Họa Quốc Tập 1
|
|
Hồi thứ mười một : Hồng trần náo nhiệt
“Chủ nhân! Vương phủ bị bao vây rồi, bảy nghìn thiết giáp quân đã bị diệt sạch không còn một mống!”. “Chủ nhân, Phong Nhiêu hầu và Cấm quân thống lĩnh Vương Ngũ đều phản bội rồi, bây giờ đang chĩa giáo về phía chúng ta!”. “Chủ nhân, thám tử chúng ta phái đi đều bị giết sạch rồi, Tố kỳ quân chặt đầu họ treo ngoài doanh trại thị uy, chúng ta phải làm sao?”. “Chủ nhân, trốn đi!”. “Chủ nhân, trốn đi!”. “Chủ nhân…”. Di Phi cảm thấy mình như đang nằm mơ, vì tầm nhìn trở nên mơ hồ, những gương mặt của thuộc hạ đều chỉ còn lại những đường viền mơ mơ hồ hồ, khuôn miệng họ đóng đóng mở mở, mỗi chữ phát ra đều rất rõ ràng, nhưng không có cách nào hiểu được họ nói gì. Gã im lặng ngồi trên thuyền hoa. Đây là nơi gã thích nhất – gã không thích đất liền, gã thích nước. Khi còn nhỏ gã cảm thấy rất lạ lùng, tại sao nước nhẹ như vậy lại có thể đẩy được gỗ nổi lên, còn con người rơi xuống nước vốn sẽ bị chìm xuống, nhưng có người lại biết bơi… Gã bị hấp dẫn bởi những sự vật thần kỳ của thế giới tự nhiên, nghiên cứu đến quên ăn quên ngủ, muốn tìm cách hiểu rõ. Mẫu thân của gã là một phi tử bình thường, hoàng đế thi thoảng qua đêm ở chỗ bà, không đặc biệt sủng ái, nhưng cũng không quá lạnh nhạt. Phụ hoàng thấy gã nhìn hồ nước đến ngẩn người, thấy rất không vui. Mỗi lần như thế, mẫu thân liền khuyên gã luyện võ. Mẫu thân nói: “Nếu con luyện võ giỏi, phụ hoàng con sẽ thích con”. Thế nhưng, tại sao gã phải cần nam nhân trong mắt chỉ có tranh đoạt, giết chóc đó ưa thích? Cùng là nhìn một con chim, gã sẽ quan tâm tại sao con chim đó lại có thể bay, mà nam nhân đó lại quan tâm làm sao có thể dùng đao giết chết con chim đó một cách nhanh nhất. Căn bản không phải là người cùng một thế giới, không có điểm chung, cũng sẽ không có gì luyến tiếc… Thế nên, gã đắm chìm trong thế giới của mình, sống rất đơn giản, cũng rất vui vẻ. Mẫu thân rất thương gã, tuy cũng từng hy vọng gã chịu khó luyện võ, giành được sự yêu mến của hoàng đế, nhưng chung quy vẫn không cưỡng ép gã. Bà xuất thân thương gia, nhà mẹ đẻ không có tư cách vào cung thăm nom, chỉ có thể gửi chút đồ vào dịp Tết mỗi năm, có lúc là thạch lựu của Giang Bắc, có lúc là bánh quả hồng của Tây Đảo, bà rất thích những đồ ăn vặt này, nhưng lại sợ bị người khác chê cười, lần nào cũng ăn một cách lén lút. Nhờ mẫu thân, gã bắt đầu thích những đồ ăn vặt địa phương đủ mùi đủ vị đó, mà thứ gã thích nhất trong số đó chính là tranh đường. Bởi vì tranh đường chỉ có thể gửi vào cung vào mùa đông, nếu để lâu một chút sẽ bị cứng hoặc chảy ra. Cho nên, mỗi lần chỉ cần mở tay nải ra thấy bên trong có tranh đường, việc đầu tiên gã và mẫu thân làm là trốn trong một căn phòng nhỏ, tránh khỏi tầm nhìn của người khác, chỉ có hai mẹ con chia nhau một miếng tranh đường… Những tháng ngày ấy đối với một đứa trẻ mà nói hiển nhiên là rất vui vẻ, rất vui vẻ… Cho đến một ngày… Ngày đó, quân Trình thất bại ê chề rút từ biên cương Yên quốc về đến đế đô, phụ hoàng vì thế mà nổi giận lôi đình, mà đêm đó, ngài vô tình đi ngang qua nơi ở của mẫu thân, nghe thấy mẫu thân đang hát. Thực ra mẫu thân luôn là một người biết thích nghi với hoàn cảnh, những ngày hoàng đế không đến lâm hạnh, bà thường thêu hoa, hát ca, nghe nói năm đó phụ hoàng vì nghe thấy bà hát trên phố, cho nên mới chọn bà vào cung. Hát có lẽ cũng không sai, sai ở chỗ bà hát quá vui vẻ mà ca từ lại là: “Chim yến[1] phương nam hỡi, khi quay về mi có mang tin tức của chàng chăng?”. [1] Chim Yến trùng với chữ Yên trong Yên quốc. Chữ燕 (yan) có hai âm đọc, đọc là Yến nghĩa là chim én, đọc là Yên chỉ tên đất, tên nước. Phụ hoàng đang giận dữ vì thua trận, lại thêm nghe thấy chữ “Yên”, lập tức không nén được giận xông vào, rút cây roi bên hông ra đánh mẫu thân. Mẫu thân kêu lên thất thanh, khiến gã đang ngồi khắc con thuyền nhỏ trong gian phòng sát vách giật mình, vội vã mở cửa ra, liền nhìn thấy cảnh phụ hoàng đang dùng roi điên cuồng đánh mẫu thân. Mẫu thân lăn lộn không ngừng dưới mặt đất, rên rỉ đau đớn, nhưng không dám cầu xin. Gã bị cảnh tượng ấy làm cho sợ hãi, mãi một lúc sau mới phản ứng lại là nên ngăn cản, thế nên gã nhào tới muốn ngăn làn roi của phụ hoàng lại, nhưng chiếc roi đó lại vút qua đôi tay gã, quất mạnh vào lưng gã. Sức mạnh, tốc độ và cảm giác đau đớn đó đến bây giờ cơ thể gã vẫn còn nhớ như in. Gã bị đánh ngã lăn ra đất, va mạnh vào người mẫu thân. Phụ hoàng quay đầu nhìn thấy căn phòng chất đầy gỗ, càng giận dữ hơn: “Khắc khắc khắc, ngươi nhìn xem ngươi đã sinh ra cái giống quỷ gì, ngoài ngây người chỉ biết khắc gỗ, vô dụng hết chỗ nói, đứa nào cũng thế! Nếu ta có một đứa con giỏi giang, hôm nay đâu đến nỗi thất bại thế này!”. Phụ hoàng giận dữ đùng đùng bước vào căn phòng đó, châm lửa đốt. Ánh lửa bốc cao rừng rực, phụ hoàng phất tay áo bỏ đi. Gã sững sờ nhìn ánh lửa tuyệt đẹp nhảy múa, nhìn những khúc gỗ bị cắn xé vô tình trong ánh lửa, cảm thấy cả thế giới của mình cũng bị thiêu đốt từng chút từng chút một. Thế nhưng, điều tồi tệ hơn là tiếng rên rỉ của mẫu thân trong lòng gã đã im bặt. Gã đờ đẫn cúi đầu, nhìn thấy một nữ tử yếu đuối không còn hơi thở và nửa miếng tranh đường rơi trên mặt đất, đó là thân một con phượng hoàng, đầu phượng hoàng đã bị vỡ nát, đôi cánh nhuốm máu. Hai cảnh ấy đối chọi với nhau, khiến gã động phách kinh tâm… Di Phi nhớ đến đây, mệt mỏi nhắm mắt lại. Đó là chuyện xảy ra khi gã lên chín, bao nhiêu năm đã trôi qua, chưa có một ngày nào quên. Từ đó, gã thường xuyên mơ một giấc mơ, mơ thấy mẫu thân đang bay trên mặt nước, gã ở trên bờ gọi bà, nhưng bà lắc đầu không chịu lại gần. Bà nói bà rất sợ đất liền, vì mặt đất vừa lạnh vừa cứng, khi roi quất xuống, thậm chí bà không có nơi nào để tránh. Nhưng nước thì khác, nếu như có roi đánh bà nữa, bà có thể lặn xuống dưới nước, như thế roi không thể đánh vào bà được. Hết lần này đến lần khác gã mơ thấy bà, hết lần này đến lần khác đau đớn cầu xin, lại hết lần này đến lần khác bị chối từ. Giấc mơ đó trở đi trở lại, gã nghĩ chắc chắn gã đã bị nguyền rủa, bởi vì gã chỉ mải chìm đắm trong thế giới của mình, cho nên mới để mẫu thân thất vọng và đau lòng đến thế. Năm mười tám tuổi, theo tổ huấn, gã có thể dọn ra khỏi cung, thế là gã chọn một mảnh đất ven hồ có một cây cổ thụ ngàn năm. Gã xây nhà trên cây, neo thuyền dưới nước, ra vào đều dùng ngựa xe, cố gắng hết sức không để hai chân của mình chạm xuống đất. “Chủ nhân! Tiếp theo phải làm thế nào? Mau quyết định đi!”. “Chủ nhân…”. “Chủ nhân…”. Những tiếng kêu sốt ruột đó vẫn không ngừng vang lên. Di Phi bỗng nhếch khóe miệng, khẽ cười một tiếng: “Giấc mộng lớn này… cuối cùng cũng tỉnh rồi.” “Chủ nhân, người nói gì vậy”. Sơn Thủy, Tùng Trúc, Cầm Tửu đều vây quanh gã. Ánh mắt gã chầm chậm lướt qua gương mặt bọn họ, ba người này là tùy tùng của gã, là bảo tiêu của gã, cũng là bạn thân của gã. Chỉ có họ mới biết đêm đêm gã đều bị ác mộng vây khốn, biết nguyên nhân gã miệt mài luyện võ, càng biết được vì cái gì mà gã trăm mưu ngàn kế muốn làm hoàng đế. Nếu như năm đó gã chịu luyện võ, có lẽ sẽ ngăn được đòn roi của phụ hoàng và mẫu thân cũng không chết. Thứ gã ghét nhất chính là đất liền, vậy thì, biến toàn bộ đất liền thành của mình, nếu là của mình rồi, khi nằm mộng, gã có thể giơ hai tay ra, nói với mẫu thân: “Mẹ, mẹ có thể lên bờ rồi. Tất cả đất liền đều là của con, tất cả mọi người đều nghe theo mệnh lệnh của con, tất cả mọi người đều không đánh lại con, không còn roi có thể đánh mẹ, mẹ cũng không cần trốn trong phòng tối ăn đồ nữa, mẹ có thể quay về rồi”. Ánh mắt Di Phi tối dần, chợt lóe sáng, rồi tất cả biến thành tịch liêu. Con xin lỗi, mẹ, hình như con… thất bại rồi. Cho nên, mẹ không thể quay về được… con xin lỗi. Gã bỗng đứng dậy, đi ra phía ngoài khoang thuyền, tiện tay gỡ một miếng ngọc bội xuống, cắt đứt dây thừng, sau đó lại đạp một cái, tấm ván đột nhiên nứt toác, nước ào ào tràn vào. Cầm Tửu cả kinh, kêu: “Chủ nhân, người định?”. Di Phi quay đầu, khoanh tay cười với ba người: “Là anh hùng, đường cùng mạt lộ, duy chỉ có phá phủ trầm chu, phá sạch đường lùi quyết sống mái một phen thôi”. Sơn Thủy và Tùng Trúc đưa mắt nhìn nhau. Câu sau của Di Phi lại du dương lọt vào tai bọn họ: “Có điều rất đáng tiếc, từ xưa đến nay ta không phải là anh hùng, cho nên, ta phải trốn. Các người có bằng lòng theo một kẻ đường cùng ngõ cụt như ta lưu lạc chân trời không?”. Ba người cơ hồ không hề do dự quỳ sụp xuống, đồng thanh đáp: “Chúng thuộc hạ nguyện đồng sinh cộng tử với chủ nhân!”. “Rất tốt”. Di Phi phất tay áo, ngẩng đầu nhìn bầu trời, đã qua giờ Tí, một vầng trăng khuyết treo lơ lửng phía chân trời, lạnh lẽo thê lương vô hạn, đối lập với nó là ánh lửa sáng như ban ngày và tiếng giao chiến sục sôi bên ngoài tường cao của vương phủ. Gã chăm chú nhìn ánh lửa nhảy nhót, tựa như ánh lửa trong ký ức tuổi thơ, nói rành rọt từng tiếng từng tiếng: “Khi ta chín tuổi, phụ hoàng dùng lửa thiêu thứ ta yêu quý nhất; mười năm sau, tiện nhân kia dùng lửa thiêu hoàng vị gần như đã là của ta… Không sao, Di Phi ta thề tại đây, mười năm sau, khi ta đặt chân lên đất Trình quốc, món nợ mà các ngươi nợ ta sẽ phải trả lại gấp mười, hai mươi lần, thậm chí gấp trăm lần!”. Gã cởi áo khoác, lao xuống hồ trước tiên. Bọn Cầm Tửu cũng lần lượt nhảy theo. Nước hồ lạnh như băng ào tới, nước nhìn tưởng như rất nhẹ rất mềm, nhưng lúc này lại ép chặt trên từng bộ phận của cơ thể. Khi Di Phi men theo mật đạo dưới đáy hồ vội vàng trốn thoát, không khỏi nghĩ đến một vấn đề thực ra không hề quan trọng, cũng không chút liên quan: Ngày hôm đó, khi Ngu thị nhảy xuống nước tìm bông tai, liệu có chung cảm giác này không? Trăng treo giữa trời, gió lạnh ù ù, mười dặm phố biến thành địa ngục. Trung lang tướng Vân Địch đứng trên lầu cao, nhìn chiến trường phía dưới, sắc mặt đanh lạnh. Họ đã dùng ba nghìn thiết giáp quân để mai phục Hàm Kỳ, tám mươi viên tùy tùng của Hàm Kỳ bị vây giết, chỉ còn lại chín người, mười người này[2] bị đại quân bao vây, rành rành là cá nằm trên thớt, thế nhưng, hai canh giờ trôi qua, Tố kỳ quân hết người này đến người khác ngã xuống, còn mười người vẫn sừng sững không đổ. [2] Mười người gồm chín tùy tùng và cả Hàm Kỳ. Đặc biệt là Hàm Kỳ, vẫn là áo giáp đỏ tươi như máu, trường đao lạnh sắc như nước, khi lưỡi đao vung lên hạ xuống, tất có người ngã xuống. Cái danh Hồng Dực quả không phải hư truyền. “Tướng quân, đánh mãi không thắng, phải làm sao?”. Quân sư lại gần Vân Địch, thấp giọng nói. Vân Địch nhìn chằm chằm vào thân hình thấp bé mà tráng kiện đó, hồi lâu, làn môi mỏng khẽ hé, nói hai chữ: “Bắn tên”. Tuy không thể bắt sống cũng hơi đáng tiếc, nhưng hắn đã không còn đủ nhẫn nại tiếp tục theo chiến đấu với gã chiến ma (Hàm Kỳ) tưởng chừng như không biết mệt mỏi đó. Tay phải đang định chém xuống, lại có một giọng nói từ phía sau gấp gáp vang lên: “Dừng tay!”. Vân Địch quay người, thấy thị vệ hai bên đều cúi người khấu lạy, người kia khoác áo lông, sắc mặt ửng đỏ đầy bệnh tật, vẻ mặt vừa giận dữ vừa lo lắng. Không phải ai khác, đó chính là Lân Tố. Vân Địch lập tức cúi người hành lễ: “Thuộc hạ tham kiến đại hoàng tử”. Lân Tố tung cước, đã hắn ngã lăn ra, quát lớn: “Ai cho phép các ngươi bắn tên?”. “Không thể bắt sống, mất bao thời giờ, quân ta càng lúc càng ít, cho nên…”, còn chưa dứt lời, lại bị một cước nữa. Vì Lân Tố đá quá mạnh, không kìm được ho húng hắng, vừa ho vừa nói: “Hắn là đệ đệ của bản vương, là đệ đệ ruột đó…! Ngươi… nếu các ngươi giết hắn, ta sẽ chém đầu các ngươi!”.
|
“Nhưng công chúa có lệnh…”. “Các ngươi nghe công chúa hay là nghe ta?”. Chúng tướng sĩ nhất thời im lặng. Lân Tố chầm chậm thở ra, đi đến bên cửa sổ, nhìn khung cảnh chém giết phía dưới, không chịu được nhắm mắt lại, quay đầu nói: “Các ngươi phái người nói với hắn, chỉ cần hắn chịu quy thuận, không những không phải lo về tính mạng, còn có thể tiếp tục làm vương gia, hơn nữa…”. Lời còn chưa nói hết, một cung tiễn thủ đứng bên một cửa sổ khác đã bắn tên, chỉ nghe “vút” một tiếng, mũi tên lao đi như sao băng, không thiên không lệch, nhắm trúng yết hầu của Hàm Kỳ, Hàm Kỳ kêu lên một tiếng thảm thiết, từ trên ngựa ngã lăn ra đất. Lân Tố trợn mắt trừng trừng, con ngựa của Hàm Kỳ bị kinh sợ, giẫm lên cơ thể Hàm Kỳ, trong nháy mắt máu thịt bầy nhầy, máu tươi tung tóe, cảnh tượng hết sức ghê rợn. Lân Tố đờ đẫn hồi lâu mới tỉnh lại, nhìn chằm chằm cung tiễn thủ kia: “Ngươi… giết hắn?”. Cung tiễn thủ vứt cây cung trong tay đi, quỳ sụp xuống: “Thuộc hạ là nghĩ cho điện hạ”. Lân Tố bước nhanh lên phía trước, kéo cổ áo hắn, gằn giọng: “Ngươi, giết hắn!”. Cung tiễn thủ đó không hề hoảng loạn, nhắc lại lần nữa: “Thuộc hạ vì điện hạ!”. “Ngươi ngươi ngươi…”. Lân Tố nổi giận, rút thanh đao giắt bên người, nhằm người kia mà chém xuống, một đôi tay đột nhiên xuất hiện, nhẹ nhàng giữ y lại. Y không biết võ công, vì thế chỉ cảm thấy bả vai đau buốt, đại đao rơi keng xuống đất. Lân Tố quay đầu lại, người cản y chính là Vân Địch. “Vân Địch, ngươi làm gì vậy?”. Vân Địch lạnh nhạt đáp: “Điện hạ vất vả một đêm, nên quay về nghỉ ngơi rồi”. “Cái gì?”. Lân Tố kinh ngạc. Vân Địch cao giọng: “Hiện tại trong thành đại loạn, điện hạ thân thể ngàn vàng, tuyệt đối không nên bị tổn hại mới phải. Người đâu, đưa điện hạ về cung!”. “Đợi đã! Vân Địch, ngươi – ngươi – ngươi dám làm thế với ta”. Vân Địch cười mỉm, nhưng trong nụ cười ẩn chứa sự lạnh lẽo tàn khốc: “Công chúa đang ở trong cung đợi điện hạ, có gì muốn nói, điện hạ có thể nói với người”. Nói đoạn khoát tay, mấy tên binh sĩ tiến lên, xốc Lân Tố kéo đi, suốt dọc đường chỉ nghe thấy tiếng kêu kinh ngạc, tiếng chửi mắng và tiếng ho không ngừng của y. Quân sư cau mày hỏi: “Như thế có được không? Nói gì đi nữa, hắn cũng là hoàng tử, hiện giờ cũng là hoàng tử duy nhất, đắc tội với hắn…”. Vân Địch nhướn mày, “Quân sư sao thông minh một đời, hồ đồ nhất thời vậy, ngươi cho rằng, ở Trình quốc hiện nay, là ai làm chủ?”. “Đương nhiên là công chúa, nhưng công chúa cũng chỉ là một nữ nhi…”. Vân Địch cười lạnh: “Nữ nhi thì sao? Nữ nhi không thể gánh được chữ ‘vương’ sao?”. Quân sư “a” một tiếng, như người tỉnh mộng, kinh ngạc bịt miệng lại. Vân Địch nhìn thấy phía dưới, chín người vì Hàm Kỳ đã chết mà như rắn mất đầu, từng tên từng tên bị bắn chết, thong thả nói: “Mười năm mài một kiếm, sương đao nay đã thành. Công chúa, giờ đây nàng thắng lợi, phải chăng đã được giải thoát một chút rồi?”. Dưới ánh trăng, vẻ mặt hắn bỗng trở nên ảm đạm, thương tiếc khôn tả, bi thương khôn tả. “Mười năm… mười năm…”. Lân Tố bị quân đội của mình bán đứng, cưỡng ép đưa về vương cung với danh nghĩa là bảo vệ mà kỳ thực là giam lỏng, đang chăm chú nhìn ánh trăng bên ngoài cửa sổ, thì thào. Có cung nữ bưng lên mỹ tửu điểm tâm, đặt trên bàn bên cạnh, rồi lại nhẹ nhàng nhón bước lui ra. Y nhìn bình rượu có điêu khắc hình lưỡng xà tranh châu, trong đáy mắt diễn ra một loạt thay đổi, có sợ hãi, có nghi ngờ, có phẫn nộ, nhưng cuối cùng lắng đọng thành nỗi thương cảm. Y từ từ đưa tay về phía bình rượu đó, ngón tay không ngừng run rẩy, chần chừ do dự, rõ ràng là một khoảng cách rất ngắn, nhưng mất thời gian nửa tuần nhang mới chạm tới bình rượu. Thân bình khẽ nghiêng, mỹ tửu màu hổ phách mang theo hương thơm nồng được rót vào chén. Y chăm chú nhìn chất lỏng trong chén, vừa muốn cười lại vừa muốn khóc, cuối cùng y thở dài thườn thượt, nói: “Bỏ đi. Vua muốn thần chết, thần không thể không chết…”. Nói rồi, như lấy hết dũng khí, uống một hơi cạn chén rượu đó. Chén rượu sau khi hoàn thành sứ mệnh của mình rơi cạch xuống đất, rơi mà không vỡ, thuận thế lăn mấy vòng, lăn đến bên chân một người. Người đó nhẹ nhàng đi vào, chiếc váy dài thướt tha như nước quét trên mặt đất, bước chân của nàng khẽ khàng như hoa rơi. Lân Tố tựa bên bàn, mơ mơ hồ hồ nhìn nàng, gương mặt nàng mông lung mông lung, có chút rõ ràng, lại có chút nhòe nhoẹt như thành một bức họa khác: Mười năm trước, khi thiếu nữ ấy từ ngoài cửa bước vào, cũng như thế này. Từng bước từng bước, chậm rãi như thế. Khi nàng cách y chỉ còn một bước, bỗng nhào tới ôm chặt lấy y, òa lên nức nở, nói: “Đại hoàng huynh! Đại hoàng huynh…”. Mà lần này, người đó dừng cách y ba bước, không lại gần nữa, chỉ im lặng nhìn y, không nói nửa lời. Thế nên y cười, cất tiếng: “Tất cả đều đúng như ước nguyện của muội phải không?”. Người đó vẫn nhìn y, không nói gì. Y cười càng lúc càng lớn, vừa cười vừa ho: “Muội giết Hàm Kỳ, cũng giết Di Phi, đến cả phụ hoàng cũng trong tay muội, muốn sống muốn chết, chẳng qua cũng chỉ là một câu nói của muội. Tâm nguyện của muội đã thành hiện thực cả rồi? Bây giờ muội đến giết ta đúng không? Ôi không, ta quên mất, muội đã ban rượu độc cho ta, vậy thì, muội đến để nhìn ta chết phải không?”. Người đó cụp mắt, lát sau, mới khẽ nói: “Di Phi… trốn thoát rồi”. “Sao cơ? Vậy thật là đáng tiếc… Nhưng không sao, một hoàng tử thất thế, cùng đường mạt lộ, sao có thể thoát khỏi sự truy đuổi của một người quyền bính trong tay, lòng dân hướng về như muội? Bắt hắn cũng chỉ là chuyện sớm muộn mà thôi”. “Đại hoàng huynh…”, người đó lên tiếng, cuối cùng đã bước qua khoảng cách ba bước cuối cùng, đến trước mặt y, sau đó, từ từ ngồi xuống, ngả đầu trên đầu gối y. Khi đầu nàng ngả lên đầu gối y, cùng lúc ấy, cơ thể vốn lạnh băng trở nên ấm áp hơn vì cảm nhận được nhiệt độ của đối phương, Lân Tố không kìm được bi ai nghĩ: Y rốt cuộc không thể nào ghét được người này, cho dù bị lợi dụng, bị phản bội, thậm chí bây giờ bị hạ độc, y đều không thể oán ghét người này. Đầu nàng ngả trên đùi y, một nơi đã chết trong tim bỗng giãy giụa sống trở lại. Di Thù… Di Thù… Di Thù ơi… Y chầm chậm đưa tay ra, chạm lên mái tóc nàng. Nàng có một mái tóc dài cực kỳ mềm mượt như tơ lụa mát lạnh, hệt như mười năm về trước. “Muội xử trí phụ hoàng thế nào?”. “Muội chặt đứt hai chân hai tay ông ta, móc mắt, cắt tai, cắt lưỡi, ném vào ống sành, làm con người lợn”. Giọng nói của nàng rất khẽ rất dịu dàng, khi nói chuyện này, thậm chí còn không hề có chút lên giọng nào. “Ta có thể cầu xin muội một việc không?”. “Huynh muốn muội giết ông ta? Để ông ta mau chóng kết thúc đau khổ?”. Di Thù cười ha ha, “Không thể được, huynh biết mà, tuyệt đối không thể”. Lân Tố nhắm mắt lại. Di Thù ngẩng đầu, ngước nhìn gương mặt y, khẽ nói: “Huynh thương ông ta? Đến bây giờ huynh vẫn thương ông ta?”. Giọng Lân Tố dịu đi: “Rốt cuộc ông ấy vẫn là phụ thân của chúng ta”. “Có phụ thân như ông ta sao?”. Di Thù bỗng trở nên kích động, tóm áo y, rít lên: “Hãy nghĩ xem ông ta đã làm những gì! Đã làm những gì đối với muội! Dã tâm bành trướng vọng tưởng thôn tính Yên quốc cũng đã đành, thực lực không bằng người ta, thua là chuyện bình thường, nhưng ông ta lại trút giận lên người bên cạnh, thế nên ông ta dùng roi đánh chết mẹ của Di Phi; mẫu thân của chúng ta cũng vì nói sai một câu mà bị đẩy vào lãnh cung, u uất mà chết; còn muội! Còn muội!”. Tay nàng túm áo mình, run rẩy, nước mắt ào ra như suối: “Cái gì mà con gái được Trình vương sủng ái nhất, cái gì mà Di Thù công chúa dưới một người trên vạn người ở Trình quốc, những chuyện vẻ vang tột cùng mà người khác thấy đó, thực ra là tấm vải che đậy tội lỗi của ông ta! Ông ta… ông ta…!!!”. Lân Tố bỗng mở to mắt, nhìn chằm chằm muội muội cùng một mẹ sinh ra với y, hai giọt nước mắt trào khỏi vành mắt, lăn xuống theo gò má. Trong khoảnh khắc, dường như quay trở lại mười năm trước, đứa trẻ đó tột cùng hoảng sợ, nhục nhã, đau đớn không thiết sống lao vào ôm y, nức nở gào khóc, gào lên từng tiếng từng tiếng: “Đại hoàng huynh, đại hoàng huynh, muội phải làm sao? Muội phải làm sao?…”. Gia đình đế vương, lắm chuyện xấu xa. Mà họ chẳng qua là bất hạnh hơn người khác, có một người cha không bằng loài cầm thú. Di Thù gạt lệ, gằn giọng nói: “Cho nên, những gì phải chịu bây giờ đều là đáng đời ông ta. Muội sẽ không để ông ta được chết nhanh chóng đâu, muội phải để ông ta sống, sống hết ngày này qua ngày khác, mỗi một ngày còn sống là một ngày chịu thêm giày vò”. Lân Tố lại lần nữa nhắm mắt lại. Y cảm thấy rất mệt mỏi. Y thật sự rất mệt. Cơ thể không còn chút sức lực, trong lòng cũng trăm ngàn vết thủng lỗ chỗ. Thật sự không muốn bận tâm đến bất cứ thứ gì nữa, cứ thế thiếp đi. Di Thù lại giơ tay ôm lấy y, tựa đầu vào lồng ngực y, thì thầm: “Đại hoàng huynh… huynh hận muội ư? Đại hoàng huynh, đừng hận muội được không? Người muội thích nhất là huynh, chỉ có huynh mới có thể khiến muội tạm thời quên đi tất cả bất hạnh, chỉ có huynh mới toàn tâm toàn ý ủng hộ muội mà không đòi hỏi bất cứ thứ gì, muội thích đại hoàng huynh nhất nhất nhất…”. Lân Tố cười cay đắng: “Chẳng phải muội cũng thích Hàm Kỳ nhất sao?”. Sắc mặt Di Thù thoắt biến đổi. “Những lời như thế, muội đều nói với Hàm Kỳ và Di Phi rồi, đúng không?”. Di Thù ngẩng đầu, mặt không biểu cảm nhìn y. Lân Tố không mở mắt, chỉ lạnh nhạt nói: “Nếu không, với sự vũ dũng nhường ấy của Hàm Kỳ, sự tinh ranh nhường ấy của Di Phi, sao có thể đều bại trong tay muội chứ?”. “Đại hoàng huynh đang nói gì, muội nghe không hiểu?”. “Di Thù, ta biết muội bất hạnh, ta thực sự biết. Cho nên, muội oán hận, muội muốn báo thù, đều là chuyện nên làm. Thế nhưng, muội vì báo thù, mà để bản thân rơi vào vòng xoáy càng đáng sợ hơn, càng nhơ bẩn hơn. Chuyện này thực sự đáng sao?”. Ánh mắt Di Thù trở nên sắc lẻm: “Hóa ra… huynh biết?”. “Mỗi lần muội gặp một nam nhân có thể giúp muội là đều tìm cách lợi dụng triệt để, mà lần nào muội cũng dùng cơ thể của mình để trao đổi. Tướng lĩnh, chư hầu, thậm chí đến sứ thần nước khác, tỉ như Giang Vãn Y, muội cũng không bỏ qua”. “Huynh đang nói muội là dâm phụ đúng không?”, vẻ mặt Di Thù lạnh đi mấy phần, cười gằn nói: “Huynh có tư cách gì mà chỉ trích muội chứ? Lẽ nào huynh không lợi dụng muội? Rặt một phường lang sói, huynh…”. “Không, ta chỉ cảm thấy bi ai…”, Lân Tố nhẹ nhàng ngắt lời nàng, “Những chuyện liên quan đến muội, thực ra ta đều biết, chỉ là không nói ra mà thôi. Bởi vì, mỗi một lần, mỗi một lần, đều chỉ khiến ta đau lòng. Phụ hoàng rốt cuộc đã hủy hoại muội đến thế nào, không những khiến muội sinh lòng oán hận mà còn biến thành méo mó thế này. Di Thù, tại sao muội lại biến thành méo mó thế này?”. Di Thù ngậm miệng, không nói nữa. Lân Tố cuối cùng mở mắt ra, nhìn nàng bằng ánh mắt sâu thẳm, nói từng tiếng: “Di Thù, nếu thời gian có thể quay ngược lại mười năm trước, ta nhất định sẽ đi cứu muội, nhất định sẽ đi…”. Di Thù im lặng hồi lâu, chầm chậm đứng lên, từ trên cao nhìn xuống y, khẽ nói: “Nhưng thời gian không thể quay ngược lại”. Trong nháy mắt, gương mặt Lân Tố xám ngoét một màu chết chóc. Di Thù quay người, mái tóc và chiếc váy đều bị gió thổi tung, nàng bước đi theo tiết tấu giống như lúc đến, từng bước từng bước rời đi. Thân thể Lân Tố chầm chậm đổ xuống, hai dòng máu chảy ra từ mũi y, rỏ xuống chiếc áo trắng của y. Chân trời đã hé những tia nắng ban mai đầu tiên.
|
Khương Trầm Ngư lại một đêm mất ngủ. Nàng ngồi trực cả đêm bên giường của Sư Tẩu. Đêm qua, từ khi Di Thù công chúa xuất hiện đến cuối cùng khi công tử và Yên vương, Nghi vương thỏa thuận xong, nàng và Sư Tẩu liền được sắp xếp ở trong một gian phòng của khu nhà này. Có lẽ đối với Trầm Ngư mà nói, đây cũng là nơi duy nhất an toàn. Sau đó Giang Vãn Y và Phan Phương cũng xuất hiện, đêm đó sau khi đi khỏi một lát Phan Phương đã liên lạc được với người của Cơ Anh, sau đó y đưa Giang Vãn Y cùng tới đây. Giang Vãn Y băng bó lại vết thương cho Sư Tẩu, tuy chân tay bị chặt đứt không thể nối liền, nhưng ít nhất không còn nguy hiểm đến tính mạng nữa. Khương Trầm Ngư bấy giờ mới hơi an tâm, tựa bên giường mà ngủ thiếp đi. Nhưng bên ngoài lại vọng tới đủ mọi loại âm thanh, nàng nghe không rõ, nhưng thực sự tồn tại, lại thêm ở nơi lạ lẫm, trên chiếc giường lạ lẫm, chiếc chăn mới mang theo một cảm giác thô nháp, cọ xát trên da, khó chịu đến mức khiến người ta bồn chồn. Vì thế, khi đồng hồ cát chảy đến vạch giờ Dần, nàng không chịu nổi nữa, đứng dậy chải đầu qua loa, đẩy cửa, khoác áo đi ra ngoài. Bên ngoài sương giăng dầy đặc. Mọi thứ trong màn sương đều mờ mờ mịt mịt, mông lung như mộng cảnh. Trong sân, ven chân tường trồng rất nhiều hoa, giữa bụi hoa thấp thoáng một bóng người. Nàng đến gần thì nhận ra, hóa ra là Tiết Thái. Lẽ nào hắn cũng cả đêm không ngủ? Chỉ thấy Tiết Thái ngồi xổm trước một cây hoa rất đặc biệt, sắc hoa đỏ như máu, cánh hoa nhỏ dài khum khum như móng rồng, Trầm Ngư chưa từng nhìn thấy bao giờ, không kìm được tò mò hỏi: “Đây là hoa gì?”. Tiết Thái nghe thấy giọng nói, quay đầu lại nhìn nàng một cái rồi mới đáp: “Mạn Châu Sa Hoa”. “A, đây chính là hoa Bỉ Ngạn được nhắc đến trong ‘Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa kinh’ sao?”. Khương Trầm Ngư cũng ngồi xuống, vừa ngắm vừa nói: “Hoa Bỉ Ngạn, một nghìn năm hoa nở, một nghìn năm hoa tàn, hoa và lá chẳng bao giờ gặp nhau. Tình không vì nhân quả, duyên đã định sống chết. Đúng là một loại hoa đau thương…”. “Phật nói bờ bên kia (Bỉ Ngạn), không sống không chết, không khổ không sầu, không muốn không cầu – Đã là như thế, sao còn bi ai?”. Tiết Thái khẽ nhếch khóe môi, có vẻ không đồng ý. Khương Trầm Ngư nhìn hắn, bật cười. Tiết Thái lạnh nhạt nói: “Ngươi cười cái gì?”. “Ta đang nghĩ thực ra chúng ta rất có duyên phận, chẳng phải sao? Thân ở dị quốc xa xôi ngàn dặm vẫn có thể gặp nhau”. “Có lẽ người thực sự có duyên với ngươi là người khác mà không phải là ta?”. Khương Trầm Ngư cau mày, đứa trẻ này đúng là không đáng yêu chút nào, nàng tìm hắn gợi chuyện cũ, hắn lại chuyên chọc ngoáy vào nỗi đau của nàng. Thấy nàng thần sắc ủ rũ, Tiết Thái bỏ vẻ châm chích lạnh lùng, ánh mắt lướt qua gian phòng khách mà nàng vừa mới bước ra kia: “Người đó đã chết chưa?”. “Ngươi nói Sư Tẩu?”. Khương Trầm Ngư lắc đầu, thần sắc lại rầu rĩ thêm mấy phần, “Tuy không chết, nhưng mà… đến khi hắn tỉnh lại, ta thật sự không biết phải đối diện với hắn như thế nào”. “Con kiến còn ham sống, huống hồ con người. Cho dù thế nào, sống được vẫn tốt hơn là chết”. Khương Trầm Ngư chăm chú nhìn hắn, chậm rãi nói: “Đối với ngươi cũng như thế phải không?”. Tiết Thái lại cười lạnh lùng, ánh mắt lóe sáng không ngừng, cuối cùng nghiêng đầu, liếc nàng nói: “Chẳng phải ngươi rất thương hại ta sao?”. Khương Trầm Ngư sững sờ. “Đừng chối, mỗi lần ngươi nhìn thấy ta, trong ánh mắt đều ngập tràn sự thương xót, để lộ biểu cảm từ bi như Bồ Tát, lần trong hoàng cung Bích quốc và cả đêm qua cũng thế”. Khương Trầm Ngư nói: “Đêm qua tối như thế, ngươi cũng có thể nhìn thấy biểu cảm của ta?” “Là ta biết”. Tiết Thái hơi ngẩng đầu, ánh mắt đảo một vòng trên bầu trời, rồi lại rớt xuống gương mặt nàng, “Thế nhưng, ta cảm thấy so với một người vì không còn gì để mất, cho nên cũng không sợ hãi thứ gì như ta, người nào đó càng đáng thương hơn, càng nên cảm thấy đau buồn cho bản thân mình”. “Người nào đó mà ngươi nói là ta?”. “Nếu không còn ai vào đây?”. Khương Trầm Ngư cảm thấy hứng thú, cười hỏi: “Sao ta lại đáng thương?”. “Thiên kim của tể tướng, lá ngọc cành vàng, nhưng không thể gả được cho người mình yêu, vì lợi ích gia tộc mà buộc phải tiến cung, từ bỏ đứng đầu quần phi, phải chạy đến đảo quốc xa xôi ngàn dặm làm gián điệp, dọc đường nguy hiểm trùng trùng, phiền phức liên miên, đêm qua còn suýt mất cả cái mạng nhỏ. Ngươi nói xem, lẽ nào ngươi không đáng thương?”. Khương Trầm Ngư nghe ra hắn có ẩn ý, lập tức ngưng cười, nghiêm mặt nói: “Ngươi biết đêm qua ai phát sát thủ truy sát ta?”. Tiết Thái chớp chớp mắt, “Ngươi đoán xem”. Cùng là chớp mắt, khi Hách Dịch chớp mắt luôn mang theo vẻ dịu dàng, Di Phi lại có vẻ giảo hoạt đặc thù, nhưng ở Tiết Thái lại biến thành sự linh hoạt và thanh tú khó tả thành lời, có chút xấu tính, lại có chút trẻ con. Là ai đi chăng nữa cũng không thể nổi giận với một đứa trẻ như thế, hơn nữa còn là một đứa trẻ xinh đẹp đến vậy, đáng thương đến vậy. Khương Trầm Ngư cũng không thể, vì thế nàng chỉ có thể nói: “Ta đoán không ra”. “Vậy thì ta sẽ tốt bụng dẫn ngươi đi xem nhé”. Tiết Thái quay người dẫn đường, “Đi theo ta”. Khương Trầm Ngư đành đi theo. Đi vòng vèo quanh co hồi lâu nhìn thấy một cổng vòm, Tiết Thái không đi thẳng qua cửa, mà đi sang bức tường thấp bên cạnh, dưới chân tường có chất mấy tảng đá, hắn giẫm lên trên, sau đó vẫy tay gọi nàng. Tuy cảm thấy hành động này có hơi thất thố, nhưng không nén nổi tò mò, Khương Trầm Ngư cũng giẫm lên tảng đá, nhòm qua bên kia tường, vừa nhìn một cái, liền thở hắt ra một hơi lạnh.
|
Ngoại truyện: Ngày tháng trên thuyền
Ngày tháng trên thuyền trôi qua từ từ, phàm trần thế tục dường như đã trở nên xa vời với nơi đây. Sóng biển ì oạp vỗ, hải âu kêu lảnh lót, ánh dương ấm áp chiếu xuống sàn thuyền, cơn gió ẩm ướt lướt qua mặt, thật là mát mẻ. Khương Trầm Ngư dựa lan can, nhìn mặt biển xanh thăm thẳm mênh mông chẳng biết đâu là bờ, ánh dương biến thành một tia sáng bảy sắc cầu vồng giữa những ngón tay, thời tiết tháng năm ấm áp như thế, an lành như thế, đẹp đẽ như thế, trong lòng nàng lại nảy sinh một cảm giác không chân thực. Giang Vãn Y xách hòm thuốc đi qua. Nàng nhìn thấy, vô tình hỏi: “Có người bị bệnh à?”. Giang Vãn Y mỉm cười với nàng: “Còn ai vào đây nữa”. Nàng đột nhiên hiểu ra – Nghi vương bị thương. Xem ra thuyền đã ra biển, y cũng không muốn che giấu nữa. Nàng liền nói: “Ta đi cùng huynh”. Hai người đi tới hoa sảnh, từ xa đã nhìn thấy Hách Dịch nằm trên chiếc giường quý phi bên cạnh cửa sổ, có hai thị nữ xinh đẹp hầu hạ, một người đút rượu cho y, một bóp chân cho y, thực là thoải mái. Nhìn thấy họ bước vào, Hách Dịch vẫy tay nói: “Các ngươi đến thật đúng lúc, bình Nữ Nhi Hồng mười tám năm này vừa mới khui, mùi vị cực ngon, lại thêm ông trời nể mặt, mấy ngày nay sóng êm gió lặng thế này, cùng nhau nâng mấy chén nhỉ?”. Giang Vãn Y mỉm cười, không nói gì, đi tới đặt hòm thuốc xuống, một thị nữ lấy ghế cho hắn ngồi, lại hiểu ý kéo tay áo của Hách Dịch, đặt tay y lên đệm cho Giang Vãn Y bắt mạch. Hách Dịch nằm rất thoải mái, ăn một quả vải do thị nữ kia đút, sau đó quay đầu nhìn chằm chằm Giang Vãn Y, bỗng nói: “Ta thích ngươi”. Tay Giang Vãn Y run run, suýt chút nữa trượt khỏi mạch của y. Đám thị nữ bụm miệng cười khúc khích. Hách Dịch chớp chớp mắt, chậm rãi nói: “Bởi vì, ngươi là đại phu duy nhất thấy ta đang uống rượu mà lại không khuyên ta ngừng lại”. Bấy giờ Giang Vãn Y mới hiểu mình bị chơi xỏ, vừa thở phào nhẹ nhõm, lại có chút dở khóc dở cười: “Đó chẳng qua là vì ta biết, cho dù có khuyên bệ hạ cai rượu cũng vô dụng mà thôi”. “Không sai”, Hách Dịch giơ ngón tay cái, “Sống ở trên đời, nếu không thể uống rượu, không thể ăn cay, không thể gần gũi mỹ nữ, chẳng thà giết ta còn hơn. Cho nên, những cái khác đều có thể chấp nhận, duy chỉ có ba việc này là tuyệt đối không thể thỏa hiệp”. Đám thị nữ cười rũ rượi. Khương Trầm Ngư nhìn họ, trong lòng thầm nghĩ vị Nghi vương này quả nhiên không phải người tầm thường, mới có một tối đã trở nên thân thiết với bao người trên thuyền, khiến đám hạ nhân bình thường luôn giữ quy củ trước mặt y muốn cười là cười, không hề che đậy. Thân là quân chủ, lại không hề có vẻ cao ngạo của bậc vương giả, nên nói y khác với những người xung quanh? Hay là nói y còn có mưu đồ gì? Nàng đang thầm suy đoán, Giang Vãn Y đã bắt mạch xong, vừa đứng dậy mở hòm thuốc ra, vừa nói: “Vết thương của bệ hạ là nội thương, bị khí âm nhu tổn thương đến tim phổi, lại thêm ngâm mình trong nước lạnh, bây giờ hàn khí đã xâm nhập đến các kinh mạch, nếu không sớm trị bệnh tận gốc, hễ để lại thành tật, hậu hoạn vô cùng. Trước tiên thần dùng châm bạc đả thông kinh mạch, trục xuất hàn khí cho bệ hạ, sau đó lại kê đơn thuốc bồi bổ. May mà trên thuyền có đủ các loại thuốc, mà thân thể bệ hạ xưa nay luôn cường tráng, điều trị mười ngày nửa tháng, tất sẽ chữa khỏi”. “Thần y quả nhiên là thần y, vết thương do Họa Chi Lũ Băng chưởng gây ra, đại phu khác nhìn là thấy đau đầu, còn với ngươi lại chỉ là chuyện vặt”. Hách Dịch tán thưởng, ánh mắt đảo một vòng, dừng lại trên người nàng, “Nghe nói vị Ngu cô nương này là sư muội của hầu gia, chắc tài nghệ y thuật cũng không tồi. Con người ta ấy mà, thực ra rất sợ đau, nhưng nếu là mỹ nhân châm cứu cho ta, tâm trạng sẽ tốt hơn nhiều, một khi tâm trạng tốt thì không thấy đau nữa, cho nên, chẳng hay có thể làm phiền đến ngọc thủ của Ngu cô nương không?”. Giang Vãn Y ngẩn ra một lúc, quay đầu nhìn Khương Trầm Ngư. Hôm nay nàng mặc một chiếc trường bào màu tím, bên ngoài choàng áo khoác màu đen, dưới ánh nắng, làn da gần như trong suốt. Cho dù trên mặt có vết bớt đỏ, nhưng mày mi như vẽ, chút tì vết kia sao có thể che mờ vẻ đẹp của nàng? Vì thế Hách Dịch gọi nàng là mỹ nhân cũng không phải là sai. Hắn không kìm được thở dài – Có những vẻ đẹp quả là không thể che giấu được. Ví như Trầm Ngư giờ phút này đang dùng thuốc để làm xấu dung nhan của mình, ví như… người nào đó đã từng áo gai vải thô đầu bù tóc rối… Nhớ tới người đó, Giang Vãn Y chợt bần thần, đến khi hắn tĩnh trí lại, Khương Trầm Ngư đã rửa sạch tay, đón lấy hòm thuốc của hắn. Hắn hơi ngạc nhiên, không kìm được khẽ hỏi: “Muội biết châm cứu?”. Khương Trầm Ngư lắc đầu. “Thế sao muội còn…”. Khương Trầm Ngư cong cong khóe môi, lộ một nụ cười châm biếm: “Hắn đã không sợ chết, muội còn sợ cái gì?”. Đây… Giang Vãn Y đờ người ra, nhưng không nói nổi điều gì, chỉ trơ mắt lên nhìn nàng lấy những cây châm bạc trong hòm thuốc ra, sau đó ngồi xuống cạnh giường. Hách Dịch đối mặt với mỹ nhân, quả nhiên cực kỳ phối hợp, không uống rượu nữa, chủ động cởi áo ngoài ra, để lộ tấm lưng trần. Tuy hắn gầy nhưng không gầy kiểu da bọc xương, người hắn săn chắc, lại thêm ăn sung mặc sướng, nên da trắng hơn tuyết, vì thế khi nằm trên gấm đoạn màu hồng đào, nhìn trông rất đẹp mắt. Đám thị nữ đỏ bừng mặt, quay đầu đi chỗ khác không nhìn nhưng lại không kìm được liếc trộm. Ngược lại Khương Trầm Ngư đối mặt với nam tử để mình trần lại không xấu hổ cũng không thẹn thùng, vô cùng trấn tĩnh rút một chiếc kim châm từ trong túi ra, dùng ba ngón tay: ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa giữ chuôi kim, dùng ngón vô danh đè lên thân kim, hơ qua trên lửa với tư thế vô cùng thành thục, sau đó nhắm chuẩn một vị trí nào đó rồi đâm xuống. Giang Vãn Y vừa nhìn phương vị nàng châm xuống, trong lòng run rẩy. Quả nhiên, kim vừa đâm xuống, toàn thân Hách Dịch chấn động dữ dội: “Ai da!”. Khương Trầm Ngư giữ chặt y, thấy sắc mặt nàng trầm tĩnh, không giống như đang đùa, bờ môi Hách Dịch động đậy, nhưng cuối cùng không nói gì cả. Khương Trầm Ngư tiếp tục rút kim, hơ lửa, sau đó châm xuống. Hách Dịch rốt cuộc không chịu nổi nữa, nghiến răng quay đầu lại, “Ngu cô nương, cô nương có chắc mình không châm sai chứ?”. Nàng ừ một tiếng. Hách Dịch nghĩ một lát, rồi lại ngoan ngoãn nằm sấp xuống với vẻ mặt nghi ngờ. Sau đó Khương Trầm Ngư châm mũi kim thứ ba, lần này, không chỉ Giang Vãn Y kêu “á”, mà hai thị nữ phía sau còn kêu thất thanh: “Ôi chảy máu rồi!”. Hai viên ngọc màu đỏ máu, từ từ trào ra khỏi lỗ kim vừa châm, như một đóa hoa, bung cánh nở trên sống lưng trắng muốt, cực kỳ chói mắt. Lần này đến sức để kêu gào Hách Dịch cũng không còn, y ngẩng gương mặt trắng bệch lên, có lẽ vì quá đau, trong mắt loang loáng ánh nước. Khương Trầm Ngư nói: “Đừng sợ, bệ hạ, còn sáu mũi nữa là xong”. Hách Dịch đáp lại nàng bằng nụ cười trông còn khó coi hơn cả mếu, rồi giơ một ngón tay, ngoắc ngoắc gọi Giang Vãn Y lại, trong lòng Giang Vãn Y thầm thở dài, đi tới vỗ vào vai nàng: “Hay để ta làm đi”. Khương Trầm Ngư nói: “Không được, chẳng phải bệ hạ nói nhất định phải là mỹ nhân châm kim sao?”. Hách Dịch vội vàng kéo tay Giang Vãn Y, nhìn hắn bằng ánh mắt cực kỳ tha thiết, gấp gáp nói: “A, Đông Bích hầu! Trẫm đột nhiên phát hiện, hóa ra ngươi lại anh tuấn phi phàm như thế, trẫm quyết định phong cho ngươi làm thiên hạ đệ nhất mỹ nhân!”. Vẻ mặt của Giang Vãn Y lập tức trở nên vô cùng quái dị, thị nữ bên cạnh không nhịn được phá ra cười. Khương Trầm Ngư vốn vẫn giữ dáng vẻ nghiêm túc đường hoàng, nhưng khi nghiêng đầu liền đưa tay che miệng, không kìm được mỉm cười. Tiếng cười từ khung cửa sổ mở rộng bay ra ngoài, đến trù phòng ở cuối thuyền cũng nghe thấy. Một trù nương hỏi: “Nghe tiếng cười này, chắc chắn là Nghi vương lại làm trò cười gì rồi”. Một trù nương khác nói: “Từ khi vị Nghi vương này lên thuyền, trên thuyền náo nhiệt hơn hẳn, ngày ngày đều nói cười vui vẻ. Ầy, cô nói xem ngài ấy có đúng là hoàng đế không?”. “Đương nhiên rồi, hầu gia và tướng quân đều đã đích thân xác nhận, chẳng nhẽ còn có thể là giả?”. “Chưa từng thấy một hoàng đế nào như thế cả”. “Đúng đấy, đúng là lần đầu gặp một hoàng đế như vậy… Sau sử ký có chép: Hách Dịch, quân vương đời thứ mười chín của Nghi quốc, lúc thiếu thời hay du ngoạn, thích rượu, có thể uống liền mấy chục tước[1]không say. Tinh thông buôn bán, lười việc chính trị, tính hài hước, tình khoáng đạt, có thể kết giao với cả bọn tiểu thương sai dịch. Vì thế còn được gọi là – Duyệt đế. [1] Tước: Một loại chén rót rượu.
|
Ngoại truyện: Dễ tỉnh sớm hôm, dễ say lòng người
Ánh dương nhô lên trên mặt biển, hóa ra không giống như khi nhìn qua cửa sổ ở nhà. Lúc ở nhà, bình minh đến một cách không rõ ràng, luôn phải đợi trời sáng bạch mới nhận ra được, có một làn ánh sáng mỏng manh rọi từ trên trời xuống, rớt xuống lòng bàn tay, không còn chút hơi ấm. Nhưng trên mặt biển, giữa màn đêm đen kịt, đột nhiên có một luồng ánh sáng màu đỏ chiếu sáng, vẻ rực rỡ hoa lệ trong nháy mắt đó lại khiến người ta gần như ngừng thở. Ta không kìm được nghĩ, ánh sáng như thế này kỳ thực không khác gì ngọn lửa. Đến cũng trực tiếp, dứt khoát, kinh động hồn phách như thế. Mà tiểu thư tắm trong bình minh như lửa đó, im lìm đứng trên mũi thuyền, chăm chú nhìn về phương xa. Gió biển thổi bay phần phật mái tóc và chiếc áo choàng đen của nàng, làn da của tiểu thư trắng trong như bạch ngọc. Bức tranh này được thời gian nung thành vĩnh hằng, khắc sâu trong tâm trí ta. Mãi mãi ta không thể quên được dáng vẻ khi đó của tiểu thư. Có lẽ, không chỉ mình ta mà những người khác cũng không thể quên được. Tiểu thư là một mỹ nhân. Xưa nay đều là vậy. Ta nhớ lần đầu tiên gặp tiểu thư là bảy năm về trước. Khi đó, cha ta làm ăn thất bại, nhảy sông tự vẫn, bỏ lại con côi quả phụ phải sung làm nô dịch nhà quan. Ta coi như vẫn còn tốt số hơn mấy chị em, được sắp xếp đến nhà hữu tướng gia vốn có tiếng tốt. Ngày vào phủ là một ngày mưa gió bão bùng, ta được một vị quản sự gọi là Dung thẩm dẫn đến đại sảnh bái kiến chủ nhân, vừa đến cửa, phía sau đã nổi lên một tràng tiếng bước chân gấp gáp, một thiếu niên và một thiếu nữ lấy tay áo che đầu vội vàng chạy từ đầu sân bên kia lại, khi chạy qua ta, thiếu niên kia còn đâm sầm vào người ta một cái. Ta đau điếng người, nhưng nhìn áo quần dát vàng khảm ngọc của hắn, liền cuống quýt nén tiếng kêu kinh hãi đã vọt đến cổ họng xuống thật sâu. Người này không phải giàu có cũng là quý tộc, không thể đắc tội. Còn thiếu nữ kia vừa vắt tay áo ướt, vừa quay đầu lại kêu: “Trầm Ngư, nhanh lên nào!”. Bấy giờ ta mới chú ý đến, thì ra còn có người thứ ba. Đó là một nữ đồng bảy, tám tuổi, chắc nhỏ hơn hai người kia, nàng chầm chậm từ trong làn mưa đi tới, gấu váy không hề lay động. Lúc sinh tiền, phụ thân ta rất chuộng hư vinh, hận không thể nuôi dạy con cái thành tiểu thư khuê các đại gia tuyệt thế vô song, vì thế yêu cầu cực kỳ nghiêm khắc đối với mọi cử chỉ lời ăn tiếng nói của sáu chị em ta, cười không lộ xỉ, đi không lộ bàn chân. Ta cho rằng mình được huấn luyện lâu năm như vậy, đã làm rất tốt rồi. Nhưng bấy giờ, nhìn thấy nữ đồng này mới biết thế nào là phong cốt quý tộc thực sự. Tuy nàng chỉ mặc một chiếc áo trắng, trên đầu vấn hai búi tóc, cũng không cài trang sức châu báu gì, nhưng từng hành động cử chỉ đều thể hiện sự tôn quý và giáo dưỡng, so với nàng, vị thiếu niên lúc trước rõ ràng chỉ là phường lưu manh phố chợ. Ta chấn động trước sự tao nhã của nàng, vội vàng lùi ra phía sau để nhường đường. Nàng bước lên bậc thềm, nhìn thấy ta thối lui, liền ngẩng đầu mỉm cười với ta một cái. Những hạt mưa tí tách rơi, cảnh vật vốn dĩ u ám, nhưng cái ngẩng đầu này của nàng, nụ cười này của nàng lại tựa như ánh sáng, lập tức chiếu sáng cả thế gian này. Ta không kìm được kêu lên kinh ngạc, rồi tự thấy mình thất thố, vội vàng dùng tay bịt miệng lại. Dung thẩm quay lại mắng: “Kêu cái gì? Sao lại không có quy củ thế?”. Nữ đồng đó nhìn ta tò mò, rèm mi còn đọng nước mưa, khiến đôi mắt lại càng thêm sáng. Ta đỏ bừng mặt, lý nhí: “Vị tiểu thư… này xinh đẹp quá, giống hệt Ngọc Nữ bên cạnh Phật Bà Quan Âm”. Bên môi Dung thẩm thoảng nét cười, nhưng miệng vẫn dạy dỗ: “Chớ có nói những lời ngốc nghếch, còn không mau bái kiến tam tiểu thư đi. Tam tiểu thư, đây là nha đầu mới đến phủ, chưa hiểu chuyện, xin tiểu thư đừng trách”. “Ồ? Hôm qua nói mới thu nhận một tốp nha đầu mới trong đó có một người rất xinh, là cô ta sao? Ta xem nào, ta xem nào!”. Thiếu niên lúc trước vốn đã bước nửa chân vào đại sảnh, nghe nói vậy liền lập tức quay lại, xông đến trước mặt ta, dòm ta thật kỹ. Ta không biết làm thế nào, hoảng loạn quay sang cầu cứu Dung thẩm. Dung thẩm cười nói: “Đâu có gì xinh đẹp, cũng chỉ là sạch sẽ sáng sủa một chút thôi, cũng rất nhanh nhẹn, hơn nữa trước đây còn từng đọc sách, biết chữ, cho nên dẫn đến cho phu nhân xem xem, nói là cho vào làm trong nhà lớn”. Cặp mắt của thiếu niên giống cái bàn chải quét dầu, quét đi quét lại người ta một lượt từ đầu đến chân, sau đó khóe miệng cong lên, cười chớt nhả nói: “Nhìn cũng không tệ. Đúng lúc ta đang thiếu một nha đầu, hãy giao cô ta cho ta”. Ta thất kinh, còn chưa kịp có bất kỳ phản ứng nào, thiếu nữ đầu tiên đã bỉ bai nói: “Hứ! Huynh còn thiếu nha đầu? Ở chỗ huynh đã có đến bảy, tám nha đầu rồi!”. “Huynh nói thiếu là thiếu, muội càm ràm cái gì?”. Thiếu niên trừng mắt lườm nàng ấy một cái, quay sang Dung thẩm: “Nói vậy là xong rồi nhé. Đưa cô ta bái kiến mẹ xong, thì dẫn cô ta đến phòng ta”. Sắc mặt Dung thẩm trông rất khó coi, nhưng rốt cuộc vẫn khom lưng vâng dạ. Trái tim ta chùng xuống, tuy chỉ là lần đầu gặp gỡ, không biết gì về phẩm hạnh của vị thiếu gia này, nhưng thấy ít mà hiểu nhiều, từ việc vừa rồi hắn lỗ mãng xông đến, hoàn toàn không đếm xỉa đến ta ở trước mặt, đâm sầm vào ta để tranh đường đi, cộng thêm vẻ mặt nhìn ta thèm thuồng không biết gì là xấu hổ lúc này, ta liền biết là họa chứ không phải là phúc. Gia đạo sa sút vốn đã đau lòng, nếu lại gặp thêm một chủ tử xấu xa nữa… Ta giấu tay trong tay áo, khó giấu nổi nỗi bi thương… Nữ đồng kia nhìn ta một cái, không nói gì, tự mình vào phòng trước. Dung thẩm ra hiệu cho ta đi theo sau. Bước vào trong phòng, thấy một vị phu nhân xinh đẹp tuổi chừng ngoài ba mươi, y phục trang sức hoa lệ quý phái đang ngồi tựa trên chiếc sập nói chuyện với người bên cạnh. Thiếu niên vừa kêu một tiếng “mẹ” vừa chạy vào, đến bên sập. Vị phu nhân xinh đẹp đó đưa tay vuốt phẳng cổ áo xộc xệch của hắn, cười nói: “Đi chỗ nào chơi thế? Sao lại dầm mưa?”. “Con đi thả diều với các muội muội. Không ngờ thời tiết quỷ quái này thoắt cái đã đổ mưa!”. Hắn đang oán trách, thiếu nữ đã cười khanh khách, nói: “Mẹ à, mẹ không biết ấy, vừa nãy Trầm Ngư thấy trời tối đen, đã đề nghị về nhà, nhưng huynh ấy không nghe, còn đòi chơi tiếp, kết quả là trên trời đột nhiên giáng một tia sét xuống ngay cạnh chân huynh ấy. Mẹ nhìn quần huynh ấy mà xem, bị cháy xém rồi kìa!”. Phu nhân xinh đẹp cả kinh: “Sao lại như thế được? Không sao chứ, Hiếu Thành! Để mẹ xem nào…”. Thiếu niên tên gọi Hiếu Thành không thèm để ý, nói: “Mẹ nghe Họa Nguyệt nói nhăng cuội làm gì, con về nhà an lành rồi đấy thôi”. “Thằng bé này, con đúng là ham chơi”. “Được rồi, mẹ, đừng nhắc chuyện này nữa. Con nói với mẹ chuyện khác”. Khương Hiếu Thành vừa nói, ánh mắt vừa liếc sang phía ta, trong lòng ta đã biết hắn sẽ nhắc đến chuyện nhận ta, không kìm được cắn chặt môi. Chẳng ngờ hắn còn chưa mở miệng, một giọng nói trong trẻo và non nớt đã vang lên trước: “Mẹ, hôm nay trong buổi học, phu tử có bói cho con một quẻ”. Ta quay đầu, người vừa nói chính là nữ đồng có gương mặt như ngọc tạc đó. Phu nhân xinh đẹp bị nàng thu hút, tò mò hỏi: “Phu tử bói thế nào”. Nữ đồng cụp mắt xuống, lộ rõ vẻ u buồn, “Phu tử nói mệnh lý con vô duyên với ngọc”. Khương Hiếu Thành cười ha một tiếng: “Nói bừa, nhà ta còn không có ngọc sao? Muốn bao nhiêu có bấy nhiêu!”. “Mệnh lý không ngọc, là chữ lý trong từ ‘lý niệm’, không phải chữ lý trong từ ‘lý diện’[1]”. [1] Hai từ lý, đọc đồng âm nhưng tự dạng và nghĩa khác nhau, từ thứ nhất nghĩa là lý số, luân lý, lý lẽ, từ thứ hai là bên trong. “Có gì khác nhau”. Khương Hiếu Thành gãi đầu. Nữ đồng đi đến trước mặt phu nhân xinh đẹp, kéo tay bà nói: “Mẹ, phu tử nói nếu người thường không có ngọc thì không có vấn đề gì lớn. Nhưng con thì khác, đời này của con, việc có liên quan đến ngọc rất nghiêm trọng, nhẹ thì lo lắng mất ngủ, nặng thì mang họa sát thân”. Phu nhân xinh đẹp lo lắng nói: “Vậy phải làm thế nào? Chu phu tử có nói bổ cứu như thế nào không?”. Nữ đồng gật gật đầu: “Có. Thầy nói tìm hai nữ tử sinh năm Tân Tị, trong mệnh có thổ, trong tên có ngọc, sớm chiều bầu bạn, tuy không thể trừ họa hoàn toàn, nhưng cũng có thể giúp cho một đời bình an”. “Trong mệnh có thổ, trong tên có ngọc…”. Phu nhân xinh đẹp đưa mắt nhìn Dung thẩm, “Trong phủ nhà ta có những a hoàn như thế này không?”. Dung thẩm ngẫm nghĩ, đáp: “Con gái út nhà thủ quỹ Cung là phù hợp. Sau đó chính là…”, bà nhìn sang ta, “a đầu này cũng thế…”. Khương Hiếu Thành đột nhiên cảnh giác: “Cái gì? Không được! Mẹ, a đầu này con nhìn trúng trước, không thể cho Trầm Ngư!”. “Con nhìn trúng?”. Đầu mày phu nhân xinh đẹp khẽ chau lại. “Đúng thế, mẹ. Trong phòng con thiếu một a đầu hầu đọc sách, vừa hay cô ta lại biết chữ…”. Khương Hiếu Thành còn chưa nói hết, thiếu nữ tên Họa Nguyệt đã hừ mũi, nói: “Cái đồ đầu đất như huynh, có đến mười a đầu hầu đọc sách cũng vô dụng, có cũng chỉ là lãng phí”. “Nói tóm lại chuyện này không được”. Khương Hiếu Thành không thèm đếm xỉa đến nàng ấy, trực tiếp nói với nữ đồng: “Trầm Ngư, muội không thể tranh giành với huynh”. Nữ đồng im lặng nhìn hắn, một lúc sau mới lên tiếng: “Ca ca, nếu khuyết ngọc, muội sẽ chết đấy”. Mặt Khương Hiếu Thành biến sắc. Phu nhân xinh đẹp vội nói: “Trầm Ngư, lời này không thể nói bừa được đâu!”. “Con không tranh với ca ca”. Nữ đồng nói: “Dung thẩm, trong phủ còn a hoàn nào có điều kiện phù hợp không?”. “Cái này… một chốc một lát thì thực sự không có. Hay là tôi ra ngoài mua tiếp được không?”. “Mua làm gì, chẳng phải đã có sẵn một người sao?”. Khương Họa Nguyệt đẩy ta đến trước mặt nữ đồng, “Cứ thế này đi. A đầu này và con gái của Cung thủ quỹ đều thuộc về Trầm Ngư!”. Khương Hiếu Thành còn chưa kịp nói, Khương Họa Nguyệt đã hung hăng trợn mắt nhìn hắn: “Chuyện ăn uống vui chơi của huynh quan trọng hơn hay tính mạng của muội muội quan trọng hơn?”. Khương Hiếu Thành lụng bụng trong miệng, quả nhiên không đòi hỏi nữa. Phu nhân xinh đẹp khẽ thở dài: “Cứ làm như thế đi”. Sự tình chuyển biến quá nhanh, đến nỗi nhất thời ta cũng không thể tin rằng mình lại đổi chủ tử. Nữ đồng mỉm cười với ta quay người rời đi trước. Ta được Dung thẩm dẫn đi lĩnh đồ dùng hàng ngày, sau đó vào trong một căn phòng nhỏ thì gặp một thiếu nữ khác sinh năm Tân Tị, trong mệnh có thổ, trong tên có ngọc. Cuối cùng hai chúng ta được dẫn đến chỗ ở của tam tiểu thư. Đó là một tòa đình viện vô cùng xinh đẹp. Giữa màn mưa, những đóa hoa lê trắng tinh khôi vẫn không giấu nổi vẻ diễm lệ, yên lặng nở rộ, thanh khiết cao quý, dưới một cành lê trắng là một khung cửa sổ được hồ bằng vải voan thượng đẳng, một nữ đồng đang ngồi lặng lẽ bên cửa sổ, chống má chăm chú nhìn ra xa, thanh tú khôn xiết. Đó chính là tam tiểu thư của hữu tướng phủ – Khương Trầm Ngư. Dung thẩm dẫn chúng ta đi vào, khom người nói: “Tam tiểu thư, người đưa đến rồi. Đây là Cung Ngọc, đây là Liễu Phác”. Nữ đồng quay lại nhìn chúng ta, cuối cùng ánh mắt dừng trên người ta, “Liễu Phác, cái tên đẹp thật”. Ta vội vàng đáp tạ: “Đa tạ tiểu thư khen ngợi”.
|