Ngục Quỷ
|
|
Chương 40[EXTRACT]Một cái khăn mặt lạnh buốt úp lên mặt Thủy Căn.
“A! A!……” Hài tử vẫn còn đang vùng vẫy ở thôn Bốc Vu trong mộng thì bị khăn lạnh phủ lên, cứ tưởng là bị quỷ liếm, sợ đến mức giật nảy lên.
Đến khi mở mắt ra và nhìn thấy cái mặt còn khiến người ta tuyệt vọng hơn cả lũ nhân trụ của Thanh Hà Vương, hài tử đã triệt để tỉnh táo.
“Đứng dậy mau! Mặc quần áo tử tế vào!”
Lần đầu tiên Thủy Căn cảm nhận được hiện thực còn khủng khiếp hơn cả ác mộng, cũng chẳng thừa hơi nói với hắn nữa, thân mình loạng choạng gắng gượng xuống giường.
Chưa kịp mặc xong quần áo, đã có người cứ tự nhiên như ruồi mà xông vào.
“Chú em Đới Bằng, mấy người đã chuẩn bị xong chưa? Xe đến rồi đấy.”
Quảng Thắng vừa vào cửa đã nhìn thấy Thủy Căn quần áo luộm thuộm, gã híp mắt tia từ trên xuống dưới, lập tức minh bạch nở nụ cười đen tối: “Còn đứng dậy được cơ à, hôm qua lăn qua lăn lại lâu thế kia mà! Ồn ào vậy khiêu khích cô bồ của ta lắm đấy! Thiếu chút nữa là kẹp chết ta rồi, ha ha ha……”
Nói xong mấy câu đùa thô tục tự cho là hài hước, cả phòng chỉ có mỗi mình gã đứng cười sằng sặc. (Dzô dziên dzễ shợ =.=+)
Thủy Căn chưa từng ngờ được rằng cái tên này lại tự dưng ở đâu lòi ra, càng không ngờ tối qua lại có người sát vách nghe được, vừa sợ hãi vừa lúng lúng, xách quần chui ra đằng sau cái bàn.
Chờ Quảng Thắng đi rồi, Thủy Căn rón rén đến gần Thiệu như một con chuột đang sợ hãi, hỏi: “Sao gã lại ở đây?”
Thiệu nhìn khuôn mặt vừa tức vừa ngượng của hài tử, mặt vô cảm nói: “Vượt ngục!”
“Vậy gã bảo chúng ta cùng gã đi làm cái gì?”
“Đi lấy của trộm được.”
“…”
Hai đám người của Thiệu và Quảng Thắng đã tập hợp lại. Nhân lúc trời mới tờ mờ sáng, lái chiếc xe jeep lên đường quốc lộ.
Thiệu đã luẩn quẩn trong ngôi mộ kia cả ngàn năm nay nhưng cũng chưa bí bức đến ngu người; hắn vẫn còn nhận ra rằng nếu chỉ dựa vào hắn và tên ngốc Thủy Căn – hai thằng nghèo kiết xác đến mức chỉ có độc cái quần đùi, lại còn đeo thêm cái lệnh truy nã, thì còn khuya mới đến được Thiên trì. Trong khi đó, bọn Quảng Thắng đang trên đường chạy trốn, có tiền lại có xe, không lợi dụng thì hơi phí.
Cho nên hắn mới nói xạo với Quảng Thắng rằng, hắn biết rõ cổ vật Thủy Căn trộm ra từ mộ cổ ngày trước được giấu ở chỗ nào.
Phải biết rằng vụ án Thủy Căn trộm mộ hồi đó hết sức chấn động đó! Đến cả tù nhân trong trại giam cũng biết kia mà.
Cho nên trước lời nói của Thiệu, bọn Quảng Thắng cũng nửa tin nửa ngờ.
Chẳng qua là, với mấy tên tội phạm không có tí ý thức pháp luật nào mà nói, sức hấp dẫn của tiền bạc thật khó mà cưỡng lại. Dù sao thì gã cũng cần nhiều tiền để chạy trốn.
Ngẫm lại xem, di vật trong cổ mộ đó thậm chí có thể khiến Thủy Căn cấu kết với quản đốc Trương Đại Phúc giết tới mấy mạng người lận, nếu không phải là bảo vật vô giá thì làm sao có thể khiến người ta thấy lợi tối mắt như thế chứ!
Kết quả là, một cái nghi mộ vô giá trị qua bao nhiêu lời đồn tin vịt đã lên giá như diều gặp gió. Đến nỗi đào được mỗi cái bô vẫn còn dính nước tiểu mặn mặn mà thổi phồng lên thành mấy lượng vàng lận.
Và giờ, khi Đới Bằng dùng việc này làm mồi dụ, bọn Quảng Thắng không thể không cắn câu.
Thêm vào đó là cảnh Quảng Thắng nhìn thấy sáng nay. Nếu Thủy Căn đã thông gian với Đới công tử, thì việc cậu tiết lộ ra chỗ giấu báu vật trong lúc đương nồng nàn cũng không có gì lạ.
Hiện tại, “Đới” công tử đang trên đường đưa bọn Quảng Thắng đi đào báu vật.
Thủy Căn nhìn hàng cây bạch dương bên đường quốc lộ, không thể nhịn được nữa, quay sang lén lút hỏi Thiệu đang ngồi bên cạnh: “Ngươi còn nhớ rõ cô dì chú bác nhà ngươi chôn ở đâu không? Hay là chúng ta dẫn bọn họ đi đào bừa một cái cho đủ số?”
Thiệu dữ tợn trừng Thủy Căn. Thủy Căn tức mình, cái tên đệ đệ hãm tài này, cũng khó trách mình kiếp trước đau đớn hạ sát thủ, thật không thể khiến người yêu thích mà .
Đầu tiên là rước lấy một vụ kiện cáo còn chưa tính, giờ lại còn giúp một đám tội phạm đào tẩu. Nếu có đồ cổ thiệt thì còn ăn nói được.
Thế nhưng cậu biết thừa rằng, lúc đào phần một kia lên, ngoài tổ tông Thác Bạt Thiệu này ra thì nửa cái chén bể gáo sứt cũng chả có, lấy cái gì mà trộm bây giờ hở giời? Đến lúc đó, lại phải đánh một trận ác liệt cho mà xem. Nào máu me, nào tay chân, mới nghĩ đã thấy ghê rồi.
Thế mà trông Thiệu vẫn ung dung tự tại lắm, chẳng có vẻ gì là đang lo nghĩ cả, cũng không biết hắn đang tính toán cái gì nữa .
Để tránh trạm kiểm soát, xe không đi vào đường cao tốc.
Có lẽ đến tối hôm qua cảnh sát mới biết việc đám người Phùng cục trưởng mất tích, vẫn chưa kịp truyền lệnh xuống tất cả các trạm thu phí, nên các trạm vẫn chưa được thông báo.
Vì lí do đó, sau khi nhân viên thu phí còn đang ngái ngủ thu tiền xong rồi, một chiếc ô tô màu đen hết sức bình thường đã rời khỏi Hình Đài một cách êm thấm.
Rời khỏi trạm thu phí, tài xế lái xe vào một cây xăng, Thiệu kéo Thủy Căn xuống xe.
Thằng nhóc này gian như chuột ấy, Thiệu không thể không đề phòng cậu chuồn mất. Còn Quảng Thắng cũng tò tò bám theo sau hai người bọn họ.
Coi bộ gã cũng sợ hai tên này chớp thời cơ lủi mất.
Thiệu cũng không thèm để ý, sau khi vào trạm xăng, hắn ra quầy bán lẻ gần đó mua mấy túi thức ăn đóng sẵn.
Trên tường quầy bán lẻ có dán một tấm bản đồ Trung Quốc. Trong lúc chờ Quảng Thắng trả tiền, Thiệu chăm chú nhìn mấy lượt.
Không thể không cảm thán trước kỹ thuật vẽ bản đồ của người hiện đại. Tất cả các thành phố chằng chịt san sát nhau đều được đánh dấu đầy đủ cả.
Thiệu nhìn chòng chọc tấm bản đồ một lúc lâu, rồi đột nhiên sáng bừng đôi mắt. Hắn bổ nhào vào quầy hỏi chủ quán: “Có bút không? Mau lấy ra cho ta!”
Chủ cửa hàng bị hỏi mà sững sờ, theo phản xạ đưa cho hắn cái bút bi ghi sổ, sau đó trơ mắt nhìn tên kia nhào tới tấm bản đồ, bôi bôi xóa xóa lên bản đồ Tổ Quốc yêu thương.
“Ê! Anh làm gì đấy? Ai cho anh vẽ lên đó?”, chủ quán tức giận lách qua quầy hàng đi ra, nhưng Thiệu đã giật tấm bản đồ xuống, và bảo chủ quán: “Ta mua cái này!”
Nói xong, hắn đã chạy như bay khỏi cửa hàng.
Quảng Thắng ném cho chủ cửa hàng tờ tiền 50 tệ, lúc đấy chủ quán mới thôi chửi bới luôn mồm.
Lúc lên xe, sắc mặt Quảng Thắng hết sức khó coi: “Chú em Đới Bằng, chúng ta đang chạy trốn đấy! Làm gì cũng phải cúi đầu, đừng có gây sự chú ý chứ. Có biết xảy ra việc vừa rồi thì bao nhiêu người sẽ nhớ rõ cái mặt chú mày không hả?”
Thế nhưng Thiệu chẳng buồn trả lời gã, hắn lấy tờ giấy vệ sinh đã in lại đồ án sau lưng Thủy Căn bữa trước ra, tỉ mỉ so sánh với bản đồ trong tay.
Đồ án nhìn tựa chòm sao in dấu trên lưng Thủy Căn và tấm bản đồ hoàn toàn trùng khớp với nhau. Lấy Hình Đài làm điểm xuất phát, đường cong ngoằn ngoèo vừa vặn kéo dài đến Thiên trì ở núi Trường Bạch(1).
Thủy Căn đã nhận ra, hóa ra là bản đồ chỉ đường cho bọn họ đến Thiên trì. Thế nhưng, đó vốn là một lộ trình rất đơn giản, chẳng hiểu vì lí do gì bản đồ chỉ dẫn lại rẽ ngang rẽ dọc, lòng vòng quanh co đến thế. (Tức là không đến thẳng Thiên trì mà ghé vào nhiều nơi khác rồi mới đến)
Hài tử bỗng cảm thấy nặng trĩu trong lòng; nếu cứ đi theo con đường này, không biết phía trước có điều gì đang chờ đợi bọn họ…
(1) Núi Trường Bạch: một ngọn núi nằm giữa biên giới Triều Tiên và Trung Quốc, là đỉnh cao nhất trong dãy núi cùng tên.Hồ Thiên Trì: một hồ miệng núi lửa lớn trên đỉnh ngọn Trường Bạch. Tham khảo wiki, baidu
|
Chương 41[EXTRACT]Ngay lúc đó, Thiệu đã nảy ra một ý, giơ tay chỉ về phía tỉnh Sơn Tây, lân cận tỉnh Hà Bắc: “Chúng ta đến nơi đó!”
Đối với Thiệu mà nói, Đại Đồng, Sơn Tây là một nơi chẳng hề xa lạ.
Từ xưa, nơi đây chính là vùng giao trang của nhà binh, “Tam diện lâm biên, đông liên thượng cốc, nam đạt tịnh hằng, tây giới hoàng hà, bắc khống sa mạc” (theo ta hiểu thì ba mặt đều có biên giới tự nhiên, đông là một khe hang gì đó, nam là Hằng Sơn, tây là Hoàng Hà, bắc thông với sa mạc), vốn được xưng là “Tam đại kinh hoa, lưỡng triêu trọng trấn” (cái này là suy đoán của ta thôi: Đại Đồng là thành thị phồn hoa của 3 đời Tần, Tây Hán, Đông Hán, là trấn quan trọng của thời kỳ Lưỡng Tấn).
Điều quan trọng nhất là, Đại Đồng vốn là kinh đô thuở đầu của Bắc Ngụy, chỉ có điều, khi đó có tên là Bình Thành.
Sau đó, Thanh Hà Vương kêu Quảng Thắng sai người đi mua về một tấm bản đồ Trung Quốc cụ thể hơn, dựa theo tỉ lệ, lấy thước kẻ phóng to đường chỉ dẫn trông giống chòm sao đó lên bản đồ. Xong xuôi đâu đó, mục tiêu lại càng thêm rõ ràng – chính là nơi cách Đại Đồng 62 km về phía nam – Bắc Nhạc – Hằng Sơn. (tham khảo wiki – đây)
Quảng Thắng nằm ườn ra giường trong một quán trọ nhỏ vừa tìm được, nhìn Thiệu bận bịu vẽ vẽ, càng lúc càng nghi hoặc, không nhịn được hỏi một câu: “Chúng ta đến Hằng Sơn không phải để đi du lịch đó chứ?”
Thiệu chẳng buồn ngẩng đầu lên: “Ngày trước, sau khi giấu cổ vật đi rồi, Trương Đại Phúc đã vẽ lại bản đồ lên mảnh giấy vệ sinh này rồi đưa cho Ngô Thủy Căn. Bây giờ chúng ta phải dựa vào bản chỉ dẫn này để đi tìm bảo vật.”
Thủy Căn dính mỡ đầy miệng đang ngồi gặm đồ ăn sẵn, cùng đống “đồ chơi” này lắc lư dọc đường đi, thành ra tiểu hài tử đã có cái khí chất ung dung thong thả lắm rồi.
Cậu đã phát hiện ra vị Thanh Hà vương này nói xạo siêu giỏi, lúc hắn nói dối ấy mà, nhịp tim vẫn đập như thường, chưa bao giờ cần tập trước, cậu cũng chẳng buồn lật tẩy mấy câu ba xạo của Thiệu, nếu không thì kẻ xúi quẩy cuối cùng vẫn cứ là cậu thôi.
Ai bảo đời trước cậu thiếu nợ người ta mà làm gì!
Trong lúc đó, Quảng Thắng cầm tờ giấy vệ sinh than ngắn thở dài: “Chết tiệt! Thật chưa từng thấy ai lại vẽ bản đồ kho báu lên giấy vệ sinh bao giờ, lão nông dân này đúng là chả chuyên nghiệp tí nào cả!”
.
.
.
Cả đám đều là tội phạm bị truy nã, mặc dù vào khu du lịch đông người qua lại, nhưng để che đậy tai mắt người đời, cả bọn vẫn phải đội mũ đeo kính hóa trang cho cẩn thận.
Đi trên đường núi Hằng Sơn, dù có trăm mối ngổn ngang trong lòng, mọi người vẫn không khỏi chấn động trước những dãy núi đá Hằng Sơn trùng trùng điệp điệp với quang cảnh thiên nhiên kỳ thú mênh mông.
Dù rằng ngày nay, trong Hằng Sơn đã có thêm nhiều trang thiết bị hiện đại xen lẫn với rất nhiều lầu gác chùa cổ, nhưng cấu trúc tổng thể của dãy núi cũng không có nhiều khác biệt so với nơi này hàng ngàn năm trước.
Khi còn sống, Thác Bạt Thiệu đã từng đến Hằng Sơn săn bắn du ngoạn vô số lần, nhìn thấy cảnh sắc quen thuộc khiến Thác Bạt Thiệu, kẻ vẫn phải sống trong một thế giới xa lạ từ khi hồi sinh đến giờ, cũng khó có thể kìm nén những xao động trong lòng. Nhìn về phía eo Kim Long ở xa xa, Thác Bạt Thiệu chỉ cho Thủy Căn thấy: “Ngày xưa, ngay tại nơi đây, phụ vương đã cho phá núi mở đường, tạo ra cửa ngõ để ra vào vùng Trung Nguyên đó.”
Từ khi rời khỏi thôn Bốc Vu, đây là lần đầu tiên Thanh Hà Vương trò chuyện vui vẻ đến thế với Thủy Căn. Thủy Căn cảm thấy nếu tình cảm giữa hai anh em trở nên hoàn thuận mãi, thì cái mông cậu sẽ được hưởng rất nhiều lợi ích, thế là bèn ra vẻ xúc động cảm thán: “Cha ta thật là lợi làm sao!”
Nhưng mặt dày thấy sang bắt quàng làm họ quả nhiên là chả được tích sự gì cả, vẻ xúc động trên gương mặt Thiệu biến sạch, ánh mắt sắc lẻm như dao lia đến, lăng trì tùng xẻo Vương huynh một trận trong im lặng.
Thủy Căn ngượng ngùng bỏ đi cái vẻ mặt tươi cười nịnh nọt, và chìm sâu vào sự chán nản với chính mình. Cậu lại cảnh cáo bản thân: kiểu gì thì kiểu, mình sẽ không bao giờ đáp lại tên đại oan gia ngàn năm này nữa!
Sau khi dạo qua một vòng, sắc trời đã bắt đầu tối, đám Quảng Thắng đã oải đến không đứng thẳng lưng nổi nữa. Người lúc nào cũng đứng ra đại diện phát ngôn cho cả bọn, Quảng Thắng, đã bắt đầu nghiến răng nghiến lợi: “Chú em Đới Bằng, chú mày không phải đang đùa bọn anh đấy chứ!”
Thiệu không nói một lời, tia nhìn của hắn dừng lại ở nơi những vệt nắng cuối cùng của hoàng hôn rơi rớt lại, một góc mái ngói của ngôi chùa được ánh mặt trời chiếu lên nhàn nhạt màu vỏ quýt.
Khi trời còn sáng, không ai có thể chú ý đến nơi này, nhưng giờ đây mới nhìn thấy được, mấy tầng mái ngói đỏ rực đã tạo thành những văn tự Tiên Ti thật lớn – “Hãy tới đây.”
“Đây là nơi nào?”, Thiệu hỏi Thủy Căn đang cầm tấm bản đồ du lịch.
Thủy Căn nhìn ngôi chùa kỳ lạ xây chênh vênh trên vách núi, rồi lại nhìn bản đồ trên tay, và đọc to: “Huyền Không Tự (1).”
Theo giới thiệu vắn tắt trên bản đồ du lịch, tuy Huyền Không tự được xây vào thời Bắc Ngụy, nhưng lại là nửa cuối của thời Bắc Ngụy, do một vị hòa thượng tên là Liễu Nhiên dựng nên. Nói cách khác, cả trăm năm sau khi Thác Bạt Thiệu chết, mới có ngôi chùa này, Thác Bạt Thiệu không biết cũng không có gì lạ.
Người cho xây dựng ngôi chùa là một hòa thượng, nhưng các thợ xây lại dựa vào yêu cầu “không nghe gà gáy chó sủa” của Đạo gia mà dựng nên Huyền Không Tự. Toàn bộ ngôi chùa treo lơ lửng giữa vách núi cao cao, đình đài lầu các nhô ra như thể được gắn vào vách đá dựng đứng bằng cao su vậy. Tầng tầng lớp lớp cung điện chỉ dựa vào mấy cây cột chống mảnh mai như chiếc đũa mà đứng giữa sườn núi cheo leo.
Thậm chí, đến cả thi tiên Lý Bạch, người vẫn yêu thích du ngoạn khắp chốn, để lại vô số ý thơ đẹp, khi đến Huyền Không Tự này, đã phải sững sờ thưởng thức hồi lâu, và chỉ để lại trên vách núi hai chữ súc tích – “Tráng quan.” (Cảnh quan tráng lệ)
Lý Bạch cũng thật thông minh, vẻ đẹp kỳ diệu lạ lùng của Huyền Không Tự, quả thực có dùng câu thơ nào để hình dung cũng không đủ nói hết. (Skye: sao ta cảm giác Cuồng tử đang dốc sức quảng bá du lịch nước nhà =..=)
Khi đoàn người đi tới con đường phía trước Huyền Không Tự, chân họ dẫm lên những tấm ván gỗ cọt kẹt, bên dưới những ván gỗ chính là vách đá sâu vạn trượng. Khi gió thôi ào ào bên tai, có cảm giác như chỉ cần sơ sẩy một chút thôi, là sẽ rơi xuống vực sâu thăm thẳm liền.
Hướng dẫn viên ở Huyền Không Tự bắt đầu dẫn bọn họ đi tham quan khắp chốn trong chùa.
Ngoài địa điểm và cách thức xây dựng mà người thường không thể tưởng tượng ra nổi, trong Tam Giáo điện ở tầng cao nhất của Huyền Không Tự, một khung cảnh còn khó hiểu hơn nữa lại hiện ra trước mắt mọi người: tượng của Thích Ca Mậu Ni, Lão Tử và Khổng Tử được đặt trong cùng một căn phòng.
Theo lời giới thiệu của cô hướng dẫn viên, cho tới nay, cảnh tượng ông tổ của Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo cùng trong một phòng, khắp non sông nước nhà thì chỉ nơi này mới có mà thôi.
Một tên thuộc hạ của Quảng Thắng, gọi là Phì Phiêu (Béo ú), mới nói giỡn: “Sao không cho thêm cái tượng chúa Jesus vào nữa nhở! Bốn người gộp lại là vừa đủ làm vài vòng mạt chược rồi còn gì!”
Mấy người còn lại nghe thế cũng cười phá lên, đến cả cô hướng dẫn viên cũng lịch sự mỉm cười một cái.
Thế nhưng Thủy Căn lại không cười, sau rất nhiều những trải nghiệm không thể tưởng tượng nổi, hài tử giờ đây không dám báng bổ quỷ thần nữa. Trên thực tế, từ khi đến Huyền Không Tự “chân không chạm đất, đầu không đến trời” này, trái tim Thủy Căn không hiểu vì sao cứ thấp thỏm không yên.
Thiệu cũng không cười, ánh mắt của hắn cứ chăm chú dán lên bức tượng Lão Tử trên ban thờ, Thủy Căn lần theo tia nhìn của hắn và quan sát cẩn thận, cậu cuối cùng cũng nhận thấy khuôn mặt của bức tượng dường như có gì đó rất quen thuộc.
Sau nhiều lần cân nhắc, bất chợt, Thủy Căn đã nghĩ ra đó là ai, và mồ hôi lạnh bắt đầu vã ra như tắm.
Mặc dù bức tượng được đắp nhằm làm nổi bật sự vĩ ngạn thần minh của Lão Tử, nên khuôn mặt được khắc họa thật đầy đặn, nhưng gương mặt sáng ngời này lại chính là vị thái tử anh tuấn cậu nhìn thấy ở thôn Bốc Vu – Thác Bạt Tự!
Thủy Căn vội vàng phân bua với đệ đệ mình: “Chuyện này không phải do ta làm đâu nhá, ngươi nghe thấy rồi đó, chùa được xây vào nửa sau thời Bắc Ngụy mà, khi đó ta chết lâu rồi còn gì…”
“Câm miệng!” Hai chữ ngắn gọn, Vương huynh tắt điện ngay tắp lự.
Ánh mắt Thác Bạt Thiệu cuối cùng cũng rời khỏi bức tượng Lão Tử, và chuyển sang quan sát hai bức tượng còn lại.
Thủy Căn không nhận ra hai bức tượng này, chứ Thiệu lại quen thuộc vô cùng. Trong đó, gương mặt của Khổng Tử vô cùng giống khai quốc công thần của Bắc Ngụy – Yến Phượng.
Yến Phượng, tự Tử Chương, khi còn trẻ thích đọc sách, đã đọc qua đủ loại kinh thư sử tịch, đặc biệt am hiểu thuật âm dương và sấm vĩ. Về sau, ông đã phụ tá vị quốc chủ khi ấy còn nhỏ tuổi, Đạo Võ đế Thác Bạt Khuê. Thác Bạt Khuê khi còn nhỏ tuổi đã có thể giữ được mạng sống(thì như kiểu Khang Hy ý), cho nên về sau lão đã giương roi thúc ngựa, rong ruổi chiến trường nam bắc, mở rộng vương triều Bắc Ngụy, là công lao không thể phủ nhận.
Vì vậy, cho dù về sau, do dùng Hàn thực tán mà tính khí Thác Bạt Khuê trở nên thất thường, nghi kỵ thành tính, sử sách đối với lão ta vẫn muôn vàn kính trọng.
Còn vị khai quốc trung thần đã đọc đủ kinh thư trên đời nọ, cũng vô cùng tán thưởng người kế vị Ngụy Vương – Thác Bạt Tự, thậm chí còn bất chấp tuổi tác đã cao, đích thân giảng giải cho Thác Bạt Tự những bài học quan trọng. Thế nhưng, về phần Thác Bạt Thiệu, ông lại không thích nói nhiều, ngoại trừ những lễ nghi tối thiểu; có thể nói, ông coi thường kẻ phóng túng bừa bãi trong hoàng thất này. Và Thác Bạt Thiệu cũng rất ghét lão đầu đạo mạo đó.
Còn bức tượng Phật còn lại, nhìn thế nào thì Thiệu vẫn thấy người đó giống hệt thị vệ thân cận của Thác Bạt Tự ngày trước – Vương Lạc Nhi.
Thiệu lại bắt đầu nghiến răng.
Ngày đó, khi mẫu thân bị đâm chết vì Vương huynh được sắc phong thái tử, y đã khóc lóc trong cung suốt ba ngày ba đêm. Còn phụ vương thân yêu của họ lại đang rất nóng nảy vì ăn Hàn Thực tán!
Lúc đầu, lão cha còn tử tế an ủi nhi tử của mình kìm nén đau thương mà nhìn về tương lai tốt đẹp phía trước. Về sau, từ phụ cũng phải nản, dứt khoát cho mời thái tử đến cung mình.
Thác Bạt Tự nghe được tin rằng trước khi phái người gọi y đến, phụ vương đã hạ lệnh chém đầu cả nhà một vị đại thần chẳng mắc một lỗi lầm nào. Y đã lập tức đánh hơi được điều không ổn, bèn thu dọn hành lý, mang theo thị vệ Vương Lạc Nhi mở đường tẩu thoát.
Sau đó, y ở lại nhà của Vương Lạc Nhi, trong một sơn thôn nhỏ gần Bình Thành. Y định ở đó một thời gian, chờ đến khi phụ vương nguôi giận rồi sẽ tìm một thời cơ thích hợp để chở về. Chỉ có điều, thời cơ còn chưa đến, hắn – Thác Bạt Thiệu, đã gây ra cung biến.
Sau khi đâm chết phụ vương, hắn lập tức phái người bí mất điều tra nơi ẩn nấp của Thác Bạt Tự, với ý định nhổ cỏ tận gốc. Hắn lại không ngờ rằng, nhờ sự trợ giúp trung thành và tận tâm của Vương Lạc Nhi, Vương huynh đã âm thầm về đến Bình Thành, liên hệ với các vị trọng thần trong triều, rồi nổi dậy phản công, và khiến hắn rơi vào kết cục “sắp thành lại bại”.
Giờ đây, ba kẻ thù của kiếp trước lại thành tiên thành Phật, một thân sơn son thiếp vàng ngồi trên ban thờ cao cao khinh thường nhìn xuống hắn.
Lòng uất hận của Thanh Hà Vương lại dâng lên!
Hắn xông lên ban thờ, dốc sức lung lay tượng Phật, chỉ muốn đẩy ngã bức tượng xuống để cả ba vị phải thịt nát xương tan.
Hành động của Thiệu hoàn toàn vượt ngoài dự đoán của tất cả mọi người.
Cô hướng dẫn viên lập tức hét lên: “Anh kia làm gì vậy! Mau dừng lại!”
Thấy tiếng quát của mình không thể làm vị du khách như đang phát điên lên này dừng tay, cô bèn xoay người chạy ra khỏi đại điện gọi người tới.
Khi cô hướng dẫn viên và mấy anh bảo vệ trẻ tuổi chạy vào đến nơi, thì trong đại điện đã không còn một bóng người nữa rồi.
Ngoài việc tượng Phật trên ban thờ hơi bị nghiêng đi và con mắt của bức tượng giờ lại nhìn về phía Lão tử, không còn điều gì kỳ lạ nữa.
Mấy người bảo vệ tìm từ trong ra ngoài đến mấy lần. Trời đã nhá nhem, cũng không còn mấy du khách trong Huyền Không Tự nữa. Bảo vệ còn hỏi cả nhân viên bán vé ngồi ở cửa, nhưng cũng chẳng có người nào rời khỏi ngôi chùa cả.
Cứ như thể, mấy người đàn ông đeo kính đen ấy cứ như đã nhảy xuống khỏi vách núi, biến mất không một dấu vết.
———————————-
(1) Huyền Không Tự được xây dựng vào năm 491 (năm Thái Hoà thứ 14) dưới thời Cao Tông Hiếu Văn Đế
|
Chương 42[EXTRACT]Lúc này, một vị lão hoà thượng trong chùa từ cửa đi vào, trèo lên ban thờ để kiểm tra xem tượng Phật có bị hư hại gì không, rồi chậm rãi chỉnh bức tượng ngay ngắn lại; trong khi đó, mấy anh bảo vệ còn đang lục xoát tìm kiếm từ trong ra ngoài vài lượt, ấy vậy mà vẫn không tìm được mấy người du khách kia. Bảo vệ đoán rằng những người đó nhất định là đã thừa dịp người khác không để ý mà trèo xuống khỏi Huyền Không Tự mất rồi.
Giờ mở cửa đã hết, du khách đã đi cả rồi, hệ thống báo động cũng đã được bật lên, chỉ còn lại vị hoà thượng già cả tiếp tục gõ mõ cầm canh.
Toàn bộ Huyền Không Tự được bao trùm trong một mảnh tĩnh lặng xa cách khỏi nơi phàm trần…
.
.
.
Kỳ thực, từ lúc Thiệu lao vào lay đổ bức tượng đá, Thuỷ Căn đã biết rằng mọi chuyện sẽ không ổn rồi. Giống như một bộ phim đến hồi gay cấn, nếu không có động đất thì nhất định sẽ có núi lở.
Cho nên khi những người khác đều đứng đần ra mà nhìn, Thuỷ Căn lại bám theo cô nàng hướng dẫn viên chạy ra bên ngoài.
Hài tử cũng thật lanh lợi!
Thế nhưng, vừa bước ra cửa và rẽ phải, một cái gì đó có hình người đen thùi lùi treo ngược phía trên đùng một cái xuất hiện trước mặt cậu.
Khả năng thích nghi của Thủy Căn rất mạnh mẽ. Từ sau cái lần đụng độ nhân trụ tử mẫu ở thôn Bốc Vu, cậu vẫn luôn khổ luyện kỹ thuận rẽ ngoặt, mỗi khi đi qua một góc tường, cậu đều đề khí tập trung tinh thần.
Nhưng lần này cậu đã rẽ quá vội vàng, nên khi cái hình người đen sì sì rơi xuống, Thuỷ Căn sợ đến câm họng luôn, theo phản xạ thụt lùi lại phía sau, và vấp trúng bậc cửa.
Ngay cả Thiệu đang ra sức đẩy bức tượng cũng phải dừng lại để nhìn cậu, và đúng lúc này, một chuyện ngoài ý muốn đã xảy ra.
Bởi vì sự rung chuyển dưới phần đế, cái bệ vững chắc của bức tượng Phật bỗng long ra. Bức tượng tự động xoay tròn như một con lật đật, bệ của hai bức tượng còn lại dường như nối liền với nhau, và cũng bắt đầu rung chuyển theo. Trong tiếng xích sắt loảng xoảng, trên bức tường phía sau tượng đá xuất hiện một cái động hình vuông rộng khoảng một thước.
Trong khi đó, con quái vật treo ngược ở cửa thoắt cái đã lủi vào trong động, nhanh như một con báo.
Tất cả mọi chuyện xảy ra quá chóng vánh, đến nỗi ngay cả Thiệu cũng không kịp phản ứng.
Hắn quay đầu nhìn Thuỷ Căn: “Thấy rõ là vật gì không?”
Thuỷ Căn lấy lại bình tĩnh, nuốt nước bọt nói: “Là… hình như là Phùng cục trưởng.”
Cái mùi thịt nướng xộc thẳng vào mũi này thật sự là quá quen thuộc. Coi bộ ánh trăng làm đẹp ở thôn Bốc Vu cũng có hiệu quả đấy chứ, Phùng cục trưởng vẫn còn đeo cái khuôn mặt bị huỷ hoại thảm thương ấy mà.
Chỉ có điều, làm thế nào hắn thoát khỏi thôn Bốc Vu, cách xuất hiện quỷ dị ban nãy và tốc độ vượt khỏi giới hạn của con người ấy là sao, tất cả đều thật khó hiểu.
Thiệu lập tức nhăn mày, suy tư mà nhìn đường hầm bí mật.
Lúc đó, một mình Quảng Thắng đã xông lên, chui vào trong động. Thấy bọn Thiệu vẫn còn ngây người ra đó, gã sốt ruột: “Nhanh lên đi! Không thấy có người đã vượt lên trước rồi sao?”
Lão đại đúng là lão đại, một thân lệ khí, tin chắc rằng dù là người hay là quỷ thì cũng phải kính gã ba phần. Quan trọng nhất là, tới tận bây giờ gã vẫn kiên quyết giữ vững chủ nghĩa vô thần, và thêm vào đó, gã cũng chẳng nhìn thấy rõ thứ vừa đi vào là cái quái gì, nên lại càng tò mò dữ.
Thiệu nhảy từ trên bệ đá xuống, xách Thủy Căn vẫn còn đang nằm sóng soài trên mặt đất lên, nở nụ cười giả tạo: “Lại muốn chạy hả?”
Thuỷ Căn còn chưa tỉnh lại từ nỗi kinh hoàng, ngơ ngác gật đầu, lại lắc đầu. Trong đầu cậu chỉ còn lại một ý nghĩ: Phùng cục trưởng còn chưa chết sao?
Hành lang của Huyền Không Tự treo lơ lửng giữa không trung, nhưng trên thực tế, chính điện lại được tạc trên vách đá, khảm sâu vào trong núi. Chỉ có điều, không ai ngờ được rằng động lại lồng trong động, bên trong lại có một đường hầm bí mật nữa.
Lại nói tiếp, mặc dù Quảng Thắng xuất thân từ xã hội đen, nhưng so với Phùng cục trưởng kia thì còn quang minh chính đại hơn nhiều, đối mặt với hang núi tối đen như mực, vậy mà gã cũng dám dẫn đầu chui vào. Sau khi tất cả mọi người lần lượt vào động rồi, mấy người bọn họ mới lom khom đi được vài bước, bức tượng đã từ từ đứng vững lại, tiếng xích sắt im bặt, phiến đá nơi cửa đường hầm lập tức khép lại. Mấy người phía sau cuống quít quay lại đẩy, nhưng dù có ra sức đẩy thế nào nó cũng chẳng hề nhúc nhích.
Quảng Thắng sốt ruột nói: “Bây giờ quay lại để chờ bị bắt à, trước tiên cứ xem tình hình bên trong thế nào đã, rồi sẽ tìm cơ hội ra ngoài sau.” Rồi gã móc một cái bật lửa từ trong túi ra, nương theo ánh sáng yếu ớt đi về phía trước.
Không gian khép kín này không có tí mùi ẩm mốc nào, dường như vì không khí thường xuyên lưu thông. Sau khi đi được ước chừng hai phút, Quảng Thắng bỗng ngừng bước. Trong không gian chật chội này, tất cả mọi người đều đi theo hàng một; khi Quảng Thắng dừng lại, Thuỷ Căn ở đằng sau cũng dừng lại, nhưng lại bị người phía sau húc vào, chỉ nghe thấy tiếng bì bõm, Quảng Thắng ở phía trước hình như đã giẫm xuống nước mất rồi.
Những người phía sau nghe thấy thế nên dĩ nhiên cũng dừng bước chân.
“Phía trước xảy ra chuyện gì vậy?” Thiệu cao giọng hỏi.
Thuỷ Căn căng thẳng chống tay lên vách động, run rẩy nói: “Phía… phía trước hình như có vũng nước…”
Học trò Ngô Thuỷ Căn vốn không biết bơi, hơn nữa ở thôn Bốc Vu xém chết đuối, cho nên vừa nghe thấy tiếng Quảng Thắng bước xuống nước, cậu đã run bắn lên rồi.
Không một tia sáng, trong bóng đêm mọi người nghe thấy tiếng đạp nước “lõm bõm” thì đều trợn mắt nhìn nhau. Thiệu cân nhắc một xíu rồi giơ tay lên, một đám ma trơi xanh thẫm bay vút lên. Ma trơi bay về phía trước, chiếu rọi cả hang động sáng rực lên.
Vừa thấy thế, vài tên thủ hạ của Quảng Thắng đã mắt chữ A mồm chữ O, ngơ ngác nhìn nhau.
Lúc này, nương theo ánh lửa của ma trơi, Thuỷ Căn cuối cùng đã thấy rõ quang cảnh phía trước.
Vũng nước cái gì chứ? Rõ ràng là một hồ nước lớn ánh lên một màu xanh thăm thẳm dưới ngọn lửa ma trơi, trong khi đó, Quảng Thắng không hề nao núng tiến lên, đạp nước bì bõm.
Nương theo ánh lửa, Quảng Thắng đã nhận ra phương hướng, nhọc nhằn bơi trở lại, và bò lên bờ dưới sự giúp đỡ của Thuỷ Căn. Sau khi nhìn rõ cảnh vật chung quanh, mọi người mới phát hiện ra cuối đường hầm có một bậc thềm dài khoảng ba thước, nhưng rất hẹp, chỉ rộng có nửa thước.
“Đây… đây là đèn Khổng Minh?” Quảng Thắng nhổ hai bãi nước bọt, kinh ngạc chỉ vào ma trơi mà hỏi.
Thuỷ Căn gật đầu, rồi xoay người hỏi tên đã thả đèn ra: “Bây giờ chúng ta phải làm gì đây?”
Sau khi mọi người đã xúm xít đứng trên bậc thềm và nép sát vào vách đá, Thiệu nhìn hồ nước dưới chân Quảng Thắng rồi hỏi: “Nước có sâu không?”
Quảng Thắng còn đang kinh ngạc nhìn cái “đèn” trên đầu, nghe Thiệu hỏi như vậy bèn đáp: “Sâu, chân không chạm đáy, nước lại mặn nữa.”
Thiệu dùng mắt ước lượng, khoảng cách từ đây đến bờ hồ bên kia áng chừng một trăm thước, người bơi giỏi có thể bơi một mạch sang bờ bên kia cũng không thành vấn đề.
Hắn ngồi xổm xuống, lấy tay ngoáy ngoáy nước trong hồ, hơi lạnh nhưng có thể chịu được. Vậy là hắn cởi áo khoác ra, rồi nói với những người còn lại: “Ta đi trước xem thế nào đã, các ngươi chờ ở đây.”
Quảng Thắng nói: “Để ta đi với ngươi.”
Trong vách đá giữa sườn núi tự dưng lại lòi đâu ra một hồ nước mặn? Kỳ cảnh chỉ có trong ngàn lẻ một đêm này khiến lão đại bắt đầu hưng phấn; gã cảm thấy giữa tầng tầng lớp lớp những cơ quan huyền diệu này mà không giấu chừng mười rương kho báu, thì đúng là phụ công lao người đào động rồi!
Sau khi Thiệu và Quảng Thắng nhảy vào hồ nước, Thuỷ Căn và ba tên thuộc hạ của Quảng Thắng đứng ở trên bậc thềm dõi theo. Đột nhiên, Thuỷ Căn nghe thấy trên đầu có tiếng “sột soạt” vang lên.
Cậu vừa ngẩng đầu nhìn, đã thấy Phùng thịt nướng đang nằm úp sấp trên vách động trong một tư thế kỳ dị như của loài nhện, nhe ra cái mặt cười dữ tợn với Thủy Căn. Và từ giữa những khe nứt trên lớp da bị thui cháy của hắn, từ từ bò ra rất nhiều nhục trùng gần như trong suốt, to cỡ ngón tay, dọc theo vách tường bò xuống.
Một con trong số đó rớt thẳng từ vách tường xuống, rơi ngay chóc vai Thủy Căn; cảm giác đau nhói như bị kim đâm truyền tới, thân thể cậu bỗng trở nên tê dại như bị đánh thuốc mê. Trong khi đó, sau khi hút no máu cậu, con bọ nằm vắt trên vai Thủy Căn đang không ngừng lớn lên, và rồi phần đuôi nó bắt đầu tiết ra sợi tơ quấn lấy cậu. Càng lớn lên, loài bọ này trông càng giống một loại sinh vật…
“Băng tằm!” Trong đầu Thuỷ Căn lóe lên một ý nghĩ. Nhân lúc nọc độc chưa làm thần kinh tê liệt hoàn toàn, cậu dốc sức buông người về phía trước, và “ùm” một tiếng rơi xuống hồ nước.
Còn hai người khác trên bậc thềm, khi bị trùng đột kích, đầu tiên là lấy tay gạt xuống, kết quả là còn chưa kịp kêu lên, họ đã bị càng lúc càng nhiều băng tằm hút máu rồi quấn lấy, trói chặt trên vách tường, chỉ trong chốc lát đã bị hút cạn chỉ còn da bọc xương.
Khi xuống nước, Thủy Căn cố gắng nín thở, nhưng nước hồ vẫn xộc vào miệng vào mũi cậu, còn con băng tằm đang bám riết lấy vai cậu dường như rất sợ nước mặn, nó liền nhả ra, đau đớn giãy dụa vài cái trong nước, rồi cứng đơ chìm xuống đáy hồ.
Ngay khi Thuỷ Căn cũng sắp sửa chìm xuống, bỗng có người túm lấy cậu, và nâng gáy cậu lên.
Nhờ nước mặn rửa sạch miệng vết thương đang chảy máu, cảm giác tê dại lúc trước giảm đi ít nhiều. Thuỷ Căn ra sức ho khan, khạc hết nước trong mũi miệng ra. Cậu quyết định rồi, nếu có thể sống sót, chuyện đầu tiên cậu sẽ làm chính là đổi tên, đặt là “Nghiêu căn” thì hơn, mịa nó, cứ suốt ngày xung khắc với nước! (Nghiêu: núi cao)
Cậu hơi ngẩng đầu lên nhìn, hoá ra là Thiệu đã quay trở lại. Hắn đang đạp nước, túm cậu bơi sang bờ bên kia mà!
Vừa nãy hắn rõ ràng đã bơi đi rất xa rồi, ấy thế mà thoắt cái đã bơi trở lại rồi, còn trâu bò hơn cả Micheal Phelps ý chớ!
Tựa trên vai Thiệu, không hiểu sao Thuỷ Căn lại cảm thấy thật an lòng, kìm lòng không đặng dụi dụi đầu lên cổ Thiệu. Dù đã ướt nhẹp, mấy cọng tóc lông cừu loăn xoăn của Vương huynh vẫn cứ vểnh lên chọc thẳng vào mũi vào mồm Thiệu.
Thanh Hà Vương tức giận nhéo cổ cậu một phát: “Nằm im! Nhõng nhẽo với ta làm cái gì!”
Thuỷ Căn bị sặc nước đến đau cả họng, nhất thời nói không ra lời, nhưng cũng vì hành động ban nãy của mình mà ngượng chín người, mặt đỏ bừng y chang cái mông khỉ.
Cậu ngoan ngoãn dựa vào Thiệu, ánh mắt đương nhiên nhìn về phía Phùng cục trưởng ở cửa đường hầm, và thấy hắn cũng từ trên vách động bò xuống. Kéo ba cái xác đã thành thây khô lại gần nhau, rồi ép băng tằm tiếp tục nhả tơ. Sau đó, hắn buộc chặt mấy cái thây khô lại, ném xuống nước; xác khô bị tơ băng tằm bao bọc, nhẹ nhàng nổi lềnh bềnh trên mặt nước như một cái bè. Rồi hắn nhảy lên xác khô, chân đạp mạnh một cái, bơi về phía trước.
Coi bộ lớp da cháy khét lèn lẹt của Phùng cục trưởng cũng sợ nước mặn, vì thế hắn mới núp trên vách động, loay hoay tìm cách vượt qua hồ.
Thuỷ Căn theo dõi toàn bộ quá trình Phùng cục trưởng chế tạo “bè da”, mà cảm thấy mục tiêu “thành tiên” của Phùng cục trưởng có lẽ đã đạt được rồi không biết chừng.
Đường đường là một cục trưởng, thế mà có chỗ nào giống người? Thứ duy nhất còn sót lại trên người hắn có lẽ chỉ là ý nghĩ ác độc muốn cướp đoạt tính mạng của người khác hay giẫm đạp lên thi thể của người khác để đạt được mục đích mà thôi.
Đúng lúc này, nước dưới chân bọn họ bỗng dâng lên từng đợt sóng, một bóng đen khổng lồ ùn ùn kéo tới chỗ họ…
Thiệu cau mày, khẽ nói: “Không ổn rồi!”
|
Chương 43[EXTRACT]Khi bóng đen kéo tới cùng những đợt sóng lớn và dường như cùng cả tiếng rống của quái thú, Thiệu kéo Thủy Căn bơi thật nhanh về phía trước. Thuỷ Căn xụi lơ, chỉ còn biết trừng mắt nhìn xem thứ đang nổi lên ấy rốt cuộc là quái vật gì.
Giữa bọt nước tung tóe, thứ đó cuối cùng cũng lộ ra bộ mặt thật. Thì ra đó là một cây cột hình trụ đường kính tới hai mét, lao thẳng lên từ đáy nước, nếu nhìn không kỹ, có khi còn tưởng là Đông Hải Thần Châm của con khỉ họ Tôn ấy chớ!
Trên thân cột khắc hình một ngưu đầu trấn tà thú đã từng thấy ở nghĩa địa Quân Sơn, con mắt mở to như cái chuông đồng đang ngạo nghễ coi thường bọn họ. Và tiếng rống vừa rồi hình như phát ra từ chính cái mồm đang ngoác ra của ngưu đầu.
Thiệu sửng sốt nhìn trấn tà thú, dường như hắn cũng không đoán ra được cây cột này dùng để trấn áp thứ gì.
Mặt hồ vốn tĩnh lặng không một gợn sóng, có lẽ do người rơi xuống đã khuấy động nước hồ, kích khởi then chốt nào đó dưới đáy nước, và khiến cây cột vọt thẳng lên. Trên đỉnh cây cột khảm một cái hộp tám cạnh, không rõ được làm bằng gì. Dưới ánh nước khúc xạ, mặt hộp tỏa ra những luồng sáng lấp lánh rực rỡ.
Phùng thịt nướng cưỡi “bè da” ở gần cây cột nhất, vừa thấy cây cột mọc lên một phát là vọt tới liền, cố sức móc cái hộp nọ ra, rồi quay trở lại cái “bè da”. Sau đó, hắn dùng bộ da người gói bản thân lại như thể quấn nem, và dùng băng tàm bịt kín các kẽ hở. Cả bộ da bao bọc lấy Phùng thịt nướng như cái kén tằm khổng lồ, bồng bềnh trên mặt nước.
Thuỷ Căn buồn bực nhìn Phùng cục trưởng chuẩn bị, cây cột thiếu mất cái hộp bắt đầu rung chuyển và từ từ hạ xuống.
Và rồi, miệng ngưu đầu trấn tà thú lại ngoác rộng hơn, từ trong đó phun ra rất nhiều những sợi dây. Sau khi rơi xuống hồ, những sợi dây nọ nhanh chóng hút nước và trương phồng lên như thể hoàng hoa thái(1) phơi khô.
Thuỷ Căn chẳng thấy tò mò tẹo nào, chỉ ra sức gào lên với thằng em của cậu: “Ngươi bơi nhanh lên một chút coi!”
Thiệu vừa hổn hển kéo cậu đi, vừa dữ dằn nói: “Ta phải kéo cái đồ ăn hại nhà ngươi thì làm sao mà bơi nhanh được hả?” Những sợi dây vừa trương phình lên dập dềnh trong nước chưa tới một phút, đã lập tức bắn về phía bọn họ như những mũi tên, phần lớn trong số đó là lao về phía Thủy Căn.
Thiệu biết rõ rằng mùi máu tươi từ vết thương của Thuỷ Căn đã mời gọi những sợi dây dường như không nhìn thấy được này tới. Thiệu hơi nhún người, rồi vung tay lên ném Thủy Căn sang bờ hồ bên kia.
Những sợi dây còn lại bèn đánh về phía Thiệu, Quảng Thắng và Phùng kén nhộng.
Bởi vì cái kén khổng lồ sát cây cột nhất, vài sợi dây đã lẻn đến gần nó rồi. Từ một đầu của sợi dây nhô ra một cái móc sắc lẻm bấu vào kén nhộng, đầu dây còn lại thì mở ra một cái miệng đầy răng ngoạm vào cái kén.
Chỉ có điều, những sợi tơ gặp nước trở nên cực kỳ bền chắc, tạm thời không thể cắn rách. Nhưng Thiệu lại không được may mắn như vậy, vài sợi dây đã bấu được vào người Thiệu, và bắt đầu ra sức cắn xé da thịt hắn.
Máu Thiệu có chứa linh lực, có lực sát thương rất lớn đối với oán linh, nhưng dường như lại chẳng có tác dụng gì với loài nhuyễn trùng này. Chỉ trong chốc lát, càng lúc càng nhiều những sợi dây ùn ùn kéo về phía Thiệu.
Về phần Quảng Thắng, suy cho cùng thì gã cũng là kẻ kiếm sống bằng đao kiếm, từ khi mấy tên thuộc hạ biến thành “bè da”, gã đã nhanh chóng vùng ra khỏi nỗi sửng sốt, và cố bơi vào bờ. Mặc dù đã cách bờ rất gần rồi, nhưng gã vẫn bị mấy con trùng sợi cắn vào bắp đùi.
Máu đặc lập tức tản ra xung quanh, Quảng Thắng kêu lên một tiếng thảm thiết. Thuỷ Căn nhoài người ra, vươn tay về phía hắn, và kéo hắn lên bờ.
Sau khi hút no máu, những sợi dây nhanh chóng lột xác, thành nhộng, rồi thoát xác. Thuỷ Căn sững sờ nhìn, cái thứ to bằng bắp tay người lớn đang đập cánh phành phạch trên mặt đất kia, nhìn thế nào cũng thấy y chang con muỗi cỡ bự.
Vậy tức là, sợi dây đó chính là ấu trùng của muỗi khổng lồ – bọ gậy?
Đúng lúc này, Thiệu bơi về đến bờ với một thân đầy máu, lôi mấy con bọ gậy đang bắt đầu lột xác trên người hắn xuống. Rồi triệu một đám ma trơi tới thiêu trụi những con muỗi vừa mọc cánh đang muốn bay lên.
Con muỗi khổng lồ vẫn còn vặn vẹo thân mình giữa ngọn lửa, trong sự vùng vẫy của chúng, cái vòi đầy răng cưa thậm chí còn đâm thủng vài cái lỗ trên nền đá nham thạch.
Thiệu cau mày nói: “Những con bọ gậy này là ấu trùng của muỗi xương khô vùng Nam Cương. Khi còn là bọ gậy thì còn dễ đối phó, chúng chỉ ăn da thịt động vật, cũng không thể gây chết người. Tới khi trưởng thành, chúng chuyên hút não người và động vật, hộp sọ cho dù cứng đến đâu cũng có thể bị chúng đục thủng.”
Nói cách khác, vừa nãy nếu Thiệu không đến kịp, đầu cậu sẽ bị muỗi khổng lồ chọc lỗ hút, như một trái dừa tươi ngon vậy đó.
Hồ nước phía sau bọn họ lại “ầm ầm” rung chuyển, ở giữa hồ, nơi cây cột vừa biến mất lại xuất hiện một xoáy nước sâu hun hút, cuốn Phùng kén nhộng vào cái động đen ngòm dưới đáy hồ, không rõ là trôi đi đâu mất tiêu rồi.
Từ vách núi hai bên bờ hồ phun trào hai cột nước vĩ đại và đổ đầy hồ nước. Chỉ trong phút chốc, hồ nước lại khôi phục vẻ tĩnh lặng vốn có, và còn lại vô số bọ gậy đang móc chặt vào đáy hồ và vách núi nên không bị cuốn trôi.
“Chết tiệt, tí nữa còn có chuồn chuồn khổng lồ không vậy? Định làm liên hoan côn trùng đấy hở?” Quảng Thắng bụm chặt bắp đùi bị thương, hùng hùng hổ hổ chửi bới.
Thiệu không hề đáp lời hắn, tiếp tục giữa lửa ma trơi và đi về phía trước.
Thuỷ Căn dìu Quảng Thắng dậy, đi theo Thiệu. Nhìn thấy vết thương của Thiệu còn đang chảy máu, cậu không kìm lòng được mà hỏi: “Ngươi… Ngươi không sao chứ?”
Cậu đang nói dở thì đã thấy vết thương của Thiệu chầm chậm tự khép lại. Coi bộ sau chuyến đi tới thôn Bốc Vu, người được lợi nhất chính là Thanh Hà Vương, linh lực tăng lên rất nhiều, tiết kiệm được không ít tiền thuốc men đấy nhỉ.
Đại ca Quảng Thắng thấy mà kinh hoàng, run bần bật hỏi: “Các… các ngươi là cái quái gì vậy?”
Câu hỏi này đúng là quá coi thường lễ nghi hoàng gia rồi!
Thanh Hà Vương quay đầu, âm hiểm nhìn Quảng Thắng, trong cái hang bí mật biệt lập với thế giới bên ngoài này, giết người chỉ là chuyện nhỏ! Xem ra, Thiệu đã động sát tâm rồi.
Thuỷ Căn cũng không hẳn là có thiện cảm với vị đại ca này, nhưng dẫu sao, cậu vẫn cảm thấy con người Quảng Thắng cũng rất nghĩa khí, bèn cuống quít giảng hòa: “Ừ thì, nhiều người cũng là nhiều sức, ngươi nói có đúng không nào?”
Thiệu trừng cậu một cái, rồi ngoảnh mặt đi, Thuỷ Căn bấy giờ mới nhỏ giọng nói: “Ông anh, nói chuyện với thứ ‘không phải người’ thì phải cẩn thận chứ. Cái vị đằng trước chúng ta đây, còn lợi hại hơn muỗi khổng lồ nhiều, hút não người không cần ống hút luôn ấy chớ!”
Quảng Thắng cũng là một kẻ tuấn kiệt thức thời, hiểu rõ nguyên tác ‘nhìn nhiều nói ít’. Dù đầy bụng thắc mắc, gã vẫn ngậm miệng ngay tắp lự, đẩy Thuỷ Căn ra, rồi khập khễnh theo sát Thiệu.
Đi được một lúc, bọn họ tới một thạch thất. Cánh cửa là một khối lớn như thạch anh.
Khi tới trước cửa, Thiệu dừng lại: “Nơi này có người đã đặt kết giới.”
Và khi hắn vươn tay ra, cánh cửa đang khép chặt nọ dường như tự động tiêu tan, để Thiệu dễ dàng vượt qua. Sau khi hắn tiến vào, Thuỷ Căn cũng đi vào mà không gặp trở ngại gì, thế nhưng chẳng biết vì sao, Quảng Thắng lại bị chặn lại ngoài thạch thất, mặc cho gã có xô đẩy mạnh đến thế nào đi chăng nữa, cũng vẫn không thể vào được.
Dường như đã từng có người sống trong thạch thất này, có một cái bàn làm từ gốc cây, trên chiếc giường theo tập quán của người Tiên Ti vẫn còn trải đầy da thú. Thậm chí trên vách tường vẫn còn treo vài bức đan thanh đã ố vàng. Trên nóc tủ, có vài thanh đao, cái dài cái ngắn.
Còn Thiệu thì sững người như bị điểm huyệt, nhìn gian phòng bằng ánh mắt vô cùng kinh ngạc.
“Làm sao vậy?” Thuỷ Căn dè dặt hỏi.
“…Cách bài trí ở đây với tẩm cung trước kia giống nhau như đúc vậy…” Lông mày Thiệu nhăn tít lại, khó chịu đáp lời.
Nghe thấy thế, Thuỷ Căn cũng tò mò đánh giá tẩm cung của Thanh Hà Vương. Quý tộc man di đúng là không hưởng thụ nhiều như người Hán, đường đường là tẩm cung của hoàng tử mà cũng thật đơn sơ! Trông hệt như một trướng bồng vậy.
Thuỷ Căn đã mệt muốn chết rồi, sau khi đưa tay sờ soạng thử mấy cái, cậu đặt mông nằm thẳng cẳng trên chiếc giường mềm mại, mùi da thú xộc vào mũi cậu.
Đột nhiên Thuỷ Căn cứng đờ người lại, bởi cậu chợt nhận ra, mùi vị này, màu sắc da thú này, mái ngói này, chúng mới giống trong cảnh mộng xuân kích tình ngày trước làm sao.
Bấy giờ, Thiệu mới nhìn thấy Thuỷ Căn nằm trên giường với sắc mặt ửng hồng, thần thái kỳ lạ, hắn hơi hơi nhếch khoé miệng: “Ngày ấy, ngươi lúc nào mò tới tẩm cung của ta lúc nửa đêm, cũng giống như bây giờ mà nằm ở trên giường chủ động dang rộng hai chân, cầu ta thao ngươi vậy đó.”
.
(1) Hoàng hoa còn gọi là hoa hiên, kim trâm thái, huyền thảo, lêlô, lộc thông. Tên khoa học Hemerocallis fulva, thuộc họ Hành tỏi Liliaceae. Rễ hoa hiên – hoàng hoa thái căn (Radix Hemerocallitis) là rễ và thân rễ phơi khô của cây. Hoàng hoa là một loại cỏ sống lâu năm, thân rễ rất ngắn, có rễ mẫm nhưng nhỏ. Lá hình sợi, dài 30-35cm, rộng 2,5cm hay hơn, trên mặt có nhiều mạch. Trục mang hoa cao bằng lá, phía trên phân nhánh, có 6-12 hoa. Hoa to, màu vàng đỏ, có mùi thơm, tràng hoa hình phễu, phía trên xẻ thành 6 phiến. Có 6 nhị, bầu có 3 ngăn. Quả hình 3 cạnh, hạt bong, màu đen. Ra hoa vào mùa hạ và mùa thu.đây là cây hoađây là hoàng hoa thái ~ mấy con trùng trong truyện giống cái này này
|
Chương 44[EXTRACT]Thủy Căn nghe thấy câu này, vành tai nóng ran, cậu theo phản xạ khép hai chân lại. Nghĩ lại mới thấy không ổn, cậu bò dậy từ trên giường ngay tắp lự, chít chít loạn lên như thể con chuột bị bỏng nước sôi: “Ngươi… Ngươi nói tầm bậy! Ai thèm quyến rũ ngươi hả!”
Thiệu không buồn đáp lại cậu, hắn bước tới ước lượng độ cao của các vật dụng trong tòa cung điện mô phỏng này. Mặc dù cách bày biện trong phòng giống hệt, nhưng vẫn có một vài thứ rõ ràng không phải của hắn ở đây.
Chẳng hạn như một bàn cờ vây đã tàn cuộc, vài bảng chữ mẫu xếp chồng một chỗ, thậm chí còn có một cây đàn nhị đặt trên giá.
Trên bàn có điểm tâm thơm phức, chè xanh đang hãm, trong nghiên, mực đã được mài, đầu bút lông vẫn còn ướt, vài tờ giấy viết thư đầy chữ đặt lộn xộn trên bàn, còn người sống trong phòng như thể chỉ vừa mới đi đâu đó mà thôi. Xem ra phong ấn khiến cho mọi thứ bên trong ngưng đọng lại ở một khoảnh khắc nào đó của nghìn năm trước.
Thiệu tiện tay rút lấy một tờ, chăm chú nhìn, trên đó chính là chữ viết quen thuộc của dân tộc Tiên Ti, và là nét chữ của Vương huynh hắn – Thác Bạt Tự.
Thuỷ Căn tò mò ngó sang, nhưng chẳng biết chữ nào.
“Trên này viết cái gì vậy?”
Thiệu quay sang nhìn chằm chằm Thuỷ Căn với vẻ mặt kỳ lạ, làm Thủy Căn chẳng hiểu mô tê gì.
Thiệu lại quay đầu nhìn chồng giấy viết thư, sau khi nhanh chóng xem lướt qua một lượt, tự dưng dữ dằn mắng Thủy Căn một câu: “Không biết xấu hổ!”
Câu chửi này quá sức vô lý mà, Thuỷ Căn phẫn nộ, trong cái lĩnh vực “không biết xấu hổ” này, hành vi, biểu hiện của Thiệu là điều mà không người nào có thể sánh kịp, hắn có tư cách gì mà quay sang mắng mình chứ.
Cũng không thể trách Thiệu tự nhiên lại nổi giận, sự thật là nội dung bức thư ngập tràn đau đớn bi thương, nỗi niềm tương tư dâng trào cuồn cuộn. Điều quan trọng nhất là, lá thư tình ý miên man này là Thác Bạt Tự viết cho hắn.
Về vấn đề tình dục, người Tiên Ti sống vô cùng phóng đãng. Nhất là trong hoàng tộc thì lại càng thối nát ghê gớm hơn. Khi còn là thiếu niên hiếu kỳ, nhờ sự “dạy dỗ” của Vương huynh, Thanh Hà Vương đã từng có vài trải nghiệm khó có thể tưởng tượng nổi. Có điều, hắn chỉ coi đó là tình dục đơn thuần, nửa là tò mò, nửa là học tập, vẫn phát tiết như thường mà thôi.
Nhưng sau khi yêu thương Vạn Nhân rồi, mặc dù hắn chưa từng thủ thân như ngọc, nhưng quan hệ với Vương huynh lại nhanh chóng trở nên tồi tệ, mối quan hệ cấm kỵ này chấm dứt từ đó.
Quá khứ phóng đãng giữa huynh đệ ấy cũng không để lại nhiều ảnh hưởng đối với hắn.
Thế nhưng trong thư, Thác Bạt Tự lại xót xa giãi bày nỗi niềm nhớ thương của bản thân đối với Vương đệ đã bị y tự tay hại chết. Thứ tình cảm chứa chan trong từng câu chữ không phải là sự sám hối vì đã giết hại anh em, trái lại, nó càng giống như tình cảm dành cho người yêu hơn.
Tấm chân tình này, so với cái vẻ vô tình vô nghĩa lúc y xử tử hắn, chỉ có thể dùng từ “làm bộ làm tịch” để hình dung, khiến cho Thiệu sửng sốt sau đó lại giận tím mặt.
Thuỷ Căn không biết diễn biến tâm lý phức tạp của thằng em cậu. Cậu còn đang tò mò lục lọi đống bình lọ bên cạnh. Một cái lọ trong số đó đột nhiên hơi động đậy khi cậu đến gần, Thuỷ Căn do dự cầm nó lên, hé mở nắp lọ ra nhìn vào:
“A!” Cái lọ đất bị Thuỷ Căn tuột tay đánh rơi xuống sàn, chất lỏng sền sệt màu xanh sẫm trào ra, một con côn trùng kỳ lạ ngọ nguậy giữa những mảnh lọ vỡ. Giờ Thủy Căn chỉ cần nghe đến trùng là đã sợ xanh mặt, cuống cuồng vứt cái lọ đi.
Thiệu đi tới nhìn kỹ, con trùng này lại giống y xì đúc lũ muỗi xương khô vừa gặp ở hồ nước, nhưng mà kích thước nhỏ hơn rất nhiều, coi bộ những ấu trùng muỗi trong cái hồ ấy đều được nuôi từ những chiếc bình đất này mà ra.
Tất cả các dấu vết đều cho thấy, Thác Bạt Tự đã từng sống ở nơi này một thời gian.
Trong kí ức của hắn, Vương huynh lúc nào cũng sợ các loại rắn rết côn trùng, làm sao y có thể tự mình nuôi chúng được? Nhưng tất cả những vật dụng trong thạch thất này đều là thứ Vương huynh thích, vậy phải giải thích như thế nào đây?
Thiệu cẩn thận xem lại chồng thư trong tay, mỗi một phong thư đều có ghi ngày tháng.
Sau khi rời khỏi thôn Bốc Vu, Thiệu đã bảo Quảng Thắng mua bộ sách Lưỡng Tấn lịch sử về. Hắn không hiểu chữ giản thể, bèn sai Thuỷ Căn đọc cho mình nghe, cuối cùng cũng có chút ít hiểu biết về những sự kiện xảy ra sau khi hắn chết.
Vương huynh đạp lên xác hắn mà leo tới ngai vàng, được lịch sử phong làm một minh chủ có công “tiếp nối đời trước, mở lối đời sau”. Y tấn công Tống quốc đại thắng, chiến dịch đó được gọi là cuộc chiến tranh Nam Bắc đầu tiên trong lịch sử Nam Bắc triều (1), chiếm được Hổ Lao quan, mở mang bờ cõi ba trăm dặm, còn tiến sát lãnh thổ Lưu Tống. Nhưng Vương huynh cũng quá mệt mỏi, vì chiến đấu vất vả mà thành bệnh, cuối cùng, vào năm 423, y buông tay về trời, hưởng thọ 32 tuổi.
Nhưng từ thời gian viết trong thư có thể suy ra, phong thư đầu tiên là vào năm 424, cuối cùng là vào năm 434. Nói cách khác, nếu như những bức thư này là thật, thì Thác Bạt Tự sống lâu hơn so với sử sách ghi chép ít nhất mười năm.
Một con người đã leo lên đỉnh cao của quyền lực, nếm trải cuộc sống bôn ba chiến đấu, lạc thú lớn nhất là mở mang lãnh thổ, tình hình trong ngoài nước đều rất tốt đẹp, rốt cuộc là cái gì đã khiến y vứt bỏ đế vị, sống trong thạch thất không thấy ánh mặt trời này chứ?
Lẽ nào sử sách ghi chép nhầm?
Đúng lúc này, trong chất lỏng đặc sệt màu xanh sẫm, con trùng đang thoi thóp đột nhiên nhảy dựng lên, cắn một phát vào mu bàn tay Thuỷ Căn.
Hài tử kêu lên thảm thiết, giơ chân giẫm con muỗi nát bét.
Cậu nhìn mu bàn tay bị muỗi chích, thật ra chẳng có máu chảy ròng ròng gì hết sất, chỉ sưng lên một cái nốt đỏ tấy thôi.
Thuỷ Căn nơm nớp sợ hãi nói: “Cái này không có độc chứ?”
Có độc hay không? Thuỷ Căn thấy mu bàn tay rất khó chịu, cảm giác ngứa ngáy nhanh chóng lan ra toàn thân như cháy rừng, không biết phải làm thế nào.
Tiểu hài tử ngồi lên giường, ra sức gãi từ trên xuống dưới, chẳng mấy chốc quần áo đã bị cởi tứ tung. Chỉ còn lại mỗi mình cái quần đùi mỏng dính.
“A… Ưm…”
Làn da trần bắt đầu cọ cọ lên da thú, cảm giác ngưa ngứa hình như tăng lên một ít, nhưng cậu lại cảm nhận được sự sảng khoái khó nói nên lời.
Thiệu vốn đang thờ ơ lạnh nhạt, nhưng khi Thuỷ Căn không ngừng ngọ nguậy trên lớp da thú, một mùi hương lạ lùng thoang thoảng tản mát ra từ thân thể cậu.
Mùi hương kia chính là một thứ mồi câu, dụ dỗ thú tính trong Thiệu. Ham muốn không cách nào khống chế dâng lên. Thân thể gày gò lăn lộn trên da thú kia bỗng chốc trở thành mỹ vị thập tam hương mê người.
Chuyện gì xảy ra vậy? Thú tính nổi lên quá nhanh, trước đây lúc bị oán linh của đại thúc dê xồm cắn cũng đã xảy ra việc tương tự, thế nhưng lần này là vì cái gì?
Không kịp nghĩ thêm gì nữa, Thiệu đã tuân theo bản năng bổ nhào lên giường.
Khi liếc qua những mảnh vỡ bình đất, ánh mắt Thanh Hà Vương chợt sáng lên, muỗi xương khô? Hắn đã hiểu, muỗi trong lọ đất và muỗi trong hồ là một con đực một con cái. Tuy vết thương của hắn đã lành, nhưng trong máu đã dính độc của muỗi, mà Thuỷ Căn cũng trúng độc, muỗi xương khô là vật tính dâm, một khi âm dương gặp nhau, thì chỉ có giao hợp ba ngày ba đêm mới có thể giải trừ độc tính.
Tại sao nghìn năm sau trở lại nhân gian, thằng anh trai này vẫn còn suốt ngày xung khắc với hắn thế này hở giời!
Tách hai chân Thuỷ Căn ra một cách tàn nhẫn, Thiệu nhất ngữ song quan (một câu nói bao hàm hai ý) nghiến răng nghiến lợi nói: “Thác Bạt Tự! Xem việc hay ho ngươi gây ra đây này!”
.
(1) Nam Bắc triều: một giai đoạn trong lịch sử Trung Quốc từ 420 – 589. Phía nam Trung Quốc lần lượt có Tống, Tề, Lương, Trần, gọi là Nam Triều; phía bắc có Bắc Nguỵ, Bắc Tề, Bắc Chu gọi là Bắc Triều.
|