Đọc Thầm
|
|
Quyển 2 - Chương 2: Humbert Humbert 2
Thợ sửa chữa thong thả đến muộn, liên tục ngáp ngắn ngáp dài, thoạt nhìn rất khó để thang máy lập tức đầy máu sống lại, vài người vốn còn chờ đợi cũng dần dần mất kiên nhẫn bỏ đi.
Máy pha cà phê trọng lượng thực mười hai kí, thêm hộp giấy đóng gói cũng ngót nghét mười lăm kí, khá là nặng.
Song Phí Độ mặc dù hơi ít rèn luyện, dẫu gì vẫn còn trẻ trung, là một gã trai muốn gì có đó, ôm mười mấy kí đi lên lầu thực ra cũng không thành vấn đề lắm, vấn đề là nên dùng tư thế nào-
Thùng giấy hình khối khả năng là một trong các phát minh phản nhân loại nhất, bất kể là cõng là ôm là xách hay là vác, đều tương đối khó coi, chủ tịch Phí tưởng tượng mấy tư thế liền, đều không thể đạt thành hòa thuận trên thẩm mỹ với chính mình. Nhưng kiện hàng rườm rà là tự mình mua, dù nhàu hết sơ mi cũng phải khiêng, Phí Độ bất đắc dĩ cùng cái thùng giấy kia thô lố mắt nhìn nhau một lát, quyết định bất chấp giá nào, vác nó đặt lên đầu vai không dính một hạt bụi – may là lúc này bên cạnh chỉ có một ông lão về hưu chửi bới om sòm và con chó rụng trụi lông.
Đương khi hắn cam chịu trước số phận, cất bước đến cầu thang bộ, sau lưng đột nhiên có người mở miệng hỏi: “Anh muốn lên tầng mấy, có cần giúp một tay không?”
Phí Độ quay đầu lại, nhìn thấy hai mỹ nhân một lớn một nhỏ.
Đại mỹ nhân trông khoảng ngoài hai mươi, nhìn giống nữ minh tinh nào đó, rất là bổ mắt, dắt theo một bé gái khoảng hơn mười tuổi. Bé gái tết tóc công chúa, mặc một cái váy hoa nhí xinh xắn, vừa cầm cây kem chậm rãi liếm, vừa tò mò nhìn Phí Độ.
Phí Độ chỉ cần nửa giây đã quyết đoán ném thùng xuống, sau đó hắn lấy ra phong độ quay người là có thể đi diễn tuồng, gật đầu cười hỏi đối phương: “Tôi cản đường à? Thật sự xin lỗi.”
“Không sao không sao, tôi không định đi bên này, chỉ là thấy thứ anh ôm rất nặng,” Đại mỹ nhân nói, hơi chần chừ quay đầu thoáng nhìn thang máy, “Trời nóng thế này mà hỏng thang máy, bên quản lý cũng thật là – hay anh chờ một lát đi thang máy đi, không chừng lát là xong ngay thôi.”
Phí gia một công tử ăn chơi có thâm niên cầu còn không được, vui đến quên cả thời gian, để bé gái ngồi trên thùng của hắn, đứng trong hành lang tường loang lổ tán phét với đại mỹ nhân.
“Năm phút là phải lên đến rồi,” Đào Nhiên nhìn Lạc Văn Chu bưng cà ri gà thơm nức mũi ra, nhìn đồng hồ, “Sao Phí Độ vẫn chưa lên?”
Lạc Văn Chu đâu vào đấy chỉ huy đám đàn em sắp bàn, mở một cái nồi đất hầm chân giò riu riu: “Không biết, khéo mọc rễ nảy mầm dưới lầu rồi cũng không chừng.”
Anh vừa nói vừa rút một cái thìa múc nửa thìa nước nếm thử, cảm thấy mùi thơm đủ rồi nhưng vị còn thiếu một chút: “Nhà ông có đường phèn không?”
“Không có,” Đào Nhiên vừa thay giày vừa trả lời, “Để tôi xuống lầu xem thử cậu ta sao rồi, tiện thể mua một bịch lên luôn, ông cần loại nào?”
Lạc Văn Chu nhíu mày: “Trèo lên lầu cũng cần người đón, chiều thành thiếu gia thật rồi.”
Đào Nhiên tốt tính nở nụ cười, ai ngờ anh vừa sắp ra cửa liền nhìn thấy Lạc Văn Chu mặt mày sầm sì đi theo.
“…” Đào Nhiên lấy làm lạ hỏi, “Ông đi đâu thế?”
“Tôi đi mua đường phèn,” Lạc Văn Chu nói, “Ông không biết mua loại nào đâu.”
Đào Nhiên tự dưng nhìn thấy một chút giấu đầu hở đuôi từ trên mặt anh ta.
Lạc Văn Chu: “Ông nhìn cái gì?”
Đào Nhiên nghĩ nghĩ: “Gần đây hình như mối quan hệ của ông với Tiểu Phí tốt hơn không ít nhỉ?”
Lạc Văn Chu dừng bước, sau đó xỏ dép lê, khoát tay như ông lớn: “Ai tốt với hắn? Đấy là tôi không thèm chấp nhặt với tên khốn nạn đó thôi.”
“Tên khốn nạn” chủ tịch Phí trong tiếng “binh binh bốp bốp” khí thế ngất trời của thợ sửa chữa, đang tự do phô bày sự phong lưu phóng khoáng hắn tu luyện nhiều năm với cô gái xinh đẹp.
Lạc Văn Chu người nồng nặc mùi cà ri, còn đang ở trên cầu thang bộ, cách rất xa đã bị giai cấp tư sản vạn ác này làm hại mắt, rất ngứa mắt với cái bộ dạng đó của Phí Độ, bụng nghĩ tên này từ sáng đến tối không lo làm việc đàng hoàng, không phải tán phét thì là khiêu khích, may là nhà có ít tiền, không thì đi ăn mày cũng chẳng tìm được tổ chức.
Lạc Văn Chu bực tức đi tới, một câu châm chọc “Đôi chân đó mọc làm cảnh hả, đi cầu thang bộ có thể mệt chết à” vừa ra tới môi, thì bỗng nhiên nghe thấy Đào Nhiên phía sau hít sâu một hơi, suýt nữa nghỉ nghiêm ngay tại chỗ, hơi run run nói: “Thường… Khụ, Thường Ninh?”
Đại mỹ nhân lập tức quay đầu lại, thoạt tiên sửng sốt, sau đó nhoẻn miệng cười: “A, Đào Nhiên, sao bạn cũng ở đây?”
Phí Độ và Lạc Văn Chu không hẹn mà cùng dừng lại tại chỗ, ánh mắt đều nhịp qua lại giữa hai người, ngửi thấy một chút mùi không bình thường từ cách xưng hô của họ.
Đào Nhiên thoáng cái đỏ bừng tai, tích tắc quên trời quên đất quên luôn huynh đệ thủ túc.
Tay chân anh cứng đờ thành một bộ bài cùng chất phối hợp không nhịp nhàng, y hệt bán thân bất toại nhích đến trước mặt cô gái, lắp bắp mở miệng: “Tôi, tôi về sau ở đây, mới, mới dọn đến. Bạn… bạn làm sao…”
“Thật vậy ư? Mình cũng ở đây!” Thường Ninh cười lộ lúm đồng tiền be bé, “Hai ta có duyên quá! Bạn xem, mình không lừa bạn chứ, tiểu khu bọn mình ở xuống tàu điện ngầm là đến, rất tiện.”
Đào Nhiên thoạt đầu bị hai chữ “có duyên” đánh cho ngũ mê tam đạo, sau đó bị ép nhớ lại buổi xem mắt thất bại lần ấy, lập tức xấu hổ muốn độn thổ, lưỡi xoắn lại: “Đúng vậy… a, không đúng, khụ, thật sự xin lỗi, lần trước không đưa bạn về nhà…”
Đội trưởng Lạc và chủ tịch Phí bị bỏ quên nghe đến đó đã biết thân phận cô gái này.
Biết là một chuyện, tận mắt gặp lại là chuyện khác, hai người vô thức liếc nhìn nhau, tư tưởng tình cảm đều hơi phức tạp.
Đối tượng anh tranh tôi đoạt, bực bội lẫn nhau bao nhiêu lâu, thẳng như Định Hải Thần Châm vậy.
Mà cây “gậy Kim Cô” này đang mắc “bệnh ngốc của trai thẳng” khi đối mặt với người tình trong mộng. (Gậy Kim Cô là gậy Như Ý Kim Cô của Tôn Ngộ Không, Định Hải Thần Châm cũng là nó)
Hai tình địch lâu năm cùng im lặng đứng ngoài sóng vai nhìn, chính giữa cách một món đồ điện gia dụng có cân nặng gây xúc động.
Bên ngoài cây xanh rợp bóng, thời tiết nóng bức, ve kêu ra rả-
Tình cảnh này có thể nói là “hai kẻ tình địch nhìn liễu thắm, một cây chày gỗ bay lên trời”. (Lưỡng cá tình địch vọng thúy liễu, nhất căn bổng chùy thượng thanh thiên, nhại thơ Đỗ Phủ, câu gốc là Lưỡng cá hoàng ly minh thúy liễu, nhất hàng bạch lộ thượng thanh thiên, hai con hoàng oanh hót trong liễu biếc, một hàng cò trắng bay lên trời xanh)
Chỉ có bé gái ngồi trên thùng giấy không bị ảnh hưởng, “rột rột” nhai hết vỏ bánh bên ngoài cây kem, rồi giơ bàn tay nhỏ xíu ra hỏi Phí Độ: “Anh ơi, anh có khăn giấy không?”
Ba phút sau, Đào Nhiên rốt cuộc thành công mời người tình trong mộng đến nhà mình làm khách, Thường Ninh hơi do dự, cuối cùng vẫn gật đầu. Thế là đội phó Đào như Phạm Tiến trúng cử, vui đến quên cả đường về, quên luôn hai vị kia, ân cần dẫn Thường Ninh và bé gái lên lầu.
Còn lại hai gã đàn ông bị sự thật lạnh như băng giễu cợt trợn mắt nhìn nhau.
Lạc Văn Chu: “Tâm trạng tôi hiện giờ có chút phức tạp.”
Phí Độ thu tầm nhìn về, cực kỳ ra vẻ tổng giám đốc hất cằm chỉ cái thùng bên cạnh mình, ra hiệu cho “đàn em” tới muộn ôm lên, bản thân đút hai tay vào túi, khoan thai cất bước đi.
Lạc Văn Chu: “…”
Chẳng biết có phải là ảo giác không, anh cứ cảm thấy Phí Độ ngày càng không khách sáo với mình.
Lạc Văn Chu cuối cùng vẫn nhịn nhục vác máy pha cà phê lên, song mặc dù thân thể rất thành thật, miệng vẫn nói “không được”, nhìn bóng lưng Phí Độ mà cười khẩy một tiếng: “Có chút xíu đồ cũng không vác lên được, có phải thận hư không hả anh bạn trẻ?”
Phí Độ nghe thế, đứng trên mấy bậc thang quay người lại nhìn xuống: “Sao, anh muốn thử à?”
Lạc Văn Chu: “…”
Không biết là bị màn vừa rồi kích thích đến mức cần đổi gấp một mục tiêu hay là thế nào, Phí Độ đột nhiên thấy biểu cảm không thể đối đáp của Lạc Văn Chu rất thú vị. Hắn nhìn Lạc Văn Chu ôm vật nặng, trong lòng nổi lên chút bỡn cợt, nhìn thẳng vào mắt anh, đồng tử hơi nhạt màu chứa hình ảnh Lạc Văn Chu thu nhỏ lại, chợt tới gần.
Lạc Văn Chu thích “nam” là trời sinh, theo bản năng lui lại một bước, đạp lên bậc thang phía dưới.
Phí Độ cười khẽ, không nói gì, chỉ giơ một ngón tay gõ nhẹ trên thùng giấy đựng máy pha cà phê, “cộp cộp” hai phát, như gõ vào tim người, vô cùng mập mờ, mờ ám khó tả, một luồng điện nhỏ lủi lên cột sống Lạc Văn Chu theo tính sinh lý, mồ hôi rịn ra.
Thế mà kẻ đầu sỏ gây tội ghẹo xong liền chắp tay sau lưng ngông nghênh đi luôn lên lầu.
Lạc Văn Chu: “…”
Tên khốn!
Đào Nhiên và Lạc Văn Chu xuống lầu một chuyến, nhặt về một nữ thần và một tổng giám đốc bá đạo “thận hư”.
Rốt cuộc quên mua đường phèn, món giò đường phèn chỉ có thể thay bằng đường trắng.
“Nữ thần” Thường Ninh là một trí thức thành phố, mới được công ty điều đến chi nhánh Yến Thành không lâu, độc thân, tạm thời ở nhờ nhà cô, bé gái dẫn theo là em họ con cô, tên “Thần Thần”, cha mẹ Thần Thần vắng nhà, đành phải gửi con nhờ Thường Ninh trông hộ.
Khách vừa đến, đám thanh niên độc thân rỗi việc trong phòng khách lập tức sôi sùng sục, có người trêu bé gái, có người ghẹo Đào Nhiên, khiến Đào Nhiên đỏ mặt tới mang tai, đột nhiên nghĩ ra chiêu dẫn họa thủy về đông, chỉ Phí Độ mà nói với Lang Kiều: “Đúng rồi, không phải em mang cờ thưởng đến rồi à, người đang ở đây, mau tặng đi.”
Lang Kiều được nhắc nhở, lập tức chạy như bay ra cửa, lấy một cuộn cờ thưởng đỏ rực, giũ ra “Soạt” một tiếng, cả phòng khách lập tức đổi phong cách, bị ánh hào quang của cờ thưởng mới vào bao phủ sáng rực.
Phí Độ: “…”
Thế còn chưa hết, Lang Kiều trịnh trọng nhét lá cờ vào tay hắn, lại lấy ra một tờ giấy khen hai màu vàng đỏ: “Đồng chí Phí Độ, cục trưởng Lục của chúng tôi bảo, trước hết tặng cái này cho đồng chí, để đội trưởng Lạc thay mặt nói vài câu, chờ xong vụ án Vương Hồng Lượng, sếp nhất định sẽ đích thân tổ chức cho đồng chí một đại hội biểu dương nữa – Đội trưởng Lạc, anh nói hay em nói thay?”
Lạc Văn Chu đang đấu với dầu muối tương giấm, không rảnh phân tâm, ở trong nhà bếp “xèo xèo” la lên một câu: “Em nói gì – Đào Nhiên, máy hút khói dầu sao đột nhiên tắt rồi, có phải cúp điện không?”
Phí Độ chỉ sợ cô cảnh sát xinh đẹp này tuôn một tràng “giá trị quan trung tâm” thao thao bất tuyệt, vội vàng lấy cớ kiểm tra công tắc nguồn điện mà bỏ trốn mất dạng: “Để tôi đi xem.”
Lang Kiều chưa thỏa mãn chớp chớp mắt: “Tổng giám đốc bá đạo còn biết làm chuyện thế này cơ à?”
Phí Độ thời thiếu niên thường ru rú trong nhà trọ của Đào Nhiên, làm bạn với đống đồ gia dụng second hand, Đào Nhiên sống tuềnh toàng và tiết kiệm, thứ có thể sửa tuyệt đối không thay, cũng không cho phép Phí Độ bỏ tiền mua, dần dà Phí Độ vì anh mà có được kỹ năng của thợ sửa chữa.
Hệ thống mạch điện trong chung cư cũ chưa từng sửa, bên trong còn đeo cầu chì cũ rích, vừa mở nắp đồng hồ, mùi khét liền thoang thoảng bay ra – cầu chì cháy đứt rồi.
Đào Nhiên vừa chuyển nhà chắc chắn chưa chuẩn bị, Phí Độ đành phải xuống lầu tìm cửa hiệu bán đồ điện.
Trước khi đi, hắn bị Thần Thần em Thường Ninh gọi lại: “Anh ơi, hồi nãy em quên mua sách bài tập rồi, em có thể đi cùng anh không?”
Phí Độ dẫn cô bé trốn khỏi một phòng thanh niên ầm ầm, đi một vòng dưới lầu, mau chóng mua xong các thứ cần thiết. Sau đó hắn mua hai cái bánh su kem trong quán nhỏ sát đường, ngồi trên ghế đá của tiểu khu, chia nhau với Thần Thần.
“Người lớn thật là quá ồn ào.” Thần Thần bình luận như bà cụ non, “Anh em mình đợi lát nữa hãy lên.”
Phí Độ vừa định thuận miệng trêu cô bé một câu, đột nhiên cảm thấy hơi khác thường, vô cớ có cảm giác bị nhìn trộm.
|
Quyển 2 - Chương 3: Humbert Humbert
“Tôi yêu em, tôi là một con quái vật, nhưng tôi yêu em.” (Lolita)
Ghế đá kê quanh một hồ sen đã cạn khô từ lâu, một tượng đồng dựng thẳng giữa bùn lầy và cành khô lá úa, tượng đồng tạo hình trừu tượng, điêu khắc cái gì thì mắt thường cơ bản chẳng nhận ra, song có một mặt mài sáng bóng, có thể nhìn thấy bóng người bóp méo trên đó.
Mới vừa rồi, Phí Độ vô tình ngước lên, đúng lúc bắt gặp đôi mắt phản chiếu trên tượng đồng.
Tượng đồng dù gì cũng không phải là gương, bóng rất mờ, ngay cả đối phương là nam hay nữ là già hay trẻ cũng không thấy rõ lắm. Nhưng chẳng biết là vì sao, vừa gặp đôi mắt ấy, trong lòng Phí Độ tự dưng căng thẳng, miếng bánh su kem hương thảo mới nuốt xuống nghẹn ngay ngực, hắn theo bản năng ngẩng đầu lên, tìm kiếm khắp nơi cái bóng trên tượng đồng-
Tiểu khu cũ kỹ này bốn phía không có tường vây, mấy tòa nhà nằm cạnh nhau tự thành một nhóm, biên giới nhập nhằng với đường cái xe cộ tấp nập, gần đó có một trạm xe buýt, do trước đây quy hoạch không thích hợp nên đã lấn vào tiểu khu, không ít người xếp hàng ngoài lùm cây, từng tốp đến rồi đi, mấy quán nhỏ ven đường khá đắt hàng, lúc này vừa vặn là gần trưa, trước mấy quán ăn vặt đã có người đứng xếp hàng.
Đám đông hối hả, có dân của tiểu khu mặc áo ngủ ra đây, có người qua đường hoạt động ở khu vực bên ngoài, có chủ xe hơi coi đường trong tiểu khu thành đường tắt, có kẻ ăn cơm, xếp hàng, còn có chuyển phát và giao cơm qua lại…
Chủ nhân đôi mắt ấy cực kỳ cảnh giác, đã yên ắng ẩn vào biển người, Phí Độ không tìm được một chút dấu hiệu khả nghi nào.
Hắn lập tức đứng dậy, bảo Thần Thần: “Đi, anh em mình về nhà thôi.”
Thần Thần không hề có ý thức nguy cơ, thất vọng “A” một tiếng dài, tiếc nuối nhìn các quán ăn vặt dọc đường. Sau đó cô bé liếm bơ sữa dính trên ngón tay, đảo mắt, đưa ra yêu cầu đầy chính đáng: “Em còn tiền tiêu vặt, vừa rồi anh mời em ăn su kem, hay bây giờ đến em mời lại đi? Em còn muốn ăn vị matcha.”
“Hôm khác đi,” Phí Độ ôn hòa mà không giải thích gì đẩy đầu cô bé, “Sắp ăn cơm trưa rồi.”
Thần Thần bị ép đứng dậy theo hắn: “Nhưng em không thích ăn cơm, em còn có rất nhiều món không thích ăn.”
“À, thực ra anh cũng vậy,” Phí Độ hết sức thẳng thắn thừa nhận bệnh vương tử của mình, sau đó lại nói, “Nhưng chờ em lớn lên là được, lớn lên thích ăn cái gì mua cái đó, không còn ai phát hiện em kén ăn nữa.”
Thần Thần ngẩng đầu trợn mắt nhìn hắn không biết phải nói gì, cảm thấy những người lớn này đều không biết xấu hổ, lúc này em bỗng nhiên thấy rõ vẻ mặt Phí Độ, lập tức sửng sốt.
Trẻ giai đoạn trước thanh xuân chưa lớn hẳn cũng không còn nhỏ, đã có một chút suy nghĩ của riêng mình, cơ bản có thể hiểu sắc mặt người lớn. Thần Thần vốn cho rằng câu vừa rồi của Phí Độ là nói đùa, ngẩng đầu lên mới phát hiện hắn đang hơi cau mày, sắc mặt có phần nghiêm túc quá.
Cô bé không khỏi căng thẳng theo, nắm áo Phí Độ: “Anh ơi, sao vậy?”
Trong lúc nói chuyện, hai người đi qua một chung cư, cửa sổ hành lang tầng một vừa vặn mở ra ngoài, bày ra một đường cong, Phí Độ thản nhiên để cô bé đi đằng trước mình, liên tục cúi đầu trò chuyện, đi đến đây thì hắn bất thình lình ngước nhìn lên.
Bắt được một đôi mắt như bóng với hình trên cửa sổ trong suốt!
Người đó đeo kính râm và khẩu trang, bịt kín hết mặt. Phí Độ đè vai Thần Thần, nhanh chóng quay đầu lại, cùng lúc đó, ở phía sau họ tầm hai trăm mét, một người chui tọt vào lùm cây kế bên, chớp mắt đã chẳng thấy tăm hơi đâu nữa, Phí Độ chỉ thấy một cái bóng còng lưng và mái tóc hoa râm.
Một người già?
Thần Thần không biết đã xảy ra chuyện gì, sợ hãi nhìn hắn.
Đôi mắt lạnh lẽo của Phí Độ xuyên qua cặp kính trên mũi, quét qua đám đông không xa, hắn mở miệng hỏi: “Em bình thường đi học có ai đưa đón không?”
“Có… có ạ,” Thần Thần nói nhỏ, “Ba mẹ ở nhà thì ba mẹ sẽ đón em, nếu ba mẹ đi vắng thì chị sẽ dẫn em đi tàu điện ngầm, nếu chị cũng tăng ca thì em ở lại trường một lúc, ở trường có giáo viên chuyên phụ trách.”
Phí Độ hơi suy tư gật đầu, lại hỏi: “Ở xung quanh có bao giờ gặp ông lão nào kỳ lạ không?”
Thần Thần nhớ lại chốc lát, lo ngại lắc đầu.
Hai anh em mau chóng đi vào chung cư, kiến trúc cũ màu xám nhạt chặn ánh nhìn đến từ trong tối, không biết bao lâu sau, một ông lão lưng còng từ sau tấm bảng trạm xe buýt chầm chậm đi ra.
Ông lão bịt mặt, đeo một cặp kính râm to, tay còn cầm một cây gậy, giống như một người thị lực kém, dùng gậy dò dẫm trên mặt đất.
Mọi người xung quanh đều đeo tai nghe, phần lớn hờ hững bấm di động, không lưu ý tới bước chân loạng choạng của ông lão.
Cặp kính tối màu là yểm hộ tuyệt vời, mặt trời không thể xuyên qua, đôi mắt tham lam lại có thể.
Đôi mắt ấy đi qua đường sá xa xôi, xuyên thời gian và không gian, chăm chú nhìn không rời mắt khỏi chỗ khi nãy bé gái kia đứng.
Chiếc váy hoa nhí của cô bé như tỏa ánh sáng, kẹp tóc thạch anh làm nổi bật khuôn mặt nhỏ nhắn trong veo, là sắc sáng duy nhất của cả thế giới trong phạm vi tầm nhìn, tích tắc ánh vào đáy mắt hình ảnh non nớt ấy liền bốc cháy hừng hực, để lại hình dáng tầng cấp rõ ràng trên võng mạc.
Nhưng trái cấm có quái xà đáng sợ canh chừng, lão nhớ tới ánh mắt gã đàn ông bên cạnh cô bé, lại sợ sệt trốn vào bóng tối, sợ hãi và khát khao hội tụ thành sự hãi hùng đặc biệt, lão khát khô mím môi, dựa mạnh lên một thân cây phía sau, ngực phập phồng dữ dội, thần hồn điên đảo giữa sự hãi hùng.
Như một người chết đuối hoặc uống thuốc độc vậy.
Chỉ sau một bữa su kem, thang máy đã sửa xong, Phí Độ bấm tầng mười hai, cùng Thần Thần bước vào thang máy.
Thần Thần dè dặt hỏi: “Anh à, ban nãy làm sao vậy?”
Phí Độ khựng lại, song không dỗ dành em: “Nhìn thấy một người rất khả nghi – sau này hãy nhớ, lúc ở một mình với người lớn, em phải tự mình chú ý nhiều hơn.”
“Em biết ạ, khai giảng là em lên lớp 6 rồi, có phải con nít lớp 1 đâu,” Thần Thần bắt chước giọng điệu của người lớn, bẻ ngón tay liệt ra, “Phải giữ khoảng cách với người lạ, không ăn đồ người lạ cho, người lạ nhờ giúp đỡ, thì lễ phép bảo họ tìm cảnh sát…”
“Người không lạ càng phải cẩn thận,” Phí Độ cốc đầu em, “Không được lên xe người lớn một mình, cũng không được ở một mình với người lớn nào đó ở nơi không có ai khác – ví dụ như bây giờ, em đi cùng anh cũng rất không an toàn, nếu anh là người xấu thì sao?”
Thần Thần ôm đầu, trợn mắt nhìn ông anh tự xưng là người xấu: “Hả?”
“Bao gồm giáo viên trường em, lẫn các ông lão và bà lão thoạt nhìn hành động không tiện lắm, nhớ chưa?”
Thần Thần không khỏi rùng mình, lúc này, thang máy đến tầng mười hai, cửa sắt theo tiếng mở ra, cô bé nhỏ giọng hỏi: “Tại sao ạ? Anh ơi, em hơi sợ.”
“Biết sợ là chuyện tốt, bởi vì thứ tốt đẹp giống như đồ sứ vậy,” Phí Độ giơ tay chặn cửa thang máy, ra hiệu cho cô bé ra ngoài trước, “Đối với chúng mà nói, nguy hiểm nhất thường không phải lũ mèo chạy lung tung trong nhà.”
“Thế thì là cái gì ạ?”
Phí Độ chăm chú nhìn vào mắt em, nhẹ nhàng nói: “Là bản thân đồ sứ không ý thức được mình dễ vỡ.”
Lạc Văn Chu đang ở trước đồng hồ điện, ngậm điếu thuốc dựa tường chờ đợi.
“Hai anh em mua cái cầu chì mất nửa năm cơ à?” Lạc Văn Chu lấy đèn pin và tua-vít hai cạnh ra bỏ xuống một bên, “Còn chưa chịu về thì cá trong ngăn đá cũng sẽ vượt ngục bỏ trốn thôi.”
Thần Thần như tìm kiếm cảm giác an toàn, cất bước chân nhỏ xíu chạy vào nhà.
Phí Độ nhận tua-vít từ tay Lạc Văn Chu, hết sức thành thạo mở nắp đồng hồ điện, lấy cầu chì đứt ra, sau đó dùng cầu chì kiểu cũ quấn vài vòng hai đầu dây, vặn nhẹ, cũng không cần kìm, trực tiếp dùng đầu tua-vít cứa đứt một đoạn ngắn dây cầu chì, hắn kéo thử, bảo đảm gắn chắc rồi mới bật cầu dao điện.
Trong ngôi nhà phía sau truyền đến một tiếng “Tít”, tủ lạnh và điều hòa đồng thời đầy máu sống lại, cả quá trình không hơn một phút, điếu thuốc Lạc Văn Chu ngậm còn chưa kịp đốt.
Lạc Văn Chu nhìn hắn, đột nhiên giật mình phát hiện, Phí Độ đã hoàn toàn thoát khỏi phạm vi thiếu niên, thành một người đàn ông rồi.
Ánh mắt anh nhìn Phí Độ thường xuyên phân liệt – khi đối đầu gay gắt, Lạc Văn Chu cảm thấy Phí Độ là tai họa nguy hiểm, tính tình khốn nạn, không coi pháp luật ra gì, có thể nổ bất cứ lúc nào, thêm cái miệng gợi đòn, đặc biệt không biết nói tiếng người.
Mà khi khó được tâm trạng tốt, anh lại luôn nhớ tới cậu thiếu niên yếu ớt co mình trước cửa biệt thự năm ấy, đôi khi sẽ lo lắng cho hắn, đôi khi cũng sẽ không tự chủ được quan tâm quá mức – là sự quan tâm không hề có tạp niệm theo kiểu anh trai vậy.
Nhưng không biết có phải do khiêu khích quá trớn của Phí Độ ở cầu thang bộ khi nãy hay không, bỗng nhiên, thị giác chia đôi của Lạc Văn Chu lại hơi muốn hợp làm một, chênh lệch và sai lầm sửa lẫn nhau, cuối cùng ra một chút tỉnh táo khách quan – Phí Độ không phải kẻ phản xã hội nguy hiểm, cũng không phải cậu bé đáng thương. Hắn đầu tiên là một người đàn ông, thứ đến là một anh chàng trẻ tuổi cực kỳ ưa nhìn, biết lý biết lẽ, còn vờ đứng đắn một cách lộ liễu, ôm tỳ bà che nửa mặt viết “hoan nghênh đến ngủ bất cứ lúc nào” khắp toàn thân.
Lạc Văn Chu nghĩ, nếu hắn không phải Phí Độ, mà chỉ là một người xa lạ thoáng gặp trên đường hoặc quán bar, chắc sẽ là loại khiến người ta phải nghĩ ngợi vẩn vơ rất lâu.
Nhưng mà… Tại sao phải có tiền đề “nếu hắn không phải Phí Độ” này?
Lạc Văn Chu băn khoăn suy nghĩ sự đời, thậm chí lúc ăn cơm cũng hơi lơ đãng. Bàn ăn nhà Đào Nhiên không đủ chỗ, rất nhiều món không bày được, đành phải bưng thẳng lên chia, Lạc Văn Chu không để ý, múc một miếng “chân giò đường trắng” to vào cái đĩa trên tay Phí Độ, bỏ vào rồi mới nhớ, đoạn này thuộc về “đầu gối trở xuống”, cậu ấm đó không ăn.
Động tác của Lạc Văn Chu khựng lại, không đợi anh nói gì, đã thấy Phí Độ dùng đầu đũa chọc nhẹ một cái, cau mày trợn mắt nhìn khoanh giò kia một lát, sau đó vẻ mặt ghét bỏ gắp vào bát mình, biểu cảm y hệt con Lạc Một Nồi yêu nước ngửi thấy mùi thức ăn nhập khẩu vậy.
Lạc Văn Chu: “…”
Quả nhiên, “đầu gối trở xuống” với “viêm họng” gì đó, đều là tên khốn này làm trò mèo thôi.
Trừ nhóm người của Cục công an, Phí Độ và Thường Ninh đều thuộc kiểu người hướng ngoại giỏi ăn nói, họ mau chóng hòa vào bầu không khí, nhìn không giống người ngoài chút nào. Lang Kiều còn chó mọc sừng giả làm dê, xách hai chai rượu vang tới, trừ vị thành niên ra, mỗi người rót một ly, nhiệt liệt chúc mừng đội phó Đào gia nhập đại quân chó nô lệ nhà cửa.
Lang Kiều nhạy bén nhìn thấy mũi tên một chiều to đùng giữa Đào Nhiên với Thường Ninh, trước mặt Thường Ninh, cô ngẫu hứng tổ chức miệng một buổi “tán dương đội phó Đào”, nói từ Đào Nhiên yêu nghề kính nghiệp thế nào đến anh yêu cuộc sống yêu động vật nhỏ ra sao, lại phân loại mà liệt kê đội phó Đào nhiều năm qua vì bảo vệ đám “chạy vặt” đông đảo, đã làm đủ loại đấu tranh vượt mọi gian khổ với đội trưởng Lạc quỷ kiến sầu, cuối cùng trước ánh nhìn lom lom của Lạc Văn Chu ngoài cười mà trong không cười, cô lại đổi sang chuyện khác, tâng bốc Đào Nhiên thành người được bao nhiêu mỹ nữ theo đuổi, khiến Đào Nhiên sợ quá vội vã chắp tay khẩn cầu vị nữ thí chủ này đừng vô cớ hủy hoại sự trong sạch của người ta.
“Anh Đào thật sự rất kiên nhẫn,” Phí Độ đúng lúc xen vào giảm bớt bầu không khí xấu hổ, “Mai kia có con nhất định cũng là người cha mẫu mực, hồi nhỏ em đã gây ra không ít phiền toái cho anh ấy.”
Đào Nhiên đỏ mặt tới mang tai xua tay liên tục.
Thường Ninh tò mò nhìn hắn.
Phí Độ nhấp một ngụm rượu vang: “Mẹ em mất sớm, lúc ấy anh Đào vừa vặn là cảnh sát xử lý vụ án mẹ em. Khi đó cha em chẳng quan tâm em, anh theo nghĩa vụ trông nom em một thời gian – kỳ thực em lúc đó cũng mười mấy tuổi rồi, dù không ai lo cũng chẳng chết đói nổi, nhưng ở chỗ anh ấy em mới biết thế nào là ‘sống ra sống’. Chị à, chị đừng thấy anh ấy luôn đối phó lung tung mà lầm, thực ra khi chăm sóc người ta, cái gì anh ấy cũng có thể nghĩ thay người khác.”
Thường Ninh nghe xong đám người này đua nhau chào hàng Đào Nhiên, những điểm khác chưa có cảm giác, trước tiên cảm thấy đội phó Đào rất được quý mến, không nhịn được nghiêng đầu cười với Đào Nhiên.
Tửu lượng Đào Nhiên vốn chỉ hơn “một ly là gục” chút xíu, bị chuốc hơn nửa ly rượu vang, đầu đã lâng lâng, lại bị tình nhân trong mộng như cười như không liếc một cái, hoàn toàn đánh mất khả năng suy nghĩ, ngượng ngùng đến mức nói năng lung tung: “Không có không có, thực… thực sự không có mà, Tiểu Phí Độ khi đó cũng không phải chỉ một mình anh trông nom, mọi người đều quan tâm em, ngay cả sư phụ anh sau khi nghe chuyện cũng thường xuyên hỏi mấy câu… Còn có ai đó – Văn Chu, em đừng thấy anh ta bình thường không nói mà lầm, thật ra anh ta đã lén đi thăm em mấy lần, máy chơi game của em còn là anh ta nhờ anh…”
Lạc Văn Chu nghe thấy không ổn, vội vàng ở dưới bàn đá anh ta một phát, song đã không kịp.
Sự thăng bằng chẳng còn lại mấy của Đào Nhiên tan thành tro bụi dưới cú đá này, cả người nghiêng đi, xô đổ thùng giấy đựng mấy thứ đồ lung tung còn chưa kịp sắp xếp ở kế bên.
Các loại sách chuyên ngành, sách giải trí, bìa đựng hồ sơ, sổ ghi chép rơi tung tóe dưới đất.
Phí Độ và Lạc Văn Chu mỗi người giữ một góc bàn, đều cứng đờ người.
Lang Kiều vô tâm vô tư dùng khuỷu tay huých Lạc Văn Chu: “Thật hay giả vậy, sếp, anh từng làm việc này à, xấu hổ quá đi.”
Lạc Văn Chu: “…”
Biết xấu hổ cô còn làm um lên!
Anh cố chịu ánh nhìn nặng trịch của Phí Độ, ho một tiếng, giấu đầu hở đuôi đứng dậy đi dọn cái thùng giấy Đào Nhiên xô đổ.
“Thật kém quá, rượu vào là nói bừa.” Lạc Văn Chu gượng gạo lảng sang chuyện khác, nhặt một quyển sổ ố vàng lên giũ bụi, “Ơ, sao quyển sổ cũ của sư phụ lại ở chỗ ông vậy?”
Anh chưa dứt lời, một bức tranh chân dung bằng bút chì liền rơi ra, trên đó vẽ một người đàn ông, ngũ quan cân đối, nho nhã lịch sự, trong đôi mắt nhìn thẳng ngoài giấy lại mơ hồ đè nén thứ đen kịt nào đó.
Trên bức tranh có ghi ngày tháng, là hơn hai mươi năm trước, còn viết chú giải ở một góc.
“Ngô Quảng Xuyên – vẫn chưa tìm được thi thể sáu bé gái.”
|
Quyển 2 - Chương 4: Humbert Humbert 4
Lang Kiều còn chưa om sòm xong, đang định thừa thắng xông lên, cùng một nhóm đồng nghiệp tiếp tục bao vây tiêu diệt Lạc Văn Chu, nào ngờ mới thò đầu ra, liền vừa vặn gặp ánh mắt trong bức tranh rơi dưới đất, bị dọa men say cũng bay hết ra theo lỗ chân lông.
Trong hệ thống công an có nhân viên kỹ thuật chuyên vẽ tranh mô phỏng, trong đó không thiếu cao thủ, đem so sánh thì kỹ thuật vẽ của bức chân dung này thuộc về trình độ của người mới học. Nhưng rất kỳ lạ, thần vận người trong tranh sống động bất ngờ, khuôn mặt như từng được phác họa vô số lần trong lòng người vẽ, không nhịn nổi nữa mới mượn ngòi bút kém cỏi để vẽ ra giấy.
Lang Kiều: “Đây là cái gì?”
Đào Nhiên bị Lạc Văn Chu đá ngã đã hơi tỉnh táo lại, ý thức được mình đã lỡ lời, anh vịn sofa đứng dậy ra ngoài rửa mặt, sau đó quay về dọn dẹp đống đồ dưới đất với Lạc Văn Chu: “Là chuyện ở Liên Hoa Sơn nhỉ? Ông già nhắc cả đời.”
“Liên Hoa Sơn” không phải một ngọn núi, mà là địa danh ở ngoại ô phía bắc Yến Thành, ngày xưa thuộc về thị trấn bên dưới Yến Thành, mười mấy năm trước đã bị nhập vào Yến Thành, trở thành một khu khai phá.
Trong trang kia của quyển sổ, trừ bức tranh sống động ấy ra thì còn kẹp vài tấm ảnh cũ ố vàng, dùng băng keo trong dán lên giấy, thời gian quá lâu rồi nên vừa đụng vào đã rơi.
Chúng có một số là ảnh sinh hoạt rất mờ, còn có tác phẩm của tiệm chụp ảnh đặc sắc thời bấy giờ – đều là phông nền cối xay gió Hà Lan, chiếu sáng khoa trương, nụ cười của thiếu nữ trên ảnh hơi gượng, giống như tạo dáng phơi nắng thời gian quá dài.
Tổng cộng sáu tấm ảnh.
Mấy thứ như là ảnh cũ, nói đến rất kỳ lạ. Tất cả ảnh để vài chục năm đều bạc màu, ố vàng như nhau, nếu người trên ảnh hạnh phúc mỹ mãn, thì dấu tích cũ ố vàng sẽ có vẻ dư vị dài lâu, năm tháng bình an, nhưng nếu người trên ảnh về sau gặp bất trắc, người ta nhớ lại giọng nói dáng hình người này lúc ấy, luôn có thể nhìn thấy một chút âm u quỷ dị, giống như những oán phẫn và không cam của chủ nhân đều bám trên hình ảnh trạng thái tĩnh, số mệnh đang tỏ rõ điều gì.
“Là Dương lão à?” Lang Kiều hỏi, “Sao ông ấy lại quản việc của khu khai phá?”
“Thời bấy giờ Cục công an có một chính sách, ai chưa đầy ba mươi lăm tuổi đều phải xuống cơ sở rèn luyện – đến đồn công an hoặc đến mấy huyện lúc ấy, nhóm sư phụ anh đến Liên Hoa Sơn hơn nửa năm.” Lạc Văn Chu cẩn thận nhón rìa tấm ảnh kẹp lại vào sổ, “Mới đi chưa bao lâu, thì gặp vụ án đó – có thể em cũng chưa nghe nói đâu, lúc đó cả anh còn chưa đến tuổi đi học mà.”
“Ban đầu có một người đàn ông đến báo án, nói con mình mất tích.” Đào Nhiên giở quyển sổ, ngoại trừ ảnh và tranh, hầu hết nội dung trên sổ đều là viết tay, nét chữ của ông cảnh sát già tương đối đẹp, thanh tú lại mạnh mẽ, có hình có thể, trên tờ trước tấm ảnh viết hai chữ “Quách Hằng”, dưới cái tên gạch đậm ba đường, “Đúng, người báo án chính là Quách Hằng này, mất đứa con gái mười một tuổi, nhũ danh là ‘Phỉ Phỉ’.”
Lạc Văn Chu nghe đến đó, bàn tay đặt trên một quyển tài liệu giảng dạy dày cộp khựng lại, bực bội ngẩng đầu nhìn Đào Nhiên: “Ông uống say khướt như thế mà còn nhớ cô bé đó tên gì?”
Đào Nhiên cúi đầu tránh ánh mắt anh ta: “Nghe ông già nhắc suốt bao nhiêu năm, đầu đuôi ngọn ngành tôi có thể đọc thuộc lòng.”
Thường Ninh bình thường công việc bận rộn, thời gian xem ti vi cũng ít, khó được nghe người của đội hình sự kể chuyện từ khoảng cách gần, không khỏi tò mò gặng hỏi: “Sau đó thì sao?”
“Khi đó cha mẹ nuôi con hầu hết không chú ý như bây giờ, mười một mười hai tuổi đã là choai choai rồi, bình thường đến trường hoặc sang nhà bạn chơi, đều chỉ nói một tiếng với phụ huynh rồi đi, người lớn cũng không đi quanh chúng từ sáng đến tối.”
“Nhưng mà cô bé Quách Phỉ này thuộc về loại cực kỳ ngoan ngoãn nề nếp, đến trường về nhà đều có giờ cố định, về muộn năm phút cũng đưa ra được lý do chính đáng, học tập chưa bao giờ cần gia đình nhọc lòng, hôm mất tích cũng không có gì đặc biệt. Bạn học nói, ngày đó sau khi tan học Quách Phỉ về nhà đúng giờ chứ không nán lại trường, đường từ trường về nhà khoảng mười lăm phút, cô bé mất tích chính trong khoảng mười lăm phút này. Sư phụ tôi và mọi người đi tới đi lui mấy chục lần con đường thường ngày cô bé đi, hồi đó trên đường chưa có nhiều camera như bây giờ, nhưng đường cô bé về nhà không có chỗ nào đặc biệt ‘khuất’ cả, lúc ấy đang là mùa hè, chạng vạng cũng không tối lắm, rất nhiều người qua lại, theo lý thuyết, một cô bé lớn như thế bị người ta dẫn đi trên đường, cho dù hơi có một chút khác lạ, cũng không thể hoàn toàn không ai chú ý tới.”
“Thế nhưng, đi hỏi cả một vòng lớn, mà không thu hoạch được gì. Họ lục tung khu vực gần trường, mà cả một sợi tóc cũng chẳng tìm ra – không phải Sherlock Holmes có một câu nói nổi tiếng sao, ‘Loại trừ tất cả những điều không thể, điều còn lại dẫu khó tin hơn thì cũng là sự thật’, cho nên lúc ấy có người nói, hoặc là người quen gây án, hoặc là cô bé tự bỏ nhà đi.”
“Theo giả thuyết người quen gây án, cảnh sát điều tra hết lượt, giáo viên nhân viên của trường, bạn bè người thân nhà họ Quách, thậm chí cửa hàng văn phòng phẩm, siêu thị mini cô bé thường đi… Tổng cộng triệu đến hơn trăm người, nhưng đều chẳng có kết quả gì.”
Nói đến đây Đào Nhiên dừng một thoáng: “Đương khi cuộc điều tra rơi vào bế tắc, Quách Hằng cha cô bé đột nhiên nhận được một cuộc điện thoại, bắt máy không ai nói gì, chỉ nghe thấy có tiếng một bé gái kêu gào khàn cả giọng, mẹ cô bé vừa nghe liền ngất đi, cảnh sát lập tức dựa vào số điện thoại tìm được vị trí – là một buồng điện thoại rất hẻo lánh.”
Lang Kiều lấy làm lạ hỏi: “Không có camera ạ?”
“Không có, buồng điện thoại đó nằm cạnh bãi rác, nhìn giống như vứt đi, rất nhiều người đều không biết nó còn dùng được,” Lạc Văn Chu nói, “Bên cạnh buồng điện thoại tìm được một ít máu, trùng với nhóm máu của Quách Phỉ, nhưng lúc ấy không thể kiểm tra ADN, không cách nào xác nhận rốt cuộc có phải cô bé đó hay không, cũng không có dấu vân tay.”
Trong phòng khách nhà Đào Nhiên nhất thời không ai nói gì.
Một lúc lâu, Phí Độ vẫn không lên tiếng mới xen vào hỏi: “Không còn cú điện thoại nào khác? Không sách nhiễu, cũng không đòi tiền chuộc?”
“Không có,” Đào Nhiên nói, “Sau cú điện thoại đó, kẻ bắt cóc không còn liên lạc với gia đình cô bé. Không đòi tiền, cũng không hề đưa ra yêu cầu gì.”
Phí Độ bưng ly rượu lắc nhẹ, ngửi mùi rượu thoang thoảng như có như không, giống như đựng trong ly không phải rượu vang đỏ mua đại ở siêu thị, mà là Romanée Conti vậy.
“Thế thì lạ thật,” Hắn nói, “Nghe như kẻ bắt cóc không phải nhằm vào đứa trẻ, mà là để tra tấn người lớn trong nhà – cha mẹ nạn nhân làm nghề gì?”
“Bản thân Quách Hằng là một giáo viên trung học, mẹ thì là công chức, gia cảnh lúc ấy nhìn không tệ, nhưng cũng chỉ là tầm trung, họ đều là người bình thường mỗi tháng nhận lương cố định, nếu nói giàu có thì cũng không thể. Hai vợ chồng đều được học hành, là người có tri thức hiểu lễ nghĩa, trên công việc không có dã tâm lớn, quan hệ với đồng nghiệp cũng rất tốt, không tồn tại tranh chấp lợi ích, cũng loại trừ khả năng ngoại tình.”
Gia đình bình thường, cha mẹ bình thường, bé gái bình thường – thậm chí cũng không phải là một cô bé xinh xắn, sống theo nề nếp cũ. Như bất cứ một ai đi trên đường, chẳng có gì để khen chê, dù cảnh sát quật ba thước đất cũng chẳng quật ra câu chuyện gì đặc biệt.
Dân ngạn nói “ruồi nhặng không châm trứng lành”, nhưng cảnh sát đã nhiều lần điều tra hết những người có quan hệ với nhà họ Quách, thậm chí việc riêng tư cá nhân cũng cầm kính lúp mổ xẻ một lượt, phát hiện cô bé Quách Phỉ với gia đình chính là một quả “trứng lành”.
Thời gian đang trôi qua, kẻ bắt cóc im lặng cũng không lên tiếng nữa, bất luận là cảnh sát hay người nhà nạn nhân đều biết, cơ hội tìm lại cô bé là rất mong manh, kết cục tốt nhất là bị bán đến một nơi hoang vu hẻo lánh, nhưng khả năng lớn hơn là…
Tại sao kẻ bắt cóc lựa chọn cô bé này, cảnh sát hoàn toàn không có manh mối gì.
Giống như hắn tung xúc xắc ngẫu nhiên trên đường, trúng ai thì trúng vậy.
Vô duyên vô cớ.
Trên thế giới này không có ai là an toàn cả.
Lang Kiều hỏi: “Thế… còn năm đứa bé khác thì sao ạ?”
“Vụ án Quách Phỉ mất tích bị đứt tất cả manh mối, không có biện pháp gì, đành phải bỏ dở. Sau đó sư phụ được điều về thành phố – lúc ấy là ở đội trinh sát hình sự phân cục khu Tỉ Đài, trong khu vực lại xảy ra một vụ án trẻ em đi lạc, vẫn là bé gái, mười hai tuổi, cũng là trên đường tan học thần không biết quỷ không hay mất tích, kẻ bắt cóc vẫn không hé môi một tiếng, đáng sợ nhất là, hai ngày sau khi cô bé mất tích, gia đình cũng nhận được một cuộc điện thoại với tiếng một đứa trẻ gào khóc.”
“Sư phụ lập tức ý thức được bất thường, báo cáo tình hình lên cấp trên, người phụ trách khu Tỉ Đài lúc bấy giờ quyết định báo lên Cục công an thành phố, kết quả phát hiện cả Yến Thành, bao gồm các huyện khu xung quanh, đã xảy ra tới sáu vụ án trẻ em mất tích tương tự.”
“Bảy vụ,” Lạc Văn Chu bổ sung một câu, “Gia đình cô bé cuối cùng may mắn sống sót hoàn cảnh đặc biệt, không có cha, mẹ là bợm rượu, cả ngày chơi bời, con mất tích mấy ngày cũng không biết, căn bản không báo cảnh sát. Chuyện này do Cục công an dẫn đầu, điều động người từ các khu, thành lập tổ chuyên án, sau đó Lão Dương cũng nhờ cơ hội này mới được điều lên cục – nhưng không có tiến triển, giữa mấy bé gái mất tích không hề có điểm chung gì, ngoại trừ…”
Lạc Văn Chu nói đến đây, đột nhiên nhớ tới điều gì, ánh mắt dừng ở Thần Thần cắn ống hút nghe chăm chú không chớp mắt, ngừng lại một lúc, sau đó gượng gạo sửa lời: “Ngoại trừ cách gây án của kẻ bắt cóc đều không khác nhau lắm.”
“Sau khi nghe chuyện, cha Quách Phỉ đã xin nghỉ không lương dài hạn, chuyên môn chạy lên thành phố, muốn chờ một kết quả từ tổ chuyên án, tiếc rằng cuối cùng vẫn thất vọng.” Đào Nhiên hết sức trân trọng cất quyển sổ của ông cảnh sát già vào hộp giấy để lại ngay ngắn, “Sau đó tổ chuyên án cũng giải tán, chỉ còn gia đình nạn nhân và sư phụ người phụ trách ban đầu là vẫn nhớ về vụ án này. Hơn nửa năm sau, Quách Hằng đột nhiên tìm đến sư phụ, nói mình đã tra được người hiềm nghi, là một giáo viên tên Ngô Quảng Xuyên – chính là người trên tranh. Ngô Quảng Xuyên là giáo viên của ‘trung học Cẩm Tú’, Cẩm Tú là trường cấp hai tư thục sớm nhất lúc bấy giờ, học nội trú, chiêu sinh toàn thành phố, học phí cao, chất lượng dạy học cao, không ít phụ huynh huyện khu ngoại thành cảm thấy trung học địa phương tệ, đều đưa con đến Cẩm Tú, khi Quách Phỉ mất tích, Ngô Quảng Xuyên vừa vặn nằm trong đội chiêu sinh của trường đến khu Liên Hoa Sơn.”
Thường Ninh nín thở: “Là ông ta sao?”
“Ngô Quảng Xuyên năm ấy ba mươi sáu tuổi, ly hôn sống một mình, quả thật có điều kiện gây án, Lão Dương từng âm thầm theo dõi, còn dùng vài thủ đoạn phi pháp, nhưng đều chẳng tra được gì. Ngô Quảng Xuyên này tính tình ôn hòa, quan hệ xã hội không tệ, là một người tốt nổi tiếng xa gần, công việc thường xuyên tiếp xúc với trẻ nhỏ, cũng chưa từng làm chuyện gì quá giới hạn. Lão Dương theo dõi một thời gian, cảm thấy không phải người này, nhưng Quách Hằng như bị quỷ ám, khăng khăng khẳng định Ngô Quảng Xuyên chính là kẻ bắt cóc, sau đó Lão Dương rút đi, Quách Hằng tự mình cầm một con dao bổ dưa hấu tìm tới đâm Ngô Quảng Xuyên.”
Lang Kiều “A” một tiếng: “Chết rồi?”
“Ừ, đưa đến bệnh viện thì đã tắt thở, họ phát hiện bé gái mất tích thứ bảy dưới tầng hầm nhà Ngô Quảng Xuyên, cùng với quần áo của sáu cô bé trước – quần áo đều bị cắt thành từng sợi, trên có vết máu phù hợp với nhóm máu của các nạn nhân. Vụ án bắt cóc trẻ em liên hoàn năm ấy cứ thế được phá, nhưng quần áo thì ở đó, mà người không tìm được, sống không thấy người chết không thấy xác, kẻ hiềm nghi chết rồi chẳng còn ai để đối chứng.” Lạc Văn Chu đứng dậy vươn vai, “Quách Hằng cố ý giết người, cũng xử rồi. Lão Dương vẫn canh cánh trong lòng việc này, ông luôn cảm thấy là mình phán đoán sai lầm mới dẫn đến bi kịch về sau, thành thử nhắc suốt cả đời – không nói chuyện này nữa, xương cốt người hiềm nghi cũng lạnh rồi, ăn cơm thôi.”
Mọi người ở nhà Đào Nhiên quậy tung đến tận chiều, người đi taxi với tàu điện ngầm đều về hết, ai tự lái xe tới thì ở lại giúp Đào Nhiên dọn dẹp nhà mới, tiện thể tỉnh rượu, Thường Ninh và Thần Thần cũng về nhà rồi.
Đào Nhiên sau đó lại bị chuốc mấy ly, lúc rửa bát đứng không vững, “toái toái bình an” một cái, bị Lạc Văn Chu đuổi đi. (Chữ toái – vỡ với tuế – năm đồng âm, ngày Tết thường kiêng làm rơi vỡ bát chén vì như thế là xui xẻo, nên nếu lỡ tay làm vỡ bát người ta sẽ nói toái toái bình an – tuế tuế bình an, mong năm nào cũng được bình an)
Đội trưởng Lạc nhanh nhẹn rửa sạch một đống bát đĩa, lúc quay về phòng khách nhìn thấy Phí Độ đang đưa lưng lại lật xem qua quyển sổ của ông cảnh sát già.
Hắn giống như có mắt sau lưng, hỏi Lạc Văn Chu: “Ban nãy có phải anh đã nói thiếu một câu không, các bé gái mất tích nhất định có một điểm chung – là quần áo à?”
Lạc Văn Chu dựa tường phòng khách, bật cười: “Làm sao cậu biết, cậu không phải là hung thủ đầu thai đó chứ?”
“Anh nhìn Thần Thần một cái, sau đó nuốt lại lời muốn nói,” Phí Độ quay người lại, “Quần áo tìm được dưới tầng hầm nhà Ngô Quảng Xuyên kia, không phải đều là váy hoa nhí chứ?”
Lạc Văn Chu vừa nhìn thấy hắn liền nhớ đến cái máy chơi game chết tiệt kia, khá mất tự nhiên tránh né ánh mắt hắn: “Cậu có thể dạy trẻ em đề phòng người lạ, đề cao cảnh giác, nhưng không thể khiến cô bé sợ mặc váy hoa nhí, nếu không còn cần chúng tôi làm gì?”
“Ồ,” Phí Độ nhẹ nhàng gật đầu, “Đội trưởng Lạc nói đúng.”
Lạc Văn Chu hiếm được nghe vài câu nói tốt từ miệng hắn, nhìn cái gật đầu này mà gan run lên, quả nhiên, một giây sau, dự cảm xấu trở thành sự thật.
Phí Độ lẳng lặng hỏi: “Ngoại trừ hoa và máy chơi game ra… còn cái gì nữa?”
|
Quyển 2 - Chương 5: Humbert Humbert 5
Khách khứa đã đi hết, Đào Nhiên chắc cũng ngủ đến dị thứ nguyên rồi. (Dị thứ nguyên là một không gian khác)
Trong phòng khách lấy ánh sáng tốt thoang thoảng mùi rượu, chua chua ngọt ngọt. Phí Độ tắt điều hòa, mở cửa sổ, dùng máy pha cà phê mới tặng pha một ly cà phê đặc kiểu Ý, mùi thơm ưu sầu ở góc bàn bốc lên hơi nóng.
Lạc Văn Chu bị gió nóng mùa hè thổi vào đầu, im lặng chốc lát, sau đó anh vẩy nước trên tay, dùng bàn tay lạnh ngắt ấn trán mình, thở dài rất đỗi bất đắc dĩ: “Cậu thiếu niên à, cậu có thể khéo léo một chút không? Khăn quàng đỏ từ nhỏ đã dạy chúng ta làm việc tốt không để lại tên, cậu vạch trần ra như thế, mỹ cảm ở đâu, hả?”
Phí Độ không trả lời, cả người như đã đông lại, “đứng đắn rởm” cơ hồ như thật.
Lạc Văn Chu nhìn hắn, đột nhiên ý thức được người xấu hổ không chỉ riêng mình – với trí nhớ siêu phàm của chủ tịch Phí, chắc hẳn còn nhớ cảnh hắn vừa cầm cái PSP cũ rêu rao chơi game ở Cục công an, vừa ra vẻ thông minh khiêu khích mình.
Lạc Văn Chu chân thành đặt mình vào hoàn cảnh người khác, thế mình vào Phí Độ, tưởng tượng thử tình cảnh ấy, cảm giác lông tơ cả người dựng hết lên.
Vừa nghĩ như thế, trong ánh mắt anh không tự chủ được thêm “kính lọc” xù lông, nhìn lại chủ tịch Phí, liền cảm thấy bất luận là đôi môi mím thành một đường, các ngón tay mất tự nhiên nắm lại bên người, hay ánh nhìn che giấu sau cặp kính, đều có vẻ vô cùng không thoải mái.
Lúc bản thân không thoải mái, thường càng tô càng đen, càng nói càng sai, song nếu như phát hiện đối phương cũng không thoải mái như mình, bệnh trạng có thể không chữa tự khỏi chỉ trong chớp mắt.
Lạc Văn Chu bỗng nhiên bật cười, chậm chạp đút tay vào túi quần.
Anh cúi đầu ngậm một điếu thuốc, mí mắt cụp xuống, lại ngước lên, nhìn Phí Độ một cái từ dưới lên, do miệng đang bận, lời ra từ kẽ răng có giọng mũi: “Làm gì thế? Rốt cuộc đã phát hiện ‘chú Động Tân’ bị cưng ăn hiếp nhiều năm là người tốt? Không sao bảo bối à, không cần căng thẳng như vậy, Lôi Phong sống bọn anh sẽ không tùy tiện để người ta lấy thân báo đáp đâu.” (Lôi Phong là một người tốt chuyên giúp đỡ người khác)
Ngũ quan Phí Độ như một tấm mặt nạ vẽ lên, so được với tường đồng vách sắt, đặc biệt là khi tinh thần căng thẳng, khống chế biểu cảm và ngôn ngữ cơ thể gần như tinh chuẩn, tuyệt đối không để lộ một tẹo cảm xúc.
So với hắn thì hạng chỉ giỏi nói dối như Triệu Hạo Xương quả thật có thể nói là “lòng dạ không sâu”.
Phí Độ không đáp lại câu nói đùa của Lạc Văn Chu, hắn trầm ngâm chốc lát, quay người bưng ly cà phê vừa pha, lớp dầu mỏng nổi trên mặt theo động tác của hắn dợn ra gợn sóng rất nhẹ. Phí Độ không bỏ một viên đường, hắn giống như đã mất đi vị giác, im lặng uống hết hơn nửa ly.
Phí Độ ban nãy đã uống vài ly rượu, không chịu ăn cơm đàng hoàng, lúc này cơ bản là bụng gần rỗng, tổ hợp gây hại của cồn và cà phê đặc lập tức tạo thành “máy tăng huyết áp”, khiến tim đẩy rất nhiều máu vào mạch máu. Nhịp tim lộn xộn đột nhiên tăng lên khiến hắn hơi khó chịu, bàn tay rịn mồ hôi lạnh.
Lạc Văn Chu nhíu mày: “Đừng có uống cái đó nữa…”
Phí Độ áp lòng bàn tay lên cái ly sứ ấm áp, khóe miệng nhếch lên, ngoài cười trong không cười cắt ngang: “Quả thật, loại người chuẩn bị mua hung giết người, xử lý cha mình bất cứ lúc nào như tôi, có thể giữ nguyên trạng thái hiện giờ không méo mó, đã là hiếm thấy, không thể không kể đến công chăm sóc năm này qua tháng nọ của đội trưởng Lạc.”
Lạc Văn Chu cảm thấy sự căng thẳng không nói thành lời từ câu này, anh còn chưa kịp nếm ra mùi vị, thì Phí Độ đã một ngụm uống nốt số cà phê còn lại, chắc là đắng quá, hắn nhíu mày, giữa cổ và cằm ngẩng lên có một đường cong sắc bén.
Sau đó hắn bỏ ly xuống, gật đầu, quay lưng đi ra ngoài: “Thôi tôi về trước đây, giúp tôi chào Đào Nhiên một tiếng.”
“Này,” Lạc Văn Chu vô thức dặn một câu, “Mới uống rượu đừng lái xe.”
Phí Độ không thèm để ý.
Lạc Văn Chu: “Có nghe thấy không?”
Phí Độ thần sắc hờ hững kéo tay nắm cửa, giống như không nghe.
Thấy hai lần động khẩu không thành công, Lạc Văn Chu đành phải động thủ, tóm cánh tay Phí Độ, rất có kỹ xảo mà lôi quặt ra sau, dùng cách bình thường bắt phạm nhân, vặn ngược tay hắn lôi xuống khỏi cửa.
Phí Độ: “…”
“Nói chuyện cũng không nghe,” Trước ánh mắt kinh ngạc của Phí Độ, Lạc Văn Chu một tay ấn gáy hắn, một tay vặn tay hắn, “áp giải” hắn đến cái ghế nằm cách ba bước, “Ngồi xuống đợi một lúc, tôi gọi người lái thay cho.”
Tận đến lúc này Phí Độ mới hoàn hồn giãy ra khỏi tay anh, tốc độ nói cũng nhanh hơn vài phần: “Đội trưởng Lạc, anh có thể hơi tiến hóa từ trạng thái người tối cổ lên người văn minh không?”
Lạc Văn Chu không để ý, ngón tay vốn đặt trên gáy Phí Độ dời đi mấy tấc, dừng ở động mạch cổ: “Khó chịu đúng không, tôi đã nói, tôi nhớ hình như từng xem ở đâu, thấy bảo cà phê với rượu không thể uống chung mà.”
Phí Độ: “…”
Hắn bị phát pháo nổ sau đuôi ngựa của Lạc Văn Chu “chấn” đau cả tai.
Lạc Văn Chu nhìn hắn: “Tôi chưa từng nghĩ nhiều như vậy – đối xử với cậu không tốt cũng không được, tốt cũng không được, cậu còn khó hầu hơn Từ Hy lão phật gia ấy.”
Phí Độ: “… Thất kính, không biết ngài kỳ thực họ Lý.”
Lạc Văn Chu búng gáy hắn một phát, cầm di động ra ngoài gọi tài xế lái thay.
Chủ nhà Đào Nhiên không hay biết gì về phen đấu khẩu âm thầm này, anh bị mấy ly rượu vang hạ gục, nằm đến tận khi tà dương trải khắp nơi, mới khát khô cổ bò dậy.
Không có gì bất ngờ xảy ra, khách khứa đã đi hết, trước khi đi còn sắp xếp gọn gàng nhà cửa ngổn ngang giúp anh.
Đào Nhiên rửa mặt trong nhà mới, nhìn thấy trên tủ lạnh dán hai tờ giấy, một tờ là của Lạc Văn Chu, nói thức ăn còn thừa đều cất trong tủ lạnh, khi nào dậy tự hâm, tờ còn lại là của Phí Độ, tương đối dài, Đào Nhiên dụi mắt cả buổi mới thấy rõ hắn viết gì.
Phí Độ nói lúc dẫn Thần Thần đi mua sách, hắn có cảm giác bị theo dõi, không xác định có phải nhằm vào Thần Thần hay không, cũng có thể là thần kinh hắn quá nhạy cảm, nhưng để phòng ngừa vạn nhất, nhờ Đào Nhiên buổi tối có thời gian thì đến “số 1101” chung đơn nguyên thăm phụ huynh Thần Thần, nhắc nhở họ chú ý sự an toàn trong kỳ nghỉ hè cho con, đừng quên mang theo ít quà, tiện thể cảm ơn đại mỹ nữ buổi trưa đã “nể mặt”. (Đơn nguyên là đơn vị phân chia trong chung cư, một đơn nguyên có nhiều hộ, thường dùng chung cầu thang)
Mấy tên hiếu sự này, ngay cả số nhà người ta cũng hỏi rồi.
Đào Nhiên không khỏi bật cười.
Kế đó, nụ cười của anh dần dần cứng đờ, anh xem lại lần nữa mấy câu Phí Độ miêu tả kẻ nghi là theo dõi, vô thức xuyên qua cửa sổ nhìn ra ngoài – trong tiểu khu cũ cây cối phong phú, tùng bách tươi tốt và bụi cây kết bè kết đội, nhìn từ trên lầu xuống không có gì cả.
An bình và yên tĩnh.
Đào Nhiên đi đến cạnh cái tủ nhỏ, lại lần nữa mở quyển sổ của ông cảnh sát già.
Trên bìa trong có một tấm ảnh thẻ cũ, chụp khi chủ trước quyển sổ còn trẻ, tóc húi cua, mặt chữ quốc, nghiêm trang quay về ống kính, bên cạnh tấm ảnh rồng bay phượng múa viết tên ông – Dương Chính Phong.
Mấy trang về “vụ án bắt cóc trẻ em liên hoàn ở Liên Hoa Sơn”, Dương lão dùng bút đỏ khoanh một chút, Đào Nhiên biết điều này có nghĩa là trong lòng sư phụ vụ án vẫn chưa kết thúc. Trên trang giấy ghi lại cuộc theo dõi và nghe trộm phi pháp của ông đối với Ngô Quảng Xuyên năm đó, thời gian dài đến nửa tháng, mỗi ngày cơ bản đều là “không có gì khác lạ”.
Trong đây còn có vài đoạn chữ nhỏ: “Đồng nghiệp Ngô Quảng Xuyên chứng thực, trong lúc chiêu sinh ở Liên Hoa Sơn, người này đã nằm viện hai ngày vì bị cảm nặng, vừa khéo là thời gian nạn nhân Quách Phỉ mất tích, tình hình liên quan đã xác nhận với phía bệnh viện, còn nghi vấn đối với thời gian gây án của Ngô Quảng Xuyên.”
Đào Nhiên rót cho mình một ly nước nóng, chậm rãi sắp xếp lại mạch suy nghĩ rối tung – nghe nói Ngô Quảng Xuyên cao hơn một mét tám, là một người đàn ông cao to, bé gái cần ngẩng đầu lên mới nhìn thấy mặt. Một cô bé giai đoạn trước thanh xuân đã bắt đầu dậy thì, có ý thức giới tính, hơn nữa bắt đầu nhạy cảm, một người đàn ông trưởng thành xa lạ, dù có thân phận là giáo viên, sợ rằng cũng cần tiếp xúc nhiều lần hoặc thời gian dài mới có thể giành được lòng tin.
Ngô Quảng Xuyên nằm viện có cơ hội và thời gian không?
Đào Nhiên mải mê suy nghĩ, ngón tay buông lỏng, quyển sổ khép ngược lại, lộ ra một tờ giấy nhỏ kẹp ở trang cuối. Là nét chữ của chính Đào Nhiên, viết một kênh radio, phía sau ghi chú “Nửa đêm, Đọc truyện đêm khuya”.
Dương Chính Phong chết từ ba năm trước, bị một tên tội phạm truy nã đâm.
Ông dần lớn tuổi, chức dần cao, nhiều năm trước đã từ cảnh sát hình sự tuyến một chuyển lên cương vị quản lý, theo nguồn tin của Lạc Văn Chu nói ông sắp được đề bạt lên cục phó, họ vốn xoa tay chờ đánh chén một bữa của ông già đó.
Lúc xảy ra chuyện thậm chí không phải là thời gian đi làm – lúc ấy để đưa con đi học đại học ở vùng khác, Dương Chính Phong xin nghỉ phép hai tuần, xong xuôi ông định dùng ngày nghỉ cuối cùng làm một người chồng nội trợ, sáng sớm đã đi chợ, khi qua một đường hầm, nhìn thấy một kẻ lang thang vẻ mặt thần kinh. Kẻ lang thang trông rất nôn nóng, người qua đường nào nhìn hắn, hắn đều hung ác trừng mắt nhìn lại, Dương Chính Phong nhạy bén phát giác vài động tác nhỏ của tên này rất giống động tác chuẩn bị trước khi tấn công, liền để ý, nhìn kỹ lại thì nhận ra hắn là một tội phạm truy nã cấp A, nổi điên đâm chết cả nhà hàng xóm bốn người sau đó bỏ trốn.
Trạng thái tinh thần của kẻ hiềm nghi rõ ràng không ổn định, Dương Chính Phong không dám tùy tiện hành động, âm thầm liên lạc đồng nghiệp. Nhưng khổ một nỗi, có một bà cụ vừa vặn dắt chó đi qua, chú chó con khả năng là cảm thấy nguy hiểm, sủa hắn như điên, thoáng cái kích thích hắn, tay tội phạm truy nã lập tức hét to một tiếng, không biết lấy từ đâu ra một con dao, lao tới bà cụ, Dương Chính Phong bất đắc dĩ chỉ có thể xông lên-
Dương Chính Phong bị tên hung thủ điên khùng đâm mười mấy nhát.
Hôm ấy vừa vặn là Đào Nhiên trực, anh chạy đến hiện trường sớm nhất, kịp gặp mặt Dương lão lần cuối.
Nhưng kỳ lạ là, di ngôn của Dương Chính Phong vừa không hỏi bắt được tội phạm hay chưa, cũng không phải gửi gắm vợ con, ông cầm tay Đào Nhiên lặp đi lặp lại một câu: “Bật… 88.6… mười hai giờ năm phút… 88.6…”
Chương trình trên kênh FM 88.6 lúc mười hai giờ năm phút chính là “Đọc truyện đêm khuya”, sau đó chương trình ngừng phát sóng, trở thành một app di động cực kỳ tiểu chúng, mỗi ngày đều đều đọc sách, nội dung cực kỳ tẻ nhạt, Phí Độ tình cờ nghe một lần ở chỗ anh, còn cười nói dùng nó làm thần khí ru ngủ.
Khi trực đến lẫn lộn ngày đêm, thỉnh thoảng hơi khó ngủ, Đào Nhiên sẽ nghe kênh đọc sách lạ lùng này, anh vẫn hoài nghi mình đã hiểu sai di ngôn của sư phụ, cho đến một lần tình cờ nghe thấy ID “Người Đọc Diễn Cảm”.
Đào Nhiên mở di động sắp hết pin, bật app “Đọc truyện đêm khuya”, mở bài cảm nhận “Đỏ và đen” anh lưu, tác giả chính là “Người Đọc Diễn Cảm”.
Câu đầu tiên viết: “‘Như vậy, tôi ngồi ăn cơm cùng bàn với ai’ – vấn đề này, là chỗ kinh hồn của nhân vật.”
Mà vô cùng trùng hợp là, Triệu Hạo Xương hung thủ vụ án giết người vứt xác “520”, từng kết thân với nhà họ Trương, thay thế đồng nghiệp giành được một cơ hội tuyệt vời, cũng dựa vào những nguồn lợi này thành công thăng lên phía cộng tác cấp hai, để kỷ niệm chuyện này, hắn trộm cây bút máy của Phí Độ người chủ công ty trong cuộc hợp tác, dán một cái nhãn kỷ niệm, trên viết là “tôi ngồi ăn cơm cùng bàn với ai”.
Chuyện này không cách nào giải thích với người khác, nói ra người ta sẽ chỉ cảm thấy anh chìm trong vụ án thời gian quá dài đến mức hơi suy nhược thần kinh, nhìn thấy cái gì đều cảm thấy có Déjà vu. Nhưng vấn đề là, Đào Nhiên không phải mới lần đầu tiên cảm thấy Déjà vu tương tự, hơn nữa mỗi lần đều là cùng một ID.
Sư phụ trước khi chết nắm tay anh nói thật sự là một chương trình đọc sách tẻ ngắt sao?
Liệu có phải lúc ấy anh đã nghe nhầm, một mực tự ám thị “chương trình này có vấn đề”, thế cho nên lâu dần thật sự thần hồn nát thần tính, lôi mỗi một sự trùng hợp ra hoài nghi một lần?
Đào Nhiên làm cảnh sát hình sự hơn bảy năm, biết kỳ thực tình huống thế này rất thường thấy, nếu con người ta tự mình nghi thần nghi quỷ, thì ký ức cũng sẽ lừa dối – có bao nhiêu nhân chứng mục kích gặp phải tội phạm bạo lực, nhưng sau đó ngay cả nghi phạm là nam hay nữ, là cao hay thấp cũng không nhớ?
Nhiều năm qua, anh vô số lần lật từ đầu đến cuối quyển sổ của ông cảnh sát già, muốn tìm ra một chút manh mối, làm rõ di ngôn chân chính của sư phụ rốt cuộc là gì, thế nhưng đã đọc thuộc lòng cả quyển sổ, mà anh vẫn chưa tìm được manh mối nào ngoài chương trình kia.
Đào Nhiên hít sâu một hơi, lắc đầu tự giễu, cảm thấy không chừng mình cũng cần tìm thầy phụ đạo tâm lý trong cục để tâm sự.
Đúng lúc này, góc phải phía trên app xuất hiện dấu hiệu cập nhật, Đào Nhiên vô tình cúi đầu nhìn thoáng qua, đồng tử phút chốc co lại, chỉ thấy tiêu đề cập nhật là – “Người quanh quẩn ở đó ơi, anh đã tìm được viên dạ minh châu mình đánh mất chưa? – Đọc lại ‘Lolita’, gửi bài cảm nhận: Người Đọc Diễn Cảm.”
|
Quyển 2 - Chương 6: Humbert Humbert 6
Căn phòng ấy quá lớn, hơi người có hạn không lan được đến đây, tản ra mùi chết chóc nặng nề.
Đó là sự chết chóc mà mặt trời, hoa tươi lẫn ánh đèn đều không thể xua tan.
Hắn trù trừ đứng ở cửa.
Theo lý mà nói, đây là nhà hắn, thế nhưng mỗi lần hắn bước đến chỗ cửa vào không bám một hạt bụi này, mặt hướng về ánh dương xuyên qua cửa sổ sát đất chiếu vào khắp phòng, trong lòng hắn đều chứa đựng nỗi sợ hãi.
Lúc này, tiếng nhạc mơ hồ từ trên lầu văng vẳng truyền xuống, giọng nữ du dương đang ngâm nga lặp lại đoạn điệp khúc, hắn mơ màng chốc lát, giống như lờ mờ biết sắp xảy ra chuyện gì, chầm chậm cất bước đi vào trong.
Xúc cảm của ánh dương rọi lên người hắn trở nên rất kỳ dị, âm u ẩm ướt, lạnh lẽo, không giống ánh dương, mà giống gió giữa mưa bão hơn, thổi qua cánh tay bên ngoài đồng phục mùa hè, làm nổi lên một lớp da gà mỏng.
Hắn đi lên tầng hai, tiếng nhạc mỗi lúc một rõ hơn, giai điệu quen thuộc ấy chèn trong ngực hắn như xương mắc cổ, hắn hơi khó thở, đột nhiên dừng chân, muốn bỏ chạy.
Song khi hắn quay đầu lại, hắn mới phát hiện tất cả phía sau mình đều đã tan vào bóng tối, hết thảy đều như định trước, bố trí sẵn sàng, trước mặt hắn chỉ có một con đường, một hướng đi.
Bóng tối không đâu không có mặt từ bốn phương tám hướng bủa vây tới, ép hắn lui lên cầu thang chật hẹp, ép hắn mở cánh cửa kia-
“Uỳnh” một tiếng, hắn cảm thấy có thứ gì đó nổ tung ngay bên tai, sau đó hắn cúi đầu nhìn thấy người đàn bà ngã dưới đất.
Cổ bà ta vẹo đi một cách mất tự nhiên, người đã có màu xanh xám cứng đờ, mắt lại trợn to – giống như thân thể đã chết rồi mà linh hồn vẫn còn sống vậy.
Bà ta nhìn hắn chằm chằm, khóe mắt chảy ra hai dòng lệ máu, lạnh lùng hỏi: “Tại sao con không cứu mẹ?”
Hô hấp chợt nghẽn lại, hắn lui phắt về phía sau.
Người đàn bà ấy lảo đảo đứng dậy, giơ một bàn tay đã sinh ra vết ban của xác chết về phía hắn: “Cái gì con cũng cảm thấy, mà tại sao con tránh mẹ? Tại sao con không cứu mẹ?”
Bàn tay ấy bị cuốn lấy bởi bóng tối thổi quét đến, bóng tối như có sinh mạng, xâm chiếm bà không chút thương tình, bà không ngừng phát ra những tiếng kêu gào thảm thiết và chất vấn, ra sức vươn tay về phía hắn, rồi lại không ngừng bị kéo vào bóng tối.
Hắn theo tiềm thức kéo bàn tay lạnh buốt phủ đầy ban kia lại, nghe gào thét chói tai, cảm giác mình đang không ngừng rơi xuống. Đột nhiên, phía sau có thứ gì đó túm hắn lại, lưng hắn áp vào một cơ thể rắn chắc mà ấm áp, một đôi tay vòng qua hắn, giơ lên che mắt.
Hắn ngửi thấy trên bàn tay khớp xương rõ ràng kia thoang thoảng mùi thuốc, ngay lập tức, một tia sáng phút chốc bùng ra từ kẽ tay-
Phí Độ choàng tỉnh dậy.
Hắn đang ngồi trong thư phòng nhà mình, lật xem một bản kế hoạch khá buồn tẻ, xem nửa chừng thì ngủ gục.
Lúc này đang là buổi chiều, một làn gió lạnh cuốn theo hơi ẩm lùa vào cửa sổ, bên ngoài không biết từ khi nào gió nổi mây đùn, chuẩn bị đổ một trận mưa to, thì ra những tiếng nổ và ánh sáng mạnh lóe lên trong mơ chính là sấm sét, di động ở bên cạnh đổ chuông không ngừng, trên màn hình hiển thị đã có ba cuộc gọi nhỡ – thảo nào hắn nằm mơ cũng nghe thấy bài hát ấy.
Phí Độ hít sâu một hơi, vừa đứng dậy đi đóng cửa sổ, vừa cầm di động lên: “A lô?”
Tiếng Trương Đông Lai la hét đâm vào tai: “Ban ngày ban mặt, Phí gia, ông lại nằm trên mình người đẹp nào không xuống được, tôi gọi mấy cuộc mà ông đều không nghe!”
“Sấm to quá, không nghe thấy.” Phí Độ còn hơi nặng đầu, day ấn đường, “Sao thế?”
Trương Đông Lai: “Mưa to gió to thái dương to, bảo bối à, đi chơi đi!”
Phí Độ đi đến cạnh cửa sổ, cảm giác hơi nước trong không khí như sắp phun ra, thực vật bên cửa sổ đều hơi cúi đầu: “Mưa bão thế này đi đâu chơi?”
Trương Đông Lai nói: “Bên khu sinh thái Tây Lĩnh mới mở một trường đua xe việt dã khủng lắm, họ đặc biệt có một ‘đường đua tử thần’, chỉ mở lúc thời tiết xấu, càng bão táp càng kích thích – Nói thế nào nhỉ? Hải âu ơi, để bão táp dữ dội hơn đi!”
Phí Độ nghe xong, chỉ cảm thấy giọt bùn cũng theo những câu này bắn vào vành tai, vẻ mặt hờ hững: “Tìm chết à?”
“Ông nghe ông nói kìa, y như cụ già, chẳng có tí tẹo sôi nổi của thanh niên đương đại. Cuộc đời người ta, ăn rồi nhìn rồi, thì còn có thể làm gì? Không phải còn lại tìm chết cho vui à?” Trương Đông Lai nói hùng hồn đầy lý lẽ, “Ông không thích đua xe thì khỏi đua, đến lộ mặt cái là được. Tôi nói cho ông biết, trường đua này có một câu lạc bộ, kéo một đoàn nghệ thuật nhỏ tới, đủ các loại người đẹp có khí chất, có đại mỹ nữ tóc đen dài thẳng mượt, còn có thanh niên văn nghệ kéo đàn, không cùng đẳng cấp với đám mặt xà tinh kia, hoàn toàn phù hợp với gu khó tính của ông, cơ hội khó gặp, ông mau tới đây đi, đừng có rỗi việc ở nhà say mê một lão già nữa – không phải người ta cũng đi tìm đối tượng rồi sao?”
“Tin tức của ông nhạy đấy,” Phí Độ cười xì một tiếng, hắn là một ông tổng lớn lên trong nhà ấm, không hề muốn làm một tên ngốc sôi nổi, chơi trò tìm chết dưới mưa to, vốn định từ chối, lời cự tuyệt đã ra đến môi, “Tôi không…”
Lúc này, Phí Độ dựa nghiêng lên cửa sổ, đột nhiên nhìn thấy thư phòng ánh sáng u ám, không biết làm sao lại nhớ đến giấc mơ đảo điên khi nãy… và đôi tay có mùi thuốc lá kia.
Cách bữa cơm tân gia nhà Đào Nhiên đã hơn một tháng, Phí Độ trước kia suốt ngày đi quấy rầy cảnh sát Đào bây giờ ngay đến một cuộc điện thoại cũng không gọi, thứ nhất là biết Đào Nhiên đã có người trong lòng, không tiện làm phiền quá, thứ hai là mỗi khi trông thấy cái máy chơi game chết tiệt kia, hắn lại cảm thấy cả người khó chịu.
Hôm nay càng chết người hơn, còn bị ác mộng quấy rầy.
“Được rồi,” Phí Độ lập tức sửa lời, “Ông cho tôi địa chỉ đi.”
Bước vào cuối tháng Bảy, mùa mưa Yến Thành cũng sắp sửa kết thúc, song mưa dầm dề chẳng những không định chấm dứt, ngược lại càng điên cuồng hơn.
Lạc Văn Chu sau khi ra về hai tiếng đã quay trở lại, anh bỏ xe trước cổng Cục công an, không lấy ô mà trùm thẳng mũ áo khoác lên đầu, đội mưa chạy vào.
“Đội trưởng Lạc, phòng họp trên tầng hai, nhanh lên!”
Lạc Văn Chu giũ áo khoác ướt sũng, lộ ra ba vết máu trên mu bàn tay, rảo bước chạy lên tầng hai, hơi thở tắc trong ngực lúc này mới thở ra: “Rốt cuộc có chuyện gì vậy?”
“Không biết, tôi cũng vừa mới đến thôi,” Đào Nhiên gấp ô qua loa, “Tay ông làm sao thế?”
Lạc Văn Chu bực bội gãi vết thương đã cầm máu trên mu bàn tay: “Bóng đèn nhà tôi hỏng, tôi đang thay giữa cảnh tối như hũ nút, thì ông già đột nhiên gọi điện đòi mạng, khiến tôi không cẩn thận giẫm trúng đuôi tổ tông kia – cục trưởng Lục!”
Nhắc ông già, ông già lập tức đến ngay.
Lục Hữu Lương nhanh chóng vẫy tay gọi hai người, lao vào phòng họp như một cơn gió, Lạc Văn Chu và Đào Nhiên vội vàng đuổi theo.
“Hôm nay là ngày cuối diễn ra trại hè chiêu sinh của trường trung học Thập Lục trong thành phố, trường tổ chức cho các em học sinh tham gia trại hè đi tham quan khu di chỉ người vượn cổ ở Tây Lĩnh, thuê một chiếc xe buýt cỡ trung, trên xe trừ tài xế còn có một giáo viên dẫn đội và mười tám học sinh tiểu học khai giảng là lên năm cuối. Khoảng năm giờ chiều, buổi tham quan kết thúc, cả đoàn lên xe trở về, vốn dự tính bảy giờ đến trường, kết quả là bây giờ cả xe lẫn người cùng mất liên lạc.” (Năm cuối tiểu học là lớp 6)
Đêm hôm khuya khoắt kinh động đội trinh sát hình sự trên cục, chắc chắn không phải tai nạn giao thông. Lạc Văn Chu và Đào Nhiên liếc nhìn nhau, không ai nói xen vào, cục trưởng Lục giơ tay đẩy cửa phòng họp, mọi người bên trong đang định đứng dậy, Lục Hữu Lương phất tay: “Cứ kệ tôi, tiếp tục nói đi!”
Máy chiếu trong phòng họp theo đó thay đổi, một tấm bản đồ cảnh thật khổng lồ được trải ra.
“Biển số xe mất tích là NLXXXX của Yến Thành, đến từ công ty cho thuê xe Hằng Thông, tài xế Hàn Cương, nam, bốn mươi mốt tuổi, lái xe mười lăm năm, cô giáo Hồ Linh Linh, nữ, ba mươi hai tuổi, là giáo viên của trường trung học Thập Lục, người địa phương Yến Thành. Chiếc xe này lúc năm giờ năm phút xuất phát từ cổng sau viện bảo tàng Tây Lĩnh, vào quốc lộ là tầm sáu giờ, mấy phụ huynh được biết do thời tiết xấu bất ngờ nên đoạn quốc lộ tạm thời bị chặn, đã gọi điện thoại xác nhận với cô giáo, tin tức nhận được là đã vòng qua rồi, nhưng tình hình giao thông không tốt lắm, dự tính thời gian đến trường sẽ muộn hơn kế hoạch từ một tới hai tiếng.”
“Khoảng bảy giờ bốn mươi, phụ huynh lại gọi điện, muốn biết họ đi đến đâu rồi, nhưng điện thoại của cô giáo Hồ Linh Linh đã tắt máy. Lúc này phụ huynh vẫn chưa ý thức được có vấn đề, tiếp đó lại gọi điện cho con, nghe thấy có tiếng trẻ em khóc, tiếng gào thét và tiếng đàn ông chửi rủa, không đợi ông ta hỏi rõ có chuyện gì, bốn giây sau điện thoại đã bị cúp.”
“Phụ huynh lập tức báo cảnh sát, trên xe có mấy em học sinh mang theo di động có hệ thống định vị trẻ em, song kết quả định vị cho thấy chúng nằm rải rác ở một chân núi, phỏng đoán khả năng là bị bắt vứt đi. Nhưng còn có giày thể thao của một em gắn chip GPS, thể hiện vị trí của họ hiện tại đã lệch khỏi tuyến đường định trước, đến vùng núi phía nam huyện Tây Lĩnh, và vẫn đang đi tiếp.”
“Kẻ bắt cóc là người trên xe hay giữa đường gặp cướp?” Lạc Văn Chu hỏi, “Có chủ động liên lạc với bên ngoài không, đưa ra yêu cầu gì?”
“Trước mắt vẫn chưa.”
“Lạc Văn Chu,” Cục trưởng Lục ngẩng đầu lên, “Chuyện này liên quan đến mấy huyện khu thành phố ta, các ngành và đội đặc công cần phối hợp chặt chẽ, để cháu sắp xếp chung, trực tiếp báo lên chú, cháu làm được không?”
Lạc Văn Chu sửng sốt, nhất thời anh có thể cảm giác được rõ ràng mấy ánh mắt tập trung vào mình, may là tố chất tâm lý tuyệt vời, anh không hề biến sắc, điềm nhiên gật đầu: “Vâng.”
“Hết thảy lấy an toàn tính mạng bọn trẻ làm chính, cấp tốc!”
Mưa ngày càng to, không hề có vẻ sắp nhỏ đi.
Bé gái ngồi cạnh cô giáo, chiếc váy hoa nhí trên người đã bị mưa bên ngoài tạt ướt, nhưng em không dám đóng cửa sổ.
Em nghe thấy tiếng cô Hồ van xin: “Anh ơi, anh muốn cái gì? Mọi thứ trên xe, tiền bạc, anh cứ lấy tùy ý, chúng tôi tuyệt đối không lắm miệng, nhất định không nói với ai… Ở chỗ tôi còn có phương thức liên lạc của một số phụ huynh, nếu anh có khó khăn gì, tôi cũng có thể lập tức liên lạc với họ…”
“Câm miệng.” Gã đàn ông ngồi cạnh tài xế lạnh lùng ngắt lời cô, trong tay lóe ánh dao, “Tôi bảo làm gì thì cô cứ làm như vậy, làm gì mà lắm lời thế! Lái tiếp đi!”
Cô giáo trẻ vẻ mặt cầu xin ngẩng đầu lên, nhìn tài xế qua kính chiếu hậu, chờ mong người trung niên nắm vô-lăng này có thể nghĩ ra cách gì.
Song tài xế chỉ đáp lại cô một ánh mắt sợ hãi, kế đó né tránh ánh nhìn của cô, tên cướp nói gì nghe nấy.
Chiếc xe chở đầy học sinh sau khi thay đổi tuyến đường, trên một con đường nhỏ lầy lội, gặp phải một chiếc xe con chết máy ven đường.
Đoạn đường ấy rất hẹp, bị đối phương chặn cứng ngắc như vậy, xe buýt không qua được, tài xế và cô giáo buộc lòng phải xuống nói chuyện với chủ xe. Chủ xe là một thanh niên, trông hơi nhếch nhác song rất biết điều, ba người lớn hợp lực đẩy chiếc xe chết máy ra, vất vả mở đường, cô Hồ còn chưa kịp đứng thẳng dậy, thì đã bị gí dao vào lưng.
Cần gạt nước phát ra tiếng “két két” như quá tải, xe buýt đã hoàn toàn lái vào vùng núi Tây Lĩnh, xa gần không một bóng người, một luồng sấm sét đánh xuống, chiếu sáng khuôn mặt trắng bệch của tên cướp.
“Chạy đến bãi đất trống phía trước,” Hắn nói, “Sau đó dừng xe.”
Chiếc xe ngoan ngoãn dừng ở vị trí chỉ định, tiếng động cơ vừa tắt, thì bốn phía càng yên tĩnh, bầu không khí cũng càng khủng bố hơn.
Cô giáo vô cùng lo lắng, cô nghe thấy học trò nhỏ bên cạnh không khống chế được phát ra tiếng nức nở, vội vàng bịt miệng em, liều mạng lắc đầu ra hiệu cho lũ trẻ xung quanh giữ trật tự, không được chọc giận tên cướp, đồng thời âm thầm hít sâu mấy hơi, cô cố gắng dằn sự hoảng loạn và sợ hãi xuống, lặng lẽ cho tay vào ba lô.
“Cô,” Tên cướp kề con dao phay lên cổ tài xế, giơ tay chỉ Hồ Linh Linh, tay cô giáo cứng đờ trong ba lô, ánh mắt lạnh như băng của kẻ kia ghim vào người cô, “Đừng trốn đằng sau giở trò, ra đằng trước.”
Trong lúc ngàn cân treo sợi tóc, Hồ Linh Linh chạm đến thứ muốn tìm, cô rút tay ra, lặng lẽ nhét thứ đó vào tay học trò trong lòng, sờ tóc cô bé đó một cái.
Học trò nhỏ trợn mắt, cô giáo không nói gì, chỉ dùng ánh mắt ra hiệu về hướng ngoài cửa sổ, sau đó chậm rãi đứng dậy, giơ hai tay ra, đi lên phía trước theo yêu cầu của tên cướp.
Cô bé mặc váy hoa nhí nắm chặt thiết bị báo động phòng thân cô giáo nhét vào tay mình, giấu sau lưng.
Ở nơi cách chỗ này không đầy ba cây số, đám nhà giàu quậy điên rồi ướt sũng quay vào nhà, mới đầu vốn nói đua ô tô việt dã, chạy nửa chừng chê không đã liền đổi thành mô-tô việt dã, gầm rú lao một vòng, lạnh buốt cả tim.
Phí Độ cởi khuy áo ở cổ, ném mũ bảo hiểm đi, nhận một cái khăn lông, vuốt mái tóc ướt nhẹp ra sau đầu, không thể không thừa nhận, cách giải trí tìm đường chết quả thật cực kỳ thư giãn.
“Anh Phí hôm nay không đi chứ?” Cô nàng xinh đẹp đưa khăn chống cằm nhìn hắn, mùi nước hoa “Báo Săn” pha lẫn mùi ẩm ướt thốc vào mặt, đậm đặc và lạnh lùng, phối hợp với dòng máu sôi trào lên sau khi đua xe dưới mưa, thêm khí chất văn nhã của cô nàng đó, quả thật là sự hấp dẫn tương phản đặt làm đúng theo khẩu vị của hắn.
Trương Đông Lai kế bên cười như một con chó, Phí Độ dùng đầu ngón chân nghĩ cũng biết là ai sắp xếp.
Kỳ thực ngủ lại một đêm cũng không ảnh hưởng gì, nhưng Phí Độ nhìn cô gái đó, tự dưng chẳng hứng thú nổi, cứ cảm thấy sự hoang dại của báo săn hơi thiếu một chút, giống như một người rất muốn ăn ớt hiểm địa ngục, mà người ta lại bưng lên cho hắn một đĩa bò bí-tết rắc ít tiêu đen vậy.
Trong lòng hắn hơi ngứa ngáy, hắn muốn hương vị nào đó đậm hơn, không có cũng không định tạm bợ, thế là hào hoa phong nhã mỉm cười: “Không được, sáng sớm mai công ty có chút việc phải đến sớm, lát nữa anh sẽ về thành phố luôn.”
Cô nàng hơi thất vọng: “Khó khăn lắm mới đến một chuyến, trời tối như vậy, đường lại không dễ đi, anh về bây giờ rất nguy hiểm.”
“Nguy hiểm hơn lái mô-tô việt dã chạy giữa bùn đất dưới mưa to không? Thực ra hôm nay anh vốn không định đến đâu, kết quả là có dự cảm thôi thúc, cảm thấy mình không đến thì sẽ tiếc nuối suốt đời.” Phí Độ cúi đầu nhìn cô ta, lời ngon tiếng ngọt không mất tiền mua, “Gặp em rồi, mới biết dự cảm của anh quả nhiên chuẩn, không uổng chuyến này, hôm nay dù gặp mưa đá cũng đáng.”
Cô nàng kia bị hắn nhìn đỏ mặt, không thể tiếp lời.
Phí Độ bưng một bát canh gừng, đang định uống xong rồi về, thì chủ câu lạc bộ đi ra: “Phí gia, muốn đi cũng đợi lát nữa hẵng đi, anh mới nghe nói bên này phong tỏa đường rồi, có tên điên bắt cóc một xe học sinh tiểu học đi tham quan, không biết đã chạy đi đâu, đã điều động cả đặc công rồi.”
Phí Độ sửng sốt.
Tên điên bắt cóc học sinh tiểu học canh ngay cửa duy nhất trên xe, hai tay lăm lăm hai con dao, không hề sợ hãi nhắm vào hai người trưởng thành trên xe, ném một cái di động loại đập đá kiểu cũ cho cô Hồ: “Bây giờ tôi muốn cô gọi điện thoại cho bọn họ.”
Cô Hồ nhìn bé gái mặc váy hoa nhí, lại quay đầu nhìn tài xế hèn nhát co rúm người, chầm chậm nhận điện thoại và tờ danh sách học sinh, gọi cho một phụ huynh: “A lô… tôi… tôi là cô giáo Hồ Linh Linh, xe chúng tôi nửa đường bị một tên cướp… A!”
Tên cướp dùng mũi dao đâm vào gáy cô, đau đớn dữ dội pha lẫn mồ hôi lạnh cùng kéo dây thần kinh của cô giáo.
“Đừng lắm lời, cứ bảo với họ là tôi cần tiền, họ góp nhau hay làm gì cũng được, mau chóng kiếm đủ năm trăm vạn, trước khi trời sáng đưa đến nơi tôi chỉ định, chuẩn bị xong tôi sẽ lại gọi điện thoại thông báo cho họ đem tiền đến đâu. Nếu họ muốn báo cảnh sát thì cũng tùy thôi, dù sao đám nhãi này đang nằm trong tay tôi, nhìn thấy xe cảnh sát là tôi sẽ ra tay, thấy một chiếc xe cảnh sát tôi sẽ chọn một đứa làm thịt, chạy không được thì tôi sẽ nổ chiếc xe này, cho các cô nếm thử mùi vị làm chim sẻ nướng!”
Điện thoại tắt phụt, Lạc Văn Chu ngẩng đầu lên.
“Sếp, có thể định vị đại khái, cơ bản khớp với tín hiệu GPS trong giày của em học sinh kia, chúng ta đi thế nào đây?”
Lạc Văn Chu trầm ngâm chốc lát: “Tình hình cá nhân của tài xế và cô giáo điều tra thế nào rồi?”
Lang Kiều ngớ ra: “Không phải nói là nửa đường gặp cướp…”
Lạc Văn Chu: “Cướp đi một mình làm sao biết trong xe toàn là trẻ con? Cho dù biết, cho dù trong tay có vũ khí, làm sao hắn dám tự tin một mình đối phó được hai người trưởng thành?”
Lang Kiều hoảng sợ, đúng lúc này, Đào Nhiên gọi điện tới: “Đội trưởng Lạc, bọn tôi đang ở nhà tài xế Hàn Cương, hắn đã bán không ít đồ gia dụng, nghe hàng xóm xung quanh nói thì có khả năng là nghiện cờ bạc rồi.”
Lạc Văn Chu nhíu mày.
Tim Hồ Linh Linh đập cực nhanh, tên cướp đang ở trước mặt cô múa may diễu võ dương oai, lưỡi dao trong tay hắn lên xuống trước mắt.
“Không thể tiếp tục như vậy.” Cô nghĩ, lại lần nữa nhìn cô bé mặc váy hoa nhí, học trò nhỏ như đã hiểu ánh mắt cô, thân thể be bé co lại cạnh cửa sổ, đột nhiên ném máy báo động ra ngoài.
Tiếng còi báo động chói tai nổ ra bên cạnh xe, tên cướp cầm dao sững sờ tại trận, ngay tích tắc này, Hồ Linh Linh chợt lao lên người hắn, cả hai cùng lăn ra cửa xe mở hé, cô bất chấp đau nhức khi lưỡi dao lạnh buốt cứa thân thể, la lên bảo tài xế kia: “Lái xe! Mau lái xe!”
|