Hoàng Đế Nan Vi
|
|
Chương 111[EXTRACT]Từ khi bốn vị Hầu gia hậu đại của Nghi Vương đến đế đô thì đám tôn thất cũng trở nên náo nhiệt. Tuy rằng tươc vị của Tiêu Dao Hầu, Lâm Giang Hầu, Cẩm Y Hầu và Thiện Nhân Hầu cũng không cao, nhưng của cải sản nghiệp lại rất nhiều, hơn nữa còn có ý thân cận vào hào môn đế đô, nhất là Minh Trạm tỏ vẻ khá thân thiết với bọn họ, được đế vương nể mặt cũng khiến mấy vị Hầu gia có thể diện.
Trong lúc nhất thời, bốn người trở thành con cưng của đế đô.
Ở thời này không có chuyện kế hoạch hóa gia đình, tôn thất hầu gia, bao nhiêu tiểu thư khuê các chưa xuất giá hoặc bao nhiêu vương tôn công tử chưa thành thân thì chỉ trong nửa tháng ngắn ngủi sẽ được đính ước hôn sự khiến người ta phải ngưỡng mộ.
Lần này liên quan đến một vụ án hôn nhân, trải qua kiểm chứng cẩn thận từ Đại Lý Tự và Ngự Sử Đài, rất nhiều chứng cớ và chân tướng được đưa đến.
Đại lý tự khanh Đỗ Như Phương và hữu Đô ngự sử được Minh Trạm phái đến Chiết Mân đã trở về, bọn họ nhận mệnh điều tra vụ án Bảng nhãn Triệu Thanh Di Triệu gia phủ nghịch chỉ lừa hôn sau khi được tứ hôn, bức tử nữ nhân của Kỷ gia.
Đỗ Như Phương và Ngự sử đài mất cả buổi mới tra ra không ít chuyện.
Hôn sự giữa Triệu gia và Kỷ gia quả thật không phải tự dưng mà có. Từ lúc tin tức Triệu Thanh Di đỗ Bảng nhãn truyền về Chiết Mân thì Kỷ gia đã có ý muốn gả nữ nhi. Hai nhà này qua lại đã lâu, nhưng Triệu gia và Kỷ gia đính hôn trước khi thánh chỉ tứ hôn là việc mà rất nhiều người có thể làm chứng.
Mấu chốt chính là thánh chỉ tứ hôn, ngươi lại chưa thành thân thì hoàn toàn có thể thối hôn.
Chuyện này cũng không phải chưa có tiền lệ, tỷ như Phò mã Ngụy Quốc Công của Kính Mẫn đại trưởng Công chúa, lúc trước cũng có hôn ước với người khác, kết quả là Ngụy Quốc Công được Công chúa coi trọng, ban xuống thánh chỉ, liền ngoan ngoãn thối hôn để thú Công chúa.
Cho nên Minh Trạm chỉ hỏi thăm một chút, khi biết Triệu Thanh Di vẫn còn độc thân thì lập tức tứ hôn.
Triệu gia tạm thời được phán là vô tội trong chuyện đính hôn. Nhưng việc Triệu gia thú Kỷ thị lại xảy ra sau khi Hoàng thượng đã tứ hôn. Trên phương diện này có rất nhiều vấn đề, tỷ như Hoàng thượng tứ hôn, nhưng thánh chỉ tứ hôn lại ban trực tiếp cho Triệu Thanh Di. Lão tử lão nương của Triệu Thanh Di không phải ở đế đô, người ta ở xa xôi ngàn dặm, không nắm kịp tin tức, làm sao biết được Hoàng thượng tứ hôn cơ chứ?
Người ta không biết nên mới thú tức phụ về thay nhi tử!
Mặc dù có chút sai lầm nhưng vẫn nằm trong phạm vi có thể khoan hồng tha thứ.
Đương nhiên đây chỉ là một giả thiết.
Còn có một giả thiết khác chính là Triệu gia cố ý kháng chỉ.
Nhưng giả thiết này thì Đỗ Như Phương vẫn chưa điều tra căn cứ chính xác. Vì Triệu gia cũng không phải kẻ ngốc, Hoàng thượng đưa vụ án ra xét xử, người ta sẽ ở sau lưng tiêu hủy chứng cứ, cái gì không sạch sẽ sẽ được giải quyết gọn gàng. Vì vậy tuy rằng Đỗ Như Phương có nghi ngờ nhưng vẫn không thể tra ra chứng cứ xác thật.
Cuối cùng Minh Trạm cũng chỉ có thể nói, “Thôi, Nguyễn tiểu thư và Triệu Thanh Di không có duyên phận. Nhưng nếu Triệu gia không có ý thì vì sao không đến đế đô biện bạch với trẫm một tiếp mà lại thẳng tay vứt bỏ Kỷ thị? Khiến cho một người đang êm đang lành bị chôn vùi! Nghe nói Nhân Tông hoàng đế cảm mến bản tính trung trực của Triệu Văn Trung, từng ban cho tấm biển bốn chữ Mục Đức Trung Túc cho Triệu gia ở Chiết Mân.”
“Nay xem ra con cháu bất tài, không xứng với tấm biển này.” Minh Trạm nhìn Trịnh Khai Tuấn ở bên cạnh, “Khai Tuấn, nghĩ ra thánh chỉ thu hồi tấm biển Nhân Tông hoàng đế đã ban tặng Triệu gia đi.”
Kỳ thật mặc dù Minh Trạm rất sĩ diện, nhưng nếu hắn sớm biết việc này thì chưa hẳn không có đường quay đầu. Kết quả là Triệu gia lại gây ra án mạng, trong lòng Minh Trạm vô cùng chán ghét. Nhưng việc này lại không có căn cứ xác thực để định tội Triệu gia, bất quá văn sĩ luôn trọng thanh danh, huống chi Triệu phủ nhiều đời là thư hương dòng dõi, Minh Trạm kết án bằng một cái tát thật mạnh lên mặt của Triệu gia ở Chiết Mân.
Hoàng đế mất mặt thì phải lột da kẻ khác để đắp lên mặt đền bù.
Coi như an ủi quân tâm!
Hôn sự của Nguyễn Gia Duệ cứ như vậy mà thất bại, Minh Trạm nói với ái nhân, “Hiện tại ta không thể nhìn thấy chữ Triệu, nếu thấy thì sẽ nổi nóng, Phi Phi, cháu gái vẫn còn nhỏ, chúng ta cứ chậm rãi tìm kiếm cũng được.”
Nguyễn Hồng Phi không cảm thấy căm phẫn như Minh Trạm, “Ta đã chọn được người.”
Hiệu suất thật cao, Minh Trạm vội hỏi là ai, Nguyễn Hồng Phi vẫn phải chờ Minh Trạm tứ hôn, đương nhiên sẽ không nói vòng vo, hắn cười nói, “Thứ tử của Ngụy Quốc Công: Ngụy Địch.”
Nếu không phải trí nhớ của Minh Trạm tốt thì bảo đảm sẽ nhớ không nổi người mà Nguyễn Hồng Phi vừa nhắc đến là ai, trong đầu xoay chuyển một chút, Minh Trạm cau mày nói, “Hình như Ngụy Địch còn lớn tuổi hơn ta nữa thì phải, chẳng lẽ đến bây giờ mà hắn vẫn chưa thành thân hay sao?” Ngụy Địch, thứ tử của Ngụy Quốc Công, thứ tiểu cữu tử của Minh Trạm. (Anh cùng cha khác mẹ với tiểu Quận quân: vợ cả của Minh Trạm)
“Ừm, Ngụy Địch vốn đang được mai mối thì mẫu thân của hắn qua đời, giữ đạo hiếu ba năm, vì vậy mới trì hoãn đến hiện tại.” Việc này Nguyễn Hồng Phi còn hiểu rõ hơn cả Minh Trạm. Bởi vì lại được tìm một hôn sự thật tốt cho cháu gái nên Nguyễn Hồng Phi cảm thấy khá tự đắc, trời lạnh mà hắn lại phe phẩy quạt, cố ý tỏ ra ung dung tiêu sái.
Minh Trạm nhảy mũi hai cái thật mạnh, khinh bỉ liếc nhìn Nguyễn Hồng Phi, làm như không thấy dáng vẻ ung dung tiêu sái hơn người của Nguyễn Hồng Phi mà chỉ đả kích mị lực của đối phương, “Sắp nhập đông rồi, ngươi còn quạt cái gì nữa, bị mắc bệnh tài tử hả?” Đúng là thần kinh.
“Ngụy Địch là thứ tử, có uất ức cho cháu gái hay không?” Rõ ràng là Minh Trạm ngang hàng với Nguyễn Gia Duệ, nhưng hắn cảm thấy chính mình đã thú Nguyễn Hồng Phi, về vai vế thì sẽ cao hơn một hàng, liền nhanh chóng tự xem là cữu cữu của Nguyễn Gia Duệ.
Minh Trạm nói chuyện xưa nay luôn có chút khoa trương, bất quá chỉ là mới nhập thu mà thôi, nhập đông thì còn rất xa. Nguyễn Hồng Phi khép lại chiếc quạt nạm vàng, gõ lên đầu của Minh Trạm một cái, “Có gì đâu, Ngụy Địch là tiến sĩ ở thời của đại tiện nhân, hắn có chút tài cán, chỉ là thời vận hơi kém mà thôi.”
Dù sao thì cũng là Nguyễn Hồng Phi đích thân chọn lựa, Minh Trạm liền đồng ý, “Ngày mai ta sẽ cho viết thánh chỉ.”
“Mà hiện tại chẳng phải người ta đều xem đích mẫu là nương hay sao? Mẫu thân qua đời mà lại có thể giữ đạo hiếu ba năm à?” Minh Trạm quay đầu hỏi một câu. Giống Tham Xuân trong Hồng Lâu Mộng, tuy rằng là khuê nữ của Triệu di nương, nhưng phải kêu đích mẫu Vương phu nhân là mẫu thân. Ở thời này tuy rằng thị thiếp có thể sinh con, nhưng địa vị của bọn họ vẫn là nô tỳ, phải xem con cái của mình là chủ tử tiểu thư. Thiết nghĩ chủ tử nhà ai lại đi giữ đạo hiếu ba năm cho người hầu bao giờ? Đúng là kỳ lạ!
Nguyễn Hồng Phi thở dài, “Chuyện này cũng thật oan nghiệt, mẫu thân của Ngụy Địch vốn là nữ nhi của Phương Quốc Công, sau này không biết vì sao mà Kính Mẫn Công chúa lại coi trọng Ngụy Quốc Công, chết sống đòi gả cho Ngụy Quốc Công. Ngụy gia có thể làm gì đây? Chỉ đành phải từ hôn. Kỳ thật chuyện này vốn cũng chẳng có gì, nhưng sau đó Phương Quốc Công lại xảy ra chuyện, bị tước chức. Phương thị không có chỗ dựa vào, cuộc sống vô cùng gian nan. Cũng không biết vì sao lại gặp được Ngụy Quốc Công, Ngụy Quốc Công và Phương thị đã từng gặp nhau lúc nhỏ, lần này gặp mặt liền sinh ra một chút tình nghĩa. Chẳng qua Ngụy Quốc Công đã là Phò mã, làm sao dám nạp tiểu thiếp, vì vậy đành phải lén lút an bài Phương thị ở bên ngoài. Sau đó lại đơm hoa kết quả, rốt cục Kính Mẫn công chúa cũng biết.”
Minh Trạm thở dài, “Nhân Tông hoàng đế cũng thật là, người ta đã đính hôn mà lại chia rẽ nhân duyên?”
“Làm Hoàng đế cũng không phải ai cũng biết phân rõ phải trái.” Nguyễn Hồng Phi nói, “Sau khi Kính Mẫn công chúa biết được việc này, là một nhất phẩm Công chúa như Kính Mẫn đại trưởng Công chúa, lại là kiêu nữ của thiên tử, nhưng thật ra lại rất hiền thục. Cũng không đại náo khiến Ngụy Quốc Công mất mặt, mà lại phái nhũ mẫu tâm phúc đón Phương thị vào phủ Công chúa, làm lễ cho Ngụy Quốc Công rước tiểu thiếp.”
“Nếu để ta nói thì Ngụy Địch là kẻ ngốc. Hắn vốn là thứ tử, xuất thân thấp kém. Tuy có một chút tài học nhưng lại kiêu ngạo khó thuần, hắn thật không nên bướng bỉnh giữ đạo hiếu ba năm cho mẫu thân như vậy. Khiến Ngụy Quốc Công và Kính Mẫn công chúa cũng chẳng đẹp mặt gì! Ngay cả nhân sĩ cũng không đồng ý hành vi nâng thứ bỏ đích của hắn như vậy, dù sao năm đó cũng là Kính Mẫn đại trưởng Công chúa đón Phương thị vào phủ, cả thành đều bảo Kính Mẫn đại trưởng Công chúa hiền lương thục đức.” Khóe môi của Nguyễn Hồng Phi nhếch lên, vẻ mặt hơi mơ hồ, “Tuy là mẫu thân nhưng dù sao vẫn mang theo một chữ thứ. Hắn như vậy thì người mất lòng nhất lại chính là hắn, vì thế không có mấy ai nguyện ý gả nữ nhi cho hắn.”
Tuy rằng Minh Trạm là người hiện đại nhưng hắn cũng không phản đối chế độ đích thứ tôn ti của người cổ đại.
Loại chế độ này có lẽ có chỗ thiếu hụt, nhưng lại giúp xã hội phân chia quy củ cấp bậc lễ nghĩa, giảm đi không ít tranh chấp.
Nếu Minh Trạm có nữ nhi riêng thì hắn cũng sẽ không gả cho Ngụy Địch, người này vốn chẳng biết phân rõ đích thứ, khó tránh khỏi ngày sau sẽ xem thứ tử là đích tử, lại có nguy cơ sủng thiếp diệt thê. Người như vậy không ai chịu gả cũng là phải đạo.
Cho dù là Minh Trạm, sống trong xã hội này thì phải tôn trọng quy tắc xã hội mà làm việc.
Nguyễn Hồng Phi tán thưởng, “Tuy Ngụy Địch có chút bướng bỉnh, nhiều người trong thiên hạ không ưa gì hắn, nhưng hắn đã sớm lập lời thề, cả đời chỉ lấy duy nhất một người, không dính vào mỹ sắc, lại càng không nạp tiểu thiếp để tránh sinh ra thứ tử có địa vị hổ thẹn như hắn.”
Nghe đến đây thì Minh Trạm mới gật đầu, “Nói như vậy thì Ngụy Địch cũng không tệ.”
Hôn sự lần thứ hai của Nguyễn Gia Duệ cứ như vậy mà được quyết định.
Ngụy Địch hoàn toàn không có chuẩn bị đối với hôn sự này.
Nhưng đối với Ngụy gia lại là một chuyện đáng vui mừng.
Ngụy Quốc Công âm thầm mừng rỡ, đối với tiểu nhi tử mà thường ngày hắn có chút không vừa mắt, lúc này lại cảm thấy vô cùng thuận mắt, trong lúc nhất thời mặt mày trở nên hớn hở.
Kính Mẫn đại trưởng Công chúa tiễn thái giám truyền chỉ rồi mỉm cười nói với trượng phu, “Chúc mừng Phò mã.”
Trong mắt của Ngụy Quốc Công tràn ra ý cười, “Cùng chung vui thôi. Địch nhi, đi lấy vò rượu quý giá mà phụ thân đã ủ năm mươi năm đến đây, buổi tối đại ca của ngươi trở về, phụ tử chúng ta cùng nhau uống vài ly.”
Kính Mẫn đại trưởng Công chúa cười nói, “Nên như thế. Thân phận của Nguyễn tiểu thư cao quý, bao nhiêu người cầu mà cũng không được, vẫn là Địch nhi của chúng ta có phúc.” Lại quay sang nói với trượng phu, “Nay Nguyễn tiểu thư ở tại quý phủ của Thục Nghi, Hoàng thượng ban ân điển, ngày mai Thục Nghi nhất định sẽ dẫn theo Nguyễn tiểu thư vào trong cung của Thái Hậu để tạ ơn. Trước kia thiếp cũng chưa gặp qua Nguyễn tiểu thư. Trùng hợp nhân cơ hội này thiếp đi nhìn thử một chút rồi quay về nói cho phụ tử hai người biết, cũng khiến hai người yên lòng.”
“Hoàng thượng tứ hôn thì đương nhiên là phải tốt, Công chúa lo lắng quá nhiều rồi.” Ngụy Quốc Công vừa cười vừa nói, “Nếu như thế thì cũng có công lao của Công chúa.”
Kính Mẫn đại trưởng Công chúa liên mồm tán thưởng, “Địch nhi quả thật có phúc. Thật sự khiến thiếp nhớ đến hôn sự trước kia của Thục Nghi, Phúc Xương tỷ không có phúc như Thái Dương muội muội. Từ khi Thọ An Hầu kết duyên cùng Thục Nghi thì luôn hòa thuận ấm êm. Toàn bộ đế đô có ai sánh bằng Thục Nghi đâu cơ chứ.”
“Nay xem ra Địch nhi còn có phúc hơn cả Thọ An Hầu.”
Ngụy Quốc Công càng thêm thoải mái.
Ngụy Địch hạ thấp giọng, “Điện hạ, phụ thân, nhi tử ra ngoài đọc sách trước.”
“Đi đi.” Chuyện vui như vậy mà trên mặt nhi tử lại chẳng có tí vui mừng, Ngụy Quốc Công cảm thấy có một chút khó chịu. Chẳng qua hôm nay là ngày vui nên cũng không muốn mắng Ngụy Địch, bèn đuổi Ngụy Địch lui xuống, “Cũng đừng ru rú đọc sách miết, ngươi rất nhàn rỗi, ngày sau ta dẫn ngươi đến Lại bộ hỏi thăm một chút xem có công việc nào thích hợp hay không, dù sao cũng không thể thành thân rồi mà vẫn ăn không ngồi rồi.”
Ngụy Địch thấp giọng dạ một tiếng rồi xoay người lui ra.
Kính Mẫn đại trưởng Công chúa vẫn thản nhiên cười, ánh mắt hiền lành nhìn theo hướng đi của Ngụy Địch, thân thiết hỏi Ngụy Quốc Công, “Hôn sự này cũng không thể qua loa, thiếp thấy chỗ ở của Địch nhi quá nhỏ, không bằng chuyển sang Dao Lâm viện đi, chỗ đó cũng rộng rãi.”
“Công chúa cứ an bài theo ý mình, ánh mắt của Công chúa lúc nào cũng tốt cả.”
Kính Mẫn đại trưởng Công chúa cười nói, “Nay là bệ hạ tứ hôn, nhà chúng ta cũng chỉ có Địch nhi và Tiễu nhi, tuyệt đối không thể uất ức Nguyễn tiểu thư, ta thấy cứ theo tiền lệ như Tiễu nhi trước kia là được?”
Cho dù như thế nào thì Ngụy Địch cũng chỉ là thứ tử, Kính Mẫn đại trưởng Công chúa nói như vậy cũng không hợp lý cho lắm. Ngụy Quốc Công suy nghĩ rồi thở dài, “Giảm bớt một phần so với Tiễu nhi trước kia đi. Đây là quy củ, đừng khiến người ta chê cười.”
“Nhưng đây là Hoàng thượng tứ hôn mà.” Kính Mẫn đại trưởng Công chúa nói, không nể mặt tăng ni thì cũng phải nể mặt Phật tổ, tuy là thứ tử nhưng có phúc khí, làm sao lại không khiến người ta phải cảm thán cho được.
“Đích thứ tôn ti khác biệt.”
Kính Mẫn đại trưởng Công chúa chỉ đành chấp nhận, “Vậy theo ý của Phò mã đi.”
Rốt cục mới cảm thấy an tâm một chút.
Vệ thái hậu cũng không quá đồng ý đồng ý đối với việc gả Nguyễn Gia Duệ cho Ngụy Địch, nàng nói với Minh Trạm, “Ngụy Địch là thứ tử, Ngụy Tiễu mới là trưởng tử của Kính Mẫn đại trưởng Công chúa, theo lý thì Ngụy Tiễu mới gần huyết thống với ngươi. Nay ngươi ban cho Ngụy Địch hôn sự như vậy, ngày sau không biết sẽ gây ra bao nhiêu phiền phức đây.”
Chẳng phải chuyện này là do Phi Phi nhà hắn coi trọng tiểu tử Ngụy gia hay sao. Minh Trạm âm thầm nghĩ như vậy trong lòng nhưng ngoài miệng không dám nói, sợ làm cho bà bà và tức phụ mâu thuẫn.
“Đúng là bị mỹ sắc mê muội.” Vệ thái hậu phê phán hành vi của Minh Trạm.
Minh Trạm vẫn bao che cho Nguyễn Hồng Phi, “Là nhi tử thấy Ngụy Địch tuấn tú nho nhã, nay Nguyễn thị đã mười tám, muốn tìm một người lớn hơn nàng mà vẫn chưa thành thân lại có chút gia thế cũng không dễ dàng gì, vì vậy mới quyết định chọn Ngụy Địch.”
Vệ thái hậu trừng mắt nhìn Minh Trạm, “Thảo nào người ta hay nói có tức phụ sẽ quên lão nương, bây giờ còn bày đặt nói dối nữa. Nếu không phải là Hồng Phi thì làm sao ngươi có thể nghĩ đến Ngụy Địch cơ chứ?”
Bị mẫu thân nhìn ra, Minh Trạm kéo tay mẫu thân, mỉm cười làm lành, “Người ta thường hay nói, nam nhân sợ thê tử mới là hảo nam nhân mà.”
“Nói hưu nói vượn.”
“Hầy, mẫu thân, Phi Phi ít khi mở miệng cầu xin nhi tử làm chuyện gì, nhi tử cũng không thể không biết xấu hổ mà từ chối hắn.” Ngược lại với người khác, Minh Trạm quả thật thiên vị đối với ái nhân của nhà mình, “Hắn chật vật hơn nửa đời người, trong lòng luôn lo nghĩ cho Nguyễn Gia Duệ, nhi tử làm sao nhẫn tâm không toại nguyện cho hắn cơ chứ. Hơn nữa, dù sao thì Nguyễn Gia Duệ cũng không phải người của hoàng thất, thân phận có giới hạn, cho dù như thế nào thì tước vị của Ngụy Quốc Công vẫn là của Ngụy Tiễu, họ hàng xa gần thế nào thì nhi tử đều biết rõ.”
Vệ thái hậu cảm thán một tiếng rồi nói với Minh Trạm, “Ngươi thanh tỉnh một chút đi, Hồng Phi và Kính Mẫn hoàng tỷ có hiềm khích. Hai người các ngươi cho dù thân thiết như thế nào thì trên phương diện chính trị vẫn phải phân biệt rõ ràng một chút. Lần này Hồng Phi thật quá đáng.” Dám lợi dụng tình yêu của nhi tử nhà mình, Vệ thái hậu rất bất mãn đối với Nguyễn Hồng Phi.
Minh Trạm cũng không biết chuyện này, lúc trước Minh Trạm có hỏi thăm Nguyễn Hồng Phi về cái chết của tiểu Quận quân, nhưng Nguyễn Hồng Phi bảo rằng cũng không rõ lắm. Trên phương diện này thì Nguyễn Hồng Phi rất thẳng thắn thành khẩn, hắn đã ngồi trên địa vị hiện tại thì cũng không cần phải nói dối. Minh Trạm cau mày hỏi, “Lúc trước Phi Phi được phụ hoàng cho rằng là người của hoàng thất, khi đó là do Kính Mẫn bá bá giúp đỡ một tay cơ mà. Mẫu thân, chẳng lẽ bọn họ thật sự có thù oán hay sao?”
Sắc mặt của Vệ thái hậu hơi ảm đạm, cũng không nói nhiều lời.
Về phần hôn sự của Nguyễn Gia Duệ và Ngụy Địch, nay thánh chỉ đã ban xuống, có sửa cũng không được, vì vậy Vệ thái hậu cũng không nhắc lại.
Vừa chuẩn bị sính lễ cho Ngụy Địch và Nguyễn Gia Duệ, Kính Mẫn đại trưởng Công chúa vừa thương nghị chuyện của nhi tử với Ngụy Quốc Công, “Tức phụ của Tiễu nhi tuy rằng bạc mệnh, nhưng dù sao đảo mắt cũng đã qua một năm. Hầy, nay bên cạnh Tiễu nhi chẳng có ai, thiếp ngày nào cũng lo lắng. Tuy trong phủ có nha hoàn và nhũ mẫu, nhưng dù sao cũng không chu toàn bằng thê tử của mình. Còn nữa, Địch nhi sắp thành thân rồi, dù sao cũng không thể để đại tẩu vào cửa sau đệ muội được.”
Thấy thê tử nói cũng có lý, Ngụy Quốc Công bèn đáp lời, “Công chúa nói đúng, nhưng phải có người phù hợp mới được.”
“Mấy ngày trước thiếp ở chỗ của Thái hậu có gặp được tam khuê nữ của Thiện Nhân Hầu, tướng mạo không cần phải nói, cử chỉ lại rất hòa nhã.” Kính Mẫn đại trưởng Công chúa cười nói, “Thiếp nghĩ, tuy không phải chính thê nhưng dù sao tức phụ của Tiễu nhi cũng để lại cho hắn tiểu Hương, về sau cứ để Hương nhi cho thiếp nuôi dưỡng, cũng để thiếp có người bầu bạn. Chờ tân tức phụ vào cửa thì thiếp sẽ nói khéo để nàng ta đối đãi Hương nhi như khuê nữ của mình.”
Vì sao Kính Mẫn đại trưởng Công chúa lại vội vàng muốn nhi tử tái giá như thế cũng chỉ là vì hai chữ trước sau mà thôi. Như Kính Mẫn đại trưởng Công chúa đã nói, tuy là tái giá nhưng nếu ngày sau để tẩu tử vào cửa sau đệ muội thì mặt mũi đặt ở đâu?
Chưa nói đến việc chính thê ít có nhiệt tình đối với thứ tử, chỉ cần dựa vào việc Ngụy Địch giữ đạo hiếu ba năm cho mẫu thân của mình thì Kính Mẫn đại trưởng Công chúa đã không thể ưa gì hắn! Lại càng không cần nhắc đến ân oán trước kia!
Làm mẫu thân thì đương nhiên đều lo lắng cho con cái của mình trước.
Ngụy Quốc Công cũng không hồ đồ, hiểu rõ ưu sầu của thê tử. Nhưng gia có gia quy, thê tử mưu tính như vậy cũng không có gì là sai. Ngụy Quốc Công là người cẩn thận, bèn nói với thê tử, “Đi gặp Thái hậu để hỏi thăm ý tứ của Thái hậu như thế nào vẫn hay hơn.”
“Thiếp biết rồi.”
Vệ thái hậu không ngờ Kính Mẫn đại trưởng Công chúa muốn kết thân với nhà Thiên Nhân Hầu.
|
Chương 111[EXTRACT]Kính Mẫn đại trưởng Công chúa ôn hòa nói, “Thê tử của Tiễu nhi bạc mệnh, nay đã qua tang kỳ. Hắn đã từng tuổi này mà vẫn chưa có đích tử, trong lòng của ta cũng lo lắng. Đã xem hết các thục nữ ở đế đô, nếu không phải ở đây không thích hợp thì chỗ kia lại không ổn. Ta muốn nói vài lời tri tâm với nương nương. Đến bây giờ ta còn cầu gì nữa? Chỉ cầu con cháu bình an mà thôi. Nếu Tiễu nhi đã có trưởng tử thì cũng không sao, nhưng năm ngoái thứ tử lại chết yểu, hiện tại ngẫm lại đúng là báo ứng.” Nói xong, Kính Mẫn đại trưởng Công chúa bắt đầu rơi lệ.
Vệ thái hậu nhẹ nhàng khuyên nhủ, “Hoàng tỷ nói lạc đi đâu rồi, xưa nay Hoàng tỷ hành thiện tích đức, thần linh sẽ phù hộ mà.”
Kính Mẫn đại trưởng Công chúa vẫn cúi đầu khóc thút thít, cầm lấy tay của Vệ thái hậu rồi thấp giọng nói, “Mấy năm nay cũng không biết vì sao ta thường xuyên nhớ đến chuyện của Trạch nhi. Lúc trước ta cũng không biết bệnh tình của Trạch nhi nặng như vậy, nếu ta biết thì ta nhất định đã đi thăm hắn.”
Vệ thái hậu thở dài một tiếng, “Hoàng tỷ, chuyện cũ cũng đã qua lâu rồi.” Người bình thường có lẽ sẽ không biết Trạch nhi mà Kính Mẫn đại trưởng Công chúa nhắc đến là ai. Nhưng có thể khiến cho Kính Mẫn đại trưởng Công chúa hổ thẹn đến như vậy thì nhất định không phải tiểu bối vô danh.
Vị Trạch nhi này không phải người vô danh, mà người này có dòng họ rất nổi danh.
Hắn chẳng phải ai khác mà chính là nhi tử duy nhất của Lệ thái tử, Phượng Khải Trạch.
Năm xưa Lệ thái tử đảo chính thất bại, bị tống vào Tông Nhân phủ, Phượng Khải Trạch và mẫu thân bị nhốt trong Đông cung. Nhắc đến thì đúng là oan nghiệt, trên đời ít kẻ giúp người khi hoạn nạn mà lại nhiều kẻ thích giậu đổ bìm leo. Lệ thái tử bị phế, sau khi Phương hoàng hậu tự xin phế thì toàn bộ Đông cung đều rơi vào tình trạng nguy cập, Phượng Khải Trạch ở Đông cung đương nhiên không được chăm sóc tốt, tiểu hài tử quen sống an nhàn sung sướng nên khi lâm bệnh nặng thì đã qua đời.
Lúc ấy Phượng Khải Trạch bệnh nặng, Thái tử phi quỳ xuống đất cầu xin thị vệ canh gác, dập đầu đến mức rướm máu thì thị vệ mới bằng lòng giúp dàn xếp, đem tin tức đưa đến chỗ của Kính Mẫn đại trưởng Công chúa. Nhưng lúc ấy huynh trưởng bị tống vào lao, mẫu thân thì bị phế, Kính Mẫn đại trưởng Công chúa như chim sợ cành cong, vì sợ bị hoài nghi nên không dám để ý đến chuyện này. Đợi ngày hôm sau ngự y đến Đông cung thì Phượng Khải Trạch đã mất mạng.
Thái tử phi cũng vì vậy mà qua đời.
Nhân Tông hoàng đế vô cùng bi thương, phái người tra rõ chuyện này. Nếu việc này bị Nhân Tông hoàng đế tra ra là Kính Mẫn đại trưởng Công chúa khoanh tay đứng nhìn vì e ngại thì kết cục của Kính Mẫn đại trưởng Công chúa sẽ không tốt lành gì cho cam.
Phương hoàng hậu đang lâm bệnh biết được việc này thì chẳng nói gì cả, còn cố gắng dốc sức giúp Kính Mẫn đại trưởng Công chúa che giấu việc này. Không có ai biết cảm giác trong lòng của Kính Mẫn đại trưởng Công chúa lúc ấy như thế nào. Phương hoàng hậu thở dài với nữ nhi, “Ngươi có thể tự bảo vệ mình thì mẫu thân đã an tâm rồi.”
“Mẫu thân giết không ít người, vì thế cũng có vô số người muốn giết mẫu thân.” Bàn tay gầy guộc của Phương hoàng hậu vuốt ve mái tóc đen nhánh của nữ nhi, dịu dàng nói, “Là mẫu thân thì ta có thể yên tâm, là tổ mẫu thì ta phải nói thay Khải Trạch một câu, Kính Mẫn, ngươi phải nhớ, nhân quả báo ứng, lục đạo luân hồi. Hôm nay mẫu thân đau lòng như vậy, ngày sau ngươi cũng phải chuẩn bị tinh thần.”
Sự việc đã trôi qua từ rất lâu, nhưng khi nhớ lại vẫn cảm thấy nỗi bi thương dâng trào rõ rệt.
Kính Mẫn đại trưởng Công chúa bắt đầu chuẩn bị hôn sự cho hai nhi tử.
Minh Trạm: Lã Vọng buông cần.( =bình thản)
Sau khi Minh Trạm từ chỗ của Vệ thái hậu quay về thì cũng không nói lời nào, chỉ cợt nhả suốt ngày. Còn trục lợi khiến Nguyễn Hồng Phi buồn bực, Nguyễn Hồng Phi nhịn không được mà hỏi, “Mũm mĩm, Vệ tỷ tỷ nói cái gì với ngươi vậy?”
“Nói là ngươi mượn tay ta để tính kế Kính Mẫn đại trưởng Công chúa.” Minh Trạm khinh thường Nguyễn Hồng Phi.
Xem ra mình đoán không sai, Nguyễn Hồng Phi ôm vai Minh Trạm, muốn nói lại thôi. Minh Trạm cười he he hai tiếng rồi nhắc nhở, “Nhớ kỹ, ngươi nợ ta một lần đó.”
“Ừm, coi như xóa sổ một trăm vạn ngân lượng lần trước đi.” Tiểu tử thối này nợ ngập đầu mà còn dám tính sổ với hắn nữa. Nguyễn Hồng Phi hào phóng xóa phần nợ mà vĩnh viễn hắn không thể thu hồi.
Minh Trạm đắc ý liếc mắt nhìn Nguyễn Hồng Phi, nheo mắt khoe khoang, “Đưa bọn họ đến đế đô quả nhiên là đúng, không cần ta động thủ, kẻ giấu đầu lòi đuôi cũng bắt đầu lộ mặt.”
Khi Minh Trạm hớn hở khoe ra tài trí thông minh của mình với Nguyễn Hồng Phi, phải bắt lấy kẻ giấu đầu lòi đuôi như thế nào thì Trấn Nam Vương phủ ở Tây Nam cũng truyền đến tin tức quan trọng.
Khi Phượng Cảnh Nam nhận được mật thư của Minh Trạm thì bắt đầu cân nhắc đến cung biến Tây Tạng, giống như Minh Trạm đã nói, nếu có thể cứu được Tàng Vương thì Trấn Nam Vương phủ sẽ là người có lợi nhất.
Đương nhiên ý tứ trong thư của Minh Trạm rất dễ hiểu.
Nếu ngươi muốn là kẻ được lợi nhiều nhất thì cũng phải gánh vác mạo hiểm lớn nhất.
Khi Phạm Thành lên đường đến Tây Tạng thì Phượng Cảnh Nam cũng phái Chu Tử Chính đi sứ Tây Tạng cùng Phạm Thành. Bởi vì Chu Tử Chính từng đàm phán mậu dịch ở biên ải Vân Nam Tây Tạng với Tàng Vương, nhất là Chu Tử Chính rất khéo mồm, lại có kinh nghiệm và thực lực, rất thích hợp làm sứ thần.
Bởi vậy cũng có thể nhìn ra Phượng Cảnh Nam thật sự dốc hết sức để giúp đỡ Minh Trạm. Bằng không, một Phạm Thành với chức quan nho nhỏ thì làm sao đáng giá để Chu Tử Chính ra mặt làm siêu cấp trợ thủ như vậy.
Phượng Cảnh Nam lại tự mình viết một phong thư cho Lạt Ma Tây Tạng và Tây Tạng Vương, trong thư nói thẳng, hắn và Tàng Vương là quân chủ hữu nghị, xem nhau như huynh đệ, nếu thân thể của Tàng Vương không khỏe thì hoan nghênh Tàng Vương đến Vân Nam chữa trị. Đồng thời thảo luận một chút với Lạt Ma Tây Tạng về việc gia tăng các chủng loại vật phẩm giao dịch ở khu mậu dịch. Tiếp theo liền phái thần y Vân Quý Liễu Bàn đi sứ Tây Tạng.
Liễu Bàn mang theo thư của Phượng Cảnh Nam đến Tây Tạng, đồng thời cũng giúp đám người Phạm Thành hóa giải khó khăn.
Bởi vì lúc này Phạm Thành và Chu Tử Chính đã phát hiện tình cảnh của Tạng Vương hình như đã vô cùng bất ổn.
Tàng Vương vẫn luôn hôn mê cho nên mọi công việc lớn nhỏ đều do đệ đệ của Tàng Vương là Nhân Minh thân vương nhiếp chính.
Phạm Thanh và Chu Tử Chính không phải những kẻ đầu đường xó chợ, khi bọn họ đến hoàng cung Tây Tạng ba ngày mà vẫn không thấy Tàng Vương thì hai người liền biết Tây Tạng có lẽ đã xảy ra chính biến. Bọn họ phải vừa đấm vừa xoa thì Nhân Minh thân vương mới nói rõ tình trạng của Tàng Vương cho hai vị sứ thần biết.
Trước tiên Phạm Thành tỏ vẻ quan tâm lo lắng đến thân thể của Tàng Vương, nhẹ nhàng nói, “Nếu Thanh Loan công chúa điện hạ biết được thân thể của Tàng Vương không khỏe thì không biết sẽ cảm thấy thế nào. Bệ hạ chúng ta và Công chúa điện hạ có tình cảm thâm hậu, chắc chắn cũng lo lắng cho an nguy của Tàng Vương.”
Nhân Minh thân vương mang theo vài phần thương cảm, “Vương huynh bỗng nhiên ngã khuỵu không thể dậy nổi, chư vị Vương tử vẫn còn nhỏ tuổi, Lạt Ma ủy thác cho tiểu Vương tạm thời thay đại Vương huynh nhiếp chính. Hầy, nay tiểu Vương luôn lo lắng cho Thanh Loan điệt nữ, không biết Thanh Loan ở hoàng cung của quý quốc có khỏe không?”
“Bệ hạ của chúng ta xem Công chúa điện hạ là báu vật vô giá.” Phạm Thành nói, “Tàng Vương lâm trọng bệnh, sứ thần chúng ta nghe nói Lạt Ma của quý quốc có phật hiệu cao thâm, đức cao vọng trọng. Trước khi đi bệ hạ đã phân phó cho tiểu thần phải đích thân vấn an Lạt Ma, không biết Thân Vương điện hạ có thể an bài hay không?”
Trong lòng của Nhân Minh thân vương không quá tình nguyện, trên mặt vẫn cười nói như cũ, “Tiểu vương rất vinh hạnh.”
Phạm Thành và Chu Tử Chính có cùng quan điểm, cho dù vị Nhân Minh thân vương điện hạ này có liên quan đến việc Tàng Vương ngã bệnh hay không thì hôn sự giữa người Thát Đát và Tử Diên công chúa: nữ nhi của Nhân Minh thân vương đã rất rõ ràng. Hơn nữa Tàng Vương lâm trọng bệnh, Nhân Minh thân vương là người trực tiếp được lợi nhiều nhất.
Lúc này thà rằng nghĩ sai còn hơn tin lầm.
Việc cấp bách, bọn họ cần gặp một vị vương giả khác ở Tây Tạng, chính là Lạt Ma Tây Tạng điện hạ.
Thái độ của Lạt Ma càng khó có thể phân rõ.
“Sứ giả đến từ phương xa, quân vương của các ngươi đang gặp phải kinh thiên đại nạn, hà cớ gì mà sứ giả vẫn còn nấn ná lâu dài ở nơi này?” Trên một phương diện nào đó thì Lạt Ma rất giống thần tiên, bọn họ biết cách nói những lời ám chỉ, những lời này thường xuyên khiến người ta sinh ra vô hạn liên tưởng.
Hơn nữa mặt mũi của Lạt Ma cũng hiền lành, dù sao nếu tính theo khuôn khổ thì tướng mạo của Lạt Ma hoàn toàn bí hiểm hơn hẳn đám đạo sĩ luyện đan hết ăn lại uống trước kia ở trong hoàng cung, người này rất có tướng từ bi độ lượng.
Đối mặt với Phật giáo thì trước kia Phạm Thành còn có chút thành kính, nhưng cực kỳ trùng hợp là trước khi Phạm Thành đến Tây Tạng thì đế đô lại oanh liệt triển khai hoạt động khai trừ các tệ nạn mê tín dị đoan. Ba tên đạo sĩ lừa gạt Hoàng thượng đã bị Hoàng thượng đem ra chém đầu.
Lúc này sự thành kính của Phạm Thành đối với Phật giáo đã trở nên bình thường. Còn nữa, hắn biết Lạt Ma có đức cao vọng trọng ở Tây Tạng, nhưng Phạm Thành cho rằng, Phật tổ thần tiên đều có địa bàn riêng, e rằng vị Lạt Ma Tây Tạng này sẽ không thể bận tâm đến chuyện Thiên triều.
Phạm Thành thản nhiên mỉm cười với câu hỏi của Lạt Ma, “Đại sư phụ, bệ hạ của chúng ta là cửu ngũ chí tôn, thân có bách linh hộ thể, vận mệnh tôn quý, thiên hạ hiếm thấy, cho dù có nguy nan thì với sự anh minh của bệ hạ chúng ta cũng có thể hóa hiểm thành lành, chuyển nguy thành an.”
“Còn nữa, nếu đại sư phụ đoán được tương lai thì ắt là cũng có thể nhìn thấy Hoàng đế bệ hạ của chúng ta sẽ cai quản tứ hải, uy vọng khắp phương.” Phạm Thành ung dung tự nhiên, không hề hoang mang.
Lạt Ma chỉ cười không nói, ánh mắt hiền từ dừng trên mặt của Chu Tử Chính rồi khẽ gật đầu, “Chu đại nhân, lần thứ hai gặp mặt.”
Chu Tử Chính thi lễ, “Đại sư phụ, chúng ta phụng lệnh đi sứ Tây Tạng, ta xin vấn an đại sư phụ.”
“Ta biết rõ ý đồ của các ngươi đến đây.” Lạt Ma ôn hòa nói, “Đây là thử thách vận mệnh của Vương, chỉ có Vương mới có thể tự mình hóa giải.”
Chu Tử Chính nói không nhanh không vội, “Đây là chuyện triều chính của Tây Tạng, không phải là điều là tiểu thần có thể can dự. Tiểu thần đên đây là vì có một chuyện khó hiểu muốn thỉnh giáo đại sư phụ.”
Lạt Ma hơi gật đầu.
“Đại sư phụ, Hoàng đế bệ hạ của chúng ta và Thanh Loan công chúa có quan hệ tốt đẹp. Từ khi Công chúa điện hạ gả cho bệ hạ, mậu dịch của Vân Quý và Tây Tạng càng ngày càng phồn vinh, chúng ta mang đến cho dân Tây Tạng cuộc sống càng thêm phương tiện phong phú. Đương nhiên người Thiên triều chúng ta rất thích vật phẩm của Tây Tạng.” Chu Tử Chính nói, “Tình hữu nghị giữa Thiên triều và Tây Tạng đang êm đẹp, bệ hạ chúng ta căn cứ vào tinh thần hữu ái thân cận, xem Thanh Loan công chúa là bảo vật mà sủng ái. Chẳng biết vì sao Tây Tạng lại đưa Tử Diên công chúa đi nghị thân với người Thát Đát khi triều đình chúng ta đang xảy ra chiến tranh với Thát Đát?”
“Nghe nói ở thời Nhân Tông hoàng đế cũng từng gả Chiêu Hòa công chúa cho Thát Đát Khả Hãn.” Có thể làm Lạt Ma thì trí tuệ tất nhiên không thấp, Lạt Ma mỉm cười, “Mà khi ấy người Thát Đát đang xâm phạm biên ải Tây Tạng. Người Tây Tạng phái sứ thần đến gặp Nhân Tông hoàng đế thì cũng không được đáp án thỏa mãn, nhưng chúng ta vẫn duy trì hữu nghị hòa bình với Vân Quý đấy thôi.”
Chỉ bằng một câu bèn chặn miệng của Chu Tử Chính và Phạm Thành.
Lạt Ma ôn hòa nói, “Ta nghĩ, đối với Thiên triều thì sự tồn tại của Tây Tạng là độc lập, chúng ta cũng không phụ thuộc vào Thiên triều. Chúng ta giáp ranh với Thiên triều, đương nhiên cũng giáp ranh với Thát Đát, chúng ta nghị thân với Thiên triều là vì hòa bình. Như vậy chúng ta nghị thân với Thát Đát cũng là vì vậy. Người Tây Tạng chúng ta luôn hướng đến hòa bình. Hoàng đế các ngươi có lẽ đã có chút hiểu lầm đối với người Tây Tạng chúng ta, thỉnh sứ thần đại nhân nhắn dùm Hoàng đế của các ngươi về thành ý của người Tây Tạng chúng ta.”
Phạm Thành vẫn duy trì phong độ và mỉm cười, “Đại sư phụ, có lẽ ngài hiểu lầm rồi. Bệ hạ của chúng ta cũng không phải có ý kiến gì đối với việc nghị thân giữa Tây Tạng và Thát Đát, điều khiến Hoàng đề của chúng ta khó hiểu chính là nghe nói khi Tử Diên công chúa gả đến Thát Đát thì có hơn một ngàn quân Tây Tạng đi theo. Ngài cũng biết người Thát Đát giỏi nhất là bưng bít mọi chuyện, gần đây người Thát Đát vô lễ xâm phạm biên cương của triều đình chúng ta, trong đó tam Vương tử Thát Đát bị bắt làm tù binh. Bệ hạ của chúng ta là thánh quân xuất thế, nay chuyện mậu dịch ở Vân Quý và Tây Tạng là do một tay bệ hạ của chúng ta chủ trì, vì vậy mới có tân thành phồn vinh như ngày nay. Đây chỉ là một phần nhỏ nhoi trong trí tuệ ngàn vạn của bệ hạ chúng ta. Hiện tại người Thát Đát vô lễ trước, ngày sau bệ hạ của ta nhất định sẽ san bằng thảo nguyên, người Thát Đát rốt cục sẽ phải trả giá đắt cho hành vi vô lễ thô lỗ của mình.”
“Nhưng khiến bệ hạ của chúng ta khó hiểu chính là vì sao quý quốc lại phái quân đội đi theo Tử Diên công chúa? Triều đình chúng ta nhất định sẽ có một trận chiến với Thát Đát, dũng sĩ Tây Tạng bên cạnh Tử Diên công chúa nếu nhận lệnh tham chiến, ở trên chiến trường nếu có va chạm thì phải giải thích như thế nào cho phải?” Phạm Thành cười hỏi, “Xem như người Tây Tạng trực tiếp tham chiến ư?”
“Sứ thần chớ nên hiểu lầm, người Tây Tạng vẫn chưa có ý này.” Lạt Ma sửa lại lời của Phạm Thành, “Tử Diên công chúa gả sang Thát Đát là vì hòa bình chứ không phải vì chiến tranh.”
“Đại sư phụ, chúng ta nói miệng thì cũng không thể ngăn cản đao thương giết chóc. Vân Quý của chúng ta và Tây Tạng giao hảo nhiều đời, Hoàng đế bệ hạ là nhi tử của Trấn Nam Vương điện hạ, đương nhiên là đại sư phụ biết rõ điều này.” Phạm Thành là người giỏi quan sát, đương nhiên có thể phát hiện Lạt Ma trả lời rất trịnh trọng. Lập tức Phạm Thành biết rõ chính mình đã bắt được nhược điểm của Lạt Ma Tây Tạng. Phạm Thành bắt đầu triển khai phán đoán của mình, “Người Thát Đát giết người Thiên triều chúng ta, bệ hạ của chúng ta vì vạn dân, tất sẽ báo thù thay vạn dân. Tàng Vương đương nhiên cũng vì dân chúng Tây Tạng, đại sư phụ cũng phù hộ cho mảnh đất xinh đẹp này, người Thiên triều chúng ta sớm muộn gì cũng sẽ khai chiến với Thát Đát, lần này bệ hạ phái tiểu thần đến đây là thật lòng muốn bảo vệ tình hữu nghị và hòa bình giữa Thiên triều và Tây Tạng. Cho nên thỉnh cầu đại sư phụ có thể triệu quân đội bên cạnh Tử Diên công chúa quay về Tây Tạng. Bằng không, ngày sau Thiên triều khai chiến Thát Đát, đao thương không có mắt, nếu có ngộ thương thì e rằng sẽ tổn hại tình cảm giữa Thiên triều và Tây Tạng.”
Lạt Ma vẫn chưa trực tiếp trả lời Phạm Thành.
Phạm Thành mỉm cười, “Tiểu thần cho rằng Tử Diên công chúa đã đủ để đại diện cho tình hữu nghị của Tây Tạng, tựa như khi Thanh Loan công chúa gả cho bệ hạ chúng ta, Thanh Loan công chúa không hề mang theo bất kỳ tướng sĩ nào, đó là vì Thanh Loan công chúa tin tưởng bệ hạ của chúng ta là nam nhân hùng mạnh nhất trên đời này, đủ để bảo hộ nữ nhân của chính mình. Nay Tử Diên công chúa gả cho Thát Đát lại mang theo quân đội, chẳng lẽ Nhân Minh thân vương điện hạ lo lắng người Thát Đát không thể bảo hộ Tử Diên công chúa hay sao? Hay là không tin tưởng người Thát Đát? Vì vậy mới phái quân đội hộ giá ái nữ? Nếu là như thế thì tiểu thần xin nói thật một câu. Cuộc nghị thân chấn động như vậy thì không cần cũng được!”
“Đại sư phụ cũng biết, Thanh Loan công chúa không chỉ mang theo tình hữu nghị của người Tây Tạng, mà còn mang về rất nhiều sản vật phong phú của Thiên triều chúng ta, cuộc sống của người Tây Tạng càng thêm dồi dào tươi tốt. Nghị thân với người Thát Đát, Tử Diên công chúa mang đến cái gì cho người Tây Tạng? Có thể sánh bằng Thiên triều hay sao?”
Phạm Thành nói thẳng.
Tuy rằng câu hỏi của Phạm Thành không dễ trả lời nhưng nếu hắn nghĩ rằng chỉ như vậy mà có thể làm khó Lạt Ma thì đúng là đã khinh thường Lạt Ma Tây Tạng.
|
Chương 113[EXTRACT]Lạt Ma Tây Tạng vô cùng khó đối phó, hai vị Phạm Chu mồm mép như thế mà vẫn không thể thuyết phục Lạt Ma triệu hồi quân đội hộ tống Tử Diên công chúa về lại Tây Tạng, song phương giằng co đàm phán mất ba ngày, rốt cục Lạt Ma và Nhân Minh thân vương mới đồng ý: Phái sứ thần đến Thát Đát, ra lệnh cho người Tây Tạng không được tham dự chiến tranh giữa Thiên triều và Thát Đát.
Tuy rằng kết quả này cũng không lý tưởng, nhưng người Tây Tạng có chết cũng không nhượng bộ, cuối cùng chỉ có thể thỏa hiệp như vậy.
Phạm Thành và Chu Tử Chính đang do dự nên về hay nên ở thì đội sứ thần thứ hai do Liễu Bàn dẫn đầu tiến vào hoàng cung Tây Tạng.
Sự tình bắt đầu có bước ngoặt.
Liễu Bàn mang theo thư tay do Phượng Cảnh Nam đích thân viết, mỉm cười bẩm báo, “Trấn Nam Vương và Tàng Vương vừa có quan hệ thông gia vừa là quân chủ lân bang, thân cận như huynh đệ. Biết được Tàng Vương ngã bệnh, Trấn Nam Vương điện hạ biết được, phái tiểu thần đến đây, tiểu thần cũng thông thạo y đạo, Vương gia phân phó, nếu thuận tiện thì tiểu thần có thể giúp Tàng Vương chữa trị thân thể.”
Nhân Minh thân vương nói, “Phật pháp cũng không thể thức tỉnh Vương huynh, tiểu vương vô cùng lo lắng.”
Mặc dù thân thể của Liễu Bàn trông có vẻ gầy yếu nhưng tính tình lại không dễ dàng thoái nhượng, ôn hòa nói, “Người Tây Tạng hết lòng tin theo Phật giáo, rất khác với Thiên triều. Dân chúng Vân Quý chúng ta đều dựa vào y dược để trị bệnh. Nay Tàng Vương hôn mê bất tỉnh, có lẽ chính là Phật tổ chỉ thị cho tiểu thần tiến đến chữa trị cho Tàng Vương.”
Phạm Thành nói, “Đúng vậy, bệ hạ và Thanh Loan công chúa điện hạ lúc nào cũng lo lắng cho thân thể của Tàng Vương, Liễu đại phu có y thuật cao minh, có một không hai tại Nam Bắc, đại danh lừng lẫy ở Thiên triều chúng ta, có thể cải tử hoàn sinh. Nay Phật tổ đã triệu hồi Liễu đại phu đến đây chính là vì muốn chữa trị cho Tàng Vương.”
“Nếu không thể để Liễu đại phu chẩn bệnh, chúng ta trở về báo cáo qua loa tắc trách với quân thượng, quân thượng mắng tiểu thần vô năng là chuyện nhỏ, Thanh Loan công chúa lo lắng cho bệnh tình của Tàng Vương bấy lâu nay, tiểu thần quay về không có tin tức tốt lành, e rằng Công chúa điện hạ sẽ muốn quay về Tây Tạng để thăm Tàng Vương.” Phạm Thành nói.
Nhân Minh thân vương cười trách một câu, “Thanh Loan càng ngày càng quá làm nũng. Tiểu vương nghe nói Thiên triều của các ngươi có quy củ rất nghiêm ngặt, không có chuyện gì thì nữ nhân cũng không thể bước ra ngoài vườn, nhất định sẽ không vì Thanh Loan mà phá hỏng quy củ.”
Phạm Thành bình thản nói, “Bệ hạ yêu quý Thanh Loan công chúa như trân bảo, nếu Công chúa thỉnh cầu thì bệ hạ làm sao nhẫn tâm từ chối cơ chứ?” Rất rõ ràng, Hoàng đế bệ hạ muốn nhúng tay vào nội chính của Tây Tạng, Phạm Thành nhẹ nhàng nói, “Còn nữa, bệ hạ thú Thanh Loan công chúa chính là nữ tế của Tàng Vương, nay Tàng Vương lâm trọng bệnh, sự vụ trong triều bận rộn, Hoàng thượng không thể rời khỏi đế đô, nhưng nếu Thanh Loan công chúa cố ý muốn quay về Tây Tạng thăm phụ thân thì bệ hạ nhất định sẽ phái tướng sĩ hộ tống Thanh Loan công chúa điện hạ trở lại.”
“Đương nhiên nếu tiểu thần có thể mang theo tin tức về bệnh tình chuyển biến tốt đẹp của Tàng Vương thì Công chúa cũng sẽ không cố ý làm nũng để vượt qua ngàn dặm xa xôi quay về Tây Tạng đâu.” Dù sao thì Phạm Thành nhất định cũng phải tìm hiểu cho bằng được Tàng Vương gặp chuyện gì?
Nhân Minh thân vương bất đắc dĩ, đành phải để Liễu Bàn chữa trị cho Tàng Vương. Nhưng có một yêu cầu là hắn phải ở bên cạnh quan sát.
Dù sao thì thân phận của Tàng Vương vô cùng cao quý. Điều kiện này cực kỳ hợp lý.
Liễu Bàn là người rất tinh tế.
Ngày đầu tiên chỉ đơn giản bắt mạch cho Tàng Vương, sờ vào động mạch cổ của Tàng Vương, cẩn thận xem kỹ sắc mặt của Tàng Vương.
“Chứng bệnh này của Tàng Vương không phải đơn giản, phải sử dụng phương pháp tắm bồn bằng thảo dược của người Thiên triều chúng ta thì mới có cơ hội thành công.” Liễu Bàn thản nhiên hỏi Nhân minh thân vương, “Điện hạ có muốn thử một lần cho Tàng Vương hay không?”
Nhân Minh thân vương hỏi, “Liễu đại phu có thể cam đoan chữa khỏi cho Vương huynh của ta ư?”
“Làm sao có thể bảo đảm được?” Liễu Bàn nói, “Bất quá là thử một lần thôi, chỉ nắm chắc năm phần.”
“Nắm chắc năm phần?” Nhân Minh thân vương cân nhắc một chút rồi mới hạ quyết tâm, “Làm phiền Liễu đại phu vậy.”
Liễu Bàn kê đơn thuốc rồi lệnh cho người Tây Tạng chuẩn bị thảo dược, đồng thời nói, “Không biết Tàng Vương có nhi tử hay không?”
Nhân Minh thân vương cảm thấy khó hiểu, “Vương huynh có hai nhi tử.”
“Vậy là được rồi, tiểu thần cần một thang thuốc đặc biệt.” Liễu Bàn nhìn Nhân Minh thân vương, “Phải dùng máu tươi của thân nhi tử thì mới có thể chắc chắn cứu sống Tàng Vương.”
Nhân Minh thân vương khẽ biến sắc, vội nói, “Liễu đại phu, cần bao nhiêu máu? Hai điệt nhi của ta vẫn còn rất nhỏ, đang ở chỗ của Lạt Ma học về Phật pháp.”
“Cũng không nhiều lắm, chỉ sử dụng cho bồn dược mà thôi, không thể lấy máu trước được, điện hạ hãy dẫn người đến, tiểu thần tự có cách an bài.” Liễu Bàn nói.
Nhân Minh thân vương liên tục nhắc nhở, “Liễu đại phu, Vương huynh thân vận tôn quý, hai vị điệt nhi sau này cũng là Tàng Vương của chúng ta. Ngài nhất định phải cẩn thận, ngộ nhỡ làm bị thương hai vị Vương điệt thì chúng ta cũng không thể nể mặt đâu.”
“Đương nhiên.”
Liễu Bàn muốn lấy máu của hai vị Vương tử, đừng nói là Nhân Minh thân vương mất hồn mà ngay cả Phạm Chu cũng giật mình.
Chu Tử Chính lén hỏi Liễu Bàn, “Rốt cục ngươi tính làm gì, người Tây Tạng cũng không ngốc, đừng làm chết người nha, nếu không mọi chuyện sẽ đổ lên đầu của chúng ta, đến lúc đó có chết cũng không hết tội.”
Liễu Bàn lắc đầu cười cười, “Ngươi yên tâm, lòng ta biết rõ mà.”
Liễu Bàn lén cầu kiến Nhân Minh thân vương.
Nhân Minh thân vương hơi kinh ngạc, “Đã khuya thế này mà Liễu đại nhân vẫn chưa nghỉ ngơi sao?”
“Quấy rầy điện hạ rồi, thật sự là vi thần có việc riêng muốn bẩm báo, ban ngày nhiều người nhiều miệng cũng không thích hợp bẩm báo việc này.” Liễu Bàn nhìn về phía Nhân Minh thân vương.
Nhân Minh thân vương “À” một tiếng, thỉnh Liễu Bàn an tọa, đồng thời đuổi đám nô tỳ trong điện lui xuống, chỉ để lại một vị võ sĩ đứng canh trước cửa. Nhân Minh thân vương thân thiết hỏi, “Có phải có liên quan đến thân thể của Vương huynh hay không?”
Liễu Bàn lắc đầu, cười nói, “Thân Vương điện hạ, nay Tàng Vương mê man bất tỉnh, Thân Vương điện hạ nhiếp chính. Nếu là Tàng Vương tỉnh lại thì Thân Vương điện hạ sẽ giao ra quyền bính. Nếu như thế thì hôm nay tiểu thần sẽ không đến gặp Thân Vương điện hạ rồi.”
Sắc mặt của Nhân Minh thân vương lạnh lùng, trách mắng, “Sứ thần xin hãy câm miệng! Nếu sứ thần lại tiếp tục nói những lời lỗ mãng như vậy thì tiểu vương xin mời sứ thần rời khỏi!” Tuy lời nói nghiêm khắc nhưng vẫn chưa phái người trục xuất Liễu Bàn.
Liễu Bàn nhếch môi, lộ ra một nụ cười thân thiết, đứng dậy nói, “Nếu điện hạ nói như thế thì đã cô phụ mối quan hệ kết giao với Trấn Nam Vương chúng ta, tiểu thần cũng chỉ đành cáo từ.”
Nhân Minh thân vương nhìn Liễu Bàn một chút rồi thản nhiên nói, “Nếu liên quan đến Trấn Nam Vương điện hạ mà sứ thần lại rời đi như vậy chẳng phải là phản tác dụng hay sao?”
“Phản tác dụng vẫn đỡ hơn khiến cho Thân Vương điện hạ hiểu lầm.” Liễu Bàn nói, “Nay Tàng Vương vẫn còn, điện hạ chỉ là nhiếp chính mà thôi, Trấn Nam Vương lại phái tiểu thần đến giao hảo với điện hạ. Việc này nếu để Hoàng đế bệ hạ biết được thì chắc chắn sẽ oán hận Trấn Nam Vương. Trấn Nam Vương mạo hiểm như thế, vậy mà Thân Vương điện hạ không cảm kích, thật sự khiến tiểu thần lạnh tâm, huống chi là Trấn Nam Vương điện hạ.”
Nhân Minh thân vương than khẽ, nâng tay chặn lại, “Sứ thần an tọa đi.” Đây là muốn lưu khách lại.
“Sứ thần cũng thấy chỗ khó xử của ta rồi đấy.” Nhân Minh thân vương nói, “Vương điệt tuổi còn nhỏ, không thể chấp chính, chỉ đành để tiểu Vương nhiếp chính tạm. Tiểu vương nhớ rõ trước kia từng đọc được một câu của người Hán các ngươi gọi là: Như chim sợ cành cong. Hiện tại tiểu vương chính là như thế.”
Liễu Bàn cũng không muốn nghe Nhân Minh thân vương tự tình vô nghĩa mà chỉ hỏi thẳng, “Điện hạ cho rằng Tàng Vương còn có thể tỉnh lại hay sao?”
Nhân Minh thân vương nói, “Liễu đại phu là thần y nổi danh Thiên triều, ngươi đã chẩn bệnh cho Vương huynh. Liễu đại phu chắc chắn biết rõ thân thể của Vương huynh hơn so với tiểu vương.”
“Điện hạ, thân phận của tiểu thần trước hết là sứ thần, sau đó mới là đại phu.” Liễu Bàn sửa lại.
“Nước không thể một ngày không có vua, ở Thiên triều của chúng ta, ai chấp chính thì người đó chính là vua.” Tuy rằng sắc mặt của Nhân Minh thân vương vẫn có chút không đồng ý đối với lời nói của Liễu Bàn, nhưng cũng không phản bác, Liễu Bàn lại tiếp tục nói, “Điện hạ cũng biết Vân Quý tuy nằm trong lãnh thổ của Thiên triều nhưng trên thực tế Vân Quý lại tự chủ về mặt chính trị. Giống như tiểu thần, là phụng lệnh Trấn Nam Vương đi sứ quý quốc chứ không phải phụng lệnh Hoàng đế bệ hạ.”
Nhân Minh thân vương nói, “Hoàng đế bệ hạ là nhi tử của Trấn Nam Vương mà?”
“Như vậy điện hạ có biết chuyện này hay không? Nay Thái thượng hoàng của Thiên triều đang làm khách ở Trấn Nam Vương phủ, còn người ở bên cạnh Vương gia chúng ta là đại công tử Minh Lễ điện hạ.” Liễu Bàn bình thản ung dung, “Lãnh thổ của Vân Quý thuộc về Trấn Nam Vương. Nay Hoàng đế bệ hạ kế thừa Thiên triều, tuy rằng đây là vận mệnh của Hoàng đế bệ hạ nhưng không thể không nói Hoàng đế bệ hạ đã mất đi quyền thừa kế lãnh thổ Vân Quý. Phụ tử thì sao? Điện hạ cũng không nên nói với ta cái gì là phụ tử tình thâm. Ta nghe nói khi phụ thân của điện hạ qua đời thì cũng chưa đến năm mươi tuổi, Tàng Vương đi một chuyến vào hoàng cung thì lão Tàng vương qua đời. Cho nên những chuyện về phụ từ tử hiếu thì chỉ có thể nói ở nhà dân chúng bình thường, còn nói trong hoàng thất vương giả thì chỉ là trò cười cho thiên hạ.”
Thấy Liễu Bàn nói ra chuyện bí mật trong hoàng thất thì sắc mặt của Nhân Minh thân vương khẽ biến, hắn trách mắng, “Sứ thần, ngươi thật không có quy củ.”
“Thỉnh điện hạ thứ tội.” Liễu Bàn nói, “Tiểu thần nghĩ rằng hiện tại cho dù sau này điện hạ cầm quyền thì vẫn sẽ bảo trì quan hệ lân bang hữu nghị với Vân Quý có đúng hay không?”
“Đây là chuyện đương nhiên.” Nhân Minh thân vương không hề do dự, cho dù hắn chấp chính thì cũng sẽ không dễ dàng phá hỏng quan hệ với Vân Nam, dù sao hiện tại mậu dịch giữa Vân Nam và Tây Tạng vẫn là đôi bên cùng có lợi. Hoàng thất Tây Tạng cũng đạt được lợi ích rất lớn từ việc này.
Liễu Bàn cúi mắt xuống, lại nâng lên một đôi mắt hoa đào nhìn về phía Nhân Minh thân vương điện hạ, “Như vậy điện hạ có bày tỏ thành ý giao hảo với Vân Quý hay không?”
Nhân Minh thân vương hơi nghiêng về phìa Liễu Bàn rồi thấp giọng hỏi, “Ta không hiểu rõ ý tứ của sứ thần.”
Liễu Bàn mỉm cười, tiến đên bên tai của Nhân Minh thân vương rồi thì thầm trả lời.
Trong mắt của Nhân Minh thân vương hiện lên một chút vui mừng nhưng lại vội vàng che giấu, hắn trịnh trọng nói, “Nếu Trấn Nam Vương điện hạ ủng hộ thì tiểu vương nhất định sẽ không quên đại ân này!”
“Trấn Nam Vương điện hạ mong Thân Vương điện hạ sớm ngày được toại nguyện.”
Nhân Minh thân vương do dự, “Liễu đại phu, như vậy bệnh tình của Vương huynh….”
“Hết thảy nghe theo điện hạ an bài.”
Hai con sói nhếch môi mà cười, lộ ra bản mặt ăn ý.
Tháng tám ở Tây Tạng rất lạnh, bên ngoài gió lạnh gào thét.
Trong phòng của Lạt Ma đốt chậu than làm cho người ta không còn cảm giác rét buốt, toàn căn phòng ấm áp như ngày xuân. Những đóm lửa bay lên từ chậu than, ánh lửa soi sáng sắc mặt của Lạt Ma.
“Điện hạ, ngài có chuyện gì khó xử hay sao?” Lạt Ma ôn hòa hỏi.
Nhân Minh thân vương thở dài, “Đại sư phụ, ngày mai đại phu người Hán sẽ chẩn bệnh cho Vương huynh, cần hai vị Vương điệt sang đó hỗ trợ.”
“Đại phu Thiên triều chẳng lẽ đáng tin hơn người Tây Tạng chúng ta ư?” Lạt Ma thở dài, “Về phần bệnh tình của Vương, điện hạ biết rõ hơn cả ta, nay các tiểu Vương tử đều đã xuất gia, không còn vướng bận việc trần thế, xin điện hạ hãy quay trở về.”
“Ngài không đồng ý để Thiên triều chẩn bệnh cho Vương huynh hay sao?”
Lạt Ma nói, “Chuyện của người Tây Tạng sẽ do người Tây Tạng xử trí, bệnh của người Tây Tạng cũng sẽ do người Tây Tạng chữa trị. Thiên triều là ngoại nhân.”
“Là ta đường đột.” Nhân Minh thân vương thở dài, “Thanh Loan đã gả cho Thiên triều Hoàng đế, nếu….Ta lo lắng Thanh Loan công chúa sẽ sinh ra hiểu lầm.”
“Điện hạ, giữa hai nước chỉ chiến tranh vì lợi ích, ta chưa từng nghe nói hai nước khai chiến vì nữ nhân.”
“Đa tạ đại sư phụ đã chỉ điểm.” Nhân Minh thân vương cảm tạ Lạt Ma.
Lạt Ma thở dài mà không nói thêm gì nữa.
Vì các tiểu Vương tử không đến được nên Liễu Bàn thoải mái bỏ qua quyết định chẩn bệnh cho Tàng vương. Nhưng Phạm Thành có một chút bất mãn, Liễu Bàn nói thẳng, “Ta là đại phu, ta đến giải thích bệnh tình của Tàng Vương cho ngươi biết, cam đoan là khi ngươi trở về có thể bẩm báo kết quả với Hoàng đế bệ hạ và Thanh Loan công chúa.”
Liễu Bàn nói như vậy thì Phạm Thành chỉ đành thu dọn một chút rồi cùng đám người của Trấn Nam Vương phủ trở về Vân Quý, sau đó lại từ Vân Quý đi vòng vèo quay về Thiên triều.
Một lần nữa Minh Trạm lại lĩnh hội sự bội bạc của Phượng Cảnh Nam.
Phạm Thành đi sứ không thể nói là thành công nhưng cũng không tính là thất bại, sau khi Minh Trạm hỏi hắn về một loạt sự việc ở Tây Tạng thì theo thông lệ mà thưởng cho hắn bảy ngày nghỉ ngơi, sau đó đến Lý phiên viện làm việc. Trong lòng bắt đầu mắng rủa tám đời tổ tông của Phượng Cảnh Nam.
Phượng Cảnh Nam chết tiệt, không biết đàm phán cái quỷ gì với Nhân Minh thân vương, vậy mà chẳng gửi thư báo cho hắn gì cả!
Thù mới hận cũ, Minh Trạm lập tức nghĩ đến việc cải cách thuế muối ở Vân Nam mà hắn lao tâm khổ trí để thực hiện, vừa có thành tựu thì liền bị Phượng Cảnh Nam đá văng thẳng cẳng, cướp đi thành quả thắng lợi khiến hắn uất ức một hồi.
Minh Trạm không thể nói với Nguyễn Hồng Phi chuyện này. Nguyễn Hồng Phi rãnh rỗi thường khuyến khích phụ tử bọn họ trở mặt nhau, nếu Minh Trạm mở miệng thì nhất định là Nguyễn Hồng Phi sẽ đổ thêm dầu vào lửa. Minh Trạm đành đi kể khổ với mẫu thân của mình.
Vệ thái hậu nhìn mọi việc đều trên phương diện công bằng, “Thiên triều không thiết lập quan hệ ngoại giao với Tây Tạng, nhưng Vân Quý lại có liên hệ nhiều năm với Tây Tạng. Ngươi đã viết thư cho phụ vương của ngươi, rốt cục ngươi muốn thế nào nữa?” Là nhi tử của mình nên đương nhiên Vệ thái hậu biết rất rõ, Minh Trạm không có tật xấu gì quá lớn nhưng có một tật xấu là thích chiếm lợi. Đã viết thư cho người ta, còn đòi rước về núi vàng núi bạc nữa sao?
“Ít ra phụ vương có cái gì muốn an bài thì cứ nói với nhi tử một tiếng! Phụ vương không nói thì nhi tử biết đường đâu mà lần.”
Vệ thái hậu cười cười, “Ngươi đừng quên Thiên triều xưa nay không can dự vào nội chính của Vân Quý, phụ vương của ngươi quả thật không cần phải báo trước với ngươi.”
Minh Trạm thì thầm, chưa chịu từ bỏ ý định, “Lợi ích không phải ở hiện tại mà là ở tương lai. Mẫu thân, ngài xem đi, hiện tại phụ vương đề phòng nhi tử như đề phòng đạo tặc, ngày sau có lợi ích thì chắc chắn sẽ không chịu chia cho một phần nhỏ đâu.”
“Vân Quý Tây Tạng đã sớm giao dịch trà và ngựa, người của Vân Quý quen thuộc Tây Tạng hơn người Thiên triều.” Vệ thái hậu nói tiếp, “Tây Tạng cũng không trù phú đâu Minh Trạm. Cho dù ngươi muốn khống chế Tây Tạng nhưng khoảng cách quá xa, không thể như Vân Quý là láng giềng gần. Ngươi so đo một chút lợi ích nhỏ để làm gì? Trấn Nam Vương phủ là tấm bình phong tốt nhất của ngươi ở Tây Nam, khi ngươi làm việc mà nghĩ đến Trấn Nam Vương phủ thì cho dù hiện tại ngươi không có lợi ích gì nhưng phụ vương của ngươi cao hứng thì ngày sau ngươi sẽ có vô số lợi ích, đếm cũng không xuể.”
Minh Trạm không chịu bỏ qua, “Dù gì thì nhi tử cũng sẽ viết thư cho phụ vương, phụ vương thật không có trượng nghĩa.”
Minh Trạm uất ức trở về viết thư, trong thư chứa đầy oán giận.
Nội dung thư như sau:
Phụ vương thay lòng đổi dạ:
Nhìn thấy thư như gặp mặt.
Ta cũng không muốn viết bức thư này, nhưng bởi vì tâm can của ta đã bị phụ thân tổn thương nặng nề, vì vậy mấy ngày nay không thể lành lặn. Do đó khiến cho ta không thể không mang theo tâm tình vô cùng bi thương mà đặt bút viết xuống bức thư tràn đầy máu và nước mắt này.
[Phượng Cảnh Nam cơ hồ muốn chết lặn, cái này là cái gì đây? Hắn cũng không biết đã tổn thương Minh Trạm ở chỗ nào mà khiến tên kia viết ra lá thư linh tinh như vậy. Đồ thần kinh!]
Ta đối với phụ vương luôn thắm thiết tình nghĩa, ta không cần nhắc lại thì có lẽ phụ vương cũng cảm nhận được. Ta ở đế đô từng định cho đề thi khảo sát xem người cha nào là người hạnh phúc nhất trên đời này? Đáp án rõ ràng thuộc về phụ vương. Bởi vì ngài có một hảo nhi tử tài mạo song toàn lại chu đáo và biết thấu hiểu như ta.
[Phượng Cảnh Nam thật muốn đỏ mặt dùm Minh Trạm, quá mất mặt, còn định làm cuộc khảo sát như vậy nữa ư? Thể diện của tổ tông đã bị tên tiểu tử này bôi nhọ rồi!]
Đương nhiên mọi người đều biết rõ chuyện này, ta xưa nay luôn rất khiêm nhường, cũng không cần phải nói thêm nữa. Tuy rằng hiện tại phụ tử chúng ta cách xa muôn sông nghìn núi, nhưng trên mặt tinh thần thì ta chưa từng có ngày nào dám quên phụ vương. Trong chuyện triều chính, bất cứ tin tức gì liên quan đến Vân Quý thì ta nhất định sẽ báo trước cho phụ vương.
Ta đối xử với phụ vương như người thân cận nhất, dù sao thì đây cũng là ta đơn phương tình nguyện nghĩ như vậy, ta cũng chỉ có một mình ngài là phụ thân. Ta đối với phụ thân như thế nào? Còn phụ thân thì đối với ta như thế nào? Xem ra tình cảm chí công vô tư của ta cũng không được phụ vương quý trọng.
[Đọc đến đây thì Phượng Cảnh Nam vẫn chưa nhìn ra ý đồ của Minh Trạm muốn nói cái gì, đành phải kiên nhẫn mà đọc tiếp.]
Đối với chuyện đi sứ Tây Tạng, phụ vương phái sứ thần khác để đàm phán bí mật với người Tây Tạng, hoàn toàn không để ý đến cảm nhận của ta. Việc này khiến cho ta vô cùng đau lòng.
Lúc trước phụ vương quyết ý muốn ta nghị thân với Tây Tạng. Nay Thanh Loan công chúa vẫn còn ở đây vậy mà phụ vương lại đi ủng hộ Nhân Minh thân vương thống trị Tây Tạng, phụ vương đem hôn sự của ta và Thanh Loan công chúa đặt ở chỗ nào?
Có lẽ phụ vương có tính toán khác, nhưng dù sao thì việc này cũng liên quan đến ta, chẳng lẽ phụ vương không thể gửi thư báo với ta một tiếng hay sao? Hay là phụ vương cho rằng ta làm Hoàng đế sẽ gây bất lợi cho Trấn Nam Vương phủ?
Nếu phụ vương có ý này thì thật sự là đang đo lòng quân tử của ta.
[Còn bóng gió mắng Phượng Cảnh Nam là tiểu nhân, Phượng Cảnh Nam thẳng mồm xì một tiếng khinh miệt để đáp lại.]
Vì thế ta đau lòng muốn chết, ba ngày không có tâm trạng ăn uống, hiện tại xơ xác như hoa cúc, thân thể cầm cự không nổi, ngã bệnh một trận.
Phụ vương đã phá nát trái tim rực lửa của ta thành từng mảnh nhỏ, ta cho rằng phụ vương nên có lời giải thích thỏa đáng đối với thể xác và tinh thần đã tổn thương trầm trọng của ta. Bằng không, việc này sẽ ảnh hưởng không nhẹ đến tình cảm phụ tử sâu nặng giữa ta và phụ vương.
Mong chờ hồi âm.
Lạc khoản: Minh Trạm tàn tạ như hoa cúc.
Đối với việc Minh Trạm không biết xấu hổ mà tự so sánh chính mình là hoa cúc thì Phượng Cảnh Nam thật sự muốn đi ra ngoài để nôn mửa một trận. Đồ không có da mặt.
|
Chương 114[EXTRACT]Nhưng Minh Trạm ít khi viết thư như vậy, Phượng Cảnh Nam sớm lĩnh hội bản tính của Minh Trạm, tuy rằng tiểu tử này rất giận nhưng hiện tại nếu thật sự khiến cho Minh Trạm hiểu lầm thì cũng không tốt.
Vì muốn gắn bó tình cảm phụ tử sâu đậm của mình và Minh Trạm mà Phượng Cảnh Nam đành phải đề bút giải thích.
Chuyện này vốn đã rất uất ức đối với hắn, hắn là lão tử vậy mà phải cúi đầu nhường nhịn nhi tử, thế nhưng Phượng Cảnh Kiền còn ngồi ở bên cạnh châm dầu vào lửa, “Tiểu hài tử nhân hậu như Minh Trạm thật sự hiếm thấy, biết tìm ở đâu ra nữa? Ngươi phải biết tích phúc, có chuyện gì thì nói một tiếng, Minh Trạm sẽ không có ý kiến gì đâu.”
Bên cạnh có một đại gian tế như thế này khiến Phượng Cảnh Nam bỗng nhiên cảm thấy chính mình hoàn toàn không cần thiết phải giải thích với Minh Trạm.
Vì thế Phượng Cảnh Nam viết xuống một bức thư rất ngắn.
Nội dung trong thư quả thật không hề vẻ vang.
Phượng Cảnh Nam gửi cho Minh Trạm một phong thư, tuy rằng Phượng Cảnh Nam tự nhận là văn võ song toàn, nhưng bởi vì có người ở bên cạnh đâm chọt khiến Phượng Cảnh Nam phải rút ngắn rất nhiều, sau đó mới gửi đến đế đô.
Minh Trạm đang cùng Thiện Nhân Hầu chơi cờ thì Hà Ngọc mang theo một chiếc hộp kín tiến đến, cúi người dâng lên trước mặt ngự tiền.
Thiện Nhân Hầu có kiến thức rộng rãi, đương nhiên nhận ra được chiếc hộp kín chuyên dụng của Trấn Nam Vương phủ, bèn đứng dậy muốn lui ra thì Minh Trạm liền khoát tay mỉm cười, “Không sao, đường bá ngồi đi. Là phụ vương gửi thư cho trẫm thôi.”
Kiểm tra niêm phong, Minh Trạm xé phong thư rồi lướt qua một lần, sau đó đem thư đặt vào trong tay áo, lại cúi đầu đắm chìm trên bàn cờ, miệng thì hỏi, “Đến đâu rồi? Đến phiên trẫm đúng không?”
“Dạ.” Rõ ràng là đến phiên Thiện Nhân Hầu người ta, nhưng Minh Trạm hỏi như vậy thì Thiện Nhân Hầu đương nhiên phải biết ngoan ngoãn nghe lời.
Minh Trạm vuốt ve quân cờ trắng, cau mày một hồi thì mới thận trọng đặt xuống nước cờ tiếp theo.
Người ta chơi cờ vây xưa nay đều là dùng ngón trỏ và ngón giữa để kẹp cờ, như vậy trông mới tao nhã tiêu sái. Còn Minh Trạm thì chẳng hề có trình độ chơi cờ vây, hắn dùng ngón cái và ngón trỏ để cầm quân cờ, dáng vẻ vô cùng quê mùa. Ở thời này chẳng có hoạt động gì để giải trí, hắn đã học sơ qua cách chơi cờ vây, đọc chút sách dạy đánh cờ, chẳng qua không nhớ rõ cho lắm mà thôi.
Minh Trạm còn rất thành thật, thuận miệng khoe ra chiến tích của mình, “Nói đến cờ vây, trẫm từng thắng phụ vương của mình. Hiện tại sự vụ quá nhiều, không có thời gian nghiên cứu về cờ vây như trước nữa.”
Kỳ nghệ của ngài như vậy mà còn thắng được Trấn Nam Vương thì cũng biết phụ tử các ngươi chơi cờ tệ cỡ nào rồi! Thiện Nhân Hầu nào dám thắng Minh Trạm, nhưng nếu muốn bại bởi Minh Trạm thì còn khó hơn cả đánh thắng, thật sự cần phải có một chút kỹ thuật phức tạp. Thiện Nhân Hầu nhịn xuống cảm giác hộc máu để chơi nước cờ dở, trong lòng nôn mửa, ngoài miệng thì phải khen ngợi Minh Trạm, “Bệ hạ chơi cờ thật đúng là thiên bẩm.”
Minh Trạm cười ha ha không ngừng, cũng không chịu tin, nói với Thiện Nhân Hầu, “Đường bá đang nịnh trẫm, phụ hoàng bảo rằng phụ vương của trẫm chơi cờ rất tệ, trẫm chỉ là chơi giỏi hơn phụ vương một chút mà thôi, cho nên mới có thể thắng phụ vương.”
“Trẫm và phụ hoàng chơi cờ thì ít khi có cơ hội thắng phụ hoàng.” Trừ phi hắn tra tấn Phượng Cảnh Kiền đến mức chịu không nổi thì Phượng Cảnh Kiền mới tùy tiện chịu thua. Đương nhiên với tiêu chuẩn của Minh Trạm thì hắn cũng không nhìn ra người ta cố ý thua hay là thế nào, dù sao chỉ cần hắn thắng là hắn vui vẻ rồi.
Từng nước cờ lần lượt hạ xuống, Minh Trạm lại thắng Thiện Nhân Hầu một ván, thắng còn không tính, hắn còn chỉ điểm Thiện Nhân Hầu, tỷ như, “Đường bá, ngài xem đi, chỗ này của trẫm rõ ràng sắp bị vây kẹt cứng cả rồi, vì sao ngài lại đặt cờ ở hướng đó. Ôi chao, quá ngốc nghếch. Ôi chao, còn nơi này nữa nè, đường bá xem đi, trẫm đang dùng kế, vì sao ngài không nhìn mà lại nhảy vào bẫy như thế, đường bá, ngài phải động não một chút chứ.”
Thiện Nhân Hầu ôn hòa nói, “Bệ hạ, tài trí của ngài sâu như biển cả, người bình thường làm sao sánh bằng. Thần nhất thời nhìn không ra, nay nghe bệ hạ giảng giải thì tiểu thần mới sáng tỏ một chút.”
“Không sao không sao, khi trẫm vừa học chơi cờ thì cũng không biết, lúc ấy…” Minh Trạm suy nghĩ một chút, nhặt lên một quân cờ, vừa gãi đầu vừa nói, “Là Thừa Ân Công dạy trẫm chơi cờ. Kỳ nghệ của Thừa Ân Công thật không tệ, trẫm phải thắng Thừa Ân Công ba ván thì mới tính là xuất sư. Đường bá, ngài phải động não một chút, đừng để thua liên tiếp như vậy, nếu không về sau chơi cờ sẽ mất tự tin đó.”
“Dạ, Hoàng thượng nói rất đúng.” Thiện Nhân Hầu cảm thấy đầu mình gần như muốn hói.
Minh Trạm còn bày đặt phô trương, “Đường bá, trẫm chấp ngươi ba nước cờ.”
Thiện Nhân Hầu đành phải tiếp tục chịu đựng cảm giác hộc máu mà cùng Minh Trạm chơi cờ.
Hôm nay Nguyễn Hồng Phi ra ngoài có việc, đến trưa Minh Trạm giữ Thiện Nhân Hầu ở lại dùng ngọ thiện, sau đó lại tiếp tục chơi cờ thêm hai canh giờ. Đến khi Thiện Nhân Hầu về nhà thì mệt mỏi đến mức ngay cả một ngón tay cũng nhấc lên không nổi.
Thiện Nhân Hầu phu nhân kinh hãi, nghĩ rằng trượng phu bị ngược đãi ở trong cung, nước mắt lập tức rưng rưng nơi khóe mắt, “Hầu gia, ngài bị sao vậy?”
Thiện Nhân Hầu không còn sức để xua tay, tinh thần và thể xác của hắn đã hoàn toàn kiệt quệ, nhắm mắt khều khào vài tiếng, “Không sao, chỉ tháp tùng Thánh thượng mà thôi.”
Vì sao tháp tùng Thánh thượng mà lại thành bộ dáng này!
Thiện Nhân Hầu phu nhân thật sự muốn hỏi thêm vài câu nhưng nhìn thấy trượng phu sắp đứt hơi thì lập tức vội vàng phái người đi thỉnh ngự y, lại gọi tất cả con cái trong nhà ra đây.
“Nhìn thử một chút xem phụ thân của các ngươi bị gì thế này?” Thiện Nhân Hầu phu nhân ở chính sảnh cho nên chỉ che miệng không dám khóc lớn, hai hàng lệ ròng ròng chảy dài, “Từ trong cung trở về thì giống như già thêm mười tuổi, nói cũng không nói nổi.”
Vài huynh đệ kinh hãi, nghĩ rằng phụ thân bị phong hàn, vội vàng tiến vào xem phụ thân.
Thiện Nhân Hầu vừa mệt vừa uể oải, biết phu nhân hiểu lầm, bèn nỗ lực mở một mắt, khều khào trách mắng, “Chỉ là cùng Hoàng thượng chơi cờ mà thôi, các ngươi làm gì vậy? Không được đi thỉnh ngự y, để trong cung biết được thì sẽ nghĩ thế nào về ta? Mẫu thân của các ngươi hồ đồ, các ngươi cũng hồ đồ theo hay sao?”
Thiện Nhân Hầu phu nhân hỏi một cách lo lắng, “Hầu gia, nếu không thoải mái chỗ nào thì cứ nói đi! Bọn nhỏ đều đang ở đây cả!”
Thiện Nhân Hầu dở khóc dở cười, khoát tay nói, “Chỉ là mệt mỏi mà thôi, trước tiên mang đến một bát canh cho ta, sau đó truyền bữa tối, ta rất đói bụng.” Lại phân phó đám con cháu, “Lui xuống hết đi, Triết nhi lưu lại.”
Đám con cháu đều cáo lui.
Phượng Triết ngồi bên cạnh phụ thân, Thiện Nhân Hầu viết vài chữ trong lòng bàn tay của nhi tử rồi nhẹ giọng phân phó, “Đi đi, cẩn thận một chút.”
Phượng Triết hành lễ cáo lui.
Minh Trạm không biết chính mình lôi kéo Thiện Nhân Hầu chơi cờ cả ngày khiến lão nhân người ta bị tra tấn gần mất nửa cái mạng. Hắn vui vẻ rạo rực đi dùng vãn thiện với Nguyễn Hồng Phi, Minh Trạm luôn có khẩu vị rất tốt vào buổi tối, nhưng hôm nay hắn lại đặc biệt cảm thấy thoải mái, vì vậy ăn hết bát cơm này đến bát cơm khác.
Thấy Minh Trạm ăn ngon miệng như vậy, Nguyễn Hồng Phi cũng có thêm khẩu vị, bèn ăn thêm nửa bát cơm, cười hỏi, “Vì sao hôm nay lại sảng khoái như thế?”
“Ừm, nghe nói kỳ nghệ của Thiện Nhân Hầu không tệ, ta tìm Thiện Nhân Hầu vào cung chơi cờ. Ai ngờ chỉ là hư danh mà thôi.” Minh Trạm cảm thán một tiếng, phân tích với Nguyễn Hồng Phi, “Có thể là người khác thấy hắn là Hầu gia, lại lớn tuổi nên mới nhường cho hắn. Ta thấy kỳ nghệ của Thiện Nhân Hầu chỉ bình thường mà thôi, đánh có một ngày mà thua ta mấy chục ván. Ta còn phải chỉ điểm hắn, vậy mà hắn cũng chẳng thể thắng nổi. Sau đó thấy sắc mặt của hắn thật sự không ổn, ta mới thả cho hắn trở về.”
Minh Trạm ân cần nói, “Chắc vì già rồi nên mới hiếu thắng, có lẽ là bị bại dưới tay ta nên cảm thấy mất mặt, thần sắc tái nhợt, ta còn thưởng cho hắn hai củ nhân săm trăm năm, bảo hắn đem về tẩm bổ.”
Nguyễn Hồng Phi suýt nữa đã sặc chết, Minh Trạm vỗ vỗ lưng của Nguyễn Hồng Phi rồi đưa bát canh cho hắn uống, sau đó mới nói, “Ăn uống từ từ, có ai dành với ngươi đâu.”
“Ta bị ngươi dọa sặc đó.” Nguyễn Hồng Phi cười khúc khích, “Ngươi nói thật chứ mũm mĩm? Ngươi cảm thấy kỳ nghệ của mình có thể thắng được Thiện Nhân Hầu ư?”
“Đúng vậy, trước kia ta còn thắng cả phụ vương nữa mà, ngươi cũng tận mắt thấy rồi đấy thôi.” Minh Trạm xem như là người rất có tự tin.
Nguyễn Hồng Phi hừ một tiếng, “Phụ tử các ngươi chơi cờ đều tệ như nhau.”
“Ngươi đang ganh tị với ta!” Tiểu Minh ù không phục, ưỡn ngực lên rồi lớn tiếng tuyên cáo.
Buổi tối Minh Trạm lại lén lút đọc thư của Phượng Cảnh Nam rồi cười thầm thì một hồi.
“Đọc cái gì thế?” Nguyễn Hồng Phi thấy Minh Trạm đang đọc cái gì đó dưới ánh nến, vừa xem vừa cười run người.
“Thư phụ vương gửi cho ta.”
Nguyễn Hồng Phi tò mò, “Chẳng phải là ngươi tuyệt giao với hắn rồi sao?”
“Làm gì có, đó là phụ thân của ta mà.” Minh Trạm vui vẻ giấu thư vào trong ngực, Nguyễn Hồng Phi nhào qua, sờ vào ngực của tiểu Minh ù, Tiểu Minh ù bèn giả vờ kêu oai oái, “Đáng chết, đừng lợi dụng ăn thịt người ta!”
Nguyễn Hồng Phi đành phải bỏ qua chuyện lá thư, trước tiên ăn thịt tiểu Minh ù trước đã.
Tiểu Minh ù hết cắn lại liếm rồi hôn, bắt đầu tiến hành dày vò Nguyễn Hồng Phi, Nguyễn Hồng Phi nhất thời cũng không còn tâm tư để đọc thư.
Sáng ngày hôm sau Nguyễn Hồng Phi mới đọc thư của Phượng Cảnh Nam. Chỉ xì một tiếng khinh miệt, xoa xoa thắt lưng đau nhức, hắn lập chí tối nay phải đòi lại gấp đôi.
Kết quả là đến tối Minh Trạm lại đọc thư dưới ánh nến, vừa xem vừa cười run người.
“Đọc cái gì vậy?” Nguyễn Hồng Phi lại hỏi, hắn phải trả giá cho sự hiếu kỳ của mình.
“Thư của phụ hoàng gửi cho ta.” Nói xong Minh Trạm lại giấu thư vào trước ngực.
Nguyễn Hồng Phi vẫn như cũ, nhào về phía tiểu Minh ù.
“Lại lợi dụng ăn thịt người ta, đồ sắc lang chết tiệt.” Tiểu Minh ù lại bắt đầu oán trách.
Kết quả là sau khi lăn qua lộn lại, vẫn y như ngày hôm trước, đến hôm sau Nguyễn Hồng Phi mới nhớ đến thư của Phượng Cảnh Kiền, đến khi mở thư ra thì chỉ có một tờ giấy trắng.
Tiểu Minh ù nhảy lên lưng của Nguyễn Hồng Phi, đắc ý phe phẩy đầu, không ngừng cười to, “Lừa được ngươi rồi, lừa được ngươi rồi, vậy mà cũng mắc mưu. Phi Phi, ngươi thật sự rất háo sắc. Có phải ngày nào cũng muốn háo sắc người ta hay không? Già rồi mà chả nên nết gì cả.”
Nguyễn Hồng Phi suýt nữa đã hộc máu, cái tên mũm mĩm không biết xấu hổ này! Hắn nhéo mông của tiểu mũm mĩm mấy cái khiến tiểu mũm mĩm cười cạc cạc không ngừng.
Minh Trạm đến hậu cung, thuật lại chuyện của Tàng Vương với Thanh Loan công chúa.
Thanh Loan công chúa nghe xong thì yên lặng một hồi lâu, sau đó mới lên tiếng, “Chỉ cần các Vương đệ ở bên cạnh Lạt Ma thì thần thiếp đã an tâm. Bệ hạ, thần thiếp có thể chuẩn bị một ít dược liệu và lễ vật gửi cho phụ vương và các đệ đệ hay không?”
“Đương nhiên có thể.” Minh Trạm ôn hòa nói, “Nay Tây Tạng có Nhân Minh thân vương, có Lạt Ma, thật đáng tiếc là bọn họ đạt được lập trường nhất trí trên một phương diện nào đó, sứ thần của chúng ta không thể giúp ích được gì.”
Thanh Loan công chúa cũng không nổi giận, chỉ bình thản nói, “Không có liên minh vĩnh viễn, nếu Lạt Ma thật sự môt lòng vì Nhân Minh thúc thúc thì sẽ không giữ lại các đệ đệ của thần thiếp. Bệ hạ, hiện tại cũng không phải cơ hội quá tốt. Thân phận của bệ hạ không thích hợp can dự trực tiếp vào nội chính của Tây Tạng. Chỉ cần giữ vững quan hệ với Lạt Ma thì cơ hội rồi cũng sẽ đến.”
“Công chúa nói rất đúng.”
Minh Trạm rất tán thưởng Thanh Loan công chúa, nhưng cũng chỉ là tán thưởng mà thôi.
Hắn là Hoàng đế Đại Phượng, làm việc gì cũng phải đặt lợi ích của Đại Phượng lên hàng đầu, tiếp theo là để ý đến lập trường của Trấn Nam Vương phủ. Hiện tại Thanh Loan công chúa cũng không phải người tốt nhất để hắn đầu tư hợp tác.
Minh Trạm bắt đầu nói chính sự với Nguyễn Hồng Phi, “Phi Phi, không biết hiện tại Lưu Ảnh đã đến chỗ của Lý Phương chưa? Lý Phương có tin tức gì cho ngươi hay không?”
“Đã đến nơi, Lý Phương gửi tặng một hộp hải châu, bảo ta tặng cho lão bà của mình.” Nguyễn Hồng Phi nói tiếp, “Ta sẽ bảo đám người Thiên Xu gửi đến, nếu thích thì ngươi cứ giữ lại.”
Đáng lý lúc ban đầu nghe hai chữ lão bà thì Minh Trạm theo quán tính sẽ phản bác một câu, “Ai là lão bà của ai?” Nhưng tâm tư của hắn đã đặt hết vào mấy viên hải châu, cũng không để ý đến việc Nguyễn Hồng Phi chiếm lợi trong lời nói với hắn, trái lại còn bảo, “Không biết tiểu Ảnh nhà ta thế nào rồi?”
Nguyễn Hồng Phi cảm thấy trong thiên hạ không có ai có thể nịnh hót bằng Minh Trạm. Ban đầu thì lén lúc gọi người ta là tiểu tam, tiểu hồ ly, tiểu yêu tinh này nọ, hùng hùng hổ hổ bấy lâu nay, hiện tại thấy Lưu Ảnh có hữu dụng đối với hắn thì lại thân thiết xưng người ta là tiểu Ảnh. Cho dù Nguyễn Hồng Phi là người đầu ấp tay gối với Minh Trạm nhưng cũng cảm thấy ngượng thay cho bản tính kém cỏi của Minh Trạm.
“Ngươi yên tâm đi, Lưu Ảnh có chút bản lĩnh, chỉ cần đủ thời gian thì hắn sẽ hoàn toàn thuyết phục được Lý Phương.”
Nếu không phải Lý Phương rất thích Lưu Ảnh thì sẽ không mạo hiểm đồng ý cho Lưu Ảnh quay về đế đô vấn an phụ mẫu của mình.
Trong lòng của Minh Trạm có một chút hâm mộ, hắn cảm thán, “Đây gọi là mị lực.” Vì sao hắn đi ra ngoài chẳng có ai đến gần hắn, chỉ có hắn một lòng một dạ thay Phi Phi nhà hắn đề phòng sắc lang thôi vậy.
Tình cảnh của Lưu Ảnh lúc này cũng không tốt, tuy rằng Lý Phương rất thích lưu ảnh, hơn nữa tình cảm có một chút thật lòng. Nhưng Lý Phương có thể hoành hành ở trên biển lâu như vậy, có được quy mô tương đối lớn trong đám hải tặc thì chứng tỏ người này chẳng phải người bình thường.
Đừng nhìn mặt ngoài thô lỗ, kỳ thật Lý Phương là người rất tinh tế.
Hắn có một chút hoài nghi đối với việc Lưu Ảnh không thành thật ở đế đô, kinh động quan phủ, Lý Phương bóp cằm Lưu Ảnh mà hỏi, “Thả cho ngươi ra ngoài thì ngươi liền tác quai tác quái, ngươi cảm thấy thiếu người làm thịt à?”
Lưu Ảnh không hề chớp mắt, chỉ hỏi lại Lý Phương, “Ngươi muốn giết ta hay sao?”
Lý Phương đương nhiên không nỡ, nếu muốn giết thì đã sớm giết từ lâu.
“Nếu ta muốn giết chết đám thủ hạ của ngươi thì bọn họ đã sớm chết rồi.” Đẩy tay của Lý Phương ra, Lưu Ảnh sờ sờ phần cằm bị Lý Phương vừa bóp chặt, hắn khinh thường đối với cơn giận của Lý Phương, “Nếu có thể kinh động quan binh đế đô thì ngươi nghĩ là ta không có cách thoát thân hay sao?”
Cơn tức của Lý Phương xông thẳng lên đầu, cả giận nói, “Mụ nội nó, vậy vì sao ngươi không thoát thân, hả? Ngươi còn trở về đề làm gì?”
Lưu Ảnh có chút khát nước, hắn đi châm trà, đột nhiên nhìn thấy phần cằm của mình bị Lý Phương bóp chặt đến mức hiện lên hai dấu tay bầm tím trong gương, Lưu Ảnh không thèm rót trà mà lại nâng tay ném ấm trà về phía Lý Phương rồi tức giận mắng chửi, “Mụ nội ngươi, ngươi lại làm mặt của ta bầm tím rồi này! Tên khốn kiếp! Lão tử không làm thịt ngươi cũng không được!”
Lý Phương võ công cao cường, nhanh chóng né đầu sang một bên để tránh đi ấm trà, nhưng kết quả vẫn bị nước trà nóng tạt vào nửa thân người. Tiếp theo lại là Lưu Ảnh nào đến đòi đánh đòi giết, Lý Phương vội nói, “Ta đâu có dùng lực, ta không phải cố ý mà!”
“Ngươi không phải cố ý, ngươi đang nói láo sao?” Lưu Ảnh có chút nóng tính, hắn hận nhất bản tính thô lỗ này của Lý Phương, thân thể của Lưu Ảnh rất dễ lưu lại dấu vết, Lý Phương lại thường mạnh tay, khiến hắn sầu muốn chết.
Tuy Lưu Ảnh chỉ khoa chân múa tay nhưng vẫn là nam nhân hàng thật giá thật, khi nóng nảy đánh người thì quả thật khá mạnh. Lý Phương cũng không phải mình đồng da sắt, làm sao mà không biết đau cơ chứ. Lý Phương la oai oái vài tiếng, bắt đầu né tránh, Lưu Ảnh liên tục cào cấu khiến Lý Phương phải chụp lấy hai cổ tay của Lưu Ảnh, cả giận nói, “Ta vẫn chưa tính sổ với ngươi đó, ngươi muốn bị đánh hay sao?”
“Tính sổ. Tốt lắm, nhào vào đi, chúng ta cùng nhau tính sổ.” Lưu Ảnh giật cổ tay thoát khỏi sự kìm hãm của Lý Phương, xoay người ngồi xuống ghế, hỏi Lý Phương, “Ngươi cảm thấy ta sai chỗ nào? Ta đi ra ngoài gặp người thì sao? Ta không có mặt mũi gặp người ta hay là không thể gặp người ta, hả? Lúc trước là cái tên khốn kiếp nào đồng ý để ta đến đế đô?”
“Chẳng phải là ngươi bị bệnh hay sao?” Lý Phương thật sự không có cách nào khác, hắn yêu quý Lưu Ảnh, thật sự là yêu quý. Lưu Ảnh bị hắn bắt được trên đất liền, ban đầu chịu khổ không ít, cũng không muốn sống. Kể từ khi Lý Phương phát hiện tình cảm của mình thì Lưu Ảnh nói, nếu không thể gặp phụ mẫu một lần thì thà rằng đi chết.
Lý Phương cũng không thể nhìn Lưu Ảnh chết, đành miễn cưỡng đồng ý.
Lưu Ảnh nhướng lông mày, “Cái gì gọi là tác quai tác quái, cái gì gọi là thấy thiếu người làm thịt?”
“Nếu không phải ngươi chạy loạn ở bên ngoài thì ta cũng đâu cần cho người trông coi.” Lý Phương tự nhận là có chút chiếm hữu, ôn hòa nói với Lưu Ảnh, “Ngươi tỉnh táo một chút đi, Lưu Ảnh, ngoại trừ tấm chân tình của lão Lý ta thì đám công tử già nhàu ở đế đô có ai thật lòng đối xử tốt với ngươi hay không?”
“Đúng vậy, khốn nạn như ngươi cũng không có bao nhiêu người.” Lưu Ảnh phủi y phục, thản nhiên nói, “Ngươi cũng không cần phải hạ thấp tất cả người trong thiên hạ. Lý Phương, ngươi vỗ ngực tự nói một tiếng thử xem, ta nói có đúng hay không?”
Lý Phương không lên tiếng.
“Ta nói trở về thì nhất định sẽ trở về.” Lưu Ảnh bình thản nói, “Đám người Lưu Hải có thiếu một móng nào hay không? Có bị thương hay không? Có bình an hay không?”
“Ngươi cảm thấy ta thật sự không có cơ hội chạy trốn hay sao?”
Lúc này cơn giận trong lòng của Lý Phương hoàn toàn bị dập tắt, ôm Lưu Ảnh vào trong lòng, ân cần nói, “Tiểu Ảnh, chẳng phải là ca ca nôn nóng sốt ruột hay sao? Ta thật sự rất thích ngươi, thích ngươi bằng cả tấm lòng, chỉ cần nghĩ đến có tên khốn nào đó muốn có ngươi thì ta liền hận không thể bằm nát tên đó cho hả dạ.”
“Ồ, vậy cảm tạ sự yêu thích của ngươi.” Lưu Ảnh đẩy Lý Phương ra, “Ta phải đi tắm, có chút mệt mỏi, ngươi ra ngoài trước đi.”
Lý Phương vui đến mức đuôi lòng mày cũng cong lên, “Để ta hầu hạ ngươi, coi như đền tội.”
Lưu Ảnh mỉm cười, ngũ quan bình thường lại sinh ra vài phần kiều diễm.
|
Chương 115[EXTRACT]Cũng sóng to gió lớn như trên biển, lúc này đế đô dường như cũng xuất hiện bầu không khí sâu xa khó hiểu, cảm giác âm u dần dần bao trùm.
Trong vòng nửa tháng, phủ đệ náo nhiệt nhất đế đô hiển nhiên thuộc về phủ của Kính Mẫn đại trưởng Công chúa. Kính Mẫn đại trưởng Công chúa trước sau cử hành hôn lễ cho hai nhi tử. Nguyễn Gia Duệ thì không cần phải bàn đến, đây là quý nữ tư sinh của hoàng thất được đế đô công nhận. Thiện Nhân Hầu trước kia ở tận Hoài Dương, mới đến đế đô không lâu nhưng đã làm rất nhiều việc thiện, tỷ như Thiện Nhân Hầu quyên góp một vạn lượng bạc cho Thiện Nhân đường của Thái hậu.
Lúc này Minh Trạm mới phát hiện, “Dược đường có cái tên không đúng cho lắm, vừa nghe qua sẽ khiến người ta nghĩ rằng Thiện Nhân đường là sản nghiệp của Thiện Nhân Hầu.” Lập tức vung bút lên, sửa lại tấm biển của Thiện Nhân đường thành Hoàng thất Thiện Nhân đường.
Lễ đính hôn của Nguyễn Gia Duệ vừa mới cử hành thì Triệu gia lại xảy ra một vụ án mạng. Phụ thân của Triệu Thanh Di là Triệu Như Tùng thắt cổ tự sát.
Đương nhiên vô duyên vô cớ ai lại muốn chết cơ chứ.
Tuy rằng lần này Triệu gia đã đánh mất cơ hội lớn, Hoàng thượng thu hồi tấm biển ngự ban ở thời Nhân Tông hoàng đế, đáng lý Triệu đại nhân còn có chút tâm như tro tàn, chẳng qua được lão bà và nhi tử cùng nhau khuyên giải an ủi, cho nên trong một thời gian ngắn cũng sẽ không muốn tự sát.
Cái chết của Triệu đại nhân có lẽ nên truy cứu trách nhiệm từ bài viết trên Tập san Hoàng thất.
Bài viết này có tên là: Lừa đời lấy tiếng, vì sao không chết?
Chủ bút chẳng phải ai khác, chính là bút pháp thần kỳ, chủ bút Trầm tiểu cử nhân của Tập san Hoàng thất, Trầm Chuyết Ngôn.
Tuy rằng triều đình không phán Triệu gia đắc tội nhưng Trầm Chuyết Ngôn lại đứng trên lập trường của hai nhà Triệu Kỷ mà phê phán hành vi ham vinh hoa phú quý, bức tử liệt nữ của Triệu gia. Trầm Chuyết Ngôn quả thật đang nói ra tiếng lòng của Minh Trạm, đại ý chính là: Triệu gia tự nhận oan uổng, nếu chuyện này là hiểu lầm thì với sự anh minh của bệ hạ, chỉ cần Triệu gia đích thân đến đế đô giải thích hôn ước trước kia giữa hai nhà Triệu Kỷ, nhất là chuyện này do đệ đệ thay đại ca thú thê, thì chắc chắn bệ hạ sẽ nghĩ ra kế sách vẹn toàn cho đôi bên. Nhưng Triệu gia vì xuất thân cao quý của Nguyễn thị, không nỡ đánh mất vinh hoa phú quý, bèn đuổi Kỷ thị ra khỏi Triệu gia. Mà Kỷ gia vô tình vô nghĩa, không chịu tiếp nhận nữ nhi bị đuổi về, khiến Kỷ thị bước vào con đường cùng.
Trầm Chuyết Ngôn kết thúc: Vinh hoa phú quý rất mê hoặc lòng người. Danh môn gia tộc vì ham vinh hoa phú quý vô cớ trục xuất thê tử thì phải tự hỏi bốn chữ mà Nhân Tông hoàng đế khen ngợi Mục Đức Trung Túc đặt ở đâu? Lừa đời lấy tiếng đến ngày hôm nay, Triệu Như Tùng, vì sao ngươi không chết đi?
Triệu Như Tùng là văn sĩ, xưa nay xem thanh danh là tánh mạng, nên nhớ hiện tại Tập san Hoàng thất phát hành cả nước. Triệu Như Tùng đọc được bài viết này thì làm sao còn mặt mũi mà tiếp tục sống?
Một sợi dây thừng đoạt mệnh.
Triệu gia suy sụp, Triệu Thanh Di trực tiếp xông đến Trầm gia, tuy Trầm Chuyết Ngôn là thư sinh nhưng Triệu Thanh Di cũng chẳng mạnh mẽ gì cho cam. Hơn nữa tuy rằng Trầm Chuyết Ngôn không biết võ công nhưng trước kia sống cuộc sống vất vả, cắt cỏ đốn củi, tất cả những chuyện lao động tay chân đều đã trải qua, vì vậy về sức lực thì chẳng kém cỏi so với vị Bảng nhãn Triệu Thanh Di này.
Hai người hoàn toàn là tự mình xông trận, lăn lộn dưới đất đánh đến nửa canh giờ.
Rốt cục là Ngô Uyển đang ngồi trên xe ngựa băng ngang qua, thấy trước cửa Trầm gia lũ lượt người kéo đến rất náo nhiệt, vội vàng phái người tách hai người bọn họ ra.
Trầm Chuyết Ngôn chảy máu mũi ròng ròng, hắn cũng không để ý, chỉ dùng tay quẹt ngang, nói với Triệu Thanh Di đã bầm dập mặt mũi, “Loại người như Triệu Như Tùng đáng lý phải chết từ lâu! Ngay cả Triệu bảng nhãn, bề ngoài ngăn nắp nghiêm túc như vậy nhưng trong lòng cũng xấu xa dơ bẩn, ta thấy chẳng khác gì Triệu Như Tùng!”
Triệu Thanh Di chỉ hận không thể trực tiếp đâm chết Trầm Chuyết Ngôn, trong mắt tràn đầy thù hận, chỉ vào Trầm Chuyết Ngôn rồi cả giận nói, “Trầm Chuyết Ngôn, đừng tưởng là ngươi có cữu cữu làm Tổng đốc thì muốn làm gì thì làm! Việc này ta nhất định sẽ kiện lên ngự tiền để đòi công đạo!”
“Ta chờ ngươi đó!” Trầm Chuyết Ngôn không hề sợ hãi!
Triệu Thanh Di hùng hổ dẫn người rời đi.
Trầm Chuyết Ngôn nhìn thấy Ngô Uyển thì vội vàng thỉnh người vào bên trong.
Ngô Uyển vốn không muốn đi vào, nhưng thấy bộ dáng như vậy của Trầm Chuyết Ngôn thì nàng cũng biết bài viết trên tập san của Trầm Chuyết Ngôn đã dẫn đến đại họa, tuy Trầm Chuyết Ngôn hành văn rất tốt, nhưng cách làm người lại không được khéo cho lắm, vì vậy mới thuận đường tiến đến xem một chút.
Vừa đến thì lại gặp Triệu gia đang báo thù, Ngô Uyển lại càng không yên tâm, liền bước vào nhà của Trầm Chuyết Ngôn.
Trầm Chuyết Ngôn phái lão bộc trong nhà pha trà mời Ngô Uyển, còn chính mình thì đi vào bên trong rửa mặt thay y phục.
Ngô Uyển là người rất thông minh, nàng xem như hiểu rõ Trầm Chuyết Ngôn, Trầm Chuyết Ngôn cũng không phải người không có chừng mực, bỗng nhiên lại viết ra bài đó, còn xảy ra án mạng nữa chứ.
Ngô Uyển thở dài, “Triệu Như Tùng bất ngờ tự sát, hiện tại thật sự khó xử.”
Lỗ mũi của Trầm Chuyết Ngôn nhét hai cục bông, thấy nữ nhân âu yếm của mình đang bày ra vẻ mặt như vậy thì hắn cảm thấy hơi mất thể diện một chút, “Ta đâu có bảo họ Triệu đi tìm cái chết, là hắn cảm thấy xấu hổ mà tự sát, cũng coi như gặp báo ứng! Nếu không phải Triệu gia lòng lang dạ sói thì Kỷ thị làm sao lại bị bức tử như thế?” Nói đến câu cuối thì tăng thêm vài phần trịnh trọng.
………..
Sân khấu nhỏ:
Phượng Cảnh Nam viết hồi âm cho Minh Trạm, Phượng Cảnh Kiền ngồi bên cạnh quan sát, Phượng Cảnh Nam liếc mắt nhìn con kỳ đà này, sau đó đề bút viết: Minh Trạm: nhi tử của ta.
Phượng Cảnh Kiền xì cười: Cảnh Nam, ngươi xem đi, Minh Trạm viết thư cho ngươi, nếu không phải là phụ vương thân ái thì chính là phụ vương thân thương trong lòng ta, vì sao ngươi có thể viết ra những từ quá nề nếp ngăn nắp như vậy cho được?
Phượng Cảnh Nam xụ mặt nói: Viết vậy là hay nhất rồi.
Phượng Cảnh Kiền mỉm cười đề nghị: Không thì viết thế này, Minh Trạm tuấn tú khả ái.
Phượng Cảnh Nam nghĩ đến bản mặt tươi cười xấu xa của Minh Trạm thì cảm thấy viết như vậy rất nịnh hót, bèn không chịu sửa.
Phượng Cảnh Kiền mỉm cười khuyên nhủ: Minh Trạm ưa đỏm dáng, ngươi khen hắn đẹp thì hắn nhất định rất cao hứng.
Phượng Cảnh Nam đành phải sửa lại, viết: Minh Trạm tuấn tú khả ái.
Tiếp tục viết: Chuyện Tây Tạng, một lời khó nói hết.
Phượng Cảnh Kiền cắt ngang: Làm sao có thể mở đầu bằng chuyện chính sự buồn tẻ như vậy cho được, đúng là ngốc nghếch, để ta dạy cho ngươi, trước tiên phải nói vài câu quan tâm đến Minh Trạm, tỷ như, ăn đầy đủ không, khỏe không, ngủ ngon không….
Phượng Cảnh Nam cực kỳ bất mãn khi bị người nào đó ba lần bốn lượt xen vào chuyện viết thư của mình. Ấy thế mà người nào đó lại chẳng hề có bất kỳ cảm giác nào, cứ một mạch lải nhải luyên thuyên.
Phượng Cảnh Nam giận dữ: Đừng tưởng là ta không biết Hoàng huynh cùng tiểu tử kia tư thông mờ ám, hừ! Bắt tay với điệt nhi để tính kế đệ đệ của mình, Hoàng huynh xem ta là kẻ ngốc hay sao?
Phượng Cảnh Kiền cười ha ha: Làm gì có, ha ha ha.
Đại gian tế rốt cục tự động câm miệng, chỉ trong chốc lát Phượng Cảnh Nam viết xong hồi âm cho Minh Trạm.
………….
Rốt cục Minh Trạm hiểu được nguyên nhân vì sao Trấn Nam Vương phủ có thể làm Thổ hoàng đế, hắn lấy thư của Phượng Cảnh Nam ra rồi đọc cẩn thận.
Chữ viết của Phượng Cảnh Nam xưa nay luôn cương nghị quyết đoán, không rồng bay phượng múa như Nguyễn Hồng Phi.
Nội dung thư như sau:
Minh Trạm tuấn tú khả ái:
[Kỳ thật chỉ cần nhìn dòng đầu tiên thì Minh Trạm đã mỉm cười. Người như Phượng Cảnh Nam sẽ không nói những lời dẻo mồm như thế. Câu này vừa nhìn là biết có người chỉ giáo, âm điệu thật quen thuộc.]
Hoàng huynh bảo rằng ngươi thích cách xưng hô như vậy, nhưng theo ý của ta thì nam tử hán đại trương phu cũng không cần coi trọng vẻ ngoài. Ngươi và Hoàng huynh thật sự là người hám hư vinh. Nay ta cảm thấy thật hối hận khi đưa ngươi đến đế đô lúc còn nhỏ như vậy, kết quả là chỉ học được mấy thứ không thành thật.
Về thư của ngươi, ta nghĩ hiện tại ngươi hẳn là đã cảm nhận được, ngươi nên ngồi ổn trên ngai vàng của mình trước, còn những chuyện khác thì tính sau. Vì chuyện này mà ngươi dám oán giận ta, ta cảm thấy lá gan của ngươi luôn rất lớn.
Nay chẳng những lá gan lớn mà dã tâm còn lớn hơn.
Mông của mình mà vẫn để lộ tứ phía, còn dám có dã tâm qua mặt phụ thân để can thiệp chuyện Tây Tạng. Ngươi cũng không cần phải đem chuyện của Thanh Loan công chúa ra nói, Công chúa của Tây Tạng còn nhiều lắm, muốn nghị thân với Tàng Vương thì cứ thú thêm vài Công chúa về là được chứ gì.
Hiện tại, việc quan trọng nhất đối với ngươi là xử lý tốt chuyện đế đô.
Gan của ngươi lớn như đạo phỉ, quả thật ta không biết nên nói thế nào cho phải. Hy vọng ngươi có thể xử lý viên mãn, bằng không ngày sau kêu cứu với ta, để xem ta có cứu cái mạng chó của ngươi hay không!
Ngươi suy nghĩ đi đâu vậy hả?
Một thế hệ của Nghi thân vương cũng chỉ dừng lại ở chức hầu tước. Tuy đông dân nhưng chỉ là đám ô hợp mà thôi.
Đến lúc này ta nghĩ ngươi không cần phải giăng lưới lớn để bắt cá nữa. Con cá lớn đã nằm dưới mí mắt của ngươi, lò lửa đã sẵn sàng, cứ trực tiếp thả vào nồi là được.
Nếu ngươi vẫn chưa biết kẻ nào là con cá lớn thì đầu óc của ngươi có vấn đề rồi đấy. Có đích tử thì truyền cho đích tử, không có đích tử thì truyền cho trưởng tử, từ trước đến nay đều là như thế, đầu óc của Nghi thân vương cũng không khác gì người bình thường.
Ngươi không cần để ý đến chuyện Tây Tạng. Đây là giao dịch giữa Vân Quý và Tây Tạng, Tàng Vương đã thất thế, ánh mắt của ta chỉ có thể nhìn vào người chiến thắng, Tàng Vương không phải nhi tử của ta, hắn xảy ra chuyện thì ta không có nghĩa vụ đi cứu viện.
Minh Trạm, nếu ngươi muốn biết tình hình cụ thể thì thật quá đáng. Về phần ngươi muốn giải thích với Thanh Loan công chúa, nếu cảm thấy khó xử thì ngươi cứ nói rõ vời nàng ta, bảo rằng phụ thân của nàng ta đã xuống đài, mong rằng nàng ta tự trọng, như vậy còn có thể bảo trì tôn nghiêm của một Công chúa.
Tuy rằng tàn khốc nhưng đây là sự thật. Nếu ngươi vẫn không thể hài lòng thì cũng phải hiểu cho tấm lòng của lão phụ thân này chứ, thật sự không dễ dàng gì khi tiểu nhi tử của ta đã bị tiểu lão bà của hắn làm giảm giá trị như vậy.
[Trước kia Minh Trạm cảm thấy Phượng Cảnh Nam thật sự không phải một người cha tốt, mỗi khi hắn tức giận sẽ ngầm nguyền rủa Phượng Cảnh Nam. Nay đã nhiều năm trôi qua, Minh Trạm cảm thấy tấm lòng của lão phụ thân nhà mình kỳ thật cũng không quá tệ. Cuối cùng Phượng Cảnh Nam viết:]
Nhi tử, phụ thân giải thích như vậy, không biết ngươi có hài lòng hay không.
Nếu vẫn chưa hài lòng thì ta nghĩ là ngươi đang bị ngứa da rồi đấy.
Đối với mấy tên ngứa da, chân ngoài dài hơn chân trong thì ta nhất định sẽ toại nguyện cho hắn.
Lạc khoản: Nếu còn dám tư thông với Hoàng huynh thì phụ thân này sẽ không khách khí với ngươi đâu.
Minh Trạm chậc lưỡi, văn chương của Phượng Cảnh Nam thật kỳ lạ, cái gì mà gọi là tư thông cơ chứ, hắn và Phượng Cảnh Kiền chỉ là bá điệt kết giao bình thường mà thôi. Xí, lại đi nghĩ oan cho người ta rồi.
Cũng như Phượng Cảnh Nam, người mà Minh Trạm nghi ngờ đầu tiên chính là Thiện Nhân Hầu.
Kỳ thật Phượng Cảnh Nam đã nói đúng tâm tư của Minh Trạm, ở thời này rất chú ý đến quy củ. Có đích tử thì truyền cho đích tử, không có đích tử thì truyền cho trưởng tử. Quy củ này lưu truyền ngàn đời.
Đến thế hệ của Thiện Nhân Hầu thì Thiện Nhân Hầu xuất thân là đích tử.
Chuyện cơ mật quan trọng như vậy, cấu kết với đám thế gia, có thể lặng lẽ ám sát Tổng đốc một tỉnh, tuyệt đối không thể là người vô danh!
Minh Trạm suy nghĩ một chút, lại truyền Thiện Nhân Hầu vào cung chơi cờ.
Đối với việc Hoàng thượng trầm mê đánh cờ thì đám triều thần đều tỏ vẻ, đây là thú vui tao nhã, dù sao chơi cờ vẫn hay hơn luyện đan. Vì thế mọi người đều về nhà trau giồi kỳ nghệ, mong đợi một ngày nào đó có thể bộc lộ tài năng trước mặt Hoàng đế bệ hạ.
Minh Trạm lại một hơi thắng hơn mười ván, mỉm cười nói với Thiện Nhân Hầu, “Kỳ nghệ của đường bá vẫn chẳng tiến bộ một chút nào, trẫm cứ thắng mãi, thật sự là quá ngượng ngùng.”
“Kỳ nghệ của bệ hạ hơn người, tiểu thần không thể sánh bằng.”
Minh Trạm cười nói, “Ngày ấy trẫm có nói với mẫu thân về chuyện của Thiện Nhân đường, chuyện này nói ra thì cũng thật đáng chê cười. Cái tên Thiện Nhân đường là do trẫm thuận miệng đặt, ai ngờ lại trùng với phong hào của đường bá.”
Thiện Nhân Hầu cười nói, “Cũng không sao, chẳng qua Thiện Nhân đường hành y tế thế, có trùng tên thì cũng là vinh dự cho thần.”
Minh Trạm khoát tay, “Như vậy không được. Trẫm nghĩ, hiện tại trẫm đã đăng cơ, còn chưa ban thưởng cho các bá thúc, không bằng đổi phong hào cho đường bá đi, đường bá thấy thế nào?”
“Cứ theo như lời của bệ hạ là được.”
Minh Trạm chỉ về phía ván cờ rồi cười nói, “Trẫm chơi cờ với ai cũng chẳng thoải mái như với đường bá. Về phần tước hào của đường bá….” Cười một cái, nói vòng vo, “Trẫm đã nghĩ ra thánh chỉ, đường bá cứ trở về thì sẽ biết.”
Thiện Nhân Hầu chỉ đành nuốt xuống sự hiếu kỳ, tiếp tục chơi nước cờ dở để nịnh hót Minh Trạm.
Minh Trạm và Thiện Nhân Hầu chơi cờ được nửa ván thì Phủ doãn đế đô Điền Vãn Hoa dâng lệnh bài cầu kiến.
Thiện Nhân Hầu liền xuất cung.
Điền Vãn Hoa tiếp nhận một vụ án nan giải, Triệu bảng nhãn Triệu Thanh Di của Triệu gia đem bài viết trên Tập san Hoàng thất do Trầm Chuyết Ngôn chủ biên cáo trạng lên Phủ doãn nha môn của đế đô, lý do là: Bài viết của Trầm Chuyết Ngôn không có căn cứ xác thực, dùng ngòi bút bôi nhọ dẫn đến bức tử mạng người.
Điền Vãn Hoa muốn xin ý kiến từ Hoàng thượng, Minh Trạm nói thẳng, “Nếu chuyện gì cũng phải do trẫm xử lý thì trẫm còn cần Phủ doãn đế đô như ngươi để làm gì?”
Điền Vãn Hoa gặp phải một vụ án đau đầu, đành phải quay trở về tự xử lý.
Minh Trạm hoàn toàn không cảm thấy Trầm Chuyết Ngôn có gì sai, nay Triệu Như Tùng đã chết, Triệu gia bắt đầu chiếm lĩnh thế thượng phong trong dư luận. Nhưng Kỷ thị bị bức tử trước kia thì lại không có ai truy cứu?
Nếu Triệu Như Tùng bị bức tử, như vậy thật sự nên đi hỏi Triệu gia một câu, Kỷ thị chết như thế nào?
Chẳng lẽ một nữ nhi ở độ tuổi thanh xuân lại vô duyên vô cớ đến trước nhà người ta mà tự sát hay sao?
Đúng là báo ứng!
Giết người đền mạng.
Chẳng lẽ một người đã chết thì tất cả những gì đã phạm tội trước kia đều có thể tha thứ bỏ qua hay sao? Có thể trở hoàn toàn trở thành một người tốt hay sao? Thật là nực cười!
Nếu Triệu Như Tùng không thẹn với lương tâm thì vì sao lại tự sát?
Lúc này Triệu gia cũng có người lần lượt đến nhà truy điệu.
Khác với Minh Trạm không hề đồng tình đối với Triệu gia, cái chết của Triệu Như Tùng bỗng nhiên khiến người trong thiên hạ đều đối xử bình thường trở lại với Triệu gia. Thậm chí bọn họ cảm thấy Trầm Chuyết Ngôn dùng lời lẽ quá đáng, dẫn đến án mạng, thậm chí có người trong triều yêu cầm nghiêm trị Trầm Chuyết Ngôn.
Tang sự của Triệu gia rốt cục cũng tiến hành chậm lại.
Triệu Thanh Di cố ý muốn cáo trạng, Tiễn Vĩnh Đạo nài nỉ khuyên nhủ, “Ngươi cũng xem như đã từng học ở Vạn Lý thư viện vài năm, Thanh Di, nghe lời ta đi, hãy dẹp êm mọi chuyện.”
“Tiên sinh không biết gia phụ oan uổng thế nào đâu.” Hai mắt của Triệu Thanh Di đẫm lệ, khóe mắt đỏ hoe, “Hoàng thượng chưa định tội Triệu gia thì cũng không đến phiên một cử nhân nho nhỏ như hắn múa bút thị phi! Đồ đệ cũng không tin trên đời này không có công lý!”
Tiễn Vĩnh Đạo vì muốn khuyên nhủ Triệu Thanh Di nên trong phòng cũng không lưu lại người khác. Thấy đồ đệ của mình vẫn bướng bỉnh, Tiễn Vĩnh Đạo bưng lên tách trà đã vơi, thở thật dài một tiếng, chỉ nói một câu, “Thanh Di, ngươi cũng không còn nhỏ nữa, ngươi ắt là biết rõ Tập san Hoàng thất xuất phát từ đâu?”
Lời này của Tiễn Vĩnh Đạo dường như đã đập nát ý chí cuối cùng của Triệu Thanh Di, trong cổ họng của Triệu Thanh Di cất lên một tiếng rên rỉ vô cùng đau khổ, thậm chí hắn không thể chịu nổi sự đau đớn quá lớn như thế, thân thể đơn bạc như một cây trúc bị bẻ cong. Triệu Thanh Di khom người xuống, mái tóc đen nhánh xõa ra như thác nước, bám vào hai gò má tái nhợt, cổ họng bất chợt khó chịu, đột nhiên hộc ra một ngụm máu tươi xuống đất.
“Thanh Di, ngươi sao vậy?” Sắc mặt của Tiễn Vĩnh Đạo mang theo một chút đau lòng thương xót, vội vàng đứng dậy đỡ lấy Triệu Thanh Di, sắc mặt của Triệu Thanh Di hơi đỏ ửng một chút, hắn nhắm mắt lại rồi lắc đầu, “Tiên sinh, đồ đệ không sao, chỉ là máu không chảy về tim mà thôi.”
Khóe mắt với những nếp nhăn hằn sâu của Tiễn Vĩnh Đạo tràn đầy bi thương, hốc mắt đỏ lên, ôm lấy vai của Triệu Thanh Di mà bắt đầu rơi lệ như mưa.
Sư đồ hai người ôm nhau khóc rống.
Vụ án giữa Triệu gia và Trầm Chuyết Ngôn chưa khai thẩm thì Triệu Thanh Di đã đến Phủ doãn đế đô rút đơn kiện, lặng lẽ dẫn theo mẫu thân đưa linh cữu của phụ thân quay về nguyên quán để an táng.
|