Mật Mã Tây Tạng
|
|
Trác Mộc Cường Ba thở dài một tiếng, thầm nhủ: "Nếu đã có địa vị rất cao trong xã hội rồi, tại sao còn đi làm một việc ti tiện như là trộm mộ chứ? Điên rồi chắc? Đến cuối cùng chẳng phải là chết giữa rừng hoang không người biết đến hay sao." Đột nhiên, một ý nghĩ loé lên, ý nghĩ đáng sợ ấy tràn ngập khắp bên trong đại não: "Vậy còn mình thì sao? Mình vậy mà lại giống đám trộm mộ kia ư? Không! Mình cố gắng phấn đấu vì lý tưởng, tất cả những thứ mình bỏ ra, đều là cần thiết, đều có giá trị cả! Nhưng mà…" Để có được giúp đỡ và chi viện, bọn gã đã để mục tiêu đơn giản là tìm chó ngao thành tiện đường tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, hoặc có thể nói, trong nhóm của gã giờ đây, mục đích chủ yếu của các thành viên đã biến thành tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu rồi, vậy thì có khác gì bọn đào mộ trộm không chứ. Trác Mộc Cường Ba không thể thanh thản, lầm lũi cúi gằm mặt xuống. "Vậy bây giờ chúng ta nên làm gì? Đến Thành Phố Trắng ư?" Vừa nãy khi lạt ma Á La nhắc đến nơi này, Trác Mộc Cường Ba nhận ra trong ánh mắt ông có gì đó mà gã không sao lý giải nổi, chiếu lý mà nói thì một cao tăng mật tu cách biệt với thế gian như ông, đáng lẽ ra phải hoàn toàn không có quan hệ gì với một thành phố cổ hoang phế trong rừng rậm nguyên sinh Nam Mỹ mới đúng, rốt cuộc lạt ma Á La có gì bất ổn đây? Thậm chí Trác Mộc Cường Ba còn nghĩ: "Lẽ nào lạt ma Á La cũng từng là thành viên của tổ chức trộm mộ ấy?"
"Điều chúng ta cần làm trước mắt, chính là rời khỏi rừng Mãng Xà, đồng thời tránh xa các bộ lạc ăn thịt người. Còn Thành Phố Trắng hả, nếu găp được, cũng có thể tới tham quan một phen, Phật đã dạy, vạn sự tùy duyên mà." Lạt ma Á La nói vậy, trong lòng lại vui mừng không xiết: Cường Ba thiếu gia, cuối cùng cậu cũng bắt đầu quan tâm đến thành phố hoang phế đó rồi sao? Yên tâm đi, tôi nhất định sẽ dẫn cậu tới đó, cậu là hy vọng Hoạt Phật đã chỉ ra cho chúng tôi, tin rằng cậu sẽ không làm chúng tôi thất vọng."
Hai người đi về phía trước một đoạn, vừa đi vừa thảo luận hướng đi của giáo sư Phương Tân và Trương Lập, nhưng cũng chỉ là đoán mò, vì cả hai đều biết tỷ lệ gặp lại nhau trong khu rừng này là rất nhỏ. Chừng một tiếng đồng hồ sau, ánh trăng trên cao đã dần trở nên ảm đạm, xem ra trời cũng sắp sáng đến nơi, khoảng thời gian tối tăm nhất trước bình minh kia cũng sắp tới. Bỗng nhiên phía trước có tiếng gió nổi lên, trong bóng tối một vật trông như cái cột đèn đang vặn vẹo lăn lộn, hai người tự hiểu, lại gặp phải trăn khổng lồ nữa rồi, nhìn bóng đen kia phán đoán, có lẽ con trăn này còn to hơn những con họ gặp trước đó nữa. Lúc này nó đang ra sức vặn vẹo, quật rầm rầm vào thân cây, rõ ràng là đang vô cùng đau đớn. Trác Mộc Cường Ba thấy tình huống này hơi giống với con trăn vừa nãy, liền hỏi lạt ma Á La: "Có phải bị dao rạch bụng không vậy?"
Lạt ma Á La quan sát một lúc, đoạn nói: "Không giống, đây là một con trăn đã lớn tuổi, chắc là sắp chết đến nơi. Trên mình nó không có vết thương nào, có thể là đã ăn phải thứ gì đó không sạch sẽ rồi." Trác Mộc Cường Ba lại một lần nữa trợn mắt kinh ngạc nhìn lạt ma Á La, đôi mắt ông dường như sáng rực lên trong đêm tối, thị lực thật kinh người.
Trác Mộc Cường Ba lại hỏi: "Có cần đi vòng qua không?" lạt ma Á La lắc đấu: "Không, di chuyển bậy bạ sẽ khiến nó nổi điên lên, có khi sắp chết còn kéo cả chúng ta theo nữa cũng nên."
Có thứ gì đó bị con trăn vẩy lên mặt Trác Mộc Cường Ba, gã đưa tay sờ thử, thấy dinh dính trơn trơn, liền thấp giọng nói: "Nó hộc máu rồi." Trên người lạt ma Á La cũng bị bắn không ít thứ đó, ông quệt một chút đưa lên mũi ngửi, đoạn nói: "Không, không giống, dính dính trơn trơn như vậy, chắc là dầu mỡ rồi."
Trác Mộc Cường Ba lặp lại: "Dầu?" lạt ma Á La điềm đạm đáp: "Có lẽ tại chất lượng cuộc sống được nâng cao, thành ra bị béo" Trác Mộc Cường Ba nghe vậy cũng không khỏi mỉm cười.
Lúc này, con trăn kia đã dùng hết chút sức lực cuối cùng nghển cao đầu lên, húc mạnh vào thân cây lớn hơn thân thể nó gấp mất chục lần kia, sau đó mềm nhũn nằm gục xuống đất như cọng mì rơi khỏi nồi. lạt ma Á La cẩn thận quan sát kỹ lưỡng cả chục phút, rồi mới bảo: "Kết thúc rồi, chúng ta đi thôi."
Vừa đi vòng qua chỗ con trăn ngã xuống, phía trước liền thấp thoáng có ánh sáng, Trác Mộc Cường Ba cả kinh thốt lên: "Có người!" Đối với gã, trong khu rừng này, trừ phi có người, bằng không sẽ không có ánh sáng. Lạt ma Á La cũng ngẩn ra, rồi ông nói: "Nhưng không có tiếng động gì, chúng ta qua xem sao, phải cẩn thận."
Vòng qua tán cây, cả hai người đều không ngờ tới, phía trước lại có cả một khoảng trống, dưới chân là một vũng bùn lớn, trông như đầm lầy. Giữa vũng bùn lại có mấy ngọn lửa đang cháy hừng hực, hàng cây cao trăm mét vây quoanh tạo thành một miệng giếng khổng lồ, tất cả đều toát lên vẻ thần bí lạ lùng. Đi bộ lâu như vậy, đây là lần đầu tiên họ nhìn được rõ bầu trời đêm, chỉ thấy vầng trăng như chiết đĩa bạc treo lơ lửng nơi chân trời phía Tây, quả nhiên là sắp sáng rồi.
Lạt ma Á La vốc một ít bùn lên, đưa cho Trác Mộc Cường Ba ngửi, gã vừa hít vào đã kinh ngạc kêu lên: "Là dầu, đúng là dầu!" Nắm bùn lạt ma Á La cầm trong tay kia có pha lẫn cả mùi dầu mỏ, dầu thô đen kịt đang chầm chậm đùn lên bên dưới lớp bùn, mấy ngọn lửa kia chắc là do sét đánh xuống đốt lên, cũng không biết đã cháy như vậy bao nhiêu thế kỷ rồi. Trác Mộc Cường Ba hiểu rất rõ, nếu tin tức ở đây có dầu thô bị tiết lộ ra ngoài, chưa tới nửa năm, khu rừng nguyên sinh sâu đến đáng sợ này sẽ không còn tồn tại nữa. Xe san đất cỡ lớn, cưa điện dùng khí áp, có thể dễ dàng san phẳng những cây cổ thụ ngàn năm này, xe tăng và xe thiết giáo, có thể làm bất cứ loài động vật nào biến mất, còn về các bộ lạc ăn thịt người lại càng dễ dàng hơn, huỷ diệt một nền văn minh cũng đơn giản như giẫm nát một cánh hoa dại ven đường vậy. Tới đây, gã không dám nghĩ tiếp nữa.
Thành Phố Trắng
Lạt ma Á La thấy Trác Mộc Cường Ba ngơ ngẩn bần thần, có vẻ không dằn lòng được, như những gì người kia nói, theo truyển thuyết của đám thổ dân ăn thịt người, Thành Phố Trắng ở phía sau thiên hoả, cũng có nghĩa là mục tiêu ở ngay phía trước. Ông nói với Trác Mộc Cường Ba: "Đi thôi, ở đây không có gì đáng xem đâu."
"Không thượng sư, ngài không hiểu rồi, dầu mỏ ở chỗ này đã nhiều đến mức tràn cả lên mặt đất, nếu tin này mà lan ra ngoài, ngài biết sẽ đưa tới hậu quả thế nào không?" Trác Mộc Cường Ba giải thích với lạt ma Á La. Lạt ma Á La điềm đạm nói: "Những chuyện này, chính quyền địa phương sẽ nghĩ cách giải quyết, không phải vấn đề tôi và cậu nên nghĩ ngợi, cậu thấy có phải không? Chúng ta tiếp tục lên đường thôi, nói không chừng phía trước còn có thứ gì khiến người ta bất ngờ đó." Nói đoạn, ông đã phăm phăm đi lên phía trước. Trác Mộc Cường Ba thở dài một tiếng, cảm khái khôn cùng.
Bọn họ mất nửa tiếng để vòng qua vũng bùn, cảnh sắc xung quanh dần dần thay đổi. Những cây đại thụ dần dà ít hẳn đi, đã có thể nhìn thấy bầu trời đêm qua kẽ lá; dòng sông nhỏ chảy róc rách, lá cây đung đưa trong làn gió nhè nhẹ, tiếng kêu đêm của lũ côn trùng chim thú hoà lẫn vào nhau, văng vẳng từ phía đằng xa truyền lại, phảng phất như họ vừa bước ra khỏi một bức tranh, vạn vật xung quanh trong nháy mắt đã tràn đầy sức sống, cả không khí cũng trở nên ấm áp mà thân thiết. Trác Mộc Cường Ba mừng rỡ reo lên: "Chúng ta ra khỏi rừng rồi, thượng sư, chúng ta ra khỏi rừng Mãng Xà rồi!"
"Ừm," lạt ma Á La gật đầu, ánh mắt cũng lộ vẻ mừng vui. Chợt bên tai vang lên tiếng thác chảy, hai người tâm tình phơi phới, vội rảo bước chạy về phía âm thanh đó truyền lại, chạy xuyên qua tầng dây leo chằng chịt, trèo lên một đồi đất nhỏ. Thứ đầu riên đập vào mắt họ, là một kiến trúc cung điện trông rất giống đền Pantheon, cung điện huy hoàng trắng toát tắm trong ánh trăng bàng bạc, càng lại gần càng cảm thấy thật cao lớn. Hai người không tự chủ được mà thả bước chậm lại, chỉ sợ tiếng động phát ra dưới chân sẽ làm kinh động đến người khổng lồ đã say ngủ ngàn năm. Càng lên cao, các kiến trúc xuất hiện trước mắt càng khiến họ kích động, hai người phát hiện ra, ngôi đền thần kia hóa ra lại được xây dựng trên một kiến trúc lớn hơn nữa, một kiến trúc dạng kim tự tháp bậc thang khổng lồ màu trắng. Nó lặng lẽ đứng sừng sững nơi đó, nguy nga tráng lệt, khí thế hùng vĩ, chẳng khác nào một ngọn núi nhỏ. Dưới chân tháp có một hàng bậc thang dựng đứng thông thẳng tới đền thờ trên đỉnh tháp, trên bậc đá giờ đã mọc đầy các bụi cây khóm cả, có mấy mơi thậm chí còn sụt lún nữa. Bốn phía kim tự tháp có những bức điêu khắc hình rắn khổng lồ, sống động như thật. Dưới ánh trăng tinh khiết, bóng rắn phảng phất như đang cuồn cuộn xoay chuyển xung quanh kim tự tháp. Đi lên trên nữa, họ lại càng thấy nhiều hơn, hai bên trái phải của ngôi kim tự tháp khổng lồ đó có hai kim tự tháp khác tương đối nhỏ hơn, một cái hình mũi dùi, cái kia trên đỉnh lại có kết cấu hình tròn, thoạt nhìn trông khá giống với một đài quan sán thiên văn hiện đại. Cuối cùng, khi họ lên tới đỉnh đồi,đứng bên sườn dốc, toàn bộ Thành Phố Trắng khí thế hùng vĩ hiển hiện lên trước mắt hai người. Khoảnh khắc ấy, thời gian dường như đông cứng lại, cả nhịp thở cũng ngừng, không khí xung quanh không còn lưu động nữa, tất cả chỉ có thể dùng hai chữ "kỳ tích" để hình dung.
Lạt ma Á La trước tiên nghĩ tới tất cả những lời tán thán của người Tây Ban Nha dành cho kiến trúc Maya cổ khi họ lần đầu riên đặt chân lên Châu Mỹ: "Khắp nơi đều là hình ảnh điêu khắc tuyệt đẹp…lại có những cổng chào vô cùng trang nhã!" "Tuyệt đẹp, cả một quần thể kiến trúc xa hoa, quả đúng là tuyệt phẩm nghệ thuật, quá sức lộng lẫy!" "Trang trọng mà mỹ lệ…chỉ hơn chứ không kém!" "Là các vị thần đã tạo nên những hình điêu khắc này…" "Không, tất cả những lời đó đều không đủ để nói lên vẻ đẹp của những kiến trúc này, những kẻ không tận mắt trông thấy chúng lặng lẽ tắm trong ánh trăng vàng làm sao cảm nhận được tâm trạng kích động đó. Đứng bên bờ vách núi, mấy trăm toà kiến trúc màu trắng thu cả trong tầm mắt, vô số đền thờ, cung điện, quảng trường thi đấu, trụ đá kỷ niệm, mỗi công trình kiến trúc đều đẹp tinh tế vô ngần, tất cả đều là tác phẩm nghệ thuật. Có thể nói, đây là quần thể kiến trúc quy mô lớn nhất, bảo tồn hoàn chỉnh nhất kể từ khi con người phát hiện ra các di chỉ Maya cổ đại tới nay. Chúng nằm tản mát trong bóng cây, nhưng bóng cây hoàn toàn không che mờ được ánh sáng của chúng, bụi các phủ trên di chỉ, không sao che giấu nổi lịch sử uy hoàng; cỏ hoang chốn hư phế, đang để lại câu chuyện về một nền văn minh sáng chói.
Ý nghĩ đầu tiên hiện lên trong đầu Trác Mộc Cường Ba lại là: "Nếu trên đời này thật sự có vườn địa đàng, vậy thì trước mắt mình đây chính là nó rồi." Phía trước gã, cả một vùng đất xung quanh bỗng nhiên thụt xuống, hình thành một vùng bình nguyên màu mỡ, dưới ánh trăng, thác nước lửng lơ treo trên vách núi trông như dòng thuỷ ngân, lại tự dải lụa trắng khẽ phất phơ, bầu trời phía trên tựa như được khảm thêm những viên ngọc sao lấp lánh, tiếng nhạc mê hồn trong đêm nghe như tiếng hót của lũ sếu trắng. Những cột đá trắng tản mát giữa rừng cây, các bức điêu khắc khổng lồ sống động thần tình, cung điện rực rỡ vàng son khiến người ta mơ tưởng xa xăm, đền thờ trang nghiêm thần thánh làm con người kính cẩn nghiêng mình, chỉ nhìn từ xa thôi hai người đã cảm thấy một cảm giác chấn động từ tận sâu thẳm cõi lòng lan toả cùng khắp. Nền văn minh cổ đại đã thất lạc, một dân tộc trí tuệ cao vời, tất cả những gì họ để lại. Xây dựng nên Thành Phố Trắng này là những con người đã trải qua bao giai đoạn dân tộc hưng vong trong lịch sử, cũng là những người tạo ra thời đại hoàng kim sau đó hoàn toàn biết mất. Mắt xích nối liền dân tộc này với người hiện đại đã bị cắt đứt, hoàn toàn biết mất rồi. Còn rơi rớt lại trên mặt đất có chăng cũng chỉ là vết chân họ mà thôi.
Bên tai lạt ma Á La lại văng vẳng vang lên lời Stephens, nhà thám hiểm sống ở thế kỷ mười chín đã có cống hiến to lớn trong việc phát hiện ra nền văn mình Maya, ông ta đã dùng một câu tràn đầy ý vị để hình dung những gì mình thấy: "Nó nằm đó tựa một con thuyền gãy lìa giữa đại dương, cột buồm chính đã không biết đi đâu, tên thuyền đã mờ nhạt, các thuỷ thủ cũng không còn tăm tích; không ai có thể cho chúng ta biết nó từ đâu tới, chủ nhân của nó là ai, thuyền đã đi được bao xa, tại sao thuyền lại đắm." Lạt ma Á La im lìm đứng đó, hoàn toàn ngây ngất, trong mắt ông, cơ hồ cả khu rừng đều đã biến mất, tưởng như phía trước là một quảng trường rộng mênh mông, các tín đồ xếp hàng lũ lượt bước lên bậc thang đá tiến vào miếu thần, bên tai vang lên tiếng thánh nhạc, tiếng cầu khấn trong điện thần. Nền văn minh Maya cổ đại, rốt cuộc tại sao các người biến mất? Mỗi người khi nhìn thấy di tích thành bang của người Maya đều không khỏi thầm phát ra một câu cảm thán từ tận đáy lòng.
Hai người nhìn tất cả trải ra phía trước, họ nhìn một cách si mê, say sưa đắm đuối, hoàn toàn quên hết mọi sự xung quanh. Không biết bao nhiêu lâu sau, cho tới khi khoảnh khắc tối tăm nhất trước buổi bình minh lan tràn khắp thế giới, ánh trăng đã chìm xuống dưới đường chân trời phía Tây, họ mới như bừng tỉnh khỏi giấc mộng. "Chúng ta nên xuống đó." Lạt ma Á La đề nghị, Trác Mộc Cường Ba cũng tức khắc phụ hoạ: "Đúng, cần phải lập tức xuống đó."
Song vực sâu cả trăm mét, phải đi lối nào mới xuống được đây? Lạt ma Á La đưa mắt nhìn cây đại thụ ở mép phía Tây đang sừng sững trong đếm tối, nó là cây duy nhất trong khu vực này cao hơn trăm mét, nửa thân cây chìa ra ngoài vách đá, tựa hồ như vẫy tay gọi mời cố nhân trở lại bên mình. Lạt ma Á La lại gần chỗ rễ cây, hân hoan thốt lên: "Xuống ở chỗ này." Đoạn ông bám lấy một sợi, nhanh chóng trèo xuống vách đá. Trác Mộc Cường Ba cũng không chút do dự đu rễ cây trượt xuống, bọn họ thậm chí còn không nghĩ xem rễ cây có thể xuống tới mặt đất hay không. Cây cao trên trăm mét, rễ cây không ngờ lại dài hơn cả mét, Trác Mộc Cường Ba và lạt ma Á La bám vào rễ cây cuống được nửa đường, bên dưới toàn là vách núi phủ đất, may mà vẫn còn độ nghiêng nhất định chứ không thẳng đứng, họ liền vừa trượt vừa lăn xuống cái dốc nghiêm tám mươi độ ấy luôn. Toàn thân đầy bùn đất, sườn dốc gồ ghề lồi lõm, song họ chẳng hề để tâm, tự như đứa trẻ lưu lãng bao năm trời nay trở về với lòng mẹ vệ, hân hoan không sao tả xiết.
Xuống bên dưới vách núi, càng đến gần Thành Phố Trắng, viền ngoài của những kiến trúc ấy càng hiện lên rõ nét hơn, Trác Mộc Cường Ba không sao nén nổi nỗi kích động trong lòng, gã cơ hồ đã quên mất lần cuối cùng mình kích động như vậy là vào khi nào. Phải rồi, chỉ có khi gã nhìn thấy tấm anh Tử Kỳ Lân kia, bao nhiêu cảm xúc mãnh liệt mới dâng trào cuồn cuộn lên như thế. Gã từng nghe người khác nhắc tới Thành Phố Trắng không chỉ một lần, song gã chưa từng để tâm chú ý, bởi gã chưa từng thấy nền văn minh Maya bao giờ, đồng thời cũng không tin vào sự tồn tại của một thành phố như vậy, cho tới giờ phút này, khi tận mắt trông thấy kỳ tích huy hoàng mà nền văn mình này sáng tạo ra, bị quần thể kiến trúc tuyệt mỹ tuyệt trần kia hấp dẫn một cách sâu sắc, gã mới nhận ra, mình không thể nào đè nén được tâm trạng kích động kia. Đó là niềm kính sợ đối với vị thần từ ngàn xưa vạn cổ của nhân loại đã tồn tại trong lòng mình, phảng phất như trong khoảnh khắc ấy, bao nhiêu gian nan vất vả bọn gã đã trải qua, cái giá mà gã phải trả, đều trở nên xứng đáng, trở thành một chuyện vô cùng ý nghĩa, chứ không còn là cuộc chạy trốn vô mục đích trong rừng sâu nữa. Bởi vì gã đã phát hiện ra Thành Phố Trắng, một thành phố chỉ lưu truyền trong truyền thuyết của các bộ lạc Anh điêng, một toà cung điện xa hoa lộng lẫy ẩn chưa vô số bí mật bị cây rừng che phủ. Gã đã phát hiện ra một kỳ tích, một kỳ tích đã bị dòng lịch sử cuốn phăng lên môt bãi hoang vắng không dấu chân người.
Hai người lao như bay về phía trước, đột nhiên Trác Mộc Cường Ba trượt chân một cái, cả người chìm luôn xuống dưới, may mà lạt ma Á La nhanh tay nhanh mắt, vội kéo gã giật lùi về phía sau mấy bước, mới đứng vững được.Nhìn mặt đất bùn lầy phía trước không ngừng nổi lên những bong bóng trắng, Trác Mộc Cường Ba vẫn chưa hết rùng mình: "Vũng lầy!" Một vũng lầy gần như là không có gì phân biệt lắm với mặt đất xung quanh chắn ngang trước mặt hai người, chặn mất đường tiến.
Lạt ma Á La cũng vô cùng kinh hoảng, vừa rồi lúc Trác Mộc Cường Ba trược chân, suýt chút nữa đã kéo luôn cả ông xuống theo, chỉ cần hai người trượt tới mép vũng lầy, cơ hội có thể bò ra được thật mong manh nhỏ bé. Ông đưa mắt nhìn tình thế xung quanh, chỉ thấy dòng thác bạc như sông ngân kia buông xuống góc Tây Bắc của vùng đất trũng này, bọt nước bên dưới bắn lên tung toé, chắc hẳn là có một dòng sông hoặc ít nhất là kênh dẫn nước ở bên dưới, dòng nước uốn éo chảy qua, môt số di tích bị ngập chìm trong nước, đồng thời cũng ngăn dòng nước lại. Phía bên này của di tích toàn bộ đều là đất bùn, đất bùn ngậm no nước liền biến thành vũng lầy, trong vũng lầy đó, có mấy chục ụ đá, chỉ lộ ra bên trên một phần nhô cao chưa đầy ba mươi centimet. Lạt ma Á La nhanh chóng xác định, đây hẳn là các cột ghi năm, hình điêu khắc của phần lộ ra bên trên vũng lầy có thủ pháp tương đồng với những cột ghi năm bọn họ đã trông thấy lúc ở trên sườn núi. Lạt ma Á La kéo tay Trác Mộc Cường Ba nói: "Có đường rồi, đi theo tôi." Nói đoạn, ông liền nhảy lên ụ đá gần họ nhất, đứng bên trên, tựa như đứng trên một cái bục tròn đường kính chừng một mét vậy.
Trác Mộc Cường Ba nhảy theo, lạt ma Á La lại nhắm một ụ đá bên trái, nhẹ nhàng nhảy sang đó, chợt thấy dưới chân mềm nhũn, cả người liền mất thăng bằng, ông lập tức đảo người trên không, cuối cùng cũng hạ xuống một ụ đá khác. Trác Mộc Cường Ba nhìn mà hãi hồi, nếu đổi lại là gã, tuyệt đối không thể xoay người nhảy lên trong tình huống đó. Lạt ma Á La cũng tái mặt, vội cuống quýt dặn dò: "Cẩn thận đó, những cột đá ghi năm này không biết đã ngâm trong vũng lầy bao lâu, phần đế đều sụp cả rồi. Theo cổ thư ghi chép, độ cao bình quân của chúng có lẽ từ ba tới năm mét, chúng ta rơi xuống chắc chắn không thể lên nổi đâu. Đi theo sau tôi, đợi tôi đứng vững rồi cậu hãy nhảy qua." Trác Mộc Cường Ba chỉ gật đầu không nói.
Hai người cẩn thận nhảy nhót trên vũng lầy, mỗi một khoảng cách ngắn ngủn mà Trác Mộc Cường Ba và lạt ma Á La phải tốn mất mười mấy phút đồng hồ mới bình an sang được bờ bên kia. Giờ họ đang đứng trên một hành lang bằng đá, nói là hành lang, nhưng thực ra chúng là những nóc nhà nối tiếp, phần bên dưới của chúng đã hoàn toàn bị nước nhấn chìm cả rồi. Nếu lấy tổ hợp kiến trúc này làm đường ranh giới, phía Bắc là một hồ nước khổng lồ, phía Nam là bãi lầy chôn vùi đống cột ghi năm kia. Hành lang này quanh co uốn lượn, xem ra được xây nối tiếp hết sức kín kẽ, chắc là một khu dân cư cổ đại, hai người đứng bên trên, bốn bề đều bị nước và vũng lầy bao vây. Lúc này, những kiến trúc của Thành Phố Trắng lộ ra trên mặt nước lại càng gần họ hơn, trời từ từ sáng bạch, chỉ thấy bầu trời phương Đông hồng rực lên, nhuộm đỏ cả những cây xanh cao vút,nhuộm đỏ cả vách núi màu nâu đất. Ánh sáng chiếu trên cao xuống, từ từ vượt quá đường chân trời, từ Đông sang Tây, xuất hiện rõ ràng một đường phân giới chia vách núi làm hai nửa đỏ đen. Kế đó, toà kiến trúc lớn nhất Thành Phố Trắng, ngôi kim tự tháp hình thang to như một trái núi nhỏ, đền thờ trên đỉnh kiam tự tháp trở thành kiến trúc đầu tiên của thành phố Trắng này được tắm trong ánh dương. Vóc dáng trắng như tuyết tựa người con gái mới trồi lên khỏi mặt nước, sương mù vấn vít, dây leo xanh ngắt dịu dàng bao bọc xung quanh, ánh sáng dần dần dịch xuống, dường như có chút ngượng ngùng, nhu mì khoác lên tấm áo mỏng xanh mơn mởn. Khi được ánh sáng hoàn toàn phủ chiếu, kim tự tháp cao ngất hiện ra dưới chân, ngôi đền liền tựa như một vũ nữ đứng trên đỉnh núi đón tia sáng đầu tiên của buổi sớm mai, nhẹ nhàng múa lên động tác đầu tiên.
Trác Mộc Cường Ba hoàn toàn bị vẻ đẹp này cuốn hút, lại một lần nữa, gã cảm nhận được sức ma mị khó có thể kháng cự này; còn lạt ma Á La thì bắt đầu ra khỏi trạng thái si mê ngây dại, ông bắt đầu suy nghĩ một cách có lý trí: "Bị cách tuyệt khỏi ánh dương, đời đời kiếp kiếp chôn vùi dưới lòng đất, vậy chắc chắn là có lối vào, một lối vào thông xuống lòng đấy. Người đó nói họ đi tìm chìa khoá gì đó, lẽ nào phải có chìa khoá mới mở được cách cửa ấy ra? Nhưng chúng ta kiếm đâu ra chìa khoá bây giờ?"
Khi thân tâm Trác Mộc Cường Ba đều bị vẻ huy hoàng tráng lệ của ngôi đền kia xâm chiếm, phía Nam Thành Phố Trắng, ở cách ngay chỗ họ không xa lắm,cùng lúc phát ra vô số tiếng rú kinh ngạc. m thanh đó tựa như tiếng gào của bầy sói đói tìm thấy mồi ngon. Trác Mộc Cường Ba và lạt ma Á La đều giật bắn mình, kế đó hai người nghe thấy vô số tiếng bước chân, rồi tiếng nói cười râm ran náo động, âm thanh của những kẻ hưng phấn đến gần như phát điên, thâm chí có người còn thoả sức giơ súng lên trời bắn loạn xạ, để phát tiết cảm giác hoan hỉ điên cuồng. Quân du lích! Cùng lúc bọn Trác Mộc Cường Ba đến Thành Phố Trắng này, còn có một nhóm du kích chừng hơn hai chục tên. Trác Mộc Cường Ba và lạt ma Á La đều giật mình kinh hãi.
Nhưng lúc này họ lại không có chỗ nào để ẩn nấp, chỉ thấy đám du kích kia như đám sói hoang lợn rừng tràn ra khỏi khu rừng phía Nam, mặc dù không biết bọn chúng đang gào thét những gì, nhưng chắc quá nửa là những câu kiểu như "Thành Phố Vàng", "Phát tài rồi" chứ chẳng sai. Trác Mộc Cường Ba định nhảy xuống nước lặn sang phía bên kia, nhưng lạt ma Á La đã kịp thời giữ gã lại, đồng thời chỉ tay xuống dưới. Mặc dù ánh dương vẫn chưa di động tới phần chân thành phố này, nhưng nhờ ánh sáng phải quang, Trác Mộc Cường Ba vẫn nhìn thấy rất rõ ràng, trong hồ nước có một đàn cá nhỏ rất đông đang bơi đi lượn lại. Cá ăn thịt người! Đây có lẽ là loại động vật nổi tiếng nhất đại lục Nam Mỹ này rồi. Trác Mộc Cường Ba ngây người ra, gã không thể ngờ mình lại rơi vào bước đường cùng thế này. Quân du kích đã cách họ gần lắm rồi, ba tên đi đầu phát hiện ra Trác Mộc Cường Ba và lạt ma Á La, liền gào thét xông tới, đồng thời nổ súng bắn xung quanh hai người để thị uy, cảnh cáo bọn họ chớ nên liều mạng vọng động.
Đối với quân du kích đạn đã lên nòng, lạt ma Á La cũng chẳng có cách gì, hai người đành đứng yên bất động, ngoan ngoãn giơ tay qua đầu. Hành lang hình thành bởi các nóc nhà liền nhau này, vừa khéo lại nối liền ra hướng đám du kích đi tới, ba tên dẫn đầu cầm súng, từng bước từng bước một tiến lại gần họ, Trác Mộc Cường Ba còn trông thấy cả nụ cười gian xảo tham lam hiện lên trên mặt từng tên một. Những tên đi sau cũng đang lục tục kéo tới, lúc đó biến cố lại đột nhiên phát sinh, "rắc rắc" một tiếng, ba tên cầm súng kia bỗng chìm ngụp xuống. Thì ra những nóc nhà bằng đá này đã ngâm ở đây chẳng biết tự thuở nào, có nhiều chỗ đã bị ăn mòn mục cả ra, ba tên kia vô tình giẩm phải chỗ mục đó, lập tức rơi cuống hồ nước. Tệ hơn nữa là, tường đá đã cào rách da bọn chúng, máu tươi liền rỉ ra.
Trác Mộc Cường Ba và lạt ma Á La tận mắt chứng kiến, lũ cá đang tung tăng bơi lội kia kết thành một chỉnh thể, tựa như một con thú khổng lồ hung ác lao vọt về phía ba tên du kích rơi xuống nước kia như tên bắn. Chỉ có hai cánh tay cầm súng giơ cao khỏi mặt nước bắn chỉ thiên mấy phát, ba tên du kích xấu số kia dường như đã không còn cơ hội nào ra khỏi hồ nước này nữa rồi. lạt ma Á La quát lớn: "Chính là lúc này đây!" Trác Mộc Cường Ba cũng lấy hết dũng khí, gầm lên một tiếng, cùng với lạt ma Á La, nhảy ùm xuống nước, dùng hết sức bình sinh bơi sang bên kia với tốc độ nhanh nhất có thể. Một thoáng trước khi chạm mặt nước, gã cơ hồ nghe thấy có người hét gọi "Cường Ba à," nhưng không kịp tìm hiểu, chỉ coi đó là ảo giác mà thôi.
Khi Trác Mộc Cường Ba và lạt ma Á La thở hổn hển leo lên bờ hồ phía đối diện, hai người vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ nhận ra, không có con cá ăn thị người nào đuổi theo họ cả, toàn bộ bọn chúng đều bị vị máu tanh thu hút cả sang phía bên kia rồi. Còn đám du kích đuổi phía sau kia thì không may mắn như vậy, cả đám bọn chúng kinh ngạc phát hiện ra, chỗ ba tên đồng bọn của mình sẩy chân rơi xuống nước trào lên một đống bọt đỏ hồng, nước hồ như sôi lên sùng sục, có lúc còn dập dềnh nổi lên một hai khúc xương trắn hếu, ngoài ra không còn thứ gì khác nữa. Chưa đầy một phút sau, lũ cá trông vừa gầy vừa nhỏ ấy lại bắt đầu đung đưa bơi lội trong làn nước, tựa hồ như chưa từng xảy ra bất cứ chuyện gì. Đám du kích nhìn kẻ địch ở bờ hồ bên kia chạy mỗi lúc một xa dần, đành nổ súng từ bên này bắn sang, nhưng hoàn toàn chẳng có chút hiệu quả gì, muốn đuổi theo, nhưng những bóng ma đang lững lờ bơi dưới làn nước trong kia lại khiến chúng trơ mắt ra mà dừng bước.
Trác Mộc Cường Ba cũng hơi lo lắng, rốt cuộc bọn gã cũng không phải người làm công tác khảo cổ hay nhà tìm kiếm văn vật, lần này đến rừng nguyên sinh châu Mỹ chẳng qua chỉ là một bài khảo nghiệm mà thôi. Giờ khảo nghiệm đã kết thúc, chứng minh rằng đích thực bọn gã chưa đạt tới yêu cầu có thể độc lập thám hiểm, cảm giác hưng phấn khi phát hiện Thành Phố Trắng vừa trôi qua, gã liền nghĩ tới vấn đề an toàn của bản thân. "Thượng sư, quân du kích cũng đến đây rồi, chúng ta mau chóng rời khỏi đây thôi. Mặc kệ Thành Phố Vàng hay Thành Phố Trắng, cứ để bọn chúng tìm kiếm bảo bối là được rồi, đây đâu phải là mục đích của chúng ta chứ." Trác Mộc Cường Ba đưa ra kiến nghị.
"Ừm, được rồi," lạt ma Á La nhận lời, nhưng ánh mắt ông vẫn không ngừng tìm kiếm khắp xung quanh, hoàn toàn chẳng có vẻ gì là muốn rời khỏi chốn này cả. Lúc này họ đã ở bên trong Thành Phố Trắng, bước trên con đường đá màu trắng, đi giữa quần thể kiến trúc cổ xưa tuyền một màu trắng; mỗi căn nhà bị bóng cây che khuất đều ở gần ngay trước mắt, đưa tay ra là chạm tới; mỗi bức điêu khắc trên tường đều hết sức rõ ràng bên trong những căn nhà không có cửa kia, cả đồ vật cũng vẫn xếp gọn gàng ngăn nắm, ngoài những chỗ bị động thực vật phá hoại ra, dường như tất cả mọi thứ nơi đây đều vẫn nguyên như một ngàn năm về trước. Hai người thong thả bước trên phố, tưởng chừng như đã vượt qua thời không, trở về thành Rome của La Mã cổ đại, nơi này hoàn toàn không hề thua kém Rome, hoàn toàn xứng đáng được xa tụng là cung điện xa hoa của nghệ thuậ tao nhã thuộc một nền văn minh phát triển ở trình độ cao. Những toà kiến trúc này càng hùng vĩ, nhưng hình điêu khắc càng tinh xảo, thì lại càng khiến người ta hoài nghi một điều. Rốt cuộc là thứ gì đã khiến cho người sống trong thành phố này đột nhiên bỏ đi, không bao giờ trở lại nữa? Lạt ma Á La lắc đầu thở dài: "Nền văn minh Maya biến mất là nghi vấn lớn nhất trong lịch sử loài người."
Ngay từ đầu Trác Mộc Cường Ba đã có cảm giác lạt ma Á La đang tìm kiếm gì đó, nhưng nghĩ thế nào gã cũng không sao hiểu nổi, lạt ma Á La có thể tìm kiếm thứ gì trong toà thành cổ hoang phế này cơ chứ? Lúc này lạt ma Á La lại một lần nữa nhắc đến nền văn mình Maya, mặc dù bản thân cũng biết có thể đây chính là di chỉ của người Maya để lại, nhưng Trác Mộc Cường Ba vẫn cứ thử dò hỏi một câu: "Thượng sư, sao ngài đoán được đây chắc chắn là thành phố của người Maya xây dựng vậy?"
Lạt ma Á La tỏ ra kinh ngạc, hỏi ngược lại: "Chẳng lẽ lúc học, các cậu không nghiên cứu chút gì về văn minh Maya à?"
Trác Mộc Cường Ba lại càng thấy quái lại, hỏi lại: "Trong các tư liệu về Nam Mỹ, hoàn toàn không hề nhắc tới văn minh Maya mà."
Lạt ma Á La trách móc: "Mặc dù đích đến của chúng ta là Nam Mỹ, nhưng Nam Mỹ và Bắc Mỹ vối từng là một đại lục lớn nối với nhau, sao các cậu lại chỉ nghiên cứu mối Nam Mỹ không thôi nhỉ. Nhóm của chúng tôi đã nghiên cứu rất sâu về cà Nam Mỹ lẫn Bắc Mỹ đó. Những hình ảnh này, phong cách kiến trúc này, chỉ cần là người đã nhìn qua các di chỉ của nền văn mình Maya là có thể lập tức nhận ra ngay. Đây chính là thành phố của người Maya, bởi nên văn minh của họ hết sức đặc thù, hoàn toàn không giống với bất cứ nền văn minh nào khác trên thế giới, nói như vậy cậu đã hiểu chưa?"
"Đoàng!" Trác Mộc Cường Ba chau mày nói: "Chúng cũng sang đây rồi. làm sao mà chúng qua hồ được nhỉ?"
Giếng Thánh
Năm giờ sáng, cách thánh địa Ah Puch chừng sáu mươi cây số về phía Tây.
Ba chiếc trực thăng bay thành hình chữ phẩm (品) bay vù qua. Trên chiếc trực thăng cuối cùng, một đôi bàn tay múp míp vừa rửa mặt xong, những ngón tay như móng lợn đang cầm một chiếc chân giò lợn nhai nhồm nhoàn, miệng nhớp nháp đầy dầu mỡ. Gonzales vừa nhai thịt, vừa hỏi người bên cạnh: "Sao hả, vẫn chưa có tín hiệu gì à?"
Basaka miễn cưỡng chống lên hai mí mắt đã sụp xuống vì buồn ngủ, lắc lắc đầu, trời vẫn chưa sáng, quả thực là hắn chỉ muốn lăn ra đánh một giấc. Bàn tay béo ú của Gonzales vung lên, nhắc nhở: "Tỉnh táo lại đi, bay còn bà nó cả ngày rồi, chẳng lẽ bọn tàn binh ấy không đứa nào sống sót sao hả!"
Bakasa vội gật gật đầu: "Vâng, vâng." Dứt lời, hắn lại ngáp một cái rõ dài, xun xoe nói: "Sếp đúng là tính toán như thần, thật không ngờ lại mưa lớn như vậy, sau đó còn có hồng thuỷ nữa, chỉ là không biết có kẻ nào thoát khỏi hay không nữa?"
Gonzales đắc ý nói: "Tính cái con mẹ mày, tao xem dự báo thời tiết đấy. Chắc không đến nỗi chết ráo cả đâu, đảm bảo là vẫn còn đứa sống sót, mặc dù chúng không có oá, nhưng dù sao cũng đều lăn lộn trong rừng sâu này nhiều năm thế rồi cơ mà."
|
"Có ánh sáng! Có ánh sáng!" Tiếng của tên điều khiển thiết bị thông tin vang lên, cơn buồn ngủ của Bakasa tức khắc bị đè xuống., hắn đẩy cửa số, gió lập tức ùa vào trong trực thăng. Gonzales lại vung tay tát bốp một cái nữa, quát: "Con bà mày không thể không mở cái cửa số ấy àh!"
Trực thăng nhanh chóng bay tới chỗ có ánh lửa, bên trên buông xuống một sợi dây thừng buộc máy quay và bộ đàm, bật thiết bị giám sát hồng ngoại lên, bắt đầu tìm kiếm trong rừng. Chỉ lát sau, bọn họ đã phát hiện ra nguồn sáng, thì ra có mấy tên du kích nhếch nhác đang cầm đuốc chạy thục mạng, bọn chúng trông thấy máy bay trực thăng, liền bất chấp tất cả xông về phía này.
Gonzales nhìn chằm chằm vào màn ảnh bên trong máy bay, cười ha hả nói: "Hừm, là Keron của đội số mười ba phải không, sao lại thành ra nông nỗi này?"
Tên du kích kia chụp lấy ống kính máy quay, gí gương mặt hoảng hốt của mình sát vào đó, giọng gần như là van xin khóc lóc: "Gonzales! Sao giờ anh mới đến! Nhanh kéo chúng tôi lên đi, bọn tôi gặp phải lũ kiến lửa, chúng sắp đuổi tới đây rồi!"
Gonzales vẫn ung dung xơi đùi lợn, chỉnh lại tai phone, điều chỉnh vị trí của micro, uể oải nói: "Sao chỉ có mấy người các anh thôi? Những người khác đâu?"
Tên du kích kia nước mắt nước mũi đầm đìa: "Không biết, chúng tôi bị vây khốn ở đây, đã thoả thuận chia thành hai tổ đi tìm đường ra, một tổ đi phía Tây, một tổ đi phía Đông. Chúng tôi, chúng tôi gặp phải bọn kiến, sắp chết đến nơi rồi! Không nói chuyện này nữa, anh mau kéo chúng tôi lên đi! Gonzales, Gonzales…, nể mặt chúng ta đã cộng tác nhiều năm… anh đừng bỏ chúng tôi lại đây!"
Gonzales nhai nốt miếng đùi lợn, liếm liếm môi, chép miệng nói: "Ừm, thì ra còn một tổ khác đi phía Tây hả, xem ra là các anh không có phát hiện gì rồi. Chà, không phải tôi không muốn cứu các anh, chỉ là trực thăng của tôi đã đầy người, hơi quá tải rồi, chỉ sợ không chứa nổi các anh nữa. Đi thôi, tiếp tục bay về phía Tây!" Câu cuối cùng giọng điệu trở nên lãnh khốc vô tình, hướng về phía viên phi công phát lệnh.
Trực thăng lại nâng độ cao, Gonzales cười lạnh lùng: "Hừ, giao tình hả, sớm đã vứt con mẹ nó đi rồi! Lúc tao bảo không tham hành động lần này, chẳng phải chúng mày thằng nào cũng giơ cả hai tay lên tán đồng hay sao? Lúc này muốn nói chuyện giao tình với tao hả! Hừ hừ!"
Tên du kích kia tuyệt vọng nhìn nắm đuốc, miệng không ngừng gào khóc: "Các anh không thể làm thế, các anh không thể làm thế…" Binh đoàn kiến lửa đỏ rực thoáng chốc đã lấp kín thân thể hắn, ngọn đuốc kia trong đêm đen trong như hạt đâu nhỏ, hoàn toàn không đáng chú ý. Gonzales xỉa xỉa răng, ngoảnh đầu nhìn lại, nhưng chỉ còn thấy một khúc xương khô giơ cao ngọn đuốc, trong đám xương trắng, vô số điểm nhỏ đang bò ra bò vào giữa các hốc. "Ừm…" Gonzales làm bộ kinh tởm, nói: "Buồn nông quá, làm mất cả hứng ăn sáng của tao." Basaka vội cung kính dâng lên một cốc nước: "Sếp, uống chút nước đi."
…
Trác Mộc Cường Ba không biết đám du kích kia dùng cách gì mà vượt qua được hồ nước đầy cá ăn thịt người đó, nhưng dù thế nào thì cũng đến rồi. Gã và lạt ma Á La nhanh chóng nấp vào một toà nhà dân bằng đá, nhìn qua cửa sổ quan sát tình thế bên ngoài. Đám du kích đó hình như lại bớt đi mấy tên, hoàn toàn không hề để tâm tới sự tồn tại của lạt ma Á La và Trác Mộc Cường Ba, vào đến bên trong chỉ chuyên tâm nhất ý đi tìm vàng. Chúng ta vào lùng sục mấy gian nhà đá, nhưng cũng không có phát hiện gì đặc biệc. Đám du kích ai nấy đều tràn trề thất vọng, ánh mắt nhìn chằm chằm về phía toà kiến trúc cao nhất nằm phía trên ngọn kim tự tháp hình thang khổng lồ như trái núi kia, không hiểu ai gầm lên môt tiếng, dẫn đầu xông về phía đó, những tên khác lập tức tràn theo như bầy ong vỡ tổ. Những kim tự tháp quá cao, bậc thang lại dốc, cả đám leo hơn nửa tiếng đồng hồ cũng mới được một nửa, tên nào tên nấy đều đã thở không ra hơi rồi.
Trác Mộc Cường Ba kéo kéo vạt áo lạt ma Á La, ý muốn nói giờ là thời cơ tốt nhất để bỏ đi, nhưng ông cứ ngây ngẩn nhìn chằm chằm vào toà kim tự tháp, cơ hồ đang nghĩ ngợi gì đó. Bỗng nhiên, trên lưng chừng kim tự tháp chợt vang lên tiếng súng, tiếng kêu thảm không ngừng truyền lại. Trác Mộc Cường Ba nheo mắt hết cỡ, cũng chỉ thấy bóng đám quân du kích nào loạn, nổ súng bắn bừa bãi, không hiểu đã gặp phải chuyện gì. Gã vội kéo tay lạt ma Á La nói: "Đi thôi, thượng sư, không đi bây giờ thì không kịp mất."
Lạt ma Á La định thần lại nói: "À, đi? Được, đi thôi." Hai người vừa ra tới cửa, bỗng nhiên trên nóc nhà có một người nhảy xồ xuống, trên mặt vẽ vằn vện đen trông hết sức điên cuồng, tựa hồ như đao một tấm mặt nạ đồng xanh vậy, trong tay y cầm một cây mâu dài đen ngòm, trên người cắm đầy các loại cây lá nguỵ trang. "Bọn ăn thị người!" Trác Mộc Cường Ba và lạt ma Á La không nói hai lời, cùng lúc tung chân đá ra một cước. Gã chiến binh kia cũng là thợ săn ưu tú trong bộ lạc, gặp phải hai đại cao thủ cận chiến, một chiêu cũng không đỡ nổi, chân còn chưa chạm đất đã bay ngược về phía sau, đập vào bức tường trắng, não tương toe toét, xem ra chết là cái chắc.
Tiếng tù và chiến đấu đặc hữu của bộ lạc ăn thịt người vang lên khắp các ngóc ngách trong Thành Phố Trắng, âm thanh đó nghe như tiếng tù và ốc biển, lại nghe như tiếng sáo trúc, kiêm cả hai âm điệu thấp trầm và cao vút. Hai người bọn Trác Mộc Cường Ba giờ mới luống cuống chân tay, kẻ địch không biết nấp ở đâu ném lao, bắn tên, thổi phi tiêu xuống, làm gã và lạt ma Á La ôm đầu chạy như chuột giữa các khu phố trong thành. Có điều vậy vẫn còn may, mục tiêu chủ yếu của bộ lạc ăn thịt người kia lại là đám quân du kích, nhưng đồng thời cũng không ngừng tiến lại gần chỗ hai người.
Trác Mộc Cường Ba và lạt ma Á La khó khăn lắm mới nấp vào được bên trong một bức tường, nơi đây vối là một căn sảnh lớn, nhưng trần nhà đã sập, chỉ còn lại bốn bức tường có cửa sổ hình oval. Trác Mộc Cường Ba và lạt ma Á La nấp vào sau một cánh cửa, thình lình phía Tây lại vang lên tiếng súng, thành phố hoang phế không một bóng người giờ đã loạn lên như cào cào. Hai người cẩn thận lắng nghe tiếng động, trong thành dường như có bốn thế lực đang giao chiến: quân du kích đã chốt giữ đoạn lưng chừng kim tự tháp, đám chiến binh bộ lạc ăn thịt người đang giằng co quyết liệt với chúng; phía Tây hình như có tàn binh của quân du kích đang chiến đấu với một nhóm vũ trang khác. Bọn họ tự định nghĩa mình là nhóm thứ tư, quân du kích và bộ lạc ăn thịt người là nhóm thứ nhất và thứ hai, vậy đám người vũ trang chưa rõ là ai kia coi như là nhóm thứ ba. Giờ nhóm thứ nhất và thứ hai đang chiến đấu rất kịch liệt, nhóm thứ ba dường như bất hoà với cả nhóm thứ nhất và thứ hai, còn bọn họ thì giữ khoảng cách với cả ba nhóm thứ nhất, thứ hai và thứ ba, cả hai người đều không có vũ khí, thế nên lúc này họ là nhóm yếu hơn cả. Còn về nhóm thứ ba, Trác Mộc Cường Ba hy vọng đó là bọn Trương Lập, nhưng gã cũng nghe được tiếng súng này không phải của khẩu súng tối qua Trương Lập và Nhạc Dương cầm. Nếu không phải là Trương Lập, vậy liệu có khả năng nào đó là Ba Tang, hay là nhóm của giáo sư Phương Tân hay không? Trác Mộc Cường Ba và lạt ma Á La phân tích các khả năng có thể xảy ra, cuối cùng quyết định, xông qua khu vực giữa thành phố đang bị bộ lạc ăn thịt người khống chế, tiến lại gần nhóm người thứ ba.
Bọn họ đi qua một con phố hai bên đều là tường đá cao, chui vào một kiến trúc đá không giống như lầu chuông, nhảy qua cửa sổ lầu hai sang một kiến trúc khác cách đó hai mét, nằm rạp xuống tiếp tục tiến lên, rồi lại nhảy lên kiến trúc thứ ba, tiếp tục bò lên cao, cuối cùng cũng bò lên một toà nhà cao khoảng hai mươi mét. Trên nóc kiến trúc này có một trục ngang chìa sang hai bên, toàn bộ đều là đá trắng tinh xảo ghép chặt với nhau, ước tính phải dài tới năm chục mét, giữa trục ngang hôm nào thành một đường rãnh. Đáng lẽ là kéo thẳng sang phía Tây, nhưng ở giữa đã gãy đôi, các loại dây leo treo lơ lửng xung quanh. Lạt ma Á La nói: "Đây đáng lẽ là một đường dẫn nước hoàn chỉnh, kết tinh trí tuệ của người Maya cổ đại đó. Giờ chúng ta nhảy từ bên này sáng đầu bên kia được không"
Trác Mộc Cường Ba gật gật đầu, lạt ma Á La chạy mấy bước lấy đà, nhẹ nhàng nhún người nhảy lê, thuật lợi đáp sáng đầu bên kia. Trác Mộc Cường Ba cũng nhảy theo, chẳng ngờ thể trọng gã quá lớn, vừa hạ mình xuống, đã nghe "cách" một tiếng, đá vụn rơi xuống lả tả. Thân hình Trác Mộc Cường Ba trầm xuống bị dây leo treo lơ lửng giữa không trung, gã vội bám chặt vào đám dây đó, lăng người về phía cái bệ bên dưới đường dẫn nước như đu dây.
"Bình!" Dù gã kịp thời dơ hai chân giảm bớt xung lực, nhưng cả người vẫn đập mạnh vào tường, rồi trượt theo mặt tường xuống dưới, mũi bị đụng tím xanh cả lên, lồng ngực như muốn vỡ tung. Lạt ma Á La bám vách đá trượt xuống, hỏi Trác Mộc Cường Ba: "Có sao không?" Gã lắc đầu đáp: "Vẫn còn chịu được."
Trác Mộc Cường Ba ngẩng đầu lên nhìn quanh bốn phía, đây là một quảng trường, thoạt nhìn khá giống với đấu trường La Mã cổ đại, khán đài ở xung quanh, ở giữa là một khoảng đất trống lát đá trắng phẳng lì, lúc này bọn họ đang ở hàng đầu tiên của khán đài, có lẽ là khu "A". Quảng trường này mặc dù đã bị một số cây bụi thấp chiếm cứ, nhưng cây cối rậm rạp hoàn toàn không thể che khuất được khí thế nơi đây từng có. Một đầu quảng trường cao hơn hẳn so với xung quanh, một sân khấu vuông rộng chừng hai trăm mét vuông, hai bên sân khấu có hai bức tường vây cao chừng mười mét, giữa mỗi bức tường có hai chiếc vòng đá, phía sau sân khấu chính là toà kim tự tháp khổng lồ kia.
Giờ đây, từ góc độ này, họ mới thực sự hiểu được cảm giác đứng dưới chân người khổng lồ. Kim tự tháp vĩ đại màu trắng, đế tháp hình khối, tính sơ sơ cũng phải bằng bốn sân đá bóng, tổng cộng hai mươi bảy tầng, tầng tầng lớp lớp nhỏ dần xếp chồng lên nhau, giống như một chiếc bánh kia sinh nhật lung linh tuyệt mỹ lại vĩ đại dị thường. Mỗi tầng đều có chín mươi mốt bậc thang, độ dốc phải lên tới gần tám mươi độ, kéo thẳng đến đỉnh tháp, cao hơn ba trăm mét, còn cao hơn gấp đôi kim tự tháp cao nhấ thể giới hiện nay. Hai bên trái phải mỗi bên có một kim tự tháo nhỏ hơn, một cái cao hai mươi tư tầng, một cái cao mười tám tầng. Giữa quảng trường và kim tự tháp là một nhóm kiến trúc hẹp dài, ở giữa có mười mấy bia đá cao hơn mười mét, kiến trúc hai bên cũng rất giống điện thờ. Đặc biệt là ngôi đền đầu tiên bên trái, trước cửa dựng một bức tượng nửa người nửa hổ, chỉ riêng phần đầu đã cao hơn hai mét, nó đang ngoác cái miệng ra to tướng, răng nanh chìa ra ngoài, đôi ta xoè rộng như hai cái vòng tròn.
Lạt ma Á La đỡ Trác Mộc Cường Ba bước thêm mấy bước, họ xuống khỏi lễ đài, đi tới bục sân khấu phía trước quảng trường kia, chỉ thấy ngay phía trước sân khấu còn một bức tượng, là tượng một người nằm ngang trên bệ đá, phần bụng bị khoét vào một lỗ to như cái bát. Không hiểu tại sao nhìn thấy bức tượng này Trác Mộc Cường Ba lại nghĩ đến chiếc đỉnh trước mặt đại tế sư dùng để đựng tim người trong buổi tế lễ sát sinh của đám thổ dân ăn thịt người hôm trước. Lạt ma Á La nhìn hai cái vòng đá, điềm đạm nói: "Đây là một sân bóng, khu vực tương đối lớn phía sau chắc là đấu trường. Cậu nhìn xung quanh kìa, bốn bức tường xung quanh đều khắc hình báo châu Mỹ, đều sống động như thật cả."
Trác Mộc Cường Ba phóng mắt nhìn ra, trên tường đá quả nhiên khắc một số hình tượng báo châu Mỹ đang chồm 2 chi trước, hoặc đang nhảy bổ lên, ở giữa còn xen cách những bức phù điêu hình người. Gã hỏi: "Sân bóng? Người Maya cổ đại cũng chơi đá bóng à?"
Lạt ma Á La tiếp tục tiến về phía trước, nói: "Ừm, không sai, nhưng không phải loại bóng đá mà ngày nay chúng ta vẫn thấy. Đó là một loại bóng làm bằng cao su sống, lúc thi đấu hai đội mỗi bên có bảy người, chỉ có thể dùng mông, đầu gối, vai và khuỷu tay chạm bóng, bên nào đưa bóng vào vòng đá của đối phương trước thì thắng."
Trác Mộc Cường Ba đi sát phía sau ông, nhìn những chiếc vòng đá cao hơn mưới mét kia, nói: "Vậy chẳng phải rất khó hay sao?"
Lạt ma Á La gật đầu: "Đúng thế, vì vậy nhiều khi hết trận đấu rồi mà song phương vẫn chưa thể đưa bóng vào vòng, lúc đó sẽ dựa theo số lần phạm quy của hai bên để quyết định thắng thua. Thi đấu bóng cũng là một loại tế lễ, bên thắng sẽ được dâng bóng lên cho thiên thần, cậu xem kìa bên trái có hình hoạ miêu tả đó."
Quả nhiên, trên bức tường đá phía trái có khắc hình một người đàn ông uy nghi, ăn mặc hoa lệ đầu đội mũ miện, tay cầm một cây quyền trượng rắn hai đầu, cử hành nghi thức tế lễ. Trước mặt y, một đại biểu của đội chiến thắng quỳ một chân dâng quả bóng lên, thành viên của đội vòn lại cung kính đứng thành một hàng, đầu lêu của một thành viên trong đội đã bị chém rơi xuống đất, nhưng người khắc hình không hề khắc cảnh máu tươi phọt ra, mà là bảy con rắn đang ngọ nguậy chen ra khỏi chỗ đầu lâu bị chặt kia. Nét mặt của mỗi người trên hình khắc đều sinh động vô cùng, khiến người ra nhìn một lần là không thể nào quên.
Trác Mộc Cường Ba lẩm bẩm nói: "Kiểu thi đấu đáng sợ thật." Bọn họ lại đi tiếp, tiếng súng thưa hơn rất nhiều, hơn nữa, Trác Mộc Cường Ba nhận ra, nhóm thứ ba từ đầu đến giờ chỉ có tiếng của một loại súng duy nhất. Lẽ nào nhóm ba chỉ có một người? Người đó là ai được nhỉ?
Họ đi qua ma trận vuông tổ hợp từ các bia đá, bên trên các bia khắc hình quốc vương, chiến sĩ, các tượng thần và động vật tượng trưng cho sự dũng mãnh. Điều làm người ta khó tin nhất là, trên một trong những tấm bia, rõ ràng là khắc hình rùa biển, chỗ này ở sâu trong lục địa cả ngàn cây số, sao lại có rùa biển xuất hiện được?Chỉ có thể cho là những người lưu lãng này đến từ một nơi gần biển, tổ tiên của họ nhớ đến sinh vật ở quê hương mà thôi. Càng đến gần nhóm ba, tâm trạng Trác Mộc Cường Ba lại càng căng thẳng, nếu nhóm ba không phải là người quen của bọn họ, vậy thì tính sao đây?
Đi tới bên cạnh bức phù điêu hình báo châu Mỹ khổng lồ, lạt ma Á La và Trác Mộc Cường Ba dừng bước đứng lại. lạt ma Á La cất tiếng: "Phát tín hiệu đi." Trong quá trình huấn luyện, họ đã học được một bộ phương pháp truyền tin bằng tín hiệu đặc biệt, tương tự như tiếng gào của dã thú, thoạt nghe hoàn toàn chẳng có quy luật gì, song thực ra lại ham chức nhiều loại tín hiệu trao đổi với nhau. Trác Mộc Cường Ba chum miệng lại, âm thanh thấp trầm phát ra từ cổ họng, tự như một con tinh tinh đang "khẹc, khẹc…khẹc khẹc…" Rất nhanh sau đó, phía sau một toà kiến trúc trác lập tức phát ra tiếng khịt mũi, Trác Mộc Cường Ba và lạt ma Á La đều mừng rỡ thốt lên: "Là giáo sư! Giáo sư Phương Tân!"
Hai người liền rảo chân chạy ào tới, chỉ thấy giáo sư Phương Tân cũng đang mừng rỡ khôn xiết, tay cầm một khẩu súng lục tự động, bảo vệ hai cái bao lớn, bên cạnh ông, là một cái hố sâu không thấy đáy. Giáo sư Phương Tân khích động thốt lên: "May quá, cuối cùng cũng gặp lại các bạn rồi!"
Trác Mộc Cường Ba cũng vô cùng khích động, không ngừng hỏi han: "Sao thầy lại ở đây? Các thành viên khác trong nhóm thầy đâu? Mẫn Mẫn không ở cùng với mọi người à? Mẫn Mẫn đâu?"
…
Nụ cười tắt trên môi giáo sư Phương Tân, nghoảnh mặt nhìn xuống cái hố lớn bên cạnh, áy náy đáp: "Mẫn Mẫn cô ấy…rơi xuống đó rồi!"
" Hả!" Quả tim Trác Mộc Cường Ba tức khắc từ chân mây rơi tõm xuống địa ngục. Cái hố này sâu thẳm đen ngòm, chỉ thấy mộ mặt phẳng nghiêng xuống dưới, căn bản không thấy đáy đâu, rơi xuống đó, rơi xuống đó làm sao mà lên được? "Sao lại như vậy? Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?" Gã lớn tiếng chất vấn.
Giáo sư Phương Tân đáp: "Đêm qua chúng tôi tới đây, nghỉ ngơi một đêm, sáng sớm nay lúc chuẩn bị rời khỏi thì Mẫn Mẫn đột nhiên nghe thấy tiếng cậu, cô ấy còn gào thét gọi tên cậu nữa, sau đó chạy về phía này. Lúc đó trời còn chưa sáng hẳn, không ngờ dưới đất lại có cái hố sâu thế này, tôi vốn đã chộp được cô ấy rồi, ài, kết quả là chỉ chộp được cái ba lô."
Trác Mộc Cường Ba như bị sét đánh, đầu óc ong ong, cứ hỏi đi hỏi lại: "Sao thế? Sao lại thế… " Cái hố đó nhìn rõ rành rành như vậy, sao lại bất cẩn mà rơi xuống đó được chứ, nếu người nói chuyện này không phải là giáo sư Phương Tân mà gã tôn kính nhất, chắc là gã đã cho rằng Đường Mẫn đã bị đẩy xuống đó rồi.
Lạt ma Á La thấy cái hố này nghiêng về phía Đông Bắc, tạo thành một đường chéo so với kim tự tháp, cách kim tự tháp chừng hai trăm bước chân, ông liếc mắt nhìn giao sư Phương Tân, nét măt toát lên vẻ bi ai: "Đây là…giếng Thánh?"
Giáo sư Phương Tân ai oán gật đầu. Nhìn nét mặt hai người Trác Mộc Cường Ba có thể đoán ra, người nào rơi xuống cái hố gọi là giếng Thánh này, cơ hội sống sót là vô cùng nhỏ bé. Trác Mộc Cường Ba nhắm lấy hai vai lạt ma Á La, hỏi: "Giếng Thánh? Giếng Thánh? Là cái gì? Đây là cái gì hả?"
Lạt ma Á La đau xót nói: "Giếng Thánh là giếng người Maya cổ đại dùng để tế lễ, mỗi khi xảy ra thiên tai địch họa, người dân sẽ xếp hàng dài trước giếng, dâng lên đủ loại tế phẩm phong phú, trong đó có thiếu nữ còn đang sống và các tù binh chiến tranh. Giếng này rất sâu, tương truyền bên dưới còn có rắn và thuỷ quái, tóm lại là ai rơi xuống dưới…thì rất khó…cũng có thể nói là…không có hy vọng nữa!" lạt ma Á La chỉ tay về phía Đông, "Thông thường thì hai bên kim tự tháp có hai miệng giếng Thánh đối xứng nhau, khoảng cách giữa chúng và kim tự tháp dường như được tính toán dựa trên tri thức thiên văn thì phải."
Trác Mộc Cường Ba nào còn nghe lọt tai những chuyện này, gã gào lên như người điên: "Không thể nào!Tuyệt đối không thế!" Gã đã nhớ ra, lúc Đường Mẫn gào gọi tên gã có lẽ chính là lúc gã nhảy xuống nước, từ đó tới giờ cũng đã gần nửa tiếng đồng hồ rồi, Mẫn Mẫn một mình dưới đó chắc sẽ khóc thương tâm lắm lắm! Gã gí mặt vào miệng hố lắng nghe, rồi đột nhiên xách một cái túi ném vào trong, chỉ nghe tiếng trượt "soạt soạt soạt" rồi "bịch" một tiếng, tựa như rơi xuống bậc cấp, tiếp đó lại là tiếng trượt "soạt soạt soạt", rồi lại "bịch", tiếp theo lại là tiếng trượt. Trác Mộc Cường Ba ngẩng đầu lên nói với giáo sư Phương Tân: "Cái dốc này hình chữ chi, người rơi xuống đó không chết đâu!"
Giáo sư Phương Tân vừa nghe thấy câu này, đã đoán ra Trác Mộc Cường Ba định làm gì, ông vội vàng lên tiếng cản ngăn: "Không được, Cường Ba à…" Trác Mộc Cường Ba đã nhảy vù xuống dưới, sau đó giáo sư Phương Tân ở phía sau mới nói hết câu, "Bên dưới có không khí hay không còn chưa rõ…"
HẾT TẬP 2
|
Chương 15: Ký hiệu mật mã: bàn tay thượng
Tập 3 Giáo sư Phương Tân hét lên mấy tiếng vào miệng hố, không nghe thấy hồi âm, liền lo lắng nói: "Cường Ba cũng lỗ mãng quá, vẫn cứ nóng nảy như vậy, chẳng có chút tố chất của người làm khảo sát khoa học gì cả."
Lạt ma Á La thò đầu sâu vào miệng hố, nói: "Cậu ấy không chỉ biết có mạo hiểm thôi đâu, bên trong có gió."
Có gió, đồng nghĩa với cái hố này còn có lối thông ra nơi khác nữa, thông gió có thể thổi tan khí độc, giữ cho không khí bên dưới lưu thông. Điểm này Trác Mộc Cường Ba đã học được ở chỗ đội khảo sát hoa học Khả Khả Tây Lý, hơn nữa xét theo tốc độ trượt xuống của ba lô, vì vậy, gã mới không hề do dự nhảy luôn xuống theo. Nhưng gã không thể ngờ, tốc độ trượt xuống của mình cao hơn tốc độ của cái ba lô rất nhiều. Đường hầm hình vuông đều tăm tắp phủ dày cát, làm tăng tốc độ trượt xuống của gã giống như dầu bôi trơn vậy. Chưa đến mười giây, đã nghe "vù" một tiếng, Trác Mộc Cường Ba chỉ thấy thân thể mình lơ lửng trên không, đầu va mạnh vào tường đá, kế đó cả người lại tiếp tục trượt xuống theo hướng ngược lại; chưa đầy mười giây sau, phần lưng gã đã áp tới bờ tường, va chạm một cú rõ mạnh, rồi lại đổi phương hướng. Cứ như vậy đập đi đập lại, không biết đã va đập bao nhiêu lần, rồi gã cũng đuổi kịp cái ba lô đã dùng chân đẩy xuống lúc đầu.
Cuối cùng, Trác Mộc Cường Ba cảm thấy các tiếng động khác đi, rồi cả người gã văng ra khoảng không, trước tiên nghe tiếng ba lô rơi xuống nước, kế đó là tiếng thân thể gã "hạ thủy". Trong lúc hoảng loạn, chân tay cứ vung bừa tứ phía, kết quả vừa đạp 1 cái, đã thấy thân mình đứng vọt lên mặt nước. Hồ nước không sâu lắm, Trác Mộc Cường Ba đứng lên vừa hay để lộ ra cái đầu. Gã dợm bước vài bước, chỗ sâu nhất thì phải bơi qua mới được. Trác Mộc Cường Ba vừa bơi vừa tóm lấy ba lô, chẳng mấy chốc chân đã chạn đất. Trong bóng tối vang lên tiếng "soạt soạt soạt", nghe như có cái gì đang lùi về sau. Trác Mộc Cường Ba cả mừng kêu lên: "Mẫn Mẫn! Em phải không? Trả lời anh đi?"
Không thấy trả lời, chỉ nghe "oa" một tiếng, rồi có người rống lên. Trác Mộc Cường Ba vội nói: "Đừng sợ, đừng sợ, anh đến đây, em ở đâu?" Vừa nói gã vừa lần bước về phía tiếng khóc. Trong bóng tối vang lên giọng thổn thức: "Hức…hức, hức, em sợ quá…em sợ quá…em cứ tưởng không bao giờ gặp lại anh nữa, ức…" Trác Mộc Cường Ba đeo ba lô trên lưng, rời khỏi hồ nước, giơ hai tay lần mò về phía phát ra âm thanh, cuối cùng cũng bắt được một bàn tay mềm mại lạnh buốt. Hai người ôm chầm lấy nhau trong bóng tối.
Trác Mộc Cường Ba nhỏ nhẹ an ủi: "Đừng khóc nữa, đừng khóc, anh ở đây. Không sao rồi, anh ở đây rồi này." Đường Mẫn rúc đầu sâu vào ngực Trác Mộc Cường Ba, hai vai run rẩy, khóc thút thít đến đau lòng, nói câu được câu mất: "Trong thành… hức… em nghe thấy tiếng anh… em gọi tên anh…hức hức… anh không nghe thấy em gọi anh à? Em… hức…chạy về phía anh… hức… kết quả… kết quả…rơi xuống chỗ này, hức… chỗ này không có đường, lại không nhìn thấy gì, hức…"
Trác Mộc Cường Ba chỉ biết tiếp tục an ủi cô: "Được rồi, khóc nhiều quá thì không xinh nữa đâu. Anh mang theo ba lô của em xuống đây này, bên trong có thứ gì chiếu sáng được không? Ở đây tối om om chẳng nhìn thấy gì cả."
"Có". Đường Mẫn đã thôi không khóc to, nhưng vẫn cứ nức nở thổn thức, đón lấy ba lô lục lọi. Chỉ thoáng sau, đèn đã sáng lên, Trác Mộc Cường Ba chỉ thấy gương mặt xinh xắn của Đường Mẫn đã bị đôi tay lấm lem bùn đất xoa lên trong như tranh sơn dầu treo tường phái ấn tượng, mắt đỏ mọng vì khóc, nước mắt vẫn không ngừng trào ra, lại làm nhòa đi những vết bùn trên đôi má phấn, trông như hoa lê đẫm mưa, hoa hồng đẫm sương vậy. Gã vừa tức vừa buồn cười, miệng hơi nhếch lên tủm tỉm. Đường Mẫn nín khóc, ngây ngây nhìn Trác Mộc Cường Ba, rồi hỏi: "Có phải xấu xí lắm không?" Trác Mộc Cường Ba gật gật đầu, cô lại "oa" một tiếng rồi tiếp tục khóc lóc. Trác Mộc Cường Ba yêu chiều nâng gương mặt nhỏ nhắn ấy lên, cười cười bảo: "Được rồi, rửa một chút là sạch sẽ ngay thôi. Em có bị thương không?" Bản thân gã cũng bị đập vào người vào tường không biết bao nhiêu lần, giờ từ đầu đến chân đều ê ẩm cả.
Bên ngoài giếng Thánh, lạt ma Á La nói: "Quân du kích lại lui xuống rồi, xem ra đám ăn thịt người đã chiếm phần lợi thế. Chúng ta ở đây cũng không thoát nổi đâu, may ra bên trong này còn tìm được đường thoát nào khác."
Giáo sư Phương Tân trợn trừng mắt nhìn lạt ma Á La, hoảng hốt kêu lên: "không phải ngài cũng muốn… ngài đã nghĩ kỹ chưa đại sư."
Lạt ma Á La chắp tay trước ngực nói: "Hoạt Phật sẽ chỉ đường dẫn hướng cho chúng ta." Dứt lời, ông liền chui vào trong giếng theo tư thế ngồi kiết già. Giáo sư Phương Tân há hốc mồm nhìn con người cuồng tín trước mặt, rồi lại nhìn đám phần tử vũ trang đang hò hét xông tới, cuối cùng thở dài một tiếng, ném ba lô xuống miệng giếng, rồi nhảy vào theo. Đọc Truyện Online Tại http://truyenfull.vn
Đường Mẫn bảo nước trong giếng Thánh này toàn ngâm xác người chết, nói thế nào cũng không chịu đi rửa mặt. Trác Mộc Cường Ba phải khuyên giải mãi, bảo nước hồ này là nước nguồn, thông với mạch nước ngầm dưới lòng đất, rồi lại chiếu sáng cho cô nhìn rõ hồ nước trong thấy cả đáy. Bấy giờ Đường Mẫn mới miễn cưỡng đi rửa mặt. Trác Mộc Cường Ba cầm nguồn sáng đó lên ngắm nghía. Trước đây gã chưa từng thấy thứ này bao giờ, nguồn sáng chính là một cái mũ, nhưng lại không giống mũ có đèn pha của công nhân khai khoáng hay đội, mà chỏm mũ có một cái trụ thẳng, giống như gắn cây nến trên đỉnh đầu vậy. Đường Mẫn nói: "Đây là mũ chiếu sáng, dành riêng cho các chuyên gia thám hiểm khảo cổ sử dụng. Tại vì trong môi trường hoàn toàn xa lạ, đèn pha chỉ chiếu sáng được một hướng, sẽ làm xuất hiện rất nhiều khu vực mù trong thị giác. Để loại trừ những chỗ tia sáng không chiếu tới được, người ta mới sử dụng loại mũ gắn bóng đèn bên trên thế này, như vậy thì có thể chiếu sáng được cả ba trăm sáu mươi độ rồi. Nhưng ánh sáng kiểu này phân tán, không thể chiếu xa, nên phải sử dụng kết hợp cả đèn pha lẫn mũ chiếu sáng mới đủ."
Trác Mộc Cường Ba giơ cao chiếc mũ chiếu sáng lên: "Xem xem ở đây có lối thông nào khác trước đã."
Đột nhiên có tiếng "bịch bịch" vang lên, làm Đường Mẫn sợ giật bắn mình, vội ôm chặt Trác Mộc Cường Ba. Gã mỉm cười nói: "Đừng sợ, là giáo sư Phương Tân hay lạt ma Á La xuống đấy thôi."
Vì đã có ánh sáng, giáo sư Phương Tây và lạt ma Á La không bị một phen hốt hoảng như Trác Mộc Cường Ba lúc nãy. Hai người bơi lên bờ, lạt ma Á La nhìn ngó quanh cái hang ngầm, rồi nói: "Giếng Thánh này khác hẳn với bình thường thì phải."
Giáo sư Phương Tân vẫn hơi bực bội nói: "Giờ chúng ta ở chung một chỗ rồi. Vậy có ai bảo cho tôi biết làm sao ra khỏi đây được không?" Không gian này rất nhỏ, chỉ khoảng bằng một cái sân bóng rổ, hai phần ba phía bên trái là nước, bên phải hơi nhô cao, để lộ ra một phần ba còn lại. Bốn phía đều là tường đất, miệng hố nơi họ rơi xuống ở ngay giữa bức tường, bên bức tường đối diện cũng có một miệng hố y như vậy, trên đỉnh đầu dường như là đá thiên nhiên, cách mặt đất tới ba bốn mét, ngoài ra thì không còn gì khác nữa. Trước tình cảnh này, Trác Mộc Cường Ba cũng không biết làm gì hơn, chỉ đành nở một nụ cười ngượng nghịu, cố gắng không chọc giận thầy giáo mình thêm nữa.
Lạt ma Á La bỗng hỏi Trác Mộc Cường Ba: "Lúc rơi xuống cậu đã chuyển hướng mấy lần?"
Trác Mộc Cường Ba ngẩn người. Lúc nãy va đi va lại đảo điên một trận, đầu óc lung bung ai mà nhớ được đã qua bao nhiêu khúc ngoặt cơ chứ. Chỉ nghe giáo sư Phương Tân cất tiếng đáp: "Mười tám khúc ngoặt, đúng như chúng ta đã nghĩ." Lạt ma Á La khẽ gật gật đầu: "Xem ra, chúng ta đang ở phần đáy của kim tự tháp Maya rồi." Đường Mẫn lẩm bẩm nói: "Mười tám khúc ngoặt." Dường như cô cũng nhận ra điều gì đó.
Trác Mộc Cường Ba vẫn hoàn toàn không hiểu gì cả, lại hỏi: "Cái gì mà mười tám lần chuyển hướng? Sao lại đúng như hai người đã nghĩ? Thầy giáo?"
Giáo sư Phương Tân "phì" một tiếng, đoạn nói: "Đừng gọi thân thiết thế chứ, cậu đã phạm phải đại kỵ trong công tác khảo sát khảo cổ rồi đó."
Lạt ma Á La giải thích: "Toà kim tự tháp khổng lồ này, riêng phần trên mặt đất đã cao tới mấy trăm mét, chính là kiến trúc lớn nhất mà chúng ta trông thấy, còn bên dưới móng, chỉ sợ cũng sâu mấy chục mét. Người Maya rất có thể dựa theo lý giải của họ về địa ngục để xây dựng nên cung điện ngầm dưới lồng đất này."
"Mười tám tầng địa ngục!" Trác Mộc Cường Ba trợn tròn mắt lên. Đường Mẫn nói: "Không, địa ngục của người Maya có chín tầng. Mười tám là bội số của chín, ở giữa hai lần chuyển hướng chính là một tầng địa ngục, vậy thì, giờ chúng ta đang ở dưới địa ngục đó."
Lạt ma Á La gật đầu nói: "Ừm, ở đoạn cuối cùng, đoạn dốc vừa dốc vừa dài, có lẽ bây giờ chúng ta đang ở tầng dưới cùng của kim tự tháp. Nếu đúng là như vậy, chỉ sợ không còn đường ra nữa rồi." Giáo sư Phương Tân "hừ" mạnh một tiếng.
Trác Mộc Cường Ba nói: "Tìm thử đi, có lẽ còn có đường ra khác cũng không chừng." Nói xong, liền cùng Đường Mẫn chầm chậm lần tìm kiếm dọc theo các vách tường.
Lạt ma Á La và giáo sư Phương Tân vẫn chưa có hành động gì, chỉ ngồi bên mép nước trầm tư, lạt ma Á La nói: "ở đây có một điểm rất kỳ lạ. Nếu là giếng thánh, bên dưới cho dù không có xương người thì cũng phải có tế phẩm, nhưng vừa nãy ở dưới nước, ngoài một ít xương khô của dã thú thì tôi không còn thấy gì khác nữa."
|
Giáo sư Phương Tân cũng tán đồng: "Phải, đúng vậy, tình huống này dường như chỉ có một khả năng để giải thích." Ông và lạt ma Á La đưa mắt nhìn nhau, trừ phi sau khi giếng Thánh này xây xong, chưa từng được sử dụng một lần nào, người trong thành vì một nguyên nhân nào đó đã bỏ rơi cả thành trì này đi nơi khác.
"A!" Đúng lúc đấy, tiếng kêu kinh hốt của Đường Mẫn vang lên, trong không gian kín mít này tiếng kêu trở nên lảnh lót vang động lạ thường.
Giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La vội vàng chạy tới, họ và Trác Mộc Cường Ba vừa đến, liền phát hiện ra bên mép tường có một hốc khoét rỗng, bên trong có một bộ hài cốt dựng nghiêng nghiêng. Không hiểu Đường Mẫn đã chạm phải chỗ nào, làm phiến đá bịt kín cái hốc này tự dưng rời ra.
Trác Mộc Cường Ba bước tới quan sát, nhưng bị giáo sư Phương Tân kéo lại. Ông nói: "Đừng lại gần, trên phiến đá kia hình như có thứ gì đó."
Lạt ma Á La đã bắt đầu nghiên cứu phiến đá ấy rồi, ông ngồi xổm phía trước, nói: "Không phải bằng đá, mà bằng đất, hình vẽ bên trên là… là bản đồ đơn giản của hang động này!"
Giáo sư Phương Tân cũng bắt đầu quan sát, rồi đưa ra phán đoán: "Nhìn trang phục của người này, chắc là một nhà thám hiểm từ thế kỷ mười tám hoặc mười chín. Cái hốc do con người đào ra này e là cũng do ông ta tự đào ra, nhưng tại sao bên cạnh ông ta lại không có thứ gì vậy nhỉ?"
Lạt ma Á La nói: "Chiếu đèn lại gần một chút, người này đã để lại cho chúng ta một số thông tin, nhìn bức tranh này xem."
Giáo sư Phương Tân liếc mắt nhìn qua, nói: "Tấm vách đất này bị vỡ rồi, hình vẽ có hơi lệch lạc. Mẫn Mẫn, dùng công cụ ráp lại đi." Mẫn Mẫn "vâng" một tiếng, bắt đầu lục tìm các thứ trong ba lô của giáo sư Phương Tân.
Trác Mộc Cường Ba đứng bên cạnh quan sát, đột nhiên nhận ra nhóm của gã chưa từng phối hợp nhịp nhàng như vậy bao giờ, mỗi người đều làm việc của mình, quả thực là khoảng cách chênh lệch so với nhóm của giáo sư Phương Tân vẫn còn rất xa.
Đường Mẫn lấy trong ba lô ra một chiếc hộp da màu đen, phải ba bốn lượt khóa mới mở được ra, bên trong lại là một tầng hộp sắt, thì ra là chiếc máy tính xách tay của giáo sư Phương Tân. Trác Mộc Cường Ba thốt lên: "Một chiếc máy tính mà phải giữ gìn phức tạp như vậy à!"
Giáo sư Phương Tân nói: "Máy tính chính là nòng cốt của nhóm chúng tôi, so với người, vị "đội trưởng" này còn quan trọng hơn nhiều."
Trác Mộc Cường Ba nói: "Vậy cũng không cần phải bọc thêm một tầng hộp sắt nữa chứ."
Giáo sư Phương Tân cười cười: "Đừng coi thường chiếc hộp ấy, không có nó, chiếc máy tính này của tôi không qua nổi khu vực bão tố đâu. Nó có một tầng chống điện ly, cho dù bị luồng điện năm trăm nghìn vôn đánh thẳng vào, cũng vẫn giữ được hoàn hảo món đồ để bên trong."
Lạt ma Á La cầm 1 thiết bị điện tử khác, nói: "Độ bão hòa oxy trong không khí là hai mươi bảy phần trăm, các chất khí có hại cho cơ thể chưa tới hai phần nghìn, hàm lượng bụi thấp hơn năm phần trăm; chỉ số hóa sinh của nước đạt tiêu chuẩn, có một tầng oxit cacbon hỗn hợp với hydro cacbon; chỉ số sinh hóa của bùn đất đạt tiêu chuẩn, nhưng cacbon, ni tơ và muối vô cơ thì vượt quá tiêu chuẩn." Giáo sư Phương Tân gật đầu nói: "Hy vọng không phải là vậy." Lạt ma Á La cũng gật gật đầu. Trác Mộc Cường Ba đần mặt ra, rõ ràng là học cùng một nơi, tại sao người ta nói chuyện với nhau mà gã chẳng hiểu gì hết cả vậy?
Đường Mẫn đã lắp pin vào chiếc máy tính xách tay của giáo sư Phương Tân, nối với webcam và máy scan. Lạt ma Á La và giáo sư Phương Tân lấy các dụng cụ trong hộp đồ Đường Mẫn đưa cho ra, đeo găng tay, cầm bàn chải, bắt đầu làm sạch phiến đất. Trác Mộc Cường Ba nuốt nước bọt đánh "ực" một tiếng, thầm nhủ: "Xem ra chuyên nghiệp thật."
Phiến đất đã được scan vào máy tính, giáo sư Phương Tân nói: "Tốt quá." Đường Mẫn lại lấy ra một chiếc mũ chiếu sáng nữa, cả căn hầm liền sáng bừng lên. Lạt Ma Á La lấy webcam quét qua một lượt khắp cái xác kia, nhập hết các số liệu vào máy tính. Giáo sư Phương Tân thành tạo thao tác trên máy tính, dùng kỹ thuật phục hồi trên máy, chậm rãi ghép từng mảnh vỡ của phiến đất lại với nhau, tự động nối các khe hở lại, một tấm bảng đồ hang động đường nét rõ ràng và hơi có phần thô sơ hiện lên trước mặt bốn người. Hình vẽ này và cảnh vật họ nhìn thấy trong cái hầm này đại thể là tương đồng, nhưng ở giữa hầm có vẽ một ngôi sao năm cánh rất lớn, mỗi góc sao đều tiếp xúc với vách tường. Trên phiến đất còn khắc một số hình vẽ mơ hồ không thể nhìn rõ, sau khi giáo sư Phương Tân nhập vào một loạt các lệnh "xóa răng cưa ở viền", "làm rõ hình", "giảm bóng mờ", các ký hiệu mờ mờ như một đám hồ nhão dần dần thành hình, giáo sư Phương Tân mừng rỡ reo lên: "Là tiếng Anh!"
"When There Is a Will There Is a Way", đây là một thành ngữ trong tiếng Anh, thường dịch thành "Có chí thì nên", dịch theo mặt chữ thì gần giống với câu "Xe đi tới núi thì ắt có đường". Giáo sư Phương Tân nhìn lạt ma Á La hỏi: "Đại sư thấy sao?"
Lạt ma Á La nói: "Trước tiên, ở giữa không có ký hiệu gì tách rời, đây hình như không phải chuyện ngẫu nhiên; thứ nữa câu này có mấy chữ viết lớn in nghiêng, không khó phát hiện ra tính trùng lặp của các chữ cái này, nếu bằng đầu bằng w, vậy thì ý của nửa câu sau có thể lý giải thành "đây chính là lối ra". Đây là một câu đa nghĩa."
Giáo sư Phương Tân nhìn đường thẳng cắt ngang ngôi sao năm cánh bên dưới hàng chữ cái, nói: "nhìn đường thẳng này đối ứng với chỗ nào của căn hầm nhỉ?"
Mọi người nhìn hình vẽ, rồi tìm được một điểm trên vách tường. Trác Mộc Cường Ba xung phong nhận việc thăm dò nơi đó, gã gõ gõ vào tường, đương nhiên thấy rỗng bên trong, liền đập vỡ một cái hốc đủ cho một bàn tay vào đó. Ba người còn lại đều nhìn gã với vẻ chờ đợi, đột nhiên Trác Mộc Cường Ba "ai cha" một tiếng, rụt vội tay ra như bị bò cạp đốt, máu tươi chảy ròng ròng: "Bên trong có giấu đao, ngoài ra không còn gì hết!"
Đường Mẫn nhanh nhẹn lấy thuốc và bông băng trong túi ra, sát trùng rồi băng bó cho gã. Trác Mộc Cường Ba nhìn câu tiếng Anh kia, lẩm bẩm nói: "wti, wti, là dầu thô kỳ hạn, dầu thô, là… là nước! Chắc là đường thẳng bên dưới, đây là một câu đố lồng trong câu đố! Đáng ghét thật!"
Giáo sư Phương Tân nói: "Đường ở dưới nước? Không thể nào, rốt cuộc ông ta muốn giấu thứ gì?
Lạt ma Á La nói: "Để tôi xem xem."
Trác Mộc Cường Ba nói: "Để tôi đi cho." Gã không muốn người khác bị thương, một mình lần mò dưới nước.
Hồ nước này chỉ có mấy kẽ hở không đủ đút lọt ngón tay; đây là một căn hầm do con người đào xuống đất mà thành, căn bản không thể đột phá bốn vách tường để tìm lối ra nào khác. Từ từ, Trác Mộc Cường Ba cũng mò được thứ gì đó, liền cầm lên, thì ra là một chiếc xẻng công binh bọc trong vải dầu. Trác Mộc Cường Ba ngẩn người ra nhìn cái xẻng, lẩm bẩm nói một mình: "Để lại thứ này làm gì? Lẽ nào bảo chúng ta đào địa đạo thoát ra?"
"Đợi chút." Giáo sư Phương Tân cầm lấy chiếc xẻng công binh, chỉ vào vết khắc trên cán: "Đây là gì vậy?" Trác Mộc Cường Ba nhìn lại, quả nhiên thấy trên cán xẻng có khắc ba chữ cái xiêu xiêu vẹo vẹo "CMG", liền lẩm bẩm nói: "CMG? Tập đoàn Nghiên cứu Phát triển Phần Mềm Trung Quốc?"
Giáo sư Phương Tân nói: "nói bậy, hai trăm năm trước làm gì có tổ chức này chứ." Ông bật máy tính lên, rồi nhập từ khóa vào, máy tính bắt đầu tìm kiếm trong kho dữ liệu nội bộ, tìm kiếm tất cả những cụm từ tiếng Anh viết tắt thành "CMG". Trác Mộc Cường Ba biết rõ, ổ cứng máy tính xách tay của giáo sư Phương Tân sử dụng công nghệ dòng dữ liệu quang học tiên tiến nhất của Mỹ, dung lượng lên đến 80 Terabyte, có thể nói là một dung lượng khủng khiếp, dù có lưu cả bảo tàng Anh quốc vào cũng vẫn còn thừa chỗ. Giáo sư Phương Tân nói: "Cái này thì thế nào? Đây là một từ viết tắt của ngành giao thông, ý là "phương hướng từ điểm xuất phát tới vị trí trước mặt"."
Trác Mộc Cường Ba ngẫm nghĩ: "Điểm xuất phát? Điểm xuất phát ở đâu? Vị trí trước mặt là chỉ chỗ nào chứ?"
Lạt ma Á La nói: "Điểm xuất phát có lẽ là để chỉ điểm gốc ban đầu, là nơi người này tọa hóa, vị trí trước mặt đương nhiên chính là nơi cậu nhặt được cái xẻng. Nhìn tấm bảng đồ này, điểm xuất phát và vị trí trước mặt, vừa vặn chính là hai góc của ngôi sao năm cánh, góc gữa chúng, nếu phóng đại lên thành tỷ lệ lớn, chắc là…" Ông bước sang trái ba bước, vác tường phía đó vừa hay có một núm gồ lên. Trác Mộc Cường Ba giơ xẻng công binh lên, hỏi: "Ở đây hả?" Lạt ma Á La khẽ gật đầu, Trác Mộc Cường Ba bắt đầu vung xẻng lên đào đất, vừa đào vừa càu nhàu: "Chỉ một con đường thôi mà, cần gì phải giở lắm trò như vậy chứ?"
Đào được gần một mét, Trác Mộc Cường Ba đầm đìa mồ hôi, cuối cùng cũng chạm phải một vật bằng kim loại. Gã cả mừng, vươn tay ra rờ lấy, là một cái tay năm quấn bằng dây sắt, đã gỉ hoen gỉ hoét ra rồi. Gã vừa kéo một cái… "rầm rầm rầm" cả vách đất trước mặt Trác Mộc Cường Ba liền đổ sập xuống, nếu không phải lạt ma Á La nhanh tay, chắc chắn gã đã bị đè bên dưới rồi.
Đường Mẫn lo lắng hỏi: "Anh không sao chứ?" Trác Mộc Cường Ba lắc lắc đầu, sắc mặt nhợt đi, không ngờ đây lại là một cạm bẫy, nếu không kịp tránh đi, cho dù không bị đất đá đè cho chết hay bị thương, thì cũng bị cả tảng tường đất chôn bên dưới. Chỉ nghe lạt ma Á La nói: "Ô, vách tường đã bị đào rỗng, sau đó lấy bùn nhão đắp thành tường bùn, bên trên đặt đá hoặc gạch, để xương cốt dã thú bên dưới chống đỡ, dây sắt quấn thành tay nắm kéo cột chống này, khi có người dùng sức kéo tay nắm này, cho dù thế nào cũng không thể tránh khỏi bức tường sập xuống."
Giáo sư Phương Tân nói: "Rất giống bẫy bắt người của Câu lạc bộ Săn người Anh quốc thế kỷ mười tám. Người này không đơn giản đâu."
Trác Mộc Cường Ba vừa tức vừa giận, giơ xẻng lên định đập nát bộ xương kia, bỗng giáo sư Phương Tân phát hiện sau bức tường đổ có mấy chữ cái khác, hợp thành chữ "SIN", ông lẩm bẩm nói: "Tội ác nguyên thủy?" Lạt ma Á La cũng sực nhớ ra: "A, sao năm cánh, đây là ký hiệu được sử dụng sớm nhất trong tôn giáo, tượng trưng cho tội ác nguyên thủy, khi trước chỉ là một nửa âm tính của thế giới, về sau bị giáo lý xuyên tạc bóp méo thành hóa thân của ma quỷ. Thực ra, trong một số dị giáo, nó cũng mang ý nghĩa khởi điểm và sơ nguyên, khi thế giới còn trong trạng thái hỗn độn ban đầu, do năm nguyên tố hợp thành."
|
Chương 16: Ma trận: bàn tay thượng
Giáo sư Phương Tân ngăn Trác Mộc Cường Ba lại nói: "Cường Ba, đừng nóng nảy quá, để bọn tôi xem đất chân nhà thám hiểm này xem sao. Quả đúng vậy, mọi người xem đi, chất đất dưới chân ông ta và xung quanh hoàn toàn khác nhau. Ông ta đem đất ở vũng bùn bên dưới và đất bổ trong tường đất ra đổi vị trí cho nhau, mà bởi vì cái hầm này đã có cả hơn ngàn năm tuổi, nên đất trên tường và đất bị ngâm trong nước đã thành ra hai loại hoàn toàn khác nhau, chúng ta thật ngu quá, đặc trưng rõ ràng như vậy mà cũng không nhận ra. Nào, chúng ta dịch bộ xương này ra, Cường Ba, tiếp tục đào chỗ này đi."
Trác Mộc Cường Ba lo lắng hỏi: "Không có chốt bẫy gì nữa chứ?" Giáo sư Phương Tân lắc đầu: "Chắc là không đâu, nơi này bé tẹo như vậy, không gian nào có thể lợi dụng ông ta đều lợi dụng hết cả rồi, đào đi, chúng tôi canh chừng cho cậu."
Trác Mộc Cường Ba không hiểu, người này rõ ràng đã chết rồi còn muốn giở nhiều trò như vậy làm gì, lẽ nào ông ta muốn thể hiện tài hoa của mình trước hậu nhân. Hay chỉ muốn lấy việc gạt người ta làm trò vui? Lần này gã đào được một bọc vải dầu. Mở lớp vải ra, bên trong là một chiếc túi bằng vải buồm mà các nhà thám hiểm thế kỷ trước hay sử dụng, trong túi có vài thứ công cụ, vài thứ đồ chơi nhỏ, còn có một cái đầu lâu bằng pha lê được chế tác rất tinh xảo nữa. Trác Mộc Cường Ba nhấc lên một cuốn sổ ghi chép bìa da rách nát, giáo sư Phương Tân vội nói: "Cẩn thận, cuốn sổ đó rất quan trọng, đống đồ này đã để cả trăm năm, trang giấy rất giòn yếu, đặt xuống đất đi." Ông hiểu rõ, đối với một nhà thám hiểm, thông tin quan trọng nhất mà người đó để lại, không gì hơn cuốn sổ ghi chép của anh ta.
Khi cuốn sổ ghi chép rách bươm đã ngả sang màu vàng ấy được mở ra, ngay trang đầu tiên chủ nhân của nó đã nắn nót viết một hàng chữ nghiêng bằng tiếng Anh: "Tôi tên là Pieri, đã là ngày thứ mười rồi, tôi biết mình sẽ chết…" Giáo sư Phương Tân khẽ thốt lên: "Thì ra là ông ta!"
Đường Mẫn hỏi: "Ai vậy?"
Giáo sư Phương Tân hắng giọng giải thích: "Cũng là những nhà thám hiểm kiệt xuất trong giai đoạn cuối thế kỷ mười tám đầu thế kỷ mười chín, nhưng ông ta rất khác với những người khác, Pieri không bao giờ đến những vùng thắng địa thám hiểm nổi tiếng, mà luôn một mình tìm kiếm những cung điện dưới lòng đất nguy hiểm nhất, bí mật nhất. Ông ta là bạn thân của nhà thám hiểm Stanley, nhưng sự tích về ông ta rất ít lên mặt báo, thế nên danh tiếng cũng kém xa Stanley. Tôi phát hiện ra ông ta trong lúc tra cứu tư liệu về Stanley, có tin đồn ông ta đã mất tích ở châu Phi không ngờ lại chết ở chỗ này. Vì vậy tôi mới nói ông ta không đơn giản mà, có thể lợi dụng các công cụ thô sơ trong phạm vi nhỏ hẹp này, đưa ra một câu đố nhiều tầng, lại còn sắp đặt cạm bẫy gần như chí mạng, việc này cần phải là một nhà thám hiểm thì mới làm được."
Chỉ thấy phía sau lại viết tiếp: "Bất kể bạn là ai, cũng bất kể là bạn đã phá giải được câu đố của tôi hay đã tránh được chốt bẫy, chỉ cần bạn có cuốn sổ này trong tay, chứng tỏ rằng bạn đã sở hữu cơ hội, tôi sẽ cố gắng hết sức để chỉ dẫn bạn ra khỏi cung điện dưới lòng đất này. Nếu bạn chỉ tình cờ nhìn thấy, thì hãy hủy cuốn sổ này đi, lặng lẽ ở đây mà chờ chết, vậy sẽ dễ chịu hơn con đường tiếp sau đó nhiều…" Sau đó là một đoạn dài ca ngợi vẻ đẹp của Bạch thành, mỗi lời văn mỗi nét bút đều tràn ngập sự ngưỡng mộ từ tận đáy lòng. Ông ta đã viết thế này về cung điện ngầm dưới đất: "Đây là cung điện dưới lòng đất hùng vĩ nhất, lộng lẫy nhất, đồng thời cũng ghê rợn nhất và đẫm mùi máu tanh nhất tôi từng trông thấy. Hệ thống máy móc điều khiển vô cùng phức tạp, các cạm bẫy vô cùng đáng sợ, khắp nơi đều ngập trong bầu không khí thần bí và mù mờ không thể đoán biết, mỗi bước chân đều ẩn chứa nguy cơ mất mạng. Và cả nghi thức tôn giáo cũng như các lễ tế của nền văn minh này nữa, đều khiến tôi không thể nào chấp nhận được. Tôi không dám tin, những người sở hữu một nền văn minh phát triển bậc cao như thế, sao lại phạm phải những tội ác của loài ma quỷ ấy… tóm lại, có thể tìm được cuốn sổ ghi chép này, chứng tỏ bạn cũng có thực lực nhất định, bước đầu tiên này, đã giam cầm tôi ở chốn tuyệt lộ này, chỉ cần bạn qua được, con đường phía sau…" Cuốn sổ này đã để quá lâu, rất nhiều chỗ rách hỏng, nhưng đọc vẫn hiểu được đại ý.
Tiếp sau đó, hơn nửa trước của cuốn sổ đều ghi chép về các chuyến thám hiểm ở những vùng đất khác nhau của Pieri. Giáo sư Phương Tân sợ cuốn sổ này quá rách nát, bèn scan hết nội dung của nó nhập vào máy tính, sau đó cả bọn mới bắt đầu nghiên cứu trên màn hình. Phải đến mấy chục trang cuối cùng, Pieri mới kể lại trải nghiệm của mình trong tòa kim tự tháp mà ông ta gọi là kim tự tháp Ahezt này, hoàn toàn được viết theo trình tự ngược. Về điểm này, giáo sư Phương Tân giải thích như sau, thông thường các nhà thám hiểm đi thám hiểm trở về rồi mới chỉnh sửa lại các trải nghiệm của mình, lần này Pieri biết mình không thể sống trở về, vì vậy mới viết lại theo trình tự ngược, mục đích chính là để giúp đỡ kẻ bất hạnh đến sau tìm được lối ra.
Thực ra lối ra cũng rất đơn giản, ở ngay trên đầu họ, có một phiến đá có thể dịch chuyển được. Ngài Pieri này chính là từ trên đó xuống đây, ông ta không chịu nổi sự cám dỗ muốn tìm hiểu xem bên dưới rốt cuộc có thứ gì, để rồi sau khi xuống mới nhận ra, mình căn bản không thể nào trèo lên được nữa. Cả bốn người đều lấy làm tiếc nuối, một nhà thám hiểm vĩ đại, không ngờ lại bị khoảng cách cao bốn mét giam cầm đến chết trong không gian nhỏ bé này. Trác Mộc Cường Ba nói: "Thực ra, ông ấy hoàn toàn có thể đắp một ụ đất lên, như vậy thì có thể với tới chiều cao bốn mét kia rồi."
"Không được," giáo sư Phương Tân lắc đầu: "Đất ở đây thông với mạch nước ngầm, chất đất rất mềm, muốn đắp một ụ đất cao bốn mét, đồng thời chịu được trọng lượng của một người, ít nhất phải đào chừng mười mét đất ở xung quanh, lại còn đảm bảo không bị nước làm trôi rữa đi nữa. Muốn hoàn thành công trình như vậy với sức một người, ít nhất cũng phải mất nửa tháng thời gian."
Đường Mẫn nói: "Có thể đào thông xuống mạch nước ngầm phía dưới, vậy thì có thể theo mạch nước ấy mà thoát ra ngoài rồi."
Lạt ma Á La lên tiếng phản bác: "Không được, đây là địa điểm người Maya chọn lựa kỹ càng, để đảm bảo nước ngầm thầm vào mà lại không làm xói lở chỗ này, cả bốn phía ít nhất phải cách mạch nước ngầm trăm mét trở lên, đào một đường hầm như vậy còn khó hơn."
Giáo sư Phương Tân tiếp lời: "Không cần nghĩ nữa, người ta là một nhà thám hiểm dạn dày kinh nghiệm, không để mình bị vây khốn ở nơi có thể thoát ra được đâu, điều mọi người nghĩ đến, vị tiền bối này cũng có thể nghĩ đến, chắc hẳn ông ta phải thử hết mọi cách rồi mới đưa ra quyết định bỏ cuộc thôi. Giờ việc chúng ta cần làm, chính là tìm thấy lối ông ta đã xuống đây."
Đường Mân ngẩng đầu lên nhìn, đoạn nói: "Bên trên hoàn toàn bị bịt kín, nếu có cửa hang, chúng ta phải phát hiện ra từ lâu rồi chứ?"
Lạt ma Á La giải thích: "Đơn giản lắm, bởi vỉ trong mấy trăm năm kể từ khi Pieri bị giam cầm tới lúc chúng ta tới đây, lại có vô số phần tử đạo trộm mộ ghé qua nơi này, rồi có người phát hiện ra cái giếng hoàn toàn không có chút giá trị nào này, lúc bỏ đi họ đã bịt lối ra lại như cũ, giờ chúng ta chỉ còn cách từ từ lần tìm thôi."
Đường Mẫn nói: "Chúng ta có công cụ nào dài đến thế đâu?"
Lạt ma Á La đưa mắt nhìn giáo sư Phương Tân, giáo sư Phương Tân lại nhìn Trác Mộc Cường Ba, sau đó cả ba đồng thanh thốt: "Tháp người!"
Trác Mộc Cường Ba làm chân tháp, lạt ma Á La ngồi lên vai gã, giáo sư Phương Tân lại ngồi khoanh chân trên vai lạt ma Á La, cuối cùng, Đường Mẫn đứng trên vai giáo sư Phương Tân, hai tay ấn vào trần cái hầm, lần dò từng chút một. Chưa được mấy bước, cô đã kêu toáng lên: "Đừng, đừng lắc mà! Đứng vững, đứng vững!"
Hai chân Trác Mộc Cường Ba đã mềm nhũn, thầm nhủ: "Anh thực không thể đứng vững nổi nữa rồi." Mặc dù thân hình gã to như tháp sắp, nhưng phải đội trên đầu mấy người có trọng lượng cộng lại gần gấp đôi thể trọng của mình, quả thực cũng lực bất tòng tâm, không thể không bước về phía trước một hai bước, chân bắt đầu loạng choạng. Đường Mẫn vừa hoan hỉ reo lên: "Tìm thấy rồi, phiến đá này lỏng lắm!" thì Trác Mộc Cường Ba cũng không giữ vững được nữa, gã lao về phía trước, bốn người dựa hết cả vào tường, cơ thịt ở hai chân Trác Mộc Cường Ba đã bắt đầu chuột rút, nhưng gã vẫn nghiến răng kiên trì chịu dựng. Giáo sư Phương Tân ở tầng tháp thứ ba hỏi với xuống: "Cường Ba, không sao chứ? Có cần nghỉ chút không?"
Trác Mộc Cường Ba đáp: "Không cần, Mẫn Mẫn, chuẩn bị xong chưa, chúng ta qua bên đó nhé!" Dứt lời gã lại bắt đầu dịch chuyển đôi chân nặng như chì, gã hiểu rõ, nếu làm lại từ đầu, mình tuyệt đối không đủ sức cùng lúc nhấc cả ba người lên như vậy nữa.
Phiến đá được đẩy ra, phiến đá trên trần dày đến gần nửa mét, nếu không có cái lỗ này, dựa vào sức người thật sự rất khó đục ra được một cái khác. Phiến đá vừa nhích ra được một khe hẹp, Trác Mộc Cường Ba đã không cầm cự nổi mà quỵ xuống đất, lạt ma Á La lập tức nhảy ra đồng thời đưa tay đỡ lấy giáo sư Phương Tân, cũng may Đường Mẫn đã bám kịp vào khe hở đó, được ba người bên dưới cổ vũ, cuối cùng cô cũng nghiến răng bò được lên trên. Nguồn truyện: Truyện FULL
Có một người lên trên thì dễ dàng hơn nhiều, Đường Mẫn thả dây an toàn xuống, ba người còn lại đều bám vào đó leo lên, rồi ngồi thở hồng hộc. Cả mấy người đều hiểu rất rõ, chỉ cần rời khỏi mảnh đất chết dưới kia, hy vọng sống sót sẽ nâng lên đến chín mươi chín phần trăm.
Giáo sư Phương Tân hỏi: "Ở đây là chỗ nào vậy nhỉ?" Đường Mẫn lên tiếng đáp: "Không biết nữa, cháu chẳng nhìn thấy gì cả."
Bốn người đang ở trong một không gian rất rộng lớn, mũ phát sáng chiếu không tới trần, ngoài xa tầm mười mét cũng toàn là một vùng tối như hũ nút. Mặt đất bằng đá bằng phẳng trơn nhẵn, song lại có một chút tính đàn hồi, tựa hồ như một lớp mai vậy, nơi này giống như một mặt phẳng hai chiều cứ trải dài vô tận ra bốn phía xung quanh, so với cái hầm nhỏ ban nãy thì thật khác nhau một trời một vực. Giáo sư Phương Tân nói: "Nghỉ ngơi một chút, hồi phục thể lực rồi đi tiếp."
Lạt ma Á La lấy thiết bị đo ra, đoạn nói: "Nồng độ phân tử nước trong không khí rất thấp, chỗ này khô ráo lắm. Thật lạ, bên dưới là nước ngầm, trên này sao lại khô ráo thế được nhỉ?"
Giáo sư Phương Tân sắp xếp công việc: "Mỗi người một cái mũ chiếu sáng, lạt ma Á La và Cường Ba, hai người phụ trách đeo ba lô nhé, Mẫn Mẫn, lấy một chiếc đèn pha công suất lớn ra đây. Chúng ta xem ông Pieri viết thế nào trước đã."
Trong máy tính, trang này của cuốn sổ tay lại bị rách mất trên năm mưoi phần trăm ở đoạn giữa, chỉ có thể nhận mấy từ đơn lẻ như "thi thể", "trận pháp", "run rẩy", hoàn toàn không sao lắp ráp thành một câu hoàn chỉnh. Giáo sư Phương Tân hướng đèn pha lên trần điều chỉnh độ sáng, điểm này thì Trác Mộc Cường Ba cũng biết, làm vậy là vì trong bóng tối ta không thể biết xung quanh có sinh vật gì không, một luồng sáng bất ngờ sẽ kích thích chúng phản ứng một cách cuồng nộ, chỉ có trên trần vòm là có khả năng có ít sinh vật sống, dù có thì chỉ là lũ thị giác không phát triển như dơi chẳng hạn, vì vậy lúc điều chỉnh nguồn sáng trước tiên phải hướng lên trên. Đèn pha đã chiếu ra một luồng sáng cực mạnh, trụ ánh sáng hưởng thẳng lên trần nhà, nhưng cuối cùng vẫn mất hút vào bóng tối mù mịt, loại đèn pha chuyên dùng trong hầm mỏ này có thể chiếu xa đến năm mươi mét, cũng có nghĩa là, gian sảnh này phải cao từ năm mươi mét trở lên!
|