Ám Vệ Công Lược
|
|
Chương 30
Tư Đồ Nhã xưa nay cơm áo vô lo, nhưng trong lòng cũng biết hai trăm vạn lượng bạc chắc chắn không phải ít – Một năm chi tiêu của Cửu Như Thần Giáo cùng lắm chỉ khoảng trên dưới mười vạn lượng bạc. Giá bán ám vệ Cửu tương đương với thù lao hai mươi năm của gần một nghìn giáo chúng Cửu Như Thần Giáo. Rõ ràng là giá trên trời, y lại không thể trả tiền luôn và ngay, nghìn vàng khó mua lòng người, nhưng y muốn ám vệ Cửu thấy rõ quyết tâm của y, nên tức khắc nhận lời không do dự.
Rời khỏi võ đường, ám vệ Cửu nói, “Thuộc hạ không đáng giá như thế.” Hắn sợ Tư Đồ Nhã chỉ bồng bột nhất thời, chấp nhận điều kiện khó như lên trời rồi kết quả là không làm được, sau đó mất hết thể diện. Nhưng hắn cũng không nghĩ ra cách nào đứng đắn để thu thập chừng ấy ngân lượng trong vòng nửa năm.
Tư Đồ Nhã thấy hắn nhăn mày nhíu mặt, đuôi mắt cong lên như cười mà lại có vẻ chẳng biết làm sao, hẳn là đang vắt óc suy nghĩ ghê lắm. Tự nhiên y thấy rất vui, mỉm cười nói, “Không sai, vô giới bảo dịch cầu, hữu tâm lang nan đắc (báu vật vô giá thì dễ tìm, đức lang quân tốt mới khó kiếm). Sao có thế dùng vàng bạc hạ thấp ngươi. Tạm thời cứ xem như tâm ý của ta trị giá hai mươi vạn lượng vàng đi.”
Ám vệ Cửu nghe mà khó chịu, hắn chỉ muốn được ở bên cạnh Tư Đồ Nhã, bảo vệ Tư Đồ Nhã, ai ngờ nguyện vọng này lại chuốc lấy phiền toái cho Tư Đồ Nhã, nhất thời xấu hổ vô cùng. Hắn chắng có gì để báo đáp, buồn vui lẫn lộn, trăm mối lo toan, lại càng không biết phải đối diện với Tư Đồ Nhã như thế nào, cuống quít xin cáo lui, định đến doanh trại ám vệ báo cáo với quản lý Hồ Bất Tư về việc đổi người đến Thục Bắc tìm Tư Đồ Phong.
“Đi đi.” Tư Đồ Nhã săn sóc, “Thực ra ám vệ của Tam đệ vẫn là ám vệ Nhất. Ngươi và hắn làm bạn đã lâu, cũng nên mở tiệc tiễn chân hắn, thay ta mời hắn một chén rượu tại đình nghỉ* mười dặm bên ngoài thành, xem như cám ơn những ngày vừa qua hắn giúp đỡ ta và ngươi.”
Đình nghỉ chân ở ven đường thời xưa:
09215677778b
Ám vệ Cửu bình tĩnh tuân lệnh, không nhanh không chậm băng qua hành lang uốn khúc. Tới sân ngoài khuất mắt Tư Đồ Nhã, hắn chịu hết nổi, co chân chạy một mạch như bỏ trốn, sương phòng, cửa sổ, đường đi vù vù lướt qua mắt hắn, mờ ảo như màn sương. Thoáng chốc lại ngơ ngơ ngác ngác bám lấy hành lang để giữ thăng bằng, ngón tay siết chặt run run rẩy rẩy, hắn đập đầu vào cột, cố gắng từ bỏ vẻ sung sướng, chuyển về khuôn mặt nghiêm trang nặng nề.
“…” Nha hoàn bưng trà đi ngang ngớ người nhìn ám vệ Cửu vèo một cái xuất hiện, đập đầu vào cột, lại vèo một cái biến mất. Từ khi các ám vệ thâm trầm đáng sợ vào phủ tới nay, đây chính xác là lần đầu tiên nàng nhìn thấy một ám vệ phấn chấn bồng bột.
Tư Đồ Nhã nhìn theo ám vệ Cửu vững vàng bước đi, quay về tìm quản gia Thường Phúc xin một thỏi bạc, nhờ lão chuyển cho ám vệ Cửu để chiêu đãi ám vệ Nhất. Thường Phúc kinh ngạc, Tư Đồ Nhã nói, “Thường bá bá, từ nay về sau không cần cho ta tiền tiêu hàng tháng nữa.”
Thường Phúc không rõ tình hình, vội vàng kêu, “Nhị công tử định đi đâu thế?”
“Dạo này dưỡng thương ngột ngạt quá, định đi dạo phố một lát.” Tư Đồ Nhã buồn bã đứng lặng, hoang mang thở dài, “Nhưng ngoài đường toàn người giang hồ cả, nay ta mất hết võ công, đúng là nửa bước cũng khó đi. Một phế nhân như ta thì làm gì còn mặt mũi ra ngoài?”
Thường Phúc không đành lòng, phái hai nô bộc biết võ đồng hành với y, dặn đi dặn lại là phải dỗ Nhị công tử vui vẻ. Nô bộc đều biết Nhị công tử dễ đối phó nên cũng thích trốn việc đi chơi với y, nhưng hôm nay không có phiên chợ, Ích Châu vắng vẻ vô cùng.
Tư Đồ Nhã và nô bộc ăn điểm tâm tại một quán ăn ven đường*, dạo một lượt trong hiệu sách Tống Tiên Kiều, khi thì lật cuốn này, lúc lại mở cuốn khác, hỏi ông chủ, “Có ‘La Chức Kinh**’ không?” Ông chủ tức thì mắt sáng trưng, gấp ống tay áo đáp, “Xin lỗi công tử, tiểu điếm không dám có, mà có cũng không dám bán!”
*Nguyên gốc là Nhị huân phô: Là quán ăn nhỏ ven đường, thông thường có bếp dựng ngay cửa, chỗ ngồi ở trong, quán chỉ có 1-2 đầu bếp, phụ bếp và 1-2 người bưng bê vì khách khứa cũng không đông. Nhị huân phô giá rẻ, chuyên bán các món thịt đơn giản và các món chay như rau xào, đậu chiên vv, rất ít cửa hàng có cá và tôm. Nhị huân phô không có thực đơn, vì các món đơn giản nên phục vụ chỉ hỏi khách muốn ăn gì thì quán sẽ làm.
7cbf26b6jw1ec8h81e9c9j20db0gq0w7
**’La Chức Kinh’ là cuốn sách chuyên nói về cách thêu dệt tội danh, hãm hại người khác do ác quan La Tuấn Thần thời nhà Đường biên soạn. Võ Tắc Thiên xem xong cuốn sách này cũng phải thở dài cảm thán “Xảo trá”, Tể tướng Địch Nhân Kiệt xem xong cuốn sách này cũng phải toát mồ hôi lạnh, không dám kêu oan.
Tư Đồ Nhã không hỏi nữa, chọn mấy cuốn sách giải trí đưa cho nô bộc cầm, vô công rồi nghề đi dạo mấy canh giờ, cưỡi ngựa xem hoa vài chục cửa hàng, khi ngắm nghía bình sứ, khi nghịch nghịch quạt giấy, khi vuốt ve nghiên mực, chẳng biết gì nghĩ gì. Nô bộc đi mỏi cả chân, không ngừng kêu khổ, cuối cùng nhịn hết nổi mới khuyên y nghỉ chân một lát. Tư Đồ Nhã chưa thỏa mãn, nói là đi may một bộ y phục rồi về, ba người bèn đến tiệm lụa Lục Khởi cách đó không xa.
Tiệm lụa này có tên Cổ Cầm Lục Khởi (đàn cổ Lục Khởi). Lục Khởi là cây đàn của Tư Mã Tương Như, tương truyền Tư Mã Tương Như từng gẩy khúc ‘Phượng Cầu Hoàng’ bằng cây đàn này để tỏ lòng mến mộ Trác Văn Quân, sau đó đưa Trác Văn Quân ngao du tới Ích Châu. Tiệm lụa này chính là nơi Tư Mã Tương Như và Trác Văn Quân từng sống. Nô bộc không quan tâm đến câu chuyện sâu xa của nơi này nên chỉ nêu yêu cầu. Lát sau có chủ tiệm béo tròn ân cần ra đón tiếp, đưa Tư Đồ Nhã và nô bộc vào sảnh bên trong, dâng trà và đồ ăn nhẹ.
Chủ tiệm tủm tỉm hỏi, “Tư Đồ công tử đã lâu chưa ghé, không biết hôm nay muốn may áo theo hình thức nào?”
Tư Đồ Nhã áy náy nói, “Nói ra thì xấu hổ, mấy bộ xiêm y ngài may cho kẻ hèn khi trước vốn là rất ưng ý, nhưng sống trong giang hồ khó tránh khỏi đánh đánh giết giết, xiêm y của kẻ hèn chẳng còn giữ được bộ nào. Đành phải làm phiền ông chủ may lại như cũ.”
Chủ tiệm cười to, “Người khác đánh đánh giết giết, không giữ được tính mạng, Tư Đồ công tử lại lo lắng không giữ được xiêm y, thú vị thật.”
Tư Đồ Nhã nói, “Chê cười rồi.” Nô bộc nghe hai người khách sáo dông dài chỉ thấy mệt mỏi dào dạt, cực kỳ nhạt nhẽo. Dùng xong trà bánh, chủ tiệm đưa Tư Đồ Nhã đi may đo. Hai nô bộc chờ ở sảnh trong, uống thêm trà, ngáp lên ngáp xuống, bất giác gục xuống bàn say sưa ngủ.
Tư Đồ Nhã đi theo chủ tiệm, xuyên qua khoảnh sân yên tĩnh chăng đầy lụa hoa và thùng nhuộm, vào một gian phòng. Chủ tiệm giơ tay sờ lên tường, rút ra mấy hòn gạch, đổi chỗ cho nhau. Khoang lò hừng hực lửa tức khắc lùi sang bên, hé lộ con đường tối om và thềm đá.
Hai người bước vào, chủ tiệm lại rút đá trên cơ quan để khoang lò trở về vị trí cũ. Theo thềm đá đi xuống vài chục bước là tới phân đường của Cửu Như Thần Giáo, xung quanh sáng sủa rộng rãi, ấm áp như Xuân. Một chiếc bàn dài kê trên thảm nhung trải trước ghế chủ tọa, trên bàn đặt một cây đàn cổ nằm ngang màu xanh sẫm. Hàng ghế hai bên có ba bốn người ngồi, trông thấy Tư Đồ Nhã thì đồng loạt đứng dậy, chắp tay cúi chào, “Giáo chủ!”
Tư Đồ Nhã đảo mắt nhìn từng người, không ngờ có cả tổng quản Cứ Dưỡng Hoa và Hữu sứ Tạ Tất An. Y nhớ lại tiếng sói tru trong khe núi, nếu không bị hai tên đần phá đám, y sớm bắt được ám vệ Cửu thì đâu đến nổi này. Ngoài mặt y tươi cười như gió Xuân, “Sao tổng quản và Tả sứ cũng đến?”
Tổng quản Cứ Dưỡng Hoa không cam lòng, “Giáo chủ, vốn là thuộc hạ không muốn đến. Tại Hữu sứ khăng khăng đòi đến nên Tả sứ không thể không đến. Tả sứ không thể không đến, tất nhiên phải lôi thuộc hạ theo để chết thay. Thuộc hạ tuy hết sức lo sợ nhưng vẫn không màng sinh tử, quyết tâm đến đây dốc lòng vì Giáo chủ.”
Tả sứ Tạ Tất An nói, “Ngày mai là mùng một tháng Giêng, Minh chủ tổ chức đại hội võ lâm. Hữu sứ cho rằng có lẽ Giáo chủ sẽ cần dùng tới chúng thuộc hạ.”
Hóa ra không ít hiệu sách và tiệm lụa tại Ích Châu được dựng lên để Cửu Như Thần Giáo giám sát phủ đệ của Võ Lâm Minh chủ. Chỉ cần tới hiệu sách, cầm lên đặt xuống vài cuốn sách theo thứ tự, hỏi có ‘La Chức Kinh’ hay không, trong vòng hai canh giờ, giáo chúng lân cận sẽ tề tựu tại tiệm lụa Lục Khởi.
Lúc này Tư Đồ Nhã hẹn gặp giáo chúng không chỉ vì đại hội võ lâm. Khỏi cần nói, chủ yếu là vì hai mươi vạn lượng vàng. Nghĩ thế, y thâm tình sâu lắng nhìn tổng quản Cứ Dưỡng Hoa. Tới khi Cứ Dưỡng Hoa bị y nhìn đến sởn tóc gáy, y mới đảo mắt nhìn sang Hữu sứ.
Hữu sứ tên thật là Phạm Vô Cứu, chính là người giả mạo Ân Vô Hận giao chiến với ám vệ Cửu, rồi bế Tư Đồ Nhã tới ném xuống vách núi Đan Sơn trấn đêm đó.
Toàn bộ Cửu Như Thần Giáo chỉ có vị Hữu sứ tên Phạm Vô Cứu này quanh năm mặc đồ đen, lấy giết người làm nghề nghiệp. Giáo chúng bình thường gọi hắn là Hữu sứ phạt ác, sau lưng lại gọi hắn là Hắc Vô Thường. Cách gọi này không có gì vô lễ, lý do chỉ bởi hai cái tên Phạm Vô Cứu và Tạ Tất An vốn là của Hắc Bạch Vô Thường nơi Âm tào Địa phủ. Phạm Vô Cứu phạt ác, Tạ Tất An thưởng thiện. Các thế hệ Tả Hữu sứ của Cửu Như Thần Giáo đều dùng hai cái tên này.
Hữu sứ Phạm Vô Cứu thấy Tư Đồ Nhã nhìn mình thì quỳ một gối xuống, “Giáo chủ, thuộc hạ có chuyện cần bẩm.”
Tư Đồ Nhã đỡ hắn dậy theo đúng nghi thức xã giao, “Mời Hữu sứ nói.”
Phạm Vô Cứu nghiêm trang nói, “Gần đây, để thăm dò nội tình của Huyết Y Giáo, đường chủ Kim Bất Hoán (vàng không đổi) của Đại Phong Đường giả làm một tên phục vụ…”
Tư Đồ Nhã nói, “Ngàn đổi vạn đổi vàng không đổi, với trình độ dịch dung của hắn, chắc hẳn không tới mức để lộ dấu vết.”
“Vâng. Kim đường chủ điều tra được rằng Huyết Y Giáo đã cài một gián điệp tại phủ Tư Đồ. Chẳng biết gián điệp này phát hiện cái gì mà khiến Huyết Nghê Thường rút ra kết luận, Tư Đồ Nhị công tử chính là Giáo chủ Ngọc Tiêu Dao của Cửu Như Thần Giáo chúng ta.” Phạm Vô Cứu thận trọng đáp, vẻ như còn chưa nói hết.
Tư Đồ Nhã trêu ghẹo, “Ngươi có phải tiểu nha đầu Điểm Giáng Phái đâu, xấu hổ cái gì?”
“… Thuộc hạ suy đoán, rất có khả năng gián điệp của Huyết Y Giáo này đang ở bên cạnh Giáo chủ, bởi vậy mới nhận ra Giáo chủ không tầm thường.” Phạm Vô Cứu hạ quyết tâm, nói thẳng nói thật, “Thuộc hạ cho rằng tên gián điệp này chính là một trong các ám vệ của phủ Tư Đồ.”
“Gián điệp nọ là ai, bổn giáo chủ đã có suy đoán. Cùng lắm chỉ là dụ rắn rời hang, Hữu sứ đừng quá lo.” Tư Đồ Nhã nhớ tới gã quân tử leo xà* lục lọi đêm qua, lơ đãng nói, “Còn về đại hội võ lâm…” Mấy người thích thú xúm lại, bàn bạc về đại hội võ lâm. (*Triều Hán, một đêm ở nhà Trần Thực có tên ăn trộm nấp trên xà nhà, Trần Thực gọi hắn là ‘quân tử leo xà’, ví với kẻ gian đầu trộm đuôi cướp)
Kết thúc hội nghị, Tư Đồ Nhã hỏi tình hình của Tư Đồ Phong, biết được hành trình của Tư Đồ Phong tại Thục Bắc cũng không như ý, dọc đường vênh mặt hất hàm, thiếu lễ độ với thiếu chủ Đường Môn Đường Thiết Dung, cay nghiệt oán hận với Thiếu tiêu đầu Quý Tiện Vân hiền lành, còn chưa tới nơi vật ủy thác bị cướp thì đã suýt giải tán. Nhưng rồi chẳng biết sao tình cảm của ba người lại khăng khít hơn hẳn. Giáo chúng Cửu Như Thần Giáo làm theo đúng kế hoạch, hướng dẫn ba người đi tìm bình Cửu Long giả, mọi việc thuận lợi.
Vất vả bàn xong chính sự. Tư Đồ Nhã vuốt ve đàn cổ Lục Khởi bày ngang, thử gảy một cái, uyển chuyển nói, “Dạo này bổn giáo chủ có một chuyện phiền lòng, muốn nhờ tổng quản và Tả Hữu sứ ngả nghiêng đất biển, tát nước sông Phan*, nghiên cứu giùm một chút.” (*Nguyên văn: Khuynh lục hải, sái Phan giang – Trích trong bài thơ Đằng Vương các tự của Vương Bột, mang ý nghĩa ca ngợi hiền tài)
Cứ Dưỡng Hoa biết trước là không có gì hay, “Tát nước sông Phan và ngả nghiêng đất biển thì không làm được, bản lĩnh nhãi nhép của thuộc hạ chỉ tát được nước trong chậu để nghiên cứu thôi.”
Tư Đồ Nhã mỉm cười nói, “Vậy phiền tổng quản nghiên cứu xem, làm cách nào để có hai mươi vạn lượng vàng?”
Cứ Dưỡng Hoa và Tả Hữu sứ đồng loạt biến sắc, lại phấn khởi trăm miệng một lời, “Giáo chủ định khởi binh tạo phản à?!”
Tư Đồ Nhã tỉnh bơ, “Hai mươi vạn lượng vàng này là sính lễ cho Giáo chủ phu nhân.”
Cứ Dưỡng Hoa nghe mà hít hà, bám vào vai Tạ Tất An, vẻ như đứng không vững — Các môn phái giang hồ mưu sinh dựa vào việc hỗ trợ triều đình hoặc là buôn bán. Tỉ như Thiếu Lâm dựa vào triều đình, tiêu cục dựa vào áp tải hàng, Cái Bang dựa vào ăn xin, Đường Môn dựa vào kinh doanh dược liệu ám khí, Võ Lâm Minh chủ dựa vào giải quyết ân oán giang hồ.
Cửu Như Thần Giáo cũng không ngoại lệ, dựa vào việc kinh doanh tơ lụa. Ẩn sâu trong núi tuyết Cống Ca có một loài cây tên là Minh Linh Chá (cây chá giống cây dâu, lá nuôi tằm, gỗ vàng, mịn, là loại gỗ quý), trên thân chá có một loài băng tằm thuần Âm kịch độc ký sinh. Tơ của băng tằm đan thành dây đàn, tiếng đàn trong vắt như âm thanh thiên nhiên, mà tơ dệt thành y phục thì cản được cả đao thương. Cửu Như Thần Giáo nuôi dưỡng loài băng tằm này, kết hợp với nuôi dưỡng loài tằm bình thường cũng thuận buồm xuôi gió, kiếm sống bằng nghề kinh doanh tơ lụa.
Nhưng mà Cứ Dưỡng Hoa dốc hết tâm huyết, buôn bán làm ăn với tiệm lụa và tiệm gấm các nơi, một năm cùng lắm cũng chỉ thu về một vạn lượng vàng, tiền vui chơi giải trí cho giáo chúng còn chẳng có. Thế mà bây giờ Giáo chủ phá sản này lại tham lam đòi hắn xì ra hai mươi vạn lượng vàng để tặng người ta!
Tạ Tất An vỗ lưng cho Cứ Dưỡng Hoa, dò hỏi, “Giáo chủ định kết hôn với thần thánh phương nào thế?”
“Đêm sói tru, tổng quản và Tả sứ thấy rồi còn gì.”
Cứ Dưỡng Hoa và Tạ Tất An tức khắc nhăn nhó.
Cứ Dưỡng Hoa kiên trì quỳ xuống, “Thuộc hạ chịu phạt là được. Nhưng mà Giáo chủ đổi biện pháp trừng trị được không? Nuốt Kỳ Lân cổ thuộc hạ cũng chịu! Chứ hai mươi vạn lượng vàng chắc chắn không thể được, chớ nói lượng vàng, tiền không nên tiêu thì một xu thuộc hạ cũng không có!”
Tạ Tất An quỳ theo, “Nhờ phương pháp điều hành của Giáo chủ mà Cửu Như Thần Giáo mới có ngày hôm nay, chúng ta đồng tâm hiệp lực thật sự không dễ dàng. Vị giáo chủ phu nhân này chưa bước vào cửa mà đã kiêu căng vòi vĩnh, đòi hai mươi vạn lượng vàng mới xuất giá thì vào cửa rồi sẽ còn ra sao? Xin Giáo chủ cân nhắc.”
Phạm Vô Cứu thấy hai bọn hắn quỳ thì cũng khẳng khái quỳ xuống, “Giáo chủ, người ngoài không đáng tin. Luận nam sắc, trong giáo chúng ta đâu có thiếu gì. Giáo chủ thích kiểu nào, thuộc hạ lập tức dâng lên tận giường cho Giáo chủ, mỗi ngày đổi một tên, nếu Giáo chủ vẫn chưa hài lòng thì thuộc hạ cũng tự dâng mình lên được…!”
Cứ Dưỡng Hoa và Tạ Tất An đồng loạt nhìn Phạm Vô Cứu, tiện đà đánh mắt ra hiệu, vội vàng ném Phạm Vô Cứu phá hỏng không khí ra khỏi phân đường, sau đó quay về tiếp tục tận tình khuyên bảo. Đối với họ mà nói, thực ra Giáo chủ không thể cưới vợ, không chỉ là vấn đề tiền, mà xưa nay Cửu Như Thần Giáo có một cấm địa. Giáo chủ đời đầu Ngọc Liên Hoàn để lại một quy định, mỗi Giáo chủ mới sau khi cưới vợ, bắt buộc phải cùng vợ xông vào cấm địa để chứng minh sự hòa hợp vợ chồng. Nhưng các Giáo chủ làm theo quy định này đều một đi không trở lại, thậm chí còn chưa vào được cửa đã rơi xuống hỉ nộ vô thường. Giáo chủ lần này rất được lòng người, toàn bộ giáo chúng từ trên xuống dưới đều hi vọng Giáo chủ bình an, cô độc sống hết quãng đời còn lại.
Hết chương 30
|
Chương 31
Tư Đồ Nhã bình tĩnh hòa nhã mặc cho hai người nói. Nếu y ngang nhiên trở mặt với tổng quản và Tả Hữu sứ vì ám vệ Cửu, kết quả sẽ làm hại ám vệ Cửu. Đám người này dù sao cũng là y huấn luyện, phong cách hành sự giống với y, đối đáp có vẻ mềm mỏng, nhưng khi ý kiến bất đồng thì sẽ lấy đại cục làm trọng, phàm đã nhận định kẻ nào uy hiếp Cửu Như Thần Giáo, chưa biết chừng còn nộ tòng tâm đầu khởi, ác hướng đảm biên sinh (phẫn nộ tới cực điểm thì chuyện gì cũng dám làm), âm thầm trừ khử mầm họa. Nghĩ vậy, y xoa bóp ấn đường, thở dài nói, “Có câu tục ngữ rất đúng, một đồng tiền làm khó anh hùng. Trước kia bổn giáo chủ không biết tổng quản vất vả, cũng không hiểu được tầm quan trọng của tiền tài, nay muốn mua cái gì mới nhận ra mình nghèo rớt mồng tơi, thật là xấu hổ.”
Tạ Tất An thấy y nhượng bộ, nghĩ tới y là Giáo chủ một giáo, thuở nhỏ trừ tập võ luyện đàn thì chẳng có gì giải trí, mà xưa nay y đối xử với giáo chúng rất công chính nghiêm minh, chưa bao giờ lợi dụng quyền hành để làm việc riêng, thật sự là ngoan ngoãn tới đốt đèn soi cũng chẳng kiếm được ai như thế, bèn dỗ dành, “Giáo chủ là người làm việc lớn, tất nhiên không câu nệ tiểu tiết.”
“Chắt chiu từng ly từng tí đúng là không dễ.” Cứ Dưỡng Hoa cũng thả lỏng, tiện đà hạ bậc thang cho y xuống, nói, “Quản việc giáo như quản việc nhà, để Giáo chủ thoải mái đầu óc, không phải bận tâm tới những chuyện vụn vặt này, thuộc hạ có thể thắt chặt lưng quần mà tiết kiệm chi tiêu. Mỗi ngày thay Giáo chủ nuôi ăn hơn một ngàn người, nào có biện pháp kiếm ra nhiều tiền như thế? Khi nãy hốt hoảng nói năng khó nghe, mong Giáo chủ lượng thứ.”
Tư Đồ Nhã nghiêm túc nghe Cứ Dưỡng Hoa nói xong, ánh mắt chợt thâm sâu như hồ nước lặng, dẫn dắt từng bước, “Với bản lĩnh của tổng quản mà chỉ nuôi có một ngàn người đã thỏa mãn cả đời rồi sao?” Cứ Dưỡng Hoa nghe cũng bùi tai. Tư Đồ Nhã lại nói, “Sau này bổn giáo sẽ là thiên hạ đệ nhất giáo, Cứ Dưỡng Hoa ngươi sẽ là tổng quản của thiên hạ đệ nhất giáo, trong tay phải có núi vàng núi bạc, ngươi bày mưu lập kế phú khả địch quốc (tư nhân có tài sản ngang với quốc gia), bổn giáo chủ mới không đến mức anh hùng nhụt chí.” Dứt lời thì chuyển sang Tạ Tất An, đau đớn vô cùng nói tiếp, “Ngươi nhìn Tả sứ kìa, văn võ song toàn, tướng mạo phi phàm, tận tâm tận lực vì bổn giáo mà tiền tiêu hàng tháng cũng chỉ có trăm lượng bạc. Dạo này khuôn mặt nhỏ nhắn kia càng lúc càng héo hon gầy mòn, Giáo chủ để ở trong mắt, đau ở trong lòng, muốn khoản đãi hắn, ngặt nỗi bản thân mình cũng rất thanh liêm, thời kì giáp vụ (Vào thời kỳ giáp vụ, trái cây hạt lúa còn xanh, chưa chín vàng, dễ đói kém – Ý là chưa giàu), thật sự cũng khó mở miệng.”
Tạ Tất An nghe Giáo chủ nhà mình xót xa bày tỏ thì xúc động vô cùng, không khỏi giơ tay tự sờ mặt, cảm giác đúng là tướng mạo phi phàm thật.
Cứ Dưỡng Hoa không phục, “Giáo chủ cứ đi hỏi xem các môn phái trong giang hồ bây giờ thu nhập hàng tháng ra sao. Kinh tế của Cửu Như Thần Giáo tuy không phải tốt nhất, nhưng cũng được coi là phú giáp một phương rồi. Có điều Giáo chủ đòi hai mươi vạn lượng vàng thì kể cả ngân khố trong Hộ bộ của tên hôn quân kia cũng chẳng có nổi ngần ấy! Nếu Giáo chủ cứ thúc ép làm khó thuộc hạ thu về hai trăm vạn lượng bạc, e là trong thiên hạ sẽ chẳng còn bạc nữa!”
Tư Đồ Nhã gấp ngón tay, như có điều suy nghĩ, “Ý tổng quản là, toàn bộ Trung Nguyên hiện giờ cũng không có đủ hai trăm vạn lượng bạc?”
Cứ Dưỡng Hoa bất đắc dĩ nói, “Không sai. Việc này nói ra thì dài. Thuộc hạ giải thích cho Giáo chủ, chỉ sợ Giáo chủ lại thấy vô vị.”
Tư Đồ Nhã đáp rất đương nhiên, “Thì ngươi nói sao cho thú vị đi.”
Cứ Dưỡng Hoa nín một lát, xòe hai bàn tay nói, “Đặt giả thiết, khắp thiên hạ có mười lượng bạc. Trong đó năm lượng nằm trong tay tham quan ô lại và hoàng thân quốc thích. Hai lượng dùng cho quân lương. Trong ba lượng còn lại, hai lượng là thuế ruộng đất, nộp vào Hộ bộ, lại bị tham quan ô lại biển thủ một lượng rưỡi. Nửa lượng còn lại tạm thời nằm trong tay dân chúng, nửa lượng này chính là con số chúng ta có thể tìm cách kiếm được.”
Tư Đồ Nhã hỏi, “Thế hoàng thân quốc thích và tham quan ô lại chỉ trữ bạc chứ không tiêu à?”
Cứ Dưỡng Hoa đáp, “Thuộc hạ dự đoán, quá nửa là không tiêu. Bọn họ nhận bổng lộc của triều đình, ức hiếp dân chúng, chiếm đoạt ruộng tốt, cùng một giuộc với lũ gian thương, không cần giao nộp thuế má. Dù bạc có lưu động thì cũng chỉ lưu động từ tay kẻ này sang tay kẻ khác. Nói đơn giản, chính họ là những kẻ bịt kín quốc khố. Cứ mãi như vậy, bạc trắng trong dân gian sẽ dần khan hiếm, lương thực đắt đỏ. Muốn kiếm hai trăm vạn lượng bạc từ dân gian là chuyện khó như lên trời.”
Tư Đồ Nhã cơm áo vô lo, chưa bao giờ để ý tới chuyện này, cảm giác cực kỳ mới mẻ, “Quốc khố trống rỗng, dân chúng lầm than mà triều đình không sốt ruột sao?”
“Sao lại không sốt ruột? Lúc Tiên đế tại vị đã từng trọng dụng một vị hiền tướng họ Thường tên Duệ, ban sắc lệnh để ông ta chỉnh đốn lại trị (tác phong và uy tín của quan lại thời xưa), giải quyết nan đề nợ khan thuế ruộng nhiều năm. Thường Duệ tuân lệnh, thay đổi biện pháp trừng trị tham quan, ép tham quan giao nộp tiền bạc, nào ngờ chính bởi vậy mà lũ tham quan cướp bóc mồ hôi nước mắt nhân dân càng thêm táo tợn. Thời gian đó quốc khố đầy ắp, nhưng dân chúng lại cầm gậy khởi nghĩa.” Cứ Dưỡng Hoa lắc đầu, nặng nề nói, “Tiên đế chẳng còn cách nào khác nên đành phải nhường ngôi cho Thái tử còn nhỏ, mặc cho ngoại thích (gia đình phía mẹ hoặc vợ vua) làm mưa làm gió, bãi quan Thường Duệ để dẹp yên chuyện này. Ngoại thích và tham quan nắm quyền, tất nhiên không chịu bỏ qua cho Thường Duệ, chẳng những đuổi tận giết tuyệt già trẻ cả nhà ông ta, mà còn tính kế diệt trừ vây cánh của Thường Duệ sót lại trong triều. Khi đó phụ thân của thuộc hạ giữ chức Hộ bộ Thị Lang, cũng vì giúp đỡ Thường Duệ kiểm toán mà liên lụy, để tránh bị đuổi giết, gia mẫu không thể không đưa thuộc hạ tới Thục tị nạn. Nếu không nhờ lão giáo chủ ra tay cứu giúp, e rằng thuộc hạ đã sớm thành vong hồn dưới mũi đao.”
Tư Đồ Nhã nói, “Thường Duệ này, chỉnh đốn lại trị thì cứ chỉnh đốn, sao phải bộc lộ tài năng chỉ vì cái trước mắt, biến khéo thành vụng. Giáo chủ ta dù không nắm rõ đạo lý trị quốc, nhưng nhìn qua cũng biết là không thể dựa vào khí phách thư sinh.”
Cứ Dưỡng Hoa nói, “Giáo chủ anh minh. Nhưng dù vậy thì dân gian thế hệ trước đều hiểu rõ Thường Duệ là thanh quan. Hàng năm, tới ngày giỗ của ông ta vào mùng bảy tháng Chạp, dân chúng sẽ tự treo đèn lồng trắng, mặc đồ tang, im lặng tưởng nhớ Thường Duệ. Tất nhiên triều đình không chấp nhận việc này, nên cho tới hôm nay, ai dám mặc đồ tang tưởng niệm sẽ bị khép vào tội ác tày trời, phạm thượng làm loạn. Bởi vậy, dù lúc này có người muốn quốc khố dồi dào thì cũng chẳng dám làm gì.”
Tư Đồ Nhã không hiểu rõ, cân nhắc hỏi, “Quốc khố không có bạc, sao không đúc thêm?”
“Nói thì dễ hơn làm, từ xưa tới nay bạc trắng lưu hành ở Trung Nguyên phần lớn được chuyển tới từ Tây Vực. Những năm gần đây ngoại tộc Tây Vực chiến sự liên miên, Tây Vực thừa thãi bạc trắng đã không còn lui tới Trung Nguyên. Dù muốn đúc thêm, cũng là không bột đố gột nên hồ.” Cứ Dưỡng Hoa vanh vách đáp.
Tạ Tất An chen miệng, “Dù thiếu bạc thì tiền đồng cũng là tiền, sao lại có cái lý toàn bộ Trung Nguyên cũng không đủ tiền mua bán?”
Cứ Dưỡng Hoa nói, “Tả sứ biết một mà không biết hai, tiền đồng tại Trung Nguyên đều đúc từ quặng đồng Đông Doanh chuyển tới. Nhưng từ khi người Mông Cổ chinh phạt Đông Doanh thất bại, Đông Doanh cũng đã không còn lui tới Trung Nguyên. Tiền đồng chúng ta sử dụng ngày nay hầu hết là tích lũy qua các đời mới có.”
“…” Tư Đồ Nhã và Tạ Tất An há hốc miệng kinh ngạc.
Tư Đồ Nhã mơ màng cảm thán, “Tổng quản không nói thì bổn giáo chủ cũng không biết Trung Nguyên túng quẫn thế này.”
Cứ Dưỡng Hoa lừa dối trót lọt, như trút được gánh nặng, “Giờ thì chắc Giáo chủ cũng hiểu rồi, gom góp hai trăm vạn lượng bạc làm sính lễ cho tên ám vệ kia chỉ là chuyện cổ tích mà thôi.”
Ban đầu Tạ Tất An chỉ không muốn Giáo chủ nhà mình háo sắc mất trí, tiêu tiền như nước, nhưng nghe Cứ Dưỡng Hoa giảng giải xong lại thấy thích thú, thiên mã hành không (ngựa thần lướt gió tung mây, ý là hào phóng nhiệt huyết, không câu nệ) nói, “Cũng chưa hẳn, Giáo chủ chỉ cần đưa chúng thuộc hạ khởi binh tạo phản, diệt trừ lũ ngoại thích và tham quan thì thiếu gì tiền nữa?”
Cứ Dưỡng Hoa liếc xéo, “Đánh trận cũng phải có vốn, quân lương đâu ra?”
Tư Đồ Nhã suy nghĩ, nếu thâu tóm Trung Nguyên để thu thập hai trăm vạn lượng bạc mua ám vệ Cửu, sợ là không kịp trong nửa năm. Nếu đi cướp của ngoại thích và tham quan nhan nhản ngoài kia, lại không thể giải thích nguồn gốc của số bạc này, không coi là tự tay kiếm được – Y sao có thể ngờ, con đường phát tài này còn khó khăn gian khổ hơn cả thống nhất giang hồ.
Lại nói về Ám vệ Cửu đi tìm quản lý tiểu đoàn ám vệ Hồ Bất Tư, bẩm báo lại giao hẹn hai mươi vạn lượng vàng của Minh chủ và Nhị công tử.
Hồ Bất Tư nghe xong thì chăm chú nhìn ám vệ Cửu, thấy dấu mút đỏ hồng trên cổ hắn thì đã ngộ ra bảy tám phần lý do Tư Đồ Nhã cố tình giữ hắn lại. Lão lạnh lùng nói, “Bản chất đoan chính đứng đắn của ám vệ, ngươi chẳng học được chút nào, chỉ biết lấy sắc dụ người.”
Ám vệ Cửu trầm ngâm một lát, nghĩ rằng hễ Nhị công tử muốn mà hắn có thể cho, thì đều là chuyện vui cả.
“Hai mươi vạn lượng vàng, ngươi chỉ mơ mộng hão huyền thôi. Minh chủ nói vậy là để Nhị công tử hết hi vọng.” Hồ Bất Tư cực lực tạt nước lạnh, “Nhị công tử chỉ nhất thời bồng bột, tới lúc ấy không kiếm ra tiền sẽ thành trò cười, sẽ thẹn quá hóa giận, hận lây sang cả ngươi. Ngươi chống mắt lên mà xem trong đội ám vệ có kẻ nào quấn mãi không bỏ, tự rước lấy nhục như ngươi không? Chớ nói ám vệ Nhất, tiện tay bốc một ám vệ cũng hơn ngươi cả trăm lần! Ngươi nghĩ cái gì vậy hả?”
Ám vệ Cửu nói, “Nửa năm.” Hồ Bất Tư trừng hắn. Hắn lại nói, “Chỉ nửa năm.”
Hồ Bất Tư chẳng hiểu mô tê gì, “Là sao?”
Ám vệ Cửu bình tĩnh nói, “Minh chủ và tiểu chủ nhân giao hẹn nửa năm. Thuộc hạ sẽ sống tới trước khi hết hạn nửa năm đúng một ngày.” Chỉ cần có thể được ở bên Tư Đồ Nhã nửa năm, hắn đã mãn nguyện lắm rồi.
Hồ Bất Tư nghe vậy thì sửng sốt, lão vốn định chờ thời cơ chín muồi sẽ đích thân truyền lại tuyệt học của mình cho ám vệ Cửu, ai ngờ đồ đệ này chết sống không chịu khôn ra, cuối cùng vẫn không có triển vọng. Lão dùng phép khích tướng, muốn ám vệ Cửu tỉnh táo làm việc, không ngờ ám vệ Cửu vẫn chỉ rúc vào ngõ cụt. Ngẫm lại, ám vệ Cửu đã nghĩ kỹ rồi, chết trước kỳ hạn, Nhị công tử không mang tiếng phụ bạc, lão làm sư phụ cũng không mất thể diện.
“Hết thuốc chữa!” Hồ Bất Tư giận tới co giật nửa bên mặt, chẳng hiểu sao ám vệ Cửu bị mắng bị đánh mà vẫn không lên tiếng, thế là dứt khoát mặc kệ.
Ám vệ Cửu nghe lời dặn của Tư Đồ Nhã, mua vò rượu, mang theo mấy món ăn sáng, đưa ám vệ Nhất đã thu thập xong hành lý đến đình nghỉ chân mười dặm ngoài thành Ích Châu. Hai người nâng cốc cạn chén trong đình, bên ngoài chỉ có liễu khô vương đầy băng tuyết, tiêu điều biết bao.
Ám vệ Nhất xoa xoa ngón tay lạnh cóng đỏ bừng, thở ra sương trắng, “Đới Đao, chuyện tới nước này, ngươi đừng băn khoăn nhiều quá, nếu đã nhận định Nhị công tử là tiểu chủ nhân thì phải tin tưởng y có bản lĩnh phi thường ấy. Trên đường ta cũng sẽ lưu ý, chưa biết chừng tìm thấy vật Thục vương đánh mất cũng kiếm được không ít tiền.”
Ám vệ Cửu rót rượu cho hắn, bàn việc chung, “Vật Thục vương làm mất là bình Cửu Long.”
Ám vệ Nhất nghe ám vệ Cửu kể lại những gì chứng kiến ở Vương phủ, không nhịn được hỏi, “Bình Cửu Long đó rốt cuộc là thứ gì?”
Ám vệ Cửu khẽ quay đi, tựa hồ chăm chú lắng nghe tiếng gió Bắc gào thét phía xa, lặng im thật lâu mới đáp, “Là di vật của Tiên đế, tên đầy đủ là bình Cửu Long Công Lý, thân bình là chín con rồng vàng, đầu rồng chúc xuống, hướng về chín cái chén. Ngươi đổ nước đầy bình thì lượng nước ngang hàng — Đổ máu thì không ngang hàng. Đó là cách phân biệt thật giả.”
Ám vệ Nhất cái hiểu cái không, ngờ vực hỏi, “Vì sao đổ máu vào lại không ngang hàng?”
Ám vệ Cửu lắc đầu, nghe thấy hơn nửa dặm phía xa có tiếng tiếng vó ngựa và tiếng chuông* dồn dập kéo đến, lát sau, hơn mười đạo sĩ mặc áo cà sa màu xanh thúc ngựa tới trước đình. Dẫn đầu là một đạo sĩ trẻ tuổi mũi như huyền đảm (ý chỉ sống mũi cao, thẳng, cánh mũi nhỏ, chóp mũi nhọn), mắt xanh như ngọc, nắm dây cương chắp tay với hai bọn hắn, cất giọng Trung Nguyên hỏi rất rõ ràng, “Quấy rầy! Xin hỏi con đường phía trước dẫn tới thành Ích Châu?”
Ám vệ Cửu và ám vệ Nhất hai mặt nhìn nhau, im lặng gật đầu.
Đạo sĩ nọ vui vẻ cười nói, “Vậy xin hỏi hai vị thiện nhân có biết phủ Tư Đồ nằm ở đâu trong thành Ích Châu không?”
*Loan linh (鸾铃) Là loại chuông gắn trên cổ ngựa hoặc trước xe ngựa:
Hết chương 31
|
Chương 32
Vấn đề nan giải hai trăm vạn lượng bạc, đến tổng quản Cửu Như Thần Giáo cũng không nghĩ ra hướng giải quyết, Tư Đồ Nhã đành phải xoay đường khác. Xưa nay y việt tỏa việt dũng (càng gặp khó khăn thì càng mạnh mẽ), dù trời sập xuống cũng phải làm cho rõ vì sao trời sập, sập như thế nào, làm sao nâng lên, không cuống, không hoảng. Rời khỏi phân đường Cửu Như Thần Giáo, y nhẹ nhàng đánh thức hai nô bộc đang ngủ say.
Mấy ngày nay nô bộc chạy ngược chạy xuôi chuẩn bị cho đại hội võ lâm đã quá mệt mỏi, vô ý ngủ quên, vội vàng nhận lỗi với Nhị công tử dễ tính, chỉ mong Tư Đồ Nhã giấu giếm giúp hai người, tránh bị quản gia hà khắc trách phạt và trừ tiền lương tháng. Chủ tớ ba người lại vui vẻ đi dạo một vòng không mục đích rồi về phủ, tình cờ gặp hơn mười đạo sĩ đang dỡ đồ đạc trên lưng ngựa trước cổng phủ.
Tư Đồ Nhã đối diện với đạo sĩ trẻ dẫn đầu, thấy đạo sĩ nọ trán rộng tóc đen, con ngươi xanh biếc như ngọc, sống mũi cao và thẳng tắp, tướng mạo không giống người Trung Nguyên, nhưng không ngang ngược tục tằn như người dị tộc, mà nhật giác long đình (Trán rộng mở, hình dạng như bầu trời, các nhà Tướng học thời xưa cho rằng đây là tướng Đế vương), vinh hoa phú quý.
“Tướng bạc mệnh.” Đạo sĩ trẻ chạm mắt với y, thình lình cất tiếng.
“Đạo trưởng nói chuyện với tại hạ sao?” Tư Đồ Nhã dừng lại, chắp tay mỉm cười, “Mệnh cung của tại hạ không tốt sao?”
Đạo sĩ trẻ đáp lời, “Bần đạo nhất thời lỡ miệng, có điều tướng mạo công tử hiếm thấy.” Lại trắng trợn nhìn y một hồi.
Tư Đồ Nhã thấy đạo sĩ áo xanh trang nghiêm, nhân tiện thỉnh giáo, “Phiền đạo trưởng chỉ dạy.”
Đạo sĩ trẻ chỉ đợi câu này, tức khắc nắm lấy tay trái y xem xét. Lại xoa nắn dọc theo tay y lên trên, đụng tới xương vai, vẫn thấy chưa đủ, dứt khoát nắm lấy cằm y nhìn nhìn. Tay còn lại vòng qua ót y, xoa xoa huyệt Ngọc Chẩm, trượt xuống xương cổ, lưng, xong xuôi mới trịnh trọng nói, “Khung xương của công tử rất đẹp, hông và lưng dẻo dai, thanh mảnh, công tử hít thở, đan điền dồi dào, tập võ tất có thành tựu.”
Ám vệ Cửu dẫn Tư Đồ Khánh ra cổng, bắt gặp đạo sĩ nọ ôm Tư Đồ Nhã, táy máy sờ soạng tới lui. Tư Đồ Khánh thân là Võ Lâm Minh chủ, lăn lộn giang hồ hơn hai mươi năm, biết đạo sĩ này hành động như vậy khắc có nguyên nhân, tuyệt không phải chỉ vì lỗ mãng, bèn tỉnh bơ chặn ám vệ Cửu lại, im lặng theo dõi.
“Tại hạ cũng biết chút võ nghệ…” Tư Đồ Nhã còn chưa dứt lời đã bị đạo sĩ bóp miệng. Thầm nhủ đây là xem tướng cho người hay cho ngựa vậy…
“Ôi chao, tướng mạo công tử này suy nhược quá rồi. Cung Tử Nữ dưới mắt không đầy đặn, thế nào cũng tuyệt tự. Nếu nhún nhường muốn sống như người bình thường thì chắc chắn sẽ chịu nhiều ức hiếp. Chi bằng đến phái Võ Đang ta, vừa tập võ dưỡng sinh, vừa dốc lòng tu đạo. Có điều.” Đạo sĩ thở dài, chỉ điểm, “Đôi môi dịu dàng đầy đặn, thích làm việc thiện giúp người, nhưng khóe miệng và cằm dưới lại có vài phần cay nghiệt, nếu không phải tướng gian xảo thì nhất định là tướng đoản mệnh!”
Tư Đồ Nhã thầm nghĩ, đạo sĩ này ăn không nói có, giả vờ ngốc nghếch, nói năng lại sắc sảo, điệu bộ xởi lởi dễ gần, chính xác là cá mè một lứa với Thục vương Hàn Mị – Trương Ngọc Tiêu phái Võ Đang, té ra phái Võ Đang ai cũng thế. Ngoài mặt thì lo lắng hỏi, “Tóm lại vẫn là mệnh không tốt, không dám trèo cao tới Võ Đang. Phiền đạo trưởng xem lại giùm, mệnh của tại hạ có hai mươi vạn lượng vàng không?”
Tư Đồ Khánh thờ ơ tới đoạn này thì không đành lòng nhìn thằng con mất mặt thêm nữa, tươi cười bước ra cổng nghênh đón, “Ngưỡng mộ danh tiếng Trương thiếu hiệp đã lâu, hôm nay được gặp, quả nhiên là không tầm thường. Nghiệt tử nhà ta xưa nay ngốc nghếch, để thiếu hiệp chê cười rồi. Chẳng hay sức khỏe tôn sư (cách gọi tôn trọng đạo sĩ thời xưa) dạo này thế nào?”
Lúc này đạo sĩ mới buông Tư Đồ Nhã, hành lễ đáp, “Sư phụ hoạt bát khỏe mạnh, tuy vẫn luôn nhớ mong Minh chủ, nhưng còn nhiều chuyện phải làm ở Đại Châu xa xôi, không thể một ngày ngàn dặm quay về tương trợ Minh chủ. Về phần hư danh của vãn bối, trước mặt Minh chủ chỉ như đốm lửa và Thái Dương. Bích Hiệp hổ thẹn không dám nhận!” Dứt lời thì chuyển sang Tư Đồ Nhã, cười nói, “Không nhận ra Thái Sơn, có nhiều chỗ mạo phạm, công tử thứ lỗi.”
Tư Đồ Nhã đã hiểu, đạo sĩ này là Trương Bích Hiệp trong ‘Võ Đang Song Bích’, cùng với Trương Ngọc Tiêu, là đệ tử nhập thất của chưởng môn. Mà Trương Ngọc Tiêu chính là Thục vương Hàn Mị. Có câu gần mực thì đen, đúng là một đôi sư huynh sư đệ, phong cách hành sự đại để giống nhau. Thế là hòa nhã kính cẩn nói, “Chưa nói tại mặt dày mày dạn làm phiền Trương huynh xem tướng, cho dù Trương huynh để mắt tới tại hạ, được Trương Bích Hiệp thần long kiến thủ bất kiến vĩ mạo phạm thì tại hạ cũng may mắn lắm rồi.”
Trương Bích Hiệp lấy danh nghĩa Võ Đang tham dự đại hội võ lâm, ôm tâm trạng kết giao hào kiệt bốn bể, mở mang kiến thức về Giáo chủ Ma Giáo Ân Vô Hận độc ác xấu xa. Sư phụ Trương Hạc Tâm của hắn hiện đang là đệ nhất võ lâm, sư đệ Trương Ngọc Tiêu lại là Thục vương xưng bá một cõi, tất nhiên hắn cũng phải trí tuệ lớn, khát vọng lớn. Ngoài mặt chu đáo lễ độ, thực ra trong lòng hắn chưa từng để Võ Lâm Minh chủ vào mắt, lúc này được Tư Đồ Nhã tướng bạc mệnh, quần áo lụa là nịnh nọt, sợ y hám lợi đen lòng quấn lấy hắn rồi khoe khoang khắp nơi, ảnh hưởng đến danh dự của hắn và Võ Đang, nên cũng chẳng buồn đáp lễ.
Đám người bằng mặt không bằng lòng vào phủ, thưởng thức đồ ăn chay. Trương Bích Hiệp tặng Tư Đồ Khánh một hộp Dược Vương Long Chi danh tiếng của Võ Đang rồi về sương phòng tại sân ngoài nghỉ ngơi, chỉ mong Ân Vô Hận có thể vượt qua đại hội võ lâm này để tới gặp hắn. Đêm đó phủ Tư Đồ bận tối mày tối mặt, không ít hiệp khách nổi tiếng giang hồ lục tục đến, sương phòng đã chật kín, người tới người lui náo nhiệt hơn cả lần chọn ám vệ ngày mùng bảy tháng Chạp.
Tư Đồ Nhã chỉ thấy vô vị, náo nhiệt thế chứ náo nhiệt nữa cũng chẳng liên quan gì đến Nhị công tử mất hết võ công, chỉ cảm thấy chính phái bàn chuyện đúng là om sòm ngột ngạt, nói đi nói lại chỉ có mỗi một việc là thảo phạt Hoan Hỉ Giáo. Năm đó đám hào kiệt này cậy đông hiếp ít, luân phiên đánh với Ân Vô Hận, bây giờ vẫn dương dương tự đắc, ỷ người đông thế mạnh, cho rằng chỉ cần đồng tâm hiệp lực thì Ma Giáo chẳng có gì đáng ngại.
Tư Đồ Nhã nghe mà díp cả mắt, cùng ám vệ Cửu về phòng sớm, bôi thuốc và băng bó vết thương cho nhau, nghỉ ngơi dưỡng sức chờ đại hội võ lâm ngày mai.
Hai người đều không nhắc tới chuyện hai trăm vạn lượng bạc. Ám vệ Cửu cẩn thận dém góc chăn gấm cho Tư Đồ Nhã, thổi tắt nến, tận trung với chức trách nhảy lên xà ngang gác đêm. Căn phòng rơi vào tĩnh lặng, Tư Đồ Nhã nằm nghiêng lắng nghe, chỉ nghe thấy tiếng gió lay rừng trúc bên ngoài, thầm nghĩ bản lĩnh ẩn nấp của ám vệ Cửu đúng là khá hơn ám vệ Nhất, dù cao thủ hạng nhất lẻn vào thì cũng chưa chắc đã biết ám vệ Cửu nấp ở đâu. Nếu không dùng nội công tập trung định vị, y cũng sẽ nghĩ trong phòng này chỉ có mình lẻ loi.
“Ám vệ Cửu.” Tư Đồ Nhã gọi.
Ám vệ Cửu đáp, “Có thuộc hạ.”
Cách màn đêm, Tư Đồ Nhã lại gọi, “Ám vệ Cửu.”
Ám vệ Cửu vững vàng đáp, “Có thuộc hạ.”
Tư Đồ Nhã vén chăn lên, nói, “Giường lạnh quá, xuống ủ ấm.”
Ám vệ Cửu tuân lệnh, nhanh nhẹn cởi áo khoác đặt dưới chân giường, lại đặt đoản đao ở vị trí với tay tới được, sau đó mới cẩn thận nằm xuống bên cạnh Tư Đồ Nhã.
Tư Đồ Nhã dịch vào bên trong, nhường chỗ cho hắn, săn sóc nói, “Nằm nghiêng mà ngủ, đừng đè lên vết roi.”
Ám vệ Cửu không dám quay lưng về phía Tư Đồ Nhã, đành phải nằm nghiêng đối mặt với Tư Đồ Nhã. Hô hấp nóng hổi gần gũi phả vào mặt, hắn im lặng nín thở, tránh làm Tư Đồ Nhã khó chịu. Qua chừng nửa canh giờ, cuối cùng nhịn hết nổi, đang định quay đi thì Tư Đồ Nhã chợt giơ tay lên, vòng qua lưng hắn.
“…” Ám vệ Cửu đoán rằng Tư Đồ Nhã vẫn chưa ngủ say, nên cố gắng không nhúc nhích, đợi y ngủ say mới hít thở bình thường.
Chốc lát sau, Tư Đồ Nhã không còn động tĩnh, đã ngủ say. Ám vệ Cửu chậm rãi đổi tư thế, chưa kịp nhúc nhích thì Tư Đồ Nhã lại chợt gác chân lên người hắn, khóa chặt hắn, khuôn mặt lành lạnh cũng xích vào, kề sát bên mặt hắn.
Ám vệ Cửu càng không dám thở, ma xui quỷ khiến nghĩ, tướng ngủ của tiểu chủ nhân xấu thế này, sau khi thành gia lập nghiệp, nhiều khả năng sẽ đè chết vợ mất thôi. Ngẫm lại, cảm thấy ý tưởng này rất bất kính, vì nín thở lâu quá nên rối tinh rối mù, khó kiên trì, nhưng vẫn cố chống đỡ. Hắn đành phải đối hướng suy nghĩ, nghĩ về sau này Tư Đồ Nhã cưới vợ — Tới lúc đó, nếu hắn gác đêm trên xà ngang, Tư Đồ Nhã và Tư Đồ phu nhân ôm nhau ngủ trên giường… Tư Đồ phu nhân khó thở, nhất định hắn phải nghĩ ra biện pháp cứu Tư Đồ phu nhân mà không đánh thức Tư Đồ Nhã. Có điều nam nữ thụ thụ bất thân, khi đó nhiều khả năng là hắn sẽ gác đêm ngoài cửa, nếu vậy thì chuyện này càng khó giải quyết.
Ám vệ Cửu chu đáo lo nghĩ, thật lâu sau mới phát giác khóe miệng mình nhồn nhột nóng ướt, là Tư Đồ Nhã đang liếm môi hắn.
Giờ mới biết Tư Đồ Nhã vẫn chưa ngủ, ám vệ Cửu lại càng không dám thở, chỉ có thể nhắm chặt mắt, sừng sững bất động chờ Tư Đồ Nhã liếm xong. Dần dần phổi của hắn vượt qua giới hạn, bắt đầu quên mất việc hô hấp, chỉ cảm thấy đầu lưỡi vô cùng mềm mại kia gần trong gang tấc, dịu dàng liếm láp khiến môi hắn ngứa ngáy. Cảm giác nhồn nhột từng đợt lan tỏa khắp toàn thân, vật giữa hai chân từ từ thức tỉnh. Trong khoảnh khắc ấy, hắn nín thở tự kiểm điểm định lực ngày càng lơi lỏng của mình, thầm mong được liếm láp mạnh bạo cho thoải mái, cắn cũng được, còn hơn là ngứa ngáy thế này.
Tư Đồ Nhã tựa hồ đã hiểu suy nghĩ của ám vệ Cửu, bắt đầu mạnh mẽ mút lấy môi hắn, đưa lưỡi vào trong, khẽ nói, “Mở miệng ra.”
Ám vệ Cửu nghe lệnh, không kịp hít thở, vật cứng đã bị Tư Đồ Nhã bắt lấy, xoa nắn, đang bứt rứt vô cùng, đầu lưỡi mềm mại bất ngờ xâm nhập khoang miệng hắn, gắn bó triền miên. “Tiểu…” Định gọi tiểu chủ nhân thì mới nhận ra thế này không nói chuyện được. Mà vừa lên tiếng, Tư Đồ Nhã lại hôn càng sâu, nuốt chửng âm cuối nhỏ xíu của hắn, mạnh bạo cắn lưỡi hắn một cái, sau đó trở nên dịu dàng, lùi về, nhẹ nhàng miêu tả hình dạng đôi môi hắn.
Đôi môi ám vệ Cửu đã bị Tư Đồ Nhã mút tới chết lặng, chờ đợt tê dại qua đi, cảm giác nhồn nhột khiêu khích từ đầu lưỡi kia lại truyền tới.
Tư Đồ Nhã không xoa nắn vật cứng bên dưới của ám vệ Cửu nữa, chỉ nghiêng người liếm láp rất lâu, cảm nhận cường độ nhẫn nại của hắn qua hàm răng nghiến chặt. Đôi lúc mệt mỏi sẽ nghỉ tạm một lát, rồi lại tiếp tục như gần như xa, lặp đi lặp lại khoảng một canh giờ, tự cảm thấy đã chơi đủ thì cắn một cái thật mạnh lên môi ám vệ Cửu, chuẩn bị chấm dứt và đi ngủ, ai ngờ lần này ám vệ Cửu cứng đờ cả người, tuy hắn có vẻ gắng sức không nhúc nhích, nhưng thân thể lại run lên nhè nhẹ.
Tư Đồ Nhã suy nghĩ một thoáng, vô thức sờ soạng giữa hai chân ám vệ Cửu, nơi đó vẫn còn cứng ngắc, khẽ giật giật. Y chưa tin, nắm lấy vật thể nóng rực kia, vuốt lên trên, vuốt đến đỉnh thì chất dịch trắng đục nóng hổi rơi vào lòng bàn tay y. Y chỉ định hôn môi ám vệ Cửu, nào ngờ ám vệ Cửu lại lên đỉnh. Tức khắc hôn thêm miếng nữa, tò mò hỏi, “Liếm tới liếm lui thế này thích lắm à?”
“…” Ám vệ Cửu đỏ bừng cả mặt. Cũng không biết cảm giác liếm tới liếm lui có thích hay không.
Vì ngày mai là đại hội võ lâm, Tư Đồ Nhã dừng lại, không tiếp tục tra tấn ám vệ Cửu, lau sạch tay rồi ôm ám vệ Cửu mặt đỏ phừng phừng bình yên đi vào giấc ngủ. Theo y, đại hội võ lâm dùng ngòi bút làm vũ khí đối phó với Ma Giáo rất vô vị, tam giáo cửu lưu tụ họp cũng rất vô vị. Nhưng Giáo chủ Ma Giáo quần hùng đang muốn thảo phạt lại nằm ngay trong đại hội võ lâm, cái này thì khá thú vị.
Hết chương 32
|
Chương 33
Đại hội võ lâm hôm nay chia thành hội võ và hội văn.
Hàng năm tới tháng đào nở hoa, giai đoạn chim ưng hóa thành tu hú*, hiệp khách năm sông bốn biển tụ họp, phân loại theo kỹ năng, bản lĩnh, kết giao võ nghệ. Trong năm này ai thắng ai thua, ai mạnh ai yếu, xem trên bảng niêm yết anh hùng thiên hạ do Võ Lâm Minh chủ biên soạn là sẽ hiểu ngay. Bởi vậy địa vị của các đại môn phái trên giang hồ cũng được định đoạt. Gọi là hội võ. (*Là lúc trời chuyển từ Đông sang Xuân, khí trời ấm dần lên, hoa đào bắt đầu nở, thời gian này được chia thành ba giai đoạn, “đào nở hoa”, “vàng anh hót” và “chim ưng hóa thành tu hú”)
Nguyên tắc của hội văn là quân tử động khẩu không động thủ. Tổ chức không định kỳ, lấy thương lượng đại sự trong võ lâm làm đề tài chính. Từ lúc Tư Đồ Khánh đảm nhiệm chức vụ Võ Lâm Minh chủ, hội văn thường tổ chức bên ngoài cổng thành phía Nam của Ích Châu. Nô bộc trong phủ dựng khung, căng mành dài mấy dặm, bốn phương tám hướng là tên các phái được múa bằng bút lông sói dài một trượng, dùng kiếm pháp Kiếm Môn. Trong đó nổi bật nhất là hai chữ ‘Võ Đang’ oai rồng uy cọp, giương cung bạt kiếm.
Phàm là nhân vật có máu mặt trên giang hồ, trước bàn sẽ đặt một chén trà thơm, một mâm trái cây, trên ghế có lò sưởi, thảm nỉ, đầy đủ mọi thứ.
Tư Đồ Khánh là Võ Lâm Minh chủ, ngồi ở bàn chủ tọa phía Bắc hướng về Nam. Trái phải là trưởng tử Tư Đồ Tung và thứ tử Tư Đồ Nhã, đằng sau là ám vệ đội mũ rộng vành, đeo bao bảo vệ nửa cánh tay xếp hàng đông nghịt. Quần hùng nhìn về phía Tư Đồ Khánh thì không khỏi chú ý tới hai đứa con trai hai bên, chỉ thấy Tư Đồ Tung mặc y phục gấm, tóc búi chỉnh tề, ngồi ngay ngắn trên ghế, tất nhiên là tứ bình bát ổn, chính khí ngời ngời; Tư Đồ Nhã vẫn mặc áo trắng không nhiễm bụi trần, khoác áo lông dê, cổ áo, gấu áo viền lông tơ êm ái, bộ dạng hoàn toàn không vũ phu, tay cầm cuốn “Thương Huấn” của Phạm Lãi, chăm chú đọc.
Chờ mọi người đông đủ, Tư Đồ Khánh thong thả bước ra giữa màn che, chắp tay tứ phía, xã giao vài câu khiêm nhường khách sáo với hảo hán các nơi.
Tư Đồ Nhã quay lại, định nhìn xem ám vệ Cửu đang ở đâu, nhưng tiểu đoàn ám vệ trông giống hệt nhau. Hồ Bất Tư đứng im ở hàng đầu, thấy Nhị công tử thỉnh thoảng quay lại nhìn trộm thì ho khan một tiếng nhắc nhở. Tư Đồ Nhã như ngộ ra gì đó, nâng chén trà khẽ hỏi, “Quản lý hắng giọng làm chi, uống ngụm trà nhé?”
Giữa bao ánh mắt, Hồ Bất Tư duy trì uy nghiêm, không để ý tới Tư Đồ Nhã – Công tử này biến đồ đệ tâm đắc nhất của lão thành dư đào, ngẫm lại là đau đớn.
Tư Đồ Khánh nói vài câu tiếp đón chưởng môn các đại phái, đang định đề cập việc hệ trọng Ma Giáo tái xuất giang hồ, thình lình bên ngoài vang lên tiếng ngựa hí, quần hùng lắng tai nghe, sau tiếng vó ngựa lộn xộn, lại có cả ngàn tiếng đế giày nện xuống đất và tiếng chuôi đao rung rung vây quanh hội trường của họ.
Đúng lúc đó, một con tuấn mã tung bờm nhảy vọt qua màn che cao một trượng, quần hùng giật mình biến sắc, đồng loạt rút đao đối mặt.
Nhưng người trên lưng ngựa nửa cười nửa không, đội mũ đi ủng, sang trọng kiêu ngạo, nghênh ngang cưỡi ngựa đi vào sân, cuối cùng liếc sang Tư Đồ Khánh, ngoắc ngón tay nói, “Minh chủ đừng để ý, nói đến đâu rồi, cứ tiếp tục đi.” Dứt lời thì thản nhiên ôm lấy Quý Nhạn Tê trong lòng, xoay người nhảy xuống đất, dắt ngựa bễ nghễ hướng về bàn của Võ Đang.
Lần này cả hội trường xì xào bàn tán, không ít người phỏng đoán tên điên khách át giọng chủ này là ai. Tư Đồ Khánh sống tại Ích Châu, nhận ra gã là Thục vương Hàn Mị, lại biết gã còn có thân phận Võ Đang thì tức khắc cười bỏ qua, sai người dọn chỗ cho gã tới ngồi.
Trên bàn Võ Đang, Trương Bích Hiệp vui vẻ chào đón, “Sư đệ.”
Hàn Mị mang theo Quý Nhạn Tê đến bên cạnh Trương Bích Hiệp, thờ ơ nói, “Sư huynh.”
Quần hùng ngạc nhiên, thế mới biết hai người này là chính là Võ Đang Song Bích danh chấn giang hồ. Hai người tới gần nhau, ôm nhau hàn huyên một trận. Ôm chán, Trương Bích Hiệp liếc nhìn Quý Nhạn Tê dắt ngựa, lời lẽ nghiêm khắc, “Sư đệ tới tham gia đại hội võ lâm, sao còn mang theo súc sinh?”
Sắc mặt Quý Nhạn Tê tức khắc khó coi, nhưng ngại đối phương là nhân vật số hai trong Võ Đang, giận mà không dám nói gì.
Hàn Mị vuốt ve bộ lông đen nhánh của con tuấn mã, cười nói, “Thích không, con ngựa Đại Uyển (là giống ngựa ở vùng Trung Á tại vùng Đại Uyển, được lưu truyền trong sử sách của Trung Quốc) này tên là Tử Điện, rất khéo léo, sư huynh cầm lấy mà chơi.” Ngựa đen hí lên một tiếng, nghe thấy Hàn Mị gọi tên mình thì rung rung cái đầu cọ vai Hàn Mị. Trương Bích Hiệp trông cũng thích, tiện tay vuốt ve bờm ngựa rủ xuống, âu yếm một trận rồi sai người dắt đi. Lúc này mới dẫn Hàn Mị và Quý Nhạn Tê vào bàn, vừa bóc quýt cho Hàn Mị ăn, vừa nghe Võ Lâm Minh chủ nói.
Tư Đồ Khánh nói, “Kẻ hèn tài hèn sức mọn, vốn không đủ sức đảm nhiệm chức vị Minh chủ. Mấy năm nay được các anh hùng Cửu Châu (chỉ chín khu vực hành chính của Trung Quốc thời xưa, sau dùng để chỉ Trung Quốc) phó thác, không cầu lập công, chỉ cầu không sơ suất, nguyện đồng tâm hiệp lực với anh hào khắp thiên hạ, gìn giữ giang hồ thái bình an lạc. Nhưng Trời không chiều lòng người, vừa qua Ma Giáo tro tàn lại cháy, liên tiếp làm loạn. Chắc hẳn chư vị bằng hữu đã nghe tin đồn Gia chủ Đường Môn Đường Kỳ Long, Lê Hoa Thương Phạm Xung và gần mười vị hảo hán trúng độc thủ, ba trăm sáu mươi huyệt đạo toàn thân bị xuyên thủng, hành vi tàn ác vô cùng như vậy, thật sự không thể dễ dàng tha thứ!”
Vài nhân sĩ giang hồ không rõ đầu đuôi, nghe thấy vậy thì xôn xao, châu đầu bàn luận. Các phái Thanh Thành, Nga Mi, Không Động lại im lặng như tờ. Tư Đồ Nhã nhìn bàn của Võ Đang phía xa, chỉ thấy Hàn Mị ôm Quý Nhạn Tê, đang đợi Trương Bích Hiệp bóc quýt cho ăn, sư huynh sư đệ qua qua lại lại sung sướng biết bao.
“Người trong võ lâm chúng ta không tiếc mạng sống vì bằng hữu, sẵn sàng chém đầu vẩy máu vì đại nghĩa. Huống hồ hôm nay bằng hữu gặp nạn, ta và ngươi bỏ mặc ngó lơ, hôm sau tai họa ghé nhà, chẳng phải là khoanh tay chịu chết hay sao? Cho nên, hi vọng chư vị bằng hữu đoàn kết lại, đồng tâm hiệp lực, diệt trừ Ma Giáo!”
Phía bàn của phái Không Động có người cười nhạt, “Minh chủ, Đạo giáo là giáo, Phật giáo cũng là giáo. Ngài cứ nói Ma Giáo Ma Giáo, không biết Ma Giáo này là giáo gì? Ngài nói nó là Ma Giáo thì nó là Ma Giáo, ngài nói nó giết người thì nó giết người, lão phu chỉ sợ một ngày nào đó, Đạo giáo cũng sẽ biến thành Ma Giáo trong miệng Minh chủ.”
Mọi người nghe tiếng nhìn lại, chỉ thấy người nọ mắt sáng như sao, búi tóc đạo sĩ, râu dài như sơn dương, khoác áo bào trắng viền đen, trước bàn đặt hai thanh việt Tử Ngọ Uyên Ương, lưỡi cong như càng bò cạp. Phái Không Động sở trường là kì binh lợi khí (vũ khí sắc bén), người chuyên dùng loại việt Tử Ngọ Uyên Ương này chính là chưởng môn Phong Lạc Ảnh.
*việt Tử Ngọ Uyên Ương:
0DO3cw00
Hàn Mị nghe vậy thì vỗ tay, đang định tung chiêu phá bĩnh, thêm dầu vào lửa thì bị Trương Bích Hiệp nhét quýt đầy mồm.
Tư Đồ Khánh gặp nguy không hoảng, đáp trả ngay, “Thanh giả tự thanh, trọc giả tự trọc. Xưa nay phái Không Động chính nghĩa đường đường, mặc cho kẻ gian đổi trắng thay đen, vu cáo phái Không Động là Ma Giáo thì giang hồ cũng chẳng ai tin. Phong lão đệ sao phải sỉ nhục chính mình, tự nhập bọn với Ma Giáo? Cuộc tập kích đêm mấy ngày trước tại Đan Sơn trấn, không ít bằng hữu tai nghe mắt thấy, suy đoán từ võ công đám người nọ sử dụng, thì kẻ khởi xướng chính là Hoan Hỉ Giáo độc ác xấu xa hai mươi năm về trước.”
Quần hùng cùng hít khí lạnh, Hoan Hỉ Giáo chính là Ma Giáo không thể nghi ngờ, giáo chúng thờ phụng Hoan Hỉ Phật, tuyên dương tình dục hoang đàng, sau đó mới đến Phật trí. Không ít hiệp khách đã trúng độc thủ, nuốt phải ‘Thiên Hoan Đoạn Tuyệt Tán’, rơi vào bước đường cùng mất hết thanh danh, sống không bằng chết. Giáo chủ Ân Vô Hận sở trường dùng tiếng đàn lả lướt khiến người nghe hồn xiêu phách lạc, có thể dùng dây đàn xuyên qua một trăm yếu huyệt. Nào ngờ Ma Giáo này như con sâu trăm đốt, chết rồi vẫn không cứng, tiếp tục quay về làm loạn.
Tư Đồ Tung nhớ lại đêm đó Ân Vô Hận xuyên dây đàn qua gân tay gân chân hắn, trong lòng vẫn sợ phát run, vô thức bắt lấy tay Tư Đồ Nhã, gắng sức bình tĩnh lại. Tư Đồ Nhã khẽ vuốt ve mu bàn tay hắn, định rút tay về. Tư Đồ Tung lại chợt hạ giọng, “Nhị đệ này, chúng ta trốn đi.”
Tư Đồ Nhã không hiểu, “Ý Đại ca là sao?”
“Phụ thân ngang nhiên đối địch với Ân Vô Hận, không có kết quả tốt đâu.” Tư Đồ Tung thấp thỏm bất an, “Đại ca không đành lòng nhìn đệ liên lụy vào.”
Tư Đồ Nhã bật cười, “Đại ca thật không biết xấu hổ, rõ ràng đang vui vẻ với ám vệ Bát mà vẫn nói được mấy lời hư tình giả ý này.”
Tư Đồ Tung chẳng hiểu mô tê gì, “Cái gì mà vui vẻ với ám vệ Bát, ám vệ Bát liên quan gì ở đây?”
“Đại ca không lên giường với hắn.” Tư Đồ Nhã rút tay về, “Nửa đêm hắn vào kho lấy ‘Huyền Tham Ngọc Lộ Cao’ làm chi?”
Tư Đồ Tung nổi giận, “Trời đất chứng giám! Những ngày qua ta chỉ một lòng mong nhớ đệ, nào có tâm tình làm chuyện đó với một tên ám vệ dơ bẩn!”
Tư Đồ Nhã bâng quơ nói, “Bất luận thế nào thì Đại ca cũng phải cẩn thận. Hai đêm ở Đan Sơn trấn, Ma Giáo đều đánh lén vào thời điểm khó đề phòng, ngộ nhỡ bên cạnh thật sự có mật thám của Ma Giáo, Đại ca háo sắc mất trí, ngu đệ biết kêu oan cho Đại ca thế nào?”
Bên này hai vị Tư Đồ công tử nói chuyện riêng, bên kia quần hùng đã loạn cào cào bàn bạc đối phó với Hoan Hỉ Giáo.
Chưởng môn Ngô Tử Hư phái Nga Mi thở dài, “Tiên đạo quý sinh, vô lượng độ nhân*. Hai mươi năm trước thảo phạt Ma Giáo, chúng ta đã tạo sát nghiệt tày trời. Cứ giết người để trấn an lòng người, dùng chiến để ngừng chiến như vậy thì khi nào mới kết thúc? Nếu Hoan Hỉ Giáo quyết tâm báo thù, không liên lụy tới người vô tội, lão phu sẽ tự cắt đứt kinh mạch, chấm dứt nghiệt trái này cho phái Nga Mi.” (*Trích “Độ Nhân Kinh” – Là chủ trương nhất quán tôn trọng sinh mệnh của Đạo giáo: Một, tôn trọng giá trị sinh mệnh của con người. Hai, tôn trọng giá trị sinh mệnh của động vật. Ba, tôn trọng giá trị sinh mệnh của thực vật. Bốn, tôn trọng hoàn cảnh sinh tồn của con người và động thực vật. Làm được bốn điều trên chính là vừa độ mình, vừa độ người)
“Không thể được!” Hào kiệt thân thiết với phái Nga Mi cuống quít ngăn cản, chốc lát đã thấy Ngô Tử Hư tóc hoa râm bình yên nhắm mắt, không còn lên tiếng.
Phái Nga Mi tức khắc rối loạn, vây quanh chưởng môn đã tắt thở, khóc không thành tiếng. Mọi người cho rằng Ngô Tử Hư chỉ nói thôi, chẳng ngờ làm thật, ai cũng ngẩn ngơ, lại không khỏi khâm phục khí khái thản nhiên chí tình chí nghĩa này. Tư Đồ Nhã im lặng nhìn, nội lực dồn tới huyệt Thính Cung, nghe thấy kỳ kinh bát mạch của Ngô Tử Hư lần lượt đứt đoạn như lụa trắng, âm thầm xóa bỏ nợ máu của phái Nga Mi. Tính từ lúc này thì chỉ còn chưởng môn Bộ Bạch Thu phái Thanh Thành và chưởng môn Trương Hạc Tâm phái Võ Đang còn khả năng biết tung tích Cửu Như Thần Công năm đó.
Trương Bích Hiệp và Hàn Mị phái Võ Đang mồm đầy nước quýt, hờ hững theo dõi — Sư phụ hai người họ từng nói, Ngô Tử Hư phái Nga Mi này là một tên ngốc, năm đó từng khổ tâm khuyên nhủ Ân Vô Hận hướng thiện, khuyên tới khuyên lui lại động lòng phàm, không còn tâm trí ngộ đạo, sau này nhận lệnh sư phụ đi diệt trừ Hoan Hỉ Giáo, đoạn tuyệt vướng bận hồng trần. Sau khi đại thắng thì liên kết với vài nhân vật tai to mặt lớn bắt nhốt Ân Vô Hận, tra khảo đòi thuốc giải ‘Thiên Hoan Đoạn Tuyệt Tán’. Nhưng những kẻ khuyến khích Ngô Tử Hư dẫn đầu tra tấn Ân Vô Hận rốt cuộc là ai thì không ai rõ.
Quần hùng bất bình thay Ngô Tử Hư. Rất nhiều hiệp khách chưa từng gặp Hoan Hỉ Giáo, vốn không biết Ma Giáo này ra sao, bây giờ thấy chưởng môn phái Nga Mi bị Ma Giáo bức tử, lại nghĩ đến Gia chủ Đường Môn chết thảm mấy ngày trước, tức khắc cảm thấy bất an, yêu cầu Tư Đồ Khánh mau tìm đối sách, chủ trì công đạo, bắt gọn Hoan Hỉ Giáo mang ra giết cho sướng.
Tư Đồ Khánh phấn chấn nhất thời, dồn khí đan điền, cất giọng mạnh mẽ, “Hiện nay, Hoan Hỉ Giáo đã không còn an thân tại quỷ thành Phong Đô. Về phần ẩn thân nơi nào, phiền chư vị bằng hữu bày thiên la địa võng, cẩn thận tìm hiểu. Phàm là nhân vật khả nghi không rõ lai lịch, nhất là những kẻ mặc áo đỏ, cầm đàn, tay đeo chuông bạc Hắc Miêu tộc thì phải lưu ý. Có điều minh thương dễ tránh, ám tiến khó phòng. Cùng lúc đó, kẻ hèn sẽ phái ám vệ bảo vệ chu toàn cho chưởng môn các phái.”
Hàn Mị nhấp nhổm lắng nghe, bưng chén trà ủ ấm tay, thình lình Quý Nhạn Tê nhúc nhích, chén trà rơi xuống, nát bấy.
Hàn Mị nhìn sang phái Thanh Thành, có người bật cười lên tiếng, “Tư Đồ lão nhi — Năm đó ngươi giết hại bảy mươi mốt sư huynh sư đệ Kiếm Môn ngươi, vu oan cho Hoan Hỉ Giáo, luôn mồm trừ ma vệ đạo, lại thừa cơ cướp lấy chức vị Võ Lâm Minh chủ! Hôm nay vẫn giở trò cũ, tặc hám tố tặc (Bản thân gian xảo lại quát người khác gian xảo)! Thật sự là thời thế không có anh hùng, nên mới để thằng nhãi nhép như ngươi thành danh!”
Hết chương 33
|
Chương 34
Phái Thanh Thành bất ngờ lật lại bản án cũ của Kiếm Môn, nói Kiếm Môn thực sự suy vong vì tự giết lẫn nhau, mà đầu sỏ gây nên chính là đệ tử duy nhất may mắn sống sót Tư Đồ Khánh của Kiếm Môn. So với tin tức Hoan Hỉ Giáo tái xuất giang hồ, những lời vô căn cứ này càng khiến quần hùng khiếp sợ, nếu sự thật đúng là như vậy, thì Tư Đồ Khánh vì muốn làm Võ Lâm Minh chủ mà mất trí sát sư diệt tổ, lại giá họa cho Hoan Hỉ Giáo, chiếm được sự đồng tình của đồng đạo võ lâm, tâm cơ khiến người khác không rét mà run.
Quý Nhạn Tê liên tục phủi nước trà trên áo cho Hàn Mị, khóe mắt lại tỉnh bơ quan sát Tư Đồ Nhã — Phụ thân bị hãm hại, Tư Đồ Nhã và Tư Đồ Tung đồng thời đứng dậy, khác nhau là, Tư Đồ Tung vô thức nhìn thẳng vào phái Thanh Thành, còn Tư Đồ Nhã lại nhìn thẳng sang đây, giống như đang nhìn hắn.
Hàn Mị nhận được ánh mắt khiển trách của Tư Đồ Nhã, cúi đầu vỗ vỗ vạt áo, nói, “Hiểu lầm thôi mà.”
Trương Bích Hiệp tưởng Hàn Mị thông đồng với phái Thanh Thành để gây khó dễ cho Tư Đồ Khánh, ám hiệu là ném chén trà. Hắn ngờ vực nói, “Sư đệ định làm gì thế? Sao không nói trước để sư huynh nghiên cứu thêm cho.”
“Sư huynh.” Hàn Mị hỏi lại, “Không thấy ném chén làm hiệu dung tục lắm sao?”
“…” Trương Bích Hiệp thấy Hàn Mị sắc mặt như thường không giống chối cãi, chỉ đành cảm thán phái Thanh Thành cơ hội, gây sự đúng lúc Hàn Mị trượt tay, những người sâu sắc sẽ khó tránh khỏi suy đoán, phái Thanh Thành dám khiêu khích Võ Lâm Minh chủ như thế là vì có chỗ dựa là phái Võ Đang và Thục vương.
Quả nhiên, Tư Đồ Khánh tim đập loạn nhịp, không nhìn phái Thanh Thành mà sắc sảo nhìn về phía chén trà Hàn Mị vừa đánh rớt.
Làm Võ Lâm Minh chủ, Tư Đồ Khánh đã sớm luyện được bản lĩnh Thái Sơn sập ngay trước mắt vẫn không biến sắc. Nhưng giờ khắc này, hai mắt ngài nheo lại, sáng ngời khiến người ta sợ hãi, con ngươi chất đầy sự giận dữ kìm nén đã lâu. Sườn mặt ngài căng cứng, thái dương nổi gân xanh, ánh mắt ngài thoạt nhìn giống hệt ánh mắt chàng trai trẻ đơn độc quỳ trước Kiếm Môn đổ nát, ngửa mặt lên trời thét dài hai mươi năm về trước. Khi đó hùng quan nguy nga, thiên địa mênh mang, ai tới hỏi ngài sống chết của bảy mươi hai người tại Kiếm Môn, ai tới nói cho ngài biết, đệ tử bất tài may mắn sống sót này phải đối kháng với Ma Giáo cực hung cực ác kia ra sao để rửa sạch nỗi nhục này cho Kiếm Môn!
Quản lý ám vệ Hồ Bất Tư quát phái Thanh Thành, “Toàn là dối trá!”
Tổng đà chủ tam giang lưỡng hồ Cái Bang Hồng Nham Đồng cũng buồn bực nói, “Đức độ của Tư Đồ Minh chủ, người trong giang hồ rõ như ban ngày! Chỉ có phái Thanh Thành lỗ mũi trâu ghen ăn tức ở, phát ngôn xằng bậy đổi trắng thay đen, cho rằng làm vậy là cướp được vị trí Võ Lâm Minh chủ? Đó mới là mưu đồ bất chính!”
Mọi người nghe vậy, cho rằng Hồng Nham Đồng nói có lý, không khỏi đồng loạt nhìn về phía người gây sự bên phái Thanh Thành, chỉ thấy người nọ khoảng bốn – năm mươi tuổi, đầu chẻ ngôi giữa như lỗ mũi trâu, mặt tròn vành vạnh, mặc áo cà sa trắng như tuyết, bên ngoài thêu Thái Cực Lưỡng Nghi*, ống tay áo rộng rãi thêu hoa văn như lông hạc, lúc này vênh váo khoanh tay đứng, mắt mở to không sợ hãi, vừa nhìn đã biết là cao thủ võ lâm tài cao mật lớn.
*Thái Cực Lưỡng Nghi: Lưỡng nghi chỉ trời và đất, là sự phân chia ban đầu của thái cực.
taichi
Các tiền bối trong giang hồ tức khắc nhận ra đây chính là chưởng môn Bộ Bạch Thu phái Thanh Thành, dùng ‘Hóa Vạn Quy Nhất’ danh chấn giang hồ. Năm đó Bộ Bạch Thu là đại đệ tử phái Thanh Thành, thường xuyên lui tới luận bàn với Kiếm Môn, quan hệ rất khăng khít. Tư Đồ Khánh thảo phạt Hoan Hỉ Giáo, trừ Ngọc Phù Dung của Điểm Giáng Phái thì lão là người hưởng ứng đầu tiên, chẳng biết sao bây giờ lại trở mặt.
Tư Đồ Nhã tiếp nhận vấn đề của Hồng Nham Đồng, mở quạt giấy phe phẩy, rồi gấp lại chỉ vào Bộ Bạch Thu, “Bộ chưởng môn vừa nói, ‘Thời thế không có anh hùng, nhãi nhép cũng thành danh’. Vãn bối thiết nghĩ, phải ngược lại mới đúng — Thời thế không có nhãi nhép thì anh hùng mới thành danh. Chung quy, anh hùng mang danh thiện hay ác, tất cả còn phải xem nhãi nhép miệng lưỡi cay nghiệt có giữ khẩu đức hay không, đúng không Bộ chưởng môn?”
Quần hùng bị câu từ vòng vèo của y làm cho rối rắm, lại có không ít người gật đầu nói phải.
Bang chủ Cái Bang Tác Liệt đang ngồi gãi ngứa, lúc này mới nhận ra Tư Đồ Nhã là một trong hai huynh đệ đoạn tụ mình gặp dưới chân núi Đan Sơn. Gã đang nghĩ đại hội võ lâm kì quái này vô vị quá, thấy người quen lên tiếng thì vui mừng ra mặt, chỉ hận không thể chạy lại hàn huyên.
Bộ Bạch Thu không giận, ngược lại còn bật cười, “Sao vậy, lão già Tư Đồ không dám đối chất, phải nhờ trẻ con múa mép giải vây à?”
Tư Đồ Khánh bỏ ngoài tai. Chuyện cũ như triều dâng sấm sét, chiếm hết tâm trí ngài, ngài vẫn nhớ rõ ngày mình xuất quan, ban đầu còn giận sư phụ — Ngài và Ngọc Phù Dung tình cờ gặp gỡ, Ngọc Phù Dung năm lần bảy lượt cứu mạng ngài, lương duyên trời định, lưỡng tình tương duyệt, vì sao không thể ở bên nhau?
Nhớ năm đó, ba tháng trước khi sư phụ phạt ngài bế quan tự kiểm điểm, ngài từng phụng mệnh sư phụ rời Thục hành hiệp trượng nghĩa. Qua eo sông Cù Đường thì gặp thủy tặc Bặc tộc (là một dân tộc thiểu số ở vùng Tây Nam Trung quốc thời xưa). Đám thủy tặc nọ cho rằng đạo tặc Quý Diểu Diểu diệu thủ không không (ý chỉ ăn trộm cực kỳ lành nghề và nhanh nhẹn) ẩn nấp trên thuyền, ép buộc người trên thuyền giao nộp Huyền Mặc Thần Công, bằng không sẽ ném từng người xuống sông làm mồi cho cá.
Khi đó kiếm pháp của ngài rất tốt, nhưng không thông thạo thủy chiến, kiệt sức đẩy lùi đám thủy tặc, lại không biết làm gì với con thuyền thủng. Vất vả liều mạng dùng khinh công đưa toàn bộ hành khách đến chỗ nước cạn, rồi chợt phát hiện vẫn còn một người ngồi trên con thuyền sắp chìm trong sóng dữ.
Tuổi trẻ xốc nổi, ngài không nghĩ nhiều, lại tùy tiện bôn ba dưới lòng sông, khi đó xác thuyền đã tách rời vì nước chảy xiết, bốn phía mờ mịt, nơi nào còn người sống.
Ngài thầm nhủ không ổn, chút nội tức cuối cùng cũng tiêu biến, kiệt sức ngã vào mạch nước ngầm mãnh liệt dưới eo sông Cù Đường. Ngài không nhìn thấy gì, ruột gan rối bời, phí công mò mẫm, sặc vài ngụm nước tanh tưởi, tự cảm thán đại nạn đã tới, rồi ngay giữa dòng nước xiết lạnh như băng, chợt có người ôm lấy ngài từ phía sau, dùng nội lực sưởi ấm cho ngài, bức cát và nước trong lồng ngực ra ngoài, lại giúp ngài khai thông hô hấp. Ngài đã ngạt thở quá lâu, mơ màng không biết người cứu mình là ai. Tới khi tỉnh lại đã thấy mình nằm đơn độc tại miếu Thành Hoàng, người cứu ngài thì không còn tung tích.
Đảo mắt đã một tháng trôi qua. Ngài tuân lệnh sư phụ, diệt trừ Tương Tây Tam Tà dùng xác chết làm loạn khi đó. Trên đường quay về Thục, thình lình cuồng tính phát tác mới nhận ra mình đã vô ý trúng phải độc thi (độc xác chết), không chỉ sợ nước, buồn nôn, mà nhìn thấy nước là hai mắt rơi lệ. Nhà đò trông thấy ngài đều né tránh, ngài tự biết như vậy sẽ không về được Kiếm Môn, đang lúc bàng hoàng lại vô thức trốn vào miếu Thành Hoàng cách eo sông Cù Đường không xa, chỉ mong trước khi chết có thể gặp lại người đã cứu mạng mình. Chẳng biết qua bao lâu, ngài sốt tới mơ màng, loáng tháng nghe thấy bên cạnh có người đánh đàn, tiếng đàn như suối chảy ngọc tan, đau thương tới cực điểm. Cố gắng mở mắt, lại chỉ mơ hồ nhìn thấy một bóng trắng.
Từ đó về sau, bóng trắng nọ ngày đêm chăm sóc ngài. Mỗi khi ngài nuốt không trôi, bóng trắng sẽ cặm cụi hôn môi đút cháo cho ngài. Mỗi khi ngài phát tác cuồng tính, thấy bóng trắng này vướng víu thì há miệng định cắn. Bóng trắng không trốn tránh, im lặng mặc cho ngài cắn, một lần lại một lần kiên nhẫn vỗ về ngài, hôn môi ngài. Tới khi tỉnh táo lại, ngài nhận ra bóng trắng này chính là người cứu ngài trên sông. Vượt sông, đút cháo, cánh môi mỏng manh, khí phách xuất trần, lạnh lùng cao ngạo, có lẽ còn có chút ranh mãnh dí dỏm, thích im lặng nín thở, giả bộ không có mặt, mặc cho ngài lo âu bò lê bò lết, ngỡ ngàng sờ soạng, cuối cùng lại xoa đầu ngài tỏ vẻ ngợi khen.
Khi đó ngài chỉ biết ỷ lại vào bóng trắng nhìn không rõ, đoán không ra này, thầm nghĩ nếu bóng trắng là nữ tử, ngài sẽ cưới nàng làm vợ, nếu bóng trắng là nam nhân, ngài sẽ kết nghĩa huynh đệ với hắn, nếu hắn không chịu, ngài sẽ làm trâu làm ngựa báo đáp ân tình này, ở bên hắn cả đời.
Sau đó, rốt cuộc ngài vẫn khó qua khỏi, chỉ mành treo chuông. Bóng trắng dùng một phương pháp Tầm Cân Điểm Huyệt kỳ lạ, dùng nội lực nối liền với kinh mạch của ngài, đêm đó chất độc của ngài tức khắc được trừ khử, tuy năm giác quan vẫn chưa khôi phục. Chẳng biết tại sao, trực giác mách bảo ngài rằng bóng trắng muốn bỏ đi, vô thức bắt lấy cánh tay bị cắn đầy vết thương của bóng trắng, muốn hỏi tên bóng trắng, nhưng lại không thể mở miệng. Bóng trắng im lặng hôn ngài, nhưng không để lại gì cả.
Chờ năm giác quan khôi phục như lúc ban đầu, ngài trở lại Kiếm Môn, thuật lại cho sư phụ về nội tình võ công của người cứu mạng ngài. Sư phụ nói, võ công nối liền kinh mạch đó tên là ‘Kết Mạch Liên Lý Kinh’, còn chiêu thức mà bóng trắng dùng là ‘Lý Đại Đào Cương’, có thể chuyển dời độc thi của ngài sang người mình. Nhất định là chưởng môn Ngọc Phù Dung của Điểm Giáng Phái. Ngài hỏi sư phụ tướng mạo và y phục của Ngọc Phù Dung. Sư phụ cho biết, Ngọc Phù Dung quen mặc đồ trắng, là một nữ hiệp hành y tế thế xuất quỷ nhập thần, xưa nay kiêu căng ngạo mạn, về phần tướng mạo như thế nào thì mỗi nơi đồn một kiểu.
Từ đó về sau ngài mất hồn mất vía, xao nhãng kiếm pháp, chỉ lo lắng cho Ngọc Phù Dung đã trúng độc thi, muốn tới núi tuyết Cống Ca tìm kiếm Điểm Giáng Phái. Sư phụ lại muốn ngài lấy việc kế thừa bảy mươi hai kiếm thức Kiếm Môn làm trọng, nói rằng đại trượng phu chỉ lo công danh chưa lập, không lo không lấy được vợ. Chỉ khi võ công đại thành thì mới được xuống núi. Nhưng ngài nghe lệnh, bực bội sốt ruột bế quan một tuần tại Tiểu Kiếm Sơn vẫn không đạt thành tựu gì. Ngày xuất quan, nghĩ bụng dù có thế nào cũng phải thuyết phục sư phụ, để ngài đi thăm Ngọc Phù Dung trước rồi sẽ về luyện kiếm sau, nào ngờ…
“Kê Khang nào dám tranh quang cùng yêu quái*.” Giọng Tư Đồ Nhã cắt ngang hồi tưởng của Tư Đồ Khánh, “Phụ thân sao phải phí lời với Bộ chưởng môn?” (Trích Linh Quỷ Khi – Kê Khang của Đường Thường Nghi: Một đêm Kê Khang đánh đàn dưới ánh nến, tình cờ gặp ma, vì thế thổi tắt nến, nói, “Nào dám tranh giành vinh quang của yêu quái.” Câu này ngụ ý châm chọc)
“Nhị đệ nói là, cáo trạng không có bằng chứng, không cần đối chất.” Tư Đồ Tung lấy can đảm phụ họa.
Tổng đà chủ Cái Bang Hồng Nham Đồng nói, “Năm đó Ân Vô Hận sát hại bảy mươi mốt mạng người Kiếm Môn, chứng cứ vô cùng xác thực. Tuy lão phu không có mặt nhưng cũng nghe nói đệ tử Kiếm Môn đều chết bởi dây đàn, một trăm lẻ tám tử huyệt khắp người bị xuyên thủng. Trên giang hồ không người không biết, không người không hiểu, đó chính là chiêu thức ‘Câu Hồn Đoạt Phách’ của Ân Vô Hận. Nói theo cách của Bộ chưởng môn, nếu Tư Đồ Minh chủ ‘Sát hại bảy mươi mốt sư huynh sư đệ, vu oan cho Hoan Hỉ Giáo’, chắc hẳn Tư Đồ Minh chủ cũng phải thông thạo ‘Câu Hồn Đoạt Phách’ của Ân Vô Hận? Tức là Tư Đồ Minh chủ vừa am hiểu ‘Câu Hồn Đoạt Phách’, vừa có năng lực dùng Tuyết Mang Kiếm xưng bá thiên hạ, chẳng biết lợi hại hơn Ân Vô Hận bao nhiêu lần, cần gì phải uổng công vô ích tự diệt gia môn, dùng khổ nhục kế để tranh giành chức vị Minh chủ?”
Quần hùng gật gù tán thành. Bộ Bạch Thu inh ỏi nói, “Hồng tổng đà chủ hỏi rất hay, tiếc rằng chiêu thức sát hại đệ tử Kiếm Môn không phải ‘Câu Hồn Đoạt Phách’ của Ân Vô Hận! Chư vị bằng hữu, chẳng dám giấu giếm, mấy ngày trước, một tiều phu cư trú tại Kiếm Môn quan đã tới Thanh Thành chúng ta cáo trạng, nói rằng trong lúc Kiếm Môn bị tàn sát năm đó, chính mắt lão trông thấy một đám người xông lên núi, đám người nọ lại không phải Hoan Hỉ Giáo người Miêu! Lúc đó lão nhát gan, sợ phiền phức, không dám tiết lộ, nay tuổi đã xế chiều mới dám nói ra chân tướng!”
Tư Đồ Khánh nghe vậy thì giật mình — Năm đó bảy mươi mốt sư huynh sư đệ của ngài chết thảm, sau khi sau khi xuất quan, ngài nhìn thấy thi thể đầy đất mới biết. Lúc đó không người làm chứng, chỉ có cách xác định hung thủ bằng một trăm lẻ tám huyệt đạo bị xuyên thủng. Bởi vậy kết luận chắc chắn là Hoan Hỉ Giáo Ân Vô Hận gây nên. Huống hồ Ngọc Phù Dung nghe tin chạy tới trợ giúp ngài, sau khi khám nghiệm tử thi cũng xác nhận sự thật chính là như vậy. Thậm chí lúc ngài dẫn đầu quần hùng tới quỷ thành Phong Đô, chất vấn Ân Vô Hận trên lầu cao, Ân Vô Hận mặc y phục đen của Miêu tộc cũng chẳng thèm ngó xuống mà chỉ cười như điên như dại, “Sao phải giải thích, sao phải hỏi han?”
Chẳng lẽ ngài đã nghi oan cho Hoan Hỉ Giáo và Ân Vô Hận?
Hết chương 34
|