Cơ Hội Một Đời
|
|
“Chúng ta không thể làm cùng nhau được.” Tôi lơ mơ trả lời, vẫn nhìn chằm chằm vào máy tính. “Cậu sẽ phải tự mài dũa kỹ năng sáng tạo và giải quyết vấn đề nếu cậu định…” Giọng tôi lạc đi khi biểu tượng lại quay nhanh hơn.
“Định làm gì?”
Tôi nhìn cậu ta, giật mình trước vẻ đẹp mà tôi thấy. Đôi mắt màu nâu lục nhạt chiếm lĩnh hoàn toàn tâm trí của tôi. “Nếu cậu định tiến xa hơn trong công ty.”
Cậu ta nhe răng. “Anh thật lòng nghĩ tôi có đủ tư chất à?”
Tự nhiên tôi thấy buồn mà chẳng hiểu tại sao, và tôi chật vật giữ cho cảm xúc không hiện lên mặt. “Có, Riley. Cậu có đủ cả.”
Nụ cười tan biến khi cậu ta nghiêng đầu. “Mr.—”
Một ánh sáng nhá trên laptop khiến tôi chú ý, và mắt tôi trợn lên khi thấy cái biểu tượng nứt ra làm đôi. Điều đó chỉ xảy ra khi số tiêu đề vượt quá một ngàn. “Riley.” Tôi nói khẽ, tóc gáy dựng ngược lên. “Cuộc họp phải kết thúc sớm thôi.” Tôi lại nhìn cậu ta. “Nói thật cho tôi nghe—cậu nghĩ mình có thể nộp các việc đó cho tôi vào thứ Tư không? Tôi có thể tin tưởng cậu không?”
Cậu ta đứng bật dậy. Mạnh mẽ. Thanh tao. “Đương nhiên.” Nụ cười rạng rỡ của cậu ta đã quay lại với một trăm phần trăm năng lượng. “Nói chuyện với anh sau.”
Tôi gật đầu, nuốt nước bọt.
Ngay khi cậu ta ra khỏi văn phòng, tôi nhấn chuột phải vào biểu tượng đang quay như chong chóng đầu tiên và chọn những tựa đề nhiều lượt xem nhất ở trên cùng. Nhiệt độ rút khỏi cơ thể khi tôi đọc.
PHẢN ỨNG PHỤ MỚI KHÁM PHÁ TRONG LIỀU TIÊM PHÒNG CÚM
PHẢN ỨNG PHỤ HIẾM HOI TRỘN TRONG VẮC-XIN CÚM
SỰ PHÁT TRIỂN MỚI Ở 0,0014 PHẦN TRĂM BỆNH NHÂN TIÊM OMNIFLUVAC.
Tay tôi run rẩy bấm vào dòng đầu tiên.
*****
Cố bịt tai trước những tiếng cười khúc khích vang dọc hành lang, tôi ghim một tờ giấy bình thường lên bảng tin chính. Kỳ quặc ở chỗ, không phải ai cũng kiểm tra email của mình vài lần một ngày, nên tôi phải tìm cách xài phương án ứng dụng công nghệ thấp.
HỘI NGHỊ CHUYÊN ĐỀ KỸ NĂNG EXCEL CƠ BẢN
GIẢNG BỞI NICK CARLYLE PHÒNG HỌP 801 NGÀY MÙNG MƯỜI THÁNG MỘT, 9 a.m. LAPTOP SẼ CÓ ÍCH NHƯNG KHÔNG QUÁ CẦN THIẾT. Không thể tin nổi tôi sẽ dạy một lớp. Về Excel. Liệu có ai đến không cơ chứ?
Chắc là không. Nhưng ít nhất đó cũng là điểm tốt để điền vào lý lịch. Sau khi kiểm tra lại ngày giờ, tôi về văn phòng, không kìm được mình liếc mắt tới đám người đang tụ tập quanh Riley.
“Cảm giác thế nào?” Melanie hỏi, tì vào bàn cậu ta.
Riley cười, vắt một tay lên lưng ghế. “Sướng điên luôn.”
“Tôi sẽ không đời nào tin nếu không nhìn tận mắt.” Jeff Fehn, một thành viên khác trong đội lắc đầu kinh ngạc. “Trông cậu to khủng khiếp.”
Đúng thế thật. Tôi ngừng bước, đứng gần tường cho lẫn với khung cảnh. Chỉ trong tuần trước, Riley phải tăng thêm mười pound, toàn bộ là cơ bắp. Các thớ thịt nảy nở bên dưới lớp áo thun, vai áo bị kéo giãn căng, chiếc quần bó sát lấy chân và gấu quần thì hơi cao hơn mắt cá một tẹo.
Tôi khoanh tay trước ngực, lắc đầu. Riley Jameson đang được trải nghiệm phản ứng phụ hiếm có nhất của Omnifluvac. Tăng trưởng cơ bắp.
Không phải là tăng sức mạnh nhỏ nhặt mà tôi nhận thấy ở các đối tượng cao lên sau khi tiêm Omnifluvac. Cái này—
Jeff tì lại gần Riley, chắn mất một phần cảnh tượng tôi nhìn thấy. “Vậy thì nói thật cho bọn tôi nghe. Cậu lên hạng dễ dàng đến mức nào?”
“Trời đất.” Riley xoa tay lên ***g ngực. “Họ có nói gì đó về việc cơ thể tôi ở mức siêu nhạy cảm để đề kháng, và đến một lúc nào đó sự phát triển sẽ ngừng lại, nhưng hiện tại thì chỉ thở thôi cũng đã là luyện tập cơ bắp rồi.”
Vài cô gái hú lên. Cả vài anh chàng nữa.
Một phụ nữ tôi chưa từng thấy chen lại gần hơn. Cô ta ở phòng nào? Tầng khác chăng? “Tuyệt quá đi thôi.” Cô ta thở ra.
“Ừ.” Riley đáp. “Điều đáng nói nhất là, hoạt động một cơ bắp đồng nghĩa với việc hoạt động tất cả cơ bắp. Nhìn nhé.” Cậu ta khom người trên bàn phím và gõ với một tốc độ như nã đạn.
Các đường gân trên cánh tay cậu ta nhấp nhô theo nhịp tay; rồi truyền xung động ngược lên khiến bắp tay giật giật. Cơ bụng cũng khẽ nảy lên, săn lại. Từng múi cơ dọc hai đùi căng ra vì sức mạnh. Cả chỗ nhô ra ở đằng trước quần cũng to lên. Vì khoái cảm hay tăng trưởng thật, tôi chẳng biết được.
Cậu ta thu tay về, ngả người ra ghế. “Đấy. Nhìn thì không thấy rõ, nhưng quần áo tôi chật đi một tí tẹo rồi.”
Sự phát triển cân đối một cách hoàn hảo.
Tôi thấy nghẹt thở; bụng quặn lại. Tỷ lệ để Riley có thể trải qua tác dụng phụ này là bao nhiêu? Ồ, phải rồi.
Một phẩy tư trên một trăm ngàn.
Ánh mắt Riley đụng phải tôi, khiến toàn thân tôi giật nảy vì bất ngờ. “Ngon lành phết, ha?” Cậu ta nháy mắt.
Tạ ơn trời, đám đông xung quanh hào hứng đồng tình, tưởng rằng cậu ta đang nói với họ. Tôi nhân cơ hội chuồn mất.
Và đâm xầm vào Greg Morris.
Anh ta nắm vai tôi, giữ tôi đứng thẳng. “Lửa cháy ở đâu thế?”
Tôi ngửa cổ, và suýt nữa thì phun ra sự thật, nhưng may mà chưa mất trí hoàn toàn. “Có chút việc phải làm thôi.”
“Hừm.” Anh ta liếc qua đầu tôi về phía Riley, rồi lại nhìn tôi. “Chẳng biết làm thế nào mà cậu giải quyết công việc cho nổi, tại cái thằng nhóc mới nổi kia kéo hết cả nhân viên công ty về phía bàn nó.”
Tôi bước ra khỏi nắm tay của anh ta và ngoái đầu lại. “Tôi nghĩ cậu ta không cố tình đâu. Chỉ là việc xảy đến với cậu ta lớn lao quá.”
Greg ân cần chạm vào cằm, lôi kéo sự chú ý của tôi. “Cậu không nghĩ nó đang bỡn cợt cậu à?”
Có chứ. Riley đang rón rén kiểm nghiệm ranh giới, và tôi là sếp, nên chuyện vài cú húc của cậu ta nhắm về phía tôi cũng là lẽ thường tình. Với lại năm nay tôi cũng chẳng dễ dãi với cậu ta cho lắm…
“Không đâu.” Tôi lẩm bẩm.
“Nick, thôi nào. Nếu tôi thấy được thì ắt hẳn những người khác cũng thấy.”
Tất cả mọi người á?
“Tôi tự lo được.” Tôi bảo, dù nghe giọng có vẻ run run.
Anh ta nhìn tôi hồi lâu. “Chuyện thăng tiến mà tôi cố tránh né cả năm ngoái cuối cùng cũng tóm được tôi rồi.”
Vui mừng vì có việc khác để nói, tôi nở một nụ cười thành khẩn. “Chúc mừng!”
Anh ta cười lại. “Cám ơn.”
Greg tỏ ra nhàm chán với triển vọng thăng tiến, nhưng tôi biết anh ta là người giỏi giang, và tôi biết anh ta xứng đáng có được nó. “Bao giờ bắt đầu?”
“Vài tuần nữa.” Đặt một tay vào giữa lưng tôi, anh ta dẫn tôi ra xa khỏi đám đông đằng sau. “Tôi đang nghĩ có thể cậu cũng chuyển sang phòng tôi luôn, điều hành ở bên đó.”
Tôi trợn tròn mắt. “Dẫn dắt phòng chi phí phát triển ư? Thật sao?”
“Chứ gì nữa. Cậu đã làm rất nhiều việc cho bên tôi rồi, nên cậu biết mọi người tổ chức ra sao. Chẳng thể tìm ra ai thay thế thích hợp hơn. Và nó sẽ giúp cậu tránh—” ánh mắt anh ta lướt qua Riley—“vụ đó”.
Rời phòng hợp tác quốc tế? Thì đúng là tôi nhanh chán và hay giúp đỡ các đội khác khi có thể, nhưng lúc nào tôi cũng thích ở đây.
Thêm vài tiếng khúc khích vọng tới từ bàn của Riley, và tôi cứng người, nhớ việc cậu ta vừa nháy mắt với mình, cả cái cách cậu ta chen vào không gian của tôi trong buổi chụp hình.
Liệu tôi có thể chịu đựng chuyện này thêm bao nhiêu lâu nữa?
“Tôi sẽ suy nghĩ.” Tôi nói, thật lòng.
“Tốt.” Greg vỗ vai tôi. “Có muốn cùng đi uống bia sau khi tan sở không?”
Trong vài năm trở lại đây, tôi đã quên mất rằng mình từng có một thời là lính mới, và Greg là người hướng dẫn của tôi. Đôi khi anh ta thể hiện thái độ kiểu gì đó mà tôi không thể hiểu, nhưng lúc nào anh ta cũng đối xử tốt với tôi. “Có.” Tôi trả lời, vừa cười vừa vào văn phòng. “Quá tám giờ một chút là tôi xong việc, chắc thế.”
“Tôi cũng vậy.” Anh ta vừa đi vừa vẫy tay qua vai với tôi. “Gặp sau.”
Tôi tới bên bàn làm việc, dừng bước khi thấy bản copy cuốn kỷ yếu mới của công ty đang chờ trong hòm thư đến. Ngồi xuống ghế, tôi cầm nó lên và lật qua phòng mình. Một hơi thở nhẹ nhõm thoát ra khi tôi thấy Shawn đã chọn bức ảnh tôi hơi mỉm cười. Trông vô cùng bình tĩnh và tỉnh táo. Tốt.
Ngón tay tôi lướt trên bức ảnh. Jeff Fehn và tôi cao bằng nhau, hai người đàn ông nữa thấp hơn. Bên cạnh tôi, Riley đứng vượt cả bọn, môi uốn thành một cái nhếch mép tự tin. Cậu ta khiến tôi nhìn nhỏ bé, trẻ trung. Phản ứng phụ tác động đến toàn bộ cơ thể cậu ta có lẽ đã làm biến đổi từng chút một ngay từ ban đầu. Đó là lý do vì sao cậu ta lại cao hơn nhiều đến thế, và nó giải thích vì sao cậu ta không phải trải qua giai đoạn bị gầy đi.
Nói là trường hợp đặc biệt thì chưa đủ. Đó là phép lạ.
Tôi không thể trách cậu ta cao ngạo, nhưng cũng không dám chắc mình có thể ở gần cậu ta thêm bao nhiêu lâu để chứng kiến thái độ ấy nữa. Ruột gan tôi quặn lại khi cậu ta đến gần, và ai mà chịu nổi từng ấy stress cơ chứ.
Gập tập ảnh lại, tôi xoa gáy. Nếu chuyển sang bên chi phí phát triển, lấy gì bảo đảm tôi sẽ có nhiều quyền lực với họ hơn với Riley? Ở phe hợp tác quốc tế, tôi có cả một bề dày lịch sử về các quyết định vững như bàn thạch. Tôi giúp đỡ cả các đội khác, nhưng họ không biết rõ về tôi tới mức đó. Tôi chưa chiếm được sự tôn trọng của họ. Nếu mọi người mà biết về vấn đề tôi đang gặp phải vì Riley, thì họ sẽ biết lý do tôi chạy trốn khỏi hợp tác quốc tế. Có khi mọi chuyện còn xấu đi chứ đừng nói tốt lên.
Trừ khi tôi có thể cân bằng cục diện. Trừ khi tôi có thể bắt đầu ở một phòng mới để làm lại từ đầu.
Tôi nhắm nghiền mắt mất vài giây, rối trí do dự. Rồi giật cái điện thoại và đặt lịch tiêm phòng cúm.
|
CHƯƠNG 4
Tôi thấy bình thản rõ rệt khi rời văn phòng ra đứng trước cửa thang máy. Sau bốn ngày chờ đợi cuộc hẹn, có lẽ bao nhiêu âu lo đều đã đem ra xài hết cả rồi.
Tốt.
“Mr. Carlyle?”
Đến giọng nói đó còn không khiến tôi bị giật mình. “Gì thế, Riley?” Tôi dựng ngược cổ áo, chuẩn bị chống chọi với thời tiết bên ngoài.
“Anh đi đâu đấy?”
“Hẹn với bác sĩ.” Tôi lơ đãng trả lời, cài cái khuy cuối cùng.
“Anh… Anh vẫn khỏe chứ?”
Bị bất ngờ vì câu hỏi khẽ, tôi ngước lên. Thân thể tôi cứng đơ khi nhìn vào cặp mắt màu nâu lục. “Khỏe. Chỉ kiểm tra định kỳ thôi.”
Cậu ta chống cánh tay lên bức tường bên cạnh và cúi đầu. “Thế thì được.”
Trông có vẻ như cậu ta thật lòng quan tâm. Cảm giác như cậu ta thật lòng quan tâm, và một nụ cười nhẹ thoáng qua môi tôi.
Cậu ta há miệng, rồi nhe răng cười. “Lỡ như tôi định hỏi anh về những thông số mới nhất thì sao?”
Tiếng ồn ào trong căn phòng nhạt đi khi chất giọng của cậu ta tràn qua tôi. Đó là một cảm giác kỳ quái, giống như khi tôi…
Khi tôi nghiên cứu các con số.
Cố tập trung vào câu hỏi, tôi chọn câu trả lời chuẩn nhất có thể. “Melanie là nhân viên kỳ cựu thứ hai trong đội—cô ấy sẽ giúp cậu bất cứ thứ gì cần. Và cậu còn có thể hỏi Greg Morris. Anh ta đứng đầu phòng hợp tác quốc tế trước khi tôi vào công ty.”
Lông mày cậu ta nhíu lại, nhưng cửa thang máy đã mở, và tôi sắp hết thời gian. “Chắc chắn cậu có thể giải quyết mọi chuyện mà không cần tôi trong vài tiếng đồng hồ.” Tôi dừng lại khi bước qua cánh cửa. “Nhưng nếu mà văn phòng New York gọi, bảo họ tôi sẽ quay lại ngay rồi sẽ đích thân giải quyết vấn đề của họ.”
Vết nhăn biến mất khi cậu ta đứng thẳng người dậy. “Tôi có thể lo vụ đó.”
Cậu ta tỏ ra nóng lòng muốn giúp, và nhìn thấy bằng chứng Riley Jameson tự hào về công việc của mình khiến tôi nhoẻn miệng cười. “Văn phòng New York là một bong bóng tách biệt của một loại tâm thần đặc biệt. Đời nào tôi lại đẩy nhân viên của mình vào đó chứ.” Tôi nháy mắt. “Dù sao cũng cám ơn cậu đã tình nguyện lao mình ra đỡ nhát kiếm cho tôi.”
Cửa đóng lại khi tiếng cười trầm thấp của Riley tràn ngập trong tôi.
*****
Có cần phải đau đến mức này không? Tôi muốn ngửa đầu tì vào thành thang máy và nhắm mắt lại, nhưng tôi không đứng đây một mình, và cũng chẳng muốn nghe người khác hỏi thăm xem tôi có sao không.
Nhưng… tôi có sao không?
Chỗ bị tiêm đau nhức. Buồn nôn. Đau đầu. Đều là các triệu chứng thường gặp. Đều là triệu chứng tạm thời.
Vậy nên không cần lo lắng. Tôi vẫn ổn.
Thang máy mở ra, và tôi bước vào tầng của mình. Có gì đó lành lạnh chạm vào tai tôi, và tôi luồn tay qua tóc, cố rũ bỏ những bông tuyết cuối cùng còn cứng đầu bám dính vào mình. Tôi thấy như cục cứt. Tự hỏi liệu có thể ngủ gật trong văn phòng một lát được không.
Vào những ngày cuối năm như thế này á? Ờ, phải rồi. Chuồn được ra ngoài để mà đi tiêm còn là may.
Một cử động trước mặt thu hút ánh mắt tôi, và tôi quay đầu nhìn Riley vẫy tôi lại gần.
Buồn cười nhỉ? Giờ thì ở trong tình thế ‘sự đã rồi’, tôi thấy thoải mái hơn. Hay tại cách cậu ta hỏi trước khi tôi đi tiêm cũng nên. Thậm chí tôi còn nghĩ tới cậu ta lúc ngồi trong phòng chờ mà không thấy bất an hay run rẩy.
Cứ như thể cậu ta có mặt ở ngay chỗ đó, khoe cái nụ-cười-triệu-đô để làm an lòng tôi.
Khóe miệng tôi nhếch lên khi tiến tới bàn cậu ta. “Mới đi có một tiếng rưỡi thôi mà. Đừng bảo là cậu phá banh mọi thứ rồi nhé?”
Cậu ta ngừng bặt, rồi phá lên cười. “Không, tôi chỉ muốn cho anh biết là tôi đã hoàn thành bản phân tích thống kê anh cần thôi.”
Đầu tôi nhức binh binh, nhưng vẫn cố nặn ra một nụ cười và liếc nhìn màn hình của cậu ta. “Cám ơn. Gửi bản copy cho tôi, tôi sẽ xem xét trong văn phòng.”
Bàn tay nắm chuột khựng lại. “À. Được thôi.”
Vừa định rời đi thì cậu ta nắm lấy cánh tay tôi. Cơn đau buốt lan ra từ vết tiêm khiến tôi rít lên.
Riley lập tức buông ra, và tôi nhìn lên đúng lúc cậu ta toét miệng.
“Anh tiêm phòng cúm rồi, phải không?”
Qua khóe mắt, tôi thấy mọi người ngước mắt khỏi bàn họ. “Tôi…”
“Đúng rồi.” Cậu ta nhảy dựng lên, khiến thế giới của tôi chợt trở nên nhỏ xíu, nhanh đến mức tôi loạng choạng lùi lại. “Nhìn mắt anh là biết mà.”
Tấm ván ngăn bàn giúp tôi khỏi ngã dập mông, chỉ tội nó cũng làm tôi kẹt cứng. “Chẳng phải việc của cậu, nhưng đúng là thế.” Mặc cho cơn khủng hoảng muốn trào ra bề mặt, tôi vẫn nói đều đặn. “Hôm nay tôi vừa tiêm chủng.”
Cậu ta tóm lấy tấm ván thấp ở hai bên người tôi, nhốt tôi bằng cơ thể của mình. “Liệu anh có to lên như tôi không nhỉ?”
Mọi người xung quanh đều đang quan sát, mà tôi thì chẳng muốn ai biết mình vừa tiêm, vì có nhiều khả năng tôi sẽ không cao thêm lắm. Giờ thì tôi phải ra vẻ bình thản dù thâm tâm chẳng có lấy chút xíu cảm giác đó. “Chắc không đâu. Nhưng đang là mùa cúm mà, và gần đây bận rộn quá nên tôi chưa kịp dùng vắc-xin.”
Riley vẫn không cử động, kiểu cười ngạo nghễ mà vài giây trước tôi còn tưởng là đầy an ủi đang đặt trên miệng cậu ta. “Anh cư xử như thể đếch quan tâm đến chuyện lớn lên vậy, nhưng cảm giác đó vui lắm.” Cánh tay bao quanh tôi nhấp nhô, truyền một loạt phản ứng khắp thân thể cậu ta. “Ít nhất, với tôi là vậy.”
Ánh mắt tôi rớt xuống cơ bụng cậu ta. Hôm nay không có áo thun—và mấy cái khuy trông như sắp đứt phựt ra tới nơi. Ngay cả hai đầu ngực cũng nổi lên lồ lộ trên nền vải.
“Nhìn tôi ngon lành mà, nhỉ?” Cậu ta thì thầm.
Tôi nheo mắt nhìn lên. “Tôi là sếp của cậu đấy, Riley, và cậu đang đi quá đà. Tôi ghét phải ghi lỗi cậu vì chuyện này lắm.”
Cậu ta giật tay về, nét mặt đanh lại khi nhìn tôi.
Mẹ kiếp, chắc tôi sẽ thấy hối hận, nhưng nếu đủ may mắn, chỉ vài tuần nữa là tôi hạ cánh sang phòng khác rồi.
Giả vờ phớt lờ ánh mắt giận dữ của Riley, tôi đi vào văn phòng. Cơn đau đang dộng bình bịch trong đầu tôi mạnh lên khiến tôi phải ngồi xuống bàn và lấy tay xoa mặt. Tôi chưa từng có ý định ở phòng hợp tác quốc tế cả đời. Dù bên chi phí phát triển cũng chỉ là một bước ngang. Nó sẽ đẩy lùi kế hoạch sự nghiệp của tôi một thời gian, nhưng lại là điều tốt nhất cho tôi lúc này.
Nói vậy chứ, tôi vẫn sẽ nhớ phòng hợp tác quốc tế. Nhớ con người. Nhớ những thử thách. Và khi tôi nghĩ đến tiếng cười trầm trầm đã luẩn quẩn bên tôi trong phòng khám, tôi nhận ra rằng bất kể bao nhiêu khó khăn, mối quan hệ công việc giữa chúng tôi vẫn liên tục phát triển… Có lẽ tôi cũng sẽ nhớ Riley.
*****
|
Một phần tư inch trên sáu feet.
Tôi nhìn chằm chằm đường vạch tôi đánh dấu trên tường. Cần khẳng định lại, tôi dùng thước đo một lần nữa khoảng cách từ sàn lên. Cảm giác nhẹ nhõm suýt làm tôi sụm gối.
Đã ba ngày kể từ khi tiêm, và cơn buồn nôn đã hết. Đau đầu cũng qua. Thậm chí cơn đau trên cánh tay phải cũng mất tiêu. Sáng hôm nay tôi thấy tươi tắn và đầy năng lượng, sẵn sàng đón nhận bất cứ thứ gì mà đời quẳng vào mặt.
Tôi cất thước đi, rồi nhảy vào dưới vòi sen và bôi xà bông khắp người. Riley bảo cảm giác lớn lên rất sướng, nhưng về mặt thể chất thì tôi không thấy khác biệt gì nhiều. Greg nói nó khá thú vị, còn tôi thì nghĩ trải nghiệm của bản thân chắc cũng nằm đâu đó quanh mấy từ ấy.
Nhắc đến thú vị… Bất kể sự thật là tôi biết còn quá sớm để khẳng định, nhưng tôi có thể thề là cái phòng tắm trông nhỏ hơn một tí ti.
Phải cao thêm bao nhiêu inch mới nhận ra sự khác biệt nhỉ? Ba? Năm? Cục xà bông dừng lại trên ngực tôi.
Sáu feet năm. Thế thì tuyệt đến mức nào?
Cái mớ ảo tưởng này sắp làm tôi muộn giờ, nên tôi vội vã làm việc vệ sinh buổi sáng rồi ba chân bốn cẳng phi tới công ty. Tôi không thể nhịn cười, chào hỏi tất cả những người mình nhìn thấy. Cả Riley.
Cậu ta rời mắt khỏi bảng tin để nhìn tôi, và nhếch mép.
Lẽ nào cậu ta nhận thấy tôi đã cao hơn?
Suy nghĩ đó đáng ra phải khiến tôi thấy kiêu căng, thay vào đó, tôi đỏ mặt. Không muốn rực lên như tôm luộc, tôi lẩn vào văn phòng, bật laptop và máy pha cà phê. Kiểm tra hộp thư thoại, lắng nghe những vấn đề hàng ngày về dòng tiền mặt, cũng như lời mời ăn tối cùng những trưởng phòng khác vào tuần tới. Tôi ghi lại những gì cần đích thân giải quyết rồi gọi Greg để báo tôi sẽ tham gia. Chỉ trong vài phút, một phần tư inch cao thêm đã lạc mất khỏi tâm trí tôi.
Đến cuối ngày, nó lại lừng lững hiện trở về.
Đây là lần thứ ba tôi phải kéo tay áo lên, nhìn đăm đăm vào lớp vải đã tụt xuống quá cổ tay tôi. Tôi đặt may bộ vét này vừa khít người cơ mà, làm sao lại xuống sâu như thế được? Và nếu tôi đang phát triển, chúng sẽ phải co lên chứ?
Quần tôi cũng đang giở chứng. Rất khó nhận ra, nhưng nó đã phủ qua cả giày của tôi, gần quét sàn tới nơi. Không đúng!
Tôi mở ngăn kéo bàn, lục lọi đống đồ đặt ở trong. Không có thước cuộn, chỉ có thước kẻ. Dùng được. Tôi không thể đợi đến khi về nhà mới kiểm tra.
Vớ một cái bút chỉ, tôi đứng dựa lưng vào tường. Tay tôi run rẩy quá mức, nên tôi phải cố giữ yên khi đặt cái thước lên trên đầu và kẻ một đường. Tôi quay lại và nhìn vết đánh dấu, như thể chỉ nhìn thôi là thấy điều tôi cần biết.
Có lẽ tôi đã nhầm. Có lẽ tôi nên về nhà trước.
Tôi quỳ xuống và đặt thước vào tường. Đang định lật thước thì tôi nhận ra là mình đặt nó trên mép thảm, không chạm sàn.
Mẹ kiếp. Sáng nay tôi có làm vậy không?
Tôi ấn thước xuống sàn. Lật qua lật lại, tôi đứng dậy và không ngừng tay cho tới khi chạm vạch. Nghẹt thở khi cộng số chiều cao của mình.
Năm feet mười một rưỡi.
Không… chắc tôi trượt mất chỗ nào đó.
Tôi lại quỳ.
Lần này đo cẩn thận hơn, di chuyển chậm chạp hơn. Kết quả vẫn vậy. Tôi tì lưng vào tường, kẻ một đường mới để kiểm tra lại. Tôi quay người nhìn chăm chú. Y xì vạch kẻ trước đó.
Hay tại lật thước làm lệch kết quả?
Tôi lại đo, lần này lấy bút chì đánh dấu đầu thước kẻ, rồi lê đít thước lên chạm dấu.
Lần này. Tôi lại vạch. Lần này sẽ tròn sáu feet.
Nhưng vẫn không được. Kết quả là năm feet mười một rưỡi.
Tôi gục đầu lên tường, và bật ra một tràng cười ướt át, nhẹ tênh. “Một phần hai trăm khả năng.” Tôi thì thầm, cuộn tay thành nắm đấm. “Và mình trúng độc đắc. Lẽ ra nên mua vé số cào.”
Tôi cười thêm một lúc, không thể mường tượng nổi tương lai của mình. Tôi tự nhủ, ít nhất hôm nay cũng là cuối tuần. Vẫn còn thời gian để gặm nhấm phạm vi ảnh hưởng tối đa của hành động mình làm.
“Ơn trời hôm nay là thứ Sáu.” Tôi lẩm bẩm, đẩy mình đứng thẳng dậy rồi thả cái thước vào thùng rác. Tôi lấy áo khoác, thu dọn laptop, tắt máy pha cà phê. Nín một tiếng khúc khích, tôi tắt đèn và đi về nhà.
Chẳng cười với ai khi rời khỏi.
*****
Ba inch. Trong một tuần.
Thật phi thường. Nếu không phải chuyện xảy ra với tôi.
Tôi ngồi ở góc phòng ngủ, ôm đầu gối vào sát ngực và nhìn chằm chằm các vết vạch trên tường. Tôi tự ép mình phải theo dõi chiều cao bị co lại của mình—tự đo vài tiếng một lần—nên bây giờ tôi có một series đường kẻ thấp dần trên bức tường một thời trắng bóc của tôi.
Ba inch. Nghĩa là bây giờ tôi còn năm feet chín. Kể ra cũng không tệ nếu bỏ qua thực tế rằng chiều cao trung bình của đàn ông Mĩ đã tăng từ năm feet chín lên tròn sáu feet vào năm ngoái. Bây giờ tôi thậm chí còn chẳng đến mức trung bình; tụt xuống dưới rồi.
Tôi ôm đầu gối chặt hơn.
Quần áo đã không còn chuẩn nữa. Cái gì cũng vừa rộng vừa dài. Khi mặc, tôi nghĩ mình có thể cảm thấy cơ thể đang teo lại—da dẻ trượt trên lớp vải, tay co ngắn, chân cũng thế. Tất cả những gì tôi còn chấp nhận mặc lên người chỉ là đống quần đùi, tạ ơn trời là vẫn vừa, dù cảm giác có hơi kỳ cục.
Bảy giờ sáng mai tôi phải đi làm. Đến bảy giờ một phút, những người ở cùng tầng sẽ biết chuyện đã xảy ra cho tôi. Đến chiều, những người cùng tòa nhà sẽ nghe thấy thông tin.
Liệu họ có đến soi mói tôi không? Liệu họ có bu vào văn phòng tôi như cách họ tụ tập quanh bàn Riley, hỏi xem tôi thấy thế nào, bàn tán rằng họ chẳng thể tưởng tượng nổi nếu ở trong hoàn cảnh của tôi không?
Trán tôi tựa lên hai đầu gối. Làm thế nào đây? Báo ốm chăng? Xin nghỉ chăng? Hay gọi cấp trên và đăng ký phương án liên lạc qua vô tuyến, làm việc ở nhà? Tôi luồn tay vào tóc, nắm chặt ngón tay và kéo mạnh. Một tiếng kêu đau đớn tức giận bật ra.
Làm thế nào đây? Tôi chẳng có ai để hỏi, chẳng có ai giúp đỡ. Thế nào mới đúng?
Tôi ngẩng đầu, đăm đăm nhìn đống vạch. Chẳng có ai để hỏi cũng không sao. Tôi biết thế nào là đúng.
Dữ liệu bước đầu của những thống kê cuối năm đang nhấn chìm phòng tôi. Cả đội cần tôi. Tôi phải đi làm.
Loạng choạng đứng dậy, tôi lao tới tủ quần áo. Giờ này thì các cửa hàng đều đóng rồi—không kịp kiếm một bộ vét cho vừa người. Tôi lục đống đồ treo trên mắc, qua đám áo khoác mà mới chỉ ngày trước còn khiến tôi vô cùng tự hào. Lôi ra mọt cái quần bình thường và mặc vào, không thèm để tâm đến hai ống quần túm thành một mớ dưới chân và tìm phục sức. Sau khi kiếm được một cái thắt lưng, tôi luồn qua các con đỉa vả thắt nút trong cùng. Tôi mở ngăn kéo và thấy cái áo phông xanh dương—thứ tôi đã luôn muốn mặc—và giựt đứt giá trước khi chui vào.
Sau khi hít vài hơi thật sâu, tôi quay lại để soi vào cái gương lớn. Cái áo trông… không đến nỗi tệ. Tay áo cộc kéo xuống tới gần khuỷu tay, và gấu áo thì chỉ trùm mông một tẹo. Tôi muốn tạo hình tượng thế này cũng là điều dễ hiểu. Có điều, cái quần thì…
Rắc rối rồi đây.
Tôi quỳ một chân, xắn gấu quần vào trong. Đổi chân, tôi làm nốt bên kia rồi đứng dậy.
Cái áo che đi phần dúm dó quanh hông. Ống quần chấp nhận được, chỉ cần tôi tìm được cách giữ chúng như thế.
Báo ốm ngày mai đi. Lấy thời gian mua quần áo.
Không. Nếu ngày mai tôi không đến, chắc tôi sẽ chẳng bao giờ đến được.
Nhưng không có kim chỉ. Thứ hữu dụng duy nhất trong căn hộ chỉ có cái laptop và vài cái kẹp giấy. Với lại tôi không phải MacGyver. Tôi khựng lại, nhìn về hướng cửa trước.
Bà cụ dễ tính ở đối diện có đủ thứ. Và bà ấy thích tôi, lúc nào cũng nướng cho tôi cả đống bánh và chia đồ thừa của Lễ Tạ Ơn.
Ngập ngừng, không chắc mình đã đủ tự tin để cho người khác thấy, tôi lấy hết ý chí ép mình phải ra khỏi phòng.
|
Hành lang vắng tanh, tạ ơn trời đất. Và có ánh sáng lọt qua khe cửa, nghĩa là bà ấy còn thức. Thở phảo, tôi giơ tay lên gõ.
Cả hai người cùng kêu lên khi cửa mở ra.
“Nick?” Bà ấy hỏi, mắt trợn tròn.
Tôi ngửa mặt. Bà ấy phải cao năm feet mười một. Có bà già nào cần cao đến mức ấy đâu chứ. “Chào, Mrs. Everley.”
Bà Everley cuộn tay đặt trước ngực, và tôi có cảm giác mình cần phải quen dần với việc thấy biểu cảm đó ở người khác.
Thương hại.
Ánh mắt tôi rơi xuống đôi dép xanh lam của bà. “Tôi chỉ băn khoăn là liệu bà có mấy cái kim băng cho tôi mượn được không?”
“Kim băng?” Bà im lặng một lúc rồi nói. “À, cậu cần sửa lại quần phải không?”
Tôi gật đầu về phía sàn nhà.
Một bàn tay ấm áp đặt lên lưng tôi, đẩy tôi vào trong. “Kim băng không dùng được đâu. Để tôi làm cho.”
Tôi ngẩng lên. “Thật à?”
Bà ấy cười hiền từ. “Dĩ nhiên rồi, cậu bé. Cậu cần quần áo vừa vặn.”
“Nhưng…” Tôi lắc đầu. “Như thế sẽ làm phiền bà lắm. Nhất là lúc đêm hôm thế này.”
“Không, không. Chỉ mất vài phút thôi.” Bà nhẹ nhàng vỗ má tôi rồi đi vào phòng khác. “Để tôi đi lấy đồ.”
Tôi đứng giữa phòng khách, vừa chờ vừa nhìn những tấm rèm thêu ren, những cái khăn lót bàn, những mảnh vải vắt trên lưng ghế. Nhưng lông mày tôi nhướn lên khi bắt gặp ba gã yêu lùn sống trong vườn đang đứng túm tụm một góc, nhưng rồi quyết định là chúng cũng được coi là thân thiện nên quay mặt đi.
Ở đây thật thoải mái. Chưa từng gặp mặt bà nội hay bà ngoại, tôi đã luôn tưởng tượng rằng họ sống ở những nơi như thế này. Êm đềm, ấm cúng, và có phần kỳ quái.
Căn hộ của tôi chẳng khác nào chỗ để ngủ. Tìm một trang Web, chọn đồ cho phòng ăn, phòng khách, và phòng ngủ, tính tiền vào tài khoản. Đơn giản. Khi đồ đạc đến, trông cũng giống giống ảnh quảng cáo, và tôi chưa từng một lần nghĩ ngợi.
Nhưng tôi không nhớ nổi lần cuối cùng có bạn đến chơi là bao giờ, rồi tự hỏi liệu có ai đủ thân để nhận ra đó là căn hộ của tôi không.
“Được rồi, cưng à.” Mrs. Everley quay trở lại phòng khách. “Bắt tay vào sửa sang cho cậu thôi.”
“Mrs. Everley…” Tôi nhìn vào đôi mắt xám. “Làm phiền bà quá.”
“Vớ vẩn.” Bà quỳ xuống trước mặt tôi, đặt hộp kim chỉ màu vàng lên sàn, và gỡ gấu quần xuống. “Khâu vào thì đơn giản. Lớn lên mới làm mọi thứ trở nên kỳ quái. Sớm hay muộn cũng hết đồ để mặc và phải mua quần áo mới.”
Tôi nghiêng đầu. “Bà không thích cao à?”
“Trời đất, không. Tôi thấy năm feet tư là thoải mái lắm rồi, cám ơn cậu.”
Bảy inch. “Bà phát triển nhiều hơn mức thống kê trung bình.” Tôi nói như máy.
Bà đằng hắng, như thể sự thật ấy còn làm chuyện tệ hơn. “Tôi chẳng bao giờ quan tâm tới số má gì hết.”
Môi tôi giật giật, kéo thành một nụ cười nhẹ khi tôi nhìn xuống đỉnh đầu đang cúi của bà. Chúng tôi quá khác biệt, nhưng bà chẳng mảy may đắn đo khi giúp tôi.
“Nick.” Bà mở hộp kim chỉ và lôi ra một cái gối cắm kim. “Lấy số đo xong, tôi sẽ làm lại hết quần áo cho cậu. Chỉ cần khoảng một tuần là xong.”
Tôi nhìn sang bên cạnh, một nỗi ân hận len lỏi vào trong mình. Mrs. Everley chẳng hề quan tâm tới các con số, bà thấy thoải mái vì là chính mình.
Nếu người phụ nữ này thật sự là bà của tôi, ảnh hưởng của bà chắc đã cứu tôi khỏi rất nhiều đau khổ.
______
|
CHƯƠNG 5
Thường thì tôi yêu các buổi sáng thứ Hai. Tôi yêu công việc. Tôi yêu kiểm tra xem có những dự án mới nào đang chờ. Tôi còn yêu cả các vấn đề nghiêm trọng mà hầu như lúc nào cũng nhảy lên bàn tôi, vì tôi cảm thấy mình đang sống khi có áp lực phải tìm ra giải pháp.
Tôi rửa mặt rồi nhìn vào gương. Là do tôi tưởng tượng hay cấu trúc xương của tôi trông… thanh mảnh hơn hôm thứ Sáu? Tôi giơ tay, vuốt dọc theo xương gò má, tới xương hàm. Theo những gì tôi đọc, Omnifluvac không gây ra những tổn thất xương có hại cho sức khỏe, nhưng mà tụt mất ba inch thì làm sao mà coi là khỏe mạnh cho nổi chứ?
Mắt tôi có vẻ to ra, càng nhấn thêm nét mềm mại, được cái cơ thể teo đều. Trong cái rủi có cái may, tôi tự nhủ. Trông cứ như tôi vốn đã nhỏ bé thế này rồi.
Thận trọng, tôi cạo râu, từ tốn quen dần với cảm giác cầm cái dao cạo to hơn tay mình. Tôi xoay xở làm xong mà không cắt mặt phát nào, nghĩa là ổn.
Đêm qua tôi đưa gần như cả tủ quần áo cho Mrs. Everley. Tôi đã nói chuyện với bà một lúc, ăn bánh quy chocolate, rồi về phòng nghỉ ngơi một chút. Cuối cùng tôi ngủ thâu đêm, và bây giờ thì lại quá sớm để gõ cửa phòng bà. Không nỡ đánh thức một người hiền lành sau bao nhiêu thứ bà ấy làm cho tôi, nên hôm nay tôi sẽ mặc thường phục đi làm.
Ít nhất thì cái quần cũng vừa.
Thở ra từ từ, tôi thay đồ, thu xếp các thứ, rồi đến công ty. Đây sẽ là ngày thứ Hai tồi tệ nhất đời tôi, nhưng nếu có thể vượt qua…
Tất cả những gì có thể đạt được là thứ Ba.
Suy nghĩ ấy suýt nữa khiến tôi quay về, nhưng tôi buộc bản thân mình bước tiếp. Qua sảnh, vào thang máy, ra thang máy. Hành lang lặng thinh khi tôi bước qua, các bàn làm việc cũng thế. Tôi dán chặt mắt xuống sàn, cố bỏ ngoài tai những tiếng thì thầm sau lưng.
Mình làm được mà. Chỉ cần vào văn phòng. Bước từng bước một, Carlyle. Mày đâu phải quá nhỏ để làm chuyện đó.
Không ai trực tiếp nói gì với tôi, thế là tốt. Tôi đặt chân vào văn phòng vừa đúng lúc điện thoại reng.
“Nick Carlyle.” Tôi đáp.
“Mr. Carlyle, cuộc hẹn lúc tám giờ ba mươi của ngài đến sớm. Tôi bảo anh ta đợi nhé?”
Tôi liếc đồng hồ—bây giờ là bảy giờ bốn mươi lăm. Tôi không nhận ra mình đi muộn bốn mươi lăm phút. Lần cuối cùng là khi nào nhỉ?
Chưa từng.
Thở dài, tôi nhớ đến cái điện thoại trong tay. “Hẹn?”
“Phỏng vấn, thưa ngài. Mark Whalen?”
Hôm nay tôi có hẹn phỏng vấn. Chết tiệt. Mark… Mark là thằng nào? “Mười lăm phút nữa tôi sẽ tiếp anh ta.”
“Vâng, thưa ngài.”
Tôi gác máy và khởi động computer. Việc đầu tiên cần làm là mở trang điền nhanh thông tin của các ứng viên. “Whalen…”
A, đây rồi. Phẩm chất tốt, một năm kinh nghiệm ở công ty khác. Khi đọc thông tin, gương mặt dần hình thành trong đầu tôi. Một thằng nhóc khá được. Hồi hộp? Ai đi phỏng vấn mà chẳng vậy. Tôi tia thấy mục tuổi, và lắc đầu.
Hai mươi tám—hơn tôi một tuổi—và tôi gọi người ta là “thằng nhóc.”
Mở lý lịch của anh ta ra và tựa lưng ra đằng sau. Mắt tôi mở lớn khi đôi chân vung vẩy trên sàn.
Tôi quá nhỏ so với cái ghế?
Vừa định hạ thấp nó xuống thì tay tôi khựng lại trên thanh điều chỉnh. Này này, cái gì tồi tệ hơn? ‘Cảm giác khó chịu’ hay ‘trông lùn tịt’? Tôi cố tưởng tượng xem sẽ thế nào, ngồi phía bên kia bàn, nhìn chằm chằm vào ông chủ tương lai. Tôi nhớ đến dáng vẻ thanh tú của mình trong gương trước khi ra khỏi nhà.
‘Trông lùn tịt’ tệ hơn.
Tôi bỏ tay khỏi thanh điều chỉnh và tiếp tục đọc lý lịch. Khi thư giãn, ngón chân tôi đụng tới sàn, cho nên cũng chẳng khó chịu đến mức đó. Tôi biết trông mình sẽ nhỏ hơn so với buổi phỏng vấn đầu tiên của Mark, nhưng có còn hơn không.
Hơn nữa, nếu tôi nhớ không lầm, Mark chỉ trên mức năm feet chín một tẹo. Đồng nghĩa với việc chúng tôi đứng cùng một vạch.
Nhấn vào tên Mark, tôi gọi ra một danh sách những câu hỏi cần dùng. Đọc xong, tôi đóng laptop lại. Ngày trước, khi đi tìm việc, tôi nhớ mình đã luống cuống đến mức nào khi người phỏng vấn cứ tỏ ra bị phân tâm bởi thứ gì đó trên máy tính. Hay, tệ hơn, nếu họ trông chán nản. Chẳng ai muốn Mark gặp cảnh tương tự hết.
Có tiếng gõ cửa, và tôi đưa mắt nhìn đồng hồ. Tám giờ, chuẩn đến từng giây. “Mời vào.”
Cánh cửa bật mở, và tôi nghển cổ lên.
Lúc nào tôi cũng quên béng mất là trên đời còn cái liều thuốc chống cúm chó chết kia.
Mark—cao ráo, mặc bộ vét vừa khít—bước đến trước mặt tôi, chìa tay ra. “Cám ơn đã dành thời gian cho tôi, Mr. Carlyle. Xin lỗi vì đến sớm; tôi đã háo hức chờ buổi phóng vấn này cả tuần rồi.”
Tôi nhìn chằm chằm vào tay anh ta, rồi miễn cưỡng đứng dậy nắm lấy. “Rất vui được gặp lại cậu, M—” Đầu óc hỗn loạn. Mark? Mr. Whalen? “Mark.”
Một bên lông mày anh ta nhướn lên khi nhìn thấy tôi, nhưng ít nhất anh ta cũng đủ tỉnh táo để không nhận xét gì về sự chuyển đổi chiều cao của hai người.
Ngượng ngập, tôi rút tay lại và ngồi xuống. “Mời ngồi.”
Anh ta vâng lời, ánh mắt bình tĩnh và ổn định khi quan sát tôi.
Tôi cố không ngọ nguậy. Bây giờ anh ta phải khoảng sáu feet hai, và cao hơn tôi năm inch. Từ góc độ của tôi mà nhìn, trông anh ta cao một cách kỳ cục, và tôi thấy… thua kém khi ngồi ở đối diện. Như một đứa nhóc chơi đùa trên ghế của người lớn. “Anh thế nào?”
Mark cười. “Rất sung sướng, Mr. Carlyle.”
|