Đại Phách Quan
|
|
Chương 10[EXTRACT]Niếp Thập Tam nắm chặt gói trà, trên đó vẫn còn lưu lại hơi ấm của Hạ Mẫn Chi, hương trà lan toả, trong lòng vừa thương tiếc vừa vui mừng, rõ ràng quyến luyến, rõ ràng xem trọng, lại cố tình bày ra một bộ dáng không quan tâm, Hạ Mẫn Chi, ngươi thật sự khiến ta yêu đến nhe nanh múa vuốt. ————— Hạ Mẫn Chi nghe hắn hỏi, khẽ mỉm cười, đôi mắt đào hoa càng câu hồn đoạt phách: “Vẫn là nhất thời hồ đồ, quên đi.” Niếp Thập Tam chống tay lên chiếc ghế gỗ, trong viện lác đác hoa rơi: “Thập Ngũ, ngươi rốt cuộc đang gạt ai? Đàn Khinh Trần dùng Thất huyền tâm cầm bức bách ngươi, lúc ngươi thần trí mơ hồ cũng một mực bao che cho ta, chẳng lẽ ngươi thật sự không có tình cảm với ta?” Hạ Mẫn Chi hung hăng nhìn hắn: “Vô nghĩa! Ngươi ngốc đến vậy sao? Thân phận ngươi bại lộ, chức hình quan ta còn đảm đương nổi sao? Lúc đó không biết Đàn Khinh Trần đang hỏi, nếu không ta cũng đã sớm nói ra rồi.” Thở dài, nói tiếp: “Ta và ngươi đều là nam nhân, cùng lắm chỉ là tình huynh đệ, hai lần này đại khái là bởi vì chúng ta chưa thú thê, hơn nữa toàn là ngươi cưỡng hôn ta!” Đột nhiên cẩn cẩn dực dực, có chút hoảng sợ đánh giá Niếp Thập Tam từ trên xuống dưới: “Chẳng lẽ ngươi thật sự đoạn tụ long dương?” Lại an ủi: “Đừng lo, đợi ngươi lớn chút nữa thú thê là xong.” Niếp Thập Tam đứng thẳng lưng, thờ ơ nhìn hắn tự biên tự diễn, chờ hắn nói xong, mới thản nhiên hỏi: “Thập Ngũ, ngươi rốt cuộc đang giấu giếm chuyện gì?” Sắc mặt Hạ Mẫn Chi nháy mắt trắng bệch, Niếp Thập Tam có chút không đành lòng, nhưng cũng không muốn dễ dàng buông tha như thế: “Đoạn tụ long dương thì sao? Ta đời này đã định ở bên ngươi.” Chăm chú nhìn vào đôi mắt đa tình lại như vô tình của hắn: “Những gì ta đã nói, trước sau không đổi, Hạ Mẫn Chi, ngươi trốn không thoát đâu.” Dứt lời cũng không nhìn hắn, xoay người trở về phòng. Khóe miệng Hạ Mẫn Chi lộ ra một nụ cười như bi như hỉ, vừa vuốt ve chiếc ghế bằng gỗ lê mà ban nãy Niếp Thập Tam chống lên đó, lại thấy chiếc ghế lập tức nát thành một đống gỗ vụn, có lẽ Niếp Thập Tam tuy kiên trì giữ vẻ lãnh tĩnh, kỳ thực trong lòng cuồn cuộn phong ba vô pháp tự khống chế, nội lực bộc phát, ghế gỗ lê cứng cáp như vậy cư nhiên vô thanh vô tức vỡ tan tành thành từng mảnh. Trong lòng không khỏi suy tư hỗn loạn, đang đứng ngẩn ngơ, đột nhiên nghĩ tới một chuyện, cả giận nói: “Niếp Thập Tam! Cái ghế kia ít nhất năm lượng bạc! Ngươi… chi bằng ngươi một chưởng đánh chết ta cho rồi!” “Chi nha” một tiếng, cửa sổ không gió tự mở, thanh âm Niếp Thập Tam như kim thạch, lạnh lùng cao ngạo: “Đi ngủ mau! Nếu không ta đập nát cả ba cái còn lại!” Hạ Mẫn Chi tức khắc chạy vào phòng, thân pháp cực nhanh, không hề thua kém bất kỳ vị cao thủ võ lâm đương thời nào. (pó tay 2 bạn =))) Giữa khuya, Niếp Thập Tam mở mắt, áp lên cổ tay Hạ Mẫn Chi, Thái Nhất chân khí xoay tròn thâm nhập vào cơ thể, dung nạp khí phủ, từng chút một bảo hộ kinh mạch bị tổn thương của hắn. Kinh mạch Hạ Mẫn Chi thọ thương đã lâu, còn triệt để hư hại, vô pháp chữa khỏi, nhưng mấy hôm nay dùng Thái Nhất chân khí trị liệu, cũng rất có công hiệu cường kiện thân thể. Chân khí vận hành một vòng tuần hoàn, Niếp Thập Tam chậm rãi hít sâu, trong bóng tối, ngũ quan Hạ Mẫn Chi như mang theo âm ảnh thâm trầm, đường nét tinh xảo thanh lệ nhưng ngạo khí phân minh. Niếp Thập Tam nhịn không được ghé sát mặt hắn, định hôn lên đôi môi kia, bất chợt dừng lại, nụ hôn như thế, không chút ý nghĩa, không phải thứ mình muốn, có lẽ nên cho hắn một ít thời gian để trầm tĩnh lĩnh ngộ. Ngày hôm sau Đàn Khinh Trần phân phó hạ nhân đưa tới các món trân quý tẩm bổ. Hai ngày tiếp đó, Đàn Khinh Trần đi Lâm Tương, trước khi lên đường còn nhờ Thập nhất hoàng huynh Phó Lâm Ý mang đến Đại thánh di âm cầm đã được tu sửa, Phó Lâm Ý còn thay hắn nói một câu: “Mẫn Chi nếu muốn đem cầm nữa, cứ đến hiệu cầm đồ Tiến Bảo, giá cả cũng đã thương lượng giúp ngươi, bảy trăm lượng bạc.” Dứt lời, ngoài cười trong không cười nhìn Hạ Mẫn Chi. Nào ngờ khuôn mặt như bạch ngọc của Hạ Mẫn Chi một tia cũng không đỏ, tươi cười ưu nhã đáp: “Đa tạ Thập nhất vương gia, hạ quan đã rõ, lát nữa sẽ đi.” Kẻ choáng váng ngược lại là Phó Lâm Ý, dưới ánh nhìn bức bách lạnh lùng như băng tuyết của Niếp Thập Tam, gãi gãi mũi cười gượng bỏ về. Chiều hôm sau Hạ Mẫn Chi liền ôm đàn đến hiệu cầm đồ Tiến Bảo, cầm ngân phiếu đi ra, khẽ cắn răng, vào trà trang tốt nhất, mua về hai lượng cực phẩm Quân Sơn Ngân Châm. Vừa đẩy cửa, liền thấy Hạ bá cùng Niếp Thập Tam đang chuyển đồ từ trên xe ngựa xuống, Hạ Mẫn Chi mừng rỡ: “Hạ bá người đến rồi! Nhanh thật, Thập Tam sáng sớm đã ra ngoài ta còn tưởng hắn lại đi tìm người đánh nhau!” Hạ bá cười nói: “Cao thủ so chiêu không thể gọi là đánh nhau.” Hạ Mẫn Chi gật đầu: “Được rồi, vậy thì nói là ta nghĩ hắn ra ngoài dùng kiếm trò chuyện với thiên hạ.” Trên trán Niếp Thập Tam đã nổi gân xanh. Hạ bá vừa dọn đồ vừa huyên thuyên: “Cái rương ba trăm lượng bạc này, là Huyện lệnh Mặc Lương cho ta làm lộ phí; hộp giấy bút nghiên mực này, là chút quà mọn tri phủ Ngọc Châu tặng ngươi…” Hạ Mẫn Chi cười nói: “Bút mực này cũng không mọn lắm a, toàn bằng vàng ròng, dùng rồi chỉ sợ tê tay.” Hạ bá lấy ra hai khối sắt đen sì: “Đây là lồng gà chúng ta dùng trước kia, ta không nỡ bỏ, nên mang đến đây dùng tiếp.” Hạ Mẫn Chi khen: “Cái này thì được, ta còn lo người sẽ vứt nó đi. Lát nữa ta đi mua gà con, thả nuôi ở hậu viện.” Ba người cười nói thu dọn xong xuôi, Hạ bá ôm mấy gói đồ tùy thân đi về gian phòng phía tây. Hạ Mẫn Chi phát hiện trên bàn đá còn một túi đồ nhỏ, vội nói: “Đây là cái gì? Hạ bá sao không mang về phòng luôn thể.” Niếp Thập Tam thản nhiên nói: “Là của ta, ta định đi xa một chuyến, du ngoạn giang hồ.” Nhất thời trầm mặc, ánh nắng cuối xuân có chút nóng, một làn gió ấm du du thổi qua, vài sợi tóc mai trên trán Niếp Thập Tam nhẹ nhàng lay động, đường nét góc cạnh, nhãn thần như một con báo mới lớn, gần như khốc lãnh, lại ẩn tàng nhiệt huyết. Thật lâu sau, Hạ Mẫn Chi cười hì hì, nhưng thanh âm như se lại: “Thành danh nên ngay từ thời niên thiếu, danh kiếm rời vỏ, cánh chim đã đủ rộng, thành Tĩnh Phong nho nhỏ này, đương nhiên không thể giam hãm được tâm nguyện thử kiếm giang hồ của ngươi, đi đi.” Niếp Thập Tam nói: “Ngươi yên tâm, ta đã đáp ứng ở bên ngươi mười hai năm, mấy năm ta ra ngoài không tính, sau này sẽ bù đắp lại.” Hạ Mẫn Chi lắc đầu, thanh âm thấp đến không thể nghe thấy: “Không cần, ta nào có nhiều thời gian như vậy…” Từ trong ngực lấy ra một xấp ngân phiếu, cười khẽ: “Đây là nhờ cổ cầm của Đàn sư huynh ngươi đổi được, mang theo đi.” Nghĩ nghĩ, lại lấy ra một gói giấy, dúi vào tay Niếp Thập Tam: “Đây là hai lượng Quân Sơn Ngân Châm, nghe nói là thứ ngươi thích uống, mang theo luôn thể, dù sao ta có giữ lại cũng không biết thưởng thức ngon dở.” Nheo mắt nhìn sắc trời: “Vẫn còn sớm, bây giờ ngươi đi vẫn còn kịp ra khỏi thành, ta bận nhiều việc, lại phải mua gà, không thể tiễn ngươi, giang hồ phong ba hiểm ác, ngươi nhớ cẩn thận.” Dứt lời đẩy cửa vội vàng chạy đi. Cư nhiên tiếp tục trốn tránh! Niếp Thập Tam nắm chặt gói trà, trên đó vẫn còn lưu lại hơi ấm của Hạ Mẫn Chi, hương trà lan toả, trong lòng vừa thương tiếc vừa vui mừng, rõ ràng quyến luyến, rõ ràng xem trọng, lại cố tình bày ra một bộ dáng không quan tâm, Hạ Mẫn Chi, ngươi thật sự khiến ta yêu đến nhe nanh múa vuốt. Thu thập xong hành lý, Hạ bá đã đi ra, thần sắc vừa có chút hững hờ vừa có chút thấu hiểu, mở cổng viện, nói: “Nhớ quay về.” Niếp Thập Tam hỏi: “Hạ bá, người cũng để ta đi?” Vẻ mặt Hạ bá khoan dung từng trải: “Ngươi không chỉ võ nghệ cao cường, tâm tư cũng sâu, giang hồ rộng lớn, nhất định sẽ là thiên hạ của ngươi, một lão đầu như ta chẳng lẽ còn có thể ngăn được ngươi sao?” Nhìn hắn bước đi, nhịn không được nói: “Sau này đừng làm tiểu thiếu gia thương tâm.” Niếp Thập Tam dừng bước, thanh âm hơi thấp, lại như phát thệ: “Niếp Thập Tam đời này, quyết không phụ Hạ Mẫn Chi.” Huyên Tĩnh năm thứ chín, mồng ba tháng tư, Niếp Thập Tam dấn thân giang hồ. Hơn một trăm năm sau đó, giang hồ rộng lớn như thế, nhưng không ai có thể qua được tên tuổi Niếp Thập Tam, không ai không bị hào quang của Niếp Thập Tam che lấp. Mười lăm tháng tư, Đàn Khinh Trần đến Lâm Châu. Lâm Tương vương anh minh cơ trí, khiến hai châu ở Trung Nguyên này chịu ơn sâu dày, một lòng hướng về bá tính, khiến dân chúng hai vùng từ đó chỉ biết Lâm Tương vương, không biết Hoàng thượng. Hạ Mẫn Chi chuyên chú làm tròn chức trách, chúng thần ở Đại Lý Tự nguyên bản nghe nói Thám hoa ngay tại Quỳnh lâm yến xin thánh ân ban nhà nên có phần khinh thường hắn, nhưng mỗi ngày làm việc chung, mới phát hiện vị Ti trực này ngoại trừ hơi keo kiệt, lời nói cử chỉ, nhân phẩm thái độ đều khiến người tâm phục. Thất phẩm Ti trực Hạ Mẫn Chi, ở Đại Lý Tự như cá gặp nước. Chớp mắt đã là tiết Đoan Ngọ mồng năm tháng năm, Văn Đế theo tục lệ trong cung thiết yến thưởng quần thần, Hạ Mẫn Chi phẩm cấp thấp, tự nhiên không được xếp vào hàng ngũ dự cung yến. Hạ bá từ khi đến Tĩnh Phong, đã nuôi một cặp chim, cứ mỗi sáng sớm liền mang chim ra ngoài dạo. Hạ Mẫn Chi nhàn rỗi đâm chán, vừa rời giường đã ngồi trong viện gói bánh chưng. Những thứ nguyên liệu như gạo nếp đã ngâm sẵn, Hạ Mẫn Chi động tác khéo léo nhẹ nhàng, ngón tay thoăn thoắt gấp phiến lá xanh biếc, không bao lâu đã gói đầy một giỏ trúc. Khi còn ở Mặc Lương trấn, bởi vì Hạ bá tuổi già không thích ăn, cứ mỗi Đoan Ngọ, Hạ Mẫn Chi chỉ gói chút bánh nếp không cho có lệ, năm trước Niếp Thập Tam nói bánh chưng nhân đậu và nhân thịt ở Ngọc Châu vang danh thiên hạ, tuy nghiêm mặt không nói mình muốn ăn, nhưng trong ngữ khí lại đậm mùi tiếc nuối. Hạ Mẫn Chi không ngờ hắn cũng có bộ dáng con mèo tham ăn đến mức này, nghiến răng nghiến lợi đi mua thịt, dùng muối bọt, gừng lát, ngải cứu làm gia vị, thuần thục gói thành ba cái bánh chưng đem hấp, cho vào trong bát sứ trắng, lấy đũa xẻ một phen, mỗi cái chia làm bốn góc, đâu đâu cũng thấy thịt, vừa thơm vừa mềm, nóng hổi tươi ngon, béo mà không ngậy, Niếp Thập Tam ăn đến cơ hồ muốn nuốt luôn cả lưỡi, hai mắt sáng rực, mừng rỡ hoan hô, còn không quên làm ra vẻ đại thiếu gia họ Giang đạm đạm khen một câu: “Không tồi, quả thật không tồi!” Liền bị Hạ Mẫn Chi cười lạnh một cước đá lật ghế: “Đồ háu ăn.” Nhớ lại không khỏi cười thành tiếng, bánh chưng gói được một nửa trong tay bất chợt nghiêng đi, nếp trắng rơi tung tóe, Hạ Mẫn Chi nhẹ giọng gọi: “Thập Tam… Thập Tam…” Ngữ khí ôn nhu chua xót, lại mang theo một tia quyết tuyệt. Đang thẫn thờ, đột nhiên nghe có người gõ cửa, cửa mở, Từ Diên một thân thường phục, trên gương mặt mập mạp trắng tròn tràn ngập ý cười: “Hạ đại nhân, Hoàng Thượng mời ngài vào cung trò chuyện.” Hạ Mẫn Chi cười nói: “Hoàng Thượng lúc này không phải đang tiếp yến trọng thần sao? Như thế nào còn rảnh mà gặp ta?” Từ Diên thấp giọng nói: “Cung yến thôi, Hoàng Thượng xuất hiện một chút là xong, Hạ đại nhân là người Hoàng Thượng luôn đặt lên hàng đầu, hôm nay lại là tiết Đoan Ngọ, Hoàng Thượng sao có thể không rảnh gặp ngài? Chúng ta mau đi thôi, đừng để Hoàng Thượng chờ sốt ruột ở Đan Hạc uyển.” Nghe đến ba chữ Đan Hạc uyển, Hạ Mẫn Chi khẽ biến sắc, xốc lên vài cái bánh chưng, nói: “Đi thôi.” Đan Hạc uyển trồng đầy hoa lựu, diễm lệ rực rỡ. Có hoa đã kết quả, ẩn hiện nơi đầu cành, rêu xanh từng mảng, cánh hoa nơi nơi, cảnh sắc tuyệt mỹ nhưng lại theo vài phần chơi vơi quyến luyến khi xuân đi. Một con đan hạc mang theo hai con hạc con đứng dưới dưới tàng cây rỉa bộ lông trắng tuyết, trông đến nhàn nhã. Thấy Hạ Mẫn Chi lại gần, Văn Đế mỉm cười: “Mẫn Chi qua đây, khoảng thời gian ở Đại Lý Tự thế nào?” Hạ Mẫn Chi cười nói: “Vi thần rất ổn, mọi người Đại Lý tự đều tận tâm, đối với thần cũng rất chiếu cố.” Văn Đế say mê ngắm hoa, thấp giọng nói: “Ngũ muội rất thích hoa lựu. Năm đó gả nàng đi xa, chính là hối tiếc lớn nhất cuộc đời trẫm, hiện tại Đại trữ quốc thái dân an, chu hầu thần phục, Ngũ muội lại không đợi được đến ngày này.” Thở dài: “Chỉ vì thời đến muộn, hoa nở không kịp xuân.” Hạ Mẫn Chi im lặng lắng nghe, đợi y nói xong, dâng bánh chưng lên, nói: “Vi thần không thích hoa lựu, hôm nay Đoan Ngọ, vi thần theo cách gói bánh nơi quê nhà Ngọc Châu, gói dâng Hoàng Thượng vài cái.” Văn Đế vui vẻ nói: “Từ Diên, nhận lấy đem đi hấp, chính ngọ trẫm và Mẫn Chi cùng ăn.” Từ Diên tán thưởng: “Thì ra phương pháp gói bánh ở Giang Nam khác với Tĩnh Phong, Hạ đại nhân quả nhiên có lòng, không uổng Hoàng Thượng thương yêu.” Vội ôm bánh chưng lui ra. Văn Đế nói: “Mẫn Chi, Đan Hạc uyển này tịch mịch đã hai mươi năm, sau này ngươi nếu nhàn rỗi, không ngại đến đây, trò chuyện với ta có được không.” Hạ Mẫn Chi trầm ngâm nửa ngày, đang định mở miệng, một người đã xâm xâm bước tới, chính là Thái tử Phó Thiếu Dương. Thái tử một thân y sam cẩm tú vàng nhạt, mày rậm mắt phượng, vừa thấy Hạ Mẫn Chi, vẻ mặt liền tỏ ra chán ghét không chút che giấu: “Sao ngươi lại ở đây?” Hạ Mẫn Chi đứng dậy, cung cẩn hành lễ, nhưng không đáp lời. Văn Đế nhíu mày, không giận tự uy: “Là trẫm gọi hắn đến. Không được tuyên triệu, tại sao ngươi dám xông vào Đan Hạc uyển?” Thái tử cúi đầu, trong thanh âm có chút ảm đạm: “Mẫu hậu sai ta tới gặp phụ hoàng, hỏi người có muốn cùng dùng ngọ thiện.” Văn Đế nhướn mày nhìn hắn: “Ngươi thân là Thái tử, lại sớm xuất cung về phủ, không đi bồi yến chúng thần, rồi chạy vào cung thay mẫu hậu ngươi truyền chút việc nhỏ nhặt này, chẳng lẽ ngươi không hiểu đạo làm Thái tử?” Một phen giáo huấn, cực kỳ nghiêm khắc, nhưng lại không kiêng kỵ Hạ Mẫn Chi cũng đang có mặt. Lại nói: “Thập tứ hoàng thúc của ngươi ở Lâm Châu rất được lòng dân, hành sự sáng suốt, trên dưới triều đình đều tán thưởng hắn biết đạo trị quốc, ngươi lại suốt ngày hoang phế chính vụ, bỏ bê học hành, hay là muốn noi gương Thập nhất hoàng thúc của ngươi?” Thái tử cắn răng: “Nhi thần thụ giáo.” Văn Đế phất tay: “Lui ra đi.” Thái tử đứng dậy, trên trán đã lấm tấm mồ hôi, hung hăng liếc Hạ Mẫn Chi một cái, mới xoay người bỏ đi. Hạ Mẫn Chi cười khổ, nói: “Hoàng Thượng khổ tâm, chỉ khổ cho vi thần.” Văn Đế chăm chú nhìn hắn, khác hẳn với khí thế ban nãy thanh sắc bất động mà lôi đình vạn quân, nhãn thần vô cùng nhu hòa, hỏi: “Ngươi nói thử xem, ta có gì khổ tâm?” Hạ Mẫn Chi thẳng thắn trả lời: “Hoàng Thượng đặt kỳ vọng cao vào Thái tử, Thái tử lại phân tâm tạp niệm, chỉ sợ ôn nhu khuyên bảo cũng vô dụng, cố ý trước mặt vi thần, nghiêm khắc răn dạy, sau này Thái tử ắt sẽ quyết chí tự cường.” Văn Đế cười nói: “Mẫn Chi không cần ngại, cứ tiếp tục.” Hạ Mẫn Chi khẽ cười: “Vi thần đã nói xong.” Văn Đế thoáng nheo mắt, nếp nhăn nơi khóe mắt mang theo năm tháng tang thương, càng mang theo trí tuệ thâm trầm không nói nên lời: “Mẫn Chi nói chuyện, hay có thói quen nói một nửa giữ lại một nửa, không sao, ta giúp ngươi nói ra cũng được.” “Ngươi làm quan đã được một thời gian, có lẽ từng lời nói từng hành động của Thái tử đều đã thu vào mắt, ngươi thông minh như vậy, sao có thể không nhìn ra Thái tử nóng nảy khinh suất, lại thêm hiếu thắng?” “Hắn càng nóng nảy, sẽ càng tiếp xúc với nhiều trọng thần, được bọn họ phò trợ, hiếu thắng âu cũng là chuyện tốt, mượn Đàn Khinh Trần để so sánh, có thể khích hắn dụng tâm với triều chính hơn.” Hạ Mẫn Chi lập tức nói: “Hoàng Thượng anh minh.” Văn Đế nhặt lên một đóa hoa rơi trên bàn, cười nói: “Còn biết nịnh hót a, nhắc tới Đàn Khinh Trần, ta trái lại muốn nhắc nhở ngươi, càng bớt tiếp xúc hắn càng tốt.” Tinh tế ngắm nghía đóa hoa trong tay: “Xinh đẹp ngát hương, đáng tiếc, đã nhiễm bụi trần…” Thuận tay ném đi, đóa hoa rơi xuống bùn. Hạ Mẫn Chi gật đầu đáp: “Vi thần nhớ kỹ.” Văn Đế cười hỏi: “Nhớ kỹ thật sao?” Hạ Mẫn Chi nhìn về phía đóa hoa kia: “Thần không dám chọc giận thiên tử.” Văn Đế khẽ thở dài: “Ta tức giận, là vì Thái tử tự tiện xông vào Đan Hạc uyển.” Nhìn đan hạc cất cánh bay đi, có chút xuất thần: “Hai mươi năm qua, chỉ mình ta mới có thể ra vào Đan Hạc uyển, những người khác, đều không được quấy nhiễu, kể cả hoàng hậu.” Trong mắt Hạ Mẫn Chi toát lên vẻ cảm động cùng kinh nghi, toan mở miệng, nhưng cuối cùng vẫn không nói gì.
|
Chương 11[EXTRACT]Một bát mỳ trứng trộn rau xanh nóng hổi đưa đến trước mặt Niếp Thập Tam, Niếp Thập Tam một phen bắt lấy tay Hạ Mẫn Chi, cặp mắt đen nhánh ánh lên một tia nguy hiểm: “Có nhớ ta không?” Hạ Mẫn Chi tim đánh thịch một hồi, lại chán ghét rút tay khỏi bàn tay ấm áp của hắn: “Nhân lúc còn nóng mau ăn đi, lải nhải nhiều thế làm gì?” ————– Hôm nay Hạ Mẫn Chi cùng Tả thiếu khanh (Tả thiếu khanh là chức quan, không phải tên người ^^) ở Đại Lý Tự xử xong một án giết người trả thù, dọc đường về nhà đầu cứ choáng váng, tựa hồ còn có thể nhìn thấy từng mảng đỏ thẫm trên nền đá đen bóng trong hình điện. Nếu không phải vạn bất đắc dĩ, Hạ Mẫn Chi cực hiếm khi đề nghị dụng hình với phạm nhân. Tên phạm nhân hôm nay ngoan cố hung hãn, một trăm trượng giáng xuống, huyết nhục tứ tung, ngay cả xương cốt cũng lộ ra, khiến Hạ Mẫn Chi nhìn đến chỉ muốn nôn mửa một trận. Về tới nhà, uống ngay một chén nước mới cảm thấy khá hơn, Hạ bá mỉm cười lấy ra một phong thư, nói: “Là Thập Tam từ Sở Châu gửi về.” Hạ Mẫn Chi mừng rỡ, tiếp nhận mở ra xem, chỉ vài dòng ít ỏi mà ngay ngắn: Gần đây đến Sở Châu, bên hồ Giải Kiếm ở Võ Đang phá Lưỡng Nghi kiếm trận, bại dưới Thái Cực kiếm của Thanh Vân chưởng môn. Kiếm pháp Võ Đang, miên lý tàng châm (trong lụa giấu kim – nhìn bề ngoài mềm mại nhưng ẩn chứa mũi nhọn sắc bén bên trong), tinh thâm ảo diệu, phen này giao thủ, đối với Giang Hà kiếm rất có lợi. Nét bút tự do như trường thương đại kích, cát vàng ngàn dặm, lâm ly từng dòng trên giấy, Hạ Mẫn Chi dùng hai ngón tay gấp thư, biểu tình khinh thường: “Viết chữ xấu như vậy, cư nhiên không biết xấu hổ phô bày trước mặt người khác.” Nhưng vừa xoay người lại trân trọng cất vào trong chiếc hộp bằng gỗ tử đàn. Tự hiểu được, Niếp Thập Tam đang chia sẻ cùng mình những trải nghiệm mà hắn trân quý nhất tâm đắc nhất, không khỏi mừng thầm trong dạ. Qua vài ngày sau, thư của Niếp Thập Tam lại tới: Vừa đến Ký Châu, Thương Lãng kiếm phái, hữu danh vô thực. Cứ thế nhận thư, hạ đi thu đến, đã được gần mười phong thư, đều chỉnh chỉnh tề tề an vị trong hộp gỗ. Nửa đêm mồng năm tháng chín. Hạ Mẫn Chi đang ngủ, cửa sổ đột nhiên mở ra, một bóng người nhảy vào, nhanh nhẹn như linh miêu, chậm rãi đi đến bên giường. Hạ Mẫn Chi mở mắt ra, cười nói: “Thập Tam!” Đã thấy Niếp Thập Tam một thân hắc y ngồi trước giường, mỉm cười chăm chú nhìn mình. Cả người Niếp Thập Tam toát ra một loại vị đạo thanh sảng của núi rừng cây lá, lại hòa quyện cùng khí tức mãnh liệt của nam tử, lặng lẽ tản mác dưới ánh trăng. Mà ánh trăng rọi trên người hắn, không còn vẻ u nhã ôn nhuận, trái lại càng nhiệt liệt sáng ngời như nắng xuân, tràn đầy sức sống. Hạ Mẫn Chi chớp chớp mắt, đôi nhãn châu như lưu ly lóng lánh thủy quang: “Ngươi về rồi sao?” Niếp Thập Tam khàn giọng nói: “Hôm nay là sinh thần của ta, ta về ăn mỳ trường thọ.” Hạ Mẫn Chi đứng dậy cười nói: “Theo ta đến trù phòng…” Một bát mỳ trứng trộn rau xanh nóng hổi đưa đến trước mặt Niếp Thập Tam, Niếp Thập Tam một phen bắt lấy tay Hạ Mẫn Chi, cặp mắt đen nhánh ánh lên một tia nguy hiểm: “Có nhớ ta không?” Hạ Mẫn Chi tim đánh thịch một hồi, lại chán ghét rút tay khỏi bàn tay ấm áp của hắn: “Nhân lúc còn nóng mau ăn đi, lải nhải nhiều thế làm gì?” Niếp Thập Tam thấp giọng phì cười, cũng không hỏi nữa, vùi đầu mà ăn. Hạ Mẫn Chi ngắm nhìn hắn, mấy tháng không gặp, Niếp Thập Tam có hơi ngâm đen hơn, nhưng trông càng mạnh mẽ, làn da màu mật ong dưới ánh nến như dải gấm mềm mại sáng bóng, vừa căng mịn vừa đàn hồi, ban nãy một đường đi tới trù phòng, phát hiện hắn đã cao hơn mình gần nửa cái đầu, vai rộng chân dài, đường nét trên mặt càng phân minh. Đã gần cuối thu, nhưng chỉ mặc một kiện y sam đơn bạc, khiến đường cong hoàn hảo như ẩn như hiện bên dưới lớp áo. Bên hông đeo một thanh kiếm mà mình chưa từng thấy qua. Hạ Mẫn Chi hiếu kỳ, gỡ xuống nhìn thử, chỉ thấy thân kiếm hẹp dài, trên vỏ kiếm khắc hai chữ “Thuần quân”, rút kiếm ra, kiếm quang như tuyết, mũi kiếm như sương, sáng trong như nước, không khỏi kinh ngạc: “Quả thật là Thuần quân trong Việt ngũ kiếm?” Niếp Thập Tam dùng đũa cuốn mỳ, hỏi: “Ngươi biết Thuần quân kiếm?” Hạ Mẫn Chi gật đầu: “Trong Việt tuyệt thư có nhắc tới thanh kiếm này.” Lại nói: “Nhìn hoa văn, như phù dung nở rộ, ngắm đường vân, như chòm sao xoay chuyển, nhìn quang mang, thuần khiết như nước viên mãn như hồ, ngắm đoạn thân, sắc cạnh như đá, nhìn khí thế, ngời sáng như băng sơn. Chính là nói về nó. Ngươi từ đâu có được?” Niếp Thập Tam cười đến có chút ái muội, đôi con ngươi đen nhánh bị hơi nóng trong bát mỳ phủ lên một màn sương mờ ảo, hiếm khi ôn nhu như nước: “Được người ta tặng.” Tựa hồ có chút ngượng ngùng, thoáng nhìn Hạ Mẫn Chi, giải thích: “Chỉ là bằng hữu thôi, ngươi đừng nghĩ nhiều…” Hạ Mẫn Chi trầm mặc nửa ngày, cảm thấy đêm thu càng lạnh, càng gắt gao thu người trong tấm áo choàng bằng vải thô, mỉm cười: “Làm thiếu hiệp giang hồ quả thật rất tốt, tiên y nộ mã (sống xa hoa đầy đủ), danh kiếm phong lưu.” Nhìn sâu vào mắt Niếp Thập Tam, kiên quyết nói: “Ngươi cứ từ từ mà ăn, ta về phòng nghỉ ngơi trước, gần đây những vụ án lớn cần phúc thẩm rất nhiều, không thể bồi ngươi.” Dứt lời đứng dậy, ra đến cửa lại dặn dò: “Ăn xong nhớ rửa bát!” Niếp Thập Tam tỏ vẻ như vô sự, cúi đầu tiếp tục ăn mỳ, khóe miệng cong lên, nhãn thần tràn đầy thâm trầm cùng tự tin “nhất định có được”. Sáng sớm hôm sau, Hạ Mẫn Chi thẳng tiến trù phòng, đã thấy Hạ bá đang làm điểm tâm. Trên bàn là bát mỳ tối qua của Niếp Thập Tam, đã được rửa sạch sẽ, còn dằn lên một tờ giấy, Hạ Mẫn Chi cầm lên nhìn thử, chính là bút tích nổi tiếng phóng khoáng của Niếp Thập Tam: Thuần quân kiếm là do Thanh Vân đạo trưởng của Võ Đang tặng, yên tâm. Lập tức cả giận nói: “Yên tâm cái gì? Chạy đến núi Võ Đang đánh nhau với người ta, đánh xong còn cướp kiếm của người ta, đúng là tên cường đạo bại hoại! Sớm muộn gì cũng bị bắt đến Đại Lý Tự, tới chừng đó cho hắn một trận trượng hình, ta mới yên tâm!” Nhưng khóe miệng lại nhịn không được cong lên, một nụ cười thuần túy như ánh nắng mai nở rộ trên khuôn mặt. Hạ bá bưng qua hai chén cháo, cười nói: “Thập Tam đêm qua trở về, buộc lão đầu như ta so chiêu với hắn đến nửa đêm, trời chưa sáng đã xuất hành, đúng là con sói non không bao giờ chịu ở yên một chỗ.” Hạ Mẫn Chi nói: “Sau này cứ mặc kệ hắn là được, nửa đêm nửa hôm, so chiêu cái gì?” Hạ bá thở dài: “Ta đã không còn là đối thủ của hắn, e rằng sau này có van cầu, hắn cũng chưa chắc chịu đấu với ta.” Từ trong ngực lấy ra nhất xấp ngân phiếu: “Đây là tiền trước kia ngươi cầm đàn đưa cho hắn, hắn nói dùng không hết.” Hạ Mẫn Chi đón lấy ngân phiếu, vội nói: “Sao lại dùng không hết, ai… lẽ nào hắn muốn giết người cướp của?” Hạ bá bật cười: “Đừng nóng lòng, tiểu tử Thập Tam này rất cao ngạo, sẽ không làm những chuyện thấp hèn như thế, Giang gia năm xưa nổi tiếng phú quý khắp Trung Nguyên, tuy bị cả nhà bị xử trảm, nhưng làm phụ mẫu lẽ nào không để lại cho nhi tử mình một con đường lui.” Vỗ vai Hạ Mẫn Chi: “Cha mẹ hắn đều nặc danh gửi vào các tiền trang ở Trung Nguyên một số bạc, hắn chỉ cần nhờ vào mặt dây đeo cẩn ngọc trên cổ và dấu tay, liền có thể rút ra.” Hạ Mẫn Chi ngẩn người, nghiến răng nói: “Tên bại hoại này! Có tiền cư nhiên cũng không nói cho ta biết… tốt nhất đừng quay về nữa!” Hạ bá uống xong chén cháo, thản nhiên nói: “Ta rất hy vọng hắn quay về.” Nhìn Hạ Mẫn Chi, nhãn thần khắc sâu vẻ không đành lòng: “Trước khi tiểu thiếu gia gặp hắn, cõi lòng không khác gì tàn tro, Thập Tam là người tốt, có hắn ở bên ngươi, nếu một ngày nào đó ta bị chân khí phản phệ mà chết thì cũng yên lòng.” Tay Hạ Mẫn Chi siết chặt đôi đũa, thanh âm bình tĩnh: “Hạ bá, người phải sống lâu trăm tuổi.” Vừa qua Tết, trong quân trại trấn thủ ở Nam Cương liền xảy ra một vụ án lớn. Năm trước thành Trinh Tuyền ở Nam Cương có tiểu đội binh mã của man tộc phản bội Trữ quốc, Hiệu úy kỵ binh Phùng Tê Ngô giết hai mươi bá tính trong thôn trang ngoại thành Trinh Tuyền, ngụy biện rằng những kẻ mình giết chính là bọn Nam hoang phản loạn để lập công. Bản thân vụ án không phức tạp, nhưng gia thế của Phùng Tê Ngô lại cực kỳ phức tạp. Phùng Tê Ngô là cháu ngoại của Binh bộ tả thị lang Ngụy Lan Đình, mà chất nữ (cháu gái họ) của Ngụy Lan Đình chính là Thục Hoa phu nhân đang được sủng ái trong cung. Gia thế Phùng Tê Ngô không chỉ hiển hách, mà còn đang gặp thời thế, mọi sự đều đã chuẩn bị đầy đủ, chỉ thiếu bước lập công, một khi lập được đại công, liền có thể từ Nam Cương trở về Tĩnh Phong, gia nhập thẳng vào Binh bộ, nhậm chức Chủ sự dễ như trở bàn tay. Mắt thấy Binh bộ đã hạ chiếu thăng quan, không ngờ thôn dân còn sống sót sau đại họa ngàn dặm xa xôi đến cáo trạng lên Đại Lý tự, ngay cả Văn Đế cũng bị kinh động, hạ chỉ Đại Lý Tự phải nghiêm ngặt điều tra án này. Vì thế Phùng Tê Ngô tuy trở về Tĩnh Phong, nhưng chưa đến Binh bộ đã bị mời tới đại lao của Đại Lý Tự. Chánh khanh (tương đương thẩm phán) Đại Lý Tự Hàn Thoái Tư mấy hôm nay lật đi lật lại quyển tông về Nam Cương đại án, không thiết ăn uống, tiến thoái lưỡng nan. Chốn quan trường đều có “môn đạo” (những mối liên hệ móc nối câu kết), thế cục rõ ràng cũng được, rối rắm cũng được, đành rằng quá thấu hiểu nhau, nhưng không thể triệt để vạch trần, nhất định phải chừa lại một tầng trướng lụa. Tầng trướng lụa này cũng giống như chiêng trống trên hí đài (sân khấu kịch), thoạt nhìn vô dụng, nhưng lại không thể thiếu. Vở tuồng vừa bắt đầu, tiếng chiêng trống lập tức vang lên, nhỏ to nhanh chậm, trầm bổng khúc chiết, ý vị thâm trường, nghe tiếng chiêng trống, người biết thưởng thức liền hiểu vở tuồng này nên xướng thế nào, nhảy theo nhịp trống, hoặc lướt qua hí đài, hoặc tu sức lên diễn, chỉ có thể ngầm hiểu, không thể nói thành lời. Hàn Thoái Tư lăn lộn trong quan trường gần ba mươi năm, đương nhiên tinh thông môn đạo, liếc mắt một cái liền nhìn ra, vụ án này không dễ thẩm quyết. Thục Hoa phu nhân vừa sinh hạ một vị hoàng tử, Ngụy Lan Đình tuy là tả thị lang, nhưng vì Binh Bộ Thượng Thư đang định cáo lão hồi hương, nên coi như đã nắm quyền thượng thư. Điểm mấu chốt vẫn là Văn Đế, lòng dạ thiên tử vốn khó dò, lần này cũng thế. Hạ chỉ “nghiêm ngặt điều tra”, chứ không phải “nghiêm khắc xử trí”, chỉ sai khác vài con chữ, nhưng ý tứ bên trong phải tuyệt đối cân nhắc. Lật lại quyển tông, thôn dân có nhân chứng, Phùng Tê Ngô cũng có thuộc hạ làm nhân chứng. Vật chứng chỉ còn hai cỗ thi thể không rõ nhân dạng, nếu không phải Phùng Tê Ngô sơ suất, e rằng một cỗ cũng không còn, ngỗ tác (coi như bác sĩ pháp y hồi đó ^^) khám nghiệm tử thi chỉ kết luận một câu “Chết do đao thương, vết thương chuẩn xác, vào năm phân, ra năm phân, lực đạo vừa phải.” Cố chịu đựng cơn đau đầu thẩm vấn hai lần, Phùng Tê Ngô tất nhiên không nhận tội, chỉ nói kẻ hắn giết chính là phiến quân man tộc, Hàn Thoái Tư cũng không dám dụng hình. Mắt thấy đã đến lúc thích hợp để cáo lão hồi hương, Hàn Thoái Tư tam đại đồng đường (một nhà ba thế hệ), chắc chắn không muốn sinh chuyện thị phi, thừa biết vụ án này mình không nguyện đụng tới, cũng không thể đụng tới. Đang cân nhắc, chợt thấy sau điện có một người chậm rãi đi qua, một thân quan phục thất phẩm, thân hình cao ráo, lại có chút mảnh mai, khí chất thanh nhã lại được trời phú một đôi mắt đào hoa, chính là Ti trực Hạ Mẫn Chi. Vị thám hoa này, từng trước mặt mọi người xin thánh ân ban nhà ngay tại Quỳnh lâm yến nhưng Hoàng Thượng trái lại không hề nổi giận, còn có tin đồn người này thường xuyên được triệu vào cung bồi Văn Đế đánh cờ trò chuyện, Hàn Thoái Tư lập tức mỉm cười. Ngày hôm sau, Hàn Thoái Tư đột nhiên bệnh nặng, lại nhờ Tả thiếu khanh trình lên tấu chương, viết rằng Đại Lý Tự Ti trực Hạ Mẫn Chi thông tuệ cần mẫn, minh pháp công chính, xin để hắn thay mình thẩm tra Nam Cương đại án này. Còn vượt trội hơn cả đám người tả hữu thiếu khanh, tả hữu tự thừa. Tối đó Văn Đế nhìn tấu sớ, mỉm cười: “Lão hồ ly Hàn Thoái Tư này…” Lệnh cho Từ Diên lập tức mời Hạ Mẫn Chi vào cung. Hạ Mẫn Chi ban đêm yết kiến, Văn Đế chỉ vào tấu chương nói: “Hàn Thoái Tư vừa dâng sớ cho trẫm, ngươi đoán xem hắn nói gì trong đó?” Hạ Mẫn Chi hôm nay vừa nhận được thư Niếp Thập Tam gửi từ Lương Châu, trong thư kể về cảnh tượng hùng vĩ ánh trăng vạn dặm đồng tuyết bao la nơi biên quan, trong lòng đang thập phần cao hứng, liền cười nói: “Nếu thần đoán đúng, Hoàng Thượng sẽ thưởng gì?” Nhìn nụ cười vẫn còn mang hơi hướng ấu tử của Hạ Mẫn Chi, Văn Đế chỉ thấy thật yêu thích, hòa nhã ưng thuận: “Ngươi muốn gì cứ việc nói.” Hạ Mẫn Chi cúi đầu trầm ngâm, dưới ánh đèn lưu ly đường nét ngũ quan phi thường thanh tú nhu mỹ, quả thật hệt như được cẩn ngọc, thần sắc Văn đế không khỏi có chút lơ đãng. Nửa ngày, Hạ Mẫn Chi cười nói: “Hiện tại vẫn chưa muốn gì, sau này hẵng tính.” Đôi mắt trong suốt mang theo vài phần giảo hoạt: “Hoàng Thượng đã bảo ta đoán, có lẽ trong sớ nhất định nhắc tới ta.” “Hàn đại nhân mấy ngày qua chỉ phiền não về một chuyện, chính là Nam Cương đại án.” “Nam Cương đại án không dễ tra cũng không dễ xử, Hàn đại nhân hôm nay cáo bệnh nghỉ ở nhà…” “Lẽ này nào đã ném củ khoai lang nóng bỏng tay này qua cho ta?” Văn Đế vỗ tay mỉm cười: “Hay lắm, ngươi đoán đúng rồi! Ta truyền ngươi đến đây, là muốn nghe ý kiến của ngươi, nếu ngươi không muốn tiếp nhận, ta sẽ khiến bệnh của Hàn Thoái Tư ngày mai liền khỏi hẳn.” Hạ Mẫn Chi ngẫm nghĩ một hồi, mâu quang có chút băng lãnh, lại cuồn cuộn nhiệt huyết sắc sảo, cười nói: “Nếu Hàn đại nhân đã đề bạt, ta liền nhận vụ án này vậy.” Văn Đế chăm chú nhìn hắn, gật đầu nói: “Cũng được, ngươi cứ thoải mái mà hảo hảo thẩm tra, vụ án này nếu phán không tốt chỉ sợ sẽ rối loạn lòng dân, nhất là bốn tộc vùng biên quan chịu sự cai quản của Đại Trữ.” Đang nói, Từ Diên đã bưng bánh khoai từ cùng chè táo đỏ ngân nhĩ tiến vào, cười nói: “Đêm đã khuya, Hoàng Thượng và Hạ đại nhân dùng chút điểm tâm khuya đi.” Văn Đế nhìn canh giờ: “Giờ tý rồi sao, thảo nào trẫm lại cảm thấy hơi mệt, Mẫn Chi tối nay cứ ngủ lại trong cung đi.” Phân phó Từ Diên: “Dẫn hắn đến Đan Hạc uyển.” Hạ Mẫn Chi ngẩn người, nhưng không nói gì, chỉ theo Từ Diên một đường đi tới Đan Hạc uyển. Vừa qua Tết, tiết trời vẫn còn lạnh, Đan Hạc uyển càng buốt giá, Hạ Mẫn Chi bước vào phòng, Từ Diên đã sớm phân phó cung nữ thắp đèn thắp nến, sắp xếp lại đệm chăn, một bên nói không ngớt miệng: “Hai mươi năm nay, từng thứ từng vật ở nơi này đều được giữ nguyên trạng, Hoàng Thượng cứ cách ngày lại đến xem, cho nên một hạt bụi cũng không có.” Rót cho Hạ Mẫn Chi một chén trà nóng: “Hạ đại nhân, mấy năm qua Hoàng thượng luôn khổ sở trong lòng, ngay cả một người có thể ở bên cạnh trò chuyện cũng không có, nếu ngài rảnh rỗi xin hãy vào cung bồi người nhiều hơn.” Hạ Mẫn Chi mỉm cười gật đầu, đi đến trước trang đài (bàn trang điểm), chỉ thấy gương đồng được lau đến sáng loáng, soi đến từng phân từng điểm trên người đều hiện rõ, cầm lên một cái rổ nhỏ, một ít trang sức trâm cài được sắp đặt chỉnh tề trong đó, tiện tay lấy một hộp tròn bằng bạch ngọc, mở ra chỉ thấy chút phấn tàn, vẫn là màu hồng tường vi, nhưng lại ảm đạm bám nơi đáy hộp, tựa như một mảnh huơng hồn chưa được trở về cố hương. Nhấc lên một nhánh châu hoa (một loại trang sức cài lên tóc), bạch kim làm cán, mã não như huyết châu khảm thành một đóa hoa lựu, dưới ánh đèn đẹp đến quỷ dị, tựa hồ sẽ mãi mãi đỏ rực như thế, diễm lệ như thế, sáng bóng như thế, nhưng chủ nhân của châu hoa, đã sớm hóa thành tro bụi, theo gió phiêu tán đi. Từ Diên nhìn châu hoa, chậm rãi nói: “Đây là năm xưa Hoàng Thượng từ Giang Nam mang về cung tặng cho An Hòa công chúa, khi đó Hoàng Thượng vẫn còn là Hoàng thái tử, công chúa cũng vừa đến tuổi cập kê, tình huynh muội phi thường thắm thiết, đóa châu hoa này là thứ công chúa yêu nhất, lão nô hiện tại vẫn nhớ rõ tháng Năm năm đó, ngự hoa viên trăm hoa đua nở, trên búi tóc công chúa chỉ cài đóa hoa lựu này, một thân y sam tuyết bạch, diễm sắc kia rực rỡ đến chói mắt, chói đến lão nô cũng mở mắt không ra… Hoa trong ngự uyển đều bị lu mờ…” Thanh âm có chút lanh lảnh của Từ Diên như xé tan bầu không khí giá rét, ký ức về hai mươi năm trước rõ ràng như ập đến trước mắt, vươn tay liền có thể chạm vào. Hạ Mẫn Chi lẳng lặng lắng nghe, ngón tay vuốt ve từng chiếc bàn chiếc ghế trong phòng, tâm can như được vỗ về trong làn nước ấm, cả người như chìm vào cõi mộng ôn nhu nhất, thần hồn phiêu đãng, không muốn tỉnh lại. Trong cơn mơ màng, thấy thân mình đã nằm trong lớp chăn ấm áp, có người giúp kéo chăn lại ngay ngắn, thắp chút An tức hương, nhẹ nhàng thổi tắt nến. Trong mộng hoa lựu còn đỏ rực hơn cả lửa, dung nhan mẫu thân lúc trẻ vô cùng trong sáng tràn ngập hạnh phúc, bao nhiêu ưu thương cùng hoảng sợ tựa như phiến băng mỏng dưới ánh mặt trời, triệt để tan biến. Một bàn tay to lớn vuốt ve khuôn mặt mình, lưu luyến thật lâu trên nốt ruồi nơi khóe mắt, rốt cục thở dài một hơi, tiếng thở dài này tựa hồ xuất phát từ cõi sâu thẳm nào đó trong linh hồn, khiến người nghe đến muốn rơi lệ. Sáng sớm tỉnh dậy, căn phòng tràn ngập nắng mai, Hạ Mẫn Chi cũng không đi gặp Văn Đế, tự rời cung về nhà. Hôm ấy còn có chỉ dụ, thất phẩm Ti trực Hạ Mẫn Chi chủ thẩm Nam Cương đại án, tạm nắm quyền Chánh khanh Đại Lý Tự. Nhất thời cả triều đều chấn kinh. Đàn Khinh Trần lúc đó đang cùng tri phủ ba châu ở Giang Nam là Ngọc Châu, Thành Châu, Duy Châu thưởng mai ngâm thơ, biết được chuyện này, lập tức có điểm thất thần, bị một nàng ca kỹ bên cạnh đụng đổ cả chén rượu, thiến sa la quần (áo đỏ quần lụa) của nàng ta lập tức ướt một mảng. Tri phủ Ngọc Châu cực kỳ phong nhã, cười nói: “Quả thật là huyết sắc la quần phiên tửu ô! Như Mộng, còn không tạ ơn vương gia đã ban rượu?” Mọi người đều cười ầm lên, Đàn Khinh Trần càng cười như gió xuân phơi phới: “Bổn vương mạo phạm giai nhân, tự phạt ba chén vậy.”
|
Chương 12[EXTRACT]Phó Lâm Ý cả giận: “Nghỉ cái rắm! Chẳng lẽ ngươi cho rằng bổn vương đến đùa sao? Bổn vương là tới cáo trạng!” Tự giám vẻ mặt đau khổ, nhất thời không biết nói sao, Hạ Mẫn Chi lại mỉm cười: “Không biết Thập nhất vương gia muốn cáo trạng ai, vì chuyện gì?” ——— Trở về phủ, Đàn Khinh Trần chắp tay sau lưng, vừa tản bộ vừa suy tư trong viện, thân tín bên người Đàn Bình nói: “Nước cờ này của Hoàng Thượng có chút bất ngờ, trọng thần trong các bộ ở Tĩnh Phong vương gia đều quen biết, vạn nhất sau này có biến, Vương gia cũng có thể an bài khống chế phần nào, nhưng lai lịch của Hạ Mẫn Chi e rằng chỉ có Hoàng Thượng mới biết, phen này hành động, chẳng lẽ là muốn tương lai để Hạ Mẫn Chi chấp chưởng Đại Lý tự? Trái lại có chút bất lợi với vương gia.” Đàn Khinh Trần dừng bước, mỉm cười: “Thế cục vạn biến, nhưng cũng chỉ quẩn quanh vài chuyện, phàm là người, ắt có nhược điểm. Dìu dắt nâng đỡ, thấu hiểu nhân tâm, tìm được cơ hội thích hợp, Hạ Mẫn Chi cũng có thể hữu dụng với ta.” Nghĩ đến Hạ Mẫn Chi, không khỏi cười đến có vài phần ôn nhu ấm áp: “Giúp ta soạn thư gửi Hạ đại nhân, trần thuật rõ ràng tất cả những mối quan hệ yếu hại bên trong, hoàng huynh hỉ nộ khó dò, ta không muốn Hạ Mẫn Chi biến mất sau vụ án đó, thế thì quá không thú vị.” Hôm ấy Hạ Mẫn Chi nhận được thư của Đàn Khinh Trần, quét mắt một lượt, lập tức mỉm cười đưa đến bên ngọn nến đốt sạch. Từ khi tiếp quản Nam Cương đại án, Hạ Mẫn Chi cũng không nóng vội, mấy ngày nay chỉ ở trong Ti trực điện tại Đại Lý Tự ôm vài quyển tông mỏng manh tỉ mỉ xem đi xong lại, xem xong liền phân phó ngục tốt nha dịch đi mua món giò heo chưng thủy tinh ở Tích Thúy lâu cho Phùng Tê Ngô ăn. Nụ cười của Hạ đại nhân như gió xuân lướt nhẹ qua mặt: “Phải bồi bổ Phùng đại nhân béo tốt tráng kiện mới được.” Ban đêm còn có thái giám trong cung mặc thường phục đến nhà, mang theo phần thưởng của Thục Hoa phu nhân, một bộ văn phòng tứ bảo giấy bút nghiên mực, một quyển kinh thi, mở ra thấy bên trong toàn vàng lá, Hạ Mẫn Chi cười đến mặt mày nở hoa tạ thưởng. Lại có quản gia trong phủ Ngụy thị lang đích thân gõ cửa, biết bản tính hắn tham tài hám lợi, cũng không câu nệ, trực tiếp dâng lên một xấp ngân phiếu thật dày, Hạ Mẫn Chi trắng trợn đếm tại chỗ, tròn trĩnh một vạn lượng, cười đến trên mặt nổi lên một tầng ửng đỏ, ngoài miệng nói: “Chuyện… chuyện này thật không dám…” Tay lại ôm chặt ngân phiếu. Quản gia Ngụy phủ tất nhiên là hoả nhãn kim tinh, cảm thấy vị Hạ đại nhân này tuy có chút nông cạn, nhưng hiểu chuyện hiếm có, lập tức mỉm cười khách sáo vài câu rồi cáo từ, trong lòng vui vẻ, một thân thư thái. Nam Cương đại án kéo dài suốt một tháng vẫn chưa bắt đầu thẩm tra, giám sát Ngự sử đã viết sớ cho Hạ Mẫn Chi. Hôm nay chính là mười lăm, là ngày bá quan thượng triều, lúc Hạ Mẫn Chi ra về, gặp phải Lễ bộ Thượng thư Phương Dụ Chính, vội cung kính hành lễ. Phương Dụ Chính chừng bốn mươi tuổi, tao nhã phong lưu, hỏi thẳng: “Nam Cương đại án Hạ đại nhân định kéo dài tới khi nào?” Bởi vì quan chủ khảo kỳ thi Hội là Phương Dụ Chính, Hạ Mẫn Chi vội cung kính nói: “Án này liên quan trọng đại, học trò vẫn đang cân nhắc.” Phương Dụ Chính khẽ phất tay áo: “Nếu ngươi đã tự xưng học trò, vậy ta lấy thân phận lão sư giáo huấn ngươi vài câu.” Thản nhiên nói: “Trong bá quan, hình quan đặc biệt khó bị lung lạc, Đại Lý Tự nắm giữ hình danh trong thiên hạ, chính trực công bình, không cầu quyền quý, minh quân như trời, pháp lệnh như núi, nếu không thiên hạ con dân làm sao biết đến đạo lý? Chấp hành quốc pháp? Làm sao xây dựng được một Đại Trữ công bình thanh minh?” “Hôm đó ta có xem qua bài thi của ngươi, vô cùng tán thưởng, tuy thiên về phong thái pháp gia, mất đi trung dung nhân hậu của nho gia, nhưng là một thân cương trực cao ngạo hiếm có, hiện tại xem ra, người không như văn, ta thật thất vọng.” Hạ Mẫn Chi cũng không biện bạch, thanh âm bình tĩnh: “Học trò thụ giáo.” Dừng một chút: “Học trò còn có chuyện quan trọng, xin cáo lui trước.” Phương Dụ Chính thở dài: “Vải trắng bị vấy bẩn, có cố chấp giữ lại cũng không được, đi đi.” Hạ Mẫn Chi mỉm cười, chủ động tiến cung. Yết kiến Văn Đế, nói: “Nam Cương đại án đã không thể tiếp tục kéo dài nữa, vi thần đặc biệt đến cầu Hoàng Thượng ban một đạo ý chỉ.” Văn Đế nhíu mày: “Đã kéo dài đến lòng người lay động, ta cũng sốt ruột thay ngươi, có gì cứ nói thẳng.” Hạ Mẫn Chi nghiêm túc nói: “Trong Đại Lý Tự hiện có ba trăm sáu mươi sáu tên tử tù đang chờ qua thu xử quyết, vi thần khẩn cầu chọn ra mười tên tử tù hành hình trước, để trợ việc thẩm án.” Văn Đế hỏi: “Ý ngươi là, lúc thẩm án sẽ xử quyết mười tên tử tù này trước?” “Chưa hẳn sẽ xử tử hết.” Văn Đế trầm ngâm một lát, gật đầu: “Trẫm ân chuẩn.” Ba ngày sau, Nam Cương đại án rốt cuộc cũng bắt đầu tra thẩm. Trong chính điện Đại Lý Tự đông nghẹt tự tốt tay cầm khí giới cùng thị vệ xếp hàng chỉnh tề, ngoài điện là một trăm cấm quân. Ngồi hai bên điện là các vị quan lại, có cả người của Binh bộ, tả thị lang Ngụy Lan Đình vì kiêng kỵ điều tiếng nên không đến, chỉ có hữu thị lang Triệu Thừa. Lễ bộ có thượng thư Phương Dụ Chính đích thân tới, bên giám sát ti Ngự Sử có hai người, còn có đám người của Tĩnh Phong phủ doãn. Hạ Mẫn Chi ngồi sau chiếc bàn gỗ lim trong chính điện, bên cạnh là tả Thiếu khanh Dương Lục cùng tả hữu Tự thừa. Tự tốt hai bên đồng loạt một tiếng “uy du”, phạm nhân Phùng Tê Ngô bị mang ra đại đường. Chính điện Đại Lý tự cao rộng uy nghiêm, lấy màu đen làm chủ đạo, nền đá đen, ghế gỗ đen, cái bàn trước mặt Hạ Mẫn Chi cũng là thiết mộc màu đen, những tấm biển treo trên điện đương nhiên màu đen chữ vàng, khiến phạm nhân vừa thấy, liền nảy sinh một nỗi sợ hãi. Nhưng trong lòng Phùng Tê Ngô đã có toan tính, không chút e dè, thăng đường quỳ xuống, vẫn thập phần ung dung. Hạ Mẫn Chi nghiêng người tựa vào chiếc ghế gỗ mun to lớn, đang định mở miệng, chợt thấy ngoài cửa điện có vài người xông vào, dẫn đầu là Thập nhất vương gia Phó Lâm Ý, trong tay còn túm một hán tử ăn mặc như thợ săn. Phó Lâm Ý lớn tiếng quát: “Dưới chân Thiên tử, rốt cuộc có còn vương pháp hay không!” Tự giám vội đi xuống cười nói: “Thập nhất vương gia sao lại đến Đại Lý Tự? Đang thẩm án, vương gia không ngại xin mời về phủ nghỉ ngơi trước.” Phó Lâm Ý cả giận: “Nghỉ cái rắm! Chẳng lẽ ngươi cho rằng bổn vương đến đùa sao? Bổn vương là tới cáo trạng!” Tự giám vẻ mặt đau khổ, nhất thời không biết nói sao, Hạ Mẫn Chi lại mỉm cười: “Không biết Thập nhất vương gia muốn cáo trạng ai, vì chuyện gì?” Quét mắt một lượt, thấy sắc mặt Phương Dụ Chính cùng đám người Ngự Sử đều không được tốt lắm. Phó Lâm Ý nói: “Bổn vương cáo trạng tên Trương A Ngưu này, dám trên phố thả chó cắn chết tuyết lang khuyển của ta.” Mọi người đều biết vị vương gia này là một kẻ vô lại, thấy hắn vẻ mặt tràn đầy phẫn nộ, rất có khả năng đã thề sẽ không bỏ qua chuyện đó, trong lòng thầm đổ mồ hôi lạnh cho Hạ Mẫn Chi. Hạ Mẫn Chi sắc mặt không đổi, ý cười càng sâu hơn, nói: “Nếu đã vậy, dẫn Trương A Ngưu kia ra ngoài canh giữ, Vương gia không ngại ngồi trong điện nghỉ ngơi một lát, đợi hạ quan xét xử xong vụ án này, lập tức sẽ nghe oan tình của vương gia, có được không?” Phó Lâm Ý gật đầu ưng thuận, ra lệnh với tự giám: “Mau tìm một cái ghế, trải lên đó một tấm đệm lông, rồi rót một chén trà ngon cho ta, Đại Lý tự của các ngươi lạnh quá.” Hạ Mẫn Chi ra hiệu cho tự giám làm theo, ngay sau khi Phó Lâm Ý ngồi xuống, bầu không khí âm trầm ngưng trọng trong điện dịu đi rất nhiều. Thần tình Phùng Tê Ngô càng thoải mái. Hạ Mẫn Chi im lặng một hồi, hòa nhã hỏi: “Dưới công đường chính là Hiệu úy kỵ binh quân đội Nam Cương Phùng Tê Ngô?” Phùng Tê Ngô chưa từng gặp Hạ Mẫn Chi, nãy giờ vẫn luôn cúi đầu, lúc này nghe được thanh âm hắn chỉ cảm thấy ôn hòa trong sáng, không chút uy nghiêm, nhất thời hiếu kỳ, một bên đáp: “Phải.” Một bên ngẩng đầu nhìn. Chỉ thấy một viên quan thiếu niên lười biếng tựa vào ghế, dung mạo thanh nhã, khóe miệng còn mang theo ba phần ý cười, tuyệt không giống một vị hình quan. Màu đen bốn phía càng tôn lên khuôn mặt như ngọc của hắn, như một đóa sen trắng nở rộ giữa màn đêm thâm trầm, thuần khiết đến kinh tâm động phách. Lập tức trong lòng rung động, không ngờ vị Hạ đại nhân kia nhưng lại toát ra ý thái phong lưu như thế. Hạ Mẫn Chi thấy hắn cứ dán mắt vào mình, cũng không nổi giận, thập phần khách khí: “Phùng tướng quân, có thể nói cho hạ quan biết, đêm mười tám tháng chạp Huyên Tĩnh năm thứ chín, ngài rời doanh trại để làm gì không?” Phùng Tê Ngô đáp: “Ta cùng vài thuộc hạ rời doanh trại đến ngoại thành Trinh Tuyền, chém chết hai mươi tên phiến quân Nam hoang.” Hạ Mẫn Chi gật đầu: “Phùng tướng quân khẳng định như vậy?” Phùng Tê Ngô quả quyết: “Đương nhiên khẳng định, thân là Hiệu úy, nên vì nước giết địch.” Hạ Mẫn Chi mỉm cười, cười đến gian tà, nhưng nói không hết có bao nhiêu động nhân, lại giơ ra một tấm lệnh bài: “Đánh năm mươi trượng trước.” Mọi người cả kinh. Vụ án này kéo dài hơn cả tháng trời, lúc này mới thẩm vấn phạm nhân được hai câu, còn chưa nắm bắt được trọng điểm liền dùng tới trượng hình, rõ ràng có ý bức người nhận tội. Tả thiếu khanh Dương Lục vội níu tay áo Hạ Mẫn Chi, ra ý bảo không thể hành động thiếu suy nghĩ. Hạ Mẫn Chi lại mỉm cười khoát tay trái lên trên tay phải. Tự tốt vừa nhìn liền biết, đây là đánh thật. Phùng Tê Ngô hoảng kinh thất thố, nguyên bản sự việc tưởng chừng là quá hiểu nhau đột nhiên thay đổi, chỉ cảm thấy như bị một cước đạp xuống vực sâu, trong lòng choáng váng sợ hãi muốn chết, không khỏi la to: “Oan uổng a! Oan uổng!” Tự tốt hai bên đã như lang như hổ ấn hắn xuống, hình trượng đen sì đầu sơn đỏ không khoan nhượng đánh lên mông lên đùi hắn. Đại Lý Tự nắm giữ hình danh trong thiên hạ, kỹ thuật và lực đạo dụng hình của tự tốt cũng đứng đầu thiên hạ. Một khi đã đánh thật, một phen công phu này, chỉ mười trượng liền huyết nhục tứ tung, máu me nhớp nháp sẽ lan khắp nền đá đen bóng, tựa như vô số con rắn nhỏ màu đỏ uyển chuyển uốn lượn. Trong tiếng hét thảm của Phùng Tê Ngô, nụ cười nơi khóe miệng Hạ Mẫn Chi vẫn không đổi, đôi mắt lạnh như băng tuyết lại liếc tà Phó Lâm Ý. Phó Lâm Ý chạm trán phải nhãn thần kia của hắn, trong lòng bất an hồi hộp, không dám nhìn lâu, miễn cưỡng cười cười, quay đầu trông về phía ánh nắng ngoài điện. Sau năm mươi trượng, Phùng Tê Ngô đau đến muốn ngất đi, nhưng không biết là do mấy ngày nay ở trong ngục rượu thịt đầy đủ bồi dưỡng đến quá mức tráng kiện, hay là do tự tốt khống chế lực đạo thích đáng, cứ khăng khăng không thể xỉu quách cho rồi. Đang ai ái rên đau, thanh âm ôn nhã của Hạ Mẫn Chi lại vang lên: “Phùng tướng quân, đêm mười tám tháng chạp, ngài đã làm gì, đến giờ đã nhớ ra chưa?” Phùng Tê Ngô trong lòng phát lãnh, nhưng sự tình liên quan đến sinh tử, nén đau nói: “Ta cùng vài thuộc hạ giết hai mươi tên phản quân, thật sự không dám bịa đặt gạt đại nhân!” Nhãn thần Hạ Mẫn Chi lóe lên một tia lãnh khốc: “Truyền nhân chứng.” Một lão bà bà cùng một binh sĩ đi lên. Hạ Mẫn Chi hỏi binh sĩ: “Đêm mười tám tháng chạp, ngươi có nhìn thấy vị Hiệu úy Phùng Tê Ngô này ra khỏi viên môn (cổng doanh trại)?” Nguyên lai người này chính là lính canh viên môn của doanh trại kỵ binh, mọi người trên công đường không khỏi kinh hãi, một tháng qua Hạ Mẫn Chi tuy không thẩm án, nhưng đã lặng lẽ đưa nhân chứng từ quân đội ở Nam Cương về Tĩnh Phong. Binh sĩ nọ nhìn nhìn Phùng Tê Ngô, đáp: “Đêm đó tướng quân quả thật có dẫn theo vài thuộc hạ ra khỏi viên môn.” Hạ Mẫn Chi gật đầu: “Lúc ấy Phùng Tê Ngô có mặc áo giáp không?” Binh sĩ nói: “Không có, lúc Phùng tướng quân một mình rời doanh trại vào buổi tối cũng không bao giờ mặc áo giáp.” Hạ Mẫn Chi cười khẽ: “Phùng tướng quân xuất doanh giết địch, nhưng lại không khoác giáp bào, đúng là kỳ quái.” Phùng Tê Ngô đầm đìa mồ hôi lạnh, chỉ vào binh sĩ kia nói: “Chuyện đã cách vài tháng, sao hắn nhớ rõ được như vậy, đại nhân đừng bị hắn lừa!” Binh sĩ lập tức phản bác: “Ta sao lại không nhớ Phùng tướng quân! Phùng tướng quân ra tay hào phóng, mỗi lần âm thầm xuất doanh đều cho tiểu nhân một quan tiền, tiểu nhân lại thích ghi sổ, cứ lật sổ của tiểu nhân xem sẽ biết! Xin đại nhân minh giám!” Hạ Mẫn Chi mỉm cười: “Khá lắm, sau này đừng đánh mất thói quen tốt đó a. Ngươi lui xuống trước đi.” Chăm chú nhìn Phùng Tê Ngô, thái độ vẫn đang thập phần nhã nhặn: “Phùng tướng quân có muốn nói lại lần nữa đêm đó ngài đã làm gì không?” Phùng Tê Ngô ngụy biện: “Đêm đó ta vốn tình cờ gặp phiến quân. Một mình xuất doanh là thật, không ngờ vừa đến ngoại thành, liền bắt gặp phiến quân Nam hoang.” Hạ Mẫn Chi thở dài: “Chương Lưu thị, thẩm nói đi.” Chương Lưu thị kia than khóc: “Đại nhân, dân phụ một nhà năm người, trừ dân phụ ra, còn lại đều bị tên súc sinh này bắt trói giết hết!” Nức nở nói: “Đám người họ mang theo đao, thấy Tiểu Lan nhà ta xinh đẹp, liền giữ chặt không buông, tướng công ta tới cứu, liền bị chúng đá cho chết đi sống lại, Tiểu Hắc cầm dao bầu đến liều mạng, bị chúng chém chết! Hai nhà gần đó chạy qua xem, thảy đều bị chúng bắt trói lại, dân phụ trốn dưới gầm giường, chính tai nghe bọn hắn nói, giết sạch tất cả, cắt cổ, gán làm phản quân để lập công, có thể vào Binh bộ, không cần phải tiếp tục ở Nam hoang nữa.” Lúc nói, hai mắt trừng lớn đến muốn nứt ra, chỉ trực bổ tới cấu xé Phùng Tê Ngô, tự tốt khó khăn lắm mới giữ lại được. Hạ Mẫn Chi phân phó thuộc hạ dẫn Chương Lưu thị rời đi, trong thanh âm đã nhịn không được mang theo vài phần sắc bén: “Phùng tướng quân còn gì để nói?” Phùng Tê Ngô bị bức đến đường cùng, liền giở thói ngoan cố, ngẩng đầu hỏi: “Đại nhân chỉ nghe lời nói phiến diện, sao không thẩm vấn nhân chứng của ta?” Hạ Mẫn Chi cao giọng đáp: “Những kẻ đó không phải nhân chứng, mà là đồng mưu tòng phạm, ba ngày trước đã thú tội trong ngục.” Phùng Tê Ngô cười lạnh nói: “Chỉ có nhân chứng, không có vật chứng, đại nhân liền định ta có tội, hỏi sao Binh bộ không phục?” Hạ Mẫn Chi vốn đang nghiêng người tựa vào lưng ghế, xoay mặt về bên trái, nghe xong lời này, chỉ nhẹ nhàng đổi tư thế, nhìn hữu thị lang Triệu Thừa, đôi nhãn châu trong trẻo có vài phần lười nhác cùng giảo hoạt: “Triệu đại nhân thấy thế nào?” Triệu Thừa né tránh mục quang của hắn, nghiêm mặt nói: “Việc này trọng đại, liên lụy đến hai mươi mạng người, quả thật cần phải thẩm tra cẩn thận.” Hạ Mẫn Chi mỉm cười: “Nói rất hay.” Lật mở quyển tông, thản nhiên nói: “Vật chứng chỉ còn hai cỗ thi thể vô pháp nhận dạng, bất quá ngỗ tác nghiệm thi kết luận: Chết do đao thương, vết thương chuẩn xác, vào năm phân, ra năm phân, lực đạo vừa phải.” Người khác không rõ, còn Triệu Thừa trước đây từng là đại tướng quân, chinh chiến sa trường suốt mười năm, nghe xong lời này, nhất thời như bị tạt cho một gáo nước tuyết tan, toàn thân lạnh buốt, nhịn không được quan sát Hạ Mẫn Chi, vừa kinh ngạc vừa nghi ngờ, chỉ chờ xem hắn sẽ tung ra màn ảo diệu gì bên trong. Chợt nghe Phùng Tê Ngô cắn răng nói: “Vậy thì đã sao?” “Dám hỏi Phùng tướng quân đã chém đám phản quân đó thế nào?” Phùng Tê Ngô lập tức đáp: “Ta đã nói bao nhiêu lần rồi, đám phản quân lúc ấy đã thành thảo khấu, đang đào tẩu về hướng nam, bọn ta phóng ngựa chặn đường, một lưới bắt trọn bọn chúng.” “Tướng quân ở trên ngựa chém giết đào binh?” “Phải.” “Đào binh có kỵ mã không?” “Không có, nếu không đã không dễ dàng chặn lại.” “Phùng tướng quân khẳng định chứ?” “Khẳng định không lầm.” Hạ Mẫn Chi chăm chú nhìn hắn, khóe miệng cong lên thành một mạt cười mỉa mai băng lãnh: “Phùng tướng quân nhập ngũ chưa đến hai năm, kinh nghiệm còn ít, khó trách phạm phải sai lầm lớn thế này.” Thanh âm phảng phất vẻ mệt mỏi không nói nên lời: “Ngồi trên ngựa cắt cổ đào binh, sẽ không thể cắt ra được vết thương vào năm phân ra năm phân như vậy.” “Những vết thương đó, là do ngươi trói người ta lại, từ phía sau cầm đao rạch ngay yết hầu mà tạo thành.” Triệu Thừa âm thầm thở dài, không ngoài dự liệu, đã bị Hạ Mẫn Chi nắm được sơ hở này. Trong lòng biết Phùng Tê Ngô ắt phải chết, hết cách cứu vãn. Phùng Tê Ngô trừng mắt, tựa hồ không dám tin. Hạ Mẫn Chi lạnh lùng nói: “Vết thương nơi cổ tạo thành khi mã quân truy sát bộ binh, thông thường vào sâu ra nông, lúc vào thì cao, lúc ra thì thấp, không có khả năng chuẩn xác cân đối. Chỉ khi đồ sát người không hề có sức phản kháng, mới có thể cắt ra loại vết thương này trên thi thể.” “Phùng Tê Ngô, ngươi còn không nhận tội?” Phùng Tê Ngô chằm chằm nhìn Hạ Mẫn Chi, đột ngột cười vang: “Hạ đại nhân đã từng ra chiến trường chưa?” “Chưa từng.” “Vậy Hạ đại nhân đã từng giết người chưa?” “Cũng chưa từng.” Phùng Tê Ngô càng cười đến cuồng dại: “Thế thì đại nhân chỉ toàn nghe tin đồn nhảm! Vết thương nên ra dạng gì, một tên nho sĩ nghèo nàn như ngươi làm sao biết được?” “Trừ phi đại nhân có thể chứng minh vết thương do ngồi trên ngựa chém khác hẳn so với bị trói rồi mới chém, bằng không…” “Ta không nhận tội!” Phùng Tê Ngô này quả nhiên xảo quyệt hung ngoan, tả hữu Tự thừa đều nghiến răng nghiến lợi, chỉ trông chờ Hạ Mẫn Chi ra lệnh cho hắn nếm trượng hình một lần nữa. Hạ Mẫn Chi bất động thanh sắc, một tay vẫn lật quyển tông, tay còn lại tùy ý gác lên bàn, mặt bàn đen mun càng làm nổi bật những ngón tay thon dài của hắn, từng ngón đều như ngọc, trắng đến gần như trong suốt, mang một loại quỷ dị dụ hoặc đánh thẳng vào lòng người. Tả thiếu khanh Dương Lục đứng dậy rời điện. Thật lâu sau, Triệu Thừa ho nhẹ một tiếng: “Hạ đại nhân… Lời của Phùng Tê Ngô, cũng có vài phần có lý, ta chinh chiến sa trường nhiều năm, nhưng cũng chưa bao giờ để ý vết thương khác nhau điểm nào.” Hạ Mẫn Chi ngước mắt, mỉm cười: “Triệu đại nhân, đừng sốt ruột, từ từ sẽ biết.”
|
Chương 13[EXTRACT]Nhất thời Dương Lục trở về bẩm cáo: “Mười tên tử tù đã được giải ra sân.” Đại Lý Tự quy mô cực lớn, do tiền điện, chính điện, hậu điện, hai hành lang, và một khoảng sân tạo thành. Chính điện dài năm gian, rộng ba gian, ngoài hậu điện còn có vài đại lao, đều là tường cao vách dày, canh phòng cẩn mật, khoảnh sân dài rộng đều hai mươi trượng, rải đầy đá đen, chỉ trồng vài gốc đại thụ, chính là một khu đất trống trải. Hạ Mẫn Chi nói: “Nói Vương hiệu úy chuẩn bị đi.” Phùng Tê Ngô cả kinh: “Vương Hàn?” “Chính là Vương Hàn. Mục tướng quân trong doanh trại kỵ binh nói, Vương Hàn và ngươi nhập ngũ huấn luyện cùng lúc, bản lĩnh cũng không thua kém gì ngươi, ngay cả đao pháp cũng có điểm tương đồng, đương nhiên là người thích hợp nhất để lựa chọn.” Cung cẩn nói: “Các vị đại nhân xin mời rời điện, ra sân cùng kiểm tra.” Bốn gã tự tốt áp giải Phùng Tê Ngô ra sân. Chỉ thấy một hiệu úy để râu quai nón đứng sau lưng một tên tử tù bị trói chặt, rút đao chém một nhát ngay cổ, máu tươi phun trào, tử tù ngã xuống đất. Lại cưỡi ngựa, cởi hết xiềng xích cho một gã tử tù khác, tử tù hoảng hốt, vô thức xoay người bỏ chạy, hiệu úy râu quai nón thúc ngựa đuổi theo, chặn ngay trước mặt, vung đao bổ xuống, nơi yết hầu của tử tù liền tung tóe huyết quang, tức khắc tắt thở. Chỉ trong khoảnh khắc, hai người máu nhuộm khắp sân, Hạ Mẫn Chi thần thái tự nhiên, tựa hồ đã quen nhìn cảnh này, chỉ là trong nhãn thần mang theo vài phần chán ngán, cao giọng nói: “Đa tạ Vương Tướng quân, phiền tướng quân tạm thời lui ra.” Hiệu úy râu quai nón thi lễ rồi đi. Hạ Mẫn Chi dẫn mọi người quay về điện an tọa, ngỗ tác trong tự liền đến nghiệm thi. Phùng Tê Ngô đã hết quỳ nổi, co quắp nằm dưới đất. Tả thiếu khanh Dương Lục lạnh lùng nói: “Mau đánh thức Phùng đại nhân, vụ án này vẫn chưa thẩm tra xong, đừng để phạm nhân ngủ gục!” Một tự tốt tiến lên, tay chân nhanh nhẹn, nắm lấy đuôi tóc của Phùng Tê Ngô, kéo cho hắn quỳ thẳng lại rồi buộc lên một giá sắt, cứ thế, Phùng Tê Ngô chỉ có thể quỳ thẳng lưng, chỉ chốc lát liền lớn tiếng rên rỉ, thống khổ khôn tả. Đám người Đại Lý Tự đương nhiên đã quen chứng kiến cảnh này, toàn bộ quan lại thuộc các bộ khác đều thất sắc, Phó Lâm Ý chỉ cảm thấy như đang ngồi trên bàn chông, mồ hôi ra như tắm, đang định đùa vài câu, lại bị mục quang băng lãnh của Hạ Mẫn Chi quét tới, nghĩ đến hắn thủ đoạn khó lường, hành sự tàn nhẫn, lập tức không dám càn quấy. Qua thời gian một tuần trà, ngỗ tác tiến vào hồi bẩm: “Vết thương trên thi thể do cưỡi ngựa chém chết vào bảy phân, ra ba phân, vào cao ra thấp, chệch đi hai phân; vết thương trên thi thể đứng chém vào năm phân, ra năm phân, miệng vết thương bằng phẳng chuẩn xác.” Hạ Mẫn Chi im lặng một hồi, nói: “Phùng Tê Ngô, ta đã xin chỉ dụ của Hoàng thượng, mười tên tử tù này dùng để chứng minh vết đao bất đồng, hiện đã chém hai tên, nếu ngươi vẫn không phục, tám tên còn lại ngươi có thể tự mình chém.” Lời nói vừa ra, toàn bộ đại điện càng lạnh thêm mấy phần. Phùng Tê Ngô còn chưa mở miệng, Triệu Thừa đã thở dài: “Hạ đại nhân uyên bác, bổn quan vừa nhớ kỹ lại, vết thương đích thực phải khác nhau, Đại Lý Tự quả nhiên nhân tài lớp lớp.” Triệu Thừa lăn lộn trên quan trường gần mười năm, mắt thấy tình thế đã không thể xoay chuyển, sợ khói xám than hồng vây vào người, vội nói trước một câu phủi đi sạch sẽ. Phùng Tê Ngô nhắm mắt lại, tự biết bằng chứng như núi, ảm đạm nói: “Người ta giết đích thực chỉ là bá tính bình thường, ta cam nguyện nhận tội.” Tự thừa bên cạnh chỉnh lý tờ ghi nhận lời khai lại cho đường hoàng, để Phùng Tê Ngô ký tên ấn dấu tay, Hạ Mẫn Chi thanh âm lãnh tĩnh: “Phùng Tê Ngô thân là Hiệu úy quan quân, lại không vì nước vì dân, chỉ biết nghĩ cho bản thân, giết hại bách tính, phạm huyết án ngập trời mưu cầu lập công, lụy cả quân đội Trữ quốc phải mang tiếng bất nghĩa.” “Quân dựa vào dân, án này nếu không nghiêm trị, tất mất lòng dân.” “Đại Trữ thái bình, khó khăn lắm mới đạt được, mất lòng dân xã tắc đại loạn. Hoàng Thượng nhân hậu, nhưng luật lệ Đại Trữ không thể dung thứ ngươi.” Cất lên bút son, thản nhiên nói: “Hiệu úy Phùng Tê Ngô, hành vi phạm tội vô cùng xác thực, phán năm trăm đao phanh thây.” Nam Cương đại án sau một phen thẩm tra liền khép lại Sau khi Phùng Tê Ngô bị giải đi, mâu quang như lưu ly của Hạ Mẫn Chi chợt lưu chuyển, dừng trên người Phó Lâm Ý: “Thập nhất vương gia, hạ quan hiện đã có thể nghe án của ngài.” Phó Lâm Ý thấy hắn ngồi an an tĩnh tĩnh, hàng mi đen nhánh che đi vẻ lạnh lùng thâm trầm trong đôi mắt, trong lòng không khỏi có chút phát lãnh, vội nói: “Không phiền Mẫn Chi nữa…” Hạ Mẫn Chi mỉm cười nói: “Vương gia có oan tình, đương nhiên là đại án, vi thần không dám không nghe.” Ra lệnh: “Truyền Trương A Ngưu.” Án tình thập phần đơn giản, hôm nay Phó Lâm Ý dẫn theo tuyết lang khuyển mới mua đi tản bộ ở phố Nạp Phúc, trùng hợp gặp phải thợ săn Trương A Ngưu đang vào thành bán da chồn, con chó săn lông vàng của Trương A Ngưu cắn nhau với tuyết lang khuyển, kết quả cả hai đều bỏ mạng. Tuyết lang khuyển của Phó Lâm Ý đáng giá ngàn vàng, hắn trước giờ quen thói kiêu ngạo, lại nghe nói Hạ Mẫn Chi đang thẩm tra Nam Cương đại án, nhất thời hiếu kỳ, liền lôi Trương A Ngưu đến Đại Lý Tự cáo trạng. Trương A Ngưu chưa từng gặp phải tình cảnh này, thăng đường chỉ quỳ dưới đất, một câu cũng không nói nên lời. Hạ Mẫn Chi cười nói: “Ta chợt nhớ tới một tích cũ, có một phú hộ nuôi hạc, cho hạc đeo lệnh bài làm dấu, đáng tiếc một ngày nọ lại bị chó nhà bên cắn chết, phú hộ cáo trạng lên quan phủ, yêu cầu chủ nhân con chó đền tội, quan phán: hạc tuy mang lệnh bài, nhưng chó không biết chữ; cầm thú đấu nhau, liên quan gì đến con người?” Phó Lâm Ý cười gượng: “Đúng đúng, bổn vương lập tức hủy cáo trạng, chó chết thì cũng đã chết, đâu liên quan tới người.” Hạ Mẫn Chi mỉm cười: “Vương gia anh minh, chó cắn chó, đích thực không liên quan đến người.” Liền lái sang chuyện khác: “Chỉ là vụ án này, không thể xét xử qua loa như vậy, tích xưa là tích xưa, nếu áp dụng để thẩm án thật, rất không hợp pháp lệnh.” Phó Lâm Ý há hốc mồm, trong lòng bất an. Chợt nghe Hạ Mẫn Chi nói: “Cầm thú đấu nhau, cũng phải xem hạc bị chó cắn chết ở đâu, nếu là chó nhà bên xông vào nhà phú hộ, nhà bên ắt phải chịu phạt bồi thường, nếu hạc của phú hộ bay qua nhà bên, tuy đã chết, nhưng phú hộ cũng phải bị phạt, còn nếu là gặp nhau trên đường… thì phải xem pháp lệnh đương thời đã.” “Tỷ như án này của vương gia, phủ doãn Tĩnh Phong đã sớm ban lệnh, phố Nạp Phúc phồn hoa, cấm dẫn súc vật vào phố, cho nên tuy cả hai con chó đều chết, Vương gia cùng Trương A Ngưu, đều phải bị phạt.” Phó Lâm Ý vẻ mặt đau khổ nói: “Hạ đại nhân, niệm tình bổn vương từng đích thân đến tận nhà đưa đàn, ngàn vạn lần đừng đánh ta…” Hạ Mẫn Chi lạnh lùng hỏi: “Vương gia đây là đang ép buộc bổn quan?” Phó Lâm Ý lập tức câm miệng. “Trương A Ngưu, ngươi có biết pháp lệnh này không?” “Tiểu nhân không biết.” “Vương gia, ngài có biết không?” “Hình như có nghe qua một hai lần gì đó…” Hạ Mẫn Chi phán: “Trương A Ngưu dẫn chó trên phố, phạt một trăm văn tiền, Thập nhất vương gia biết pháp phạm pháp, tội nặng hơn một bậc, phạt hai trăm văn tiền. Hai vị có phục không?” Hai người đều vui mừng quá đỗi, nhất là Phó Lâm Ý, vốn cho rằng sắp phải nếm mùi hình trượng của Đại Lý Tự. Nên biết mấy năm nay những viên quan mới nhậm chức ở Tĩnh Phong, vì muốn có được thanh danh “không cầu quyền quý”, cách phổ biến nhất chính là đem hành vi của hắn viết vào tấu chương, mà Văn Đế cũng chưa bao giờ bao che dung túng. Ai ngờ Hạ Mẫn Chi chỉ phạt hai trăm văn cỏn con, Phó Lâm Ý lập tức vui mừng ra mặt, chỉ cảm thấy Hạ đại nhân này ở phương diện nào cũng hay cũng tốt. Lập tức lấy ra một thỏi bạc, ước chừng năm lượng: “Ta nên đóng phạt nhiều một chút.” Thẩm xong cả hai vụ án, mặt trời đã ngả về tây, mọi người ngồi từ giờ Tỵ đến tận giờ Thân, chỉ uống vài chén trà xanh, đều mỏi mệt không chịu nổi, lần lượt cáo từ. Hạ Mẫn Chi lại phân phó Trương A Ngưu chờ ngoài điện, tự lấy hai trăm văn tiền của mình, cùng một trăm văn của Trương A Ngưu nhập lại sung công, thu dọn xong mới ra điện, đưa cho hắn đỉnh bạc kia của Phó Lâm Ý, hòa nhã nói: “Săn thú không dễ, lần này lại mất chó săn, cầm số tiền này mua một con mới, hảo hảo sống qua ngày.” Dứt lời xoay người chậm rãi bỏ đi. Phó Lâm Ý lặng lẽ đứng bên tường ngoài điện, thấy một màn đó, không khỏi mỉm cười, nhãn thần ấm áp trầm tĩnh. Đột nhiên trên mặt mát lạnh, ngẩng đầu nhìn trời, chỉ thấy những giọt mưa mang theo bông tuyết lất phất rơi xuống. Vội đuổi theo gọi Hạ Mẫn Chi lại: “Ngươi cứ như vậy mà đi về sao?” Hạ Mẫn Chi ngạc nhiên nói: “Nhà ta cũng không xa, qua hai con phố là tới, ngồi kiệu còn phải thỉnh kiệu phu, phí tiền làm gì?” Phó Lâm Ý giậm chân thở dài: “Hạ đại nhân a! Ngài quả nhiên là con mọt tiền, lương bổng triều đình cho ngài mỗi tháng mười lượng bạc lẽ nào ngài một phân cũng không nỡ đụng đến?” Kéo hắn đứng dưới mái điện trú mưa, phất tay gọi kiệu của mình tới: “May là bổn vương ngồi đại kiệu tám người khiêng, để ta đưa ngươi về vậy.” Hạ Mẫn Chi cười như một con hồ ly tinh ưu nhã: “Đa tạ vương gia. Bất quá dám hỏi vương gia, hôm nay ngài đại giá quang lâm Đại Lý Tự, thật sự chỉ để cáo trạng một Trương A Ngưu nho nhỏ kia?” Phó Lâm Ý gãi gãi mũi, thừa biết không thể qua mắt hắn, bèn nói thẳng: “Kỳ thực là bị người nhờ cậy, lão Thập tứ lo lắng cho ngươi, cố ý dặn ta nghe ngóng vụ án này. Vừa vặn gặp Trương A Ngưu, ta liền đường đường chính chính thăng điện, chẳng phải tốt hơn sao?” Hạ Mẫn Chi ngẩn ra: “Đàn Khinh Trần?” “Phải a, lão Thập Tứ rất để ý ngươi, bao năm qua ta chưa từng thấy hắn tốn tâm tư với người nào như vậy.” Đang nói, cỗ kiệu đã đến, hai người lên kiệu, Phó Lâm Ý ra lệnh kiệu phu đưa Hạ Mẫn Chi về ngôi nhà ở ngõ Minh Kính trước. Bên ngoài mưa gió lớn dần, trong kiệu lại ấm áp thoải mái. Hạ Mẫn Chi cả tháng qua đều dốc toàn bộ tâm tư vào Nam Cương đại án, hôm nay lại thẩm án suốt ngày, một hạt cơm cũng chưa bỏ bụng, sức cùng lực kiệt, mệt mỏi xâm chiếm, hai mắt lim dim, đầu cũng giữ không yên, cứ chốc lát lại đập vào thành kiệu. Phó Lâm Ý buồn cười, bất giác đưa tay kê đầu hắn, nghĩ nghĩ, mạnh dạn để hắn tựa hẳn vào vai mình, ngủ sẽ thoải mái hơn. Một Hạ Mẫn Chi mơ mơ màng màng thế này, có phần yếu ớt, lại có điểm trẻ con, khiến người thương tiếc chỉ muốn che chở bảo hộ, không nỡ gây tổn hại dù chỉ là một chút. Ngày hôm sau, hai viên giám sát Ngự Sử đồng loạt dâng sớ, người thứ nhất khen Hạ Mẫn Chi trẻ mà thông minh, óc quan sát tinh tế, mưu định mới hành động, thắng thắn quyết đoán, đủ pháp đủ lễ, cương nhu đều xem trọng, quả thật là nhân tài trị quốc. Người còn lại nói Hạ Mẫn Chi tuy quả quyết sáng suốt, hoàn thành Nam Cương đại án, nhưng thủ đoạn tàn khốc xảo quyệt, mất đi phong phạm nhân hậu khoan dung. Văn Đế hỏi Phương Dụ Chính, Lễ bộ Thượng thư chỉ nói chín chữ: hình quan có một không hai trong thiên hạ. Ba tháng sau, Văn Đế hạ chỉ, thăng Hạ Mẫn Chi làm Hữu thừa tứ phẩm ở Đại Lý Tự. Phẩm cấp tuy không cao, nhưng tốc độ thăng tiến nhanh hiếm có, lại thêm được Văn Đế khen ngợi, nhất thời Hạ Mẫn Chi trở thành một nhân vật nổi danh. Quan lại ghé thăm tấp nập, Hạ Mẫn Chi ghét nhất bị làm phiền, mỗi ngày vẫn như trước cần cần mẫn mẫn đến Đại Lý Tự duyệt quyển tông, phúc hạch truy xét, thẩm tra những vụ án gần đây. Về nhà liền đóng cửa miễn tiếp khách, người duy nhất thường xuyên lui tới là Thập nhất vương gia Phó Lâm Ý. Về phần vàng lá cùng ngân phiếu, Thục Hoa phu nhân cùng Ngụy phủ tự nhiên sẽ không đòi lại, càng không dám chủ động nhắc tới, thành thử Hạ Mẫn Chi cũng từ chối thì bất kính, giả vờ như chưa từng thấy qua, âm thầm cất giữ trong nhà. Trạng Nguyên cùng khoa Cung Lâm vẫn còn giữ chức Chủ sự lục phẩm ở Lễ bộ, tuổi trẻ khí thịnh, tự nghĩ mình xuất thân danh môn, Hạ Mẫn Chi bất quá chỉ là một học trò nghèo không cha không mẹ, có lần cùng đồng liêu tụ hội ăn uống say sưa, nhịn không được cười khẩy nói: “Hạ đại nhân tham tài ngạo mạn, Thập nhất vương gia háo sắc bại hoại, cho nên đặc biệt hợp ý nhau.” Trong quan trường lời nói đương nhiên lan truyền còn nhanh hơn gió, Hạ Mẫn Chi nghe xong, chỉ cười bỏ qua, vòng son dưới ngòi bút vẽ đến mượt mà thông thuận, một tia run rẩy cũng không có. Văn Đế biết được chuyện này, có lần nhân dịp hắn vào cung hỏi thử, Hạ Mẫn Chi lại làm như không có việc gì, chỉ mỉm cười nói: “Ta không để tâm.” Văn Đế thấy hắn hỉ nộ đều chôn sâu trong lòng, nhớ đến thân thế hắn, tuy đã thấu hiểu, vẫn không khỏi có chút thổn thức đau lòng, suy tư một hồi, nói: “Mẫn Chi năm nay đã mười tám, ta định một mối hôn sự cho ngươi được không?” “Thiên kim của Phương thượng thư, cũng xấp xỉ tuổi ngươi, gia thế hiển hách, dung mạo bất phàm, nguyên bản Thái tử muốn lấy làm trắc phi, ta thấy ngươi chưa định hôn, chi bằng cứ gả cho ngươi vậy.” Hạ Mẫn Chi cả kinh, bánh hạnh nhân trong miệng phun thẳng ra ngoài, vội la lên: “Ta không cần.” Văn Đế trừng mắt nhìn hắn: “Nói thế là sao, gì mà ngươi không cần? Phương Khai Tạ danh môn khuê tú, một Hữu thừa tứ phẩm nho nhỏ như ngươi chỉ sợ vẫn chưa thể lọt vào mắt Phương thượng thư!” Hạ Mẫn Chi cười khổ nói: “Thế thì tốt rồi, ta cũng không muốn phí hoài một đời của Phương tiểu thư…” Văn Đế cười nói: “Sao lại phí hoài? Phương Khai Tạ coi như danh gia diễm sắc, Mẫn Chi của chúng ta cũng đâu kém cạnh vị vương tôn công tử nào, nếu hiện tại ngươi không muốn, vậy cứ chờ sau này mới tính đi.” Thời gian qua, Hạ Mẫn Chi càng lúc càng tự nhiên hơn trước mặt Văn Đế, Văn Đế vui mừng khôn kể, còn nghĩ đến thứ gọi là “hạnh phúc gia đình”, là bậc đế vương, cảm tình phụ tử phu thê vốn luôn hoặc mong manh hoặc phức tạp, chỉ khi trò chuyện cùng Hạ Mẫn Chi, mới cảm nhận được niềm thư sướng tự tại, ôn tình noãn ý không nói nên lời. Hôm nay Hạ Mẫn Chi đang ở nhà lấy thư của Niếp Thập Tam xem lại từng bức rồi chỉnh chu tỉ mỉ, Niếp Thập Tam ngao du đã một năm, thư cũng được gần hai mươi lá, Hạ Mẫn Chi ngắm nghía, khẽ mỉm cười, hình dung khí thế Niếp Thập Tam trường kiếm giang hồ, không khỏi thả hồn theo mây. Đột nhiên cửa viện bị đẩy ra thật mạnh, Phó Lâm Ý xông thẳng vào, đau khổ gào lên: “Hạ Mẫn Chi a… Hay là ngươi giết ta luôn cho rồi!” Hạ Mẫn Chi vội cất thư, nhíu mày nói: “Lại sao nữa? Thập nhất vương gia nếu có oan tình không ngại cứ đến Đại Lý Tự mà kêu gào.” Phó Lâm Ý một phen nắm lấy tay hắn, cơ hồ muốn khóc rống lên, lắc đầu nói: “Nỗi oan tình này không gào được…” Thần sắc khẩn trương: “Có phải ngươi muốn thành thân với Phương Khai Tạ?” Hạ Mẫn Chi gỡ tay hắn ra, cười hì hì nói: “Thế nào? Ngươi khẩn trương vì Phương tiểu thư như vậy, chẳng lẽ là có tâm tư gì với nàng?” Phó Lâm Ý vẻ mặt đau khổ: “Còn sao nữa? Ta đến giờ chưa lập chính phi, chính là một lòng muốn có nàng, hoàng huynh cố tình không để ta vào lòng vào mắt, nguyên bản nói muốn ban hôn nàng cho Thái tử, hiện tại lại nói cho ngươi, chỉ đáng thương cho ta tan nát cõi lòng, có oan không chỗ tố…” Nói xong bổ nhào vào người Hạ Mẫn Chi khóc ầm ĩ. Hạ Mẫn Chi cựa quậy không được, cười lạnh nói: “Tốt nhất ngươi mau buông ta ra.” Phó Lâm Ý không buông tay, ngược lại còn ôm chặt hơn nữa, cười tà: “Tại sao phải buông?” (13 mà ở đây thì bạn chết chắc nhá!) Hạ Mẫn Chi thở dài: “Ta cho ngươi biết một bí mật.” “Ta sẽ không thành thân với Phương Khai Tạ.” “Bởi vì ta thích nam nhân.” “Cho nên ngươi còn ôm ta nữa ta sẽ tơ tưởng ngươi.” Phó Lâm Ý lập tức buông tay, lại vui mừng ra mặt: “Ngươi thật sự không thú Phương Khai Tạ?” Hạ Mẫn Chi cũng lười nhìn hắn, chỉ gật đầu. Phó Lâm Ý cười nói: “Vậy là tốt rồi! Phương Khai Tạ đó không lấy được ngươi, chỉ có thể từ từ mà đợi, đợi đến khi hết gả được cho ai nữa, ta liền có thể thừa gió bẻ măng.” Tự khen: “Quả là diệu kế!” (bạn này tự kỷ ác =))))) Lại nói: “Vài ngày nữa ta định đi Giang Nam một chuyến, thuận đường ghé Lâm Châu thăm lão Thập tứ, ngươi có lời gì muốn nói hay là thứ gì muốn đưa cho hắn cứ việc giao cho ta.”
|
Chương 15[EXTRACT]Khoảnh khắc nhìn thấy Hạ Mẫn Chi không chút sinh lực nằm trên mặt đất, huyết dịch cả người Niếp Thập Tam tựa hồ cũng đông lại, đau đớn như có lớp băng phủ khắp kinh mạch huyết quản, sống không bằng chết. ——– Hôm đó thẩm án xong, Dương Lục rời điện, thấy Hạ Mẫn Chi đã sớm thay một kiện áo choàng gấm Thiên Hương màu trắng đứng chờ, như thiên tiên giáng thế, khiến người nhìn đến quên cả trần tục. Đến Tích Thúy lâu, chọn món, cua còn chưa lên bàn, Hạ Mẫn Chi đã gọi một vò Liên hoa bạch thật to, cùng hai chung rượu, mỗi lần ngửa cổ là một chung, uống liền ba chung, mới cười nói: “Dương đại nhân, rượu này đúng là rất nhạt.” Dương Lục xuất thân thế gia, giỏi uống rượu thích đối ẩm, cười nói: “Rượu này không nhạt lắm đâu, bất quá hôm nay ăn cua, không nên uống bạch tửu. Cua tươi ngon, chính là phối hợp tuyệt vời với hoàng tửu, phải uống Huệ tuyền tửu của Thành Châu Giang Nam mới đúng.” Hạ Mẫn Chi cao hứng bừng bừng, lập tức phất tay gọi tiểu nhị tới: “Cho thêm một vò Huệ tuyền tửu!” Dương Lục từ lúc được đề bạt vào Đại Lý Tự, từ Ti trực thăng lên Thiếu khanh mất bảy năm, cũng xem như niên thiếu đầy hứa hẹn, hành sự thông minh cẩn thận không nói, cặp mắt còn như luyện trong lò bát quái mà ra, có khi thẩm án trên công đường không đợi dụng hình, chỉ nhìn nhãn thần của hắn, phạm nhân thường lập tức co rúm cả người không dám khai man, đúng là một nhân vật lợi hại đến cả con ruồi bay ngang qua cũng có thể phân rõ đực cái. Lúc này đã sớm phát hiện Hạ Mẫn Chi có điểm khác thường, cũng không nói ra, chỉ đạm đạm một câu: “Trong lòng nếu khó chịu, uống say cũng tốt.” Nói xong liền một chung tiếp một chung bồi Hạ Mẫn Chi. Dương Lục trời sinh tửu lượng tốt, còn Hạ Mẫn Chi thâm tàng bất lộ, không tới một canh giờ, hai người đã uống sạch hai vò rượu. Trên mặt Dương Lục đã nổi lên một tầng ửng hồng, nhưng thần sắc Hạ Mẫn Chi vẫn không chút nào thay đổi, Dương Lục luôn yêu quý nhân tài, lúc này đã ngà ngà say, còn mừng rỡ: “Thì ra tửu lượng của ngươi tốt như vậy! Cho hai vò nữa, hôm nay không say không về!” Hạ Mẫn Chi chỉ cười không nói. Càng uống về sau, hai người chê chung rượu không đủ hào sảng, chuyển sang dùng chén. Mãi cho đến lúc trăng treo giữa trời, gia bộc của Dương Lục tìm tới dìu ai đó đã say khướt kia trở về. Hạ Mẫn Chi vẫn cười im lặng, khuôn mặt trắng như ngọc, đôi mắt lại sáng đến dọa người, lấy một nén bạc đặt lên bàn, tự rời khỏi Tích Thúy lâu, đơn độc chậm rãi đi dọc theo phố Nạp Phúc về nhà. Ánh trăng như sương, trên đường không có lấy một bóng người, chỉ nghe vang vang tiếng cước bộ của mình, từng bước từng bước như giẫm lên trái tim, đột nhiên lảo đảo, dựa vào tường, gập lưng nôn thốc nôn tháo, tựa hồ muốn nôn ra hết ngũ tạng lục phủ, nôn xong lại ngửa mặt nhìn trời cười to, dường như vui sướng vô hạn, ngã xuống nền đất rải đá xanh, ngủ mê đi. Hôm sau tỉnh lại phát hiện cả người mình không còn mang mùi rượu, chỉ có hương thơm ngát sau khi tắm rửa, một thân y phục cũng sạch sẽ thoải mái, nheo mắt trông ra ngoài cửa sổ, chính là ngày thu trời quang. Hạ bá bưng tới một chén cháo, nói đã thay hắn đến Đại Lý Tự xin nghỉ. Hạ Mẫn Chi lưỡng lự hỏi: “Ai mang ta về?” Hạ bá đáp: “Ngoài Thập Tam ra, còn ai vào đây?” “Vậy hắn đâu?” “Đi rồi, hắn bảo ngươi yên tâm, hắn sẽ không quay lại.” Hạ bá vuốt mái tóc đen dài của hắn: “Tiểu thiếu gia, tính cách này của ngươi, thật là hại người hại mình, nên sửa đổi thì hơn. Ta hy vọng cho dù ngươi chỉ còn sống được một ngày, cũng phải sống cho vui vẻ.” Hạ Mẫn Chi gật đầu: “Ta hiểu rồi, sẽ không để người phải lo lắng nữa.” Hạ bá thấy hắn cuối cùng vẫn không nghe mình khuyên giải, thở dài bỏ đi. Từ đó Hạ Mẫn Chi càng thêm cần cù, chỉ trong nửa năm đã xem hết tất cả quyển tông về những vụ án cũ suốt hai mươi năm nay của Đại Lý Tự, thủ pháp thẩm án càng thêm thần quỷ khó lường, nhìn hắn mỉm cười ngồi xuống trước điện, bộ dáng ngây thơ nửa tựa vào ghế rũ hai hàng mi, ngay cả Dương Lục trong lòng cũng có chút phát lãnh. Thoáng chốc đã là mùa xuân Huyên Tĩnh năm thứ mười một, ba châu ở Giang Nam gặp lũ lụt, ruộng đồng bạt ngàn đều bị hủy, bá tính màn trời chiếu đất. Văn Đế lệnh Thái tử đích thân vận chuyển lương thực vật tư xuôi nam cứu tế, lại lệnh trong cung cắt giảm chi tiêu, miễn giảm cho các châu ở Giang Nam ba năm thuế má. Đối mặt với thiên tai, quân thần Trữ quốc đồng lòng hợp sức, tương trợ vạn dân. Đất phong của Lâm Tương vương Đàn Khinh Trần chỉ cách Giang Nam một con sông, trước khi Thái tử đến, đã sớm phái hai châu Lâm Tương trưng thu lương thực lều vải đi cả đêm đưa tới Giang Nam, lại dùng ngân lượng tồn trong vương phủ, đồng thời mượn của phú hộ trong thành tổng cộng được hơn hai mươi vạn đem mua lương thực, một mặt bình chiếu (bán lương thực theo giá qui định trong những năm mất mùa), một mặt lập các điểm cung cấp cháo từ thiện cho dân đói, đồng thời lấy mình làm gương, đích thân đến nơi chịu lụt, ở trong Ngọc Châu phủ không chỗ nào không ẩm ướt, không tường nào không xiêu vẹo suốt mười ngày, thân tín trong phủ đều xuất động cứu tế nạn dân. Niếp Thập Tam chỉ lấy sức lực của một người, giúp toàn bộ Mặc Lương trấn không ai vong mạng. Xong chuyện liền phất áo bỏ đi, không hề để lại danh tính. Đợi đến khi Thái tử tới, tình hình ba châu Giang Nam đã dịu đi, sau trận đại họa, người bị chết chìm cuốn trôi vô số, nhưng không ai chết đói cơ nhỡ ngoài đường, bá tính Giang Nam đều tung hô Lâm Tương vương là “Phật sống tái thế”. Thái tử giận dữ trở về Tĩnh Phong, tấu rằng Lâm Tương vương tự tiện can thiệp Giang Nam chính sự, nên trị tội bất kính không hợp lễ nghi. Mà tấu chương của Đàn Khinh Trần cũng gần như đồng thời trình lên bàn của Văn Đế, đồng thời thông báo cả lục bộ. Rằng: Từ xưa có dạy, lụt hạn mất mùa, phải kịp thời cứu tế, lúc đó Giang Nam giá vật tăng vọt, mà không có tồn trữ, vì tránh bá tính đói khát, nên thần đệ phát gạo cấp cháo cứu nạn, cũng là vì con dân Đại Trữ mà suy nghĩ, khẩn cầu hoàng huynh thứ tội đi trước một bước, lại xin triều đình phát trăm vạn bạc, dốc lòng cứu tế, chấn chỉnh đường thủy của cả Âu giang lẫn Kim giang ở Giang Nam. Một phen phân giải, vừa yêu dân, vừa trung quân, tuy thỉnh tội, nhưng khiến người vô pháp xuống tay định tội, mở miệng đòi ngân lượng không nói, còn mượn cơ hội muốn nhất cử thống trị quyền chi phối thủy vận Giang Nam, khôn khéo đường hoàng quang minh chính đại, Văn Đế siết chặt tấu sớ, trầm mặc thật lâu, mới từ kẽ răng rít ra một câu: “Khá lắm Đàn Khinh Trần! Khá lắm Thập tứ đệ!” Trong mắt hiện lên ba phần thưởng thức ba phần cảnh giác ba phần tiếc hận cùng một phần mỏi mệt chìm nổi, đạm đạm ra lệnh: “Từ Diên, gọi Thái tử đến đây.” Khi Phó Thiếu Dương tới thì đêm đã khuya, Văn Đế tay chống trán, đang tỉ mỉ xem phán quyết xử trí của Đại Lý Tự đối với đám quan lại giấu diếm tình hình, kháng thiên tai bất lực, bòn rút của công vào túi riêng, mức hình phạt đề nghị hơi nặng, nhưng hay ở chỗ công phu văn tự rất cao, rằng: có công không thưởng, có tội không phạt, dù là Nghiêu Thuấn cũng không thể trị vì, huống hồ là người khác? Thiên tai có thể bỏ qua, nhưng nhân họa phải dùng nghiêm pháp, vừa khiến quan lại không dám thất trách, lại càng không dám thừa cơ chiếm của công —— vừa nhìn liền biết là bút tích của Hạ Mẫn Chi. Không khỏi gật đầu, lại thở dài: “Hài tử này, thế mà không sợ mang tiếng ác quan!” Ngẩng đầu nhìn Thái tử, đợi hắn hành lễ xong, cầm tấu chương của hắn, ngữ khí vô cùng ôn hòa: “Ngươi muốn trị tội Thập tứ thúc ngươi?” Thái tử khoanh tay nói: “Phải.” (láo thật =.=) “Tại sao?” Thái tử không đáp, hai người vừa là quân thần, vừa là phụ tử, câu trả lời này, cũng không cần phải nói ra miệng. Văn Đế thở dài: “Đây gọi là đứng ngồi không yên có phải không? Đúng là hồ đồ! Thiên hạ này cho dù thuộc về họ Phó, Đàn Khinh Trần cứu tế kịp thời, vãn hồi vô số tánh mạng con dân, đối với thiên hạ, đối với Phó gia đều lập đại công, ngươi muốn tranh đoạt lòng dân, e ngại danh vọng của công thần, há là tâm tư nên có của một thái tử?” “Ngay thời điểm này giáng tội hắn, trong triều bá quan oán thầm, thiên hạ bá tính phẫn hận, thanh danh triều đình bị ảnh hưởng không nói, thậm chí cả trẫm cũng cảm thấy đáng tiếc.” “Hiện tại thiên hạ thái bình, trong tay Lâm Tương vương cũng không binh không quyền, chẳng lẽ còn có thể làm loạn? Ngươi nóng lòng diệt trừ hắn như thế, không khỏi rơi xuống bậc tiểu thừa, nào có nửa phần khí phách của thiên tử? Thật khiến trẫm thất vọng.” Ném hai quyển sớ ngay dưới chân Thái tử: “Hảo hảo nhìn tấu chương của Thập tứ thúc ngươi, rồi tự nhìn lại mình, theo đó mà học hỏi!” Trên mặt Thái tử thoáng hiện vẻ không phục cùng phẫn hận, nhặt tấu chương, lặng lẽ lui ra. Hôm sau bá quan thượng triều, quả nhiên đều nói phen này cứu nạn dân Lâm Tương vương có công đầu, Văn Đế mỉm cười hạ chỉ: Lâm Tương vương Đàn Khinh Trần được quyền cai trị đường thủy Âu giang cùng Kim giang, ban hiệu “Duệ”, phong làm Duệ vương. Tan triều lúc hậu cung dâng chè hạt sen, bởi vì quá ngọt, khiến long nhan giận dữ, hất đổ cả chén chè. Đêm mồng năm tháng chín, Hạ Mẫn Chi đã sớm hầm canh gà, rửa sạch rau xanh và đậu cà vỏ, làm hai bát mỳ trường thọ thật to đặt trên mâm trúc. Nhìn mặt trăng sắp ngả về tây, sắc trời dần sáng, Hạ Mẫn Chi châm thêm dầu, tựa hồ muốn dùng chút đốm lửa nhạt không tắt kia giữ lại đêm mồng năm, mở cửa, gió như quyến luyến ngọn đèn kia, xông thẳng vào trong nhà, nhưng Niếp Thập Tam thủy chung vẫn không tới. Vừa lập đông, thương thế cũ của Hạ bá tái phát, chân khí phản phệ, tẩu hỏa nhập ma, một thân võ công phế sạch, nằm liệt trên giường. Hạ Mẫn Chi xin nghỉ dài hạn, đêm ngày lao tâm, sớm hôm hầu hạ. Có một buổi hoàng hôn, thành Tĩnh Phong gặp một trận tuyết. Tinh thần Hạ bá đã khá hơn, hai mắt thần quang trầm tĩnh, hỏi: “Chi Mẫn, tuyết rơi rồi phải không?” Hạ Mẫn Chi đứng dậy, từ song cửa nhìn ra, nói: “Phải a, tuyết rơi rất dày.” Ngồi lại bên giường, ngạc nhiên nói: “Sao Bạt Liệt bá bá biết?” Hạ bá mỉm cười: “Ta có thể ngửi được mùi tuyết.” Lại nói: “Ngươi mở cửa sổ, cho ta xem xem có giống tuyết ở Tây Châu chúng ta không.” Hạ Mẫn Chi thấy tình hình lão không qua khỏi đêm nay, nên không khuyên can, đỡ lão tựa vào thành giường, vén chăn thật kỹ, khẽ cười nói: “Xem ra người đã nhớ Tây Châu rồi, chờ người khỏe lại, ta dẫn người về thăm.” Nói xong mở cửa sổ, chỉ thấy bông tuyết ngập tràn, trắng xóa dày đặc, từ khung trời ảm đạm lất phất rơi xuống. Hạ bá ngắm nửa ngày, lắc đầu nói: “Không giống… tuyết ở Tây Châu bị gió bọc mạnh mẽ như đao phong, nào có mềm mại như vậy?” Hạ Mẫn Chi cười nói: “Mềm mại đâu có gì không tốt, cứng quá dễ gãy, mạnh quá dễ hư.” Hạ bá thở dài: “Đại ca ngươi cũng không khác gì một thanh đao, còn ngươi, thoạt nhìn giống như những bông tuyết này, nhưng xương cốt cả người đều là đao, đều là huyết mạch Mộ Dung thị.” Hạ Mẫn Chi nghe tới hai chữ “đại ca”, thần sắc trong mắt vừa là căm hận vừa là sợ hãi, nói: “Để ta đút thuốc cho người.” Hạ bá một phen níu hắn lại: “Không cần uống nữa.” Ngón tay khô gầy vuốt ve khuôn mặt băng lãnh của Hạ Mẫn Chi: “Bá bá đi rồi, ngươi một mình lẻ loi hiu quạnh, phải làm sao đây?” Hạ Mẫn Chi nén lệ: “Đáng lẽ người phải được sống lâu trăm tuổi, đều tại năm ấy vì cứu ta…” Hạ bá cười nói: “Tiểu tử ngươi rất thông minh, nhưng cũng rất cố chấp, Bạt Liệt Thiên Lý này sống thêm vài năm hay sống bớt vài năm có gì khác biệt? Đáng tiếc chuyện ta đáp ứng mẫu thân ngươi vẫn chưa hoàn thành, không thể lúc nào cũng ở bên ngươi.” Trầm mặc một lát, nói: “Đại ca ngươi… Không biết có lại tìm đến ngươi nữa không…” Hạ Mẫn Chi lạnh lùng nói: “Có, nhất định là có.” Nhìn về phía ngoài cửa sổ xa xa, tuyết phủ trắng xóa một vùng, trong thanh âm mơ hồ mang theo hàn ý khôn kể: “Mộ Dung Chi Khác chắc chắn không vô thanh vô tức chết đi như vậy, chỉ cần hắn còn sống, ắt sẽ tìm đến ta.” Hạ bá nói: “Hắn từ nhỏ đã kiêu ngạo, mấy năm qua nhất định một lòng muốn phục quốc, đến chừng đó lại ép ngươi…” Hạ Mẫn Chi trong mắt lộ vẻ lãnh khốc, ngắt lời: “Tên điên đó một khi trùng kiến Yên Diệc, e rằng ngàn dặm lãnh thổ Trung Nguyên, máu chảy thành sông, từ đó trở thành địa ngục A Tỳ, cũng may với thực lực hiện tại của Trữ quốc, hắn muốn điên đảo giang sơn không khác gì lấy trứng chọi đá, ta giờ đã là Hữu thừa Đại Lý Tự, không phải sợ hắn nữa, trái lại hắn chỉ còn nước rơi vào tay ta.” Hạ bá ảm đạm thở dài, thanh âm thấp đi: “Đời này hắn nợ ngươi quá nhiều, nhưng dù sao cũng là huynh trưởng của ngươi, là cốt nhục của Yên Diệc quốc, năm xưa ngươi cũng đã từng lập thệ sẽ tận lực bảo trụ tính mạng hắn.” Hạ Mẫn Chi mỉm cười, nhưng lại lạnh lùng thấu xương: “Ta còn sống ngày nào, sẽ không để hắn chết ngày đó, bất quá… Ta sẽ chặt đứt tham vọng, đập tan ý niệm của hắn, khiến hắn còn khổ sở hơn cả chết.” Hạ bá trong lòng khẽ than, nhãn thần dần dần ảm đạm, lại cười nói: “Không nói chuyện này nữa… Chi Mẫn, sau khi ta chết, ngươi đừng quá thương tâm. Ngươi cũng biết, cả đời này của ta, thời khắc hạnh phúc nhất, ngoài những năm tuổi trẻ, một người một kiếm tung hoành khắp Trung Nguyên, còn lại chính là bảy năm này, được sống như một lão nhân bình thường, đánh cá nuôi chim, cùng ngươi nương tựa lẫn nhau.” Hạ Mẫn Chi nắm chặt tay lão, im lặng lắng nghe, trên mặt mang ý cười, nhưng trong lòng tựa hồ có một thanh đao đang càn quấy, Bạt Liệt Thiên Lý là người bảy năm trước liều chết cứu mình, là người bảy năm qua luôn trung thành tận tâm không bỏ mặc mình. Như ngọn núi cả trong đời, tuy trầm mặc, nhưng đong đầy tình thương sâu nặng. Bóng đêm thâm trầm, Hạ bá nhắm mắt, ngón tay đã lạnh lẽo cứng đờ. Ngọn đèn trên bàn đột nhiên rực sáng, ánh lửa đỏ hồng, sau đó liền “phụt” một tiếng vang nhỏ, dầu cạn đèn tắt, chỉ còn tuyết quang ngoài cửa sổ. Hạ Mẫn Chi vẫn nắm chặt tay Hạ bá, trái tim như bị vùi trong lớp tuyết sâu. Cuối cùng… chỉ còn lại mình ta đơn độc. Niếp Thập Tam, Hạ bá, một sinh ly, một tử biệt, giữa đêm khuya tuyết ý thâm hàn, Hạ Mẫn Chi rốt cuộc vẫn cô đơn. Đột nhiên một cỗ đau đớn hàn lãnh tà ác từ ngực dâng lên, nhanh chóng ập tới ngũ tạng, lan khắp tứ chi xương cốt, khiến máu thịt đều như đóng băng. Hạ Mẫn Chi trong mắt lộ vẻ hoảng sợ, miễn cưỡng giơ tay lên, mu bàn tay đã trắng bệch, trong suốt đến quỷ dị, nhìn kỹ một hồi, nguyên lai đã ngưng đọng thành một tầng băng sương mỏng manh —— Hoàng Tuyền tam trọng tuyết! Sau năm năm do trong lòng lao lực bi thương quá độ mà lần thứ hai bộc phát. Lần này bên cạnh đã không còn cao thủ như Hạ bá tương trợ, Mộ Dung Chi Mẫn cũng được, Hạ Mẫn Chi cũng được, có mặt trên thế gian mười chín năm, cứ như vậy biến mất cũng chưa hẳn là chuyện không tốt. Mộ Dung Chi Khác, nguyện ngươi sống lâu trăm tuổi, phục quốc vô vọng. Đàn Khinh Trần… Người khác nhìn không ra ngươi muốn gì, nhưng ngươi không hề giấu diếm ta, nguyện ngươi đạt được sở nguyện, độc chưởng càn khôn, đừng cô phụ giang sơn ngàn dặm như tranh này. Niếp Thập Tam… Thập Tam, ta chỉ nguyện ngươi cả đời bình an hạnh phúc… Nụ cười trên môi vẫn nguyên vẹn không đổi, Hạ Mẫn Chi lặng lẽ ngã xuống. Sắc mặt Niếp Thập Tam có chút nhợt nhạt, nhưng thần tình lãnh tĩnh như đao phong. Ba ngày ba đêm, bàn tay hắn gần như không hề rời khỏi huyệt Khí Hải của Hạ Mẫn Chi. Niếp Thập Tam không biết Hạ Mẫn Chi trúng độc Hoàng Tuyền tam trọng tuyết, tự nhiên cũng không có thuốc giải cho loại độc này, nhưng hắn biết, hàn độc có lợi hại tới đâu đều có thể bị chân khí thuần hậu dương cương áp chế, tựa như mặt trời chói chang có thể đánh tan băng tuyết, đạo lý này nhất định không sai. Về phần trên đỉnh Thiên Sơn tồn tại loại băng vĩnh viễn không tan, về phần chân khí của mình không được như ánh mặt trời mãi mãi không cạn kiệt —— hai chuyện này Niếp Thập Tam cũng chẳng buồn nghĩ nữa. Khoảnh khắc nhìn thấy Hạ Mẫn Chi không chút sinh lực nằm trên mặt đất, huyết dịch cả người Niếp Thập Tam tựa hồ cũng đông lại, đau đớn như có lớp băng phủ khắp kinh mạch huyết quản, sống không bằng chết. Sau cửa ải sinh tử, Niếp Thập Tam đã sớm học cách tuyệt không buông tay, cho nên, trước khi chân khí cạn kiệt, nếu có thể cứu được Hạ Mẫn Chi, hai người liền cùng nhau sống sót; còn không thì trước bình mình ngày mai, chỉ còn là hai cỗ thi thể băng lãnh. Vô luận thế nào, dù sinh hay tử, đều là một đôi.
|