Dám Kháng Chỉ! Chém
|
|
Ta lề rề bước ra từ sau tấm bình phong, đến trước mặt Phượng Triều Văn, bỗng bị hắn kéo đến ôm vào lòng, vân vê nốt chai trong lòng bàn tay ta, sắc mặt cảm thông: “Những tháng ngày xa trẫm, nàng phải chịu vất vả rồi…”
Giờ đây ta rất hiểu đạo lý sinh tồn, nếu không phải ta nhanh nhẹn tránh được mũi tên phóng ra ở Cẩm Tú các kia thì sớm đã bị hắn bắn xuyên người rồi. Ta cười híp mắt, gật đầu lia lịa, thẳng thắn thừa nhận: “Cơm không đủ ba bữa, khổ cực lắm thưa bệ hạ!”
Trông hắn rất vừa lòng.
Giúp Hoàng đế bệ hạ vui vẻ là trách nhiệm của thần tử, tù binh như ta cũng không ngoại lệ.
Cuộc sống mới của ta bắt đầu bằng việc lưu vong dưới trời sao, kết thúc bằng một cái đùi gà vô tội, những cực nhọc trong quãng thời gian ấy không cần thiết phải nói, lòng ta chợt bùi ngùi: Những ẩn sĩ là văn nhân tri thức qua các triều đại về quê ở ẩn, chắc chắn tiền bạc dư dả, nhà có tôi tớ, ruộng đất có người chăm lo, còn họ chỉ việc rảnh rang tiêu xài, ăn no cơm rồi mới có sức đả kích chính quyền.
Bằng không, con nhà quan chưa từng nếm cơm, mặc áo nhà nông như ta mà bị mê hoặc bởi thơ từ quy ẩn thơm mùi mực, rồi vui mừng sải cánh giữa thế gian rộng lớn, chưa đói chết là may, tiền đâu mua bút mực?
Cho dù ta có thốt ra mấy câu bất bình, Hoàng đế bệ hạ cũng chẳng nghe thấy, càng không thể truyền xướng thiên hạ.
Bởi vậy, ta cảm kích Hoàng đế bệ hạ Phượng Triều Văn rất nhiều, mặc dù hắn săn bắn bắt nhốt ta vào lồng, nhưng lần đầu tiên trong đời ta nghi ngờ phương châm giáo dục của cha mình có sai sót: Dù gì cha cũng có chút bản lĩnh, không làm tướng quân mà làm tay mổ lợn vẫn có khả năng sống sót qua ngày. Thế mà dạy dỗ con gái là ta đây thành đứa ỷ lại lười nhác, xa rời thực tế, lại còn mơ mộng giúp ta tự lập tự túc giữa đời, có phải là đòi hỏi quá cao không?
Chắc ta cứ nên ngoan ngoãn sống trong cái lồng thôi.
Vào một ngày tháng Sáu, Phượng Triều Văn trở về Trùng Hoa điện, mang theo mấy vị thái y. Sau khi những thái y đó vọng, văn, vấn, thiết ta xong xuôi, liền tránh sang một bên thì thầm to nhỏ. Ta không vừa ý chút nào trước hành vi này của họ, bèn vươn dài cổ nghe lén. Phượng Triều Văn đang ngồi ở giữa chuyện trò cùng thần tử, bỗng quay đầu lại, nghiêm mặt liếc nhìn ta: “Còn nghe nữa trẫm cắt đứt tai!”
Ta che tai theo bản năng, trong số các thái y, có một nam tử trẻ tuổi không nén nổi, bật cười “phì” một tiếng.
Mấy người già hơn một chút đều vê râu giả bộ không thèm đếm xỉa.
Sau khi họ đi khỏi, Nga Hoàng liền sắc thuốc cho ta một ngày ba bữa theo số lần ăn cơm.
Đến nay tâm tính ta rất bình thản độ lượng, đi khắp nơi rồi lại trở về chốn cũ, ngoài chủ tử và tôi tớ trong cung có sự thay đổi ra, cảnh vật vẫn như xưa. Phượng Triều Văn lúc rỗi rãi sẽ cùng ta dạo quanh trong cung, nếu ta nhớ lại những chuyện thú vị hồi nhỏ cũng sẽ kể cho hắn nghe và được chiêm ngưỡng nụ cười của hắn.
Có lần gặp phải Đức phi õng ẹo, nhìn ánh mắt ngưỡng mộ của Đức phi, ta lắm lời chêm một câu: “Lúc rảnh rỗi bệ hạ cũng đi dạo cùng Đức phi đi!” Làm Phượng Triều Văn nổi giận, lôi tay ta vượt qua Đức phi đang nhìn ta cảm kích, trở về Trùng Hoa điện như nhanh như gió lốc.
Thuốc uống tối ngày hôm ấy đắng vô cùng.
Ta uống một ngụm, suýt phun ra ngoài, cau mày hỏi Nga Hoàng: “Thuốc này đã cho thêm mấy cân Hoàng Liên thế? Sao hôm nay đắng khủng khiếp vậy.”
Chỉ là thuận miệng nói bừa, nào ngờ Nga Hoàng đáp: “Thuốc tối nay do chính tay bệ hạ sắc, Điền tổng quản còn phải chạy qua Thái y viện một phen đó.” Thấy ta có vẻ định đổ đi, nàng quỳ sụp xuống: “Cô nương ơi là cô nương, bệ hạ đặc biệt dặn dò, nô tì nhất định phài nhìn thấy cô nương uống cạn, nếu cô nương làm rơi làm đổ, cái đầu của nô tì chắc khó giữ rồi!”
Ta hậm hực lườm Nga Hoàng: “Cái đầu của ngươi liên quan gì đến ta?”
Nàng ấy ngơ ngác nhìn ta, bộ dáng hết sức đáng thương.
Ta ngửa cổ uống quá nửa bát thuốc, đắng đến nỗi ta sắp run cầm cập. Nàng ấy lên trước định đỡ bát thuốc, ta nhìn ngụm thuốc cuối cùng ở đáy bát, lắc lắc đầu, “Ngươi lui xuống đi, bát thuốc này ta còn phải uống nốt.”
Buổi tối sau khi Phượng Triều Văn trở về điện tắm rửa xong xuôi, ta thấy hắn lên giường, liền len lén ngậm một ngụm thuốc, đến bên giường cọ cọ lên người hắn. Hắn vốn đang sầm mặt, thấy ta gắng sức động chạm lên người mình, biểu cảm bỗng trở nên dịu dàng.
Ta mừng thầm trong lòng, chu môi lên. Hắn không hề do dự lập tức hôn ta, bị ta mớm cho ngụm thuốc, dù Hoàng đế bệ hạ định lực hơn người cũng phải phun ra ngay tại chỗ.
Ta né nhanh như chớp, mặc hắn phun hết thuốc lên chăn nệm màu vàng kim.
“Nàng… Nàng…” Hắn tức đến nỗi không nói nổi một câu hoàn chỉnh.
Ta vội chạy đi rót cốc trà súc miệng: “Đắng chết ta mất rồi!”
Hắn trừng mắt nhìn ta, thấy ta không để ý, đành tự mình trèo xuống giường đi rót trà súc miệng. Sau đó lại quay đầu trừng mắt nhìn chăn đệm bị phun bẩn, lớn giọng gọi Điền Bỉnh Thanh vào thay mới.
Điền Bỉnh Thanh bước vào, trông thấy vệt thuốc trên giường, liền dùng ánh mắt tỏ ý ngưỡng mộ ta, quan sát đám cung nữ thay xong chăn đệm, hắn giũ vai rồi nhẹ nhàng ra ngoài.
Ta nghĩ hắn mà cứ giũ vai kiểu này, chưa đến lúc già thì hai tay cũng sắp rụng.
Ta rất lo cho hắn, bèn bám theo đến tận cửa điện, bỗng một giọng nói lạnh lùng vang lên phía sau lưng: “Muộn thế này rồi còn không ngủ à?”
Điền Bỉnh Thanh quay người cười xấu xa ngay trước mặt ta, “rầm” một tiếng đóng chặt cửa điện lại. Ta dựa lưng vào cửa, khách khí nói: “Bệ hạ nghỉ trước, bệ hạ nghỉ trước đi! Người cả ngày vất vả, chắc hôm nay thần ngủ trưa quá giấc rồi, nên giờ vẫn không buồn ngủ… không buồn ngủ chút nào…”
Cố nhân có nói: Đánh một tiếng trống, dũng khí tăng lên; đánh hai tiếng trống, dũng khí suy giảm; đánh ba tiếng trống, dũng khi mất sạch.
Phượng Triều Văn quét ánh nhìn lạnh lùng qua, bộ dạng định đứng dậy tóm lấy ta. Ta dựng tóc gáy, nhanh chân đi bưng ấm trà rót một chén, ân cần đưa cho hắn: “Bệ hạ khát rồi nhỉ? Uống ngụm trà nào, uống ngụm trà nào.”
Hắn đón lấy chén trà, tiện tay đặt lên chiếc bàn sơn mài nhỏ xinh khắc hoa cạnh giường, rồi vơ lấy ta, giày vò một trận nhớ đời…
Ngày hôm sau, khi ta sống dở chết dở trèo xuống từ trên long sàng, bèn âm thầm thề rằng: Sau này dù ta có mang lòng oán hận Hoàng đế bệ hạ, cũng nhất quyết không được phép báo thù.
Hắn là ví dụ điển hình cho câu “quan phóng hỏa không cho dân đốt đèn”.
Đối với những hành vi không được lòng người của Hoàng đế bệ hạ, bách tính nhỏ bé như ta đây ngoài việc âm thầm cắn răng chịu đựng, lẽ nào còn có cách khác hay sao?
|
Chương 9: Đại lừa gạt và tiểu lừa gạt
Phượng Triều Văn dạo này có thêm một tật xấu mới, hằng ngày sau khi bãi triều rất thích nhìn ta chăm chú, ánh mắt bi thương mà xót xa, chốc chốc lại kêu thái y đến giúp ta bắt mạch.
Ta bị ánh mắt của hắn nhìn đến nỗi ngứa ngáy, nhưng không dám trái hoàng mệnh, ngoài việc nốc thuốc vào bụng ra thì chẳng còn cách nào khác.
Hôm ấy nhân lúc hắn có buổi chầu sớm, ta dẫn theo Nga Hoàng đến Thái y viện một chuyến. Ta cùng Nga Hoàng đứng trước bàn của Thạch Thanh Viện Phán thuộc Thái y viện, muốn xem thử đơn thuốc sử dụng hàng ngày và mạch án của mình, sau khi được Viện Phán đại nhân gật gù giảng giải một hồi, ta ôm đầu ê chề.
Ngoài việc rút ra kết luận hình như mình mắc bệnh không hề nhẹ thì ta chẳng nghe hiểu gì hết. Những thuật ngữ chuyên ngành kia của ông khiến người mù tịt về y dược học là ta cảm nhận một cách sâu sắc rằng mình quả là nông cạn dốt nát.
Ta ủ rũ trở về Trùng Hoa điện, chui vào góc sâu nhất của long sàng không chịu ló ra. Phượng Triều Văn bãi triều xong, Nga Hoàng ở trong điện miêu tả một lượt tâm trạng uất ức suy sụp của ta bằng hình ảnh vô cùng sinh động.
Ta nhận được cái ôm thắm thiết từ Phượng Triều Văn coi như an ủi.
Hắn kéo ta ra khỏi góc sâu nhất của long sàng rồi ôm vào lòng, nghiêm túc nhìn ngắm rất lâu, cuối cùng tin chắc tâm trạng ta không tốt, liền ôm ta trong lòng đung đưa mấy cái. Ta bị hắn đung đưa đến chóng mặt, vội kéo tai hắn hét ầm lên bắt hắn ngừng lại. Mặt hắn nhăn nhó, mắt phượng trừng lên: “Nàng dám kéo tai trẫm?!”
Ta yếu ớt than thở: “Bệ hạ, Thạch đại nhân nói thần chẳng còn lưu lại nhân gian được bao lâu, nhân lúc hẵng còn sống, hãy làm hết một lượt tất cả những việc ngày trước muốn làm mà chưa dám làm, chết rồi cũng được nhắm mắt.”
Mắt hắn nheo thành một đường kẻ chỉ, bỏ qua hẳn hành vi kéo tai xấu xa của ta, nghiến răng hỏi: “Thạch Thanh nói vậy ư?”
Ta gật đầu như giã tỏi.
Thạch đại nhân, xin lỗi ông quá!
“Tuy ta không hiểu Thạch đại nhân nói gì lắm, nhưng hằng ngày phải uống nhiều thuốc như thế cũng chẳng thấy có hiệu quả. Thạch đại nhân nói ngoài việc đầu óc ta có vấn đề ra, cơ thể cũng có vấn đề nghiêm trọng…”
Hắn nhìn ta dở khóc dở cười, mãi sau mới thở dài một hơi: “Đầu óc nàng quả là có vấn đề, cũng tại Vũ Khắc bỗng dưng…”
Ta cảm thấy lần này hắn khá thành khẩn tự trách bản thân, quả là cơ hội hiếm gặp, vội vàng thỉnh cầu: “Thật ra bệ hạ à, mặc dù đầu óc thần không tốt lắm, nhưng cả ngày ở Trùng Hoa điện ăn không ngồi rồi, e rằng sẽ buồn chán mà sinh bệnh mất thôi. Nghe nói Thạch đại nhân y thuật cao minh, chi bằng để thần đến chỗ Thạch đại nhân học y thuật nhé?”
Mắt phượng của hắn đảo qua đảo lại, nhìn ta hoài nghi. Ta lập tức nhào vào vòng tay hắn, vùi cả đầu vào trong lòng hắn, trông thương tâm hết sức, giọng điệu thút thít: “Bệ hạ, chỉ là thần muốn học chút y thuật để vỗ yên lòng mình, người không thể đồng ý sao?”
Sang ngày hôm sau, ta liền dẫn theo Nga Hoàng vui vẻ tới Thái y viện.
Thạch đại nhân nhìn thấy ta, ánh mắt ngơ ngác.
Ta tiến lên trước hành lễ bái sư, ông vẫn chưa thể định thần.
“Cô nương, chuyện này là…?”
Ta cười híp mắt đáp: “Sư tôn, bệ hạ đã đồng ý cho đệ tử đến bái sư học y, đây là lễ bái sư của đệ tử.” Rồi ra hiệu bảo Nga Hoàng dâng lên nghiên mực Đoan Khê[1] mà sớm nay ta tiện tay lấy trên ngự án của Phượng Triều Văn.
[1] Nghiên mực Đoan Khê là một loại nghiên mực nổi tiếng sản xuất ở vùng Đoan Khê, huyện Cao Yếu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc.
Nga Hoàng hùng hồn nhét nghiên mực Đoan Khê vào tay Thạch đại nhân, rồi quyến luyến nhìn mãi không nỡ rời xa.
Ta biết thực ra nàng ấy đang lo lắng cho cái đầu và cái mông của mình.
Làm mất nghiên mực Đoan Khê trong Trùng Hoa điện của Hoàng đế bệ hạ… Tội danh này kiểu gì cũng phải có người nhận trách nhiệm.
Thạch đại nhân nhận xong lễ vật vẫn chưa thể định thần.
Ta trịnh trọng nói: “Hôm qua đến Thái y viện, nghe sư tôn giảng giải còn hơn hẳn mười năm đèn sách. Hôm nay đồ nhi tới, có lòng muốn theo học sư tôn, làm thế nào để một câu dễ hiểu khi nói lên khiến người nghe phải mơ hồ.”
Thạch lão đại nhân chòm râu giật giật, vẻ mặt xúc động nhìn ta. Ta nghĩ có lẽ ông có ý định coi ta như tri kỷ nên gan càng lớn: “Sư tôn không cần vội vã, xin cứ lo việc của sư tôn là được. Nếu đồ nhi có gì không hiểu, tự khắc sẽ đến thỉnh giáo sư tôn.”
Ông cúi đầu nhìn nghiên mực, gương mặt lộ vẻ khó xử. Nghe nói Thạch đại nhân thích nghiên mực đến si mê, bây giờ hẳn ông đang băn khoăn xem nên trả lại hay nhận lấy nó, tiện thể nhận luôn đồ đệ là ta?
Ta bình sinh thích nhất nhìn bộ dạng băn khoăn chọn lựa, phân vân bất lực của người khác. Lúc này đang thích thú quan sát, Nga Hoàng đứng bên kéo tay áo ta, thì thầm khuyên nhủ: “Cô nương, chi bằng chúng ta mang nghiên mực về đi?”
Ta xoa đầu nàng ấy, chân thành sâu sắc dạy bảo: “Cái đồ keo kiệt! Thứ đã tặng đi rồi sao có thể lấy lại chứ?” Sau đó cao giọng quở mắng nàng: “Nghiên mực này tuy khá quý giá, nhưng mang ra bái sư thì thích hợp không gì bằng, sao ngươi có thể bảo ta lấy lại hả?”
Mắt lén liếc thấy hai mắt Thạch đại nhân lóe sáng, vội vàng nhìn về phía ta, lập tức nhét ngay nghiên mực Đoan Khê vào trong ngăn kéo bàn dài của mình, sau đó đóng chặt cửa tủ, xong xuôi ông mới thở phào một hơi.
Vật trên bàn của Hoàng đế bệ hạ, đâu thể là thứ tầm thường!
Câu tục ngữ “há miệng mắc quai” đã thuyết minh rất đầy đủ về cuộc sống gần đây của Thạch đại nhân.
Từ khi ta đến thái y viện, Nga Hoàng nói, Thạch đại nhân phải sống trong nước sôi lửa bỏng.
Ta không đồng tình lắm với câu nói ấy. Lẽ nào đối với người làm thầy, thu nạp được một đồ đệ siêng năng chăm chỉ, cần cù hiếu học là một chuyện rất khổ sở hay sao?
Phượng Triều Văn nói dạo này ta chịu khó học hành hơn cả hắn thượng triều, hằng ngày dậy cùng hắn, trời còn chưa sáng đã đến Thái y viện, bữa tối đã bày sẵn mà vẫn không thấy bóng dáng ta. Ta an ủi hắn: “Đời người ngắn ngủi, biển học vô biên.”
Đúng lúc gần đây trong triều chính sự khá bận rộn, nghe nói có tàn dư của Đại Trần tuyên truyền phục quốc ở mấy thành trấn. Chuyện này khiến hắn có phần nổi nóng, lo đốc thúc bộ binh điều tra nghiêm ngặt, chứ chưa từng truy đến cùng xem ta rốt cuộc bận rộn những gì ở Thái y viện.
Người thấu hiểu sâu sắc công việc bận rộn của ta chính là sư tôn Thạch Thanh, Thạch đại nhân.
Thái y viện là nơi chất đầy những thứ đặc sắc trên thế gian, những tuyệt phẩm của tạo hóa. Trong kho thuốc ở đó có vô số vị đếm không xuể, giúp ta được mở mang kiến thức. Nhưng ta là kẻ chẳng biết gì về y dược, hỏi câu nào cũng khó tránh khỏi có chút cổ quái.
|
Một hôm ta tìm thấy Nhục Thung Dung và Dâm Dương Hoắc[2], giơ cao tay cầm nó từ kho thuốc đến phòng Viện Phán đại nhân, hiếu kì hỏi: “Sư tôn, đây là cái gì? Thuốc này có công hiệu gì?”
[2] Nhục Thung Dung và Dâm Dương Hoắc: Tên các vị thuốc có tác dụng tráng dương trong Đông y.
Râu của ông giật mạnh hai cái, chỉ cho ta một đáp án mơ hồ: “Thuốc dành cho nam nhân dùng.”
Hôm đó ta đã lén sắc hai vị thuốc này rồi cho thỏ cái thử thuốc nuôi sau sân Thái y viện uống…
Ngày hôm sau, thỏ cái đó chết, nghe đâu trước khi chết, nó quằn quại cả đêm…
Ta bày tỏ niềm thương tiếc sâu sắc với cái chết của con thỏ này, nhưng khi sư tôn gọi lên chất vấn, ta lại nhìn ông bằng ánh mắt vô tội: “Đồ nhi chỉ muốn xem xem thỏ cái uống thuốc của nam nhân sẽ có hiệu quả ra sao.” Hay là do thuốc ta sắc bị quá liều lượng, ba phần độc hại nên thỏ cái chết thẳng cẳng…
Ông rất tức giận, chòm râu giật giật trừng mắt nhìn tôi hồi lâu, xong bị cung nữ trong cung Thái hậu vời đi bắt mạch.
Ta là một đồ nhi “tài đức vẹn toàn”, hơn nữa trí nhớ không tốt lắm, khó tránh việc thường một câu hỏi mấy lần, thỉnh thoảng lấy nhầm thuốc bỏ vào tráp bên cạnh, kỳ thực cũng không phải sai lầm gì to tát.
Tiểu quan trông coi kho thuốc dạo này cứ nhìn thấy ta là bắt đầu cau mày lo lắng, trông còn khó coi hơn cả nuốt Hoàng Liên. Ta an ủi vỗ vỗ vai hắn: “Tiểu ca ca đừng buồn, khi nào ta biết được toàn bộ những vị thuốc này ta sẽ giúp ca ca thu dọn kho thuốc.”
Bộ dạng hắn như thể thà chết còn hơn, “Không cần, không cần, cô nương cứ bận việc của mình đi!” Như thể nếu ta giúp hắn thu dọn kho thuốc còn nguy hiểm hơn là đao kề cổ.
Chẳng qua là ta khách khí ấy mà, thấy hắn khăng khăng cự tuyệt, đành thôi. Ta tùy tiện lấy ra một cọng Lô Sài giống cái gậy, mang về thỉnh giáo sư tôn.
Hôm ấy sư tôn cũng ủ rũ đăm chiêu, ông ngồi ngay ngắn trước bàn, lờ đi cây Lô Sài trước mặt. Bởi vì cho dù ông giảng giải tường tận đến thế nào, môi khô miệng khát đến đâu, cái đầu ta cũng hỏng thật rồi. Trí nhớ kém đâu phải lỗi của ta chứ.
Ông nhìn ta dò xét: “Đồ nhi à, hay là vi sư thử phán mạch án cho con nhé?”
Ta lắc đầu, dã tâm sôi sục: “Sư phụ đừng vội, khi nào đồ nhi học xong y thuật sẽ tự mình bắt mạch kê đơn thuốc cho bản thân.”
Ông nhảy dựng lên, chòm râu trắng run rẩy: “Dù con kê đơn thuốc cho vi sư uống cũng nhất thiết đừng tự uống nhé!” Nói rồi, ông lo lắng nhìn bụng ta.
Đây có lẽ là hậu di chứng ta để lại cho ông sau khi làm con thỏ cái kia trúng độc mà chết.
Ta không đành lòng để sư tôn tuổi cao sức yếu bị xúc động đến nước này, ta đúng là một đồ nhi chẳng ra gì.
“Sư tôn đừng vội, con mặc dù đến giờ vẫn chưa nhận biết được hết thuốc trong kho, nhưng đợi thêm một thời gian nữa, con nghĩ…” Ông cắt ngang lời ta, tức giận lấy ra nghiên mực Đoan Khê từ trong ngăn kéo, “Khỏi cần ‘đợi thêm một thời gian nữa’, hiện giờ con đã có thể xem bệnh cho mình rồi.”
Ta lắc đầu: “Có lẽ đồ nhi nên học thêm thì hơn, đợi một thời gian nữa,…”
“Con không cần đợi chờ gì hết, giờ ta có thể chắc chắn với con, cơ thể con hoàn toàn không có vấn đề gì lớn, thuốc mà bệ hạ yêu cầu kê cho con chỉ là thuốc bổ trợ mang thai…”
Phượng Triều Văn! Tên cầm thú nhà ngươi!
Ta nghiến răng mỉm cười, đợi đấy, ta xử lý xong việc này sẽ quay về tính sổ!
Ta nói: “Sư tôn à, thật ra con không muốn biết mình uống thuốc gì nhưng người đã nói ra rồi. Sư tôn hao tốn tâm sức vì đồ nhi, đồ nhi nhất định sẽ báo đáp người. Nghe nói Thái y viện vẫn lưu giữ toàn bộ mạch án tiền triều, chỉ là con muốn biết mạch án của Nhiếp chính vương tiền triều ra sao.”
Sắc mặt ông bỗng cứng đờ: “Con… ông ấy…”
Ta thản nhiên đáp: “Ông ấy là phụ thân của con.”
Vẻ mặt ông hết sức phức tạp, mãi lâu sau ông mới lấy ra một tập giấy từ trong tủ giấy phía sau lưng, lật ra một trang mạch án rồi đưa cho ta.
Ta nhìn kỹ từng chữ bên trên, ngoài quan hàm ra thì ta hoàn toàn không hiểu nội dung viết gì. Chính vì trang mạch án này, hồi đó ta cũng từng tới Thái y viện, nhưng từ sau khi các thái y từng bắt mạch cho cha ta đồng loạt mất tích, Thái y viện này đối với ta trở thành cấm địa, khiến ta khó lòng tới gần dù chỉ một bước.
“Sư tôn, người nghĩ đồ nhi có thể xem hiểu ư?”
Ông đón lấy tờ giấy, cẩn thận xem một lượt, rồi đơn giản háo nội dung: “Nhiếp chính vương tiền triều chết do trúng độc.”
Ta ngẩn người nhìn ông, sư tôn thích lừa gạt người khác à, đây chắc chắn không phải lời mà người nên nói.
Ông lại nói: “Nhiếp chính vương tiền triều chết do trúng độc.”
Trái tim ta như chịu sự đả kích nặng nề, tứ cho bỗng mất hết sức lực. Ta ngã “rầm” về phía sau, trong đầu tiếng ong ong vang lên không ngừng, loáng thoáng nghe tiếng hét chói tai của Nga Hoàng, rồi càng ngày càng trôi xa khỏi ta…
Ta không biết mình đã sốt mấy ngày, lúc tỉnh táo, lúc hồ đồ. Khi ta thật sự bỏ dậy nổi khỏi long sàng, Nga Hoàng vui mừng lải nhải suốt, kể rằng lúc tỉnh táo thì ta gọi Phượng Triều Văn là “bệ hạ”, lúc hồ đồ thì nhìn chằm chằm hắn rồi gọi “cha”. Bệ hạ thượng triều là “quân vương”, bãi triều lại là “cha”, bệ hạ bận rộn đến đáng thương, gầy hẳn đi.
Ta ôm đầu mình, tự hối lỗi trong chăn. Đây đúng là chuyện chẳng ra thể thống gì.
Khi hắn bãi triều, ta đã ngồi cạnh bàn ăn cơm, bên trên bày mười mấy món ăn, rất nhiều món nóng sốt và điểm tâm. Nga Hoàng ở cạnh khuyên ta: “Cô nương ăn từ từ… từ từ thôi… sao cứ như bị bỏ đói mấy chục ngày rồi thế?”
Ta nuốt miếng bánh trong miệng xuống, uống ngụm sữa, quay đầu trừng mắt nhìn nàng ấy: “Thì chả bị đói suốt mấy ngày còn gì?” Lén liếc nhìn Phượng Triều Văn đang đứng ngẩn ngơ ở cửa điện, ta giơ cao nửa miếng bánh còn lại trong tay, tươi cười vẫy vẫy hắn: “Bệ hạ vừa bãi triều à? Tới đây ăn chút đi. Bánh hôm nay ngon lắm.”
Giờ hắn mới định thần, sải bước lại gần, ngồi xuống đối diện ta, nhìn qua các món ăn trên bàn, ánh mắt không vui liếc sang Nga Hoàng: “Nàng ấy vừa mới đỡ một chút, sao lại cho ăn những thứ đầy dầu mỡ thế hả? Còn không mau lui xuống mang mấy món thanh đạm ra đây?”
Ta giương mắt nhìn thịt đông chân giò, thịt bò cay nóng, bánh chay hương sen do đích thân ta gọi bị lần lượt dọn khỏi bàn ăn, chớp mắt trên bàn đã trống trơn.
Nga Hoàng hành lễ, “Nô tì sẽ lập tức đến Ngự thiện phòng đặt làm mấy món thanh đạm cho cô nương.” Nói rồi nàng nhanh chóng lùi lại đến cửa điện, thoắt một cái đã chẳng thấy bóng dáng đâu.
|
Ta đối diện với chiếc bàn trống trơn, trừng trừng nhìn hắn: “Có phải bệ hạ ghét thần ăn nhiều không?”
Hắn ngồi rất gần ta, ta cẩn thận quan sát, vành mắt hắn thâm quầng, trong mắt phượng xưa nay trong veo như hồ nước vằn đầy những tia màu đỏ. Nga Hoàngnói chẳng sai, quả nhiên hắn gầy hẳn đi.
Ta nghĩ chắc tại Phượng Triều Văn lo lắng cho ta đây mà.
Mày hắn hơi chau lại, trong mắt ngập tràn sự dịu dàng: “Hồi đó sau khi tiến cung kiểm kê lại Thái y viện, Thạch Thanh tìm thấy tờ mạch án kia trong tường kép ngăn kéo bàn. Vốn dĩ là vô tình tìm được, nhưng vật được cất giấu kỹ càng như vậy hẳn là thứ quan trọng, nên Thạch Thanh vội trình lên cho ta xem, lúc đó ta đã giữ lại,…” Hắn liếc nhìn thần sắc của ta, hình như đang do dự không biết có nên kể tiếp hay chăng.
Ta nhìn hắn chăm chú, ngồi rất ngay ngắn, vững chắc tựa núi, nhưng nét mặt quái lạ không chịu nghe theo sự khống chế của ta. Ta cười nhạt, nghe thấy giọng nói điềm đạm của chính mình vang lên bên tai: “Bệ hạ chỉ kể thế thôi, không sao hết.”
Hắn đưa bàn tay lên sờ má ta: “Tiểu Dật, nếu nàng muốn khóc, thì cứ khóc đi. Thạch Thanh nói lòng nàng chất chứa u uất, lại không thể trút ra, vậy nên mới bị sốt…”
Ta ngang bướng nhìn hắn, cảm thấy những thứ vừa ăn ban nãy nặng như chì đang đè lên bao tử, rồi cứ thế cứ thế trĩu dần xuống. Quả nhiên không được ăn nhiều những thứ ngấy dầu.
Ta lắc lắc đầu, ra hiệu hắn tiếp tục kể.
Hắn nói: “Sau này hỏi tiểu quan trông coi kho thuốc trước kia của Thái y viện, nghe nói chiếc bàn này là của một vị Thái y họ Trương dùng khi còn sống. Hơn nữa đây là vị Thái y được Thái hậu nương nương tín nhiệm nhất…”
Ta nhìn chằm chằm mắt Phượng Triều Văn, quả nhiên suy nghĩ trước kia của ta có vài phần chuẩn xác. Thái hậu làm trò này đâu phải lần một lần hai, cha ta chẳng qua chỉ là Nhiếp chính vương mấy hôm trải thảm cho con đường của bà ta. Ông một lòng bảo vệ cơ nghiệp Đại Trần, hiểu rõ Tiểu Hoàng khó lòng giữ vững nổi giang sơn trước cục diện chính trị bấp bênh, nhưng vẫn dốc hết tâm sức phò tá nó, ngờ đâu, ngờ đâu… cuối cùng lại rơi vào tình cảnh này…
Khuôn mặt Phượng Triều Văn kề sát lại gần ta, ta nghe thấy hắn gào thét bên tai: “Tiểu Dật.. Tiểu Dật… mau bỏ tay ra… đừng tự cắn mình nữa…” Dường như có một “ta” khác đang từ trên cao nhìn xuống, lạnh lùng quan sát hắn luống cuống tách ngón tay ta, giữ lấy cắm ta… Tất cả những hình này đều rời khỏi ta, rất xa…
Hồn phách ta như đã ở ngoài cơ thể, nhìn thân xác của mình cong gập như cây cung, tay nắm thành nắm đấm, răng cắn chặt môi dưới, cơ bắp toàn thân cứng đờ. Điền Bỉnh Thanh chạy vào, vẻ mặt lo lắng: “Cô nương lại làm sao vậy?” Vừa hỏi vừa giúp Phượng Triều Văn tách từng ngón tay đang nắm chặt của ta ra, đôi bàn tay đã chảy máu đầm đìa… Rồi lại nắm lấy cằm ta, định tách hàm răng đang nghiến chặt, lớn tiếng vọng ra bên ngoài: “Người đâu! Đi gọi Thạch Thanh tới đây mau lên!”
Viện Phán đại nhân chạy như bay tới, chòm râu ông run run, ông nắm lấy cổ tay ta rồi tát thật mạnh lên mặt ta, ấn huyệt nhân trung, hét to: “Mau tỉnh lại!”
Tai ta có thể nghe thấy rõ ràng Phượng Triều Văn nói: “Thạch Thanh, vô ích thôi, nàng ấy sớm đã mất đi cảm giác đau. Có lẽ do lúc Nhiếp chính vương tiền triều qua đời, nàng ấy quá hoảng sợ, luôn nghĩ rằng chính mình khiến cha ruột tức chết, lại thêm việc Nhiếp chính vương chỉ có một đứa con gái, nên ông thương yêu nàng hết mực, tình phụ tử rất sâu sắc…”
Ta còn nghe thấy Viện Phán đại nhân kéo tai ta ra sức hét: “An Tiểu Dật! Đồ nhi! Cha của con không phải bị con làm tức chết, là do Thái hậu tiền triều hại chết đó, mau tỉnh lại báo thù cho ông ấy!”
Lòng ta xao động, một ngụm máu phụt ra ngoài, bắn lên mặt Phượng Triều Văn. Ta nhìn chăm chú, sắc mặt hắn ngập tràn niềm vui: “Tỉnh rồi tỉnh rồi…” Hắn bất chấp trên đầu trên mặt mình toàn là máu, vội vàng ôm chặt ta vào lòng.
Hồn phách ta bỗng trở về thân xác.
Thạch đại nhân cầm cổ tay bắt mạch cho ta, ta bình tĩnh từ từ vùng khỏi: “Con không sao, chỉ là mệt thôi, con muốn nghỉ một chút.”
Phượng Triều Văn lắc đầu với ông ra hiệu không sao. Ông cùng Điền Bỉnh Thanh lui xuống, Phượng Triều Văn đỡ ta dậy: “Trẫm đi nghỉ cùng nàng nhé?”
Ta đẩy hắn: “Xê ra, trên người bệ hạ toàn mùi máu, khó ngửi lắm.”
“Vậy ta đỡ nàng lên giường nhé.” Hoàng đế bệ hạ dịu dàng khẩn cầu.
Ta liếc nhìn hắn, mắt phượng của hắn cong cong, ẩn chứa sự căng thẳng và lo âu. Ta có thể thấy bóng mình nhỏ xíu trong mắt hắn, môi dưới hằn sâu vết cắn rớm máu, không hiểu tại sao, ta lại không thốt lên nổi một câu cự tuyệt, mặc hắn dìu lên long sàng.
Hắn đắp chăn cho ta, xong xuôi mới nhẹ nhàng xuống giường. Ta nghe thấy tiếng nước, không lâu sau, hắn cầm trong tay chiếc khăn mặt đi tới, lau từng chút một trên gương mặt ta, lau đến môi, hắn thì thầm: “Có thể sẽ hơi đau, nàng cố chịu đựng một chút.”
Ban nãy rõ ràng ta nghe thấy hắn nói rằng ta đã mất cảm giác đau đớn, rõ ràng hắn biết chuyện này, câu nói kia thật dư thừa, nhưng giọng điệu sao mà dịu dàng quá, có sức mạnh kì lạ trấn an lòng người. Mắt ta dán chặt vào hắn, cảm nhận hắn đang nhẹ nhàng lau môi mình. Ánh mắt hắn nhìn ta vô cùng buồn bã, không giống với bất kì một Phượng Triều Văn nào mà ta biết, trước giờ ta chưa tùng trông thấy Hoàng đế bệ hạ đau lòng đến thế này.
Hắn lau tay lau mặt cho ta xong mới xuống giường đi rửa mắt chải đầu.
Trước khi Phượng Triều Văn quay về, ta đã chìm vào giấc mộng.
Trong mơ ta ở giữa một nơi hoang vu, cô độc một thân một mình đi mãi đi mãi, không biết từ đâu đến, không biết phải đi đâu,trời đất mịt mờ, hồng hoang mông muội…
Lúc tỉnh dậy, trời đã sáng, ta khẽ nhấc đầu nhưng cảm thấy gượng gạo. Kề sát sau lưng ta là một vòng tay ấm nóng lạ thường. Trời tháng Sáu tháng Bảy, cho dù bốn góc trong điện đều đặt khối băng thì ta vẫn đổ mồ hôi như tắm.
Ta nằm ngửa ra, trông thấy một đôi mắt phượng vằn tia máu, nhìn mặt trời bên ngoài, ta mỉm cười tự giễu: “Bệ hạ, bộ dạng này của người quả là giống với Thế tử của Ích Vương khi chưa về nông thôn. Đêm xuân ngắn ngủi có ngần, buổi mai từ ấy thánh quân bỏ chầu[3], có phải bệ hạ muốn thần gánh thêm tiếng xấu “hồng nhan họa thủy” không?
[3] Trích “Trường hận ca” của Bạch Cư Dị.
Hắn nhéo má ta, thần sắc điềm tĩnh như thường: “Nàng cười xấu lắm, lại đây, khóc một cái cho trẫm xem nào.”
Ta lườm hắn: “Bệ hạ có sở thích gì kỳ vậy, hay là thần triệu tập nương nương các cung và cung nhân tới Trùng Hoa điện khóc cho bệ hạ xem nhé? Bệ hạ xem vị nương nương nào khóc đẹp đến nỗi rung động lòng người, cũng phải ban thưởng hậu hĩnh đó!”
Hắn đăm chiêu nhìn ta, cúi đầu gặm một cái lên chóp mũi ta: “Nàng có khóc hay không? Khẩu dụ của trẫm nàng dám không tuân theo? Còn không mau khóc một cái cho trẫm xem!”
Ta dựa vào lòng hắn, ra sức cọ mình vào người hắn: “Thảo dân cứ kháng chỉ đấy, người chém thần đi, chém thần đi này!”
|
Hoàng đế bệ hạ cười vang, nhảy xuống từ trên long sàng: “Buổi sớm tinh mơ nàng thật ghê gớm, nàng cứ đợi đó cho trẫm!”
Phượng Triều Văn là người ngang bướng, hắn đã nói “đợi” là phải “đợi” rồi. Ta ăn xong bữa sáng, đợi mãi, nhưng lại nhận được tin xuất cung.
Điền Bỉnh Thanh mau bước tiến vào, mặt mày hớn hở: “Cô nương, bệ hạ nói hôm nay sẽ dẫn cô nương xuất cung, đi giải sầu, bảo cô nương mau chuẩn bị.”
Ta đứng dậy nhìn quanh Trùng Hoa điện, hình như ngoài việc tìm chút vàng bạc theo bản năng ra, thì ta chẳng có gì phải chuẩn bị.
Điền Bỉnh Thanh thấy ta ra sức vơ hộp nữ trang trước bàn trang điểm, nhếch miệng cười: “Cô nương, trong hầu bao này đã chuẩn bị đầy đủ cho người rồi. Người thay bộ y phục đơn giản không bắt mắt là được.”
Nga Hoàng tiến vào giúp ta tìm một bộ áo ngắn váy dài hết sức giản dị, gỡ xuống toàn bộ nữ trang rườm rà trên đầu, thay bằng trâm hoa nhỏ màu bạc. Ta khen nàng ấy chu đáo, xuất cung đừng nên rêu rao thì tốt hơn.
Phượng Triều Văn hôm nay cũng chỉ mặc một bộ áo dài lụa màu xanh nhạt, bỗng chốc thay đổi vẻ lộng lẫy thường ngày, quả giống với sỹ tử nhà ai đi dự thi.
Trên đường xe ngựa ra khỏi cổng cung điện, ta vén rèm nhìn thử, rồi thở phào nhẹ nhõm. Vào cung đã mấy tháng, hôm nay cuối cùng đã được ra ngoài thay đổi không khí.
Điền Bỉnh Thanh ngồi đằng trước với phu xe, cười nói: “Nô tài cũng rất lâu rồi chưa được xuất cung, hôm nay nhờ phúc của cô nương đó.”
Phượng Triều Văn nhéo má ta, “Nào, khóc một cái cho trẫm xem thử đí.” Ta lườm hắn, hắn ra hiệu bảo ta nhìn vào lòng bàn tay mình. Lòng bàn tay từ từ mở ra, bên trong có một vật màu đỏ rực. Ta nhìn chăm chú, bỗng lập tức ngẩn người, với tay nắm lấy nó, không thể tin vào thứ trước mắt, cứ ngắm đi ngắm lại.
Không sai! Đây chính là cá gỗ nhỏ mà cha tự tay làm cho ta, vòng vàng nhỏ xíu trong miệng cá tuy chưa phai màu nhưng nút dây song ngư vặn vẹo cha tự tay bện kia do dãi dầu quá lâu nên đã cũ hơn rất nhiều.
Ta nâng niu cá gỗ nhỏ, hình ảnh trước mắt hơi nhòe đi. Ta cảm kích ngẩn đầu nhìn Phượng Triều Văn: “Cá gỗ nhỏ này… Cá gỗ nhỏ cha làm, sao lại ở chỗ bệ hạ? Ta cứ tưởng đã mất ở Hoàng Hà cốc rồi.”
Hắn vuốt ve gương mặt ta, “Hồi đó khi trị thương tình hình rối ren, ta đã cất nó hộ nàng. Sau này lại quên mất không trả lại. Ngoan, khóc một cái cho trẫm xem nào.”
Trong mắt ta lệ hoa dâng trào, ta ghì sát cá gỗ nhỏ vào lòng, cuời tươi rói: “Chắc chắn bệ hạ cố ý không trả lại cho thần, đúng là hẹp hòi!”
Hắn gật đầu lia lịa: “Phải, ta ham muốn đồ của nàng đấy.”
Nếu không phải trong xe chật hẹp thì ta chỉ mong đạp hắn một cước.
Hắn thân là quân vương một nước, có thứ gì chưa từng trông thấy, vậy mà lại nói ra lời này.
Ta ngơ ngác nhìn hắn, như thể trước giờ chưa từng quen biết, không hiểu đằng sau việc hắn dốc hết tâm sức vào chuyện này, rốt cục có âm mưu gì? Mãi đến khi nghe thấy Điền Bỉnh Thanh gào lên: “Bệ hạ, cô nương, đến nơi rồi!”
Ta vén rèm nhìn thử, lập tức ngẩn người.
Hình như hôm qua ta còn cười hi hi vì được ra ngoài đi chơi. Ta như đang cưỡi ngựa xuôi theo con đường nhỏ quanh co này trở về nơi xa xăm trong ký ức, ta đập đập cửa, cửa mở toang, một giọng nói cáu kỉnh cùng một chiếc then cửa từ trong bay thẳng ra…
“Nghiệt tử, ngươi còn biết về nhà cơ đấy!”
Lòng ta đau như cắt.
Ta liền thả rèm xe xuống, “Về cung đi.”
Cánh tay rắn chắc của Phượng Triều Văn bỗng vươn ra ôm chặt ta, “Nếu đã đến đây rồi thì tiện thể về nhà xem sao.”
Cả người ta run lẩy bẩy, nỗi sợ hãi không khống chế được dâng lên trong lòng, sau cánh cửa đóng chặt này, quá khứ lẩn trốn đâu đây.
Không mở toang cánh cửa này, thì ta vẫn vui cười hát ca trong đó, sống cuộc sống sung sướng có cha chở che, gương mặt ta rạng rỡ, chưa từng trải qua cuộc sống phong sương.
Không mở toang cánh cửa này, thì cha vẫn đứng giữa sân, tay cầm then cửa trốn sau cổng lớn…
Phượng Triều Văn bế ta sải bước tiến lên, mỗi bước đi ta càng thêm run rẩy, nỗi sợ hãi tột độ bao trùm cả cơ thể. Ta thét lên một tiếng chói tai, vùng ra khỏi lòng hắn, ra sức đá, ra sức đạp, đem tất cả những sợ hãi đối với thế gian này cùng những bi thương tuyệt vọng vùi sâu trong lòng trút hết lên con người kia.
Hắn với hai cánh tay giữ chặt ta, liên tục dỗ dành: “Tiểu Dật ngoan… Tiểu Dật ngoan, chúng ta chỉ vào xem thử thôi, đi bái tế một lần…!”
Ta hận hắn! Ta hận thế gian này!
Ta hét ầm lên, chỉ mong ôm chặt hai tay giấu mình đi, để không phải nhìn thấy cảnh vật trước mắt. Hắn vươn tay ôm ta, bị ta hết đá rồi lại đạp, nhưng rốt cục hắn vẫn bế được, cùng ta đi gõ cửa. Ta vùi cả cơ thể đang run lẩy bẩy vào lòng hắn, khóc lóc thảm thiết, giọng nói quen thuộc vang lên sau cánh cửa: “Ai vậy?”
Cánh cửa sơn đỏ loang lổ kêu “két” một tiếng. Qua dòng lệ nhòa, ta nhìn thấy gương mặt già nua và mái tóc bạc trắng như sương của bác Đồng. Phượng Triều Văn cười nói: “Bác Đồng, ta đưa Tiểu Dật về nhà tế bái lão gia.”
Ta càng khóc dữ hơn.
Như thể hôm nay mới là ngày cha mất.
Ta quỳ trước bài vị của cha, khóc đến xé ruột xé gan, khóc đến tối sầm đất trời, lu mờ nhật nguyệt, khóc cho đến khi cổ họng khản đặc, hai mắt đỏ ngầu, nước mắt mới dần ngừng tuôn rơi.
Bác Đồng cảm động vô cùng khi thấy ta trở về, chòm râu bạc run run, nước mắt người già đục ngầu men theo nếp nhăn hằn sâu trên gương mặt trườn xuống, giọng bác khàn khàn khuyên bảo: “Nếu tiểu lang đã về thì cũng nên thắp nén hương cho lão gia. Ba năm rồi tiểu lang chưa về đây, bác Đồng cứ tưởng… cứ tưởng cháu bỏ mạng rồi…”
Ta đón lấy nén hương Phượng Triểu Văn vừa châm, cắm vào lư hương. Lúc quỳ xuống định khấu đầu mới phát hiện còn một người nữa quỳ ngay bên cạnh, bác Đồng đã lên trước đỡ hắn: “Bệ hạ, chuyện này ngàn vạn lần không thể! Người tìm được tiểu lang đưa về nhà, lão già nằm dưới đất chết cũng nhắm mắt, đâu thể nào để bệ hạ phải quỳ?”
Phượng Triều Văn đẩy bác Đồng ra, “Lão tướng quân đương nhiên xứng!” Rồi cùng ta khấu đầu trước bài vị của cha.
Bác Đồng sau đó lén hỏi ta sau lưng Phượng Triều Văn: “Tiểu lang… cháu với bệ hạ rốt cuộc đã có chuyện gì vậy?” Bác vẫn không sửa được cách xưng hô trước kia.
Ta khóc xong một trận, trong lòng nhẹ nhõm hơn hẳn, ngồi trong sân nhà ngày xưa, nhưng thấy cây cối hoa lá sum suê, còn tươi tốt hơn trước rất nhiều. Nghĩ đến chuyện cảnh vẫn còn mà người đã mất, ta nghiêng đầu quệt lệ hoa đang chầm chậm lăn xuống, trưng đôi mắt sưng phồng làm mặt xấu với bác Đồng: “Bác thấy cháu với bệ hạ có chuyện gì?”
|