngôi nhà. Kỳ cục là điều đó làm Mark có chút hy vọng. Courtney có lý. Nếu biết chuyện gì xảy ra cho ngôi nhà, có thể sẽ tìm ra chuyện gì đã xảy ra với Boddy.
Còn một điều khác nữa là Mark day dứt và đó cũng chính là điều mà nó không cảm thấy yên tâm để chia sẻ với Courtney. Ít ra là lúc này, nó chưa yên tâm lắm. Đó là chuyện cái nhẫn và việc Boddy gửi cuộn giấy cho nó. Câu hỏi mà Mark không ngừng tự hỏi là:”Tại sao?” Nếu tất cả những gì Boddy viết là thật, rằng nó đang tham gia một cuộc phiêu lưu khó tin nhất, vậy thì tại sao nó lại tốn thời gian để viết ra tất cả những chuyện xảy ra và gửi về cho Mark? Đúng, hai đứa là bạn thân của nhau, và Boddy viết rằng hy vọng có một ngày những trang giấy ấy sẽ chứng tỏ là nó không bịa chuyện. Nhưng điều đó không đủ lý giải cho việc viết lách của Boddy. Mark cảm thấy có một nguyên do quan trọng về những gì đang xảy ra cho Boddy mà nó cần phải tìm hiểu.
Lúc này Mark vui mừng vì đang trên đường làm sáng tỏ những chuyện thằng bạn thân đang gặp phải. Điểm khởi đầu hợp lý là tìm cha mẹ Boddy, để tìm hiểu chuyện gì đã xảy ra cho ngôi nhà của họ. Với ý nghĩ lạc quan đó, Mark quay lưng lại mảnh đất trống, chạy theo Courtney. Cả hai đứa đều tin thắc mắc của chúng sẽ sớm được giải tỏa, chúng sẽ tìm Boddy, và cuộc sống sẽ bình thường lại đúng thời điểm cho buổi học ngày mai.
Mở đầu cuộc đều tra là đến nhà Mark. Vì hai đứa đều thấy việc kiếm ba má Boddy bằng điện thoại sẽ dễ dàng hơn là đi xe buýt hay đạp xe lung tung khắp thị trấn. Nhà Mark cũng ở trên một đường, cách nhà Boddy chừng nửa dặm. Đúng hơn là cách nơi đã từng có căn nhà của Boddy nửa dặm. Tất nhiên, sáng nay, khi rời khỏi trường, Mark đâu ngờ cô nàng Courtney Chetwwynde nổi tiếng lại có chuyến viếng thăm phòng ngủ của nó trưa nay. Vụ này xảy ra cũng… “ly kỳ” chẳng kém gì vụ thằng bạn thân của nó bị phóng xuyên qua vũ trụ.
-Chờ ở đây.
Mark vừa nói vừa chạy vào phòng ngủ, đóng sập cánh của ngay trước mặt Courtney. Cô bé trợn mắt, nhưng vẫn đứng yên, tôn trọng sự riêng tư của bạn.
Thoáng nhìn căn phòng, Mark đã muôn xỉu rồi. Nó không biết cái gì đáng xấu hổ nhất nữa. Bít-tất, đồ lót dơ rải rác khắp nơi, poster các siêu anh hùng trong phim hoạt hình chưa gỡ xuống; hình người mẫu áo tắm hai mảnh cắt từ báo thể thao vừa mới dán lên; hay mùi hôi nồng nặc bốc lên từ tất cả đống dơ dáy đó. Nó tăng tốc, mở tung cửa sổ, gom một ôm đầy những gì vơ được, nhét ra sau cái gối trên chiếc giường bừa bãi, lộn xộn.
Cửa phòng bật mở và Courtney xông vào:
- Này, cho bạn biết, mình có hai anh trai nên không đến nổi phát gớm khi thấy…
Nhưng…vừa nhìn căn phòng, cô bé đứng chết sững. Mark đờ người, tay ôm đống bít-tất đen thủi - chắc chắn trong “quá khứ” chúng đã từng là màu trắng. Courtney khịt mũi, cố không nôn ọe:
-Mình lầm. Phòng của bạn làm mình gớm quá đi mất. Có con gì chết trong này à?
-Xin xin…lỗi. Phòng mình c…cần chút không khí…
-Phòng cậu cần phải tẩy uế thì có. Mở nốt của sổ kia ra, mình sắp chết ngất rồi.
Mark ném đống bít-tất ra ngoài cửa sổ, rồi vội vàng mở nốt cửa sổ còn lại. Courtney đi “khảo sát” căn phòng, rồi ngừng lại trước hai tấm poster trên tường. Một là hình siêu nhân anh hùng trong phim hoạt hình. Tấm kia là một cô gái đẹp lộng lẫy nằm trên bãi biển nhiệt đới.
Courtney thốt lên:
-Có vẻ như ở cậu đang diễn ra cuộc xung đột giữa tuổi dậy thì và tuổi mẫu giáo thì phải. Mark vội vàng đứng chặn trước mấy tấm hình, nói cộc lốc:
-Tụi mình t…tập trung vào vấn đề quan trọng đi, được không?
Courtney hiểu ý. Giờ không phải lúc làm cho Mark khổ sở. Cô bé ngồi xuống bàn học của Mark, trong khi Mark hấp tấp gạt mộ hình máy bay F-117 nó đang làm để cô bạn rộng chổ “làm việc”. Đúng kiểu tác phong văn phòng. Courtney nói:
-Số điện thoại.
Trong khi Mark mở tủ lục lọi, Courtney tìm thấy một tập giấy nên mở ngăn kéo kiếm bút. Sai lầm nghiêm trọng. Cô bé thông báo:
-Này mình khám phá ra một bí mật rồi.
Giọng Mark tràn trề hy vọng:
-Cái gì vậy?
Courtney lấy từ ngăn kéo ra một khối ri rỉ nước vàng:
-Mình biết vì sao phòng bạn hôi như giày thối rồi.
Cô đưa lên miếng phô mát thối rửa. Mark vội chụp lấy, reo lên:
-Ê, mình kiếm miếng phô mát này quá trời mà không thấy.
Courtney trợn mắt, cầm cuốn sổ điện thoại Mark vừa tìm ra. Kế hoạch là gọi cho ba mẹ của Boddy tại nơi làm việc. Ông Pendragon là một nhà viết văn cho tờ báo địa phương, bà Pendragon là phó thủ thư của thư viện thị trấn. Courtney tìm được cả hai số và gọi tới cả hai nơi. Thật xui xẻo, lần gọi nào cô bé cũng nhận được một thông tin ngán ngẩm. Cả ba và má Boddy đều không có mặt tại nhiệm sở và đều không báo lý do vắng mặt. Courtney gọi tới trường Glenville, nơi Shannon, em gái của Boddy, đang học lớp ba. Câu trả lời cũng giống y như vậy: Shannon không tới trường. Từ từ đặt điện thoại xuống, Courtney nhìn Mark, nghiêm trang nói:
-Tất cả đều vắng mặt.
Mark chộp vội điện thoại, quay số. Courtney hỏi:
-Câu gọi ai vậy?
-Mình gọi số của Boddy.
Nhưng trong máy chỉ vang lên tiếng nhân viên tổng đài:”Số điện thoại bạn vừa gọi không có thật.” Mark dằn mạnh điện thoại xuống, la lên:
-Không thể thế được! Mình mới gọi Boddy hôm qua mà! Cả gia đình chẳng lẽ biến hết!
Gò mình trên cuốn niên giám điện thoại, Courtney lật tới vần “P”, tìm tên Pendragon. Lật đi lật lại tới lần thứ ba, cô bé ngẩn người tuyên bố:
-Không có. Tên họ không có trong này.
Mark giật lại sổ điện thoại, tự tìm. Courtney nói đúng. Không có tên Pendragon. Courtney hỏi:
-Hay là…họ không đăng ký số điện thoại?
-Không đâu. Năm ngoái, mình bà Boddy tìm số điện thoại nhà bạn ấy bằng chính cuốn này. Chúng mình chọc ghẹo nhau và mình đã viết ngay bên trên tên Pendragon chữ “Cục kít”. Mình biết là nhảm, nhưng mình đã viết vậy đó. Bây giờ chữ đó không có đây. Không có dấu tẩy, dấu cắt, không…có gì hết. Cứ như chưa bao giờ có trong cuốn sách này!
Bó tay! Cả một gia đình chợt biến hết. Chỉ còn một cách: báo cảnh sát. Không muốn trình bày một sự việc như vầy qua điện thoại, nên cả hai đến thẳng đồn cảnh sát thị trấn Stony Brook.
Stony Brook là một thị trấn nhỏ tại Connecticut và không phải là một trung tâm của những hoạt động tội phạm. Thỉnh thoảng mới có những vụ trôm vặt, đánh nhau, nhưng Ban chỉ huy cảnh sát Stony Brook luôn phải chứng tỏ công việc bộn bề bằng việc bắt dân thị trấn tuân thủ luật giao thông và dọn sạch sẽ nếu chó của họ ị bậy trên đường.
Khi Courtney và Mark bước vào đồn cảnh sát, hai đứa vẫn chưa biết phải nói những gì. Hai đứa quyết định sẽ nêu ra những sự kiện hiển nhiên: không thể tìm ra Boddy và gia đình nó, ngôi nhà biến mất. Còn vụ cái nhẫn, cuộn giấy da và câu chuyện của Boddy chưa nên nói ra lúc này.
Tiếp chúng là trung sĩ cảnh sát tên D’Angelo, ngồi sau một bàn làm việc lớn. Mark quá bối rối, nên Courtney nói trước. Cô bé kể vụ Boddy đã vắng mặt trong cuộc thi đấu tối qua như sao, vụ tới nhà của gia đình Pendragon và phát hiện ngôi nhà biến mất như thế nào, rồi vụ không một thành viên nào còn lại trong gia đình Boddy ở nơi đáng ra họ phải ở đó. Trung sĩ D’Angelo lắng nghe rồi ghi chép lên một tờ giấy. Courtney có cảm giác là viên cảnh sát này không tin một lời nào của hai đứa, nhưng vẫn ghi ghi chép chép, vì đó là công việc của ông ta. Sau đó, trung sĩ D’Angelo rời bàn, tiến đến máy tính. Ông ta bấm máy, đọc màn hình, thỉnh thoảng lại quay nhìn Courtney và Mark. Sau cùng viên trung sĩ đứng dậy, trở lại bàn, nhăn mặt nhìn hai đứa, nói:
-Nghe đây, nhóc. Chú không biết hai đứa định giở trò gì, nhưng hai cháu đang làm phí thời gian của chú và tiền bạc của những người đóng thuế.
Mark và Courtney sững sờ. Courtney nói:
-Chú nói gì vậy? Chú không nghe chúng cháu sao? Một gia đình đã biến mất. Chuyện đó không đáng để cảnh sát Stony Brook quan tâm sao?
Những lời nói của cô bé không gây ấn tượng nào cho trung sĩ D’Angelo:
-Pendragon phải không? Số 2 Linden Place?
Mark trả lời:
-Đúng vậy.
-Chú vừa kiểm tra sổ đăng ký của thị trấn. Không có gia đình nào có tên đó sống tại Stony Brook. Không có số nhà nào là 2 Linden Place. Chưa từng có cái nhà nào tại đó. Như vậy lời giải thích khả dĩ duy nhất là các cháu đang đùa, hoặc các cháu đang nói về một gia đình ma và không, cảnh sát Stony Brook không có hứng thú với việc lần theo dấu vết một gia đình ma.
Nói xong, ông ta xé tờ giấy mới ghi chép và quẳng vào giỏ rác. Courtney giận tái mặt. Cô bé sẵn sàng nhảy qua bàn, túm lấy tay cảnh sát, kéo hắn tới trường, nơi mọi người đều biết Boddy Pendragon. Rất có thể cô sẽ làm như vậy, nếu không có một chuyện xảy ra.
Cái nhẫn trong túi Mark bắt đầu vặn vẹo.
Tim nó muốn nhảy lên tận cổ.
Courtney dựa sát bàn, ngước nhìn lên viên trung sĩ, giận dữ nói:
-Cháu không cần biết cái máy vi tính của chú nói gì. Cháu biết Boddy Pendragon! Boddy là…
Mark giật mạnh tay Courtney làm cô im bặt. Chiếc nhẫn rung chuyển mạnh hơn làm Mark chỉ kịp nói:
-Đi thôi.
-Không được. Mình sẽ không đi cho đến khi…
-Courtney! Đi thôi!
Mark nhìn Courtney chằm chằm dữ dội. Không rõ là chuyện gì, nhưng Courtney biết là chuyện nghiêm trọng.
Mark kéo Courtney ra phía cửa. Cô bé cố quay lại la lớn:
-Cháu sẽ trở lại. Tốt hơn, chú hãy cầu xin cho gia đình họ an toàn, nếu không chú sẽ lãnh đủ đó.
Mark kéo Courtney ra khỏi cửa. Trung sĩ D’Angelo lắc đầu, ngồi xuống, đọc báo tiếp.
Ra khỏi đồn cảnh sát, Mark kéo Courtney vào một hẻm nhỏ, tránh xa đường chính. Dù Courtney cao hơn, khỏe hơn, Mark vẫn không chịu thua. Cô bé hét toáng lên:
-Cậu có vấn đề gì vây?
Mark thọc tay vào túi áo, lấy cái nhẫn ra, đưa lên trước mặt và nói:
-Vấn đề này.
Mặt đá xám đã chuyển thành pha lê và một lần nữa, những tia sáng lại phóng ra từ phía mặt nhẫn. Courtney ngỡ ngàng nhìn Mark đặt chiếc nhẫn lên mặt đường nhựa rồi lùi lại mấy bước. Cái nhẫn xoay vòng, nảy lên và lớn dần. Courtney ngẩn người, hổn hển kêu lên:
-Ôi…Chúa…ôi!
Trong vòng tròn đang lớn dần, mặt đường bỗng hiện ra một hố đen. Từ dưới hố vọng lên những nốt nhạc mà Mark đã từng được nghe trong nhà vệ sinh nam tại trường. Ánh sáng lóng lánh rọi lên tường những ngôi nhà chung quanh, và dù ban ngày, những tia sáng chói tới mức Mark và Courtney phải lấy tay che mắt. Tiếng nhạc lớn dần, mặt đá phát ra tia sáng lóa mắt cuối cùng, rồi cả nhạc và ánh sáng đều tắt ngấm. Courtney hỏi:
-Vậy đó sao?
Mark thận trọng bước lại gần chiếc nhẫn. Nó nằm nguyên chổ đã được đặt trên mặt đường với kích cỡ bình thường và mặt đá trở lại màu xám. Nhưng cũng có một thứ khác nữa ở đó. nàm kế bên chiếc nhẫn là một cuộn giấy da được cột bằng một sợi dây da. Mark cúi xuống, rón rén nhặt cuộn giấy lên, và quay sang Courtney, nói gọn lỏn:
-Thư tới.
|
NHẬT KÍ #2 DENDURON (mat_biet99 và nhoclienxo type)
Ngày mai cậu Press sẽ chết.
Mark ơi, kể từ sau thư trước mình viết cho bạn, đã có quá nhiều chuyện xảy ra. Lạ kì có, sợ hãi có, xáo trộn có và đôi khi - mình có thể bảo - hài hước có. Nhưng chuyện sau cùng là: ngày mai cậu Press sẽ chết.
Ngay lúc này, mình đang ngồi trong một hang động nhỏ sâu dưới lòng đất chắc phải tới gần trăm mét. Mình đang viết dưới ánh sáng của một cây nến, vì làm gì có điện. Chung quanh mình toàn đá. Hàng tấn, hàng tấn đá đen ngòm ngòm cứ như sắp đổ ụp lên đầu bất cứ lúc nào. Thôi không nói chuyện đó nữa, mình chỉ tưởng tượng ra đó thôi. Cái hang này làm sao có thể sụp được. Mình rất an toàn tại đây, ít ra là lúc này. Người đang gặp hiểm nghèo chính là cậu Press.
Kể với bạn chuyện này, vì mình cần bạn giúp. Mình sắp nhờ bạn làm một việc khá nguy hiểm.Trường hợp bình thường mình không bao giờ yêu cầu bạn làm một việc như thế này, nhưng đây là điều duy nhất mình nghĩ là có thể giúp mình cứu được cậu Press. Mình rất thông cảm nếu bạn không muốn làm. Nhưng trước khi bạn quyết định, mình muốn nói cho bạn tất cả những gì đã xảy ra từ sau thư trước, khi biết tất cả rồi, tùy bạn quyết định.
Mình chấm dứt thư trước ngay sau khi cậu Press bị những hiệp sĩ của Kagan kéo đi và mình bị ngất .có bao giờ bạn bị ngất hay hôn mê chưa? Không giống như ngủ thiếp đi đâu.Khi ngủ thiếp đi, bạn không biết chính xác mình ngủ thế nào.nằm xuống, chờ đợi, và…đùng một cái, trời đã sáng. Nhưng khi bị ngất, bạn sẽ cảm thấy mình đang trôi đi. Cảm giác đó chẳng thú vị chút nào. Sau đó khi hồi tỉnh, cũng chẳng gì khá hơn.Không biết đang ở đâu, chuyện gì xảy ra, rồi tình lình nhìn chung quanh và trở về thực tế.
Tất nhiên, trong trường hợp này, ngay cả khi tỉnh lại mình cũng không biết là đang ở đâu và chuyện đang gì xảy ra. Điều đầu tiên mình nhìn thấy là một khuôn mặt. Mặt một cô gái. Trong giây lát mình tưởng đó là Courtney. Nhưng ngay khi bộ não bắt đầu hoạt động, mình nhận ra cô ta không giống Courtney.Cô ta rất đẹp. (Chu choa, nghe có vẻ tệ quá nhỉ.Không phải Courtney không “rất đẹp”, nhưng cô gái này hoàn toàn, nói thế nào nhỉ). Khoảng tuổi mình,có khi lớn hơn một chút. Da cô ta đen,mắt quá nâu nên trông cũng đen.Tóc cô ấy cũng đen và thắt bím dài tới lưng.Bộ áo quần cô ta mặc giống như bộ đồ bằng da kì cục mà cậu Press đã bắt mình tròng lên người.Nhưng với cô, mình cảm thấy rất đẹp,vì cô ta có một thân hình tuyệt vời. Hẳn cô ta phải làm một động viên gì gì đó. Thật mà, cô gái này có thân hình như một vận động viên điền kinh Olympic. Không chút mỡ, toàn cơ bắp, dể nễ lắm.Nếu mình gặp cô ấy tại quê nhà, mình sẽ đoán cô ta gốc châu Phi.Nhưng đây đâu phải quê nhà.
Mình nằm căng thẳng trong khi cô ta hoàn toàn tỉnh bơ nhìn xuống mình lom khom. Không thể biết cô ta mừng vì mình còn sống, hay sắp sửa kết thúc phần việc của lũ quig: giết mình chết đứ đừ tại chỗ. Tình hình cứ thế kéo dài mấy giây, chẳng ai nhúc nhích. Sau cùng mình nuốt nước bọt để biết chắc cổ họng đã thông, rồi khào khào nói:
-Tôi đang ở đâu?
Câu hỏi chẳng có gì mới mẻ cả nhưng kệ, mình vẫn muốn biết.
Cô gái không trả lời. Cô ta đứng dậy tới bên cái bàn có mấy cái bát gỗ, lấy một bát đưa cho mình, nhưng mình không cầm. Biết là cái gì mà dám uống. Có thể là máu hay thuốc độc lắm chứ. Cũng có thể là một chất lỏng ở đây họ cho là ngon lành, nhưng làm mình ói mửa thì sao? Cô ta gằn giọng:
-Nước đó.
Ồ!
Mình đón bát nước. Đang khát mà. Cô gái lại bên cửa, đứng khoanh tay. Mình uống một ngụm nước rồi nhìn quanh. Mình đang ở trong một nơi giống như cái chòi nhỏ hẹp, có lẽ chỉ bằng phòng khách nhà mình. Một phòng độc nhất với sáu bức tường. Hình lục giác, phải không? Các bức tường xây bằng đá và bùn khô. Mấy lỗ hổng là cửa sổ, một lỗ hổng lớn là cửa ra vào. Mái trần vút lên thành một hình chóp nhọn, làm bằng cành cây đan vào nhau. Sàn bằng đất, nhưng rắn chắc như bê tông. Mình đang nằm trên một cái gì đó kiểu như ghế dài thấp làm bằng những khúc gỗ ghép lại, trên phủ một tấm dệt bằng rơm hay một giống cỏ nào đó. Khá thoải mái, nhưng mình không muốn nằm đây suốt đêm. Trong lều còn nhiều giường khác kê thành hàng. Mình nghĩ chắc nơi này là một bệnh viện. Có lý lắm chứ. Sau những gì mới trải qua, mình được đưa tới bệnh viện.
Giống như mình bước vào cỗ máy thời gian và được đưa ngược về mấy ngàn năm trước, tới một thời đại mà con người xây dựng thế giới bằng bất cứ thứ gì kiếm được và… không quan tâm lắm đến vấn đề vệ sinh cá nhân. A, phải rồi, mình đã kể cho bạn về cái mùi khủng khiếp như chuồng nuôi dê của chỗ này chưa? Nó làm mình thắc mắc không biết vữa xây những bức tường đá kia thật sự là bùn, hay một thứ ghê tởm nào khác sẽ làm mình phát oẹ nếu biết rõ?
Nhìn cô gái kỳ lạ đang đứng khoanh tay trừng trừng nhìn đáp lại, mình tự hỏi: Cô là bạn? Là kẻ thù? Hay cai ngục đứng gác cho đến khi đám hiệp sĩ áo đen trở lại kéo xềnh xệch mình đi như đã làm với cậu Press? Đầu óc mình ngổn ngang đủ thứ, nhưng một thứ nổi cộm nhất.
Mình mắc tè.
Lần cuối mình đi tiểu là trước khi Courtney xuất hiện ở nhà mình. Đó là khi nào? Một triệu năm trước? Bụng mình căng cứng thế này, chắc phải lâu lắm rồi. Không thể nằm đó mà tè dầm được, mình chớm ngồi dậy và nói:
- Này, tôi…
Ngay khi mình cử động, cô gái kia liền bay tới như định tấn công. Cô ta khom mình, rút cây sào gỗ buộc sau lưng dài gần hai mét và đầy vết trầy như đá được dung nhiều lần… Cô nắm chặt vũ khí bằng cả hai tay. Mình thấy hai đầu sào đen bóng vì đã đâm vào những thứ mình không dám tưởng tượng thêm.Nhưng đôi mắt cô ta thì dễ sợ hơn. Hai mắt như đứng tròng, tập trung vào mục tiêu. Mục tiêu đó là… mình.
Mình lạnh toát cả người. Nếu mình đứng dậy, cô ta sẽ nện cho mình một hèo, chân chưa chạm đất, đầu đã bổ nhào rồi. Mình không muốn nhúc nhích chút nào vì sợ sẽ chọc giận cô ta. Cả hai cứ giữ nguyên trạng thái đó, chờ cho đối phương hành động trước. Chắc chắn người hành động trước sẽ… không phải là mình. Và, nếu cô ta chỉ cần tiến một bước về phía mình, mình sẽ vọt khỏi giường, đầu phóng ngay ra ngoài cửa sổ.
Lúc đó có tiếng gọi từ bên ngoài:
-Buzz obsess woos saga!
Ít ra là nghe giống vậy đó. Mình không bảo đảm đánh vần chuẩn xác đâu. Có người bước vào lều. Đó là một người đàn bà trong bộ đồ đúng điệu thời trang tại đây: toàn da thú cứng nhắc! Trông bà ta y chang bản sao già hơn của cô gái suýt phang cây lên sọ mình. Tuy vóc dáng rất mạnh mẽ, nhưng bà ta toát lên một vẻ làm mình cảm thấy đây có thể là cứu tinh của mình. Có lẽ vì đôi mắt của bà. Khi bà ta nhìn mình, mình cảm thấy mọi chuyện sẽ ổn. Trông bà ta quen quen, nhưng mình không nghĩ ra đã gặp bà ta ở đâu. Bà nghiêm nghị nhìn cô gái, cô ta miễn cưỡng buông vũ khí. Ôi! Đại họa qua rồi.
Người đàn bà quay lại nói với mình:
-Tha lỗi cho con gái ta, nó luôn tỏ ra quá nghiêm trọng.
Tin mới. Đây là một cặp mẹ con.
Đáng lẽ mình không nên ngạc nhiên, vì họ giống hệt nhau. Chẳng biết ông bố trông ra sao? Chắc phải là một hậu vệ dũng mãnh. Mình vẫn không thấy an tâm khi nhúc nhích.Người đàn bà này có vẻ tử tế, nhưng sau những gì đã trải qua, mình vẫn không dám tin là mọi chuyện sẽ thuận lợi.
Bà ta lại bên giường, quỳ xuống nở một nụ cười hiền lành với mình và dịu dàng nói:
-Ta tên là Osa. Con gái ta tên Loor.
-Cháu… cháu là Bobby. Cháu… cháu không phải người ở đây.
Mình chỉ biết nói có nhiêu đó. Bà Osa mỉm cười, nói:
-Mẹ con ta cũng vậy.Và chúng ta biết chính xác cháu là ai, Pendragon. Chúng ta đang chờ cháu.
Oa! Bà ta biết mình là ai! Đầu óc mình rối tung, nhưng một thắc mắc đặt biệt chợt lóe lên: nếu họ biết mình là ai, sao cô nàng chiến binh rừng xanh kia lại định phang vỡ sọ mình? Tốt hơn là đừng hỏi. Chọc vào Loor, chắc cô ta lại sẵn sàng giơ cao cây gậy lên ngay. Mình chỉ hỏi:
-Sao bà lai biết cháu?
-Từ Press, dĩ nhiên rồi. Ông ấy kể nhiều chuyện về cháu.
Đúng rồi, mình nhớ đã gặp bà ta tại đâu rồi. Cậu Press đã đưa bà ta tới nhà mình một lần. Mình nhớ đã nghĩ bà ta đẹp làm sao và lấy làm lạ vì bà ta đã im thin thít thế nào. Bí ẩn đã sang tỏ: bà ta là bạn cậu Press. Điều này làm mình chợt nhớ tới ông. Ôi trời, mình suýt quên: lúc này ông mới là người đang thật sự nguy khốn. Những hiệp sĩ đã quăng thòng lọng, kéo cậu Press đi chẳng có vẻ gì là đồng đội của ông hết. Xương sống lạnh buốt, mình ngồi bật dậy, la lên:
-Cậu ấy đang gặp nguy hiểm!
Một hành động tệ hại! Không vì tiếng gào, mà vì ngồi dậy quá đột ngột. Thân hình mình bầm dập thâm tím do cú va chạm xe trượt trong rừng. Mình đau đớn như vừa bị cây gậy của Loor đập cho nhừ tử. Không hiểu sao trước đó mình đã không nhận ra cơn đau khủng khiếp này. Cảm giác như xương sườn gãy ráo. Đau dữ dội đến không thở nổi. Hai chân rã rời, mình phải nằm lại xuống, nếu không mình có thể sẽ bị ngất đi. Bà Osa vội vàng ôm mình và nhẹ nhàng đặt mình nằm xuống. Giong dỗ dành, bà nói:
-Không sao đâu, sẽ hết ngay thôi mà.
Sao bà biết? Trừ khi bà ta biết mình sắp chết. Chỉ cái chết cấp kì mới làm mình hết đau ngay. Nhưng điều xảy ra sau đó mới đáng kinh ngạc. Mình nằm đó, thở nhè nhẹ, vì thở mạnh làm mình càng đau đớn hơn. Bà Osa dịu dàng đặt bàn tay lên ngực mình. Bà ta nhìn sâu vào mắt mình, thế rồi - Mark, mình thề không nói láo đâu, toàn thân mình dường như tan loãng ra. Sự căng thẳng, sợ hãi hoàn toàn biến mất. Bà nói nhỏ:
-Nghỉ ngơi đi. Hãy thở nhẹ nhàng thôi.
Mình làm theo. Tim mình không còn đập thình thình nữa và mình đã có thể thở sâu trở lại. Nhưng điều lạ lùng nhất là cơn đau nhức cũng biến luôn. Mới một giây trước, mình đau đến mức ngay cả kêu rên cũng không nổi. Bây giờ hoàn toàn chẳng đau đớn gì.
Bà Osa lấy tay ra khỏi ngực mình, rồi ngửng nhìn phản ứng của Loor. Loor quay đi. Chuyện này không gây ấn tượng gì cho cô ta, nhưng mình thì có. Chắc đây là phép lạ. Ngồi dậy rờ nắn xương sườn, mình hỏi:
-Sao bà làm được vậy?
-Làm gì?
Bà thản nhiên hỏi, mình la lên:
-Bà đùa sao? Xương sườn cháu đau tưởng chết đi đươc, bà chạm tay vào, hấp, không còn đau đớn gì nữa.
Bà Osa đứng dậy, đáp:
-Có lẽ cháu không quá đau như cháu tưởng đâu.
-Tưởng à? Cháu biết đau là gì chứ, nhất là cái đau của chính mình.
Lúc đó Loor mới lên tiếng, giọng cô ta đầy vẻ khó chịu:
-Mất thì giờ quá. Press đang bị Kagan giam giữ đó.
Mình không ưa thái độ đó của cô ta. Nhưng cô ta có lí. Mình hỏi:
-Kagan là ai?
Bà Osa bảo:
-Còn rất nhiều điều cháu cần phải học hỏi. Press đã bắt đầu dạy cháu, nhưng cho đến khi ông ấy trở lại, công việc đó sẽ thuộc về ta. Theo ta.
Bà bước lại lỗ hổng trên tường (tức là cái cửa), đứng bên con gái. Hai mẹ con nhìn mình, dấu hiệu bảo mình đi theo. Mình đứng dậy, sẵn sàng chờ đợi mấy cái xương sườn đau lại. Nhưng không có gì. Ngạc nhiên chưa? Mình nhìn Loor xem cô ta có định tấn công nữa không. Cũng không có gì. Tình hình mỗi lúc mỗi khả quan hơn.Mình hỏi:
-Liệu chúng ta có tìm được cậu Press không?
Bà Osa trả lời:
-Chúng ta sẽ làm việc đó. Nhưng trước hết cháu cần phải tìm hiểu về Denduron đã.
Denrudon. Đúng. Mình đang ở Denrudon. Cho đến lúc này chẳng có gì mình có thể ưa tại Denrudon, và mình không thể tưởng tượng có bất kì thứ gì khác nữa có thể làm mình ưa nổi nơi này. Nhưng đâu có quyền chọn lựa, mình đành đi theo họ. Nhưng mới được hai bước, mình nhớ ra một điều, rất quan trọng:
-À…ừ…cháu có thể đi đâu..để…nghĩa là cháu…cần…
-Trút bầu tâm sự trong kia kìa.
Loor lạnh lùng nói, tay chỉ vào góc phòng nhỏ, ngăn bằng một vách gỗ.
-Tuyệt vời. Cám ơn.
Chạy vội vào sau tấm vách, nhìn quanh, mình đã học được hai điều. Một là, những người này không có phòng vệ sinh trong nhà. Tất cả chỉ là một cái hố, được bao quanh bằng mấy cục đá. Hai là, bí mật về cái mùi khó ngửi ở đây đã được giải đáp. Mình nghĩ những người ở đâu không hề biết rằng, “đi ngoài” kiểu này là phải có một chỗ nằm “ngoài” ngôi nhà. Trời đất! Mùi hôi thối cứ như có một con voi bị tiêu chảy vừa ra khỏi đây. Nhưng đây đâu phải nhà mình, mà mình thì muốn tè ra quần rồi. Vậy là mình phải nín thở và mất năm phút mới cởi được bộ đồ da mắc dịch. Chắc chắn người ở đây chưa phát minh ra dây kéo. Lúc đó mình mới phát hiện ra lớp quần áo lót lông thú mình mặc bên trong không còn nữa. Chắc khi mình hôn mê đã có kẻ lột mất rồi. Cũng may, vì nếu phải cởi thêm lớp quần áo nữa, bảo đảm mình đã tè dầm.
Xong xuôi, mình vội chạy xuyên qua căn liều đá, đuổi theo họ. Không biết mình sẽ thấy gì bên ngoài lều đá này, nhưng dù là gì thì chắc cũng là một ngạc nhiên. Vừa bước ra ngoài, mình đứng phắt lại, nín thở. Mình vừa bước vào một thế giới khác. Một thế giới không giống tý nào với những gì mình đã thấy trước đây. Lều đá mình vừa bước ra nằm giữa một ngôi làng toàn lều đá. Những căn lều đều giống nhau, với tường đá, mái bằng cành cây và rơm. Không có chút trang trí nào để có thể phân biệt lều này với lều khác. Vài lều có khói cuộn lên từ những ống khói bằng đá, chứng tỏ trong nhà đang nấu ăn hay đốt lửa sưởi ấm. Đường cái và lối đi ngoằn ngoèo nhỏ hẹp giữa những ngôi lều thì dơ dáy và lồi lõm. Chẳng sao hết! Ở đây làm gì có ô tô hay những phương tiện giao thông cơ khí. Tất cả những ngôi lều được dựng quanh một bãi cỏ lớn giống như một quãng trường thị trấn, chính giữa bãi cỏ có một khán đài hình tròn, đường kính chừng ba mét. Chân khán đài được xây bằng đá giống như những ngôi lều, mặt sàn khán đài làm bằng những khúc gỗ kết vào nhau. Cách sắp đặt làm mình nhớ đến những thị trấn có một khu hòa nhạc và biểu diễn giữa công viên. Nhưng khán đài thị trống trơn: Hôm nay không có buổi biểu diễn nào.
Ngôi làng nhộn nhịp với những con người đang làm những công việc như bất kì ai sống trong một ngôi làng như thế này. Họ hối hả đi lại, có người xách giỏ đồ ăn, người khác lùa bầy dê… Họ đều mặc áo quần bằng những da thú như mình đang mặc, vậy nên dù mình cảm thấy lạc lõng, nhưng có lẽ trông mình không có vẻ xa lạ. Người có vẻ xa lạ chính là bà Osa và Loor. Như mình đã tả hai mẹ con bà ta: cao lớn, da đen và trông như vận động viên điền kinh. Tại làng này không có người da màu. Suốt đời mình chưa thất ai trắng nhợt như người làng Denduron. Cứ như cả đời họ không bao giờ nhìn thấy ánh nắng. Điều kì lạ là lúc đó mình thấy ba mặt trời trên đỉnh núi mà trời vẫn u ám. Nhưng mặt trời ở đây không làm da người ta rám nắng sao? Hay trời ở đây luôn âm u như ở Seattle? (Seattle: thành phố lớn nhất của bang Washington (Mỹ) nổi tiếng với tên gọi “Thành phố mưa” (Rainy City) vì ở đây hầu như trời mưa quanh năm. Thậm chí nếu không mưa thì trời lúc nào trông cũng âm u như sắp mưa). Dù với lí do nào thì rõ ràng đúng như bà Osa đã nói, mẹ con bà không phải là người Denduron.
Ngôi làng tách ra từ một khu rừng. Nhìn hướng này, qua khỏi những căn lều, là cánh đồng mênh mông, nhiều người đang cày cấy. Nhìn hướng ngược lại, là rặng núi mà mình và cậu Press đã chạy trốn bây quig bằng xe trượt. Các hướng khác chẳng có gì ngoài rừng. Không cần phải là một nhà nhân chủng học, chỉ cần nhìn thoáng ngôi làng, mình nghĩ ngay tới những cuốn phim và sách về châu Âu thời trung cổ, chỉ thiếu mấy lâu đài đồ sộ hiên ra.
Mẹ con bà Osa để mình đứng tại đó một lúc để ghi nhớ cảnh chung quanh. Khi mình định bước tới nhập bọn với mẹ con họ, thì thình lình bị kéo quay ngược về sau:
-Ogga ta vaan burr sa!
Đó là một gã nhỏ con, tóc dài bù rối, một mắt bịt kín bằng một miếng da và một cái cười khoe hàm răng rụng gần hết. Mỗi ngón tay là một cái nhẫn khác nhau, trong như được tết bằng dây. Mười ngón mười nhẫn. Gã nhỏ con dơ dáy này hẳn là rất khoái đồ trang sức.Mình chẳng hiểu hắn muốn nói gì, cho đến khi hắn dí một vật đầy lông vào mình. Mình nhảy lùi lại, nhưng nhận ra đó chỉ là một cái áo len, giống như một chiếc áo khoác.
-Ogga ta vaan.
Hắn lại cười nói và đưa cho mình cái áo. Mình thấy hắn vô hại và muốn nhận cái áo. Có lẽ là một phong tục chào mừng của địa phương. Trời lạnh như cắt, cái áo da mình đang mặc chẳng thấm tháp gì. Vì vậy mình mỉm cười vui vẻ đưa tay ra… Nhưng chưa kịp cầm, gã nhỏ con giật tay lại, xòe tay kia ra, vẽ vẽ mấy ngón tay. Phải, hắn đang làm một dấu hiệu toàn cầu: “Tiền trao cháo múc”. Gã nhỏ con kì cục này muốn bán cái áo.
Bà Osa chen vào, đứng giữa mình và hắn:
-Figgis, để anh ta yên.
-Mab abba kan forbay.
Hắn ta hồn nhiên nói. Ít ra là mình nghĩ hắn hồn nhiên, vì ngôn ngữ của hắn mình đâu hiểu gì. Bà Osa nhìn hắn, nói:
-Anh ta mới đến đây, đi chỗ khác bán hàng của mi đi .
Thì ra hắn là một tay buôn bán. Thất vọng ra mặt, gã nhỏ con bước đi, nhưng vẫn cố quay lại với nụ cười láu cá, răng cỏ cái mất cái còn .Gã móc từ trong áo ra quả táo đỏ bóng lưỡng, cố dụ dỗ mình. Bà Osa ra lệnh:
-Xéo.
Figgis càu nhàu mấy câu rồi chạy đi. Osa nói:
-Nếu có thể, Figgis bán cả hơi thở của nó. Người ta bảo, nó phải che mắt vì đã bán một con mắt cho người mù.
Trời. Thật là một hình ảnh kinh tởm. Mình hỏi:
-Osa, bà từ trái đất đến, đúng không?
Bà cười ha hả, nhìn Loor để cùng chia sẻ điều khôi hài mà mình không hiểu nổi. Loor không hề cười đáp lại. Lạ lùng không? Bà Osa hỏi:
-Vì sao cháu lại nghĩ vậy?
-Bà biết tiếng Anh.
-Cháu lầm rồi, Pendragon. Ta không biết một câu tiếng Anh nào. Đi thôi.
Bà ta bỏ mình đứng ngẩn ngơ, cùng Loor bước đi tiếp.
Cái gì kì vây? Mình có thể lầm, nhưng rõ ràng chúng mình đang nói tiếng Anh với nhau mà. Ngoài vài giờ học tiếng Tây Ban Nha, mình chỉ biết tiếng Anh. Bó tay. Cứ mỗi khi tưởng đã nắm bắt được một sự việc, đùng một cái, mình lại bị chới với. Đành phải làm quen với tình trạng này thôi.
Mình chạy vội cho kịp hai mẹ con đang sải bước những bước dài về phía trước và để đảm sao cho bà Osa đi giữa mình và Loor. Mình mến bà Osa, nhưng không tin tưởng cô con gái. Mắt cô ta cứ như luôn ném cho mình câu nói: “Có mi chỉ thêm chật đất”. Đôi mắt lạnh tanh khủng khiếp. Tốt nhất là tránh xa cô ta ra. Mình bảo với bà Osa:
-Cháu vẫn không hiểu. Bà nói tiếng Anh, sao lại bảo không biết tiếng Anh?
-Ta không nói tiếng Anh. Chỉ có cháu nói tiếng Anh. Ta nói ngôn ngữ Zadaa của lãnh địa quê ta.
-Cháu thấy giống tiếng Anh.
-Tất nhiên, vì cháu là một Lữ khách.
Càng nghe càng thêm rối.
-Vậy là, bà nói Lữ khách hiểu tất cả mọi ngôn ngữ?
Câu hỏi hợp lí, đúng không? Nhưng câu trả lời của bà ta chẳng hợp lí tí ti nào:
-Không. Lữ khách nghe tất cả các ngôn ngữ như chính tiếng mẹ đẻ của họ. Khi họ nói, dù họ nói bằng ngôn ngữ nào, những người khác đều có thể hiểu.
Tuyệt! Nếu đúng là vậy, mình sẽ vọt cao hạng C trong môn tiếng Tây Ban Nha. Tuy nhiên vẫn còn có một diều chưa ổn.
-Nhưng… sao cháu nghe gã bán hàng Figgis chỉ toàn… xì xà xì xồ?
Thình lình Loor nhảy phóc tới trước mặt. Mình phải “thắng gấp” lại nếu không sẽ bước thẳng vào mặt cô ta mất. Vậy thì đau lắm. Cô ta nạt nộ, giọng thách thức:
-Là vì có lẽ mi không phải là một Lữ khách.
A! Mọi chuyện được sáng tỏ. Cô ta không tin mình là… mình. Đó là lí do cô ta luôn hậm hực, kiếm chuyện với mình. Không sao, vì chính mình chẳng biết thật sự mình… phải là ai, nên đâu thể nói gì để thuyết phục cô ta rằng mình là mình, hay mình chính là cái người mà người đó là… mình, hay… Mark, cậu hiểu ý mình chứ?
Một lần nữa bà Osa lại giải cứu mình:
-Lí do cháu không hiểu Figgis nói gì là vì cháu chưa học được cách nghe. Cháu hiểu chúng ta, Vì chúng ta cũng là một Lữ khách.Nhưng Figgis thì không. Cháu phải học nghe, mà không cố lắng nghe.
Là sao? Nghe mà không lắng nghe? Hiểu chết liền!
Loor sôi nổi nói với mẹ:
-Làm sao hắn ta có thể là mọt Lữ khách được chứ? Chỉ là một đứa trẻ mềm yếu, nhút nhát. Hắn sẽ chẳng làm nên trò trống gì, chỉ gây thêm tai họa.
Chảnh dễ sợ chưa? Nhưng chẳng may là cô ta nói rất đúng. Mình vừa mềm yếu vừa nhát như thỏ đế. Có lẽ mình chẳng là Lữ khách lữ khiếc gì ráo. Nói thật, nếu biết rõ mình không là Lữ khách mình sẽ mừng hết lớn luôn, cho dù có đứng hạng bét trong lớp Tây Ban Nha cũng được. Mình khấp khởi hi vọng tất cả vụ này chỉ là lầm lẫn, và họ sẽ tống mình về nhà.
Bà Osa nhìn mình bằng đôi mắt đen đầy hiểu biết, Nhưng lại nói với Loor:
-Không đâu, Pendragon chính là một lữ khách. Nhưng nó còn nhiều điều phải học.
Quay lại con gái, bà tiếp:
-Và… hình như con quên là… chính con cũng là một đứa trẻ?
Loor giận dỗi ra mặt. mình có cảm giác cô nàng không thích bị chỉ trích. Bà Osa nói với mình:
-Rồi cháu sẽ thấy, không phải lúc nào nó cũng giận dỗi vậy đâu.
-Ồ, không sao. Miễn là cô ấy đừng nổi sùng với cháu.
Bà Osa tủm tỉm cười tiếp tục bước đi. Mình đi sát bên nghe bà kể về Denduron:
-Những người sống trong làng này thuộc bộ lạc Milago. Cháu thấy đó, họ sống rất đạm bạc. Họ tự trồng cấy tất cả lương thực và sống êm dềm với những bộ lạc khác tại Denduron.
Milago. Cậu Press đã nói đến từ này trước khi những gã hiệp sĩ kia xuất hiện. Cậu bảo họ sẽ tìm để giúp, vì vậy mình đoán đây là những người tốt.
-Những tên trông giống như hiệp sĩ đã tấn công cậu Press có phải là Milago không?
-Không, đó là điều ta muốn nói cho cháu biết.
Theo con đường mòn trong rừng chừng một phần tư dặm, hai mẹ con bà Osa và mình ra khỏi rừng, tiến vào một mảng trống. Và một lần nữa mình lại bị sửng sờ vì cảnh hiện ra trước mắt. Mark, có nhớ là mình đã bảo ngôi làng trang cổ này chỉ duy nhất thiếu một điều là một lâu đài vươn cao khỏi nó? A, hóa ra có một lâu đài cổ, to lớn, nhưng không hề vươn cao khỏi ngôi làng.
Đây là những gì mình thấy: khi ra khỏi đường mòn, bọn mình tới một cánh đồng cỏ rộng lớn và tiếp tục băng qua hết đồng cỏ, cho tới khi gặp một dốc đứng. Dưới dốc là nước. Đúng vậy. Bọn mình đang ở trên bờ một đại dương mênh mông, xanh ngắt như Đại Tây Dương. Bên phải mình là biển, và mình nhìn xuống: bờ biển gồ ghề, lởm chởm với những dốc đá dựng đứng.Mình nhận ra bờ dốc bọn mình đang đứng thật sự là một bờ vịnh. Tít bên dưới, sóng biển thi nhau vỗ vào vách đá. Nơi mình đứng quá cao so với mặt nước, nên khi nhìn xuống sâu nữa, hai tay mình đầm đìa mồ hôi. Mình vốn không chịu nổi độ cao mà. Mình ngước lên nhìn dốc đứng cuối vịnh và thấy đất trên đỉnh phủ cỏ xanh tươi, phất phơ trong gió biển. Rồi điều mình thấy phía dưới đỉnh dốc phủ cỏ đó làm mình nín thở.
Ngay trên bề mặt của vực là một thành lũy đồ sộ, trông như được đẻo ra từ núi đá. Mình có thể thấy nhiều lớp hành lang bằng đá và những hiệp sĩ, giống những gã đã tấn công cậu Press, đang trực gác. Chúng đi tới đi lui với cây giáo “chết người” trên vai. Mình không biết rõ chúng đề phòng gì. Chắc là đám ngư tặc.
Mình đếm được năm lớp hành lang. Như vậy thành lũy này lớn đấy chứ. Hình như đoán được thắc mắc của mình, bà Osa lên tiếng:
-Cháu chỉ mới thấy bên ngoài thành thôi. Thành này được xây sâu vào lòng dốc đá. Trong đó có cả một ngôi làng.
Những gì mình thấy cho tới lúc này là người ở đây không hề có công cụ xây dựng nặng, như vậy là thành lũy này chắc chắn đã được đẽo, đục bằng tay. Với những công cụ thô sơ, phải cần mấy thế kỷ mới có thể dựng được một lâu đài đồ sộ như thế. Bà Osa tiếp:
-Tại đây luôn có hai bộ lạc. Milago làm ruộng. Trách nhiệm của Bedoowan là quân sự và cai trị. Trước kia đã xảy ra một cuộc chiến giữa nhiều bộ lạc tại Denduron. Bedoowan bảo vệ cho Milago khỏi bị cướp bóc. Đáp lại, Milago cung cấp lương thực cho họ. Hai bộ lạc lệ thuộc vào nhau, sống hòa hợp trong mấy thế kỉ. Nhưng Bedoowan rất hùng mạnh, và sức mạnh có thể dẫn đến kiêu căng. Họ không cho phép người Milago lấy người Bedoowan, thậm chí không được cả kết bạn với nhau. Tình trạng kéo dài như vậy, dẫn đến người Bedoowan bắt đầu coi người Milago như nô lệ của họ. -Nhưng họ vẫn bảo vệ người Milago?
-Nhiều năm rồi, không có cuộc xâm lược nào. Sự cần thiết được bảo vệ không tồn tại nữa.
-Vậy, người Milago vẫn cứ quần quật đủ việc, còn người Bedoowan … Làm gì?
-Đó là một câu hỏi rất hay. Bedoowan được cai trị bỏi một hoàng gia, với thể chế ngai vàng được
|
truyền cho người con cả. Đã có lần, một quân vương Bedoowan muốn phá vỡ rào cản giữa hai bộ lạc, và cho phép việc hai bộ lạc sáp nhập làm một. Nhưng vị vua này qua đời và người con cả lên ngôi. Nhiều người tin rằng vua cha đã bị những kẻ không muốn mất địa vị tối thượng của Bedoowan ám sát.
-Để cháu đoán thử. Vị vua mới không muốn dẹp bỏ chế độ nô lệ và vẫn muốn tách biệt hai bộ lạc?
-Đúng vậy. Thậm chí người Milago khiếp sợ tới nỗi không dám nói tới cái tên… Kagan.
Lại là cái tên đó. Mình dần dần bắt đầu hiểu ra sự việc, nhưng chẳng thích thú điều đó chút nào. Mình nói tiếp:
-Những hiệp sĩ tấn công cậu Press đã tưởng cậu ấy là gián điệp do thám Kagan. Nhưng cậu Press giả bộ như là một thợ mỏ. Ở đây có mỏ sao?
Bà Osa buông một tiếng thở dài buồn rầu:
-Phải. Đó là phần tệ hại nhất trong chuyện này.
Sự việc trở nên tệ hại hơn, hay ghê chưa! Mình rất muốn được nghe. Nhưng ngay lúc đó có tiếng trống dồn dập vọng tới từ hướng làng Milago.
Loor chạy lên, hổn hển nói:
-Chuyển giao rồi. Mau.
Bà Osa nhìn mình lo lắng:
-Hãy ở sát bên ta, đừng để chúng nhìn thấy.
Nói xong, bà ta chạy theo Loor. Mình đã kể rồi mà, hai mẹ con họ là vận động viên. Nhưng họ chạy nhanh cỡ nào mình cũng ráng rượt theo, bám sát bà Osa trên con đường mòn trở lại làng Milago. May mắn là chỉ không tới nửa dặm, nếu không chắc mình ná thở luôn.
Tới làng, mình thấy mọi người đang đổ dồn về khu trung tâm với khán đài lớn ngay chính giữa. Chắc sắp có màn biểu diễn. Từ cánh đồng đổ về, từ trong lều ùa ra, mọi người bỏ hết công việc đang làm, tụ tập quanh khán đài.
Mình háo hức định hòa vào đám đông, bà Osa bỗng nắm tay, kéo mình ra hướng khác. Ba người leo lên một mái chòi đá. Tại đây, nhìn xuống cuộc biểu diễn rất rõ. Osa cảnh giác:
-Không được để chúng thấy. Chúng ta không dự phần trong vụ này.
Dù là chuyện gì cũng không quan trọng, bọn mình có được điểm ngắm lý tưởng rồi. Vì vậy mình yên tâm chờ đợi và tự hỏi không biết họ trình diễn gì. Chắc là âm nhạc Milago hoặc mấy màn trình diễn kiểu như của học sinh.
Nhìn xuống, mình thấy dân làng Milago tập hợp thành một vòng tròn rộng lớn quanh khán đài trung tâm. Khán đài cũng không còn trống trơn nữa, mà trên đó có một dụng cụ thô kệch, trông như cái cầu bập bênh. Một đầu có một cái ghế, đầu kia là một giỏ cần-xế lớn. Đứng trên khán đài, gần dụng cụ giống cái bập bênh đó, là một hiệp sĩ của Kagan đang gõ trống.
Mình hy vọng gã này đánh trống để kêu gọi dân làng thôi, vì nếu cả buổi trình diễn chỉ có mỗi màn này thì chán chết. Tiếng trống thùng thùng vang dội khắp ngôi làng, nhịp trống loạn xà ngầu. Đứng kế bên khán đài còn có sáu tay hiệp sĩ nữa. Chúng đứng nghiêm, mỗi tên chống trước mặt thanh giáo gớm ghiếc. Dân làng Milago giữ một khoảng cách xa với chúng. Mình cũng sẽ làm vậy thôi. Trông chúng chẳng có chút thân thiện nào.
Mình chợt nhận ra, không người dân làng nào tỏ vẻ đang đón chờ thời khắc giải trí thoải mái. Không khí không chút phấn khởi trước một sự kiện vui vẻ. Không một tiếng cười nói, chuyện trò, đùa giỡn. Ngoài tiếng trống, tất cả đều câm lặng. Trên khuôn mặt những con người này, chỉ có ánh nhìn sợ hãi.
Bà Osa bỗng vỗ vai mình, rồi chỉ về cuối bãi đất trống. Mình thấy bốn dân làng Milago đang chậm chạp tiến tới đám đông. Họ đều là đàn ông, đất cát lấm lem từ đầu tới ngón chân. Chẳng dân làng Milago nào có thân hình cân đối đẹp đẽ lắm đâu, nhưng quả thật bốn người này khá là xương xẩu. Đất đen đúng là đối chọi với màu da trắng như thạch cao của họ. Họ khệ nệ vác một cái giỏ lớn, chất đầy đá đủ kích cỡ. Có những hòn lớn như trái banh bowling, có hòn nhỏ hơn. Nhưng điều đặc biệt là chúng đều màu xanh lơ. Ý mình là sáng long lanh như ngọc vậy. Chưa bao giờ mình thấy một thứ đá lạ lùng như thế.
Bà Osa thì thầm:
-Đá này được gọi là “minh thạch”, một thứ đá sáng bóng. Khắp vùng này đều có mỏ loại đá quí đó. Dân Milago khai thác mỏ cả ngày lẫn đêm.
-Chắc nó có giá trị lắm.
-Rất có giá trị. Minh thạch là nguyên nhân trước hết vì sao Kagan muốn kiểm soát Milago. Nhờ minh thạch mà Bedoowan trở nên giàu có. Họ buôn bán với tất cả con buôn tại Denduron. Chừng nào Milago còn khai thác được những mỏ minh thạch, Kagan vẫn còn là một chúa tể hùng mạnh.
Như vậy, Kagan và bộ lạc Bedoowan không chỉ là những con bò lười biếng, chúng còn là những con bò tham tàn, ép buộc bộ lạc Milago làm thay cho chúng những công việc cực nhọc, bẩn thỉu. Hơi bị khôn. Mình vừa định hỏi thêm, nhưng tiếng trống bỗng ngưng bặt và một sự im lặng đầy vẻ đe dọa trùm phủ khắp làng.
Bốn người thợ mỏ khệ nệ vác bốn giỏ minh thạch lên khán đài, rồi thận trọng đặt xuống. Không khí chứng tỏ buổi lễ sắp bắt đầu. Buổi “Chuyển giao” như lời Loor nói.
Đúng lúc đó mình nghe tiếng vó ngựa. Có người đang phóng nhanh tới từ hướng con đường mòn xuyên rừng mà mẹ con bà Osa và mình mới từ đó đi ra biển. Điều lạ lùng là không một ai quay lại nhìn, ngoại trừ mình.
Khi con ngựa phóng từ trong rừng ra, mình thấy gã kỵ sĩ có vẻ rất tự tin, như biết trước việc phải làm. Đó là một gã cao lớn, tóc đen dài, mặc bộ giáp da giống như của mấy gã hiệp sĩ, nhưng có vẻ hiếm khi lâm trận. Giáp của mấy gã kia nhàu nát, còn giáp của tay kỵ sĩ này sạch bong, thẳng thớm. Khi hắn cho ngựa phi nước kiệu về phía đám đông dân làng, họ dạt sang hai bên, nhường lối cho hắn tiến tới khán đài. Mình nghĩ, nếu dân làng đứng yên, gã này dám phóng ngựa xới tung mọi người lên lắm. Chưa gì mình đã thấy ghét thằng cha này. Mình thì thầm hỏi:
-Có phải Kagan đó không?
Mẹ con bà Osa trao đổi cái nhìn đầy ẩn ý, như có điều gì đang xảy ra mà họ không muốn cho mình biết. Mình không thích lối nhìn nhau của hai mẹ con họ chút nào. Nhưng bà ta cũng trả lời mình:
-Đó là Mallos, quân sư của Kagan.
Mallos, Kagan, Osa, Loor, Figgis… Toàn những cái tên cụt ngủn. Chẳng lẽ ở đây chỉ có mình là kẻ duy nhất đủ họ tên đàng hoàng.
Cái gã Mallos đó phóng ngựa thẳng lên khán đài và dừng lại. Mình đoán buổi trình diễn sắp bắt đầu. Hắn ngồi trên ngựa, lướt nhìn đám đông bên dưới cứ như hắn là chủ nhân của họ. Không người Milago nào nhìn lại hắn. Tất cả đều cúi đầu, tránh ánh mắt của Mallos. Chẳng phải thiên tài cũng có thể đoán là họ kiếp sợ hắn. Bỗng Mallos trở mình trên yên, ngửng nhìn lên chỗ bọn mình đang núp trên mái chòi.
Loor gằn giọng thì thầm:
-Rạp mình xuống.
Ai nấy cố ép mình sát mái. Nhưng mình vẫn có thể nhìn thấy Mallos. Trong khi con ngựa hất rung bụi đất, hắn vẫn lặng lẽ ngồi trên yên, nhìn về phía bọn mình, cứ như biết bọn mình đang ở đó. Không thể nào. Không cách nào hắn nhìn thấy bọn mình được.
Rồi, khi nhìn lại hắn, mình giật thót người. Kinh ngạc đến nghẹn thở. Mình nghĩ đó là do đôi mắt của hắn. Dù hắn cách xa mình đến như vậy, mình vẫn nhận ra đôi mắt xanh lạnh lẽo đó. Làm sao có thể quên được?
Bà Osa và Loor đều cảm thấy sự ngạc nhiên của mình và nhìn mình dò hỏi. Mình nói nhỏ:
-Saint Dane.
Loor giật mình hỏi:
-Mi biết hắn sao?
-Biết. Hắn đã cố ý giết tôi khi còn ở trái đất, trước khi tôi theo ống dẫn tới đây.
Chính mình cũng không tin những lời vừa thốt ra. Biết bao điều đang xảy ra trong câu nói ngắn ngủi đó. Mới hai mươi bốn giờ trước thì chuyện đó nghe như chuyện hoang đường, nhưng ngay lúc này đây thì chẳng hoang đường chút nào. Bà Osa và Loor lại trao cho nhau cái nhìn lo lắng.
Rồi Loor thì thào hỏi:
-Hắn theo mi đến Trái Đất Thứ Hai ư?
Mình chỉ nhún vai gật đầu. Cô ta nhìn mình lom lom, ánh mắt hoàn toàn không còn chút miệt thị nào. Trước lúc đó cô ta luôn tỏ ra mình không bằng cỏ rác. Bây giờ cái nhìn của cô … đầy vẻ thắc mắc. Có lẽ lý do mình đối đầu với Saint Dane mà còn sống sót, chứng tỏ mình không quá… nhu nhược như cô ta tưởng. Tất nhiên mình chẳng dại gì cho cô ta biết “hành động đối đầu” của mình là… chỉ biết cắm đầu mà chạy. Ngu sao mà nói!
Nhìn xuống cái gã Saint Dane, hay Mallos, hay bất cứ danh xưng gì hắn tự xưng, mình càng sôi sục muốn… về nhà. Nhưng chuyện đó khó lòng có thể xảy ra. Lúc này mình đang kẹt trên mái chòi này, nhìn xuống thằng cha đã từng cố ý giết mình. Hắn có thấy mình không? Có thúc ngựa xông thẳng tới cái chòi này không? Bọn mình đang kẹt cứng trên mái, chỉ còn biết cố nín thở, nằm im.
Thời gian như kéo dài bất tận, nhưng sau cùng Saint Dane quay đi. Mình nhẹ thở lại. Với một cái ngoắc tay, hắn nói dứt khoát:
-Bắt đầu.
Oa! Saint Dane nói tiếng Anh! Hắn biết tiếng Anh? Hay hắn cũng là một lữ khách nên mình nghe hiểu? Thắc mắc này đành phải chờ, vì sự kiện chính đã bắt đầu. Một trong bốn người thợ mỏ bước tới trước. Đó là một người to lớn và cử chỉ của ông ta cho mình biết ông là cấp chỉ huy. Không biết chuyện gì sắp xảy ra, nhưng con người này dường như không chút vui vẻ với trọng trách đó. Mỗi hành động đều như gượng ép, như bị bắt buộc làm một việc đầy đau khổ.
Bà Osa thì thầm:
-Đó là Rellin. Đội trưởng thợ mỏ.
Lại một cái tên nữa cần phải nhớ. Rellin bước lên khán đài, rồi quay lại đám đông, chỉ tay vào một người. Đám đông rẽ ra, để một người đàn ông bước lên khán đài. Người đàn ông lòng khòng gầy gò đó tiến tới, ngồi lên cái ghế trên một đầu cầu bập bênh. Đầu kia nhẹ hẫng, nên đầu phía anh ta ngồi xà xuống sát mặt sàn khán đài. Rellin ra hiệu cho nhóm thợ mỏ, và ba người đó bắt đầu kéo lê cái giỏ chất đầy minh thạch lên khán đài, đặt gần đầu kia cầu bập bênh. Họ làm gì vậy? Cân trọng lượng anh chàng gầy gò bằng đá sao? Bà Osa cắt nghĩa:
-Mỗi ngày đều có một buổi Chuyển giao. Mallos chọn một người Milago để quyết định trọng lượng đá phải khai thác ngày hôm sau.
Mình đã nghĩ đúng. Chính xác là họ đang sắp cân đá với người. Cái bập bênh to đùng chính là cái cân. Mấy người thợ mỏ vừa định nhấc mấy hòn đá đầu tiên lên, Mallos bỗng quát lớn.
-Không.
Mấy người thợ mỏ ngừng tay. Tất cả nín thở chờ đợi. Saint Dane quan sát đám đông, rồi chỉ tay, lạnh lùng nói:
-Thằng đó.
Tiếng rì rào bất mãn lan trong đám đông. Hai gã hiệp sĩ thô bạo xô dạt dân làng, túm lấy người đàn ông Saint Dane vừa chỉ. Ông ta to béo hơn anh chàng đầu tiên nhiều. Rellin tỏ ra không ưa qui luật mới thay đổi này. Ông kêu lên:
-Mallos ca!
Với vẻ tức giận, người đội trưởng trách móc một tràng với Mallos. Mình không viết lại đây, vì bạn biết rồi đó, mình không hiểu gì hết ngôn ngữ của ông ta. Nhưng mình cho bạn biết những gì bà Osa đã thông dịch lại: “Mallos đã chọn một đối tượng khác cho lễ Chuyển giao. Rellin bảo như vậy là không công bằng. Ông ta đang năn nỉ Mallos áp dụng sự chọn lựa của chính hắn ngày hôm qua.”
Mình hiểu vì sao. Người đàn ông Mallos mới chọn nặng hơn nhiều. Số đá khai thác đủ cân với người được chọn hôm qua không cách gì cân bằng với người hắn vừa mới chọn. Rellin kêu gọi sự công bằng. Saint Dane không chút nao núng. Hắn nhìn Rellin như nhìn loài sâu bọ. Một tên hiệp sĩ xông tới, dùng cây giáo đập ngang mặt Rellin. Rellin lảo đảo, quay vòng, mắt tóe lửa căm hờn. Gò má ông máu chảy ròng ròng. Mình có thể nói ông ta đã phải nín thở kiềm chế để không nhào vào bóp cổ gã kia. Vậy là khôn ngoan, vì mấy gã hiệp sĩ còn lại đang đứng vây quanh, tay lăm lăm vũ khí sẵn sang nện ông ta nhừ tử.
Saint Dane ra lệnh:
-Nhìn ta đây, Rellin.
Rellin ngước nhìn kẻ thù đang ngồi trên ngựa.
-Là một thần dân trung thành, đáng lẽ mi phải cố gắng phục vụ Kagan hơn cả những gì được giao phó. Có phải mi muốn nói là giảm thiểu tối đa công việc là điều cần thiết, đúng không?
Giọng cao ngạo của Saint Dane làm mình sôi máu. Rellin trả lời với sự phẫn uất kiềm chế. Bà Osa dịch lại: “Rellin bảo khai thác mỏ đá vô cùng khó khăn và nguy hiểm. Mỗi gờ-ram đã phải trả giá đắt của mồ hôi và máu. Tuy nhiên họ sẽ cố gắng hết mình.”
Saint Dane cười khểnh:
-Để coi.
Với một cái phẩy tay của hắn, một tên hiệp sĩ nhảy lên khán đài, túm lấy anh chàng gầy gò đang ngồi trên một đầu bập bênh, kéo xuống. Hai tên hiệp sĩ khác lôi ông to béo, ấn vào thay thế. Khiếp đảm , ông ta nhìn Rellin cầu cứu, nhưng Rellin đành đứng bất động. Saint Dane lên tiếng:
-Bắt đầu đi.
Mấy người thợ mỏ nhìn Rellin, ông ta nhẹ gật đầu. Không còn lựa chọn nào khác nữa, họ bắt đầu chuyển đá từ giỏ đầu lên đầu bên kia của bập bênh. Mình hỏi bà Osa:
-Chuyện gì xảy ra nếu không đủ trọng lượng?
-Hy vọng là cháu không phải thấy cảnh đó.
Mấy người thợ mỏ hấp tấp đặt đá lên cân, những hòn lớn trước, rồi tới nhưng hòn nhỏ kích cỡ bằng những viên cẩm thạch. Tất cả dân làng đỏ dồn mắt chăm chú vào cái cân. Mình nghĩ không ai còn thở nổi. Vì chính mình cũng vậy. Rồi cầu bập bênh nhuc nhích khi những người thợ mỏ mới chuyển được phân nửa số đá. Rất từ từ, bên kia đầu cân, người đàn ông to béo bắt đầu được nâng lên. Mặt ông ta bắt căng thảng hẳn. Có lẽ rốt cuộc số đá cũng đủ để cân bằng với cơ thể nậng nề của ông. Với niềm hy vọng mới, thợ mỏ sốt sắng tiếp tục chuyển đá lên cân. Người đàn ông nặng nề được nhấc bổng lên không.
Mình cả thấy đám đông như hoàn hồn trở lại. Họ sắp thoát nạn. Ngày hôm nay họ đã khai thác được số đá nhiều hơn, đủ để đáp ứng đòi hỏi của Saint Dane. Chỉ cần them vài viên nhỏ nữa, hai bên đầu sẽ hoàn toàn cân bằng. Nếu đây là một trò chơi xổ số, chắc đám dông đã nhảy nhổm lên reo mừng. Nhưng đây không phải là một trò chơi. Dù mình cảm thấy niềm hân hoan như trút được gánh nặng của họ, nhưng không người nào để lộ ra. Mình chỉ thấy họ âm thầm trao đổi nhau một thoáng cười. Kể cả Rellin cũng có vẻ nhẹ nhõm, dù cố đè nén. Biểu hiện chiến thắng ngay trước mặt Saint Dane không phải là một điều khôn ngoan.
Saint Dane không tỏ phản ứng gì. Mình Không thể nói hắn mừng vì thợ mỏ đã khai thác vượt quá sô lượng rất nhiều, hay bực tức vì người Milago đã kịp đáp ứng sự thách thức không công bằng của hắn.
Saint Dane xoay lưng nhảy xuống ngựa, lên khán đài rồi nhìn hai đầu cân bằng của cái bập bênh, nhếch mép cười. Đột nhiên đám đông căng thẳng trở lại. Saint Dane đang làm gì vậy? Hắn nhìn người đàn ông to lớn đang lắc lư trwwn một đầu cân. Ông ta cúi gằm mặt, tránh ánh mắt hắn. Bước lại gần giỏ đá bên một đầu cân, Saint Dane nói:
-Khá lắm, Rellin. Tụi bay đã khai thác được số lượng khá lớn…
Bỗng ngừng bặt, hắn cúi xuống giỏ đá. Khắp đám đông, mọi người bắt đầu nắm chặt tay nhau để có thêm sức mạnh. Nhìn vào giỏ đá, Saint Dane lên tiếng:
-Rellin, mi làm ta ngạc nhiên đấy. Trong giỏ có một hòn đá không phải minh thạch ròng.
Rellin xông lên, định chạy lại cái giỏ, nhưng bị hai gã kỵ sĩ giữ lại. Rellin gào lên mấy tiếng với Saint Dane. Vô ích. Lấy ra từ trong giỏ một hòn minh thạch lớn nhất, Saint Dane đưa lên cao. Lập tức, cán cân nghiên về một bên, quăng mạnh người đàn ông nặng nề lên mặt khán đài. Saint Dane tiến lại, di hòn đá sát mặt Rellin, nghiến răng nói:
-Mi quá rõ, Kagan chỉ chấp nhận minh thạch ròng thôi.
Dù không là nhà địa chất học, mình cũng thấy hòn đá đó giống hệt mẻ đá còn lại. Saint Dane lại giở trò thay đổi luật chơi. Với vẻ buồn rầu giả bộ, hắn hỏi:
-Bây giờ mi muốn biết chuyện gì phải xảy ra rồi chứ?
Rõ ràng người đàn ông to lớn cũng biết chuyện gì sẽ xảy ra. Ông ta lết chân rồi nhảy xuống khỏi khán đài, hòng thoát khỏi đó. Nhưng mấy tên hiệp sĩ đã túm chặt ông ta lại.
Mình hỏi bà Osa:
-Chuyện gì đang xảy ra vậy?
Bà không trả lời, đôi mắt buồn rầu chăm chú theo dõi cảnh tượng trước mặt. Dù sao, mình cũng đoán sắp được thấy câu trả lời, và quay lại nhìn cảnh cuối của vở kịch.
Một gã hiệp sĩ vội vàng nắm sợi dây xích nặng nề nối với một đầu khán đài bằng gỗ, kéo mạnh. Nửa sàn khán đài nâng lên như cánh cửa hầm. Bên dưới trông như… không có gì. Khán đài được dựng trên một cái hố khổng lồ.
Vẫn chăm chăm nhìn cảnh tượng đó với ánh mắt buồn rầu, bà Osa nói:
-Đó là đường thông mỏ đầu tiên được đào tại làng Milago này. Hầm khai thác đó thăm thẳm khỏi tầm mắt. Ta e rằng dưới đấy, có rất nhiều bộ xương cô đơn lạnh lẽo.
Đầu óc mình rối bời, không thể tin nổi những gì đang thấy: chúng sắp ném người đàn ông này xuống đường thông mỏ!
-Sao người Milago không có một hành động nào? Họ có cả mấy trăm người, sao không ngăn chuyện này lại?
Trong khi mình lải nhải nói, thì người đàn ông đã bị ấy tên hiệp sĩ kéo gần tới cái miệng hố toang hoác.
Ông ta gào lên:
-Bagga! Bagga va por da pey!
Tiếng gào thật khủng khiếp. Không một ai trong đám đông nhúc nhích. Kể cả Rellin. Dường như họ biết là vô ích. Mình nhận thấy kế bên, Loor đưa tay ra sau lưng nắm cây vũ khí bằng gỗ. Nhưng bà Osa nhẹ nhàng đưa tay ngăn con gái:
-Con biết là chưa tới thời điểm mà.
-Lúc đầu Loor không buông tay khỏi vũ khí. Mình cảm thấy cô ta rất căng thẳng. Chỉ một cú thúc thôi là cô ta sẽ ở dưới đó, tả xung hữu đột. Nhưng hôm nay chưa phải lúc. Cô nhìn trừng trừng cảnh tượng bên dưới, rồi lỏng tay dần.
Mấy gã vệ sĩ kéo ngưới đàn ông đang gào thét tới trước mặt Saint Dane. Hắn lạnh lung tàn nhẫn nói:
-Nếu không tham ăn tới mập ù như vậy thì đâu đến nỗi phải chết hôm nay.
Nói xong hắn hất đầu với đám hiệp sĩ. Chúng kéo ngay người đàn ông khốn khổ vẫn đang kêu la tới cửa hầm. Ông ta năn nỉ:
-Ca… ca! Magga con dada pey! Maga con dada! Moy fol vợ và hai con! Xin tha cho tôi! Tôi còn phải lo cho vợ con!
Cảnh tượng quá khiếp đảm đến nỗi mình không nhận ra cho tới khi mình… chợt sững người. Mình đã hiểu được ông ta! Rõ ràng là tiếng Anh, nhưng không có lý nào ông ta bất ngờ thay đổi ngôn ngữ? Bà Osa bảo Lữ khách có khả năng nghe được mọi ngôn ngữ, và thình lình mình hiểu người đàn ông này nói gì! Rốt cuộc, có lẽ mình là một Lữ khách thật rồi.
Nhưng sau này mình mới nghĩ tới chuyện đó. Ngay lúc này mình đang chứng kiến giây phut thắt ruột mà mình không bao giờ tưởng tượng nổi. Hai gã hiệp sĩ kéo người đàn ông tới gần miệng hố. Thình lình một người phụ nữ nhảy ra từ đám đông, cố kéo ông ta khỏi mấy tay đao phủ. Nước mắt đàm đìa, bà ta kêu gọi lòng thương xót của chúng. Chắc đó là người vợ. Nhưng nỗ lực đầy can đảm của bà không đi tới đâu. Một tên hiệp sĩ nắm lấy bà, quăng xuống đất. Bà ta nằm trên cỏ nức nở khóc.
Khi bị đẩy tới sát miệng hầm, người đàn ông bỗng ngừng than vãn, rên rỉ. Ông ta không khóc lóc van xin nữa, không vùn vẫy, mà đứng thẳng người. Mark, tin không? Nét mặt ông ta gần như điềm tĩnh. Mấy gã hiệp sĩ không biết phải phản ứng ra sao. Chúng chưa từng gặp kẻ nào bình tĩnh trong khoảnh khắc thê thảm nhất trong cuộc đời như thế này.
Người đàn ông to lớn quay lại, đối diện Saint Dane, rồi bằng giọng mạnh mẽ, dứt khoát, ông nói:
-Điều ân hận duy nhất của tao, là không sống tới ngày được thấy Kagan cũng phải chịu những đau khổ nhục nhằn như chúng tao đã từng phải chịu.
Saint Dane chặc lưỡi, nói:
-Không đứa nào trong chúng mày sống lâu đến thế đâu, vì ngày đó sẽ chẳng bao giờ có.
Rồi hắn nhẹ hất đầu, nhẹ và nhanh đến gần như không thể nhận ra. Hai gã hiệp sĩ xô người đàn ông xấu số xuống hầm. Vợ ông ta rú lên. Nhưng người đàn ông không thốt một lời. Mới một giây ông ta còn đó, giây sau ông ta đã… biến mất! Cầu cho cái chết đến thật nhanh và ông sẽ được tới một thế giới tốt lành hơn cái làng khủng khiếp này.
Gã hiệp sĩ buông sợi xích, sàn gỗ đổ rầm xuống. Saint Dane bước tới Rellin. Rellin nhìn thẳng mắt hắn. Hắn chỉ tay vào người đàn bà đang nức nở:
-Chúng ta sẽ dùng mụ ta cho buổi Chuyển giao ngày mai. Mụ có vẻ nhẹ cân. Sẽ là một ngày nhàn nhã đấy. Hãy cám ơn tấm long ta đã ân cần lo lắng cho các ngươi đi.
Rellin nhìn Saint Dane và một thoáng giây mình đã tưởng ông ta sẽ nhổ nước bọt vào mặt hắn. Nhưng không. Trái lại Rellin nghiến răng nói:
-Cám ơn.
-Không có chi.
Saint Dane nói với một nụ cười. rồi hắn rảo bước tới con ngựa, nhảy lên yên và trước khi phóng đi, một lần nữa hắn nhìn lại phía mình và mẹ con bà Osa đang núp. Thật ra, cứ như hắn đang nhìn thẳng vào mình thì đúng hơn. Mình cảm thấy điều đó. Hắn biết mình đang ở đây. Phải chăng tất cả chuyện này là một màn trình diễn dành cho mình? Saint Dane ha hả cười, thúc ngựa phóng qua đám đông bàng hoàng, trở lại lâu đài Bedoowan.
Đám hiệp sĩ dùng giáo xua mấy người thợ mỏ tới giỏ đá. Họ phải vác số đá quí này tới Kagan. Đó là công việc dành cho kiếp nô lệ của họ. Mấy người thợ mỏ nâng giỏ đá khỏi cầu bập bênh và nặng nề tiến bước tới lâu đài. Dân làng còn lại tản mát dần. Không một tiếng nói thốt ra. Vài người tiến lại an ủi người phụ nữ khốn khổ mới mất chồng, hầu hết nhũng người khác lặng lẽ về nhà. Họ đã từng trải qua chuyện khủng khiếp này, và chắc chắn sẽ còn gặp lại.
Nhưng mình thì không. Mình phẫn nộ đến điên người. Mình vừa chứng kiến một con người bị giết một cách lạnh lùng. Cái chết còn ghê tởm hơn gã vô gia cư bị Saint Dane thôi miên trong hầm tàu điện ngầm New York. Chuyện đó dễ sợ nhưng dường như không thật. Còn chuyện này quá, quá thật và mình không sao hiểu nổi. Tất cả đã làm mình quá xúc động. Phải, mình chẳng xấu hổ gì khi phải thú thật với bạn, Mark à, rằng mình đã khóc. Nước mắt giận dữ và sợ hãi. Khóc vì buồn thương người đàn ông mình chưa hề quen biết. Và vì gia đình của ông ta. Cóc cần quan tâm mình đang khóc trước mặt Loor hay bất kỳ ai. Mình mất bình tĩnh rồi. Mình gào lên với bà Osa:
-Sao họ không làm gì? Họ có thể đoàn kết lại trước tụi hiệp sĩ. Họ có thể đẩy lùi chúng. Tại sao họ không ngăn chuyện kia lại?
Mình xúc động bao nhiêu, bà Osa bình tĩnh bấy nhiêu:
-Nếu họ làm bất cứ điều gì, Kagan sẽ đưa quân đến trừng phạt ngay. Họ đâu còn chọn lựa nào khác nữa.
Mình nhìn Loor và ngạc nhiên cô cũng tỏ ra rất xúc động. Có lẽ không ồn ào như mình, nhưng vẻ lạnh lùng của cô không còn nữa. Thậm chí mình còn tưởng như thấy mắt cô long lanh ướt. Có lẽ dưới vỏ ngoài gai góc là một con tim nhân ái chăng?
Tuy nhiên mình vẫn không chịu nổi những lời cắt nghĩa của bà Osa. Mình kêu lên:
-Thì đã sao? Họ nên làm gì đó chứ. Nếu không làm gì, thì sẽ không bao giờ chấm dứt được chuyện này.
Bà Osa đặt tay lên vai mình, lập tức mình cảm thấy bình tĩnh lại. Nhưng những lời bà nói sau đó, thật tình mình chẳng muốn nghe chút nào:
-Pendragon, họ sắp hành động đó. Họ sắp tự nắm lấy vận mệnh, nổi lên chống lại Kagan. Đó là lý do vì sao chúng ta có mặt tại đây. Chúng ta sẽ giúp họ. Cháu sẽ giúp họ.
Những lời nói làm mình như bị sét đánh. Cậu Press đã bảo mình là một số người cần cậu cháu mình giúp đỡ, nhưng mình đâu có ngờ cậu nói đến toàn thể một ngôi làng sống dưới sự hà khắc của một đạo quân tàn bạo, lạnh lùng giết người như ngóe. Thật điên rồ. Mình rất thương những con người này, nhưng mình chẳng thể làm gì để giúp họ được. Dù Loor gai góc, khó chịu đến thế nào, mình cũng không ngán, nhưng tụi hiệp sĩ kia là lũ sát nhân. Vả lại, bọn mình chỉ có ba… nếu tính cả cậu Press cũng chỉ là bốn. Làm sao bọn mình có thể chống lại cả một đạo quân? Thật điên rồ! Ngay lúc đó, mình quyết định nếu có dịp là chuồn ngay khỏi đám người nhì nhằng mơ hồ này, quay lại cái ống dẫn kia. Nếu nó đã đưa mình tới đây, chắc phải có cách đưa mình về nhà. Mình sẽ tìm cách thoát khỏi đây và hôn chào vĩnh biệt nơi này, dù cho có cậu Press hay không
|
TRÁI ĐẤT THỨ HAI (@ liz_vbaby type)
- Ê, mấy nhỏ.
Đang đọc, Mark và Courtney ngửng lên nhìn trung sĩ D’Angelo đứng trước đồn, gọi hai đứa. Chúng đã ngồi đó suốt thời gian đọc những trang giấy của Bobby. Mark kêu lên :
- Chạy!
Nhưng mới nhổm người, nó đã bị Courtney nắm quần kéo xuống. Cô bé bình tĩnh nói:
- Sao phải chạy? Tụi mình có làm gì bậy đâu.
Mark ngẩn mặt suy nghĩ. Đúng. Chúng nó chỉ ngồi trong ngõ để đọc, có làm gì phạm luật đâu. Nhưng cảnh sát gọi chúng làm gì? Vẫn ngồi tại chỗ, Courtney nhìn viên cảnh sát, hỏi :
- Chú muốn gì?
- Muốn nói chuyện với hai cháu.
- Vậy thì chú lại đây.
Ui cha! Mark nhăn nhó. Courtney hơi bị lếu láo. Trước đó, ông ta có tỏ ra bực dọc, cằn nhằn hai đứa thật, nhưng dù sao cũng là cớm mà. Mark tin chắc ông ta sẽ túm cổ hai đứa.
D’Angelo chống nạnh, bước mấy bước về phía hai đứa, giọng rất hoà nhã:
- Chú muốn nói với các cháu về chuyện nhà Pendragon.
Vẻ hoài nghi, Courtney hỏi:
- Vì sao?
- Vì chú tin các cháu.
Hai đứa nhìn nhau. Thành công rồi! Chắc ông ta đã tìm ra ông bà Pendragon. Cả hai bật dậy. Mark thận trọng cất kĩ cuốn giấy mới đọc được một nửa vào ba-lô, rồi cùng Courtney đi theo trung sĩ D’Angelo trở lại đồn cảnh sát.
Hai đứa được đưa qua hành lang, tiếp tục đi qua những văn phòng phía sau. Mark khoái lắm, vì chưa bao giờ nó được thấy bên trong đồn cảnh sát. Nhưng rồi thực tế không giống như nó tưởng chút nào. Trên ti-vi, đồn cảnh sát lúc nào cũng rộn ràng hoạt động. Luôn luôn có những tay cớm đưa mấy gã tội phạm tay bị còng vào phòng điều tra, các thanh tra bận rộn nhận báo cáo, đội An-ninh phòng-ngừa tội-phạm hấp tấp tới lui làm nhiệm vụ. Nhưng cảnh đó không thấy trong đồn cảnh sát Stony Brook này. Tại đây chỉ thấy một tay đang gọi điện thoại đến cửa hàng Domino đặt món bánh pizza, một tay khác uể oải chơi bài Freecell trên cái máy tính cũ rích. Chẳng có vẻ gì là một sở cảnh sát rộn ràng như tổ ong tất bật với công việc. Quá thất vọng.
Vừa đi, trung sĩ D’Angelo vừa nói:
- Thật tình chú cứ tưởng hai đứa bày trò phá chú, cho đến khi chú nói với đại uý Hirsch…
Mark vội hỏi:
- Đại uý nói sao ạ?
- Gặp ổng cháu tự hỏi.
Trung sĩ mở cửa, ra hiệu cho Mark và Courtney bước vào. Đó là một phòng họp, với một bàn sắt lớn, chung quanh có tám cái ghế. Một tấm gương khổng lồ che kín một bức tường. Ngồi tại đầu bàn là một ông trông vui vẻ, mặc bộ com-lê. Thấy Mark và Courtney vào, ông ta đứng dâỵ mỉm cười, nhưng cả hai đều nhận thấy ông ta có vẻ lo lắng. Tốt. Nên thế. Những chuyện rắc rối đang được xem xét đấy. Ông ta lên tiếng:
- Chào. Chú là đại uý Hirsch. Cảm ơn các cháu đã trở lại.
Courtney tiến thẳng tới tấm gương, mắt lim dim vì chói sáng, dí mũi sát mặt kính. Cô bé nói:
- Đây là gương hai chiều ạ? Ai ở phía bên kia? Chú lấy khẩu cung chúng cháu đấy à?
Đại uý Hirsch bảo:
- Đúng. Đó là gương hai chiều. Nhưng sau gương không có ai hết và chúng ta không lấy khẩu cung hai cháu.
Courtney vẫn cố nhìn xuyên qua tấm gương. Cô bé không tin lời ông đại uý. Trung sĩ D’Angelo lên tiếng:
- Sao hai đứa không thoải mái ngồi xuống đi.
Mark và Courtney ngồi bên cạnh nhau bên chiếc bàn. Viên trung sĩ đứng kế bên cửa. Đại uý Hirsch ngồi xuống nhìn hai đứa. Hai đứa cũng nhìn lại ông. Đại uý bối rối nhướn mày, như không biết phải bắt đầu từ đâu. Courtney bao giờ cũng là Courtney, cô bé khai hoả trước:
- Vì sao chú lại tin chúng cháu về chuyện nhà Pendragon?
Ông bà Pendragon là bạn thân của chú. Jimmy, con trai chú, chơi cùng đội bóng rổ với Bobby.
- Mark kêu lên:
Jimmy Hirsch! Cháu biết bạn ấy. Một tiền đạo rất mạnh.
- Đại uý Hirsch gật đầu. Tốt. Vậy là bây giờ đã có một người lớn đứng về phía hai đứa rồi. Mà lại là một đại uý cảnh sát hẳn hoi. Mọi chuyện sắp sáng tỏ rồi đây. Ông hỏi:
Lần cuối cũng các cháu thấy Bobby là khi nào?
- Mark biết, nhưng nhường cho Courtnet trả lời:
- Tối qua ạ. Tại nhà bạn ấy, khoảng một tiếng trước trận thi đấu ạ.
Bobby có nói gì làm cho cháu nghĩ là nó sắp ra đi không?
Courtney và Mark nhìn nhau. Chúng biết chính xác Bobby đã đi đâu. Nếu câu chuyện trong những trang giấy da là sự thật, chúng còn biết cậu Press đã chở Bobby bằng chiếc mô-tô của ông tới một vũ trụ xa xôi tên là Denduron. Nhưng cả hai đứa đều không biết chắc chuyện kì quái đó có đúng thật hay không, và chúng không muốn bị coi là những kẻ mắc bệnh tâm thần. Với lại, những trang giấy này cũng không cắt nghĩa chuyện gì đã xảy ra với ngôi nhà của gia đình Pendragon. Trước khi đi gặp cảnh sát, Mark và Courtney đã quyết định chỉ nêu ra những sự thật có thể chứng minh được. Và chứng minh vụ ngôi nhà bị biến mất là chuyện dễ dàng. Vì vậy không cần bàn bạc lại, hai đứa đều nhất trí cứ theo kế hoạch ban đầu. Courtney trả lời:
- Cháu đang nói chuyện với Bobby tại nhà bạn ấy thì cậu Press của bạn ấy tới và cháu ra về. Đó là lần sau cùng cháu gặp Bobby.
- Đại uý Hirsch nhìn xuống mảnh giấy ông đã ghi chép mấy dòng:
Đúng. Cậu Press...
- Ông nói lớn mà dường như đang suy ngẫm điều gì đó hơn là nói ra miệng. Có vẻ ông ta muốn nói ra điều gì, nhưng đắn đo không biết có nên nói hay không. Ông nhìn trung sĩ D’Angelo như tìm lời khuyên. Trung sĩ lên tiếng:
Tôi nghĩ đại uý nên cho các cháu biết...
- Mark hỏi ngay:
Biết...biết gì ạ?
Rõ ràng cảnh sát đã nắm được thông tin gì đáng ngại. Đại uý Hirsch đứng dậy, nóng nẩy nện gót quanh phòng:
- Sau khi hai cháu gặp trung sĩ D’Angelo, anh ấy có nói cho chú biết. Thật ra trung sĩ không tin các cháu, vì anh ấy không tìm được một chút thông tin nào về nhà Pendragon.
Courtney cắt ngang:
- Nhưng đại uý quen họ mà.
- Đúng, chú quen biết họ. Chú đã đến nhà họ nhiều lần.
- Mark nói thêm:
Vậy mà... bây giờ ngôi nhà biến mất tiêu.
Viên đại uý nhìn hai đứa, rồi lại nhìn trung sĩ D’Angelo. Sau cùng, ông nói:
- Phải, ngôi nhà đã biến mất. Có thể đây chỉ là một đồn cảnh sát nhỏ trong một thị trấn nhỏ, nhưng chúng tôi lưu giữ từng mẩu thông tin trong hồ sơ dân sự. Sau khi các cháu tới, chúng tôi đã kiểm tra, tìm tòi thông tin về gia đình Pendragon bằng máy tính và... không tìm thấy gì.
Courtney hỏi:
- Đại uý bảo “không có gì” là sao? Không có hồ sơ cảnh sát á?
- Hoàn toàn không có gì. Không khai sinh, không bằng lái xe, không có số an ninh xã hội, không tài khoản ngân hàng, không sổ nợ, không hồ sơ trường học, không thẻ tín dụng, không... có gì hết! Gia đình nhà Pendragon không chỉ biến mất, mà... cứ như họ chưa từng bao giờ tồn tại.
Bước chân của đại uý Hirsch hấp tấp hơn, ông tỏ ra bực tức vì chính những điều ông đang nói thật vô lý, tuy nhiên lại là sự thật. Sau cùng, Mark lắp bắp:
- Nhưng... nhưng họ có... có tồn tại mà... Cháu muốn nói là... chúng ta biết họ.
- Chú biết. Chú đã nhiều lần ăn cơm tại ngôi nhà đó. Đã từng lái xe đưa Bobby tới nơi họp Hướng đạo. Cho hai cháu biết thêm điều này nữa: chúng tôi đã rà soát lại những tờ báo đã từng đăng bài viết về ông Pendragon, không tìm thấy bài nào. Nhưng chú nhớ là mình đã đọc, đã tranh luận với ông ấy về những bài viết đó.
Mỗi giây lại càng thêm kì lạ. Biến mất là một chuyện. Nhưng toàn bộ tiểu sử của một con người cũng “bốc hơi” là chuyện dường như không thể nào chấp nhận nổi.
Mark lo lắng hỏi:
- Còn... còn... cậu Press?
- Cũng vậy, không có gì. Chúng ta không tìm ra bất kỳ điều gì chứng minh những con người này là có thật.
Courtney bần thần nói:
- Chỉ trừ trong trí nhớ của chúng ta.
Mộy ý kiến lạnh người. Nếu những gì đại uý nói là sự thật, thì điều duy nhất Bobby và gia đình nó để lại chỉ còn là những kỉ niệm trong tâm tưởng bạn bè và... cuộn giấy da trong ba-lô Mark. Đại uý Hirsch ngồi lại bàn, nhìn hai đứa trẻ bằng ánh mắt van nài. Ông nói với thoáng chút tuyệt vọng của một người đang bí lối: - Hai cháu. Hai cháu hãy giúp ta. Nếu còn nhớ thêm bất cứ điều gì, bất cứ điều gì có thể giúp chúng ta khám phá ra chuyện gì đã xảy ra cho nhà Pendragon, làm ơn cho ta biết.
Mark và Courtney còn rất nhiều điều muốn nói thêm. Tất cả đang ở trong ba-lô của Mark, ngay trên bàn, trước mặt họ. Chỉ việc lấy ra, đưa cho đại uý Hirsch. Ông ta sẽ đọc và bắt tay hành động. Việc của người lớn là tiếp quản và làm sáng tỏ sự việc. Nhưng đó không phải chuyện của Courtney. Cuộn giấy đó gửi cho Mark. Nếu phải nói cho cảnh sát vệ những trang giấy đó, thì phải do Mark quyết định.
Courtney thấy Mark đang chăm chăm nhìn cái ba-lô. Cô bé biết chính xác bạn mình đang suy nghĩ gì. Nó đang đấu trang tư tưởng: có nên đưa cho đại uý hay không. Mark ngửng lên nhìn Courtney. Courtney ước gì có thể giúp bạn quyết định, nhưng thật tình chính cô bé cũng không biết phải quyết sao cho đúng. Vì vậy Courtney chỉ nhẹ nhún vai bảo: “Tuỳ bạn” Đại uý Hirsch hỏi:
- Sao? Các cháu có nhớ thêm được gì khác nữa không?
Mark hít một hơi thật sâu, rồi nói:
- Không. Chúng cháu cũng bối rối y như chú vậy.
Thế là quyết định. Courtney nói theo Mark:
- Đúng vậy. Chúng cháu cứ như mê sảng vậy
Thở dài mệt mỏi, đại uý Hisrch đứng dậy nói:
- Thôi được rồi. Chúng ta bắt đầu mở cuộc điều tra. Hãy nói với ba má, bạn bè, với bất kỳ ai hai cháu quen biết: nếu họ nghe được điều gì về gia đình Pendragon, hãy phôn cho chú. Được chứ?
Courtney và Mark gật đầu. Đại uý trao cho mỗi đứa một tấm danh thiếp có số điện thoại của ông. Mark xách ba-lô lên, hai đứa quay trở ra.
Ra khỏi đồn, hai đứa lặng lẽ đi một đoạn đường dài. Đồn cảnh sát nằm gần ngay bên đại lộ Stony Brook. Đây là con đường thương mại chính của thị trấn, luôn luôn tấp nập người qua lại. Hầu hết quán ăn, cửa hàng đều nằm trên con đường này. Nhưng hôm nay Mark và Courtney không quan tâm gì tới những cám dỗ của khu phố. Qua cửa hàng băng đĩa Silo, chúng không hề liếc mắt vào quầy; mùi khoai tây chiên béo ngậy của cửa hàng bánh Deli ngon nhất thế giới, hơi kem mát lạnh từ quán kem Scoop cũng không dụ dỗ được chúng; thậm chí hai đứa còn không nghĩ đến chuyện ghé vào thư viện, nơi mọi người đều dừng chân ở mấy bậc thềm phía trước vì biết chắc sẽ gặp vài người quen tại đó.
Nhưng hôm nay thì không. Với Courtney và Mark những nơi chốn lui tới thân quen giờ dường như không còn thân quen nữa. Tất cả như vẫn cũ, nhưng vài tiếng đồng hồ vừa qua đã mở ra cho chúng thấy khả năng thế giới này không vận hành như chúng vẫn tưởng. Chuyến phiêu lưu của Bobby, việc biến mất môt cách kì lạ của gia đình Pendragon làm chúng nghi ngờ tất cả những gì chúng hằng tin tưởng. Với mớ ý nghĩ rối bời trong đầu, nhai khoai tây chiên của nhà hàng Deli cũng không ngon lành gì. Vì vậy hai đứa vượt qua những chỗ quen thuộc, nơi rất dễ đụng mặt bạn bè, để vào một công viên nhỏ, yên tĩnh nằm kẹp giữa hai toà nhà cao tầng.
Tới lúc đó Mark mới nhìn Courtney, hỏi nhỏ:
- Đúng ra mình có nên nói với họ về thư của Bobby không?
- Mình không biết, mình chẳng suy nghĩ gì được nữa.
- Mình cảm giác phải có lí do rất quan trọng, nên Bobby mới gửi thư đó cho mình.
- Sao? Chúng ta chưa đọc xem bạn ấy muốn gì mà.
- Ừa. Mình biết. Nhưng mình vẫn cảm thấy có chuyện lớn đang xảy ra, mà Bobby chỉ là một phần trong chuyện đó. Chuyện... rất nghiêm trọng, chẳng hạn như... mấy cái vụ... bức xạ vũ trụ. Mình kỳ cục quá, phải không?
- Kỳ cục cái gì? Đến lúc này thì còn gì là kỳ với cục nữa.
Chính xác! Cứ nghĩ đến chuyện Lữ khách hiểu được mọi ngôn ngữ, lãnh địa, ống dẫn phóng người ta vượt qua không gian và thời gian... làm thay đổi tất cả nhưng gì chúng ta đã biết.
Courtney im lặng. Mark có lý. Cho đến lúc này cô chỉ nghĩ đến Bobby và gia đình nhà Pendragon. Nhưng những ngụ ý trong những trang giấy hai đứa đã đọc... bao la quá, không lĩnh hội nổi. Mark tiếp tục:
- Khi ngồi trong đồn cảnh sát, mình nghĩ điều gì sẽ xảy ra nếu đưa cuộn giấy của Bobby cho họ. Mình nghĩ đến hai khả năng có thể xảy ra. Một là, họ sẽ tuyên bố rộng rãi, và chúng ta sẽ kẹt trong luồng dư luận cuồng nhiệt rộng lớn đó. Phải nhớ rằng, mình có thể còn nhận thêm nhiều trang nữa. Chắc Bobby không muốn dư luận ồn ào lên như thế đâu, nhất là cậu ấy muốn mình giúp. Vì nếu Bobby muốn đưa ra dư luận, cậu ấy đã bảo mình chuyển cho nhà báo rồi.
- Còn khả năng thứ hai?
- Sẽ xảy ra hoàn toàn ngược lại. Những gì Bobby viết rất có thể làm kinh động thế giới đến mức họ sẽ chôn giấu tất cả mọi chuyện này và làm như chưa hề có gì xảy ra, giống như... giống như chuyện người ngoài hành tinh ở Roswell, hay vụ ám sát tổng thống Kennedy đó.Con người không muốn nghe cái chuyện thế giới tốt lành, trật tự này của họ lại không giống như những gì họ đã nghĩ. Chẳng trách được họ; chính mình cũng vậy.
Courtney thêm vào:
- Còn khả năng thứ ba nữa. Mọi người sẽ đổ trách nhiệm lên đầu hai đứa mình. Ai cũng chỉ mong có lời giải đáp đơn giản dễ hiểu nhất, và câu trả lời dễ nhất là: tất cả đều do hai đứa mình dựng chuyện. Sẽ dễ hiểu cho mọi người hơn khi nghĩ rằng chúng mình là những nhãi ranh bày trò bịp bợm, hơn là tin vào chuyện có kẻ nhảy vào một cái hang để du hành qua vũ trụ.
Thật khó tin là mới chỉ mấy giờ trước mối quan tâm lớn nhất của hai đứa chỉ là chuyện Bobby vắng mặt trong buổi thi đấu bóng rổ.
Courtney nhìn Mark hỏi:
- Cậu nghĩ chúng mình phải làm gì?
Chưa kịp trả lời, Mark bị một kẻ từ phía sau với tay giật cái ba-lô của nó. Mark và Courtney kinh ngạc ngửng nhìn.
- Mày lại có cái gì nữa đây. Dimond? Tạp chí nữa à?
Chính là Andy Mitchell, thằng nhóc đã bắt gặp Mark đang đọc mấy trang nhật kí đầu tiên của Bobby trong phòng vệ sinh nam. Nó rối rít cố mở ba-lô của Mark. Mark đứng bật dậy, kêu lên:
- M... Mitchell, trả lại tao!
Mark xông tới. Thằng Mitchell nhảy ra xa, ha hả cười:
- Thôi nào, mày không muốn cho tao xem với sao?
Nó đưa cái ba-lô về phía Mark. Mark vội đưa tay chụp, nhưng Mitchell giật ngay lại:
- Muốn lấy lại lắm hả? Tới mức nhảy xuống cống mà bơi với chuột để có được nó hả?
Vừa nói nó vừa đi giật lùi đến miệng cống thôi hoắc, rộng dư sức cho chiếc ba-lô lọt xuống. Mark tuyệt vọng la lên:
- Đừng!
Mitchell đong đưa cái ba-lô trên cống:
- Mày muốn đổi lại bằng cái gì đây?
- Mày muốn gì?
Mitchell suy nghĩ giây lát, rồi chỉ lên tay Mark:
- Tao đổi ba-lô lấy... cái nhẫn to đùng cũ rích kia kìa.
Mark không thể đưa cho nó cái nhẫn. Nhưng cũng không thể để mất cuộn giấy chưa đọc hết. Mark chưa biết Bobby muốn nhờ nó làm gì.
- Nghĩ lẹ lên Dimond. Nhẫn hay ba-lô... ba-lô hay nhẫn.
Mark không biết phải làm sao. Thình lình một bàn tay cứng như thép nắm lấy cổ tay thằng Mitchell. Nó ngửng lên, mặt đối mặt với Courtney. Cô bé đã bình tĩnh ngồi nhìn cảnh này từ băng ghế. Có thể Courtney không biết làm sao để giải quyết vụ mất tích một cách bí ẩn của Bobby và nhà Pendragon, hay chuyện thế giới vừa bị đảo lộn, nhưng một điều cô biết có thể giải quyết gọn lẹ: đó là thằng đầu bò Andy Mitchell. Courtney vặn cổ tay thằng nhóc, dí sát mũi vào mặt nó:
- Cứ bỏ ba-lô xuống cống đi, đầu mày sẽ lộn xuống cống ngay sau đó.
Hai đứa kềm nhau thật lâu. Sau cùng thằng Mitchell đành cười cười:
- Giỡn chút mà. Làm gì dữ vậy?
Courtney với tay kia giật lại cái ba-lô, rồi buông tay Mitchell ra. Nó vội lùi lại, nắn nắn cổ tay cho máu lưu thông trở lại, rồi nói mấy câu với Mark cho đỡ quê:
- Mày lượm được đâu cái nhẫn thấy ghê vậy?
Mark và Courtney trừng trừng nhìn cho tới khi thằng Mitchell quê hết chịu nổi, chỉ còn nước bỏ đi. Nó quay người bước đi, nhưng vẫn vớt vát mấy câu:
- Tươi lên chút coi, căng dữ vậy.
Courtney ném cái ba-lô cho Mark.
- Cám ơn.
Mark hơi bối rối nói. Nó biết không giải quyết được vụ này tốt như cô bạn. Courtney bảo:
- Mình rất ghét thằng láu cá đó.
Mark nghiêm nghị:
- Tìm chỗ nào đọc cho hết thư đi. Ở mấy chỗ công cộng này, mình thấy lo lắm. Về nhà mình đi.
Courtney ngập ngừng:
- Ừ, cũng được. Nhưng phòng cậu hôi như tổ cú ấy.
Mark nhìn xuống ngượng nghịu. Courtney cười nói:
- Nè, có gì mà quê. Phòng con trai nào mà chẳng hôi như tổ cú. Thôi, về nhà mình đi.
Trên đoạn đường ngắn tới nhà Courtney, cả hai đứa đều ít nói, vì tâm trí đều bận rộn về mấy trang thư. Rất nhiều câu hỏi cần giải đáp. Nhưng trên hết là: Bobby muốn nhờ Mark làm chuyện nguy hiểm gì? Courtney nôn nóng muốn biết, Mark cũng vậy. Nhưng cứ nghĩ đến phải làm một chuyện nguy hiểm là nó chẳng thích chút nào, dù có quan trọng mấy đi nữa. Cho đến bây giờ, hành động nguy hiểm nhất nó có thể làm, là ban đêm vội vàng bấm chuông trộm nhà ai đó, rồi ù té chạy. Với những chuyện Bobby đang trải qua, bức tường rào đầy cọc nhọn cao hơn nhiều.
Nhà Courtney rất giống nhà Mark, cũng ở trong một khu ngoại ô yên tĩnh. Nhưng thay vì vào phòng Courtney, cô bé đưa Mark xuống tầng hầm, nơi có xưởng làm việc của cha cô. Mark hơi thất vọng vì không được thấy khuê phòng của cô nàng Courtney Chetwynde xinh đẹp. Nhưng còn những vấn đề lớn hơn cần giải quyết.
Hai đứa ngồi trên cái ghế dài cũ đầy bụi. Mark mở ba-lô, lấy cuộn giấy đặt trên bàn nhỏ trước mặt. Cả hai đứa đều hồi hộp. Dù muốn chết vì tò mò muốn biết chuyện gì xảy ra sau đó cho Bobby, nhưng chúng lại sờ sợ những gì chứa trong những trang giấy và những điều lạ lùng chúng khắp khám phá ra. Hai đứa cũng hít mạnh một hơi, rồi Courtney nhìn Mark hỏi:
- Sẵn sàng chưa?
- Rồi.
Chúng nhìn xuống mấy trang giấy, tìm chỗ đã đọc dở dang:
Mình sẽ tìm cách thoát khỏi đây và hôn chào vĩnh biệt nơi này, cho dù có cậu Press hay không.
|
NHẬT KÍ # 2 (TIẾP THEO) DENDURON(@emz type)
Kế hoạch của mình là lại trèo lên đỉnh núi, vượt qua lũ quig, tìm cái cổng dẫn tới ống dẫn, rồi chuồn khỏi đây. Đơn giản, đúng không? Phải, chắc vậy. Dù mình không chắc có thể tìm lại được cái hang mắc dịch đó, một mình leo qua núi tuyết và thoát khỏi nanh vuốt lũ quái vật quig. Nhưng mình đã quyết. Vẫn còn hơn là ở lại nơi này.
Chuyện đó sẽ không xảy ra hôm nay. Các mặt trời đang lặn. Đúng vậy: Các (số nhiều) mặt trời. Có nhớ là mình đã bảo ở đây có tới ba mặt trời không? Tất cả đều lặn cùng một lúc, nhưng ba hướng khác nhau. Bắc, nam và đông… hay gì gì đó theo kiểu chỉ phương hướng của người ở đây. Chắc mình phải ở lại một đêm, rồi lẻn đi khi trời hừng sáng. Hơn nữa, mình đang đói. Mình chưa ăn chút gì ngoài một quả chuối và vài cái bánh nướng trước trận thi đấu mà mình chưa hề tham dự.
Loor đưa mình tới một cái chòi giống như cái chòi mình đã tỉnh lại, nhưng nhỏ hơn. Chỉ đống lông thú chất đầy một góc, Loor cụt ngủn ra lệnh cho mình:
-Ngồi. Thì ngồi. Đống da hôi rinh rích, nhưng ngồi cũng thoải mái. Loor nhanh nhẹn và thành thạo nhóm lửa tại một lò sưởi nhỏ bằng đá. Ánh sáng bùng lên, xua tan lạnh giá. Không bao lâu sau bà Osa đến cùng một túi vải đầy đồ ăn. Hai mẹ con bà và mình ngồi quanh ngọn lửa, cùng ăn những ổ bánh mì giòn tan; những trái cây trông giống như cam, nhưng khi ăn lại thấy giống táo; có những thứ giống hạt dẻ nhưng lại có vị cam thảo. Có lẽ vì mình quá đói, nhưng nói chung bữa ăn kì lạ này rất ngon miệng. Tất nhiên mình thích mấy món chiên tại nhà hàng Deli hơn, nhưng thế này cũng tươm lắm rồi. Trong khi ăn, bà Osa dặn dò mình mấy điều rất lạ lùng. Trước hết bà ta hỏi:
-Trên Trái Đất Thứ Hai, cháu có người nào có thể hoàn toàn tin cẩn được không? Không chút đắn đo, mình trả lời ngay. Mình bảo với bà, người đó chính là bạn, Mark à. Tất nhiên mình rất tin tưởng gia đình. Nhưng một người bạn là người mang lại cho ta sự tin tưởng vì họ muốn thế, chứ không vì họ có nghĩa vụ phải làm thế.
Bà Osa đưa cho mình một xấp giấy da vàng ố, một cái bút giống như được đẽo từ cành cây, và một bát nhỏ đựng mực đen. Bà ta bảo:
-Điều quan trọng là hãy viết tất cả những gì đang xảy ra cho cháu. Mỗi khi có dịp, hãy viết ra những ý nghĩ, cảm giác, và tả lại những gì nhìn thấy. Cứ coi như viết nhật ký vậy. -Tại sao? -Vì cháu sẽ gửi cho bạn cháu để giữ cho an toàn. Pendragon, ta không muốn nói dối cháu. Đây là một chuyến đi đầy nguy hiểm. Chẳng may nếu có gì xảy ra cho cháu, nhật ký này sẽ là hồ sơ độc nhất về những gì cháu đã làm. Chu cha, nghe nghiêm trọng quá! Cứ như bà đang yêu cầu mình viết chúc thư vậy. Một phần mình muốn từ chối, vì làm theo lời bà, mình cảm thấy như đang cùng tham gia công việc với họ. Không, chắc chắn là không có mình. Phần khác, mình thấy bà nói cũng có lý. Nếu chuyện gì xảy ra cho mình, sẽ chẳng ai biết sự thật. Mình không thích thế. Nếu phải chọn, mình muốn mọi người biết vì sao. Mình hỏi:
-Nhưng bằng cách nào gửi cho Mark được? -Trước hết, cháu cứ viết đi. Khi nào xong, ta sẽ cho biết. Đó là điểm đáng chú ý. Nếu bà ta gửi được những trang này cho bạn, cũng có nghĩa là bà ta biết sử dụng hướng ngược chiều của ống dẫn. Có lẽ đây là cơ hội mình tìm được đường về nhà. Nghĩ vậy, mình cầm bút và bắt tay làm việc. Mình ngồi gần lò sưởi, kê miếng ván lên đùi làm bàn. Mất một lúc lâu mình mới quen được với cây bút bằng que, vì nó đâu có giống một cây bút Bic trơn tru. Mình nhúng đầu nhọn vào bát mực đen, bôi lem nhem lên mặt giấy. Nhưng rồi mình cũng biết cách, viết cả câu mới phải chấm mực một lần.
Trước mặt mình, Loor cũng đang viết. Mình cảm thấy như hai đứa đang cùng làm bài tập ở nhà. Nhìn cô ta nhoay nhoáy viết, mình không khỏi tự hỏi cô ta viết gì về mình? Mình biết cô ta đã từng coi mình như loài cóc nhái thôi, nhưng vụ thoát chết khỏi bàn tay Saint Dane đã làm mình có giá hơn một chút. Thật ra thì ai cần cô ta nghĩ gì? Ngày mai, mình đâu còn ở đây nữa.
Mình đã qua một đêm như vậy đó. Viết một lát, mắt díp lại, rũ người trêm mấy tấm da thú, ngủ một lát, rồi thức dậy viết tiếp. Loor cũng vậy. Bà Osa luôn ra vào chòi. Bà vào, châm thêm củi vào lò sưởi, rồi lại quay ra. Mình tự hỏi suốt đêm bà ta có ngủ không? Viết tới đoạn cậu Press bị các tay hiệp sĩ của Kagan bắt và kéo đi, mình gục xuống ngủ ngon lành. Cho đến khi bà Osa nhẹ nhàng lay mình nói:
-Sáng rồi, Pendragon. Mình cố mở mắt. Trong chòi đã sáng, nhưng mình có thể nói là còn sớm, vì nắng chưa đổ bóng vào và còn tiếng chim đang hót. Nhìn quanh mình thấy lửa trong lò sưởi không còn và cả Loor cũng không còn ở đó nữa. Bà Osa nói:
-Đưa những trang viết cho ta. Mình ngồi dậy, thu nhặt những trang đã viết. Bà ta cầm lấy, cuốn lại và buộc chặt bằng một sợi dây da. Tới giữa lều, bà ngồi khoanh chân, rồi đặt một vật gì đó lên mặt đất. Đó là một cái nhẫn bạc cũ kỹ, thô kệch với một mặt đá màu xám. Mình thấy quanh mặt đá có khắc chữ, nhưng chẳng biết nghĩa là gì. Bà Osa ngửng lên để biết chắc là mình đang chăm chú nhìn, rồi chạm ngón tay vào mặt đá, hô:
-Trái Đất Thứ Hai. Những gì thấy sau đó làm mình tỉnh hẳn ngủ. Mặt đá xám bắt đầu sáng lên. Giống như ống dẫn khi đem mình tới đây. Ống dẫn cũng bằng đá xám như mặt nhẫn. Khi mình nói “ Denduron”, đá xám trong ống dẫn bắt đầu sáng lên, y như mặt nhẫn lúc này. Ánh sáng chói lòa lóe ra từ mặt nhẫn tưới lên khắp vách lều, hệt như ánh sáng trong ống dẫn. Và như trong ống dẫn, mình bắt đầu nghe thấy tiếng nhạc kỳ lạ.
Rồi cái nhẫn bắt đầu xoay vặn…và lớn dần lên. Vành nhẫn nới rộng cho tới khi bằng một cái đĩa trong môn chơi ném đĩa. Nhưng bên trong vòng nhẫn, nền đất bỗng thành một cái hố. Cứ như cái nhẫn vừa mở ra một miệng ống dẫn nho nhỏ đưa đến… đến đâu? Bà Osa cầm cuộn giấy da thả vào trong cái nhẫn. Cuộn giấy biến mất như thể rơi vào miệng hố trên nền đất. Lập tức nhẫn trở lại hình dạng bình thường và mọi sự chấm dứt. Không ánh sáng, không tiếng nhạc và không cả cái hố. Chỉ còn lại cái nhẫn. Bà Osa nhặt nhẫn lên, bỏ vào cái túi da nhỏ đeo trên cổ.
-Bạn Mark của cháu nhận được rồi. Bà nói và đứng dậy, quay đi. Không cắt nghĩa thêm lời nào nữa. mình nhảy theo:
-Kìa, bà không thể làm trò ảo thuật đó mà không cho cháu biết chuyện gì xảy ra chứ. -Ta đã cho cháu biết chuyện gì xảy ra rồi. Ta gửi nhật ký của cháu cho Mark Dimond. Bà định ra khỏi lều. Mình chặn trước mặt, hỏi:
-Nhưng bằng cách nào? Cái nhẫn đó là một ống dẫn xách tay sao? Rõ ràng là mình đang suy tính việc “tẩu thoát”. Bà Osa kiên nhẫn nói:
-Là một Lữ khách, còn nhiều thứ cháu cần phải biết, Pendragon. Ngay khi cháu đủ khả năng, nhẫn này sẽ thuộc về cháu, lúc đó cháu có thể tự gửi nhật ký cho Mark Dimond. Bây giờ cứ hãy tạm biết rằng công năng của nhẫn giống như công năng của ống dẫn. -Nhưng…làm sao nó tìm ra Mark được? Bà Osa thở dài như phát mệt vì những câu hỏi của mình:
-Ta đã cho Mark một cái nhẫn khác. -Hả? bà đã gặp Mark? Bà đã tới trái đất? Khi nào? Bằng cách nào? Bà có bảo nó là cháu ở đây không? Bà có gặp ba má cháu không? Bà có… Bà ta đặt tay lên miệng mình làm cho mình nín bặt. Nhẹ nhàng nhưng quả quyết, bà nói:
-Ta đã đến trái đất thứ hai và trao cho Mark cái nhẫn. Chỉ có vậy thôi. Ta không gặp ai khác. Đừng hỏi gì nữa. Bà Osa rút tay về, bước ra khỏi lều. Mình vội nói theo:
-Chỉ một câu nữa thôi. Bà quay lại, chờ nghe.
-Cái nhẫn này có thể hoạt động hai chiều không? Nghĩa là, nếu chúng ta có thể gửi đồ cho Mark, bạn ấy có thể gửi đồ cho chúng ta không? Bà Osa mỉm cười. Mình đã từng thấy kiểu cười này của má mỗi khi mình tưởng là khôn ngoan che giấu được má điều gì. Nụ cười đó nói: “ Ta biết rõ mi đang tính toán gì, láu cá ạ. Không gạt được ta đâu”. Và câu trả lời của bà Osa là:
-Nhẫn có thể chuyển những đồ vật nhỏ, nhưng chúng chỉ làm theo lệnh của Lữ khách thôi. Mark Dimond không thể gửi bất kỳ thứ gì cho cháu. Nào, bây giờ nếu cháu muốn tắm thì có một con sông cách làng chừng vài trăm mét đó. Bà bỏ đi, mình đứng lại đó với tâm hồn bay bổng. Khả năng của cái nhẫn vừa mở ra một thế giới mới. Có thể mình không cần phải lặn lội lên tận đỉnh núi làm gì. Có thể cái nhẫn sẽ to phình ra đủ cho mình nhảy vào cái hố. Và nếu mình là một Lữ khách thì cái nhẫn sẽ theo lệnh mình. Đúng vậy, lâu lắm rồi, lần đầu tiên mới lại có được cảm giác tự kiểm soát đời mình. Khi tới thời điểm nhận cái nhẫn của bà Osa, mình sẽ có ngay tấm vé “vọt” khỏi chốn này. Kế hoạch mới đó hơi bị hay. Dù sao cũng hay hơn là leo lên đỉnh núi và vượt qua mõm những con quái quig. Với tinh thần phấn đấu đó, mình ra khỏi lều, bắt đầu một ngày mới.
Ba mặt trời mới chỉ nhô lên khỏi chân trời. Hôm nay sẽ là một ngày quang đãng. Điều đầu tiên mình muốn làm là tìm con sông để tắm rửa. Mình chẳng phải là một đứa ham làm sạch lắm đâu, nhưng mấy tấm da thú mình mặc đâu phải là vải cô-tông, nó bốc mùi tới mức mình không biết mình hôi hay quần áo hôi nữa. Nhúng nước một cái cho thoải mái. Vậy là mình đi xuyên qua làng Milago để tìm dòng sông.
Làng cũng vừa thức giấc. Từ tất cả những căn lều, khói cuồn cuộn tuôn qua ống khói. Mấy người đàn bà tất tả ôm vác củi. Xa xa, mình thấy nông dân đang làm việc trên cánh đồng. Mình cũng thấy một hình ảnh khá buồn. Một nhóm đàn ông từ trong rừng đang tiến ra. Mình nhận ra họ là thợ mỏ, vì toàn thân họ lấm lem đất cát, giống như những người đã khiêng vác minh thạch trong buổi lễ Chuyển giao hôm qua. Những con người này đã làm việc suốt đêm sao? Nhưng rồi mình thấy một toán thợ mỏ khác đi ngược chiều với họ, vào rừng. Có lẽ họ thay ca. Nhóm ban ngày thay ca cho nhóm làm đêm.
Dù ảm đạm, cảnh tượng này cũng chưa đến mức làm mình thấy thê thảm, mà điều khiến mình thực sự bàng hoàng là không ai nói năng gì. Không một ai. Thậm chí không trao đổi một ánh mắt khi bước qua nhau. Ngày lại ngày, họ cứ làm công việc của mình, hoàn toàn không có chút giao tiếp giữa người với người. Sau những gì đã chứng kiến hôm qua, mình nhận ra những cong người này chỉ là tù nhân. Quân đội Kagan đã đánh cắp mọi thứ của họ, kể cả linh hồn họ. Nơi này không niềm vui, không hi vọng. Có thể họ không muốn kết bạn với bất kỳ ai, vì không bao giờ họ biết nạn nhân tiếp theo của Kagan là ai. Vì vậy họ sống khép kín trong cái thế giới riêng lẻ, đầy đọa của chính mình.
Mình cảm thấy kỳ cục khi phải thú thật là: đứng đó nhìn cuộc đời buồn tẻ của những con người này, mình đã khóc. Thường thường mình không phải là thằng mau nước mắt. À có, thỉnh thoảng mình có khóc chút chút khi thấy cảnh một con chó, hoặc một con vật nào đó bị chết trong phim. Nhưng chuyện này khác hẳn. Chuyện này là chuyện thật. Đứng giữa ngôi làng này, mình cảm thấy như một gánh nặng buồn thảm đè lên thân xác mình. Vấn đề là dù người ta gặp hoàn cảnh khó khăn đến thế nào, cuộc đời luôn luôn sẽ khá hơn. Hết mưa trời lại sáng. Cũng như mình. Ngay lúc này mình gặp biết bao điều khốn khó, mình vẫn nuôi một tia hy vọng về nhà. Nhưng với những con người này, họ không có đường thoát. Tương lai của họ thê lương như hiện tại. Đây là cuộc đời họ, và sự tuyệt vọng đó làm mình ứa nước mắt. Trong thoáng giây đó, mình có thể cảm nhận nỗi đau của họ.
Nhưng, Mark, bạn biết sao không? Cảm xúc đó không kéo dài. Hoàn cảnh của họ càng làm mình muốn rời khỏi nơi này ngay. Đúng vậy, mình thương xót họ, nhưng đó không phải là vấn đề của mình. Sự nhục nhằn này còn tiếp tục kéo dài, và mình chẳng có thể làm gì để thay đổi được. Ngay bây giờ mình phải lo cho bản thân. Vậy là mình lau nước mắt, cúi đầu tìm đường ra sông. Mới đi được mấy bước, có người nắm vai mình xoay lại.
-Mỹ tửu Crabble không? Lại là Figgis, gã nhỏ con kỳ cục đã có lần gạ bán cho mình cái áo. Hắn đưa lên một túi da có vẻ đầy chất lỏng. -Hàng quý hiếm, đảm bảo tuyệt ngon. Chỉ bốn quill thôi. -Không. Cám ơn. Mình đoán quill là tiền Denduron. Mình vừa quay đi, Figgis nhảy lên, chặn trước mặt mình. Lần này hắn đưa ra một cái túi thô sơ như được đan bằng rơm khô:
-Hai mươi quill. Dù có muốn, mình cũng đâu có quill nào mà mua. Mất thời gian quá! Mình cố vượt qua hắn, nhưng hắn lại chặn đầu, đề nghị:
-Khách mới, bớt cho, mười quill thôi. Biết mình không quan tâm, nhưng hắn cố phải bán bằng được một món nên vội vàng rút một trong mười cái nhẫn khỏi ngón tay.
-Hai quill. -Rất tiêc. Tôi không có quill nào hết. Thằng cha này dường như chỉ nghĩ đến tiền, nên mình nghĩ: nghe nói không có một xu dính túi, chắn hắn sẽ tha cho mình mà bỏ đi ngay. Nhưng không. Nhanh như chớp, hắn nắm cánh tay kéo mình sát hắn, làm mình không kịp phản ứng. Hắn thì thầm vào tai mình như đang báo một tin cực kỳ quan trọng.
-Tak là đường thoát. Chỉ có tak mới giải quyết được. Rellin cũng biết vậy. Nhớ đến tak là nhớ đến tớ nhé. Hơi thở hắn nóng hổi phà vào tai mình. Người hắn hôi như dê làm mình phát ói. Hắn buông mình ra, lần ngay vào dòng sinh hoạt của làng.
Kỳ cục! Tak là gì? Hắn nói về tak một cách sôi nổi, làm mình nghĩ đó phải là một thứ rất đặc biệt. Hình như hắn đem món hàng đó ra để dụ mình. Có lẽ là một món bất hợp pháp và hắn phải thận trọng khi chào bán.
Mình còn nhận ra một điều kỳ lạ nữa: Mình hiểu những lời hắn nói. Mới hôm qua, mình không hiểu một lời của hắn. Bây giờ mình nghe cứ như hắn nói tiếng Anh. Nhưng theo bà Osa, hắn không nói tiếng Anh. Hắn nói ngôn ngữ Denduron, vậy mà mình nghe như tiếng Anh. Tuy nhiên vẫn còn mấy từ như “ quill, tak, crabble”, mình đoán đó là những đặc sản Denduron không dịch sang tiếng Anh được. Nhưng dù hắn bán bất kỳ thứ gì, mình cũng không muốn mua. Vì vậy mình tiếp tục tìm đường ra sông.
Chưa bao giờ mình đi qua con đường nhỏ ngoằn ngoèo như rắn bò ra khỏi làng, ngược chiều với lối ra biển, nên mình đoán là đường tới sông. Cuốc bộ chừng trăm mét xuyên rừng, mình đã nghe thấy tiếng nước chảy ào ào. Đi thêm mấy mét là đã ra tới sông. Con đường nhỏ dẫn tới một bờ sông rộng chừng hai mươi mét. Mình quỳ gối, nhúng tay xuống nước. Ui da! Cứ như nhúng tay vào xô nước đá vậy. Mình tin chắc nước của dòng sông lạnh như cắt da này là do tuyết tan từ trên núi đổ xuống. Nhưng người mình toàn mùi da thú và khói bếp, vì vậy dù lạnh hay không lạnh, mình vẫn phải tắm. Hít một hơi thật sâu, mình vỗ nước lên mặt. Oa! Cứ như bị hàng ngàn mũi kim châm vào da, nhưng đã lắm. Vốc nước, súc miệng mà mình mong có được cái bàn chải đánh răng quá.
Đúng lúc đó mình nghe tiếng “rắc” của cành cây gãy. Có người quanh đây. Vì mình còn nghe thấy ai đó đang ư ứ một giai điệu ngọt ngào, chỉ cách chỗ mình vài mét. Gặp trường hợp bình thường khác, mình đã lẳng lặng rút lui. Nhưng có điều gì đó thôi thúc mình tìm hiểu. Nhớ mình đã tả về dân làng ở đây không? Không chút niềm vui. Chỉ có những công việc buồn thảm để được sống còn. Vì vậy nghe âm thanh vui vẻ này, mình muốn tìm hiểu kẻ đó là ai. Biết được một người Milago thực sự còn có thể ư ử hát sẽ làm mình cảm thấy những con người này vẫn còn nuôi chút hy vọng.
Nhớ có lần được vào một khu rừng mới bị cháy với ba mình. Chung quanh mình, nơi cỏ cây từng xanh tươi mơn mởn giờ chỉ còn toàn một màu đen và cháy xém trông thật thê lương. Thế rồi mình nhìn thấy, nhú ra từ dưới một thân cây đổ, một chiếc lá dương xỉ lẻ loi, xanh biếc. Trong cảnh hoang tàn đó, chiếc là này là bằng chứng một ngày kia rừng sẽ sống lại như xưa. Nghe âm điệu này phát ra từ trong rừng làm mình nhớ lại chiếc lá đơn lẻ đó và muốn được biết ai đang hát. Lách qua bụi rậm, mình tiến tới, gạt cành lá cuối cùng ngăn cách mình với người đang hát, và thấy…người đó không phải là một dân làng Milago.
Đó là Loor. Quay lưng lại mình, cô ta đang quỳ gối trên một tảng đá, giặt áo. Lúc đầu mình thất vọng. Nhưng hình ảnh này cũng khá thú vị. Như mình đã kể với bạn. Loor là một “ca” khó nuốt. Mình chẳng biết gì nhiều về lãnh địa xứ sở của mẹ con cô ấy. Nhưng không cần phải là một thiên tài cũng có thể nhận ra họ là những chiến binh. Bà Osa có cách cư xử rất điềm đạm. Bà làm mình nhớ đến những gã Đai Đen tự tin vào tài năng tác chiến của họ đến mức họ luôn là những kẻ hết sức hòa nhã lịch thiệp. Nhưng tất nhiên, nếu bạn ấm ớ với họ, họ sẽ đá bạn không ngóc đầu lên nổi. Loor, trái lại, không có được sự điềm đạm của mẹ. Dường như cô ta luôn sẵn sàng đá bạn lộn tùng phèo. Có thể do cô ta còn quá trẻ và chưa có được sự khôn ngoan sẽ đến cùng tuổi tác. Dù sao chuyện đó không thành vấn đề, mình chỉ biết, cô ta làm mình phát khiếp. Nhưng nhìn cô ta ngồi trên tảng đá, tóc bỏ xõa, thì thầm hát một âm điệu ngọt ngào, dường như Loor hoàn toàn là một con người khác. Có thể có một phần dịu dàng mà cô đã giấu dưới cái vỏ hùng hổ thường ngày chăng. Cô ta đang ngồi quay lưng lại, không hề biết là mình đang ở đó, mái tóc đen tuyệt đẹp xõa xuống lưng.
Mark, trước khi bạn nghĩ là mình âm thầm đứng sau bụi rậm, nhìn lên cô ta, bạn phải biết là mình bị kẹt. Nếu mình gây tiếng động, Loor sẽ quay phắt lại và thấy mình đang trợn mắt nhìn, chắc chắn cô ta vớ ngay vũ khí, phang cho mình một trận. Mình đâu thể trách cô ta được. Mình chỉ hy vọng cô ta giặt cho mau, đi dọc bờ sông ra con đường mòn, mà không biết có sự hiện diện của mình. Vì vậy, mình đứng bất động như tảng đá, cố gắng hết sức để trông giống một thân cây. Sau thời gian lâu lắc như một thế kỷ, Loor đứng dậy và bắt đầu bím tóc…đúng lúc đó mình nghe thấy một tiếng “rắc” nữa. Tiếng cành cây gãy cho mình biết có người đang tiến tới sau lưng. Tim đập thình thình, mình chắc chắn Loor cũng sẽ nghe thấy tiếng cành cây gãy đó, quay lại và bắt gặp mình đang đứng lù lù sau bụi cây như một thằng ngố. Mình cũng nghĩ kẻ nào đang tiến lại từ phía sau chắc cũng tưởng mình đang nhìn trộm cô ấy. Nhưng mình sợ, không dám bước ra. Bảo đảm là Loor sẽ túm lấy mình. Không phân cảnh nào trong kịch bản này hay ho cả.
Nhưng mình không ngờ còn một kịch bản khác tệ hơn nhiều.
-Tôi đang tìm cậu đây, Pendragon. Một giọng trầm trầm làm Loor kinh ngạc, quay phắt lại. Mình cũng quay lại. Và điều mình nhìn thấy làm hai đầu gối mình bủn rủn. Ngay sau mình là một trong những tên hiệp sĩ của Kagan. Đứng nghều nghệu vượt khỏi đầu mình, một tay hắn cầm cây giáo, tay kia cầm một cuộn dây. Nó vớ được mình rồi. Ngay lúc đó, mình tin chắc Saint Dane – hay Mallos, hay bất cứ thứ mắc dịch gì mà hắn tự xưng – đã sai gã này đi bắt mình, theo kiểu chúng đã lôi xềnh xệch cậu Press đi. Nhưng mình cũng biết một điều khác nữa: mình sẽ không để bị bắt một cách dễ dàng như thế đâu. Vậy là, trước khi gã hiệp sĩ kịp hành động, mình tự hành động trước. Quay đầu, mình chạy thục mạng ra sông.
Loor không có thời gian phản ứng và mình quyết định chớp nhoáng. Cô ấy sẽ chạy cùng mình. Vì Loor còn đang lom khom, nên mình phóng ngay vào “vật cản” lù lù trước mũi đó. Mình va mạnh vào Loor, cả hai đứa bay khỏi tảng đá, lọt xuống sông.
Lạnh không hả? Mark, bạn không thể biết thế nào là lạnh, nếu bạn chưa nhảy xuống một con sông đầy tuyết tan đâu. Lý do duy nhất làm con sông không đóng băng là vì nó chảy quá xiết. Nhưng sự thật là mình cóc cần. Nếu con sông này có thể đưa mình thoát khỏi tay hiệp sĩ kia, thì dù máu mình đông thành băng cũng được. Sau đó làm ấm lại mấy hồi.
Chúng mình rơi xuống sông, chân tay quờ quạng. Dòng nước băng băng cuốn hai đứa về cuối nguồn, xa khỏi gã hiệp sĩ. Không cách nào hắn bắt được tụi mình nữa. Ngó lại, mình thấy hắn đang lớ ngớ trên bờ, chẳng có vẻ gì là định tìm cách bắt lại hai đứa.
Mình không còn lo vụ gã hiệp sĩ nữa mà lo chuyện sống còn trên dòng sông. Mark, bạn biết đó, lần đầu nhảy xuống biển bạn giật mình vì lạnh, nhưng mau chóng thích nghi, còn ở đây thì không giống vậy đâu. Nước sông lạnh kinh khủng. Mình cảm thấy như toàn thân cóng lại. Nhưng mình phải cố vượt qua, vì tụi mình đang ở giữa dòng nước trắng cuồn cuộn như thác đổ. Lại còn có những tản đá nữa chứ. Có lần mình nghe nói, nếu bị cuốn vào một ghềnh nước như thế này, tốt nhất là thả xuôi hai chân xuống, cho đến khi gặp một vùng êm ả, lúc đó mới có thể bơi vào bờ. Nhưng Loor cứ bám riết lấy mình, làm hai tay mình không thể nào hoạt động nổi. không gỡ được cô ta ra, cả hai đứa sẽ cùng chết đuối. Mình gào lên:
-Chân tới trước. Ngửa người, thả nổi đi. Mình càng ráng xô cô ta ra, Loor càng bám chặt hơn. Rồi cô ấy nói bốn tiếng mà mình chẳng bao giờ ngờ lại thốt ra từ miệng một chiến binh dữ dằn như cô. Bốn tiếng tệ hại nhất trong hoàn cảnh này:
-Tôi không biết bơi! Ôi! Trời! Thảo nào cô ta cứ đeo lấy mình. Tệ thật! Dòng nước xoắn lấy hai đứa mà xoay mòng mòng như chong chóng, mỗi khi gặp chỗ hủm, đầu cả hai đứa lại chúi xuống. Và mỗi lẫn nhô được lên, cả hai phun nước phì phì. Nhưng không biết sự may mắn này kéo dài được bao lâu. Phải tìm ra cách, nếu không cả hai sẽ bị chết đuối, hoặc va đầu vào đá và rồi cũng…chết chìm. Mình nghĩ, có lẽ phải cùng nằm ngửa và nối vào nhau như hai toa tàu. Loor thả chân ra phía trước, còn mình nâng bên dưới cô ta, trong khi sử dụng hai tay như bánh lái. Mình la lên:
-Chân xuôi về cuối dòng, ngửa mặt, nằm lên tôi. Cô ta không nhúc nhích. Không thể. Không phải cô ta không muốn làm theo lời mình, mà vì cô ta đờ người ra vì…sợ. Mình không tưởng tượng nổi một con người không biết bơi trong hoàn cảnh này cảm thấy thế nào, nhưng chắc là khủng khiếp lắm. Với sức ghì của cô ta, mình không cách gì vùng ra được. Lại gặp một hủm nữa, và cả hai lại bị cuốn tuốt xuống nước. Hai đứa ngoi lên để thở và cùng…va mạnh vào một tảng đá. Mình chỉ cảm thấy vậy, vì chính cái lưng của Loor mới bị va chạm mạnh. Chắc bị toạt rách, bầm dập dữ lắm vì cô ta buông lỏng tay đang bám chặt lấy mình. Lập tức, mình lật ngửa Loor lên, bảo:
-Nắm lấy chân tôi. Cô ta làm theo. Mình cũng nằm ngửa, kẹp loor giữa hai chân. Giờ thì hai tay mình đã được tự do để bơi và giữ cho hai đứa đều đều nổi trên mặt nước. Ý tưởng nối toa xe lửa của mình đã thành công. Bây giờ chỉ còn lái tàu vượt qua ghềnh nước này. Mình bảo loor:
-Dùng chân đẩy đá, đúng cho chúng va vào tụi mình. Dù sợ, nhưng có chỗ dựa an toàn, Loor đã bình tĩnh lại. Trong khi mình liên tục bơi, cô ta đạp những tảng đá, đẩy hai đứa tránh xa chúng. Rồi lại gặp một húm nước nữa và lại bị chìm xuống. Cảm thấy Loor sắp vượt khỏi chân mình, mình vội kẹp chặt hai chân lại. Chỉ vài giây, bọn mình lại nhoi lên được mặt nước.
Rồi một ý nghĩ khiếp đảm chợt lóe lên trong đầu mình. Nếu ghềnh nước này đổ vào một cái thác thì sao? Chắc chắn là chết hết! Mình cố gạt bỏ ý nghĩ đó ra khỏi đầu, vì còn cách nào tránh được bây giờ.
Thêm mấy chỗ hủm, mấy lần va chạm vào đá, rồi… Thật phúc đức làm sao, dòng sông êm ả dần. Hai đứa đã vượt qua được ghềnh nước và không có thác nước nào ở phía trước. Nhưng chưa hẳn đã an toàn, vì Loor không biết bơi. Khóa huấn luyện sơ cấp cứu hộ của mình được áp dụng lúc này. Mình kéo cô ta lên cạnh mình. Loor mệt và trầy sát tới mức không còn đủ sức chống lại, vì vậy, phần gay go còn lại là dìu cô ấy theo. Không bao lâu sau tụi mình ra khỏi dòng nước băng giá và bò lên bờ. Hai đứa nằm trên đá sỏi, hoàn toàn kiệt sức, hoàn toàn bầm dập, nhưng…còn sống. Cũng may là lúc này ba mặt trời đều đã lên cao và sưởi ấm cho hai đứa mình.
Sau khi lấy lại được hơi thở, mình chống khủy tay, nhóm người, nhìn Loor. Cô ta nằm ngửa, vẫn còn thở nặng nề. Thú thật, hai đứa được an toàn, mình cũng hơi… hãnh diện. Mình đã không chỉ cứu một nữ chiến binh khó tính, cao to thoát khỏi tay một hiệp sĩ của Kagan, mà còn cứu mạng cô ta cả chục lần, vượt qua dòng sông nguy hiểm. Mình nóng lòng chờ cô ta thú nhận đã nghĩ lầm mình là một tên ấm ớ, vô dụng. Dĩ nhiên, mình đâu thể gợi ý để được tiếng khen. Phải để cô ta tự nói. Vì vậy mình chờ. Chờ và chờ mãi. Nhưng cô ta cứ im thin thít. Làm sao bây giờ? Mình chẳng mong gì cô ta nói “Ôi, Pendragon, người hùng của em”, chỉ đơn giản hai tiếng “Cám ơn” là đủ rồi. Nhưng cô ta cứ câm như hến. Mình đành lên tiếng trước:
-Cô không sao chứ? -Đừng hòng tôi cám ơn. Mình ngồi thẳng dậy, hét vào mặt cô ta:
-Cái gì? Tôi mới cứu cô khỏi chết đuối đó. -Nhưng nếu chúng ta không nhảy tỏm xuống sông, tôi đã không cần ai phải cứu. Cô ta nói cứ như kết tội mình vậy. Mình độp lại:
-Không xuống sông, thì đã bi gã hiệp sĩ của Kagan tấn công rồi. Cuối cùng, Loor cũng ngồi dậy, nhìn thẳng mình. Lúc đầu cô ta không nói gì, mà chỉ nhìn mình như nhìn một loài hạ đẳng. Sau cùng cô ta mới gằn từng tiếng:
-Thay vì núp sau bụi nhìn, mi bước ra nói chuyện với ta, thì mi đã được biết ta đang đợi hiệp sĩ đó. Hả? Cô ta nói gì vậy? Mình ngơ ngác hỏi:
-Cô đang chờ một gã hiệp sĩ của Kagan? Vì sao? -Vì anh ta là một lữ khách của Denduron và anh ta đến để cho ta biết tin về ông Press. Mi suýt làm cả hai ta bị chết để trốn chạy một người bạn quan trọng nhất của chúng ta tại lãnh địa này. Muốn ta phải nói gì với mi đây, Pendragon? Cám ơn ư?
|