Hoa Tư Dẫn
|
|
Trong cuộc chiến Khương – Trần, Trần vương Tô Hoành đích thân xuất chinh. Tôi đã đọc cố sự đó trong sách sử, trong đó nói, Trần quốc thượng võ, các đời Trần vương đều trưởng thành trên lưng ngựa, Tô Hoành cũng thế, từ nhỏ theo cha chinh chiến biên cương trận mạc, tác chiến vô cùng mau lẹ cơ mưu, thường đích thân đi tiên phong, dẫn một đội khinh kỵ tinh nhuệ thâm nhập vào quân doanh đối phương thăm dò tình hình, hoặc đánh chọc sườn, giúp quân chủ lực có cách tác chiến thích hợp. Vốn nghĩ có lẽ khi thân đã ở ngôi cao chàng sẽ không mạo hiểm tính mạng như vậy, nhưng qua trận Lịch Khâu, có thể thấy con người này cho dù đã trở thành quốc vương cũng không thay đổi phong cách tác chiến. Đêm trước khi xảy ra đại chiến, Tô Hoành vẫn mang hai mươi khinh kỵ lẻn vào trận địa Khương quân, vung kiếm đánh thẳng vào trận địa đối phương, sau đó lại vừa đánh vừa quay ra, đích thân cảm nhận thực lực địch quân. Phương thức thăm dò địch tình này đối với chàng không là gì, thời thiếu niên thường làm như thế, nghe nói mấy lần lọt vào hiểm cảnh đều dựa vào sự bình tĩnh mưu trí mà an toàn thoát hiểm, thực là một kỳ tài. Nhưng đêm đó, chàng mang hai mươi khinh kỵ luồn sâu vào quân doanh địch, lúc quay ra bất ngờ vấp phải mấy ngàn phục binh của đối phương mai phục trên đường. Khi thâm nhập vào quân doanh địch, đội khinh kỵ mang theo đã bị hao tổn, hơn nữa chiến mã cũng bị trúng tên, nếu không tìm ra diệu kế, rất khó hy vọng phá vây. Sử sách không thấy ghi chép những tình huống hiểm nguy trước có phục binh, sau có truy binh chàng từng gặp khi còn là thế tử. Trong rừng núi tối tăm, vòng vây mỗi lúc càng hẹp dần, đuốc đột nhiên sáng trưng, trống trận vang lừng, trống trận vốn là để cổ vũ sĩ khí, nhưng trong tình huống này lại có phần nực cười. Trên sườn núi, ngồi trên lưng chiến mã đỏ au, mũi phun hơi phì phì, thống lĩnh tướng quân Khương quốc đắc ý cười ha hả: “Không ngờ Trần vương nức tiếng mưu dũng hôm nay lại bỏ mạng ở đây, xem ra cái gọi là mưu dũng cũng chỉ đến thế, là mưu dũng của kẻ phàm phu mà thôi, các huynh đệ, các huynh đệ thấy có phải không?”. Lời vừa dứt, thủ cấp đã rơi bịch xuống đất lăn lông lốc. Một thanh kiếm dính máu cắm phập trên vách núi gần đó, thủ cấp đẫm máu của Khương tướng quân lăn mấy vòng, nụ cười đắc ý vẫn còn cứng đờ trên mặt. Một tình cảnh thật khó tưởng tượng, tôi nhìn mà đau thay cho ông ta, bất giác giơ tay sờ vào cổ mình, may cái đầu vẫn yên vị trên cổ. Nhưng nhát kiếm chém phăng thủ cấp Khương tướng đó không phải là của Tô Hoành hay thuộc hạ của Tô Hoành, trường kiếm của họ vẫn nắm trong tay, tôi tròn mắt quan sát cảnh tượng trong Hoa Tư mộng trước mắt, muốn tìm ra manh mối, đồng thời trong đầu cũng lóe lên ý nghĩ, liệu có phải một binh sĩ nào đó của phía Khương quân do ngưỡng mộ tài năng Tô Hoành mà ra tay cứu giúp. Cũng không biết tại sao chợt nghĩ đến Mộ Dung An. Khi cái tên đó lóe lên trong đầu như một tia chớp, trên không trung bỗng vang lên tiếng lục lạc tinh tang. Tôi nhìn thấy đôi mắt mở to của Tô Hoành, vừa rồi bị Khương tướng làm nhục như vậy vẫn không nổi sóng giờ đột nhiên thất sắc, nhìn thẳng về phía phát ra tiếng lục lạc, bàn tay cứng đờ nắm dây cương. Đối phương dường như cuối cùng đã hiểu ra chuyện gì, phó tướng trên lưng ngựa thét lên hạ lệnh khép vòng vây xông tới. Đúng lúc binh sĩ lăm lăm trường mâu trong tay dồn lên, trong ánh đuốc nhựa thông sáng rực, những đàn bướm đỏ không biết từ đâu vèo vèo bay ra Chính thời khắc đó, rừng cây cổ thụ chọc trời bừng bừng sinh khí xung quanh đột nhiên lá cành bắt đầu héo rũ, chớp mắt đã biến thành cảnh rừng chết xác xơ, gió lớn bật đất mà lên, ánh lửa đuốc sáng rực nửa ngọn núi chớp mắt tắt ngấm, gió như trường đao cắt vụn màn đêm, trên bầu trời tĩnh lặng lại hiện ra một vầng trăng tròn. Đàn bướm đỏ bay liệng trên không, toàn thân phát hồng quang rực rỡ, còn tiếng lục lạc cũng rõ dần, trong sắc đêm cuối cùng lộ ra bóng hoa phục màu đỏ của cô gái, mái tóc như dòng thác thả xuống tận gót chân, con bướm trên trán giương cánh như muốn bay, dáng mỹ miều băng lạnh, khóe miệng liên tục nhếch lên vẫn không thành nụ cười. Tôi không ngờ Tô Hoành lại bất chấp nguy hiểm thúc ngựa qua, trong tình huống hiểm nghèo đó, chỉ cần động đậy là trở thành mục tiêu cho trận mưa tên của đối phương. Tôi biết chàng chỉ muốn phóng đến bắt cô, chàng tưởng cô đã chết, nhưng cô lại xuất hiện trước mặt chàng. Chàng cơ hồ đã trấn tĩnh trở lại, ánh mắt dán chặt không rời khỏi cô, trận mưa tên bay vào chàng, chàng cũng chỉ bình tĩnh khua kiếm đỡ. Cô cúi xuống mắt lạnh lùng nhìn chàng, hai ống tay áo vừa phất, có tiếng “phù” trong gió, vạn vật xung quanh đột nhiên dừng lại như bị đóng băng, im phăng phắc, bao gồm cả vòng vây của binh sĩ Khương quốc vừa rồi còn nhốn nháo, bao gồm cả mũi tên bay đến, bao gồm cả Tô Hoành và con ngựa tung vó phi tới, thậm chí bao gồm cả những ngọn đuốc bốc khói. Tiếng lục lạc khẽ vang, cô đứng trên đầu ngựa nghểnh cao của chàng, cúi đầu nhìn ánh mắt đen cầu khẩn của chàng, khẽ cười một tiếng: “Cuối cùng chàng vẫn yêu ta, ta không thua ai, chỉ thua vương vị của chàng”. Giọng thanh lạnh vang trong không gian tĩnh mịch như ném viên sỏi xuống mặt hồ, sóng loang ra mấy vòng rồi tiêu tan. Tiếng lục lạc dưới chân lại tinh tang tinh tang, cô đã đạp gió tung người lên không, liếc nhìn trận địa bất động dưới chân, chầm chậm giơ bàn tay phải. Gió thổi tung mái tóc đen của cô, năm ngón tay mảnh dẻ kết thành hình nửa đóa hoa sen. Một giọt máu từ tâm sen nhỏ xuống, đàn bướm đỏ bay liệng trong màn đêm đột nhiên hóa thành những mũi kim dài sáng chói. Hoàn toàn không nhìn rõ những mũi kim đó bay thế nào, chỉ cảm thấy trên bầu trời đêm đột nhiên bùng phát một đám khói cực lớn, trong ánh sáng màu đỏ, binh sĩ Khương quốc đang đứng như trời trồng chớp mắt biến thành những bộ xương trắng chồng chất. Từ đống xương trắng nảy ra vô vàn ấu bướm đỏ. Sực nhớ tới những ghi chép trong sách sử, tôi sững sờ mãi mới hiểu ra, Mộ Dung An đã dùng bí thuật cổ trên quy mô lớn – ly hồn thuật. Bí thuật hoa mỹ và tàn khốc trong truyền thuyết đó khi thực thi phong ấn cả không gian và thời gian của một khu vực, bướm đỏ ký sinh trong bí thuật hóa thành kim trâm hút máu thịt người sống, những cánh bướm kia đã nhuốm máu đỏ, càng nhiều bướm đỏ bay ra, xương trắng càng chồng chất. Nhìn cảnh đó tôi thầm nghĩ Mộ Dung An khi sinh con đã hao tổn bao nhiêu tinh lực, lại thực thi ly hồn thuật trên trận địa lớn như vậy, làm sao trụ nổi? Sự thực cho thấy lo lắng của tôi có lý. Vầng trăng tròn dần dần hiện ra màu đỏ quái dị, gió thổi phồng ống tay áo, Mộ Dung An nhắm hai mắt, máu từ miệng không ngừng trào ra, giữa vầng trán hơi nhăn, con bướm đỏ yêu dị đó đột nhiên vẫy cánh bay mất, miệng cô thổ ra một ngụm máu tươi, không gian phong ấn đột nhiên mở ra, thân người loang máu hơi ngửa về sau, như sắp rơi xuống đống xương khô nhung nhúc ấu bướm trên chiến trường. Con chiến mã phía xa đột nhiên tung bờm hí vang, bóng áo đen của Tô Hoành rời lưng ngựa lao đến như một mũi kiếm. Cô rơi xuống trúng ngực chàng, chàng nằm trên đống xương ôm chặt cô. Những con bướm đỏ chết chóc bay quanh cô, sắc mặt cô trắng bệch, môi lại vẫn đỏ. Chàng run run giơ tay lau vết máu dính trên miệng cô: “Tại sao phải đến cứu ta, nàng nên giấu ta, sống bình yên ở một nơi ta không hay biết mới phải”. Cô cau mày: “Chàng là đệ tử của ta, là đồ đệ ta đích thân truyền dạy, cho dù chàng sai, khiến ta giận, ta có thể giận chàng, giáo huấn chàng, bắt chàng chịu khổ, nhưng những kẻ kia họ có là gì, đồ đệ chân truyền của ta sao có thể để bọn chúng hạ nhục?”. Chàng ôm cô, bàn tay đặt trên eo cô, từ từ ép cô vào người, trong đôi mắt thâm trầm chất chứa bao nỗi niềm, lát sau giọng khàn khàn, chàng thầm thì: “Sư phụ, hãy trở về bên đồ đệ”. Cô giơ tay, máu rỉ ra giữa các ngón tay, một con bướm theo vết máu bay đến, dừng lại giữa ngón tay cô, cô nhìn con bướm đó, môi cong cong khẽ nhếch thành nụ cười: “Trở về ư?”. Lại chầm chậm lắc đầu: “Không về được nữa, ta sắp chết”. Bờ vai rộng của chàng run lên, thất kinh nhìn cô, giọng nói lại mơ hồ: “Sao có thể, cho dù ta sai, nàng vẫn nên trở về giáo huấn ta, bắt ta chịu khổ”. Cô ngẩng đầu nhìn chàng một lát, đột nhiên mỉm cười: “Người của Trần vương thất nói ta thế nào, ta không bận lòng, chàng nghĩ gì ta cũng không bận lòng, chỉ là cảm thấy ta đã sống quá lâu trên đời, lâu đến mức cảm thấy vô vị, chàng khiến ta hiểu được chữ tình, nếm trải niềm hoan lạc của nó, cũng nếm trải nỗi đau của nó, một trải nghiệm viên mãn như vậy đối với một hồn ma không phải là chuyện kỳ thú sao? Giống như một bữa đại yến, sơn hào hải vị trời nam biển bắc đều có, vui vẻ thưởng thức hết các món, khách nhân nên giải tán”. Cô nói trơn tru, tinh thần vẫn tốt, nhưng sắc mặt đã dần trong suốt, bướm đỏ bay quanh càng nhiều, giống như chờ đợi thời khắc tống biệt cuối cùng. Chàng nắm chặt áo cô, giọng rên rỉ như mãnh thú bị thương: “Cho dù nàng không cần ta nữa, nhưng vẫn còn cốt nhục của chúng ta, Tô Dự rất thông minh, nàng còn phải nhìn nó lớn lên, nhìn nó kế thừa xã tắc đại Trần”. Chàng nghẹn ngào nhưng vẫn cố nói, dường như không cho cô cơ hội nói, không cho cô cơ hội chối từ, chỉ cần cô không từ chối, chàng sẽ giữ được cô. Cô chỉ mỉm cười nhìn chàng, nụ cười đó bao hàm ý nghĩa gì không ai biết. Một trận gió thổi qua, bóng chàng ôm cô đột nhiên cứng đờ, mãi sau, chàng loạng choạng đứng lên, trong tay chỉ còn bộ hoa phục màu đỏ. Hoa Tư mộng đột ngột dừng lại, tôi ngồi ngây người hồi lâu mãi không thể định thần, Mộ Dung An quả nhiên chết ở chiến trường Lịch Khâu, sử sách không ghi chép tỉ mỉ, thì ra cô chết như vậy. Con người đó, sống tự tại vô song, chết tư phong tuyệt đại, đó là Mộ Dung An, bí thuật sĩ cao minh nhất đông lục, là… thân mẫu của Tô Dự. Thì ra thân mẫu anh ta không phải là Mộ Chỉ. Kể hết câu chuyện đó, Quân sư phụ cau mày chìm trong suy tư, thì ra đối với ông đây không phải là hồi ức đẹp, tôi và Quân Vỹ nhìn hoa đèn ngây người không biết nói sao. Xem hoàn chỉnh quá khứ đó, tôi cảm thấy câu chuyện chẳng liên quan đến Quân sư phụ, không hiểu tại sao sư phụ lại thâm thù Trần vương, muốn giết ông ta. Nhưng trước mặt sư phụ, không dám nói ra với Quân Vỹ, chỉ giao lưu bằng ánh mắt không hé ra tư tưởng gì, một mình suy nghĩ hồi lâu, cảm thấy cách giải thích hợp lý nhất chỉ có thể là Quân sư phụ cũng có tình với Mộ Dung An, mới có thể thù hận Tô Hoành đã làm cô ấy chết như vậy. Nhưng lại nghĩ, Mộ Dung An không thể xúi quẩy đến thế, cả đời chỉ thu nạp hai đồ đệ, mà hai đồ đệ đó lại có tình cảm thầm kín không thể nói ra với mình như vậy. Tôi còn chưa nghĩ ra nguyên do, Quân sư phụ đã nói: “Xem xong Hoa Tư mộng này, có lẽ con đã biết ta muốn con làm gì rồi chứ?”. Tôi ôm đầu, buột miệng hỏi thử: “Sư phụ muốn con dệt mộng cho Trần hầu vương, giữ ông ta ở lại trong mộng?”. Quân sư phụ cười, nhưng mắt vẫn lạnh tanh: “Đúng, Tô Hoành năm xưa từ bỏ sư phụ ta lựa chọn vương vị, chuyện này mặc dù sư phụ không nói ra, nhưng sự đau khổ của sư phụ hồi đó ta đều nhìn thấy hết. Sư phụ vốn có thể tiến xa hơn nữa, nhưng lại bị Tô Hoành ngáng đường. Đáng hận bởi vì sư phụ đã từ bỏ tất cả vì ông ta, nhưng ông ta lại không biết trân trọng, nếu mọi chuyện quay trở lại, ta muốn xem sau bao nhiêu năm đau khổ Tô Hoành sẽ lựa chọn thế nào. Nếu tình của ông ta đối với sư phụ bằng ấy năm vẫn không thay đổi, bằng lòng ở lại trong Hoa Tư mộng, ở bên sư phụ, ta sẽ bỏ qua cho ông ta, coi như kết thúc niềm tiếc nuối cuối cùng của sư phụ trên trần thế. Nếu ông ta vẫn lưu luyến ngôi báu vinh hoa, ta đành phụ lòng sư phụ, nhất định khiến ông ta chết không có chỗ chôn”. Tôi băn khoăn nhìn Quân sư phụ, cảm thấy áp lực rất lớn. Nghe sư phụ nói vậy, nghĩa là ông muốn tôi dệt cho Tô Hoành một Hoa Tư mộng tái hiện quá khứ, để ông ta lựa chọn có lưu lại trong mộng hay không. Nhưng chuyện này không giống với tình hình của Tống Ngưng, trong tình cảnh hiện tại của Tô Hoành, bất luận ông ta lựa chọn thế nào kết cục vẫn là cái chết, chỉ có khác chủ động chết và bị động chết mà thôi. Tôi cắn môi suy nghĩ, khẽ nói: “Rõ ràng có thể có bao nhiêu cách phục thù, sư phụ lại nhất định muốn con thực thi Hoa Tư dẫn đối với Tô Hoành, thực ra sư phụ chỉ muốn biết, năm xưa Mộ Dung An hy sinh tính mạng cứu ông ta rút cục có đáng hay không, con nói đúng chứ?”. Ông không trả lời, những gì chất chứa trong mắt ông tôi khó lòng hiểu được. Tôi nghĩ, một sử đoạn nhạy cảm bị che đậy bao năm, bị thời gian hơn hai mươi năm xói mòn, chẳng còn gì nữa, chỉ khắc thù hận vào lòng người sống, vật vã muốn có một kết quả cuối cùng trước khi quên lãng, nhưng cùng với thời gian cả người và việc đã thành cát bụi, cái gọi là đáng hay không, cho dù có được câu trả lời cũng chẳng để làm gì. Tôi không biết vì sao Quân sư phụ quyết chí báo thù Trần vương mối thù không phải của mình, nhưng nhìn ánh mắt ông lúc này lại đột nhiên cảm thấy có lẽ ông chỉ muốn dùng Hoa Tư dẫn khảo vấn nhân tâm một lần mà thôi. Chú thích: (6) Nghĩa là: Trọn đời bình an.
|
Chương 2 Ngày mười hai tháng chín mừng thọ Tô Hoành. Nghe đồn Trần hầu vương bệnh nặng đã lâu, đầu tháng tám đã di giá tới tĩnh dưỡng ở An Lạc cung trên núi Trà, việc triều chính do thế tử Tô Dự lo liệu. Vì vậy ngày mừng thọ bá quan sẽ đến An Lạc cung chúc tụng. Bắt đầu từ ngày mồng mười, trên công khanh dưới cung nhân, quà mừng thọ đã tới tấp chuyển đến núi Trà, vết xe ngựa để lại hai rãnh sâu trên con đường lên núi, không biết bên trong đựng những gì. Thực ra tặng quà cho cấp trên cũng là một nghệ thuật, quà tặng phải mới mẻ để chứng tỏ tâm huyết nồng hậu của người tặng, nhưng lại không thể quá mới mẻ, chứng tỏ người tặng giữ đúng thân phận. Quân Vỹ do cơ duyên thế nào kiếm được danh mục lễ vật đó, kết quả chúng tôi thất vọng phát hiện hầu như toàn những thổ đặc sản quý hiếm của các vùng miền địa phương, quả nhiên vừa mới vừa không quá mới. Riêng thái thú quận Tề An hơi khác người, quà mừng thọ Trần vương là một mỹ nữ nhạc sư. Quân Vỹ cảm thán lắc đầu: “Tề An thái thú này quả là quá nôn nóng muốn hưởng hậu lộc, khác người thế này e là khiến khối người ghen tức”. Tôi ngẫm nghĩ nói: “Quận Tề An xưa nay nổi tiếng trong các nước chư hầu bởi nghệ thuật ca vũ phồn thịnh, nhạc sư chẳng phải chính là đặc sản của họ hay sao, ha ha”. Còn chưa cười xong đã thấy Quân sư phụ bước vào, mang đến ba chiếc mặt nạ da người, theo sư phụ giải thích, một cái là Tề An thái thú, một cái là người hầu Tề An thái thú, còn một cái chính là mỹ nữ nhạc sư, “đặc sản” mà tôi nói… Chúng tôi phải làm như vậy thể lọt vào An Lạc cung trên núi Trà, nhưng khi tôi thử đeo chiếc mặt nạ đó, hiển nhiên nhận ra bóng dáng Mộ Dung An hiện lên trong chiếc gương lớn viền gỗ chạm trổ hoa văn. Quân sư phụ nhìn rất lâu khuôn mặt tôi trong gương, thong thả nói: “Trong tiệc mừng thọ, con xuất hiện với khuôn mặt này, Tô Hoành nhất định sẽ tìm gặp riêng con để hỏi han, lúc này phải linh hoạt một chút, tìm cơ hội để ông ta uống mấy giọt máu của con, xem Hoa Tư điệu của ông ta”. Tôi cúi đầu nhìn mũi giày dưới chân mình: “Nhất định phải dùng hình dạng này sao, chắc chắn sẽ xảy ra bi kịch, trong các vở kịch thường như vậy, công tử hào hoa thời trẻ tình cờ gặp gỡ thục nữ yểu điệu, khi thục nữ chết, suốt đời công tử đi khắp chân trời góc bể tìm người giống nàng. Tô Hoành nhìn thấy con nhất định cho rằng đó là Mộ Dung An tái sinh, lúc đó con sẽ bị ông ta coi là thế thân của Mộ Dung An đưa vào hậu cung, có khi còn phong là phu nhân cũng nên…”. Quân sư phụ chống tay vuốt trán ngắt lời tôi, quay đầu nói với Quân Vỹ, “Con nói với A Phất xem, một người đàn ông bình thường hơn hai mươi năm sau khi người đàn bà của mình chết đi, lại nhìn thấy một cô gái trẻ rất giống người đó, ý nghĩ đầu tiên của ông ta là gì?”. Quân Vỹ gãi đầu, bộc lộ chính kiến với lối tư duy của một tiểu thuyết gia, nói vẻ đắn đo: “Ông trời đoái thương nỗi lưu luyến nhớ nhung bao năm đối với nàng, cho nàng tái sinh tiếp tục mối lương duyên?”. Quân sư phụ kinh ngạc nhìn hai chúng tôi, khóe miệng hơi run nói: “Theo ta, ý nghĩ đầu tiên của ông ta có lẽ là cô gái này liệu có phải con gái của mình…”. Vào An Lạc cung theo đúng kế hoạch. Quân sư phụ đeo mặt nạ đóng giả thái tú quận Tề An diễn xuất như thật, ngang nhiên tung hoành trước bao người quen của thái thú, không ai phát hiện có gì khác thường, đảm bảo an toàn tuyệt đối cho tôi và Quân Vỹ. Mấy ngày sau, gần đến giờ Ngọ, Trần vương mở đại yến khoản đãi quần thần ở bên dưới Tử Hoa lầu, văn võ bá quan theo thứ bậc phẩm hàm từng người tiến vào dâng tiến vạn thọ tửu. Cung nữ dẫn tôi đợi ở phía sau mấy cây hoa quế, là một địa điểm hoàn toàn không bị ai nhìn thấy. Từ xa truyền đến âm thanh hỗn tạp, lát sau, thị quan cuối cùng xướng đến tên tôi. Chỉ thấy một giọng kim the thé vang lên: “Tuyên, Tề An Mộ Dung Điệp”. Tôi ôm cây đàn đi trên hành lang dài lát đá xanh dưới bao nhiêu ánh mắt, bụng nghĩ, ngoài lần tuẫn tiết chết cùng Vệ quốc, cả đời chưa bao giờ được nhiều người chú ý như vậy. Ánh mắt bá quan với đủ loại hàm ý đan xen tựa như một tấm mạng nhện khổng lồ giăng trước mặt tôi, chắc chắn họ cảm thấy Mộ Dung An rất đẹp, giống như ý nghĩ của tôi khi lần đầu nhìn thấy cô. Đột nhiên có cảm giác dị thường, cảm giác thân này không phải là mình, còn từng bước chân di chuyển bên dưới giống như có tiếng lục lạc tinh tang vô hình. Khi tiến đến gần cầm đài, cuối cùng nhìn rõ người đàn ông tay chống cằm ngồi trên bảo tọa, đó chính là Tô Hoành hai mươi ba năm sau. Nước Trần vượng thủy sùng bái màu đen, ông ta toàn thân mặc huyền bào, tuổi tính ra đã ngoại tứ tuần, nhưng dung quang vẫn rất trẻ trung, sắc diện có xanh xao bệnh tật nhưng vẫn toát lên vẻ uy nghi của một quốc vương, sau bao thăng trầm dâu bể khí chất càng trầm tĩnh lạnh lùng, khác xa so với với chàng thiếu niên nằm rạp trên lưng ngựa lao vào khu rừng lá đỏ ngày xưa. Tôi có thể miêu tả chi tiết diện mạo ông ta là bởi vì tôi đứng đúng góc độ, ánh mắt ông ta dừng trên mặt tôi rất lâu, chưa bao giờ tôi thấy ánh mắt hàm ẩn phong phú như vậy, ưu sầu tựa lá vàng thê lương, mông lung tựa ánh nguyệt thâm trầm, lấp lánh tựa muôn tinh cầu chói lọi, nhưng tất cả cuối cùng lại trở về một màu đen tĩnh lặng. Tôi chơi hết khúc đàn trong ánh mắt đó, không sai một âm, cảm thấy mình thật trượng nghĩa, mặc dù đóng giả nhạc sư cũng không hay gì nhưng lại giúp quận Tề An một lần nữa quảng bá mạnh mẽ nghệ thuật ca vũ của họ… Tất cả đúng như Quân sư phụ nói, sau khi nhận lời chúc tụng của quần thần, Trần vương đã rời bàn tiệc rất sớm, lát sau tôi được một thái giám đưa lên Trường An lầu, là nơi Tô Hoành thường nghỉ ngơi. Gần tới giờ Mùi, mặt trời mùa thu nhợt nhạt, người đó đứng quay lưng về phía tôi, đang lau một thanh lợi kiếm dài. Thị quan bước ra, tiếng cánh cửa đóng sập sau lưng, cuối cùng ông ta quay người lại, kề lợi kiếm vào cổ tôi: “Ngươi là ai?”. Quân sư phụ nói tôi càng giống Mộ Dung An, Tô Hoành càng tin tôi là con gái ông ta, hơn nữa do công lực của viên giao châu, máu của tôi có thể tương hòa với các loại huyết dịch khác, như vậy càng tiện cắt máu nhận người thân, nếu tôi có thể dùng cách đó khiến Tô Hoành tin tưởng, chuyện để ông ta uống vài giọt máu của tôi, nhìn thấy Hoa Tư điệu của ông ta dễ như trở bàn tay. Mặc dù cảm thấy chuyện này có phần nguy hiểm, nhưng dưới ánh lợi kiếm lạnh lùng cơ hồ cũng không có cách nào tốt hơn. Tôi giơ tay đẩy kiếm ra, nghiêng đầu nhìn ông ta, đó là động tác Mộ Dung An thường làm, còn đôi mắt hơi nhướn lên, lúc đó luôn mê hồn nhất: “Theo lời sư phụ tôi dặn lại trước lúc qua đời, tôi có một sư huynh song sinh, tên là Tô Dự, mẫu thân tôi là Mộ Dung An ở khu rừng lá đỏ trên Phương Sơn, cha tôi là Trần vương Tô Hoành”. Trường kiếm trên vai run run khựng lại. Tất cả đều có thể xảy ra, chuyện này ông ta không có lý do không tin. Bởi nếu năm xưa Mộ Dung An sinh đôi thật, theo tính cách của cô, hoàn toàn có khả năng cô giữ lại nuôi dưỡng đứa con gái. Trong vẻ sững sờ của ông ta có vài phần chấn động, tôi tiến lại gần, khẽ nói: “Cha có muốn gặp mẹ một lần nữa không, cha”. Trường kiếm rơi choang xuống đất, ông ta ngoảnh mặt đi, sắc mặt trắng bệch lộ vẻ đau khổ, giọng khàn khàn: “Hai người rất giống nhau”. Hoa Tư điệu trầm trầm vang lên từ lầu Trường An, giai điệu nhuốm màu thiền, yên bình đến mức không nhìn ra bất kỳ tình cảm nào. Tôi chỉ không ngờ lại dễ dàng đưa Tô Hoành vào Hoa Tư mộng như vậy, bản thân cũng thấy khâm phục sự bình tĩnh cơ mưu của mình, Mộ Ngôn nói từ khi lấy chàng tôi trở nên thông minh hơn nhiều, coi như chàng nói đúng. Thực ra trong suốt hai mươi ba năm qua, có thể nhận ra Tô Hoành chưa bao giờ quên Mộ Dung An, nhưng nếu tất cả quay trở lại, trở lại lúc Văn hầu vương bức ép ông ta, liệu ông ta sau khi trải qua bao đau đớn có lựa chọn khác ngày xưa hay không, quả thực tôi không dám chắc. Trong cuộc đời mỗi người, có những nỗi đau khổ có thể tránh, có những nỗi đau khổ không thể tránh. Tôi không biết lòng Tô Hoành thế nào khi mất Mộ Dung An, hơn hai mươi năm không có cô, rốt cuộc hối hận nhiều hơn hay yêu nhiều hơn? Hay là ông ta không hề do dự để tôi dệt mộng cảnh này chỉ là muốn gặp lại cô một lần rồi đoạn tuyệt mãi mãi? Dải ánh sáng lờ mờ thông đến mộng cảnh xuất hiện trước mắt, tôi ôm cây đàn đang định bước vào luồng sáng đó, Quân sư phụ không biết từ đâu xuất hiện, khi tôi nhận ra đã thấy hai thầy trò rơi vào một khu rừng đỏ rực như lửa cháy, nhìn quanh khắp lượt, nếu nhớ không nhầm đây chính là khu rừng lá đỏ trên Phương Sơn. Ban ngày tràn trề sinh khí, ban đêm im lìm như mộ địa. Tôi đang định hỏi, Quân sư phụ đã lên tiếng trước: “Thật khéo, đúng vào ngày Văn hầu vương cho người đến đón Tô Hoành về kinh”. Ngừng một lát lại nói: “… là ngày sư phụ bị bỏ rơi”. Nhìn theo ánh mắt sư phụ, quả nhiên thấy bên cạnh đầm nước phía xa có hai người đàn ông ăn vận kiểu võ tướng đang đứng, tôi quay đầu hỏi: “Sư phụ theo con vào đây làm gì”. Khi hỏi thế đã biết câu trả lời, nhưng nghe sư phụ nói vẫn không khỏi giật mình, bởi vì trong lòng tôi Quân sư phụ đâu phải là người thích giết người, suốt đời ông chỉ nghiên cứu những độc dược độc cỡ uống vào trông giống hệt bị đầu độc chết, thực ra chỉ là chết giả. Một Quân sư phụ như vậy lúc này gương mặt lại hằn lên vẻ dữ tợn: “Ta đã nói nếu lần này ông ta vẫn lựa chọn vương vị, ta sẽ cho ông ta chết không có chỗ dung thân”. Hoa Tư mộng là dùng giấc mộng đẹp trói buộc những ai không tự vượt qua được chính mình, chìm đắm trong mộng đẹp, lần này lại chỉ là tái hiện quá khứ khiến Tô Hoành lựa chọn lần nữa, không có gì gọi là mộng đẹp, nếu Tô Hoành lựa chọn vương vị, mọi chuyện sẽ giống như trong hiện thực, tức là không đưa ông ta ra khỏi giấc mộng, ông ta sớm muộn cũng tỉnh lại, nếu muốn ông ta không tỉnh lại, chỉ cần giết ông ta trong mộng cảnh.
|
Tôi nghĩ, có thể trong ý nghĩ Quân sư phụ cảm thấy Tô Hoành sẽ vẫn lựa chọn vương vị, điều này cũng giống như ban đầu khi tôi tuẫn tiết cùng Vệ quốc, mặc dù sống lại nhờ viên giao châu vẫn có bao điều bất tiện, nhưng nếu thời gian quay lại, tôi vẫn sẽ nhảy từ trên tường thành Vệ quốc xuống. Ngồi trên một cây phong, chỗ Tô Hoành nhất định phải qua khi ra khỏi khu rừng lá đỏ, cây đàn để trên đầu gối, tay lơ đãng vuốt trên dây đàn vang lên những âm điệu ngẫu nhiên, tiếng vó ngựa phi gấp đến, dừng lại cách cây phong mười trượng. Chàng thiếu niên dáng thanh tú hơi ngẩng đầu nhìn tôi: “Sư phụ đợi ở đây là có gì sai bảo?”. Tôi nhìn kỹ ông ta, nhìn khuôn mặt đẹp vẫn còn non nớt trước mắt, hoàn toàn không nhận ra nỗi bi thống giày vò về sau, có lẽ người ta đều thế, từ bỏ điều gì đó để có được thứ tưởng là có giá trị hơn, sau khi mất đi mới trân trọng, tiếc nuối thì đã muộn. Tôi ôm cây đàn chống tay vào má, lặng lẽ ngắm nhìn ông ta, sau khi nhìn đủ, lắc đầu: “Tôi không phải là Mộ Dung An, nhưng Tô Hoành, công tử có muốn nghe tôi kể chuyện?”. Trong hiện thực gảy Hoa Tư điệu, cảnh trong giấc mộng sẽ hiện lên trong thế giới hiện thực, trái lại, trong giấc mộng gảy Hoa Tư điệu, cảnh trong hiện thực lại hiện ra trong mộng, gảy nốt cuối cùng, trong ánh mặt trời bị cành cây khẳng khiu cắt vụn, từng sự kiện trong hiện thực lại phản chiếu trên không trung. Trong ánh nến long phượng sáng rực, vị phu nhân vừa cùng ông ta bái đường lặng lẽ ngồi tựa mép giường, còn ông ta thẫn thờ ngồi bên song cửa, liên tục tự rót rượu uống cạn hết chén rượu này đến chén rượu khác. Đêm ông ta được phong thế tử, trong màn đêm khi những chùm pháo hoa chúc mừng tan hết, Quân sư phụ ôm Tô Dự mới đầy tháng xuất hiện trong thư phòng trước mặt ông ta: “Cô ấy chỉ là vong hồn, để sinh được con đã khổ cực khó khăn thế nào? Cô ấy đã chết, đây là cốt nhục của hai người, hãy chăm sóc cho tốt”. Trong cái đêm bị bao vây ở Lịch Khâu, con bướm đỏ trên trán cô vẫy cánh bay đi, nằm trong lòng ông ta, cô mỉm cười: “Trở về ư? Ta không trở về được nữa rồi”. Hoa Tư điệu đột nhiên dừng lại, dừng lại lúc Mộ Dung An chết. Tô Hoành ngồi trên lưng ngựa, cặp mày cau lại, đôi đồng tử đen đặc đáng sợ: “Đó là… là gì vậy ?”. Bàn tay nắm dây cương run run. Tôi thu lại cây đàn: “Ông cảm thấy đó là gì?”. Ông ta mím môi, đăm đăm nhìn tôi. Tôi đứng trên cao nhìn ông ta một lát, thở dài: “Ông cũng đoán ra rồi phải không, đó là sự thật, những chuyện đó xảy ra hơn hai mươi năm rồi, cảnh tượng mà ông tưởng là thực chẳng qua là giấc mộng người ta ủy thác tôi dệt cho ông, mặc dù Mộ Dung An đã chết hơn hai mươi năm, ông đối với cô ấy thế nào đã hoàn toàn vô nghĩa, nhưng người ủy thác tôi muốn biết, nếu tất cả quay trở lại lần nữa, ông sẽ lựa chọn thế nào…”. Trán ông ta toát mồ hôi: “Chuyện quá hoang đường…”. Tôi nghĩ một lát, nhẹ giọng: “Bây giờ tôi nói với ông, ông có thể lựa chọn lại, nếu vẫn lựa chọn vương vị thì lại trở về hiện thực tiếp tục cô đơn ở ngôi cao, nếu lựa chọn Mộ Dung An…”. Tôi dừng lại: “Ông sẽ không quay trở lại hiện thực được nữa, nhưng Mộ Dung An sẽ đợi ông ở ngôi lầu trúc nơi hai người đã chung sống hai năm, chờ để cùng ông sống trọn đời bình an”. Tôi đánh lừa ông ta, nếu ông ta lựa chọn vương vị, Quân sư phụ trốn sau cây phong nhất định sẽ một nhát kiếm lấy mạng ông ta. Nhưng lựa chọn bao giờ chả thế, sự chênh lệch giữa hai thứ so sánh càng lớn mới càng thử thách lòng người. Gió xuân tháng hai làm vướng tầm nhìn, trong chớp mắt con tuấn mã màu đen đã hí vang một tiếng tung vó lao về phía sâu trong rừng, bỏ lại vết móng ngựa hằn sâu trên cỏ. Tôi ngoái đầu cười với Quân sư phụ phía sau: “Sư phụ đoán xem, ông ta đi đâu?”. Vừa nói tay vừa gảy hai âm trên dây đàn, chớp mắt đã ở bên ngoài ngôi lầu trúc của Mộ Dung An. Tôi và sư phụ nhanh chóng tìm một chỗ nấp để quan sát bên trong. Trong phòng không thấy Tô Hoành, qua chấn song ô cửa sổ không đóng, nhìn thấy Mộ Dung An đang đứng lặng trước bức bình phong. Vốn tưởng cô đang ngắm nghía bức tranh phong thủy vẽ trên đó, nhưng đợi mãi không thấy cô nhúc nhích. Tôi không dám chắc hai âm tôi vừa gảy trên dây đàn khiến chúng tôi tới vào thời điểm nào, về lý có lẽ là sau một tuần trà, nếu Tô Hoành quay lại tìm Mộ Dung An thì chắc cũng sắp xuất hiện, lẽ nào ông ta phi ngựa phóng đi không phải đến tìm cô? Tôi nhìn Quân sư phụ vẻ thăm dò, nhưng sư phụ hoàn toàn không để ý đến tôi, ánh mắt đăm đăm hướng vào Mộ Dung An. Cửa phòng bị đẩy “xịch” một tiếng, ngón tay thanh mảnh của chàng thiếu niên dừng trên then cửa, tôi ôm ngực, cảm giác hòn đá tảng đè nặng đã rơi xuống đất, thân người Mộ Dung An khẽ động nhưng không quay lại: “Ta đã nói thế nào? Nếu đã ra đi thì đừng quay trở lại, mới chưa quá nửa ngày chàng đã quên?”. Trong phòng chợt lắng lại, những ngón tay của Tô Hoành cuối cùng ngừng run khi nhìn thấy cô, cách năm bước, giơ ra định nắm lấy cô, nhưng bị cô dửng dưng né tránh, tuy nhiên động tác của chàng vẫn nhanh hơn cô giống như sau lần đầu đấu kiếm thắng cô, chàng đều vừa vặn nhanh hơn cô nửa chiêu. Cô cuối cùng vẫn bị chàng nắm được tay, kéo giật cô vào lòng, giống như trước giờ chàng luôn biết khi nào dùng cách gì có thể khiến cô khuất phục. Cầu xin tha thứ là vô ích, chỉ có thể khiến cô khuất phục. Chàng nhắm mắt, xiết cô thật chặt: “Ta sẽ không bao giờ xa nàng nữa. Ta đã sai một lần, không thể sai lần nữa”. Tay cô che mắt, hơi ngửa đầu, nước mắt lọt qua kẽ ngón tay, lăn qua má, từng giọt từng giọt lặng lẽ rơi trên vai chàng. Cùng Quân sư phụ ra khỏi Hoa Tư mộng của Tô Hoành, mãi không thấy sư phụ nói gì, thực ra câu chuyện này coi như kết cục mỹ mãn, không biết sư phụ còn gì không hài lòng. Có lẽ là vì ông thấy tiếc cho Mộ Dung An, loanh quanh mãi cuối cùng Tô Hoành cũng hiểu ra điều ông ta mong muốn nhất là gì, nhưng Mộ Dung An lại không thể nhìn thấy. Tuy vậy ở đời làm gì có chuyện mọi sự thập toàn thập mỹ, thập toàn thập mỹ sẽ khiến người đời đố kỵ, thập toàn cửu mỹ là tốt lắm rồi. Ví như Mộ Ngôn, trước giờ tôi vẫn luôn lo lắng chàng tài năng như thế liệu có lam nhan bạc mệnh, may chàng lấy tôi, người mà chàng gọi là vợ đó chỉ là một người chết, nhân duyên không hoàn mỹ này có lẽ sẽ khiến thần linh cảm thấy công bằng mà tha cho chàng. Quân sư phụ đến không ai biết, đi không ai hay, không hổ là đồ đệ của Mộ Dung An. Trên giường, Tô Hoành sắc diện bình thường như ngủ say, tôi biết ông ta đã chết. Điều cần làm ngay là mau chóng rời khỏi lầu Trường An quay về An Lạc cung bởi vì muộn nhất sáng mai cung nhân sẽ phát hiện Trần vương đã chết, mới ở tuổi này chưa đến nỗi đột tử trong giấc ngủ trưa, bất luận thế nào tôi cũng là người bị nghi ngờ đầu tiên. Tô Hoành đương nhiên chết trong Hoa Tư mộng, nhưng tôi không cảm thấy mình là thích khách, chỉ thấy giống như vừa thực hiện một vụ giao dịch, chỉ là giúp người khác thỏa mãn nguyện vọng mà thôi. Trải qua bao vinh hoa thế tục, điều ông muốn nhất vẫn là cùng Mộ Dung An sống trọn đời bình an, mặc dù đã rời khỏi cõi trần, ông đã dùng tính mạng của mình đổi lấy mộng cảnh cô vẫn còn sống, ông vẫn được sống bên cô, quả rất đỗi công bằng. Đẩy cánh cửa lớn bên ngoài, một tiểu thái giám đứng hầu ngoài cửa ân cần cúi chào, tôi lấy tay ra hiệu giữ yên lặng, khẽ nói: “Bệ hạ khó khăn lắm mới ngủ được, công công nên chăm sóc cẩn thận, nhất định không được để ai quấy rầy sự yên tĩnh của bệ hạ, dây đàn của tôi bị đứt, không biết có chỗ nào sửa được, phải nhanh chóng sửa xong trước khi bệ hạ tỉnh lại, tấu hầu bệ hạ đoạn hai của khúc nhạc”. Tiểu thái giám không chút nghi ngờ, vội sai cung nữ dẫn tôi đi sửa dây đàn, còn mình lại hiên ngang đứng thủ bên ngoài tẩm cư của Tô Hoành. Ngoái lại nhìn lầu Trường An, những mái hiên cong rực rỡ tỏa ánh vàng dưới ánh mặt trời mùa thu, ngôi lầu cao tới tám chục trượng đổ một bóng thẫm màu khổng lồ trên mặt đất. Tô Hoành đã tìm được chốn trường an của ông ta, nhiệm vụ hành thích Trần vương đã hoàn thành, tôi phải nhanh chóng đến gặp Bách Lý Tấn đổi lại thân phận của mình, quay về Bối Trung chờ đợi Mộ Ngôn, tôi cũng tìm được chốn trường an của mình. Nghĩ đến đây lòng thấy vui vui. Trên đầu, ánh mặt trời mùa thu dịu dàng, bên tai là tiếng côn trùng rả rích, trước mặt là cây lá rậm rạp, dưới chân là cỏ mùa thu xanh um, trường an, trường an, thật là hai chữ tốt lành. Khi bên tai vang lên tiếng kiếm va vào nhau, tôi đang suy nghĩ làm thế nào thoát khỏi cô cung nữ một mực muốn dẫn tôi đi sửa dây đàn này, giật mình quay đầu, nhìn thấy hai mũi trường kiếm giao nhau chìa ra trước cánh cửa điện. Trong phút sững sờ, phát hiện trước mặt rất nhiều thị vệ áo đen không biết xuất hiện từ lúc nào tay cầm vũ khí xông tới, còn Quân sư phụ vừa rồi đã tưởng không biết đi đâu lại đứng chắn trước người tôi vung kiếm đỡ. Phản ứng đầu tiên là dùng tay đánh ngất cung nữ bên cạnh, phản ứng thứ hai là xem ra tình hình không đơn giản như tôi nghĩ, chuyện Trần vương chết có lẽ đã bại lộ. Kiếm thuật của Quân sư phụ được Mộ Dung An truyền dạy, mặc dù không nhanh bằng Tô Hoành nhưng thắng ở sự di chuyển linh hoạt mau lẹ, đường kiếm không bổ thẳng mà lựa chọn điểm đâm chính xác, tôi từng một lần chứng kiến sư phụ giao chiến, hầu như ra một chiêu là đánh ngã một người, nhưng lần này xem ra có chút khó khăn, toán thị vệ áo đen phối hợp quá hoàn hảo
|
Ánh kiếm loang loáng trước mặt, Quân sư phụ chỉ có thể chắn đằng trước bảo vệ tôi lùi từng bước, không lâu sau đã lùi đến bên rìa một vách núi. Tôi được biết không rõ đời Trần vương nào đã cho xây cất lầu Trường An ở trên sườn núi, mục đích là đưa vách núi vào hậu hoa viên trong cung, tạo nên thắng cảnh thiên thiên thơ mộng. Nhưng bây giờ Quân sư phụ chủ động đưa tôi đến chỗ này, rất có thể là để nếu không còn đường rút có thể từ đây nhảy xuống vực bên dưới, nhưng nhìn lối xuất chiêu của ông, cảm thấy nhiều khả năng là để tìm cho chúng tôi một chỗ chắn dễ thủ dễ công. Quả nhiên, tôi bị đẩy ra một mỏm đá hình quạt nhô ra, ba phía đều là khoảng không, phía những người áo đen có thể tấn công đã bị Quân sư phụ thủ giữ chặt chẽ, hơn nữa lại có những cành cây hoa chi chít không biết là hoa gì la đà che chắn, vả lại không có tôi bám đằng sau rõ ràng ông được rảnh chân rảnh tay hơn. Tình thế cơ hồ đã bắt đầu chuyển hướng có lợi cho chúng tôi, mấy thị vệ áo đen đã bị mất mạng dưới kiếm của Quân sư phụ, đột nhiên từ phía trước hơi chếch sang phải lóe ra một ánh kiếm thảm khốc. Tôi không hiểu kiếm pháp, nhưng trong tích tắc đó cũng có thể cảm thấy tốc độ khủng khiếp của nó, lực gió kèm theo mạnh đến nỗi làm rung những cành hoa la đà như tấm bình phong trước mặt, sượt qua vai sư phụ mang theo vệt máu, nhưng trong tích tắc lại chuyển hướng đâm thẳng vào tôi, đó là một thế kiếm ưu nhã cách gần trăm bước có thể xuyên thấu hoa rụng lá rơi, nhát kiếm quyết liệt đầy sức mạnh lại nhanh như ánh chớp. Tôi nhìn rõ người đó, thậm chí nhìn rõ miếng thạch ngọc màu lam khảm trên chuôi kiếm lóe ra muôn tinh quang lóng lánh. Mộ Ngôn. Trong tích tắc trường kiếm chưa đâm vào ngực tôi, tôi đã nghe thấy tiếng viên giao châu rạn nứt, giống như một nụ hoa đột nhiên giật mình bừng nở trong màn đêm tịch mịch. Một tay tôi nắm chặt thanh lợi kiếm cơ hồ đang định đâm sâu hơn, máu tuôn ra từ ngón tay, định kêu lên ngăn lại, nhưng sinh mệnh mất quá nhanh khiến tôi cơ hồ không có sức để mở miệng, ánh mặt trời mùa thu bàng bạc thảm đạm, cỏ dại lay động trong gió, người đó lạnh lùng nhìn tôi, ánh mắt sắc lạnh vô tình: “Dám cải trang thành thân mẫu ta để hành thích phụ vương ta, các ngươi tưởng Trần quốc không còn ai để các ngươi mặc sức tung hoành ư?”. Tôi cảm thấy mình như chiếc lá khô lay lắt đầu cành, chưa hiểu người đó nói gì, thầm nghĩ có lẽ đó là ảo giác, Quân sư phụ bị vây giữa đám thị vệ nhìn thấy vậy, thét lên: “A Phất”. Ánh mắt mờ dần, tôi thấy sắc mặt băng lạnh của Mộ Ngôn đột nhiên trắng bệch, toàn thân chàng cứng đờ, bàn tay cầm kiếm dừng lại trên không, mũi kiếm vẫn cắm trong ngực tôi, tôi lắp bắp: “Mộ… Ngôn…”. Tôi ho ra máu, ký ức như chiếc đèn kéo quân xoay không ngừng trước mặt, một tia chớp như rạch ngang mảng ký ức hỗn loạn, tôi bàng hoàng sực tỉnh. Chàng chính là Trần quốc thế tử, sao tôi không nhận ra. Tô Dự, Mộ Ngôn. Chàng lấy họ mẹ, chữ “dự” bỏ đi chữ “hưng” thành chữ ngôn, dáng tao nhã bẩm sinh của người xuất thân trong cung đình quý tộc, khí chất uy nghi tàng ẩn của người ở ngôi cao, Tô Dự huyền thoại dùng mười vạn thiết binh dẹp bằng Vệ quốc, khiến thiên hạ quay như chong chóng, sinh ra là để trở thành một bậc quân vương. Chàng chính là người trước mặt tôi, là phu quân tôi. Thảo nào đêm thành hôn chàng hỏi tôi Trần quốc diệt Vệ tôi có hận chàng, lại để mặc tôi tưởng chàng là một tướng quân. Thảo nào chàng chưa bao giờ hỏi xuất thân của tôi, thấy bao điều dị thường về cơ thể tôi cũng không hề ngạc nhiên, bởi vì chàng biết, chàng biết hết. Nhưng tại sao lại giấu tôi, tôi đã nói Vệ quốc diệt vong là do Vệ vương thất vô đạo, công chúa tuẫn tiết cùng xã tắc là bổn phận của người ở ngôi cao, Quân Phất bây giờ đã không còn là Diệp Trăn ngày xưa, mọi nỗ lực hiện tại chỉ là muốn sống cho riêng mình. Suy cho cùng là do chàng không tin tôi có thể thật sự nhìn nhận vấn đề như vậy, nếu sớm hiểu lòng tôi, nói thẳng với tôi chàng là Tô Dự, thì đâu đến nỗi xảy ra bi kịch này? Âu cũng là ý trời. Nhưng ý trời quả nhiên vô tình như dao. Khó nhọc giơ tay áo lau miệng, nhìn thấy bàn tay rất mực thanh tú của chàng giơ ra, những ngón tay run run lần sát đường viền trên trán bóc lớp mặt nạ của tôi. Một chuyện đơn giản như vậy, chàng làm rất lâu mới xong, khoảnh khắc lớp mặt nạ rơi ra, người chàng run bần bật, sắc mặt trắng như sáp. Cuối cùng tôi cũng thở ra được một hơi, nhưng không thể khống chế sinh mệnh trong viên giao châu mất dần từng tấc. Do sinh mệnh mong manh, không ít lần hình dung ra cảnh cùng chàng vĩnh biệt, không ngờ lại như thế này. Khi viên giao châu hoàn toàn vỡ nát, thân thể này chớp mắt sẽ trở thành khói bụi, vậy mà kỳ lạ là tôi không hề thấy sợ, thực ra tôi không hề nhát gan… Chỉ là không muốn để Mộ Ngôn nhìn thấy tôi biến mất trước mắt chàng, nhất định không được. Tôi vẫn có thể nặn ra nụ cười, ít nhất cũng khiến chàng nhớ nét mặt cuối cùng của tôi là tươi cười, không biết nên nói gì, có bao nhiêu điều muốn nói, nhưng tôi chỉ lắc đầu cười: “Em không biết ông ấy là phụ thân chàng, đừng hận em”. Khi người tôi bay xuống vực, còn nghe thấy tiếng chàng thất thanh gọi tên tôi, âm thanh bị gió cắt vụn, tôi âm thầm nghĩ không thể ngờ tất cả lại kết thúc nhanh như thế, cuối cùng nước mắt vẫn trào ra. Nước mắt còn chưa kịp rơi trên má, thắt lưng đã bị ai túm lấy, tiếng mũi kiếm cắm vào vách đá chói tai, tôi khó khăn há miệng: “Tại sao lại đuổi theo…”. Chàng khàn giọng: “Em nói sẽ chờ tôi ở Bối Trung”. Có lẽ là sự tỉnh táo và sức lực cuối cùng bùng phát, tôi nói năng trơn tru, nhắm mắt, không dám nhìn mặt chàng: “Không phải em muốn thanh minh cho mình, nhưng cha chàng ra đi rất thanh thản, ông tự nguyện để em lấy đi tính mạng, ông luôn thương nhớ thân mẫu chàng, ông tình nguyện ở lại trong thế giới có thân mẫu chàng, có lẽ chàng cho rằng, em nói dối để cứu vãn, nhưng…”. Chàng ngắt lời tôi: “Tôi tin, tôi tin. Ngoan nào, đừng nói nữa, chúng ta lên đã”. Tô Dự là người thông minh, khi tôi nhảy xuống vực có lẽ chàng hiểu, không phải tôi cố tình khiến chàng đau đớn, mà là không còn cách nào khác, nhưng vẫn cố nhảy xuống cứu tôi, chưa bao giờ tôi thấy chàng tự lừa dối mình như vậy. Tôi ôm cổ chàng, vùi đầu vào hõm vai chàng: “Nếu em chết, có phải chàng cũng không sống nổi, cũng muốn đi theo em?”. Cánh tay chàng nhẹ run, giọng run run: “Nếu thích tôi, em hãy sống tiếp, ở bên tôi suốt đời suốt kiếp”. Tôi cười, cố phấn chấn tinh thần: “Đừng lên vội, chàng cứ ôm em thêm lát nữa, quê hương em có một truyền thuyết kể rằng, người ta sau khi chết linh hồn vẫn còn, có một nơi gọi là cầu Nại Hà, các linh hồn quy tụ ở đó để chờ qua cầu, bên kia cầu là một nhân thế mới, họ gọi qua cầu Nại Hà là luân hồi”. Một tay chàng giữ thanh kiếm cắm vào vách núi, tay kia ôm tôi lơ lửng trên không, xiết chặt đến nỗi như ấn sâu vào xương cốt, tôi khẽ nhích ra, nhìn vào mắt chàng: “Nếu đúng là có một nơi như thế, em sẽ chờ chàng dưới chân cầu Nại Hà. Chàng sinh ra đã là quân vương của Trần quốc, chàng cần lập đại nghiệp, làm rạng danh xã tắc. Không nên bi lụy vì tình. Chúng ta hẹn nhau ba mươi năm, sau ba mươi năm chàng hãy đến tìm em, chúng ta cùng qua cầu Nại Hà, bắt đầu kiếp luân hồi, chưa biết chừng trong vạn kiếp luân hồi, chúng ta có thể làm vợ chồng ở một kiếp nào đó”. Ánh mắt chàng đau đớn, tôi muốn giơ tay xóa đi nỗi đau đớn ấy, môi chàng chạm vào tóc tôi: “Nhưng nếu không có tôi, em sợ thì sao? Nếu không muốn cùng tôi ở cõi trần, hãy để tôi đi cùng em, có được không?”. Chàng thản nhiên nói ra những lời đáng sợ đó, tôi sững sờ hồi lâu, lòng đột nhiên cay đắng: “Thực ra không có chàng, em cũng sẽ không sợ, em lớn rồi, chỉ là thường giả bộ làm nũng trước mặt chàng, khiến chàng cảm thấy không thể bỏ em mà thôi, chàng xem, có phải em xảo quyệt quá không…”. “Nhưng tôi sợ”. Chàng khẽ ngắt lời tôi: “Không có em tôi sẽ rất sợ”. Tôi giơ tay vuốt tóc chàng: “Vậy em không chờ chàng ở đó nữa, sau khi chết em vẫn đi theo chàng, đợi đúng hẹn ba mươi năm, chúng ta cùng qua cầu Nại Hà. Nhưng nếu chàng đến trước sẽ không tìm thấy em, chàng phải lập đại công, phải trở thành minh quân thánh chủ được người đời ca tụng, chàng mang đầy chiến tích quang vinh đi gặp em. Kiếp này em và chàng… kiếp này là không thể, kiếp sau em nhất định…”. Nhưng nhìn thấy sắc mặt chàng lại bất giác ngừng lời, rồi cố nở nụ cười: “Chàng giận gì kia, cười một cái cho em xem nào”. Lưỡi kiếm lại cắm vào vách núi, chạm vào đá tóe lửa, chàng ôm tôi nhảy lên phía trên một đoạn, giọng khàn đặc: “Không cần hứa hẹn đời sau kiếp sau, ta chỉ cần em đời này kiếp này”. Cổ họng nghẹn ứ, đời này kiếp này quả thật không thể. Tôi nắm chặt dao găm trong tay áo, nhân lúc chàng bung người bật lên, run run thích nhẹ vào cánh tay ôm tôi, cánh tay như xiềng xích đó bị đâm bất ngờ, lập tức buông ra. Khi cơ thể tôi rơi vun vút xuống dưới, tôi nghe thấy giọng mình lẫn trong gió: “Hãy nhớ, đừng quên em, nếu sau này thích cô gái khác, nhất định không được để em biết”. Nhưng không biết chàng có nghe thấy không. Cảnh cuối cùng nhìn thấy là vẻ mặt đau đớn không thể tưởng tượng của chàng, bóng áo lam nhập nhòe trong nước mắt. Dưới bầu trời thu, gió truyền đến giọng chàng, nhưng tôi không còn nghe thấy. Chết đi như vậy cũng tốt. Chỉ có điều nếu sớm biết sẽ phải chia ly nhanh như vậy, tôi nhất định sẽ luôn đi theo chàng, không để những ngày tháng cuối cùng chia xa nhiều như vậy. Nhưng nghĩ lại, ông trời cũng vẫn tốt với chúng tôi. Từ giữa đông năm ngoái đến mùa thu năm nay giống như một giấc mơ, trong giấc mơ đó, tôi được một báu vật, chàng luôn là báu vật của tôi. Đời người không coi trọng ngắn dài, có lúc một khắc cũng bằng một đời dài lâu, có lúc một đời chỉ là một khắc ngắn ngủi, tất cả đều là số mệnh, năm xưa có vị trưởng môn đã phán tôi là người bạc mệnh, lời của ông quả nhiên linh ứng, hôm nay tôi chết cũng nằm trong số mệnh mà thôi. Nhưng còn Mộ Ngôn, tôi nghĩ chàng nhất định sẽ dằn vặt đau buồn, có cách nào khiến chàng không buồn như vậy, nếu tôi không chết thì tốt quá.
|
Chương 3 Tháng mười là mùa thu hoạch, người ta đem ngũ cốc ủ rượu, những cánh đồng lúa bát ngát dưới chân núi Nhạn Hồi, xem ra Mộ Ngôn trị vì Vệ quốc rất tốt. Phải cảm ơn Quân sư phụ đã dạy tôi bí quyết làm mặt nạ da người, từ nước Trần đến nước Vệ, đi một mạch trở về núi Nhạn Hồi, hai mươi ngày vừa đi vừa nghỉ, ngoài cơ thể thỉnh thoảng hơi khó chịu, dọc đường đều thuận lợi. Hai mươi ngày trước, tôi tỉnh lại ở ven sông Khúc Diệp, đại khái là từ vách núi Trà lăn xuống vực rơi xuống dòng sông, trôi theo dòng nước chảy dạt đến sông Khúc Diệp, lúc vĩnh biệt Mộ Ngôn, tôi đã tưởng viên giao châu sẽ vỡ vụn trong tích tắc, nhưng khi tỉnh lại, đột nhiên lờ mờ nhìn thấy ảnh hình viên giao châu, viên minh châu lóng lánh như băng tuyết, một nửa đã vỡ, nửa kia đầy vết rạn. Tôi nghĩ đó chính là nguyên nhân tôi vẫn còn sống, vậy là ông trời cũng có đức hiếu sinh, nhưng hiếu sinh chưa triệt để, những vết rạn mỗi ngày một sâu thêm là mang đi một phần tính mạng của tôi. Theo đó, nhiều nhất tôi còn có thể gắng gượng ba, bốn tháng nữa. Tôi đã nghĩ có nên trở về tìm Mộ Ngôn, trên đời duy nhất có chàng khiến tôi không yên tâm, cảm thấy được nhìn chàng dù một lần cũng tốt. Nhưng lại nghĩ, cuối cùng mình vẫn không thoát khỏi đoản mệnh, cho chàng hy vọng rồi lại khiến chàng thất vọng thì quá tàn nhẫn, hơn nữa, nếu gặp lại chàng, tôi sẽ không chịu nổi hiện thực tôi chỉ còn sống ba, bốn tháng trên đời. Nghĩ đi nghĩ lại, quyết định ba tháng còn lại này sẽ trở về nơi gặp chàng lần đầu, có những hồi ức đó về chàng là đủ để tôi vui trong những ngày cuối cùng. Trên đường trở về núi Nhạn Hồi, đâu đâu cũng nghe thấy dân chúng bàn tán chuyện Trần vương qua đời, thế tử Tô Dự kế vị, ngày làm lễ đăng quang cũng là ngày phong vương hậu, nhưng ngự ở ngôi Trần vương hậu cao quý lại không phải là một phu nhân đoan trang mà là một linh vị bằng ngọc. Tôi nhớ đến lần trong chiếc sân nhỏ xung quanh nở đầy hoa thiên quế, chàng từng nhăn nhó nói với tôi: “Cô nương định nói là âm hôn? Nhưng Mộ gia chúng tôi không thể tuyệt hậu, đa tạ thịnh tình của cô nương”. Mộ Ngôn, bởi em không cam lòng, trước lúc vĩnh biệt đã dặn chàng như vậy, cho dù chết vẫn muốn độc chiếm chàng. Nhưng… nhưng em chỉ nhất thời nói vậy thôi, chàng không cần nghiêm chỉnh thực hiện. Nhưng nhất thời vẫn không thể kìm lòng, âm thầm rơi lệ. Núi Nhạn Hồi vẫn như xưa, tính ra thời gian tôi rời đi cũng không dài, nhưng hai năm qua quả thực đã xảy ra bao nhiêu chuyện. Góc mái cong của phủ đệ Thanh Ngôn tông ẩn hiện dưới bóng cổ thụ sum suê có rừng trúc bao quanh đã là nơi tôi không thể quay về. Sơn động sau núi vẫn bảo tồn hoàn hảo, bức họa khắc trên giường đá cũng chưa mờ. Tôi tạm thời ở lại trong động. Phong cảnh ở đây tôi đã chứng kiến suốt mười sáu năm. Mùa xuân gió nhẹ, mùa hè nắng chói, mùa thu mây phủ, mùa đông tuyết rơi, mặc dù vẫn cảnh trí quen thuộc, trong lòng vẫn thấy lưu luyến, muốn lúc nào cũng có thể nhìn thấy nó, nhưng thể lực yếu đi từng ngày như nhắc thời gian không còn bao nhiêu. Đêm thu lạnh, thỉnh thoảng có gió từ cửa động lùa vào, nằm trên giường đá không tiện, may phát hiện vách động có một cái hõm, phía trước có những dây leo rủ xuống, có thể tránh gió tránh rét. Tôi đã chuẩn bị cho sự kết thúc của mình như vậy, thầm nghĩ nếu có thể biến thành tro bụi bay đến nơi này cũng coi như có thủy có chung. Không ngờ đêm thứ bảy, sau khi Mộ Ngôn vừa lên ngôi đã quay lại nơi này, quả là một sự bất ngờ. Vào lúc trăng lặn, tôi đang co người trong hõm đá sau những chùm dây leo, nghe thấy bên ngoài cửa động có tiếng bước chân quen thuộc và ánh đuốc le lói, Mộ Ngôn ôm cây đàn thất huyền, cắm bó đuốc trong tay vào vách đá, mắt nhìn khắp động hồi lâu, quay người ngồi xuống chiếc bàn đá, để cây đàn bên cạnh. Ánh đuốc chiếu sáng khắp động, chàng vận áo chùng đen như thuở ban đầu. Vẫn dáng hào hoa như cái đêm giữa hạ đầy sao, nhưng đôi mắt đen u sầu, nụ cười trên miệng biến mất, nét mặt xanh xao bệnh tật. Lòng tôi đau nhói. Chàng dừng lại trên khoảnh đất trống giữa động, cau mày cúi đầu ngắm nghía, đó chính là chỗ tôi dùng cành cây vẽ bức tranh tặng chàng, bây giờ không còn nữa. Rất lâu sau, như nghĩ ra điều gì, chàng sải mấy bước đến trước giường đá. Tôi thấy chàng cúi xuống, ngón tay thon dài lần từng tấc bức họa khắc trên đó, lát sau thong thả nói: “Vẽ khá lắm, xem ra có tiến bộ, tôi vẫn nhớ bức họa em vẽ trên đất tặng tôi cũng không quá tồi. Kỳ thực tôi đã nhìn ra em định vẽ gì, chỉ là muốn đùa em một chút”. Nếu là lúc thường tôi nhất định trợn mắt hét lên với chàng: “Chàng thật quá đáng”. Nhưng hôm nay đành mím môi thật chặt, cố kiềm chế không để bật ra một tiếng, chàng thật quá đáng, luôn trêu chọc tôi, vậy mà lần nào tôi cũng tưởng thật, nếu như vẫn còn tương lai, tôi nhất định bắt đền chàng gấp mấy lần, nhưng tôi tuyệt nhiên không còn tương lai nữa. Có điều, bây giờ tôi vẫn sống, lại trốn chàng như thể Quân Phất không còn ở trên đời, như thế chẳng phải đang đùa giỡn chàng ư? Không hiểu nếu chàng biết sẽ giận thế nào, nhưng mong chàng mãi mãi không biết. Tiếng đàn dìu dặt vang lên trong động, vầng trăng đã lặn cơ hồ lại mọc, chàng cúi đầu gảy đàn, dáng phong lưu tự tại đó không ai có thể bắt chước. Thực ra nếu chàng không sinh ra đã là thế tử Trần quốc, có lẽ một ngày nào đó sẽ trở thành đệ nhất cầm sư trong thiên hạ, xem ra ở đời đúng là có được có mất. Trong ánh đuốc hồng một con bướm đỏ không biết từ đâu bay đến, đôi cánh dập dờn quấn quýt bên chàng, dường như cũng hiểu những thanh âm êm như nước chảy tuôn ra từ cây đàn. Tiếng đàn chợt ngừng, khuôn mặt đờ đẫn của chàng đột nhiên chấn động, hiện ra vẻ dịu dàng quen thuộc. Con bướm lặng lẽ đậu trên ngón tay chàng, giọng chàng run run: “A Phất, có phải em không?”. Tôi bịt chặt miệng, ngăn tiếng nức nở bật ra, nhưng sao có thể là tôi, Mộ Ngôn, chàng trước nay thông minh lý trí, sao lúc này lại có liên tưởng dị thường như vậy. Con bướm đậu một lát, vẫy đôi cánh mỏng định bay đi, chàng nhổm dậy định ngăn lại, trong lúc vội vàng chạm vào dây đàn, một chuỗi thanh âm ào ạt như nước trong nguồn phá đá trào ra, con bướm đỏ lại liệng một vòng rồi đậu xuống cây đàn. Một con bướm kỳ lạ, có lẽ trong huyết mạch Mộ Ngôn cũng di truyền tố chất dụ bướm của Mộ Dung An, ngón tay chàng nhẹ nhàng gảy dây tơ, giọng lặng trầm đau đớn, khẽ nói: “Em muốn nghe ta đàn? Vậy em muốn nghe khúc nào?”. Bướm không trả lời, tôi muốn trả lời nhưng không thể. Chàng đột nhiên mỉm cười, nụ cười thấm buồn của chàng mê hồn hơn bất cứ lúc nào, đau như dao cắt hơn bất cứ lúc nào: “Vậy, tôi sẽ đánh tất cả những khúc nhạc tôi biết cho em nghe, được không?”. Đuốc cháy gần hết, bên ngoài trời đã rạng, rồi mặt trời lên, mặt trời lặn, tàn quang cuối cùng ánh lên tầng không đỏ như sắc máu. Quả nhiên chàng gảy hết những khúc nhạc đã biết, chẵn một đêm, chẵn một ngày, thanh âm như nước chảy không ngừng. Tôi náu trong hốc động, lòng quặn đau nhìn ngón tay chàng rớm máu, chỉ biết bịt miệng thật chặt, ngăn tiếng nấc. Nỗi đau âm ỉ dường như dồn cả lại trong một ngày một đêm này, tôi có cảm giác mình đã chịu hết nỗi thống khổ chia ly của cả ba tháng cuối cùng trong đời. Trong cơn đau giằng xé, tôi bất giác muốn trách ông trời, tại sao trong tháng cuối cùng không cho tôi thanh thản, để tôi chứng kiến chàng đau đớn như vậy. Nhưng cùng với nỗi đau, một niềm hạnh phúc bi thương cũng âm thầm lan tỏa trong tôi. Nếu không có Mộ Nghi can ngăn, không biết chàng sẽ còn gảy đến bao giờ, mặc dù từ trước tôi luôn mơ ước như vậy, mơ được chàng gảy cho nghe tất cả những nhạc khúc chàng biết, nhưng khi đêm đến, nghe thấy tiếng đàn như nước nguồn không dứt đó, nhìn những dây tơ dính máu dưới tay chàng, lòng lại âm thầm day dứt, sao chàng biết quá nhiều nhạc khúc như vậy. Thanh âm vừa dừng, con bướm đỏ đậu trên thân đàn chẵn một ngày đêm giống như được tạc trên đó đột nhiên giật mình, vỗ cánh liệng một vòng rồi bay thẳng ra ngoài cửa động, mặc cho tiếng đàn lại vang lên như níu kéo. Mộ Ngôn vội đứng lên đuổi bắt, bị Mộ Nghi ngăn lại, trong động chỉ có tiếng nói nghẹn ngào của cô: “Nếu đó đúng là tẩu tẩu, tẩu ấy sẽ không bỏ ca ca một mình bay đi, nhưng cho dù đó là tẩu tẩu, lẽ nào ca ca định sống suốt đời với một con bướm?”. Con bướm đỏ đã bay xa, mất hút trong ánh trăng mờ, Mộ Ngôn quay lưng lại, nhìn không rõ sắc mặt, chàng không đuổi theo nữa, cũng không nói gì. Có lẽ cuối cùng chàng tỉnh táo trở lại, biết đó không phải là tôi. Mộ Nghi nói đúng, nếu là tôi, tôi sẽ không bỏ chàng một mình, tôi không nỡ. Đuốc lại được đốt lên, bóng chàng đổ dài in lên vách đá, giơ tay là có thể chạm vào, tôi định thử làm vậy, cuối cùng lại thôi. Trong không khí trầm mặc dài lâu, Mộ Nghi khẽ nói: “Ca ca, tẩu tẩu là người thế nào?”. Trong động chỉ có tiếng đuốc cháy xèo xèo, giọng chàng trầm trầm: “Rất hay làm nũng, hay giận hờn, hay khóc”. Mộ Nghi ngập ngừng, “Một tiểu thư như thế trong thiên hạ đâu chẳng có, huynh… huynh hà tất…”. Chàng quay người: “Đó là lúc có ta ở bên…”. Chàng cúi xuống lầm lũi bỏ cây đàn vào bao: “… những khi không có ta, nàng kiên cường hơn bất cứ ai”.
|