Pendragon 1 ~ Con Buôn Tử Thần
|
|
NHẬT KÍ #2 (TIẾP THEO) DENDURON (@emz và @conan1306 type)
Mình đã làm một chuyện ngu ngốc. Càng tìm hiểu thêm thế giới này mình càng kém hiểu biết hơn. Tệ hơn nữa, mới thử hành động, mình đã làm hỏng việc. Loor và mình suýt chết vì lỗi tại mình.
Mình muốn về nhà, muốn nằm trên chiếc giường của mình, muốn cảm thấy cái mũi của con Marley dụi vào mình và ngửi hơi thở tanh tanh mùi chó của nó. Nhưng mình lại phải nằm đây – lạnh lẽo bầm dập – trên một bờ sông, bên kia vũ trụ.
-Loor, cô không sao chứ? Mình nghe giọng nói trước, rồi thấy hắn len lỏi từ trong rừng ra. Đó là gã hiệp sĩ đã làm mình phát khiếp, phải nhảy ùm xuống sông. Khi hắn xuất hiện từ sau bụi cây, mình thấy hắn không lớn tuổi hơn mình bao nhiêu. Hắn cao ráo và giáp da làm hắn trông càng có vẻ to lớn hơn. Nhưng tay này không nhanh nhẹn lắm đâu. Những gã hiệp sĩ khác mà mình đã thấy nguy hiểm và kinh nghiệm như những thủy thủ già. Còn tay này cũng chỉ được cái vỏ ngoài, đi đứng lóng ngóng như một con rối to lớn, tay chân lòng thòng, vụng về. Hết va phải cây, lại vướng vào rễ, suýt ngã sấp mặt xuống đất, rồi hắn trợn mắt, e sợ nhìn nhìn hai đứa mình. Loor nói cho hắn yên tâm:
-Chúng tôi không sao. Tay hiệp sĩ rên rẩm:
-Tôi rất tiếc. Chuyện này là lỗi tại tôi. Loor vừa nói vừa nắn xem có bị gãy xương nào không:
-Pendragon, đây là Alder. -Alder gì? Mình hỏi, dù đã biết trước câu trả lời. y chang. Gã hiệp sĩ nói:
-Chỉ là… Alder thôi. Thấy chưa? Lại một cái tên cụt ngủn nữa. Khi nào một xã hội mới tiến triển đến chỗ có tên họ đàng hoàng nhỉ? Alder sôi nổi nói:
-Pendragon, tôi không thể nào nói hết niềm hân hoan của chúng tôi khi cậu tới đây. -Bây giờ chúng tôi có thể khởi sự được rồi. Hả? hắn nói khởi sự gì? Cái gì khởi sự? Mình phát bệnh vì phải luôn đi sau những người khác một bước. Mình hỏi:
-Khởi sự gì? Alder nhìn Loor như ngạc nhiên vì sao mình lại không hiểu những gì hắn nói. Anh ta nên làm quen với chuyện này đi là vừa. Mình cũng nhìn Loor. Rõ ràng có ai nói gì với mình về tất cả những vụ này đâu. Loor nhìn ra sông. Mình đoán cô ta đang cân nhắc có nên trả lời mình không. Môi mím chặt, cô ta trừng trừng nhìn mình, rồi nói:
-Anh đã thấy Bedoowan đối xử với Milago thế nào rồi đó. Còn nhiều điều anh chưa được thấy. tra khảo, đói khát, bệnh tật. Chúng coi người Milago không bằng loài chó. Họ không có đủ lương thực, thuốc men. Một nửa số trẻ sơ sinh chỉ sống vài tháng. Họ mất mạng hàng ngày trong mỏ đá quý. Nếu sự đối xử ghê tởm đó không bị ngăn chặn lại, bộ lạc Milago sẽ bị tuyệt vong. Thời điểm ngăn chặn chuyện đó đã tới. Mình chẳng thích nghe vụ này chút nào. Đúng, những người này đang rất khốn khổ, mọi chuyện cần thay đổi. Nhưng điều mình không hiểu nổi là mình liên quan gì đến tất cả chuyện này? Mình cũng không chắc là muốn biết được điều đó.
Alder nói:
-Milago là những người hiền lành. Họ không phải chiến binh. Mất nhiều năm vất vả mới thuyết phục được họ đồng ý hành động. Nếu không nhờ ông Press, có lẽ không bao giờ họ sẵn sàng chấp nhận.
Mình hỏi:
-Cậu Press là gì trong vụ này? Giọng Alder đầy tôn kính:
-Ông Press là nguồn cảm hứng của họ. Ông cho họ sức mạnh để chiến đấu. Lần đầu tiên mình nghe từ “chiến đấu” và mình chẳng thích tí nào. Mình hỏi Alder:
-Anh không phải người Milago. Anh là một người Bedoowan. Vì sao anh lại quan tâm đến họ quá vậy? Loor nhìn thẳng mắt mình:
-Pendragon, anh ấy là một Lữ khách. Như tôi, ông Press và mẹ tôi. Đó là công việc của Lữ khách. Nơi nào cần, Lữ khách phải giúp. Anh đã sẵn sàng cho trách nhiệm đó chưa? -À… chưa. Mình nói thành thật, vậy mà Loor bộp ngay, đầy miệt thị:
-Tôi thật không ngờ. Alder chăm chú nhìn mình lo lắng và có lẽ hơi… thất vọng:
-Nhưng ông Press đã nói nhiều về cậu. ông bảo với chúng tôi, nếu có chuyện gì xảy ra cho ông, cậu sẽ là người thay thế. Mình kêu lên, tránh xa anh ta:
-Nhưng, trời đất, cậu Press không hề nói một lời với tôi về vụ này. Tất cả những gì ông nói chỉ là, có một số người đang gặp khó khăn cần giúp đỡ. Tôi tưởng chỉ là chở ai đó bằng xe mô-tô đến một nơi nào, hoặc là vận chuyển bàn ghế. Tôi đâu có ngờ ông nói về… về… lãnh đạo một cuộc cách mạng dễ sợ như vậy. Loor liếc mình bằng một đôi mắt nẩy lửa:
-Cách mạng. Một từ rất chính xác. Người Milago đang sửa soạn nổi dậy chống lại Bedoowan. Ông Press đã làm cho họ tin tưởng là họ có thể thành công. Không có ông, họ sẽ không có sức mạnh để chiến đẩu, và tất cả sẽ… chết. Tôi không biết vì sao, nhưng ông ấy đã làm người Milago tin rằng anh có khả năng dẫn dắt họ như ông. Đó là lý do anh có mặt tại đây. Đó là điều anh phải chấp nhận. Mình cảm thấy như lại đang ở trên dòng sông. Bị cuốn đi mà không có cách nào ngăn lại được. Tim mình đập rộn ràng y như lúc trôi dạt trên sông. Mark ơi! Mình đâu phải là một nhà cách mạng. Lần mình suýt “chiến đấu” là khi mình và bạn vật lộn giành nhau cây vợt bóng chày. Điều đó đâu đủ để coi mình như nhà lãnh đạo một cuộc cách mạng!
Mình nói, ráng không vất váp:
-Nghe này, tôi rất áy náy vì hoàn cảnh những người ở đây. Nhưng tôi không hiểu gì hết. Cô bảo tôi là một Lữ khách ư? Được thôi. Nhưng thậm chí mới hai ngày trước tôi không hề biết có nơi này, có những con người này tồn tại. Làm sao thình lình tôi có thể lãnh đạo một cuộc cách mạng được? Alder nghiêm túc nói:
-Nhưng cậu phải làm. Người Milago tin tưởng cậu là người thay thế ông Press. Mình la lên:
-Vậy thì hãy đi tìm cậu Press đi. Alder cúi đầu nhìn mặt đất. Rõ ràng có chuyện không hay đang xảy ra. Loor vội hỏi:
-Bây giờ ông Press đang ở đâu? Alder cứ dằn chặt mắt xuống mặt đất và đáp:
-Ông đang bị giam trong đồn lũy của Bedoowan. Ông đã bị Kagan kết án tử hình. Giờ hành quyết là lúc xuân phân ngày mai. Ôi trời! Cậu Press sắp chết! Còn gì tệ hại hơn nữa không? Loor rời mắt khỏi Alder, nhặt lên một viên đá. Với tiếng gầm giận dữ, cô vung tay ném viên đá qua sóng, như thể đang dồn nén nỗi thất vọng và phẫn nộ vào cú ném dữ dội đó. Rồi cô nhào lại mình như một con bò hung hãn. Mình giật lùi vài bước, tưởng như sẽ bị cô túm lấy, quay như chong chóng. Nhưng không. Thay vào đó, cô dí sát mũi vào mặt mình, sôi sùng sục:
-Không hiểu vì sao Press lại tin tưởng mi. Mi là một kẻ hèn nhát, yếu đuối, không quan tâm tới ai ngoài bản thân mình. Nhưng mi là một Lữ khách, hãy bắt đầu hành động như một Lữ khách đi. Tới thời điểm mi phải nhìn thẳng vào sự thật rồi. Nói xong, cô ta xô cho mình một cái suýt bật ngửa. Mình phải quạt hai cánh tay để không bị bổ nhào.
Alder ôn tồn nói:
-Cô biết tôi không đi cùng cô được. Loor đáp:
-Tôi hiểu. Gặp lại chúng tôi lúc trời tối. Cô ta xô mình một cái nữa rồi mới bước đi. Mình đi theo, chứ biết sao bây giờ. Trên đường trở lại làng Milago, hai đứa không nói năng gì, nên mình có dịp “tiêu hóa” những thứ vừa mới biết. Mình đoán Lữ khách là một loại người hành hiệp xuyên không gian. Rất cao thượng. Nhưng mình đâu có tình nguyện làm công việc đặc biệt cao quý này? Trái lại, mình không muốn tham gia một phần nhỏ nào trong vụ này. Mọi người cứ khăng khăng bảo mình là Lữ khách và mình phải có trách nhiệm. Nhưng kẻ quái quỷ nào đã biến mình thành Lữ khách? Mình nhớ là chưa hề ký một mảnh giấy tình nguyện nào. Có lẽ chuyện này giống như…nghĩa vụ quân sự? Nhưng nếu là thằng cha tuyển các Lữ khách, chắc chắn không bao giờ mình lại tuyển một kẻ như mình. Ít ra cũng chọn mấy tay trong người nhái Hải quân, hay mấy cha như trong đội phòng chống tội phạm… tuyển một thẳng nhóc mười bốn tuổi làm chi. Cho dù mình có muốn giúp người Milago, mình vừa mở miệng thiên hạ biết ngay mình là …hàng dỏm. Không, điều hay ho nhất mình có thể làm là theo đúng kế hoạch A: tìm ống dẫn và rời khỏi nơi này càng sớm càng tốt. Tuy nhiên vẫn còn một chuyện làm mình bận tâm. Cậu Press đang lâm nguy. Không, còn tệ hơn cả lâm nguy. Cậu sẽ chết vào ngày mai. Nhưng mình có thể làm được gì đây? Nếu đi tìm cậu, mấy gã hiệp sĩ của Kagan sẽ băm mình ra từng mảnh và cả hai cậu cháu đều phải chết. Mình kẹt trong một hoàn cảnh thật khủng khiếp.
Mình và Loor về tới làng. Bà Osa đón tụi mình với vẻ mặt đầy lo lắng. Chắc bà đã đoán biết tình hình đang xấu đi. Nhưng bà chưa kịp hỏi han gì, Loor đã lên tiếng:
-Phải cho hắn thấy hầm mỏ. Bà Osa không hỏi lý do, chỉ nhìn mình và cô con gái, thở dài mệt mỏi, rồi bảo mình trước khi quay đi:
-Theo ta, Pendragon. Mình hỏi, vì không hề muốn làm chuyện đó:
-Nếu cháu không muốn thấy hầm mỏ thì sao? Bà Osa nhìn thẳng mình với ánh mắt mạnh mẽ. Bà không quở trách mình. Cũng không cố hăm dọa mình. Thật khó diễn tả, nhưng ánh mắt dứt khoát của bà như nói: “Mi sẽ tới để thấy hầm mỏ, vì đó là việc mi phải làm”. Có thể đó là một cách thôi miên, vì ngay khi bà ta nhìn mình, mình biết không còn chọn lựa nào khác nữa. Vậy là mình đi theo bà. Kỳ lạ chưa?
Loor không đi cùng. Bà Osa cũng không bảo cô ta theo. Mình cảm thấy không có cô ta càng dễ chịu. Khi đi qua làng Milago, mình bắt đầu nhận ra một điều mà trước đây mình chưa hề thấy. Mỗi khi đi qua một người Milago, mình lại nhận được một cái liếc nhìn. Hai ánh mắt của mình và họ vừa gặp nhau, họ vội vàng nhìn xuống đất và tiếp tục bước đi ngay lập tức. Thật lạ lùng. Cứ như họ đang ngắm ngía mình, nhưng lại hốt hoảng khi nhận ra sự hiện diện của mình. Cho đến lúc đó, mình vẫn tưởng không ai biết mình có mặt tại nơi này. Không ai chuyện trò với ai, huống chi mình. Tất nhiên, ngoại trừ Figgis. Hắn là người Milago độc nhất đã nói chuyện với mình. Tất cả những người khác đều âm thầm, lặng lẽ. vậy mà lúc này họ lại đang dòm ngó mình. Mình cá là những dân làng này đang vừa nhìn mình vừa nghĩ: “ Làm sao thằng nhóc kia có thể là nhà lãnh đạo cuộc cách mạng của chúng ta? Nó yếu như sên!”. Họ rất có lý.
Mình theo bà Osa trở lại con đường mòn dẫn ra biển. Qua một đoạn ngắn trong rừng, mình thấy còn một lối nhỏ khác phía bên phải. Bọn mình theo lối đó, tới một khoảng trống có một bệ đá lớn. Bệ đá này giống khán đài giữa làng, nơi đã diễn ra nghi lễ Chuyển giao, nhưng trên mặt không có sàn gỗ. Thay vào đó là một khung gỗ khổng lồ, với một đòn quay ngay chính giữa. Một sợi dây thừng vững chắc cuốn quanh đòn quay, một đầu dây thả xuống hố. Hai người đàn ông lực lưỡng đang kéo dây, đưa một vật gì đó từ dưới lên. Hình ảnh đó làm mình nhớ lại những cái giếng cổ lổ, với gầu được buộc dây thả xuống để kéo nước lên. Nhưng ở đây người ta không kéo nước, mà kéo minh thạch. Hai người đàn ông níu giỏ minh thạch vừa kéo lên, đổ trên mặt đất. Vài viên minh thạch lởm chởm rớt ra ngoài. Hai người nhìn nhau thở dài. Một mẻ đá quá nhỏ nhặt. Mình chợt nhớ, họ phải có trọng lượng minh thạch đủ để cân bằng với trọng lượng người góa phụ của người đàn ông bị giết hôm qua. Họ chất những tảng đá mới kéo lên vào đống đá lớn kế bên bệ dài. Không nhiều nhặn gì. Nếu họ không kéo thêm được nhiều mình thạch hơn, người đàn bà khốn khổ sẽ phải theo chồng xuống đáy hố thăm thẳm. Cột sống mình lạnh buốt! Bà Osa tiến tới, ngồi lên bờ bệ đá, đưa hai chân vào trong. Bà ra lệnh: “Thận trọng”. Ngay sau đó, bà hạ người xuống thấp. Bà đi đâu vậy? Nhảy xuống à? Mình lại gần, ngó xuống và thấy có một cái thang ngắn sát vách hầm. Bà Osa đang leo xuống một nơi trông như một… cái hố không có đáy. Lập tức, bà khuất vào bóng tối. Mình nhìn sang hai người thợ mỏ. Quả nhiên họ đang nhìn lại mình. Nhưng ngay khi mấy ánh mắt vừa gặp nhau, họ vội quay đi ngay và tiếp tục công việc. Mình không biết điều nào đáng sợ hơn: biết ai ai cũng đang theo dõi mình, hay lần theo cái thang lỏng lẻo, lúc lắc kia để xuống vùng tối mịt mùng xa lạ.
Giọng bà Osa từ dưới vọng lên:
-Lẹ lên, Pendragon. Mình cuối xuống, lắc thử cái thang xem có chắc không, rồi leo vào, nắm thang và bắt đầu lần xuống. May là hầm tối thui, vì nếu nhìn thấy tất cả những gì bên dưới, chắc mình không đủ can đảm leo xuống đâu. Cái thang thô sơ bện bằng những cây con, nhưng rất chắc. Xuống được mấy mét, mình phát hiện chân thang chấm dứt trên một gờ đá. Nhưng chưa tới đáy. Đầu một thang khác bắt đầu từ một gờ đá kế bên. Không nhìn thấy bà Osa đâu, mình đoán là lại phải xuống tiếp. Tổng cộng tất cả là mười lăm cái thang. Thật không thể tin nổi, cái hố này sâu phát khiếp.Cứ mỗi ba gờ đá lại có một đường hầm nằm ngang. Mình đoán đó là những khu mỏ bỏ hoang. Chắc là khi khai thác hết minh thạch ở mỗi tầng đất, họ lại phải đào sâu hơn, sâu nữa, sâu mãi xuống dưới.
Sau cùng mình cũng xuống tới đáy. Bà Osa đang đứng đợi. Ở dưới đây cũng có ánh sáng. Những ngọn nến nhỏ được thắp khắp nơi. Không sáng sủa lắm, nhưng khi mắt đã quen với ánh sáng, mình cũng nhìn ra một đường hầm thông với đáy hố này. Bà Osa bước vào đó. Mình ngoan ngoãn theo bà. Đường hầm được đục từ trong đá. Mình có thể đi thẳng người, nhưng bà phải đi lom khom. Bà Osa giảng giải:
-Đường thông hầm chính đã được thiết lập từ nhiều thế hệ trước. Nhưng khi họ khám phá ra một mạch trù phú minh thạch dưới tầng đất này, thợ mỏ đã quyết định khai thác theo cách khác.
Họ đã làm gì?
Bà Osa không cần trả lời. Đi thêm mấy mét, đường hầm mở ra một hang động khổng lồ. Tầng hang cao phải tới mười mét. Thật hùng vĩ. Từ hang động này lại mở ra nhiều đường hầm khác. Hai người mình như đứng giữa một bánh xe, còn các đường hầm như những nan xe tỏa ra mọi hướng. Cứ mỗi đường hầm là một loạt ngã rẽ nhỏ. Trước kia mình đã được xem hình chụp các mỏ vàng, nên mình đoán những ngã nhỏ này dành cho xe chở quặng.
Bà Osa giải thích:
-Ngay khi vừa khám phá ra dưới tầng đá này có minh thạch, đường hầm được đào tỏa ra các ngã dài hàng dặm hàng dặm, chằng chịt tới mức chính thợ mỏ cũng bị lạc đường cả mấy ngày. Thú thật, mình bị ấn tượng mạnh, nhất là tất cả những việc này đều làm bằng tay. Đứng sát một bên vách hang, mình nhìn hoạt động chung quanh. Hoàn toàn không máy móc, chỉ có những tấm lưng lam lũ của những người thợ mỏ Milago. Người đẩy xe đất, người đổ đất đá giữa hang, người phân loại từng mảnh nhỏ minh thạch. Xa xa, mình nghe thấy tiếng cuốc chim bổ vào đá của những người thợ mỏ nối dài đường hầm, tìm thêm minh thạch. bà Osa cắt nghĩa:
-Thợ mỏ làm việc suốt ngày đêm. Chỉ bằng cách đó họ mới đáp ứng nổi đòi hỏi quá quắt của Kagan.
Cúi nhặt một dụng cụ của thợ mỏ - một cuốc chim sắt có cắn bằng gỗ - bà bảo mình:
-Những dụng cụ này bị cấm trên mặt đất vì chúng làm bằng sắt. Hình phạt cho kẻ nào trên mặt đất dám sử dụng đồ sắt là tử hình. Nghe bà nói, bấy giờ mình mới nhớ là không hề nhìn thấy vật gì bằng sắt trên mặt đất. Tất cả dụng cụ được dùng đều bằng gỗ hoặc đá. Dường như Bedoowan muốn cầm chân người Milago trở lại thời kỳ đồ đá. Tất nhiên trừ khi khai thác minh thạch quý giá cho chúng mà thôi.
Mình chợt nhận ra trong mỏ có mùi ghê ghê. Không kinh lắm, thật ra lại có vị ngòn ngọt. mình hỏi:
-Mùi gì vậy? Bà không trả lời mà ra dấu cho mình đi theo. Bọn mình xuyên qua hang động rộng lớn, băng qua những đường ray. Tới cuối hầm, mình bắt đầu hiểu ra điều gì đã làm mình thấy ghê ghê. Mình đã không nhìn thấy nó trước đó vì ánh sáng quá lờ mờ, nhưng giờ đến nơi mình đã có thể thấy rõ. Thú thật, ước gì mình đã không nhìn thấy, nhưng lỡ thấy mất rồi. nằm trên nền hang là hàng chục thợ mỏ. Trông họ thật khủng khiếp. Người rên rỉ đau đớn, người ngồi ngây đó với ánh mắt vô hồn. Mình bảo:
-Trông họ như bị bệnh. Bà Osa buồn rầu nói:
-Họ bị bệnh. Đó là mùi hơi khí tuôn ra khi minh thạch được tách rời ra khỏi đá. Hơi độc đó hủy hoại dần khả năng hít thở của họ. Mình hỏi, sẵn sàng bay vọt lại cầu thang:
-Chúng ta đang hít hơi độc sao? Bà ta điềm đạm đáp:
-Đừng lo. Phải hít trong vòng nhiều năm mới đáng ngại. Nhìn những người thợ mỏ bệnh hoạn, mình hỏi:
-Những người này đã hít thở khí độc này nhiều năm rồi sao? Bà Osa buồn rầu gật đầu:
-Đó là một cái chết rất đau đớn. Mình kinh hoàng:
-Sao họ không lên trên để thở không khí trong lành? -Họ không còn đủ sức lực nữa. Những con người khốn khổ này đã ở thời kỳ cuối của bênh rồi. Họ sẽ chết tại đây. Nghe câu trả lời nghiêm nghị của bà Osa, mình giật lùi mấy bước khỏi đám thợ mỏ bệnh tật. Dù đáng xấu hổ, nhưng phải thú thật, mình sợ bị lây căn bệnh kinh khiếp này. Thình lình, hang động khổng lồ dường như không còn hùng vĩ nữa. Các vách hang như đang khép lại gần nhau hơn, làm mình muốn ra khỏi đây ngay lập tức. Mình hỏi:
-Sao bà lại muốn cho cháu thấy những cảnh này cơ chứ?
-Vì đó là điều rất quan trọng để cháu hiểu được tình trạng tuyệt vọng của người Milago như thế nào. Mình muốn gào lên. Bà ta đang gài bẫy mình. Bà ta bắt mình phải chứng kiến sự khốn khổ của những con người này, để mình phải cảm thấy xót thương mà đồng ý lãnh đạo cuộc cách mạng của họ. Nhưng tại sao? Rõ ràng bà ta đâu phải người khờ khạo? Bà ta hẳn quá biết mình đây phải loại người dẫn dắt được một cuộc cách mạng? Con gái bà ta nhận ra điều này mà. Tại sao bà ta không nhận ra? Không muốn tranh cãi với bà Osa ở đây ngay trước mặt những người thợ mỏ khốn khổ này, mình tiến về con đường hầm dẫn tới những chiếc thang.
-Cháu đi đâu vậy?
-Về nhà.
Mình trả lời cụt ngủn. Vội vã băng qua hang, mình vừa nhảy qua những đường ray, vừa né tránh những xe đẩy đá. Rồi, ngay khi sắp bước vào đường hầm, mình thấy một người chạy ngay trước mặt. Chính là Figgis. Nhưng lần này hắn không ngừng lại nài nỉ mình mua gì. Hắn rất vội. Dường như hắn không biết là vừa cắt ngang đường mình. Nhìn gã nhỏ con hấp tấp chạy xuống đường hầm về phía những cái thang, mình định bám theo. Vừa lúc đó, mặt đất bỗng rung lên. Trời! động đất sao? Hay sập hầm? Chỉ một giây sau là… một tiếng nổ kinh hồn. Mình quay nhìn về hướng phát ra tiếng nổ và thấy khói đen cuồn cuộn tuôn ra từ một đường hầm. Nhiều thợ mỏ ngẩn người nhìn đường hầm mù mịt khói.
Những con người này từng khai thác mỏ quá lâu rồi, chắc họ đã quá quen với những tiếng nổ như thế này rồi chứ. Thế nào bạn cũng nghĩ họ sẽ lập tức vồ lấy thiết bị cứu hộ và rút khỏi mỏ, hoặc bắt đầu kiểm tra những hư hại. Rất có thể có các thợ mỏ kẹt trong đó cần được giải cứu. Nhưng không. Những người thợ mỏ chỉ nhìn nhau, sợ hãi pha lẫn bối rối. Cứ như họ không biết phải làm gì.
Sau cùng bà Osa lớn tiếng hỏi:
-Có ai trong đó không?
-Rellin. Một người kêu lên. Tới lúc đó mọi người mới như bừng tỉnh. Họ vội vàng tiến tới để giải cứu người đội trưởng. Một thợ mỏ cột dây thừng quanh thắt lưng, rồi dũng cảm xông qua đám khói, vào đường hầm. Mấy người khác nắm đầu dây còn lại. Chắc để kéo người kia trở ra, nếu anh ta bị ngất.
Mặt đất không còn rung lên nữa. Nếu có hư hại gì thì cũng chỉ trong phạm vi đường hầm đó thôi. Mình không hề hấn gì, nên muốn ở lại xem Rellin có được an toàn không. Mình hỏi bà Osa:
-Thường thường bao lâu họ kích nổ một lần? Vừa trừng trừng nhìn đám khói, bà vừa nói một câu mà mình không bao giờ ngờ nổi:
-Nổ là gì? Hả? sao bà không biết nổ là gì chứ? Người đàn bà này biết mọi thứ trên đời cơ mà. Không thể là vấn đề ngôn ngữ vì Lữ khách hiểu được mọi ngôn ngữ còn gì. Mình nói:
-Bà biết mà. Nổ. Một vụ nổ lớn được tạo ra bằng… chất nổ. Bà ta bối rối nhìn mình:
-Chưa bao giờ ta thấy chuyện như thế này xảy ra tại đây, kể cả tại lãnh địa của ta. Cháu nói tiếng động to lớn đó có thể… gây thương vong, tổn thất như… như sấm sét sao? Thật kỳ lạ. Tuy nhiên, điều đó có thể cắt nghĩa vì sao các thợ mỏ lại có kiểu phản ứng như vậy.Có lẽ họ cũng không biết chuyện gì đã xảy ra. Nhưng nếu vậy thì nguyên nhân vụ nổ là gì? Có lẽ họ cuốc phải túi khí ngầm trong lòng đất.
Bà Osa và mình chưa kịp trao đổi thêm về chuyện này, thì những người cầm đầu dây bắt đầu gắng sức kéo. Các thợ mỏ khác xúm lại lo lắng nhìn. Họ lom lom nhìn con đường hầm đầy khói, chờ đợi xem chuyện gì xảy ra. Mấy giây sau,người thợ mỏ ở đầu dây bên kia nhô ra từ đám khói, trong vong tay anh ta là… Rellin. Người đội trưởng toàn thân phủ bồ hóng đen thui, quanh trán ông ta đầy vết máu. Ông ta bị choáng nhưng… còn sống. Mọi người dìu ông ấy ngồi xuống. Đỡ túi da đầy nước, Rellin uống ừng ực, rồi súc miệng, phun ra.
Rồi một chuyện kỳ dị xảy ra, Rellin lần lượt nhìn chăm chăm từng người thợ mỏ và bật cười ha hả. Tất cả ngẩn người không biết ông ta cười cái gì. Có lẽ kết quả thoát chết trong đường tơ kẽ tóc đã làm ông bật lên tiếng cười căng thẳng đó. Hay ông ta đã hóa điên? Thật tình mình không hiểu nổi. Nhìn ánh mắt bối rối của những người thợ mỏ, mình tin họ cũng chẳng hiểu gì. Thú thật mình thấy rờn rợn. Mình cảm thấy bà Osa cũng vậy, vì bà đặt tay lên vai mình bảo:
-Chúng ta trở lại mặt đất thôi. Không cần bà nói tới lần thứ hai. Mình xuống đường hầm và leo lên thang ngay lập tức. Vừa leo, mình vừa ngước nhìn. Mình càng lên cao, vòng tròn của bầu trời xanh càng lớn dần lớn dần. Đó là nguồn sáng của đầu con đường hầm tăm tối, dài thăm thẳm mà có cố, mình cũng không thể lên tới đó nhanh hơn. Vừa ló được đầu ra vùng không khí trong lành, mình hít một hơi đầy buồng phổi và tự hứa sẽ không bao giờ xuống lại cái địa ngục đó nữa. Một trong những người thợ mỏ làm công việc kéo giỏ minh thạch lên đang đứng dựa vào khung gỗ cần quay, chăm chăm nhìn mình. Những thợ mỏ khác không còn đó nữa. Thế rồi mình cảm thấy một điều là lạ. Khi mắt mình bắt gặp cái nhìn của anh ta, không hiểu sao người thợ mỏ đó không quay đi, mà vẫn trừng trừng nhìn mình.
Bà Osa ló đầu ra khỏi miệng hầm,nhảy lên mặt đất và nói ngay:
-Hãy cho ta biết thêm về cái mà cháu gọi là…chất nổ.
Mình chưa kịp trả lời, bà Osa chợt chú ý đến một điều gì đó sau lưng mình. Quay vội lại, mình thấy người thợ mỏ vẫn trừng trừng nhìn. Bà Osa bước vụt qua mình, mắt dán vào anh ta. Anh ta đứng im lìm, nhìn mình với vẻ mặt dại khờ. Bà Osa lại bên anh ta, nhìn chăm chú thêm một lát, rồi quay phắt lại, la lên:
-Pendragon, chạy đi.
-Hả?
Trước khi bà Osa kịp trả lời, người thợ mỏ đã đổ ập xuống dưới chân bà. Mắt mình trợn tròn nhìn mũi tên bằng gỗ xuyên qua lưng anh ta. Phải, người thợ mỏ đã chết. Đó không phải là cái nhìn dại khờ, mà là cái nhìn của sự chết chóc. Chưa bao giờ mình nhìn thấy người chết. Mình không nhúc nhích nổi. Bà Osa chạy lại, nắm tay mình, kéo mình chạy về phía rừng. Nhưng mới chạy được mấy bước, bốn gã hiệp sĩ của Kagan nhảy ra chặn ngang đường. Bây giờ mình đã hiểu chuyện gì xảy ra cho người thợ mỏ. Chúng dõng dạc tuyên bố:
-Chúng ta tới bắt thằng nhỏ.
Lần này thì không lầm được nữa. Không như hiệp sĩ Alder, người mình đã lầm là kẻ thù lúc còn ở bờ sông, mấy gã này không cùng phe với mình. Chúng cầm thứ vũ khí trông giống như những cây dùi cui, và cứ suy từ cái chết của người thợ mỏ đáng thương với mũi tên xuyên lưng, thì chúng sẽ không ngần ngại sử dụng vũ khí này để tiêu diệt những gì chúng muốn.
Bà Osa đứng im, nhưng mình cảm thấy bà đang căng thẳng tính toán. Rồi buông tay mình ra, bà từ từ xoay người. Mình biết như vậy có nghĩa là gì. Điều đó đúng hệt như mình đã được dạy trong lớp karate. Đứng xoay ngang làm bạn trở thành mục tiêu nhỏ hơn. Vậy là sắp xảy ra cuộc chiến, mà mình là kẻ bị kẹt ở giữa. Bà Osa rất khôn ngoan, không động thủ trước.
Một gã hiệp sĩ vung cây dùi cui, tiến một bước về phía bọn mình. Mình chết sững. Bà Osa hạ gối, sẵn sàng tự vệ. Tay hiệp sĩ rống lên một tiếng, bắt đầu tấn công và…uỵch! Hắn bỗng lăn đùng xuống một đống như bị tên bắn. Mấy gã còn lại cũng kinh ngạc như mình, nhưng mình hiểu ra nguyên nhân trước chúng.
Đứng sau mấy gã hiệp sĩ là Loor với thanh gỗ trong tay. Một chiêu tuyệt đẹp. Cô ta vẫn còn một
|
thanh nữa và cấp tốc ném cho mẹ. Bà Osa đón bắt, rồi khom mình dọn thế tấn công. Bây giờ cả hai bên đều có vũ khí và tính thế khả quan hơn một chút. Nhưng dù sao mấy gã hiệp sĩ kia vẫn là những tay tác chiến chuyên nghiệp. Mình không biết hai nữ chiến binh này sẽ chống cự lại bằng cách nào.
Mọi việc xảy ra rất nhanh. Trước khi ba gã hiệp sĩ kịp hoàn hồn trước cái xác đồng đội nằm úp mặt trên đất, Loor chộp cây dùi cui của tên mới bị hạ gục, nhanh nhẹn quẳng cho mình. Mình đón lấy ngay khi cô ta nhảy tới bên bà mẹ. Bây giờ là ba chọi ba. Không, hai rưỡi chọi ba mới đúng, vì chắc lúc đến lượt mình cầm dùi cui tấn công mấy gã hiệp sĩ lông lá kia cũng là lúc mình mọc cánh bay ngay khỏi nơi này. Loor ra lệnh:
-Đánh đi, Pendragon.
Ngay khi đó ba gã hiệp sĩ đồng loạt tấn công. Bà Osa và Loor xông lên nghinh địch. Mình đứng như hóa đá. Điều tiên đoán của mình về việc mẹ con họ là những chiến binh hóa ra một trăm phần trăm chính xác. Hai mẹ con dễ sợ thật. Họ vung hai cây vũ khí dài bằng gỗ dũng mãnh như hai đấng trượng phu. Nếu không quá khiếp đảm, chắc mình đã rất khoái được thưởng thức màn trình diễn này. Hai thanh gỗ dài xoay vù vù nhoang nhoáng trong không khí. Trái lại, mấy gã hiệp sĩ tỏ ra rất vụng về. Hai mẹ con đỡ, gạt những đường tấn công của ba tay hiệp sĩ với những chiêu thức tinh diệu và đáp trả bằng những cú đập mạnh mẽ lên thân hình chúng. Nếu đây là một cuộc đấu phải đứng im tại chỗ, mình sẽ đặt cược bên tụi hiệp sĩ. Nhưng mẹ con bà Osa luôn khéo léo, lẹ làng di động, không để đối phương có cơ hội chạm vũ khí tới thân hình họ. Chẳng khác nào những con gấu nặng nề đang bị bầy ong hung dữ tấn công. Và bầy ong đang thắng thế.
Chỉ gay go một điều là đám hiệp sĩ có áo giáo. Hạ chúng chớp nhoáng chẳng dễ dàng gì. Nhưng mình tin chắc bà Osa và Loor sẽ hạ được chúng. Vì vậy mình thoải mái đứng xem. Khổ nỗi, một gã hiệp sĩ nhào sang tấn công mình. Đưa cao vũ khí, hắn gầm lên như lấy hết sức bình sinh để…chặt đầu mình. Mình quính quáo, không biết phải làm gì. Đưa cây dùi cui lên để tự vệ hay né đòn rồi tấn công,hay ném dùi cui vào hắn để làm hắn chùn bước? Nhưng mình đã chẳng làm gì, chỉ hốt hoảng lùi mấy bước và rồi…ngã ngồi trên đất. Cứ như cục thịt thối vậy. Gã hiệp sĩ gần sát mình rồi, mình nhìn rõ cả đôi mắt đỏ lửa của hắn mà. Sẽ đau đớn lắm đây. Chỉ thêm vài bước nữa là mình ở trong tầm vụt của hắn rồi…
Ngay lúc đó, bà Osa ném thanh gỗ vào gã ta như phóng lao, trúng ngay đầu gối gã. Chân oằn xuống, hắn đổ nhào lên mặt đất. Lập tức, Loor tiến lên đập tới tấp bằng thanh gỗ. Gã hiệp sĩ co quắp, ngất đi.
Mình có thể thấy lửa chiến đấu rực sáng trong đôi mắt Loor khi cô ta nhìn mình ra lệnh:
-Chiến đấu đi, đồ hèn.
Bà Osa chạy lại, kêu lên:
-Không! Đưa nó đi trốn ngay!
Loor muốn ở lại chiến đấu bên mẹ, nhưng bà cương quyết ra lệnh:
Đừng để nó bị bắt, chạy ngay đi!
Không còn thời gian bàn cãi, vì hai gã hiệp sĩ còn lại tiến tới tấn công. Miễn cưỡng, Loor nắm tay, kéo mình đứng dậy.
Mark, thú thật, chưa bao giờ mình cảm thấy quá vô dụng và lúng túng đến thế trong đời. Mình đúng là thằng chết nhát. Người ta thường nhủ sẽ phản ứng sao trong tình thế hiểm nghèo. Người ta luôn có ảo tưởng là sẽ đứng phắt dậy, nắm lấy cơ hội để thành một người hùng và chiến thắng. Mình cho bạn biết, ảo tưởng đó không vượt qua được sự thật đang xảy ra cho mình đâu. Dù rất ngượng, mình vẫn phải thú thật, mình run sợ như một em bé đang hoảng sợ.
Khi Loor kéo mình về phía rừng, mình ngoái lại xem chuyện gì đang xảy ra với bà Osa. Thật không thể tin nổi. Người nữ chiến binh đáng nể này đang chiến đấu với cả hai gã hiệp sĩ. Vũ khí trong tay bà luôn chuyển động: xoay tròn, đâm tới, chặt ngang, và hiếm khi lệch mục tiêu. Dường như đó là một công việc quá dễ dàng.
Chạy qua trảng trống vào trong rừng, mình và Loor tìm chỗ núp để nhìn phần kết của trận đấu. Mình biết, Loor chỉ muốn ở lại để chiến đấu bên mẹ, bắt cô ta phải làm vú em cho mình như thế này chẳng khác nào giết cô ta. Mình thì thầm:
-Mẹ cô…dễ nể thật.
Loor không bình luận, nhưng mình biết cô ta cũng cảm thấy như mình. Một lát sau, trận chiến chấm dứt. Hai gã hiệp sĩ loạng choạng và chỉ sau vài chiêu tới tấp của bà Osa, chúng lăn đùng xuống đất nằm im re, không biết vì ngất hay vì kiệt sức. Bà Osa thu mình, quét một vòng để biết chắc mọi chuyện đã chấm dứt. Rồi bà đứng thẳng người, xoay thanh gỗ gọn lẹ như một bậc thầy ninja, tra vào đai da cột sau lưng. Loor nói như quát vào mặt mình:
-Mi không xứng đáng để được bảo vệ như thế này, Pendragon.
Cô ta nói đúng. Mình không xứng đáng. Hai nữ chiến binh này đã liều mạng vì mình, và mình chẳng thể nào sống theo cách như họ mong muốn, để đền đáp lại. Nhưng đúng như mình linh cảm: tình trạng khủng khiếp thực sự chưa xảy ra. Mình và Loor đứng dậy, quay lại khoảng trống. Bà Osa thấy tụi mình và tiến tới. Nhưng được mấy bước, bà bỗng ngừng phắt lại. Thấy vậy, Loor vội đưa tay ngăn mình. Chuyện gì nữa đây? Mấy tay hiệp sĩ tỉnh lại rồi sao? Mình nhìn bà Osa đang thận trọng, cảnh giác từ từ trở lại nơi vừa xảy ra cuộc chiến, tay với ra sau, rút thanh vũ khí bằng gõ. Mình nhìn quanh trảng trống. Không thấy gì. Mấy gã hiệp sĩ vẫn nằm bất động tại chỗ. Sao mẹ con bà có vẻ căng thẳng quá vậy?
Chỉ một giây sau mình đã có lời giải đáp - một khoảnh khắc sẽ mãi ám ảnh mình. Thoạt đầu, nghe tiếng sột soạt, mình tưởng có người tiến ra từ trong bụi rậm. Nhưng ngay sau đó mình biết đã lầm. Tiếng động đó phát ra từ trên cao. Trên cành cây. Mình ngước lên và thất thần khi nhìn thấy vắt vẻo trên cây còn có bốn tay hiệp sĩ nữa. Chúng không cầm dùi cui mà trang bị cung tên. Mình đã quên bẵng là người thợ mỏ bị giết bởi một mũi tên. Chúng đã ở trên đó từ lâu và chứng kiến tất cả. Giờ là lúc chúng ra tay hành động. Bà Osa đứng giữa trảng trống. Bốn bề trống trải. Thấy Loor định chạy lại, bà vội la lên:
-Đưa nó trốn đi.
Loor khựng lại. Chắc cô ta phải vận dụng toàn bộ sức mạnh ý chí mới chống lại nổi bản năng, để có thể làm theo lời mẹ. Ngay khi cô lùi lại, nắm tay mình thì… chuyện đó xảy ra. Bốn tên hiệp sĩ buông dây cung, tất cả đều nhắm vào bà Osa. Người nữ chiến binh dũng cảm không có một mảnh giáp che thân. Không chút gì bảo vệ bà trước những mũi tên bắn tới như mưa. Cả bốn mũi tên đều trúng đích. Bà Osa quỵ xuống. Loor bật lên tiếng kêu nho nhỏ đầy đau đớn, vùng chạy về phía mẹ, nhưng mình vội níu cô ta lại. Lúc đó mấy gã hiệp sĩ đã lắp xong loạt tên mới, nếu chạy ra, cô sẽ chịu cùng số phận thảm thương như người mẹ. Hai đứa đứng đó mà nhìn vào đôi mắt dịu hiền của người đàn bà chịu số phận bi đát. Có thể mình đã tưởng tượng, nhưng khi viết những dòng này, mình thề là bà đã thoáng mỉm cười với hai đứa mình.
Bốn mũi tên nữa vút đi, nhưng lần này không nhắm vào bà Osa. Mục tiêu mới là mình và Loor. Rất may, tụi mình được cây cối bảo vệ. Bốn mũi tên rào rào xuyên qua cành lá. Loor nắm tay mình, hai đứa phóng vào rừng, để lại phía sau người mẹ của cô với những vết thương chí tử.
Loor rất rành khu rừng này. Theo kịp cô ta như đuổi theo một con nai. Cô tay nhảy qua cây đổ, né tránh những tảng đá, chui qua những bụi rậm. Chúng mình không chạy theo đường thẳng, và mình nhận ra lối đi ngoắt ngoéo này là để cắt đuôi những tên hiệp sĩ, nếu bị chúng đuổi theo. Mình mệt đứt hơi và đau xóc hông, nhưng không dám mở miệng ca cẩm gì, sau những gì hai phụ nữ này đã làm cho mình. Sau cùng mình và Loor cũng tới được cuối làng. Loor đưa mình vào một lều đá. Mình không hoàn toàn vui mừng với chọn lựa nơi ẩn núp này của cô ta. Chỉ cần một gã hiệp sĩ lục soát làng là phát hiện ra hai đứa ngay. Nhưng mình nhanh chóng nhận ra Loor có một suy tính khác. Cô ta nhanh nhẹn kéo đống da thú chất sát tường sang một bên. Bên dưới là mặt đất được nện cứng giống như nền của những căn lều khác. Dùng vũ khí bằng gỗ, Loor bắt đầu cào lên mặt đất. Thêm vài nhát đào, một khoen gỗ hiện ra. Ném gậy xuống, Loor nắm khoen gỗ, kéo mạnh. Thì ra đó là một cửa hầm. Cô ta cắt nghĩa:
-Lối này dẫn tới hầm mỏ.
Ôi! Hay thật! Mình đã tự hứa sẽ không bao giờ trở lại mấy cái hầm mỏ đó nữa. Lời hứa được giữ đúng… hai mươi phút. Loor nói:
-Tụi Bedoowan rất sợ khí độc. Chúng không bao giờ dám vào hầm mỏ.
Cô ta mở bung cửa hầm, để lộ ra một cái hang thô sơ buông thỏng xuống dưới. Loor ra hiệu cho mình xuống trước rồi lanh lẹ xuống theo và đóng cửa hầm lại. Tụi mình chỉ phải trèo xuống một lần thang, nhưng phải khom người khi tiến vào một đường hầm nhỏ, xiên xiên dần xuống. Vừa đi Loor vừa nói: -Có rất nhiều đường hầm nhỏ như thế này, để đưa không khí xuống cho thợ mỏ.
Vậy là hai đứa đang đi trong lòng một hầm thông gió. Hay thật. Nhưng đây chỉ là một hầm thông gió, nên chẳng có ngọn nến nào để *** đường. Cứ như đi trong bình mực đen ngòm vậy. Mình sờ soạng lần từng bước, phòng khi đụng phải tường. Nhưng mình đi rề rà như vậy làm cản đường Loor. Loor vượt lên dẫn đường. Cô ta đi nhanh hơn mình nhiều và theo cô cũng dễ hơn là mò mẫm trong bóng tối. Chỉ hy vọng cô ta biết phải đi tới đâu.
Hầm thông gió này dẫn tới một đường hầm rộng hơn, với mấy đường ray của xe đẩy. Mình đoán đây chắc hẳn là một trong những đường hầm đã được đào trước khi người Milago xây dựng hang động lớn. Hai đứa đi theo đường hầm này vài phút cho tới khi nó mở ra một không gian quen thuộc. Đây là hầm mỏ nơi lần đầu mình và bà Osa leo xuống. Lúc đó là khi nào nhỉ? Mình cảm thấy như cả thế kỷ rồi. Nhưng thật ra mới hơn một tiếng đồng hồ. Tiến ra một gờ đá, mình thấy mới xuống cách mặt đất ba lớp thang. Vòng ánh sáng xanh da trời quen thuộc vẫy gọi từ trên cao.
Loor cũng đã bước ra gờ đá, ngước nhìn lên. Rõ ràng cô ta đang đắn đo về chuyện gì đó, và mình cũng biết ngay đó là gì. Cô ta ra lệnh:
-Xuống đáy. Tôi sẽ gặp cậu ở dưới đó sau. Đi đi!
Cô ta trừng mắt nhìn mình cho tới khi mình bắt đầu leo xuống thang. Ngay khi mình leo xuống, cô ta liền leo ngược lên, đúng như mình đoán. Loor muốn lên với mẹ. Mình dừng lại, nắm chặt thang nhìn theo cô ta. Biết là nên nghe theo lời cô ấy, nhưng mình không thể. Vì mình, bà Osa đã đặt mạng sống vào thế hiểm nghèo, mình phải biết tình trạng bà ra sao. Sau vài giây đấu tranh tư tưởng, mình quyết định leo lên.
Trước khi lên tới mặt đất, mình nghe một âm thanh từ bên ngoài vọng lại. Thoạt tiên, mình không biết là gì, rồi khi nhận ra, tim mình thót lại. Chính là Loor. Cô đang hát khe khẽ bài ca dịu dàng mình đã nghe bên bờ sông. Nhoi lên khỏi cửa hầm, những gì nhìn thấy làm lòng mình tan nát.
Loor đang ngồi trên đất, kế bên bệ đá. Cô đặt đầu bà Osa trên lòng, tay vuốt tóc mẹ, trong khi nhè nhẹ đong đưa như thể ru em bé ngủ. Mình không biết bà Osa còn sống hay đã chết. Kế bên bà là bốn mũi tên đã bắn vào bà. Loor đã rút chúng ra. Mình ở yên đó, không muốn xâm phạm. Một cô gái kiêu hãnh như Loor chắc chắn không muốn mình thấy cô đang khóc.
Nhìn quanh, mình thấy mấy gã hiệp sĩ không còn đó nữa. Chắc bốn tên xạ thủ trên cây đã kéo mấy đồng bọn bị ngất đi rồi. Nhưng xác người thợ mỏ Milago vẫn còn đó. Anh ta nằm ngửa, đôi mắt vô hồn nhìn trừng trừng lên bầu trời xanh.
Đúng lúc đó mình thấy bàn tay bà Osa động đậy, rồi yếu ớt vươn ra nắm lấy tay con gái. Bà còn sống! Mình chạy vội lại xem có giúp gì được không. Loor không nhận biết có mình tại đó. Nhưng bà Osa biết. Bà ngước đôi mắt mệt mỏi lên nhìn mình, thều thào nói:
-Đừng buồn. Cả hai con đừng buồn. Chuyện phải thế thôi.
Mình cố cầm nước mắt và chỉ thốt lên được mấy câu:
-Bà Osa… cháu… cháu rất tiếc.
Buông tay Loor, bà lấy túi da đeo trên cổ. Đó là cái túi nhỏ đựng cái nhẫn bạc:
-Cầm lấy, Pendragon. Hãy sử dụng khi cháu cảm thấy thích hợp.
Mình đỡ lấy cái túi và lấy nhẫn ra. Bà nhẹ gật đầu khuyến khích. Mình đeo nhẫn vào ngón tay phải. Thật kỳ lạ, cái nhẫn vừa in ngón tay mình.
Giọng bà yếu dần:
-Đây mới chỉ là bắt đầu cuộc hành trình dài của hai con thôi. Pendargon, ta biết con cảm thấy không đủ sức với thử thách này. Con lầm rồi.
Mình gật, nhưng không tin những điều bà nói. Osa tiếp tục:
-Halla đang ở trong tay các con. Hãy nhớ lấy điều đó. Hãy để nó hướng dẫn. Cùng nhau hai con sẽ… Nghẹn thở, bà nhẹ rùng mình, mắt khép lại. Đôi mắt đó vĩnh viễn không bao giờ mở ra lại nữa.
Giây phút đó đau đớn vô cùng. Tất nhiên mình cảm thấy thương Loor, cô gái vừa mất mẹ. Nhưng mình cũng cảm thấy mất mát như cô. Trong thời gian ngắn được biết bà Osa, mình đã rất quý mến bà. Bà là tiếng nói của lương tri trong cơn bão hỗn loạn mình bị kéo vào. Mình tin tưởng bà. Cảm thấy được an toàn khi ở bên bà. Và niềm tin của mình đã đặt đúng người. Bằng cớ là bà đã hy sinh mạng sống để cứu mình. Đó là một món nợ không bao giờ trả nổi.
Mình muốn an ủi Loor nhưng vẫn không biết phải làm gì. Mình cố tìm ra những lời lẽ thích hợp, nhưng Loor lại là người lên tiếng trước:
-Pendragon, xuống mỏ đi. Tôi sẽ gặp anh dưới đó.
Mình đành gật đầu bước đi, không tranh cãi. Trước khi xuống thang mình chỉ biết nói:
-Loor, mình rất tiếc.
Loor không còn nhận biết sự hiện diện của mình nữa. Cô ta ngồi đó, vẫn nhẹ đong đưa người mẹ. Khi leo xuống thang, mình lại nghe cô ta khe khẽ hát bài ca đã hát bên sông. Mình không cầm nổi nước mắt nữa.
Mình trèo xuống thẳng đáy hầm mỏ, và tìm thấy đường vào hang động khổng lồ. Đến nơi, mình thấy công việc vẫn hoạt động bình thường. Nơi đây không có ngày, chẳng có đêm. Tất cả dấu hiệu sôi động từ vụ nổ đều không còn gì nữa. Mình không biết phải làm gì, nên tìm một góc yên tĩnh, ngồi xuống, cố suy nghĩ. Bảo rằng đầu óc mình đang rối bời chỉ là cách nói nhẹ bớt đi. Mình xoay xoay cái nhẫn bạc trên ngón tay. Món trang sức lạ lụng này chính là cái vé về nhà của mình. Nhưng càng muốn sử dụng nó bao nhiêu, ý nghĩ chuồn khỏi nơi này càng làm mình cảm thấy tội lỗi bấy nhiêu. Mình vẫn không thể hiểu, lý do gì khiến moi người chờ mong mình giúp đỡ những con người khốn khổ này chiến đấu tìm tự do. Kỳ lạ hơn, một con người dũng cảm đã vừa hy sinh mạng sống, để mình được sống mà gánh vác nhiệm vụ đó.
Ước sao mình biết phải làm gì. Nếu những người này cần mình đi giao một vật gì đó, mình sẵn lòng làm ngay. Nhưng cầm đầu một cuộc cách mạng ư? Đúng là chuyện điên rồ. Mình ngồi đó một lúc cho đến khi thiu thiu ngủ. Sau cùng Loor xuất hiện với một cái giỏ. Cô ta ra lệnh ngay:
-Theo tôi.
Mình ngồi dậy, đi theo. Cô ta đưa mình vào một đường hầm hình như đã bỏ phế. Đi một đoạn ngắn, đường hầm mở vào một phòng nhỏ đục sâu vào đá. Phòng được xếp đặt như một căn lều, với da thú làm giường, một cái bàn, mấy cây nến. Loor nói:
-Đây là nơi chúng tôi đến khi Kagan truy lùng. Ở đây anh sẽ được an toàn.
Cô ta đưa mình cái giỏ đầy bánh mì và trái cây. Mình đói, nhưng mồm miệng nhạt thếch. Nhân đó, mình hỏi:
-Bà Osa đâu?
Loor đáp mà không biểu lộ cảm xúc nào:
-Đã được chuyển vào làng. Ngày mai tôi sẽ đưa bà về Zadaa.
Zadaa. Đó là quê hương của Loor và bà Osa. Như vậy có nghĩa Loor biết cách sử dụng ống dẫn để đi lại. Nếu cô ta định đưa thi hài mẹ về nhà, mình không nghĩ cô ta sẽ leo qua đỉnh núi đó. Chắc chắn phải có cách khác để sử dụng ống dẫn.
Khi ấy trong căn phòng đá nhỏ xíu không khí thật ngột ngạt, căng thẳng. Loor hầm hầm tức giận, nhưng không biết có bao nhiêu phần giận dữ là nhắm vào mình, mình vừa bực, vừa buồn, nhưng thú thật cũng hơi sờ sợ cô ta nữa. Cô ta nóng như lửa, nếu cô ta quyết định trút cơn giận lên mình, thì Bobby Pendragon khốn khổ này sẽ chẳng còn lại gì, ngoài mấy vệt máu trên tường. Không dại gì mà gợi chuyện với Loor lúc này. Vậy nên mình ngồi xuống đống da thú, cố làm như một kẻ vô hình.
Như một con mèo bị nhốt, Loor nện gót tới lui. Mình chỉ sợ sự tức giận của cô ta lên tới tột đỉnh, bùng nổ và cô ta sẽ xé mình ra từng mảnh. Nhưng trái lại, chuyện xảy ra lại hoàn toàn không giống như mình tưởng. Loor không đánh, không nguyền rủa, không trách móc. Thậm chí không la hét vào mặt mình. Thật không thể nào hiểu nổi. Nhưng điều cô ta làm còn khiến mình đau hơn. Cô ta nói, giọng nhạt nhẽo: -Ngày mai tôi sẽ đưa anh về nhà. Anh không thuộc về nơi này.
Oa! Đó là điều mình mong muốn được nghe nhất. Mình ngớ ngẩn hỏi:
-Nhưng…còn…còn cuộc cách mạng?
-Anh nghĩ anh không giúp gì được cho những người này vì anh không phải là một chiến binh. Nhưng người Milago không cần chiến binh. Họ cần một người có thể tin cậy được. Anh không phải là người đó. Mình thật sự ngạc nhiên. Chắc chắn mình không phải là một chiến binh như Loor. Mình cũng không phải là một người hùng dũng cảm. Nhưng không đáng tin cậy ư? Vừa thôi chứ. Mình là một người đáng tin. Mình là một người đàng hoàng. Lý do gì cô ta bảo mình là kẻ không tin được? Mình hỏi:
-Vì sao cô nói vậy?
Cô ta nhìn thẳng mắt mình mà nói:
-Làm sao có thể đặt niềm tin vào một kẻ chỉ nghĩ đến bản thân? Từ giây phút đặt chân đến đây, ý đồ của anh chỉ là bỏ trốn, không hề quan tâm tới người Milago cần giúp đỡ đến thế nào. Ý đồ của anh chỉ là tìm mọi cách để … về nhà.
Về điểm này, mình thấy cần phải bào chữa. Cô ta thật không công bằng khi nói vậy. Mình cãi lại:
-Được. Cứ cho la cô nói đúng. Nhưng tôi đã bị ném vào một đống sự việc mà không một lời báo trước. Đòi hỏi một người phải đảo lộn cuộc sống của họ trong vòng một ngày là quá đáng. -Tôi biết, Pendragon. Chuyện như vậy đã từng xảy ra với tôi. Nhưng có một sự khác biệt giữa tôi và anh. Sự khác biệt đó không liên quan gì tới chuyện chiến đấu.
-Vậy là chuyện gì?
Cô cố nén cảm xúc, nói:
-Anh đã thấy mẹ tôi chết thế nào rồi chứ. Tôi đã tìm mọi cách để cứu bà. Còn anh… Tôi không hiểu tại sao anh chỉ nghĩ đến bản thân, trong khi người cậu của anh sắp phải chết.
Những lời nói đó quất vào mình đau điếng. Cô ta nói đúng. Cậu Press đang lâm nguy. Mình biết điều đó từ khi chiếc xe trượt thả cậu cháu mình lên bờ tuyết. Vậy mà mình chỉ tìm cách đi khỏi đây, không hề tìm cách cứu ông. Mình quá lo cho bản thân, không một giây nghĩ rằng ông đang cần mình giúp đỡ. Loor nói đúng. Mình thật đáng xấu hổ. Cô ta nói lời dứt điểm:
-Đó là lý do anh chẳng có ích gì cho nơi này, Pendragon. Người Milago cần một người để họ có thể đặt hết niềm tin. Anh không phải người đó.
Loor quay mình tiến ra cửa, nhưng trước khi đi hẳn, cô ta bảo:
-Ngủ một chút đi, sau đó tôi sẽ đưa anh về nhà. Anh có thể trở lại với cuộc đời mà anh đang quá luyến tiếc và quên đi những gì đã từng xảy ra tại nơi này. Tôi đoán rồi anh cũng sẽ quên luôn ông Press. Mình vừa biết được vài điều về chính mình và không thấy thích thú chút nào. Thật sự mình ích kỷ đến thế sao? Tất cả những gì Loor nói đều chính xác. Có chứ, mình có lo cho cậu Press, nhưng mình đã tự thuyết phục là mình chẳng thể làm gì để giúp được cậu.Nhưng có đúng vậy không? Hay đó chỉ là một cái cớ để dễ dàng thoái thác? Đã có khi nào trong thâm tâm mình cảm thấy có trách nhiệm cố tìm cách giải cứu cậu chưa? Suốt mấy tiếng đồng hồ sau đó mình tự vấn lương tâm. Những kỉ niệm của mấy ngày vừa qua trở đi trở lại trong đầu. Mình bị ám ảnh vì hình ảnh người đàn ông bị lạnh lùng quăng vào cõi chết chỉ vì người Milago không khai thác đủ minh thạch. Mình lại thấy cảnh tượng khủng khiếp khi bà Osa quyết chiến và sau cùng gục chết dưới trận mưa tên. Mình nhớ lại nét mặt Loor khi cô muốn xông ra cứu mẹ, nhưng rồi đành chọn việc ở lại bảo vệ cho mình.
Nhưng trên hết, mình nhớ cậu Press. Nhớ lại những kỉ niệm đầu tiên về ông. Khi nào mình cần, ông luôn có mặt. Kỉ niệm cuối cùng về ông là hình ảnh ông bị đám hiệp sĩ của Kagan xềnh xệch kéo đi. Vô lý. Không thể kết thúc như thế được. Và đó là lý do mình cần bạn giúp, Mark ạ.
Sau khi viết xong mấy trang nhật ký này, mình sẽ viết những chỉ dẫn của mình vào một trang riêng biệt. Như vậy bạn có thể luôn giữ nó bên mình. Còn những trang nhật ký, bạn nên cất riêng vào một nơi an toàn. Bà Osa có lý. Viết lại những gì đã xảy ra cho mình là một điều quan trọng. Vì nếu mình không trở về, những dòng chữ này sẽ là hồ sơ duy nhất ghi lại những chuyện đã xảy ra. Hãy gìn giữ những trang viết của mình như vàng nhé, bạn thân.
Không biết đòi hỏi bạn làm chuyện này mình có công bằng không?Mình vừa chợt nghĩ, mình không xứng đáng đòi hỏi bạn quá nhiều như vậy. Vì vậy, mình rất thông cảm nếu bạn không thể giúp mình. Không sao đâu. Đừng lăn tăn nghĩ ngợi gì. Dù sao mình vẫn sẽ làm những gì phải làm. Thậm chí mình chưa biết chắc những điều mình nhờ bạn giúp có đem lại hiệu quả gì không. Mình đang rất hoang mang. Khó khăn thật sự với mình lúc này chính là Loor. Rất có thể cô ta sẽ không cho mình cơ hội, mà không có sự giúp sức của Loor,mình thật sự rất bất lợi. Nhưng không sao, bằng cách này hay cách khác, có cô ta hay không, mình cũng đã quyết định rồi.
Ngày mai mình sẽ đi tìm cậu Press.
CHẤM DỨT NHẬT KÍ # 2
|
TRÁI ĐẤT THỨ HAI (@conan1306 type)
Courtney đã đọc xong tập nhật ký thứ hai của Bobby và đặt nó lên bàn. Mark đã đọc xong mấy phút trước đó và cũng đã xem qua mấy mảnh giấy da Bobby gửi kèm theo. Courtney lặng thinh một lúc, cô không biết phải nói gì. Câu chuyện chứa đựng trong những trang giấy của Bobby mỗi đoạn lại càng thêm kỳ lạ, cô phải để nó lặng xuống. Sau cùng cô ngước nhìn Mark, hỏi:
-Bobby muốn cậu làm gì?
Mark đứng dậy, đi tới đi lui, suy nghĩ giải quyết công việc trước mắt. Trong tờ giấy gửi kèm với nhật ký, Bobby đã phác thảo việc nhờ Mark làm. Một việc đơn giản thôi, nhưng vẫn có phần nguy hiểm. Nó trả lời Courtney:
-Đây là một danh sách. Bobby muốn mình gửi cho bạn ấy 1 gói đồ.
Courtney giật tờ giấy, vừa liếc qua vừa kêu lên:
-Gửi cho bạn ấy? Bằng cách nào?
Mark giật lại bản danh sách, lắc lắc ngay trước mặt Courtney, lo lắng tuyên bố:
-V…v…vậy mới căng. Cậu ấy có hướng dẫn đây. Trước hết mình phải thử sử dụng cái nhẫn như bà Osa đã làm. Nhưng nếu không thành công, có nghĩa là vì mình không phải là một Lữ khách, thì Bobby muốn mình đi tìm cổng vào ống dẫn trong hầm tàu điện ngầm.
Courtney thảng thốt kêu lên:
-Sao? Bạn định nói là cái nhà ga bỏ hoang ở Bronx với những con chó giết người đó hả? Muốn tự tử à?
-Đó, vậy mới căng.
Cả hai đứa đều im lặng. Bobby đã yêu cầu một việc làm quá nguy hiểm. Sau cùng Courtney hỏi: -Nhưng cậu sẽ làm chứ?
Mark trả lời ngay, như thể bị xúc phạm vì câu hỏi của cô bạn: -Tất nhiên. Tưởng mình sẽ bỏ rơi người bạn thân nhất sao?
Courtney liền nói, không chút nghi ngại:
-Vậy mình sẽ đi với bạn.
Mark nói ngay:
-Không được.
Courtney độp liền:
-Có được. Bạn cần có người bảo vệ.
-Ai bảo vệ bạn?
-Mình tự bảo vệ mình.
Courtney nói với vẻ tự mãn muôn thuở. Khó mà tranh cãi chuyện này. Courtney có thể tự bảo vệ cô ta. Đúng vậy. Nhưng Mark nghi ngờ cô bé chưa từng bao giờ có dịp thử khả năng đó trong khu vực hắc ám như phía nam Bronx, đương đầu với một bầy chó-quig và một con quỷ sát nhân có cái tên Saint Dane. Không, chắc chắn Courtney chưa bao giờ gặp một thử thách đặc biệt như vậy. Nhưng… Mark cũng chẳng muốn tới đó một mình chút nào. Cứ nghĩ đến thôi là đủ phát khiếp rồi. Suy đi tính lại hoàn cảnh tiến thoái lưỡng nan này đúng… năm giây. Mark hỏi:
-Bạn thật sự muốn giúp?
-Chính xác.
Courtney đáp và giằng lại bản danh sách của Bobby. Cô bé nhìn lướt qua rồi thông báo:
-Mình hiểu tại sao bạn ấy muốn mấy thứ như đèn pin, đồng hồ… nhưng bạn ấy cần máy nghe đĩa nhạc để làm gì nhỉ?
Mark châm biếm:
-Bạn hỏi mình cũng như không. Làm sao mình biết được. Mình chẳng hiểu gì về tất cả những chuyện này.
Courtney xem lại bản danh sách lần nữa, rồi bảo:
-À, Bobby muốn lấy mấy thứ từ nhà bạn ấy.
-Ừa, mình biết rồi. Mình có thể kiếm đồ thay thế được.
Câu nói của Mark gợi nhắc một vấn đề gai góc khác. Courtney ném cho Mark một cái nhìn chằm chằm nghiêm nghị, nói:
-Nếu chúng ta có thể chuyển những thứ này cho Bobby, cũng có nghĩa là chúng ta có thể cho bạn ấy biết gia đình bạn ấy đã… biến mất.
Sao Mark lại có thể quên khuấy chuyện này nhỉ. Courtney có lý. Bobby cần được biết chuyện gì đang xảy ra. Nhưng chính hai đứa vẫn còn chưa biết chính xác đó là chuyện gì, chỉ biết chắc là gia đình Pendragon biến mất. Vừa suy nghĩ, Mark vừa thận trọng nói:
-Bobby cần biết, nhưng chưa đến lúc. Ngay lúc này cậu ấy cũng chẳng làm được gì.
Courtney phản đối:
-Nhưng đó là gia đình bạn ấy.
-Mình biết. Nhưng cậu Press cũng là người trong gia đình vậy. Mình không biết Bobby định làm gì, nhưng bạn ấy đã quyết định cứu cậu Press. Chắc Bobby chẳng thể giúp được gì trong việc tìm kiếm gia đình bạn ấy tại đây đâu. Courtney thấy Mark nói đúng. Bobby cần làm những việc phải làm tại Denduron. Sau đó vẫn còn khối thời gian để tìm kiếm gia đình. Với lại, hiện nay cảnh sát đã bắt tay vào việc. Bobby có thể làm gì hơn được nữa?
Mark kết luận:
-Chúng ta sẽ cho Bobby biết sau khi bạn ấy an toàn trở về.
-Nhưng nếu Bobby không an toàn trở về thì sao? Mark,có lẽ nên cho ba má tụi mình biết chuyện này thì tốt hơn.
-Không! Không được!
-Vì sao? Ba má tụi mình có thể giúp được chứ! Sẽ an toàn hơn rất nhiều nếu tất cả cùng tới ga tàu điện ngầm. Đúng không?
Mark rất muốn đồng ý với Courtney. Nó rất muốn quăng hết vụ này cho người lớn, những người có thẩm quyền hơn nó nhiều. Nhưng nó cũng biết chắc, nếu làm thế, chuyện gì sẽ xảy ra. Đắn đo từng lời, Mark nói:
-Courtney, mình rất muốn nói cho ba má biết để giúp, rồi cùng với đại úy Hirsch và các cảnh sát có vũ trang tới ga tàu điện ngầm. Nhưng bạn biết chuyện gì sẽ xảy ra, nếu mình kể lại chuyện này với người lớn không? Họ sẽ ngăn cản chúng mình. Có thể họ sẽ nhốt chúng mình trong nhà. Sau đó họ ngồi lại với nhau, cố lý giải chuyện gì đang xảy ra, và…tới khi họ có kết luận thì đã quá muộn cho Bobby và cậu Press rồi.
Courtney ngồi nghe,thấm thía lời Mark .Thằng bạn này thuộc dạng lù khù, nhưng lù khù… khôn. Nếu nói với ba má, chuyện này coi như chấm dứt. Chúng phải tự làm thôi.
Mark nhanh nhẹn thu xếp lại những trang giấy và cuốn gọn lại, hấp tấp nói:
-Tất cả phải đầy đủ trong vài giờ thôi. Điều quan trọng là chuồn ra khỏi nhà, đừng để cho ông bà già biết.
-Hả? Cái gì? Cậu không định làm việc này ngay đêm nay đấy chứ?
Mark nói tỉnh queo:
-Tại sao không?
Courtney nói chậm rãi, rõ ràng từng tiếng như đang nói với một đứa trẻ con: -Đây là chuyện quan trọng. Nhưng tới khi tụi mình thu gom đủ đồ theo bảng danh sách của Bobby thì trời đã tối rồi. Và theo mình biết, đến cái nơi tụi mình phải đến sau khi trời tối, sẽ…không an toàn lắm đâu.
Mark lại suy nghĩ. Chúng sắp phải đến một khu hắc ám của thành phố, và những khu hắc ám càng hắc ám hơn sau khi trời tối. Điều quan trọng là làm tốt công việc, chứ không phải làm nhanh. Gửi gói đồ này đi vào ban ngày chắc chắn sẽ tốt hơn. Nó bảo: -Bạn có lý. Mình không nghĩ ra.
-Chứ còn gì nữa. Bạn phấn khích quá đấy. Bây giờ chia bảng danh sách ra, mạnh ai nấy lo. Gặp lại nhau tại đây vào sáng mai.
Nghe có lý. Mai sẽ là ngày khởi sự. Courtney kiếm một mảnh giấy và bút, viết cho mỗi đứa một bảng danh sách riêng. Cô bé cầm mảnh giấy da vàng úa lên và nhìn vào những dòng chữ đẫm mực của Bobby một hồi lâu. Mark có thể thấy cô bé đang nghĩ ngợi điều gì đó khác. Sau cùng, cô bé quay sang Mark hỏi:
-Bà ta trông như thế nào?
-Ai trông thế nào?
-Osa, bà ta đưa cái nhẫn cho bạn, phải không? Bà ta trông ra sao?
Đúng rồi! Mark suýt quên là nó đã thật sự gặp một nhân vật trong cuộc phiêu lưu của Bobby. Bà ta đã xuất hiện ngay trong phòng ngủ của Mark. Đặt cuộn giấy da xuống. Mark để cho dòng hồi tưởng của mình trở về cái đêm trước đó, và khẽ nói:
-Bà ấy như là… một giấc mộng. Nhưng điều mình nhớ nhất là khi bà nhìn mình, mình cảm thấy… được an toàn.
Mark nhìn xuống cái nhẫn trên ngón tay, nói tiếp:
-Vậy mà bây giờ bà đã chết rồi. Rốt cuộc mình đoán bà ta không có khả năng làm cho mọi chuyện được an toàn đâu.
Cả hai lặng lẽ tỏ lòng thương tiếc người đàn bà chúng chỉ được biết qua những trang viết của Bobby. Rồi Courtney cầm bút lên bắt đầu viết ra những món đồ dễ tìm nhất trong bản danh sách của Bobby và lập thành hai bản. Hẹn gặp lại nhau tại nhà Courtney vào bảy giờ sáng hôm sau, chúng tách ra hành động.
Mark về nhà cùng những trang nhật ký của Bobby. Bobby đã bảo nó phải giữ gìn cuộn giấy đó như vàng. Mark có một chỗ cất giấu mà không ai trong nhà nó biết. Rầm thượng nhà nó chất đầy đồ đạc cũ. Nằm trong cùng là một cái bàn cổ lỗ sĩ không ai di dời kể từ khi Mark ra đời. Ngăn kéo bàn đã khóa và ba má Mark chưa lần nào mở thử, vì ông bà không có chìa khóa. Nhưng Mark có. Năm tám tuổi nó đã tìm thấy chìa khóa trong một khe bàn. Nó không kể lại với ba má, vì thấy ông bà không quan tâm. Nhưng với Mark, đó là nơi tuyệt vời để cất giấu tài sản riêng tư quý giá nhất của nó: tạp chí Mad (tạp chí Mad là một tạp chí hài hước của Mỹ, được sáng lập vào năm 1952), hình cầu thủ bóng chày, các nhân vật của Chiến Tranh Các Vì Sao; sổ liên lạc năm lớp bảy với hai điểm D…và cả một đống những thứ vặt vãnh chỉ đặc biệt có giá trị riêng với nó.
Thỉnh thoảng Mark lên rầm thượng, ngắm nghía kho tàng của nó và cảm thấy sung sướng như được gặp lại những người bạn cũ. Mark thích nhất những món đồ chơi, dù đã quá lớn để chơi những thứ này, nhưng chúng luôn làm nó nhớ lại một quãng đời đầy vui thích. Đó là một thú vui không ai được biết.
Lần này, khi mở ngăn kéo, Mark không có cái cảm giác luyến tiếc quá khứ quen thuộc. Nhìn đống đồ tạp nhạp, nó có cảm giác kỳ lạ như những thứ này thuộc về một người nào khác. Có lẽ cũng đúng thôi. Những thứ này thuộc về một thằng Mark cũ, thằng Mark ngây thơ của ngày hôm qua, thằng Mark với mối quan tâm lớn nhất là hoàn tất bài tập ở nhà cho đúng giờ và nặn mấy cái mụn trứng cá xù xù trên chóp mũi. Nhưng đó là chuyện của hôm qua. Hôm nay nó phải đương đầu với những vấn đề không chỉ ảnh hưởng đến chuyện sinh tử của một vũ trụ xa xôi, mà còn ảnh hưởng đến thực tại đời sống sát sườn chung quanh. Không phải đến khi mở ngăn kéo, Mark mới nhận ra nó thay đổi đến thế nào từ mấy tiếng trước. Thay vì muốn lật mấy trang tạp chí Mad để lăn bò ra mà cười với “Điệp viên chống điệp viên” hay dắt chó đi dạo với con quay nó giữ từ hôm đi chợ phiên năm lên sáu. Mark lại tìm một hộp carton, mở ngăn kéo, nhồi nhét tất cả những món vớ vẩn đó và hộp, rồi tống xuống gầm bàn cùng những món đồ bám đầy bụi từ lâu không rờ tới. Dường như nó đang dẹp bỏ cuộc đời cũ sang một bên, để lấy chỗ cho cuộc đời mới. Ngăn kéo bàn này vẫn là nơi giấu tài sản quí báu nhất của Mark, nhưng đó không còn là những đồ chơi lẩm cẩm lưu giữ kỷ niệm tuổi thơ ngọt ngào của nó nữa. Giờ đây, ngăn kéo này sẽ cất giữ câu chuyện của Bobby. Mark thận trọng đặt cuộn giấy da vào ngăn kéo gỗ. Vừa khít. Nó biết vẫn còn đủ chỗ chứa nhiều cuộn nữa. Thường thường Mark cất chìa khóa vào bàn học trong phòng ngủ, nhưng bây giờ nó cảm thấy nơi đó không còn đủ an toàn nữa. Mẹ Mark có cho nó một sợi dây chuyền bạc mà bà đã đeo khi ở vào tuổi nó. Sợi dây là biểu tượng của sự an bình và Mark treo nó trước gương. Lấy sợi dây xuống, Mark thay mặt dây bằng cái chìa khóa và đeo sợi dây lên cổ. Như vậy từ nay chìa khóa ngăn kéo sẽ không bao giờ xa rời nó nữa. Những trang nhật ký của Bobby sẽ an toàn tuyệt đối.
Đúng bảy giờ sáng, chuông của nhà Courtney reo vang. Cô bé mở cửa. Mark đang đứng, vai khoác cái ba lô to đùng với mấy chữ L.L Bean. Mark hỏi:
-Bạn ngủ được không?
-Không. Nhận được thêm trang nào nữa không?
-Không. Nhưng bắt đầu vụ này trước đi.
Hai đứa xuống hầm nhà Courtney. Courtney đã bày ra tất cả những thứ trong danh sách của cô bé. Mark hỏi:
-Ba má bạn đâu?
-Đi làm rồi.
-Hôm nay tụi mình phải bỏ học để làm chuyện này.
-Cậu ngại không?
Mark không cần phải trả lời. Hai đứa đứng nhìn những thứ Bobby yêu cầu, không biết phải làm gì kế tiếp. Courtney phá vỡ bầu không khí căng thẳng:
-Thử cái nhẫn đi.
Mark lướt qua các món đồ và nhặt lên chiếc đèn pin có hình dáng cùng cỡ với cuộn giấy và có vẻ là “ứng cử viên” hợp lý. Rồi nó tháo nhẫn ra, đặt lên sàn. Mark quỳ xuống, chạm ngón tay lên mặt đá xám và nhìn Courtney. Cô bé khích lệ:
-Thử coi.
-Denduron!
Mark thì thầm. Chẳng có gì xảy ra.
-Denduron!
Nó lập lại, lần này hô lớn hơn một chút. Vẫn không có phản ứng nào từ chiếc nhẫn.
-Để mình thử.
Courtney nói và quỳ xuống. Cô bé rờ cái nhẫn, la lên:
-DENDURON!
Hai đứa nhìn lom lom, nhưng cái nhẫn vẫn nằm trơ trơ trên sàn. Mark bình tĩnh nói:
-Ch…chắc chúng mình phải tới ga tàu điện ngầm.
Courtney bật dậy, bắt tay thu xếp các thứ vào ba lô của Mark. Cô bé hấp tấp như sợ sẽ nhút nhát mà bỏ cuộc, nếu cứ nghĩ quá nhiều về những gì sắp gặp.
-Mình có bảng lịch giờ tàu chạy. Mình có thể đi tàu hỏa tới đường 125, rồi chuyển qua tàu điện ngầm.
Vừa nói Courtney vừa gài chốt ba lô, rồi ngửng nhìn Mark. Tới giờ đi rồi. Mark bối rối, ngập ngừng nói:
-Courtney, mình sợ.
Cả hai để cho lời thú nhận đó lơ lửng trong không trung một lát, rồi Courtney đứng thẳng người: -Bạn biết sao không? Mình không sợ. Chúng mình phải làm cho xong chuyện này.
Có thể cô bé dối lòng, nhưng nhìn Courtney với vẻ tự tin quen thuộc, Mark cảm thấy có chút hy vọng. Có lẽ hai đứa sẽ làm được. Mark khoác ba lô lên lưng, và hai đứa cùng nhau ra khỏi nhà để tới nhà ga.
Ga tàu hỏa Stony Brook nằm cuối đại lộ. Vì còn sớm, sân ga đầy hành khách ăn mặc chỉnh tề đón tàu đi làm trong thành phố New York. Courtney và Mark luôn cảnh giác, sợ những phụ huynh biết chúng nó bắt gặp và hỏi vì sao hai đứa không đi học. Chúng thấy một thằng bạn trong hội hướng đạo của Mark, nhưng chúng canh chừng thằng nhóc đó để đảm bảo sẽ lên một toa khác với nó khi tàu vào ga. Thật ra, chúng không cần quá thận trọng như vậy, vì hành khách đều chúi mũi vào mấy tờ báo, chẳng ai nhòm ngó tới ai trên sân ga. Chuyến tàu đi New York rất yên tĩnh. Hành khách nào không đọc sách báo thì ngủ. Vì vậy Mark và Courtney khó lòng bàn bạc được nhiệm vụ của chúng vì dứt khoát sẽ bị người khác nghe lỏm. Mark cười thầm nhìn những trang báo hành khách đang đọc. Toàn tin tức thể thao, thị trường chứng khoán, hoặc diễn văn của tổng thống. Chẳng tin nào có thể so sánh được với chuyện rất thật mà nó và Courtney sống sờ sờ trước mũi họ đang trải qua. Mark tưởng tượng hàng chữ chạy trên trang nhất: MỘT THIẾU NIÊN ĐỊA PHƯƠNG XUYÊN QUA VŨ TRỤ ĐỂ LÃNH ĐẠO MỘT CUỘC CÁCH MẠNG. Tin tức thế mới là tin tức chứ.
Courtney thì chỉ muốn tranh thủ mấy phút này để thư giãn. Cô bé biết rằng ngay khi bước xuống con tàu này, chuyến phiêu lưu của hai đứa sẽ bắt đầu, và cô muốn có đủ bình tĩnh để xử lý bất cứ chuyện gì xảy ra. Courtney dựa lưng vào ghế, nhắm mắt, cố giữ cho nhịp tim bớt đập rộn ràng. Chẳng bao lâu tàu đã đến trạm dừng ở đường 125 khu Manhattan. Hầu hết hành khách ngồi lại trên tàu để tiếp tục đi về ga trung tâm. Đường 125 rất gần khu Bronx, và với một cái gật đầu lặng lẽ, Mark và Courtney cùng xuống tàu.
Chúng thường nghe cha mẹ nói đó là khu vực hắc ám của thành phố. Chúng không hoàn toàn hiểu hắc ám nghĩa là sao, nhưng cả hai vẫn cứ lo. Chỉ có một điều chắc chắn: nơi này không phải là ngoại ô Connecticut. Đây là thành phố New York với đầy tiếng ồn, xe cộ và khách bộ hành chen vai thích cánh - tất cả những gì đã tạo thành một New York nổi tiếng. Courtney có một bản đồ tàu điện ngầm New York và đã cẩn thận vạch ra lộ trình đưa tới gần nhà ga bỏ hoang của Bobby. Chỉ phải đi bộ một đoạn ngắn từ ga tàu hỏa trên đường 125 tới trạm ngừng tàu điện ngầm. Hai đứa xuống hầm ga, mua vé rồi lên tàu.
Chuyến đi tới Bronx rất suôn sẻ. Vùng lân cận New York đầy những con người đủ mọi quốc tịch, sắc tộc khác nhau và chẳng ai có vẻ là một… quái vật cả. Tất cả đều chỉ là những con người bình thường đi làm, đi học. Nếu trong một hoàn cảnh khác, Mark và Courtney hẳn đã thích thú được nhìn ngắm cảnh tượng đó. Nhưng lúc này chúng đang trên đường đi làm nhiệm vụ.
Sau khi đổi tàu hai lần, hai đứa tới trạm tàu điện ngầm gần nhà ga bỏ hoang Bobby đã tả. Chúng trở lên mặt đất chan hoàn ánh nắng và lại thấy cảnh náo nhiệt của một khú Bronx giống như cửa đường hầm chúng đã xuống.
Theo bản đồ thì nhà ga hoang phế đó còn cách chừng ba dãy nhà nữa về phía đông. Vừa tiến bước, dù không đứa nào nói ra, nhưng cả hai thầm mong nhà ga mà Bobby và cậu Press đã tới sẽ… không có thật. Hai đứa đều mong manh một hy vọng: tất cả những chuyện này đều không có thật, tất cả đều do Bobby “sáng tác” ra. Nhưng mọi hy vọng đều tiêu tan khi chúng đến một ngã tư đông đúc và nhìn sang bên kia đường.
Mark bối rối hỏi:
-N…nó đó. Phải không?
Courtney không cần trả lời. Nhà ga y hệt những gì Bobby đã tả. Một ki ốt nhỏ long lở sơn xanh. Mark lo ngại nhìn Courtney. Nhưng Courtney chăm chăm nhìn sang nhà ga. Cô bé không muốn Mark biết cô cũng đang bắt đầu lo lắng. Cô bước xuống đường, băng sang nhà ga. Mark đành bước theo. Tới ki ốt, hai đứa nhìn xuống sân ga xi măng tràn ngập rác và gạch vỡ. Chắc chắn đây là một nhà ga bỏ hoang rồi. Nhìn quanh để biết chắc không ai để ý, chúng chạy vội xuống những bậc thềm. Xuống tới chiếu nghỉ, chúng quay nhìn, và đối diện ngay với một lối vào bị ngăn lại bằng gỗ, đúng như Bobby đã tả.
Courtney với tay, nắm một tấm ván kéo sang một bên nhẹ nhàng như cậu Press đã làm. Cô bé vừa mới mở ra cánh cửa tối tăm dẫn vào lòng đất. Chưa kịp có thời gian để thay đổi ý định, Courtney đã tiến vào bóng tối. Mark e dè hít mạnh một hơi rồi theo sát ngay cô bạn. Nó phải lách mình qua cùng cái ba lô, rồi dựng lại tấm ván, đóng kín cửa. Mọi chuyện đều phải làm đúng như Bobby. Nhưng Courtney và Mark đều mong mọi chuyện đúng đến thế này thôi, đừng đúng như những gì Bobby đã gặp: đừng đụng đầu Saint Dane hay mấy con quig.
Xuống hết mấy bậc cuối cùng, hai đứa đứng sát vai nhau trên sân ga hoang phế, hết sức cảnh giác.
-Mình cảm thấy như đã từng tới đây rồi.
Mark sợ sệt nói. Thật sự, tất cả đều quá giống với những gì Bobby đã tả trong nhật ký. Đây là một nhà ga nhiều năm không có hành khách. Rồi chúng nghe tiếng rầm rầm của một đoàn tàu đang tiến tới. Chỉ vài giây sau, đoàn tàu điện ngầm phăng phăng xông vào ga, tốc độ không hề giảm. Dường như đoàn tàu sắp nghiến nát hai đứa đến nơi.
-Lẹ!
Courtney la lên, chạy vội về cuối sân ga.
-Khoan.
Mark kêu lên, cởi phắt ba lô ra. Nó mở ba lô, lục lọi. Courtney hỏi:
-Cậu đang làm gì vậy?
Mark vừa lục ba lô vừa nói:
-Mình có chút hộ thân nho nhỏ rồi đây.
Nó đã tìm thấy thứ nó muốn tìm và lấy ra một gói bọc giấy nâu. Courtney tò mò hỏi:
-Một thứ trong danh sách hả?
-Không. Cái này mình tự nghĩ ra.
Mở gói giấy, Mark giơ cao hai cây xúc xích căng mọng, to đùng, hãnh diện nói :
-Đồ hối lộ. Phòng khi lỡ đụng đầu với lũ quiq đói.
Courtney không nén được nụ cười:
-Cậu hơi bị khôn đấy.
Nói xong, cô bé chộp hai cây xúc xích vượt lên đi trước. Được tiếng khen, Mark khoái chí cười, xốc ba lô chạy theo.
Tới cuối sân ga, hai đứa thấy một cầu thang nhỏ dẫn xuống đường ray tối thui. Mark bật nói ngay:
-Thấy ghê quá! Nếu không có cái cổng ở đó thì sao?
-Cho đến lúc này, tất cả những gì Bobby đã tả đều chính xác. Mình tin là cánh cổng đó cũng có thật.
Ngay lúc đó chúng nghe tiếng một con tàu đang tiến tới. Hai đứa lùi khỏi mép sân ga mấy bước, và chỉ vài giây sau, con tàu băng băng phóng qua. Ý nghĩ lỡ đang ở dưới đường ray khi con tàu lướt qua làm cả hai đứa phát hoảng. Mark xanh mặt:
-Nó nuốt chửng chúng mình mất.
-Đừng nghĩ vớ vẩn nữa. Tiến tới!
Courtney la lên. Cô bé chạy tới mép sân ga, rồi biến xuống đường tàu. Giống như khi phải nhảy xuống nước biển lạnh giá, càng sợ lạnh càng nghĩ ra nhiều lý do để mà chần chừ. Tốt nhất là cứ nhảy phóc xuống. Và Courtney đã làm như vậy đó.
Mark vọt theo. Nó chạy vội qua sân ga, hấp tấp bước xuống mấy bậc thang và thấy Courtney đang đứng dựa lưng sát tường bên dưới. Cô bé hổn hển nói:
-Không thể tin mình đã làm được điều đó.
-Ừa, mình cũng vậy. Nhưng đừng đứng lại đây.
Courtney đi trước. Hai đứa thận trọng đi dọc theo đường hầm tối. Courtney lần tay theo vách hầm nhớp nháp, tránh bị lạc xuống đường tàu. Nó hỏi Mark:
Bobby nói đi bao xa mới tới cánh cửa? -Không nhớ,nhưng cứ…
Mark bỗng nín bặt, lắng nghe rồi hỏi:
-Cái gì vậy?
-Cái gì là cái gì ?
-Mình nghe thấy cái gì đó, như tiếng…grừ grừ.
Vừa nói Mark vừa giật lại một cây xúc xích trong tay Courtney và giơ ra:
-Êu êu, cún! Êu êu cún ngoan ào!
Bây giờ Courtney cũng nghe thấy, mơ hồ, nhưng không thể lầm được:
-Đó không phải là tiếng grừ grừ. Tiếng tàu! Một con tàu nữa đang đến!
Tiếng còi tàu vang lên, chứng tỏ Courtney nói đúng. Một con tàu nữa đang đến và hai đứa sẽ kẹt cứng. Chung không biết phải chạy đường nào.
-Mình quay lại đây.
Mark la lên, quay đầu định chạy ngược lên sân ga. Nhưng Courtney nắm lấy ba lô, ghì nó lại:
-Không. Chúng mình sắp tới nơi rồi.
Cô bé tiếp tục lần mò theo vách tường tiến bước, Mark từ phía sau thúc tới. Giữa lúc đó, con tàu băng băng rẽ vào, đèn pha rọi thẳng tới làm hai đứa lóa mắt, không nhìn thấy gì. Mark cuống quít năn nỉ:
-Lẹ lên!
Courtney tuyệt vọng sờ soạng lên vách, rồi vấp vào ghi tàu, ngã quỵ xuống. Mark vội vàng kéo bạn đứng dậy, đẩy cô tiến tới. Nguy hiểm cận kề. Tiếng bánh tàu rít trên đường sắt làm chói tai hai đứa. Khoảng cách giữa vách hầm và đường ray chẳng là bao. Courtney gào lên:
-Không kịp đâu! Ép sát tường!
Mark bỏ ba lô xuống, ép lưng vào tường. Con tàu chỉ còn cách hai đứa mấy mét. Hai đứa nắm chặt tay nhau.
Mark nhắm tịt hai mắt. Courtney quờ quạng tay lên vách trong một nỗ lực cuối cùng tìm cho ra cánh cửa. Cô bé ngả về phía trước thêm vài phân…và thay chạm vào một vật. Courtney reo lên:
-Mình thấy rồi.
Con tàu vừa tới. Tiếng còi rú nhức tai. Courtney nắm chặt tay Mark, nhào về phía cô bé hy vọng là cánh cửa. Cô đẩy mạnh khoảng lõm tối thui trên vách và khoảng lõm đó mở ra. Mark và Courtney lộn nhào vào trong đúng lúc con tàu vụt qua. Trong tích tắc,tất cả lại hoàn toàn im ắng như chỉ mấy phút trước đó.
Courtney và Mark nằm trên nền đất, muốn tắt thở. Phải mất cả phút hai đứa mới hoàn hồn. Cả hai ngước nhìn và cùng thấy một thứ. Mark kinh ngạc kêu lên:
-Oa!
Đây là một đường hầm bằng đá xám. Vừa lom lom nhìn vòm đá lởm chởm, hai đứa vừa đứng dậy. Courtney chạy vội lại khung cửa gỗ mà hai đứa vừa lao qua, thò đầu nhìn ra ngoài. Cô bé thông báo:
-Đúng chỗ này rồi. Ngôi sao, y chang như Bobby đã nói.
Trở vào đứng bên Mark, lúc này vẫn còn đang ngơ ngác nhìn đường hầm, cô bé phấn chấn nói: -Nó đây rồi. Tất cả đều là thật. Những gì Bobby viết đều là sự thật.
Đây là nới Bobby yêu cầu Mark tới. Trong thư Bobby dặn hãy tới cánh cửa và chờ. Nhưng chờ gì? Suốt mấy phút hai đứa đứng nhìn quanh, không biết phải làm gì. Sau cùng Courtney nhìn Mark, cười cười bảo:
-Để mình thử coi.
Vừa dợm bước về phía miệng hầm xám xịt, Courtney bị Mark kéo lại:
-Đừng!
-Sao lại đừng? Bobby làm được, tớ cũng có thể làm được.
Đúng là câu đối đáp muôn thuở của Courtney. Cô bé xô Mark ra, bước vào ống dẫn. Mark lùi lại, hốt hoảng nhìn cô bạn đang hướng mặt vào đường hầm tối tăm, sâu thăm thẳm. Courtney đứng thẳng, thoáng liếc Mark, rồi nhìn trở lại vào vùng tối, nói:
-Denduron!
Không có gì xảy ra. Chúng nghe tiếng vọng dội lại. Ngoài ra, hoàn toàn không có gì. Mark bảo:
-Cũng giống như cái nhẫn, không là Lữ Khách không có được năng lực đó đâu.
Courtney lùi lại, thất vọng ra mặt. Cô bé cứ tưởng sẽ được bay bổng trên chiếc thảm ánh sáng thần kỳ như Bobby đã tả. Hơi bực, Courtney hỏi Mark:
-Vậy tại sao Bobby có khả năng đó? Điều gì làm cậu ấy đặc biệt đến nỗi có thể…
Mark giơ tay ra hiệu:
-Suỵt.
-Cái gì vậy?
-Không nghe gì sao?
Courtney lắng nghe:
-Chắc lại có đoàn tàu khác.
Mark căng tai:
-Không. Không phải tàu. Hình như… như tiếng nhạc.
Courtney ráng nghe. Đúng rồi! Tiếng nhạc. Tiếng nhạc văng vẳng. Nhưng không phải một làn điệu mà nhiều làn điệu vút cao, chen lấn nhau.
Mark kêu lên:
-Mình đã nghe thấy âm thanh này, khi cái nhẫn mở lớn ra.
Nó liếc mắt xuống chiếc nhẫn trên ngón tay, nhưng không thấy mặt đá xám sáng lên. Không, tiếng nhạc không phát ra từ chiếc nhẫn. Courtney nhìn vào đường hầm, và điều cô nhìn thấy làm miệng cô há hốc:
-Ôi! Mark! Nhìn kìa!
Mark nhìn. Miệng nó cũng há hốc ra. Có cái gì đó đang tiến về phía chúng. Một đốm sáng, như ngọn đèn tàu hỏa từ xa. Càng lại gần đốm sáng càng rộng hơn và tiếng nhạc êm dịu càng lớn hơn.
Mark hỏi, giọng run bắn:
-Ch…Chạy chứ?
-Ừa…nhưng…chạy đâu?
Khi nguồn sáng tiến gần hơn, hai đứa thấy vách hầm xám bắt đầu thay đổi. Vách hầm như biến mất. Đá xám lởm chởm biến thành pha lê trong suốt, giống như những gì đã xảy ra với mặt đá xám của nhẫn. Bên kia lớp tường trong suốt là hằng hà sa số những vì sao. Ánh sáng chói lòa đến nỗi Mark và Courtney phải đưa tay che mắt. Đồng thời tiếng nhạc cũng lớn hơn. Hai đứa đờ đẫn giật lùi cho tới khi lưng chạm vách hầm. Chúng bị mắc kẹt mất rồi. Quá muộn để tìm cửa ra khỏi đây. Hai đứa chỉ còn biết bịt chặt mắt, ngồi thụp xuống, cầu mong mọi chuyện chóng qua.
Ánh sáng chợt bùng lên lần cuối, rồi bóng tối tràn ngập và tiếng nhạc cũng ngừng bặt. Tất cả trở lại hoàn toàn yên tĩnh. Mark và Courtney từ từ buông tay ra khỏi mắt để nhìn thử chuyện gì đã xảy ra.
Điều chúng nhìn thấy dường như không thể nào tưởng tượng nổi. Nó ở đó, rõ ràng là nó Chính là Bobby. Bobby đứng ngay cửa đường hầm. Vẻ hơi bàng hoàng, nó nhìn quanh như để biết vị trí nơi mình đang đứng,rồi…nhìn thấy Mark và Courtney đang rúm tịt vào tường. Không đứa nào thốt được một lời, cứ trừng trừng nhìn nhau hồi lâu. Sau cùng Bobby chỉ bật ra được một câu: “ủa!”
Nhưng câu đó đủ làm vỡ tảng băng im lặng. Mark và Courtney nhảy lên, chạy lại Bobby. Ba đứa ôm vòng lấy nhau. Không cần phải nói gì. Vòng tay siết chặt đã nói lên tất cả. Bao nhiêu lo lắng, nghi ngại, sợ hãi, buồn rầu dồn nén từ khi chuyến phiêu lưu của Bobby bắt đầu đều tan biến hết. Chúng cứ ôm cứng lấy nhau, cho đến khi Bobby lên tiếng:
-Thôi nào, mình bị nghẹt thở rồi.
Ba đứa miễn cưỡng rời nhau chừng… một giây, rồi lại ôm chặt lấy nhau. Lần này cả ba đều ha hả cười.
-Các cậu thật tuyệt vời.
Bobby nói, nhưng rồi như chợt nhớ ra, nó lùi phắt lại. Nhìn thẳng vào Courtney, nó hỏi:
-Khoan đã, bạn làm gì ở đây vậy?
Mark thú thật:
-Mình cho Courtney xem hết nhật ký. Xin lỗi. Mình không thể tự lo một mình được. Bobby thoáng suy nghĩ: Nó đã chỉ viết cho Mark và riêng một mình Mark thôi, nhưng như vậy quả là một trách nhiệm quá nặng nề đối với Mark. Có lẽ chia sẻ việc này với một người khác – một người có thể giúp Mark – là một ý hay. Và người đó đúng là Courtney. Nó mỉm cười trấn an Mark:
-Tuyệt lắm, Mark. Mình rất mừng vì cậu đã làm vậy. Còn ai khác biết chuyện này nữa không?
Courtney trả lời:
-Không. Chỉ hai đứa mình thôi.
-Tốt. Lúc đầu mình nghĩ nên để mọi người biết, nhưng bây giờ mình thấy là không nên.
Mark bảo:
-Hai đứa mình cũng nghĩ vậy.
-Sẽ đến lúc mọi người được biết. Nhưng giờ thì chưa được, đúng không nào?
Courtney và Mark gật đầu. Đúng là tâm đầu ý hợp. Bobby hỏi:
-Ba má mình có lo lắng lắm không?
Tới rồi! Đó là câu hỏi cả hai đứa đều không muốn trả lời. Mark và Courtney thoáng nhìn nhau. Hai đứa đã quyết định không nên cho Bobby biết chuyện gia đình nó biến mất vào lúc này. Bobby đã quá đủ chuyện phải lo rồi. Nhưng chúng lại không muốn nói dối bạn. Mark còn đang chưa biết nói sao, Courtney đã lên tiếng:
-Mọi người đều rất lo lắng vì bạn.
Đó không phải là một câu nói dối. Vì rõ ràng mọi người đều đang lo lắng về Bobby. Đó cũng không hoàn toàn là sự thật. Nhưng là một câu nói phải lúc, vì Bobby nói ngay:
-Mình rất ghét phải giữ bí mật, nhưng nếu biết chuyện, mọi người lại càng lo lắng hơn. Vì vậy đừng nói gì hết, OK?
Mark và Courtney gật lấy gật để. Hú hồn. Hai đứa vừa né được một viên đạn. Bobby chợt thấy cái ba lô L.L.Bean, nó liền hỏi:
-Hai bạn đem hết các thứ cho mình chứ?
Mark đáp:
-Đầy đủ.
-Có gặp rắc rối gì khi tới đây không?
Courtney nói ngay:
-Không hề hấn gì.
Bobby lại nhìn thấy hai đứa bạn như thể mới trông thấy chúng lần đầu. Đây là hai người đã vượt qua mọi khó khắn để tới đây vì nó. Bobby thành thật nói:
-Không biết phải nói sao để cảm ơn hai bạn đây. Mình thật không xứng đáng có được những người bạn như hai bạn.
Courtney và Mark chỉ biết cười toe toét đáp lại. Rồi Mark e dè hỏi.
-Bobby, chuyện đó có thật không? Ý mình là những gì cậu viết đó.
-Thật. Kỳ lạ quá, phải không?
Courtney và Mark vừa định hỏi thêm, bobby đã ngăn lại:
-Nè, mình không biết gì hơn những gì đã viết đâu. Mình không biết vì sao mình lại là một Lữ khách. Mình không biết khi nào, ở đâu là Denduron. Chính mình cũng có cả triệu câu hỏi không có câu trả lời. Mình… sợ muốn chết đây này.
Đúng vậy, có quá nhiều câu hỏi không có câu trả lời.
Sau cùng,Courtney tiến một bước về phía Bobby. Cô bé bối rối như sắp phải nói một điều rất khó khăn. Phải thu hết can đảm, cô mới nói lên lời:
-Đừng trở lại nơi đó nữa. Đó không phải thế giới của bạn. Đó không phải cuộc đời bạn. Bạn thuộc về nơi này. Tất cả những gì phải làm, là hãy bước ra khỏi cánh cửa kia cùng với tụi mình. Không ai biết đâu. Mình van bạn đó, Bobby, ở lại đây đi.
Bobby nhìn Mark. Mark gật, như thể đồng ý với Courtney:
-Bây giờ cậu về nhà rồi, Bobby. Ở lại đi.
Bobby đã không nghĩ đến khả năng này. Thật quá dễ dàng. Chỉ việc bước qua cánh cửa kia, nó về nhà, được an toàn. Quá hấp dẫn. Nó không trả lời ngay. Đây là quyết định quan trọng nhất mà nó phải giải quyết trong đời. Nhìn chung quanh, nhìn xuống đường hầm tăm tối, rồi lại nhìn cái ba lô L.L.Bean đầy những thứ bạn nó mang đến cho nó, Bobby quyết định:
-Có cả tỉ điều mình không biết, nhưng có một điều mình biết chắc chắn: nếu mình không làm gì thì cậu Press sẽ phải chết.
Hai bạn nó gục đầu. Bobby có lý. Nếu nó ở lại thế giới này, cậu Press sẽ chết. Nó nói thêm:
-Còn chuyện khác nữa. Mình không phải là kẻ có thể giúp những con người kia chiến đấu trong cuộc cách mạng của họ. Không hiểu sao họ lại tin mình là người sẽ giúp họ. Mình không thể. Người giúp họ phải là cậu Press. Nếu cậu chết, họ sẽ không còn cơ hội nào nữa. Mình phải trở lại, cứu cậu Press, vì lợi ích của người Milago.
Bobby cúi nhặt ba lô, khoác lên vai. Mark hỏi:
-Cậu sẽ dùng những thứ này vào việc gì?
Thắt lại móc ba lô, Bobby tiến một bước về ống dẫn:
-Mình chưa biết chính xác, nhưng sẽ sớm nghĩ ra thôi. Mình không phải là một người hùng, cố gắng cứu cậu Press xong, mình sẽ rời khỏi nơi đó.
Mark bảo:
-Tụi mình chờ bạn đó.
Ba đứa nhìn nhau, không biết phải nói thêm gì. Tới lúc Bobby phải đi rồi. Sau cùng Bobby lên tiếng:
-Mình không biết nói gì để cảm ơn hai bạn việc này và việc đã theo sát nhật ký của mình.
Mark gượng cười:
-Chỉ tiếp tục gửi nữa là được rồi.
Ba đứa lại ôm choàng lấy nhau. Bobby cười cười:
-Mình sẽ viết ngay khi nào có thể.
Cả ba đều cố kềm nước mắt. Bobby vừa quay vào ống dẫn, Courtney vội hỏi:
-Loor có “bảnh” đến thế thật không?
Bobby sững người, lúng túng nói:
-Có thể hai bạn không thấy vậy đâu. Cô ta không hợp gu mình.
Courtney cười láu lỉnh:
-Không hợp? Mình lại nghĩ: mình và cô ta có điểm giống nhau đấy. Hai đứa mình rất có thể… đá đít bạn.
Bobby phì cười. Courtney nói rất đúng. Cô bé nói thêm:
-Hãy cố an toàn trở về nhà nhé.
-Mình sẽ ráng về sớm.
Mark vẫy tay chào khi bạn nó trở vào ống dẫn. Bobby hít sâu một hơi, nói:
-Denduron!
Ống dẫn phản ứng lại ngay tức thi. Vách hầm bắt đầu lung linh tỏa sáng, nhạc lớn dần, một luồng sáng rực rỡ từ sâu trong lòng hầm bùng lên chan hòa khắp căn hầm.
Bobby quay lại nhìn hai bạn, vẫy tay, nói:
-Hẹn gặp lại.
Rồi,trong nháy mắt, Bobby biến mất. Ánh sáng và tiếng nhạc dịu dần vào đường hầm, đưa Bobby đến một nơi xa thẳm. Chẳng bao lâu, tất cả lại hoàn toàn yên lặng. Đôi bạn trừng trừng nhìn vào đường hầm tối tăm, trống rỗng. Giờ thì chẳng còn gì để làm, ngoài việc vượt đường dài để trở về nhà. Bỗng Mark ú ớ. Courtney vội hỏi:
-Chi vậy?
Mark chìa tay ra: cả hai đứa đều thấy mặt đá xám trên chiếc nhẫn bắt đầu tỏa sáng. Mark vội vàng rút nhẫn ra, đặt xuống đất. Hai đứa lùi lại một bước trong khi chiếc nhẫn lớn dần và ánh sáng tiếp tục phát ra từ mặt đá. Chúng lại nghe tiếng nhạc quen thuộc khi ánh sáng chói lòa chợt lóe lên, rồi vụt tắt. Chiếc nhẫn nằm bất động trên mặt đất. Một cuộn giấy da nằm kế bên.
Courtney vụt hỏi:
-Sao Bobby có thể viết nhanh như vậy được?
Mark nhặt cuộn giấy lên, bắt đầu mở ra:
-Có những điều làm mình nghĩ thời gian ở đây và thời gian ở đó không giống nhau.
-Hả? Nói rõ coi.
-Mình nghĩ, Denrudon có thể không chỉ là một nơi khác, mà thời gian cũng khác. Rất có thể cả ngàn năm trước, hay cả triệu năm sau. Ống dẫn không chỉ xuyên không gian, mình cá là nó xuyên qua cả thời gian. (Có lẽ khi dùng khái niện ống dẫn (flume) trong truyện này, tác giả đã lấy ý tưởng từ lý thuyết “hang giun”. Theo các nhà Thiên văn học, có thể có những “đường ống” xuyên qua không-thời gian, dẫn tới những nơi xa thẳm trong vũ trụ. Nếu có 1 vật thể nào đi qua “hang giun”, nó có thể đến nơi trong nháy mắt. (NXB))
Courtney không hiểu hết. Một lần nữa cô bé lại gần như chẳng hiểu nổi những chuyện đang xảy ra là gì. Mark trải mấy trang giấy, nhìn lướt qua, rồi ngửng nhìn Courtney, cười toe toét:
-Thấy chưa? Mình đoán ngay chóc. Nhật ký của Bobby.
|
NHẬT KÍ # 3 DENDURON (@Joyce89 type)
Hai bạn ơi, mình đã làm cho công việc rối tung lên mất rồi.
Mình cố gắng gánh vác và làm điều phải, nhưng mình e là chỉ làm cho mọi chuyện tệ hại hơn. Mình đã trải qua một hành trình bão táp kể từ khi gặp hai bạn trong đường tàu điện ngầm, nhưng vấn đề mấu chốt đó là: khi mình ngồi viết dòng nhật ký này đây thì mình và mọi người đang trên bờ một thảm họa có thể làm tan nát Denduron. Không hoàn toàn do lỗi mình, nhưng mình sợ là chính mình đã đẩy sự việc tới bờ vực thẩm. Trước hết, mình trở lại những gì đã xảy ra từ sau lần viết nhật ký trước. Mình đã kết thúc nhật ký đó trước khi đi gặp hai bạn. lẽ ra mình phải kể cho hai bạn biết chuyện gì xảy ra trước chuyến du hành của mình tới Trái Đất Thứ Hai để nhận cái ba-lô từ hai bạn. Thấy hai bạn, tâm hồn mình cứ lâng lâng như ở trên mặt trăng. Ước gì mình đừng bao giờ có chuyến du hành đó, vì chuyến đi đó là một trong những nguyên nhân đưa mọi người tới bờ vực tai ương này.
Khi bà Osa bị giết, đầu óc mình như mở ra, suy nghĩ sáng suốt hơn. Nhưng không có gì là lãng mạn, bi hùng như kiểu: thình lình mình nhận ra là phải hoàn tất sứ mệnh của một Lữ Khách, dẫn dắt người Milago tới chiến thắng và vân vân… không đâu. Mình chỉ nghĩ đến cậu Press. Mình cảm thấy xấu hổ vì đã không cố thử làm gì để giúp cậu. Lý do duy nhất để tự bào chữa chỉ là: cả đống sự việc quái dị đổ ụp lên đầu mình một lúc, nên đầu óc mình quá hoang mang. Nhưng cái chết của bà Osa như hồi chuông thức tỉnh mình. Mất mát của mình không thấm tháp gì với sự mất mát của Loor. Bà Osa là mẹ cô. Mình tưởng tượng nếu mình mất mẹ thì sao. Rồi mình dẹp bỏ ngay ý nghĩ đó. Mình không thể hình dung được sẽ ra sao nếu má mình mất. Ý nghĩ đó khủng khiếp quá.
Bà Osa đâu đáng bị chết như vậy. Tất cả những gì bả đang cố gắng làm chỉ là để giúp một số người có cuộc sống tốt đẹp hơn. Giống như cậu Press. Cậu cũng đang cố giúp người Milago, và chính vì vậy mà cậu mình sắp phải chết. Như vậy có công bằng không? Mình nghĩ là không. Mình nhận ra, phải có ai đó tiến lên và cất lời phản kháng. Rủi thay, mình cũng nhận ra kẻ duy nhất có thể làm điều đó lại là… mình. Mình bảo “rủi” không phải vì mình không muốn giúp cậu Press, mà vì mình biết mình không phải ứng cử viên số một để vào vai lính đánh thuê kiểu Schwarzenegger, xung phong vào lâu đài Bedoowan, tả xung hữu đột, giải thoát ông. Đó chỉ là chuyện hoang đường. Tuy nhiên mình vẫn phải làm một điều gì đó, và nếu mình có bất kỳ một cơ hội nào, thì mình vẫn cần có sự giúp đỡ. Ý mình là Loor. Nhưng mình không thể nói gì để làm Loor nguôi ngoai về những gì đã xảy ra với mẹ cô. Chắc cô ta căm ghét mình ghê lắm. Nhưng cô ta là người duy nhất có thể giúp mình, vì vậy mình phải ráng.
Vào hầm mỏ chính, mình đi tìm Loor và gặp cô ta đang ngồi một mình khoang chân cuối hang, đẽo gọt một mảnh gỗ nhỏ. Dường như Loor đang khắc một khuôn mặt nửa mặt trăng, nửa mặt trời. Thấy cô tập trung vào việc làm, mình không muốn làm phiền, nên đứng chờ cho cô ta lên tiếng trước. Suốt mấy phút Loor làm như không thấy mình, cứ cắm cúi gọt đẽo. Sau cùng, chắc thấy mình nhất định không chịu bỏ đi, Loor mới lên tiếng nói:
-Đây là một szshaszha. Ở lãnh địa của tôi, vật này tượng trưng cho sư kết thúc một đời người và cũng là sự khởi đầu cho một kiếp khác. Tôi dâng mẹ, vì như người ta nói, để được may mắn trong kiếp sau.
-Rất ý nghĩa.
Loor rắn rỏi nói ngay:
-Chỉ là chuyện cổ tích, chẳng nghĩa lý gì. Nhưng vì mẹ tôi tin vào những điều này, nên tôi tôn trọng.
Chắc mình lại lỡ lời. Muốn định chuồng ngay, để cô ta ngồi lại một mình, nhưng mình cố gắng đứng lại để nói hết ý định. Mình nói, giọng cứng rắn hơn mình tưởng:
-Mai tôi không về. Tôi sẽ đi tìm cậu Press.
Loor ngừng tay, ngửng nhìn mình. Mình ráng nhìn thẳng vào mắt cô ta, không chớp mắt, để cô ta biết mình nói rất nghiêm túc. Nhưng Loor bỗng phá lên cười ngặt nghẽo. Rõ ràng chuyện mình định đánh nhau với tụi hiệp sĩ Bedoowan làm cô ta thấy quá khôi hài. Nín cười, Loor mỉa mai hỏi:
-Sao vậy, Pendragon? Để anh có thể nhìn ông ấy chết giống như mẹ tôi, phải không?
Hừ! Quá đáng! Mình vẫn giữ vẻ nghiêm túc, nói:
- Không. Tôi sẽ giải cứu cậu Press.
Loor thô bạo đốp:
- Đi ngủ đi. Nhìn anh tôi oải quá rồi.
Lại bắt đầu chì chiết mình rồi đấy. Ừ, biết là cô ta giỏi, nhưng cũng đừng xem mình như rác rưởi vậy chứ… Mình không lung lay:
- Cô bảo tôi không quan tâm tới cậu tôi. Cô lầm. Tôi quan tâm đủ để xông vào cái pháo đài đó cứu ông ra.
Cô ta nhạo báng:
- Các hiệp sĩ Bedoowan sẽ xé xác anh, trước khi anh lại gần được cậu Press của anh.
- Cô nói đúng. Đó là lý do cô phải giúp tôi.
Loor bắn cho mình cái nhìn kinh ngạc. Ố ồ, mình có đang mạnh mẽ quá đà không đó? Cô ta từ từ đứng thẳng người, nhìn xuống mình. Mình nhất định không lùi một bước, vì lùi là thua cuộc. Chưa bao giờ mình nghe giọng Loor phẫn uất đến như thế:
- Vì sao tao phải giúp cậu mi trong khi mẹ ta chết chính vì phải bảo vệ mi?
- Đó chính là lý do cô nên giúp tôi. Hai chúng ta đều biết, tôi không phải là người có thể dẫn dắt người Milago chống lại người Bedoowan. Người đó phải là cậu Press. Tôi muốn cứu ông, vì ông là cậu của tôi. Nếu cô quan tâm tới Milago nhiều như cô vẫn nói thì cô phải cứu ông, vì những con người đó cần tới ông.
Loor không phản ứng ngay. Một thoáng suy nghĩ ánh lên trong mắt cô. Phải chăng đó là một thoáng ngờ vực? Quay lưng lại mình, Loor nhặt vũ khí bằng gỗ dưới nền hang động lên, lạnh lùng nói:
- Có một cuộc họp. Tôi sẽ cho anh đi cùng.
Họp? Tốt rồi. Mình chẳng biết họp hành gì, nhưng ít ra cô ta đã bớt băng giá và cho mình cùng dự. Đây là bước khởi đầu. Nhưng cô ta bước tới, dí mũi vũ khí gỗ vào mình, hăm dọa:
- Nếu đi với tôi, liệu mà tự giữ lấy thân. Tôi sẽ không bảo vệ anh đâu, Pendragon.
Với lời hứa hẹn ngọt ngào như vậy, cô ta quay phắt đi. Mình chẳng biết phải làm gì, nên cứ đứng ì tại chỗ. Cô ta quay lại gắt:
-Đi! Mau!
Chẳng biết là đi đâu, nhưng mình vẫn theo cô ta. Loor dẫn mình leo ngược mấy cầu thang, lên mắt đất. Đêm đã buông xuống, những vì sao sáng đủ để thấy được mọi vật. Loor đảo mắt nhanh một vòng, chắc xem còn tên hiệp sĩ nào bám theo không. Mình cũng nhìn quanh. Chung quanh hoàn toàn vắng lặng. Mình theo Loor vào làng Milago và tới thẳng căn lều lần đầu tiên mình đã tỉnh lại. Vào trong, mình thấy đã đoán đúng: đây là một bệnh xá. Lúc này, hai cái giường gỗ đều có người nằm. Nhưng hai người này không nằm đây để được điều trị. Đó là bà Osa và người thợ mỏ đã bị giết.
Tại đó còn hai người nữa. Nhưng là hai người sống. Đó là Alder – vị hiệp sĩ mà Loor bảo là Lữ Khách của Denduron, và Rellin, đội trưởng thợ mỏ. Hai người đang ngồi khoanh chân trước ngọn lửa lò sưởi. Loor tiến vào ngồi cùng họ. Mình đoán đây là buổi họp Loor rủ mình tới, vì vậy mình cũng ngồi xuống đối diện cô ta.
Rellin mở đầu cuộc họp bằng lời chia buồn:
- Loor, tôi rất buồn về chuyện mẹ cô. Bà là người tốt. Thay mặt tất cả người Milago, tôi xin gửi lời tri ân của chúng tôi đến với cô và những người của cô đã tới đây giúp đỡ chúng tôi. Điều làm tôi buồn là chuyện đó đã phải kết thúc như thế này.
Loor vội trả lời:
- Xin cảm ơn tình cảm của ông, nhưng cái chết của mẹ tôi không có nghĩa là mọi chuyện kết thúc. Chúng ta sẽ dẫn dắt người Milago tới tự do.
Rellin có vẻ bối rối. Không khí trong lều chợt trở nên căng thẳng. Mình cảm thấy vậy và Loor cũng cảm thấy vậy. Không biết Alder thì sao, vì mình chưa biết rõ về anh ta. Rellin lên tiếng:
- Không đâu. Mọi chuyện kết thúc rồi. Không có cuộc tranh đấu nào nữa.
Với lời tuyên bố đó, ông ta đứng dậy, bỏ đi. Loor nhảy lên, ngăn lại. Những lời nói của Rellin làm cô kinh ngạc:
- Sao ông có thể nói vậy chứ, Rellin? Nếu người Milago không giành lại được tự do từ người Bedoowan, tất cả họ sẽ chết.
- Nhưng nếu chúng tôi tranh đấu, chúng tôi sẽ chết sớm hơn nhiều. Dân tôi không phải là những chiến binh. Cậu biết vậy mà, Alder.
Rellin nhìn Alder, lúc này đang cúi gằm mặt. Rồi quay lại phía Loor, ông ta tiếp:
- Cả cô nữa, cô cũng biết vậy mà, Loor. Chống lại các hiệp sĩ Bedoowan, chúng tôi sẽ bị tàn sát hết.
Loor không chịu thua:
- Hãy nhớ lời ông Press. Các người không phải là chiến binh, nhưng là những người mạnh mẽ. Ông Press đã bảo, Bedoowan sẽ không đủ ý chí chống cự nếu người Milago đồng lòng đứng lên. Ông ấy bảo…
Rellin gào lên:
- Press đi rồi. Và giờ bà Osa cũng không còn nữa. Còn ai để hướng dẫn chúng tôi trong cuộc chiến điên rồ này? Cô? Hay cậu này?
Nói tới đó, Rellin chỉ ngay vào mình, rồi nói tiếp:
- Cô cậu chỉ là những đứa trẻ. Lý do hành động thì rất cao quý, nhưng đã tới lúc kết thúc giấc mơ hão huyền này rồi.
Rellin quay người đi phăm phăm ra khỏi lều. Buổi họp chấm dứt. Mình biết Loor muốn đuổi theo ông ta, nhưng cô vẫn đứng yên. Cô ta có thể là một chiến binh, nhưng không đủ lời lẽ để làm thay đổi tư tưởng của Rellin.
Alder thì thầm:
- Rellin đã lầm. Bedoowan không mạnh như ông ta tưởng đâu.
Loor từ từ bước lại bên thi hài mẹ. Nhìn xuống người đàn bà đã ngã xuống, cô vuốt ve cánh tay bà như cố tìm thêm sức mạnh, rồi đặt miếng szshaszha bằng gỗ mới khắc vào bàn tay bất động của bà. Trời ạ, hình ảnh này như xé nát tim mình. Mình chỉ có thể hình dung ra nỗi lòng đau đớn của Loor. Sau cùng Loor nói:
- Ông ta nói dối.
Alder ngửng phắt lên nhìn. Mấy câu của Loor làm mình và anh ta đều kinh ngạc. Mình hỏi:
- Cô nói sao?
- Suốt đời Rellin chỉ mơ ước đánh lại Bedoowan. Lòng căm hờn và oán hận của ông ta còn lớn hơn cả sự sợ hãi. Tôi không tin ông ta thay đổi tư tưởng mau đến vậy được.
Alder đứng dậy, bối rối chẳng khác gì mình. Anh ta hỏi:
-Vậy vì sao ông ta tuyên bố không tranh đấu nữa?
Loor không rời mắt khỏi mẹ cô, đáp:
- Tôi không biết, nhưng có điều gì đó đã thay đổi. Một điều mà ông ta không nói cho chúng ta biết. Có thể ông ta không tin tưởng chúng ta vì chúng ta còn quá trẻ.
Mình nhớ lại hai lần nhìn thấy Rellin trước đây. Lần đầu, tại lễ Chuyển giao. Mặc dù lúc đó ở khoảng cách khá xa, nhưng mình vẫn cảm thấy lòng căm ghét của ông ta với tụi Bedoowan. Lần thứ hai là trong hầm mỏ sau vụ nổ. Sau khi được giải cứu, ông ta đã cười sằng sặc rất lạ lùng không thể hiểu nổi. Loor nói đúng, có chuyện kỳ dị đang xảy ra. Mình hỏi:
- Ông ta tin tưởng mẹ cô, đúng không?
- Tất nhiên.
- Như vậy, nếu có gì thay đổi, ông ta đã nói với bà và chắc chắn bà cũng sẽ cho cô biết, đúng không?
- Anh cho rằng tôi nói không đúng sao?
- Không phải vậy. Ý tôi là nếu cô nói đúng, nghĩa là có chuyện gì đó lạ lùng xảy ra, thì việc Rellin không hề cho mẹ cô biết gì về chuyện đó làm tôi thấy hơi lo. Cả ba im lặng suy nghĩ về câu hỏi đó. Sau cùng Alder lên tiếng:
- Bây giờ chúng ta phải làm gì?
Mình biết câu trả lời. Loor cũng vậy. Nhưng mình muốn nói trước:
- Chúng ta đi giải cứu cậu Press và đưa cậu về đây.
Mình nhìn Loor. Cô ta không nói năng gì, nhưng mình biết điều cô ta đang nghĩ. Giải cứu cậu Press chính xác là việc cần phải làm và cô ta đã đồng ý giúp mình. Loor nhìn Alder bảo:
- Cuộc chiến này gay đấy, Alder. Anh sẽ phải xuất đầu lộ diện là một Lữ Khách trước mặt chúng.
Alder kiêu hãnh đứng thế nghiêm:
- Tôi biết ngày này phải tới. Tôi đã sẵn sàng.
Mình bước chen vào giữa hai người, kêu lên:
- Ê! Ai nói gì đến đánh đấm đâu?
Loor cười chế nhạo:
- Tưởng cứ tà tà vào thành lũy của Bedoowan, thoải mái đi tìm ông Press, giải thoát cho ông, rồi tà tà ra về sao? Anh thật không chỉ nhát mà còn ngốc nữa!
Tính nóng nảy, hung hăng của Loor lại bốc lên rồi. Mình nói vậy đâu phải để chọc giận cô ta. Mình cũng phải bốc, nếu không cô ta sẽ lấn tới:
- Ủa? Mục đích ở đây là giải thoát cậu Press, và nếu cô nghĩ ba chúng ta làm điều đó bằng cách choảng nhau với những hiệp sĩ của Kagan, thì hình như cô mới là… đồ ngốc.
Loor chưa kịp phản ứng, Alder tiếp lửa cho mình:
- Loor, cậu ấy có lý. Nếu tấn công, chúng ta sẽ bị chết trước khi tìm ra ông Press.
Loor hơi bối rối. Rõ ràng với cô, phản ứng đầu tiên để giải quyết là thượng cẳng chân hạ cẳng tay. Nhưng cô ta không ngốc và cô bắt đầu nhận ra phương pháp đó không phải là cách tốt nhất trong vụ này. Loor hỏi:
- Vậy phải làm gì? Nhã nhặn yêu cầu Kagan thả ông Press ra à? Cứ việc nói “làm ơn đi mà” là xong à!
Chà, cái đầu “cơ bắp” cũng biết châm chọc đấy chứ. Có lẽ cô ta được hơn những gì mình đánh giá. Mình nói:
- Cơ hội duy nhất là chúng ta phải lén lút, xâm nhập mà không cho chúng biết. Chúng càng lâu phát hiện ra chúng ta chừng nào, chúng ta càng có cơ may cứu được cậu Press chừng đó.
Nghe mình nói, Alder sôi nổi hẳn lên:
- Hay lắm. Tôi biết lối vào, biết từng ngóc ngách trong lâu đài. Có nhiều đường tắt, đường hầm gần như bỏ hoang.
Loor không ưa bị cho là sai lầm, nhất là đối với những kẻ cô ta không tôn trọng – và kẻ đó là mình. Nhưng mình nghĩ cô ta đủ thông minh để hiểu là cách của mình hợp lý hơn. Vì vậy cô ta hỏi:
- Anh đã có kế hoạch làm gì sau khi Alder đưa chúng ta xâm nhập vào lâu đài chưa?
Thật ra, mình đã có. Nhưng chỉ một phần thôi. Đó chưa phải là một kế hoạch hoàn chỉnh, chỉ là một mớ các ý tưởng. Thật không may là tất cả ý tưởng của mình lại cần toàn những thứ không hề có ở nhà. Mình hỏi:
- Nếu tôi gửi thư cho bạn bè, có cách nào để họ gửi cho tôi những thứ tôi cần không?
Loor bước lùi ra xa mình. Cô ta biết câu trả lời, nhưng còn đắn đo. Dù sao mình vẫn là lính tò te trong đám Lữ Khách mà. Rất có thể cô ta chưa hoàn toàn tin tưởng mình để có thể tiết lộ hết những bí mật.
Nhưng Alder không bận tâm với điều đó. Anh ta hồn nhiên nói:
- Có cách chứ. Qua ống dẫn, cậu có thể trở về lãnh thổ của mình và lấy bất cứ thứ gì cậu cần…
Mình bắt đầu khoái anh chàng này rồi. Đơn giản vậy sao? Chỉ việc chui vào ống dẫn, bay vào về? Nhưng còn vấn đề gay go là phải leo qua đỉnh núi mới tới được cánh cổng vào ống dẫn. Mình không có đủ thời gian để vượt qua tất cả những điều đó, trở về nhà, rồi trở lại đây, để kịp cứu cậu Press khỏi bị tử hình. Hơn nữa mình rất có thể bị bầy quig ăn thịt. Mình bảo:
- Không được. Còn cách nào khác không?
Loor nói:
- Anh không cần phải qua ngả núi. Còn một cổng khác trong hầm mỏ, không có quig canh giữ.
Ồ, tuyệt! Tình hình mỗi giây mỗi khả quan hơn. Tuyệt nhất là có thể Loor đã đủ tin mình để tiết lộ nguồn tin này. Sau cùng thì bọn này đã có thể cộng tác với nhau. Bây giờ mình tin chắc có đường về. Vì vậy mình bắt đầu tính toán tất cả những gì có thể làm để xâm nhập vào lâu đài. Điều quá tuyệt vời là dân Denduron mù tịt về cuộc sống ở thế giới chúng mình. Chỉ một vật đơn giản như cây đèn pin cũng đủ làm họ sợ vãi linh hồn. Chà, quyền năng đây rồi! Mình chưa biết chính xác tác dụng sẽ ra sao, nhưng mình bắt đầu nghĩ cơ hội giải cứu cậu Press rất có thể thực hiện được.
Loor đưa mình trở xuống hầm mỏ. Cuộc tạm đình chiến giữa cô ta và mình rất nặng nề. Cả hai đứa đều biết phải cần đến nhau, nhưng cả hai chẳng thích thú gì chuyện này. Việc đầu tiên là trở về cái phòng trong hốc đá, giống như một xà lim nhỏ xíu, để viết cho xong mấy trang nhật ký và thảo một danh sách những thứ mình cần, cùng cách thức để bạn gửi chúng cho mình. Viết xong, mình cuộn mấy trang giấy và làm giống hệt bà Osa khi bà gửi nhật ký đầu tiên của mình cho bạn. Rút cái nhẫn, mình đặt xuống nền đá, chạm vào mặt đá xám rồi nói:
-Trái Đất!
Chẳng có gì xảy ra. Làm lại lần nữa. Êm ru. Mình chợt có ý nghĩ khủng khiếp: Bà Osa bảo chỉ Lữ Khách mới có quyền lực điều khiển cái nhẫn. Nếu thực sự mình không phải là một Lữ Khách thì sao? Mình đã làm giống hệt bà, nhưng cái nhẫn không hoạt động. Có lẽ rốt cuộc mình không là một Lữ Khách!
Loor đang nhìn vào từ cửa và trước khi mình hốt hoảng thêm, cô ta nói:
- Anh không đến đây từ Trái Đất. Mà là từ Trái Đất Thứ Hai.
Ôi, đúng rồi. Bà Osa cũng đã nói như vậy. Trái Đất Thứ Hai. Như vậy nghĩa là còn có Trái Đất Thứ Nhất? Mình ghim trong đầu vụ này để hỏi sau. Trước mắt còn nhiều nhiệm vụ quan trọng hơn. Mình đặt tay lên mắt nhẫn, nói:
-Trái Đất Thứ Hai!
Chính xác. Đó mới là câu “vừng ơi mở ra”. Mặt đá bắt đầu sáng lên, vành nhẫn nới rộng dần và nhạc trỗi lên. Mình ném cuộn giấy vào chính giữa. Cuộn giấy biến mất ngay và tất cả đều trở lại bình thường. Tuyệt! Nhưng mình chợt nghĩ đến một điều khác:
- Loor, làm cách nào tôi biết thời điểm nên vào ống dẫn để trở lại Trái Đất… à quên… Trái Đất Thứ Hai? Vì các bạn tôi cần thời gian để thu xếp đầy đủ những thứ tôi cần.
Loor cho mình câu trả lời thật tâm nhất kể từ khi mình đến đây. Dường như bản thân cô ta cũng không chắc lắm, như thể cô cũng không hiểu hết gì hết:
-Tôi cũng không biết chính xác như thế nào. Nhưng khi Lữ Khách bay qua ống dẫn họ luôn tới nơi đúng lúc họ cần tới.
Đến lúc đó mình mới nhận ra sự hiểu biết về một Lữ Khách của Loor cũng chẳng hơn mình là bao. Chắc chắn là cô ta đến với sứ mệnh gai góc này trước nhưng mình nghĩ cô ta vẫn đang cố gắng hình dung hết khái niệm của nó. Cô nói tiếp:
- Mẹ tôi đã cắt nghĩa, ống dẫn du hành qua không gian và thời gian. Nhưng vì sao một Lữ Khách luôn luôn tới đúng thời điểm họ cần tới thì… tôi vẫn chưa hiểu rõ.
- Ý cô là khi ống dẫn đưa tôi về lại Trái Đất…
- Trái Đất Thứ Hai.
- Thì Thứ Hai. Ống dẫn đưa tôi về Trái Đất Thứ Hai sẽ cùng lúc với thời điểm bạn tôi chờ bên kia đầu ống?
- Đúng vậy.
- Hoạt động cả hai chiều chứ? Đi và về?
- Là sao?
- Nghĩa là, nếu tôi dời đây ngay lúc này, thì bạn tôi đã sẵn sàng chờ tôi tại đó rồi à? Mặc dù tôi mới gửi bản danh sách đi một phút trước?
- Tôi nghĩ vậy.
- Vậy thì đi thôi.
Loor dẫn mình trở lại hang động lớn, rồi vào một đường hầm hoang phế hơn tất cả những đường hầm trước. Đá rải rác trên những đường xe đẩy, làm mình nghĩ lâu lắm rồi không một người thợ mỏ nào lai vảng đến đây. Vách hầm trông cũng nham nhở hơn những hầm khác, dường như khi họ đào đường hầm này, kỹ thuật đào chưa thật hoàn chỉnh.
Lầm lũi theo Loor một lúc, mình hỏi:
- Sao cô biết chúng ta đi đúng đường?
Cô ta trả lời bằng cách đưa bàn tay lên. Loor đeo một cái nhẫn giống hệt của mình. Vậy mà trước đây mình không hề để ý. Chắc vào Hội Lữ Khách, ai cũng được phát một chiếc nhẫn đặc biệt. Mặt đá xám trên nhẫn của cô ta tỏa ra làn ánh sáng mờ mờ. Loor cắt nghĩa:
- Mấy hôm trước mẹ tôi đã chỉ cho tôi biết cổng này. Bà cũng hướng dẫn cách đoán biết khi đã đến gần cánh cổng. Mặt nhẫn sẽ cho anh biết.
Đúng vậy. Nhìn xuống chiếc nhẫn của mình, mình thấy mặt đá xám đang sáng dần lên. Qua một khúc quanh nữa, mình đã thấy … một cái cửa gỗ lõm trong đá. Xa xa cuối đường hầm là một lỗ hổng nữa. Trước lỗ hổng đó là một đống đá như vừa được đào lên. Qua khỏi lỗ hổng, có một xe đẩy đá cũ kỹ nằm trên đường ray. Có lẽ cái xe này nằm ì ở đây cả chục năm rồi. Mình hỏi Loor:
- Sao cô biết chính là đường hầm này chứ không phải đường khác?
Cô ta chỉ tay lên cửa. Có một dấu hiệu hình ngôi sao khắc trên mặt gỗ, giống y như cánh cửa trong đường tàu điện ngầm tại Bronx. Bọn mình đã bước vào trong và mình nhìn thấy đường hầm quen thuộc đã đưa mình tới… bất cứ nơi nào. Mình tiến sâu vào mấy bước, rồi quay lại hỏi Loor:
- Tôi phải làm gì?
- Tôi nghĩ là anh biết phải làm gì.
Đúng. Mình biết. Khi mình tiến sâu hơn vào miệng đường hầm, Loor gọi theo: “Pendragon!”. Mình quay lại và cô ấy nói:
- Cậu anh là một người tốt. Tôi cũng muốn giải cứu ông ấy.
Rất tuyệt! Mình gật đầu với Loor, rồi quay lại, đối diện với bóng tối thăm thẳm, hô:
-Trái Đất Thứ Hai!
Các bạn đã biết chuyện gì xảy ra sau đó rồi.
|
NHẬT KÍ # 3 (TIẾP THEO) DENDURON (@vongtronkhuyet và @Mxlc type)
Mình không muốn xa rời hai bạn. Khi bay qua ống dẫn để trở lại ga tàu điện ngầm, tất cả ý nghĩ của mình là chỉ về cậu Press và nhiệm vụ trước mắt. Nhưng ngay khi nhìn thấy hai bạn, mình nhớ đời sống thật của mình biết nhường nào. Thời gian ngắn ngủi tại Denduron đã đặt đầu óc mình vào một nơi hoàn toàn khác hẳn. Nhưng vừa thấy hai bạn , thình lình mình cảm thấy như chưa từng xa quê nhà. Trong một thoáng giây, ý nghĩ bước vào ống dẫn để trở lại Denduron là điều vô lý hết sức. Courtney, bạn nói đúng; thật quá dễ dàng, chỉ cần bước qua cánh cửa đó là mình thoải mái về nhà.
Nhưng rồi mình nhớ lại cậu Press và biết phải làm gì. Mình phải trở lại Denduron. Có lẽ mình ở lại với các bạn tình hình lại tốt hơn, vì mình đã làm mọi chuyện trở nên tệ hại hơn khi trở lại nơi này. Ý định tốt chưa hẳn đã đủ, mà cần phải có sự thông minh. Đôi khi mình nghĩ mình chẳng có được cái sự thông minh sáng láng đó. Để các bạn nhận xét mình sẽ kể lại những gì xảy ra.
Loor đang đứng chờ khi mình trở lại Deduron qua ống dẫn. Câu đầu tiên cô ta nói là:
-Tôi không dám tin là anh trở lại.
Mình nổ liền:
-Nè, bớt đa nghi một chút được không?
Thật ra cô ta rất có lý, vì suýt nữa mình đã ở lại Trái Đất Thứ hai. Nhưng mình không muốn cô ta biết điều đó, mình muốn cô ta nghĩ mình là người đáng tin cậy trong nhiệm vụ. Loor bảo:
-Chúng ta đều mệt cả rồi. Ngủ một chút đi, trước khi khởi sự.
-Còn đủ thời gian không?
Chẳng biết thời khắc điểm phân là gì, nhưng mình biết cậu Press bị xử tử đúng vào lúc đó, có lẽ chỉ trong mười phút nữa thôi. (Điểm phân(Equinox): thời điểm mỗi năm hai lần mặt trời qua đường phân điểm, lúc ấy ngày và đêm có thời gian bằng nhau)
-Điểm phân là chính ngọ ngày mai. Khi ba mặt trời tụ làm một trên bầu trời. Chúng ta còn đủ chút thời gian để nghỉ ngơi.
Hiểu rồi. Điểm phân là giữa trưa. Loor và mình trở vào căn phòng nhỏ trong mỏ. Loor không hỏi trong ba-lô có gì và mình cũng chưa định nói cho cô ấy biết. Chuyện đó để sau, nhưng có một thứ mình cần dùng ngay. Đó là cái đồng hồ kỹ thuật số. Mình không có khái niệm lúc ấy là mấy giờ, nhưng nhỡ hai đứa ngủ một mạch mười tiếng đồng hồ và thức dậy quá trễ thì nguy. Mình để chuông báo thức hai giờ sau. Chợp mắt thế cũng là nhiều rồi. Ngủ được vài tiếng vẫn hơn là không ngủ tí nào.
Loor tò mò nhìn mình khi mình đặt chuông báo thức. Thậm chí cô ta nhảy dựng lên kinh ngạc khi cái đồng hồ kêu bíp bíp. Mình nghĩ, lãnh địa của cô ta chưa biết đồng hồ là cái gì. Điều này làm mình cảm thấy có điểm “trội” hơn Loor. Nhưng quan trọng hơn là: sự kinh ngạc của cô ta vì tiếng chuông chứng tỏ mình đã suy luận đúng. Đối với dân Denduron, những vật tầm thường mình lôi ra từ ba-lô sẽ là phép lạ cực kỳ nhiệm màu. Làm cho vài tên khiếp vía lăn đùng ra. Dù chỉ trong thời gian ngắn ngủi, cũng mang lại sự khác biệt đầy giá trị giữ thành công và thất bại. Hoặc giữa cái chết và sự sống.
Khi lấy đồng hồ ra khỏi ba-lô, mình còn tìm thấy một sự ngạc nhiên dành cho mình. Mark, cậu là người bạn tuyệt vời nhất. Cậu biết mình mê kẹo sữa quá trời mà. Món quà cậu gửi cho mình là bữa tiệc ngon lành nhất trong lịch sử. Cám ơn, bạn hiền. Mình cho Loor một thanh. Hào phóng không? Vì ở đây làm sao tìm ra được của quí hiếm đó chứ. Cô ta cắn một miếng, vừa nhai vừa nghe ngóng, rồi… phun toẹt ra! Thật phí của! Mình đoán lãnh địa của cô ta cũng không có cả kẹo. Cô ta càu nhàu:
-Lần sau anh tính đầu độc tôi bằng thực phẩm nhớ báo trước.
-Nói gì vậy? Ở chỗ tôi đây là món ngon lành số một đó.
-Vậy anh đến từ một nơi rất kỳ cục.
Loor lấy nước súc miệng, cứ như mình vừa cho cô ấy ăn một miếng bắp cải thúi vậy.
Đây là lần đầu tiên mình và Loor không căng với nhau. Hai đứa như những người bình thường làm những việc bình thường. Không đến nỗi quá thân thiết, nhưng làm mình đủ can đảm hỏi cô ta:
-Mẹ cô còn cho cô biết những gì nữa về một Lữ khách?
Mình nghĩ càng biết nhiều, mình càng có thêm cơ hội sống sót để ra khỏi nơi này. Nhưng Loor không trả lời, bận rộn trải mấy tấm da thú lên mặt hầm. Biết cô ta nghe rõ, mình không hỏi lại. Một lúc sau Loor mới lên tiếng:
-Những gì tôi nói, chắc anh không thích đâu.
-Nếu là chuyện quan trọng, thích hay không tôi vẫn phải nghe.
Loor ngồi trên tấm da thú, lưng dựa vách đá. Dù phát biểu hung hồn như vậy, mình không chắc là sẽ muốn nghe câu trả lời. Nhưng Loor đã bắt đầu nói:
-Tôi cũng mới chỉ được biết mình là Lữ khách gần đây thôi. Cũng không hiểu biết gì nhiều hơn anh đâu. Nhưng có những điều quan trọng mẹ đã nói với tôi. Có lẽ còn quan trọng hơn việc cứu ông Press và giúp người Milago.
Cô ta làm mình chú ý hơn. Có vẻ lớn chuyện rồi.
-Tôi hiểu, anh muốn biết vì sao chúng ta lại là Lữ khách. Nhưng thật tình là tôi không hề biết. Mẹ tôi bảo là sẽ có ngày tôi hiểu ra, nhưng ngay lúc này thì điều đó không quan trọng. Tuy nhiên, những gì bà nói với tôi là chúng ta phải hiểu nhiệm vụ của mình.
-Nhiệm vụ? Ý cô là chúng ta còn những nhiệm vụ khác hơn là việc giúp người Milago?
-Phải. Mẹ tôi đã cắt nghĩa, có rất nhiều lãnh địa và tất cả đều sắp tới một thời điểm quan trọng. Bà còn gọi là “bước ngoặc”. Đó là thời điểm đưa lãnh địa đến kết quả hoà bình thịnh vượng, hoặc đẩy con người sống trên lãnh địa đó vào sự hỗn loạn diệt vong.
-Vậy cuộc chiến giữa Milago và Bedoowan là “bước ngoặt” của toàn lãnh địa Denduron?
-Mẹ tôi nói vậy. Nếu người Milago giành được tự do, Denduron sẽ tồn tại trong hoà bình. Nhưng nếu Bedoowan chiến thắng thì đó sẽ là một thảm hoạ dẫn đến sự huỷ diệt toàn lãnh địa.
Đúng là chuyện lớn thật! Cuộc chiến đấu này không chỉ là giúp những người thợ mỏ khốn khổ, mà là cứu toàn thể lãnh địa này.
-Sao bà Osa biết được những chuyện này? Nghe cứ như lời tiên tri vậy.
Loor nhún vai:
-Đó là một yếu tố để trở thành một Lữ khách. Một ngày nào đó chúng ta sẽ lĩnh hội được điều này. Còn lúc này chúng ta chỉ cần biết rằng, nhiệm vụ của Lữ khách là tới những lãnh địa sắp tới “bước ngoặc”, làm hết khả năng để hướng những sự kiện vào con đường đúng. Đó là lý do mẹ tôi, ông Press có mặt tại đây. Đó cũng là lý do tôi và anh đang có mặt nơi này.
Mình chỉ hiểu lờ mờ. Tất cả những chuyện này hơi rộng lớn quá đối với mình. Có lẽ rốt cuộc mình cũng hiểu ra, nhưng chỉ là ở mặt ngoài của sự việc.
-Vậy Saint Dane là ai?
-Saint Dane cũng là một lữ khách như chúng ta. Nhưng hắn đang làm những việc để chống lại chúng ta. Hắn tạo ra những xáo trộn để đưa các lãnh địa vào đường tai hoạ theo ý hắn.
-Nhưng … vì sao?
-Khi tìm được câu trả lời, chúng ta sẽ biết tất cả những gì cần biết. Ngay lúc này, tôi cũng không có câu trả lời. Thôi, ngủ đi.
Phải rồi! Ngủ. Cô ta vừa mới hé lộ cho mình biết bọn mình đang nắm tương lai của Denduron trong tay, chưa kể đến những lãnh địa khác sắp phải đương đầu với những khó khăn, mà lại nghĩ mình có thể gà gật mơ màng vào xứ thần tiên sao? Và để tăng thêm phần hấp dẫn: luôn có một tên sát nhân cố tình ngăn chặn bọn mình. Mình đã thấy tài năng của thằng cha Saint Dane trong vai trò này. Hãy mơ những giấc mơ êm đềm đi, Bobby! Đầu mình muốn vỡ tung ra, mình phải cố trấn tĩnh và tự nhủ: những chuyện này chẳng dính dáng gì tới mình. Mình chỉ có một và chỉ một mục đích mà thôi: giải thoát cậu Press. Sau đó, vọt khỏi đây ngay. Nếu cậu Press muốn ở lai, cố gắng thay dổi vận mệnh lịch sử, thì đó là sự lựa chọn của cậu. Còn mình ư, mình sẽ bay qua ống dẫn để về nhà.
Ý nghĩ này an ủi mình phần nào, và mình ráng ngủ một chút. Nhưng trước khi đặt đầu xuống gối, mình hỏi:
-Chỉ có vậy thôi sao? Còn gì khác cô chưa nói với tôi không?
Mắt nhắm nghiền, lơ mơ sắp ngủ, Loor ráng trả lời:
-Đó là tất cả những gì tôi biết. Chưa đủ sao, Pendragon?
Đúng, quá đủ, nhưng mình vẫn muốn tìm hiểu thêm. Nhưng sự thật là mình cũng đã quá mệt, thậm chí không nhớ đã ngả đầu xuống đống da thú khi nào. Sướng thật. Chỉ trừ một điều là mình cảm thấy như vừa chợp mắt, chuông báo thức đã reo. Hai tiếng mà cứ như mới hai giây. Mất một lúc, tỉnh giấc mà mình không biết đang ở đâu. Dường như mình đang nằm trên giường tại nhà và ý nghĩ đầu tiên là… dắt con Marley đi dạo.Nhưng rồi ngay sau đó, hoàn cảnh thực tế… lù lù trở lại. Mình ngồi dậy cho đầu óc tỉnh táo.
Loor không còn đó nữa. Mình vươn vai, ngáp một cái rõ dài, rồi kiểm tra đồ đạt trong ba-lô và thấy… móc khoá không đóng. Có kẻ đã lục lọi ba-lô của mình! Mở vội ra, nhìn vào trong, mình thấy hình như không mất gì, nhưng rõ ràng là đã bị xáo trộn. Mình đi tiểu. Gài lại ba-lô, rồi ra ngoài tìm Loor.
Bước vào hầm mỏ chính – bây giờ đã quen thuộc với mình – mình thấy công việc đang tiến triển bình thường. Những con người khốn khổ này không bao giờ ngưng tay. Mình hơi thắc mắc, không biết chuyện gì đã xảy ra trong buổi lễ Chuyển giao vừa qua. Họ có khai thác đủ minh thạch ngang bằng trọng lượng người đàn bà mà Mallos đã chọn không? Hy vọng là đủ. Nhưng mình đâu thể làm gì được vấn đề này. Điều cần thiết bây giờ là gặp Loor để lên kế hoạch cứu cậu Press.
Nhìn quanh hầm mỏ, một điều chợt làm mình chú ý. Bước ra từ đường hầm bên trái là Rellin. Vừa rảo bước, ông vùa trò chuyện với một thợ mõ. Kỳ lạ là cả hai trông rất vui. Rellin vỗ lưng người kia như hai người đang khoái chí đùa giỡn, rồi anh ta chạy đi. Lúc này đây, chuyện gì có thể làm cho hai người đó vui vẻ thế được nhỉ? Lần cuối cùng nói chuyện với Rellin, chính ông ta đã lên án tử cái chếtdần mòn của toàn thể bộ tộc, bằng cách từ chối nổi dậy chống lại Kagan. Sao thình lình ông ta lại vui vẻ như vậy được?
Đợi ông ta đi khỏi, mình tới nhìn vào đường hầm hai người vừa bước ra.
Vào trong, mình phát hiện đó là một đường hầm bỏ hoang khác. Đường ray đẩy xe đã hư hỏng, lồi lõm. Chắc đây là một trong những đường hầm đầu tiên đào từ hầm chính. Mình tự hỏi: Bao lâu rồi? Nhiều năm? Nhiều chục năm? Hay là nhiều thế kỷ? Mình cũng thắc mắc vì sao Rellin và anh chàng thợ mỏ kia lại xuống đây? Đi thêm mấy bước, mình đã có lời giải đáp. Giống như nhiều đường hầm khác, tại đây cũng có một căn phòng đào sâu vào vách đá. Nhưng không giống căn phòng mình vừa mới ngủ, phòng này có một cửa bằng gỗ. Mình vội nhìn quanh xem có ai theo dõi không, rồi mở cửa bước vào trong.
Phòng này rộng gấp đôi và chất đầy dụng cụ. Lúc đầu mình tưởng đây là nơi họ cất dụng cụ đào mỏ, nhưng nhìn gần mình mới thấy sự thật. Đây không phải là dụng cụ để đào, mà là một kho vũ khí. Hàng trăm cây giáo giống như mấy cây giáo cậu Press đã buộc bên hông xe trượt trên đỉnh núi. Mình kinh ngạc nhìn những đầu giáo nhọn bằng sắt sáng ngời. Người Milago chỉ được phép sử dụng dụng cụ sắt trong hầm mỏ, nhưng chắc chắn họ không được phép làm vũ khí bằng sắt.
Một bên phòng chất đầy giáo, bên dưới là hàng chồng mũi tên chất đống. Có đến hàng ngàn mũi tên. Phía bên kia là những cây cung. Tất cả chừng trăm chiếc. Căn phòng như một công binh xưởng. Rồi mình chú ý đến mấy thứ không biết là gì. Nằm dọc bức tường trong cùng là những cái giỏ lớn. Mình nhận ra đây là những giỏ để kéo minh thạch lên mặt đất. Nhưng những cái giỏ này chất đầy một thứ không phải là minh thạch. Mình bước tới, cầm lên xem thử. Đó là một khúc cây nhỏ, rắn chắc, dài chừng mười lăm phân. Một đầu cây nối với một sợi dây da mảnh dài khoảng bốn mươi lăm phân. Đầu kia của sợi dây là một túi da nhỏ, kích cỡ chừng nửa bàn tay. Nhìn dụng cụ thô sơ này, mình cố đoán công dụng của nó là gì. Rồi mình chợt hiểu. Đây là một cái ná. Cái ná cổ lỗ. Ở đây không có cao su, nên không thể kéo dây ná mà bắn. Với dụng cụ này, người ta có thể cầm khúc cây để quăng viên đá đi xa. Phải có đến vài trăm “em” như vậy trong giỏ.
Cầm cây ná trong tay, mình thấy buồn quá. Rellin có lý. Người Milago không thể chống lại các hiệp sĩ của Kagan. Những cái ná này thật thảm hại. Tất nhiên chúng ta đều biết câu chuyện chàng David giết gã khổng lồ Goliath (Hai nhân vật trong truyền thuyết của người Do Thái, sinh năm 1030 trước CN, đã dùng ná bắn đá vào đầu gã khổng lồ Golieth, giết chết hắn rồi dùng gươm cắt đầu hắn. Sau này David trở thành vua nước Do thái. (Nxb), nhưng đó chỉ là một câu chuyện kể. Làm sao những người Milago có thể đương đầu với những hiệp sĩ sát thủ chuyên nghiệp mặc áo giáp bằng thứ đồ chơi trẻ con này? Cung tên, giáo mác còn khả di. Nhưng người Milago có biết cách sử dụng không? Mình chợt nhận ra những lo lắng của Rellin là rất thực tế. Nếu họ cố thử chiến đấu chống Bedoowan, họ sẽ bị tàn sát.
Vừa định bỏ lại cây ná vào giỏ thì bỗng có người giật nó khỏi tay mình. Quay lại, mình kinh ngạc thấy Figgis. Gã vừa nhảy lùi vừa đong đưa cây ná trên đầu. Hắn líu lo nói:
-Đổi ý rồi, phải không? Sẵn sang mua bán rồi chứ?
-Tôi không muốn mua gì hết.
Gã mè nheo với nụ cười không răng toang hoác:
-Không? Tớ có nhiều thứ cậu cần đấy. Thấy cái này thế nào?
Rút từ trong cái túi đeo ngang lưng ra, hắn giơ một vật lên trước mặt mình. Đó là con dao găm của quân đội Thụy Sĩ. Mình chộp vội lấy và la lên:
-Của tôi. Anh đã lục ba-lô của tôi. Còn thứ gì khác anh đã lấy không hả?
Vụ án chiếc ba-lô bị mở toang thế là đã sáng tỏ. Figgis không có ý định đoạt lại con dao, hắn chỉ cười khùng khục, tinh quái nói:
-Tớ biết thật sự cậu cần gì. Tớ biết, biết rất rõ.
Mình sốt ruột, gắt:
-Tôi cần gì?
-Cần tak. Chỉ có tớ, duy nhất mình tớ là có thể tìm tak cho cậu.
Tak. Lại là tak. Mình hỏi:
-Nhưng tak là gì?
Hắn lại cười lớn, thọc tay vào cái túi đeo bên hông rồi nói với giọng đầy tôn kính:
-Tak là cứu cánh. Tak là niềm hy vọng.
Dù tak là gì, nhưng chắc chắn không phải là một vật gì quá to lớn khi có thể nằm gọn lỏn trong cái túi của hắn. Figgis vừa định rút nó ra thì… Rellin bước vào quát lớn:
-Figgis!
Figgis vội rút… bàn tay không ra khỏi túi. Trông hắn như kẻ đang phạm tội lỗi khủng khiếp. Relin nghiêm khắc nói:
-Lão già, đáng lẽ mi không nên đưa cậu ta vào đây.
Figgis khúm núm chạy ra khỏi phòng như một con chó bị khiển trách. Chẳng biết tak là thứ gì, nhưng rõ ràng hắn không muốn Rellin biết là hắn định bán cho mình. Rellin uể oải nói:
-Rất tiếc là cậu đã thấy phòng này. Tôi không muốn cậu tưởng chúng tôi vẫn còn nuôi hy vọng chiến đấu với Bedoowan. Những vũ khí này sắp được đem huỷ hết.
Có điều gì đó không đúng. Rellin không muốn cho mình biết toàn bộ sự thật. Vì vậy mình phải thận trọng khi nói chuyện với ông ta, nên tốt hơn là không nhắc đến món hàng có tên là tak mà Figgis đang cố gạ mình mua. Mình chỉ bảo:
-Tôi nghĩ ông sẽ làm những gì phải làm.
Mình không thấy thích nơi này, nhất là từ khi có gì đó diễn ra mà mình không được rõ. Tốt nhất là đi khỏi đây. Lách qua Rellin, mình tiến ra cửa. Ông ta không nói với mình thêm lời nữa.
Ra khỏi đó, ý nghĩ của mình trở lại ngay với vấn đề trước mắt. Cậu Press. Mình chạy về phòng, nơi có đồ của mình tại đó. Vừa bước vào, mình thấy Loor và Alder đang lục tung đồ đạc của mình. Họ đổ đầy trên mặt đất. Ở đây không còn gì là riêng tư nữa sao? Mình kêu lên:
-Ê!
Alder vội nhảy lùi. Loor vẫn tiếp tục bới lục, tỉnh bơ nói:
-Tôi đang tìm vũ khí anh lấy về. Chẳng thấy gì hết.
Cô ta vừa nói vừa lắc một cái bộ đàm màu vàng mà hai bạn gửi cho mình. Mình giằng lấy, bảo:
-Tôi không có vũ khí. Thậm chí tôi chưa hề biết sử dụng vũ khí.
Loor nói như vỗ vào mặt mình:
-Thế thì đây toàn là những thứ vô dụng!
-Cô muốn nghĩ sao thì nghĩ.
Mình đưa lại cho cô ta cái bộ đàm, rồi lấy cái thứ hai, bước tới cuối phòng, bấm nút, đưa bộ đàm lên miêng, nói: “Hù!”
Cả Loor và Alder đều kinh ngạc nhảy dựng lên. Loor quăng cái bộ đàm đi như bị phỏng. Alder chộp lấy, rồi cũng vội ném đi. Ôi! Tuyệt chưa? Chính xác là những phản ứng mình mong đợi.
Hai mắt Alder thao láo:
-Phép thuật này là gì vậy?
-Không phải phép thuật. Nên nhớ là lãnh địa của tôi tiến bộ hơn nơi này nhiều. Những thứ này rất bình thường tại đó. Không phải phép thuật, mà là khoa học.
Mình cầm cái máy nghe đĩa lên, bấm nút “Play”. Điệu nhạc rock nổi lên cùng tiếng ghi-ta dồn dập làm Loor và Alder khiếp đảm. Hai người bịt tai lại và chạy tuốt về cuối phòng như những con thỏ sợ hãi. Khiếp chưa! Không muốn kéo dài sự thảm thương của họ, mình tắt vội máy. Alder và Loor mở to đôi mắt hốt hoảng trừng trừng nhìn mình. Mình cười cười hỏi:
-Còn nghĩ chúng ta cần vũ khí nữa không?
Rồi mình tưởng có thể ngất đi được. Loor nhìn mình - tin nổi không? – cô ta mỉm cười, nói:
-Tôi thích… cái khoa học này.
-Tôi cũng vậy.
Alder nói theo. Phản ứng của họ cho mình niềm hy vọng là ý định của mình rất có thể thành công. Mánh khoé là phải sử dụng những vật này đúng cách, đúng thời điểm thật nhanh nhậy. Mình kiểm soát lại đồ đạt thấy hai bạn gửi cho mình đủ, chỉ thiếu cây đèn pin. Các bạn thật tuyệt vời. Tuy là mình có hơi ngạc nhiên khi thấy không thứ nào là đồ của mình. Mark, mình không có ý bảo cậu mua đồ mới hay gửi đồ của cậu cho mình. Nhưng nghĩ lại, mình thấy rất khó cho bạn vào nhà mình để lấy những thứ đó. Chắc chắn ông bà già mình sẽ hỏi và bạn khó mà trả lời cho êm chuyện được. Ngay khi có thể, mình sẽ trả tiền lại cho bạn. Ok?
Mình đưa Loor bộ máy đàm và hướng dẫn cô ta cách sử dụng . Lỡ như tụi mình phải tách nhau ra, đó sẽ là vấn đề mang tính quyết định. Sau đó mình cất hết những gì còn lại vào ba-lô. Rồi Alder đưa cho mình và Loor mỗi đứa một bộ đồ Bedoowan mặc trong lâu đài. Quần và áo dài tay. Quần có những cái túi, thắt miệng bằng dây. Áo có những cái nút giống như khuy bằng gỗ. bộ quần áo có màu lục và lam nhạt. Nhưng điều làm mình khoái nhất là nó rất mềm mại, giống như vải cô-tông, mặc rất thoải mái. Giày da đi cũng thoải mái. nếu không biết rõ, mình sẽ tưởng người Bedoowan đi sắm đồ ở hiệu Gap cơ đấy. Nhưng điều này cũng làm cho mình chợt nghĩ, suốt đời người Milago toàn phải choàng lên người những tấm da thú cứng ngắc, hôi hám; trong khi tụi Bedoowan được mặc những bộ quần áo mềm mại, thoải mái như những bộ pajama.
Loor không muốn mặc bộ đồ này. Cô ấy muốn Alder lấy cho mình và cô ấy mấy bộ giáp hiệp sĩ. Nhưng Alder giải thíchlà hiệp sĩ không được mặc giáp trong lâu đài. Nếu mặc giáo, bọn mình sẽ bị chú ý ngay. Mặc bộ quần áo anh ta vừa đưa là cách tốt nhất để trà trộn. Dù không thích, Loor cũng đâu thể đôi co với lô-gic, vậy là hai đứa mau chóng mặc vào bộ quần áo của Bedoowan.
Alder còn một vật giá trị khác nữa - tấm bản đồ lâu đài. Dù chỉ được vẽ sơ sài trên một miếng da thuộc vàng ố, nhưng cũng là quá tốt. Tuy không đầy đủ, nhưng bản đồ có những khu vực chủ chốt mà bọn mình cần: nơi giam giữ cậu Press và trạm canh gác của hiệp sĩ. Tất cả dường như đã ổn, trừ một chi tiết nhỏ, nhưng lại là chi tiết quan trọng nhất. Mình hỏi:
-Thế này là ổn rồi. Nhưng… chúng ta vào trong bằng cách nào?
-Có một lối vào. Người Bedoowan không biết đường này, và rất ít người Milago biết. Anh tôi đã cho tôi biết một ngày trước khi anh chết.
Thêm một tin mới nữa. Alder có một người anh quá cố. Mình muốn biết chuyện ra sao, nhưng giờ không phải lúc tán gẫu. mình bảo:
-Chúng ta đi thôi.
Mình khoác ba-lô theo hai người ra khỏi căn phòng nhỏ. Thay vì rẽ vào hầm chính, để leo thang mặt đất, Alder dẫn mình và Loor tới một cái xe đẩy, bảo:
-Nhảy lên xe đi, dại gì đi bộ.
Ba đứa đang ở dưới lòng đất. Loor và mình leo vào xe và Alder bắt đầu đẩy. Chúng mình tiến xuống một đường hầm khác ra khỏi hầm chính. Những thợ mỏ hầu như không quan tâm khi bọn mình vượt qua họ. Những người khốn khổ ấy như những xác chết biết đi.
Alder mạnh ra phết, anh chàng đẩy Loor và mình đi khá thoải mái. Cũng may là đường hầm bằng phẳng, nên dù sao cũng không khó đi. Bọn mình đi một lúc lâu và tiến khá sâu xuống lòng hầm mỏ. Chốc sau, xung quanh tối thui, nhưng hình như không có khúc rẽ nào nên Alder cứ tiếp tục đẩy tới. Khi đường hầm sáng dần lên, mình nhìn thấy một đốm sáng xa xa phía trước. Mình chưa kịp hỏi đó cái gì, Alder đã lên tiếng:
-Đường hầm này dẫn ra biển. Không còn xa nữa đâu. Người ta không thể vào đây từ bên ngoài, vì cửa hầm là một dốc cao, thẳng đứng. Đường này đưa không khí vào trong mỏ.
A! Đúng vậy. Không khí trong lành. Chẳng không khí trong lành nào có thể tẩy hết được khí độc đang giết dần mòn những người thợ mỏ. Rồi mình chú ý đến một điều rất lạ. Trong tất cả những đường hầm, vách tường đều giống nhau, đều là đá lởm chởm được đục khoét bằng tay. Nhưng ở đây hoàn toàn khác hẳn. Dọc theo một bê vách hầm là những trụ đá tròn đường kính hơn cả thước, mình thấy giống như những cột to lớn của những phế tích cổ Hy Lạp. Alder nói:
-Thợ mỏ tình cờ phát hiện ra những cột này từ nhiều năm trước. Chúng là nền móng của lâu đài Bedoowan.
Oa! Vậy là bọn mình đang ở dưới lâu đài! Alder nói thêm:
-Người Bedoowan không hề biết người Milago đã đàođường hầm dưới lâu đài chúng. Nếu biết chúng đã đóng hầm này và giết một số thợ mỏ để trừng phạt rồi.
Chắc phải có tới hai mươi cây trụ và chúng cách nhau chừng mười mét. Mình thấy giữa hai cột trong số trụ đó có một đường hầm. Thật ra trông nó giống một cái hốc hơn, vì ngay trong đó là một cầu thang.Chắc cầu thang này đưa bọn mình lên lâu đài. Chà!
Khi mình và Loor leo ra khỏi xe, Alder bảo:
-Không ai biết vì sao lối vào bí mật này được tạo ra. Nò già hơn bất cứ người thợ mỏ nào đang còn sống hiện nay.
Mình đứng dưới chân cầu thang nhìn lên, rồi lại quay nhìn Loor và Alder. Đã đến giờ hành động. Mình nói:
-Phải đảm bảo chúng mình ăn ý với nhau. Kế hoạch của chúng ta là sẽ tới phòng giam cậu Press, càng lặng lẽ càng tốt. Nếu xảy ra đụng độ, chúng ta sẽ thua.
Vừa nói mình vừa nhìn thẳng vào mắt Loor. Cô ta tránh ánh mắt mình. Mình biết cô ta đồng ý, nhưng kế hoạch này hoàn toàn không hợp ý cô ta. Mình hỏi:
-Alder, anh biết lôi đưa chúng ta tới khu phòng giam chứ?
-Tôi nghĩ vậy.
-Nghĩ hay biết?
Mình muốn mọi thứ thật chắc chắn. Câu trả lời của Alder có phần dứt khoát hơn:
-Biết.
-Tốt.
Nghe mình nói vậy, Alder liền thêm vào:
-Nhưng khó tránh khỏi bị phát hiện khi đi trở ra.
Loor nói ngay:
-Đến lúc đó chúng ta phải đánh thôi.
-Ừ. Sao cũng được.
Mình đáp và quay đâu trèo lên cầu thang. Trời đất! Cô ta vẫn khư khư giữ ý định choảng nhau với Bedoowan. Lên tới nửa thang, mình mới nhận ra đáng lẽ không nên là người leo lên đầu tiên. Mình đang nghĩ gì vậy trời? Làm sao biết được chuyện gì đang chờ mình ở trên kia. Nhưng đã quá muộn, đâu thể đổi chỗ cho nhau khi đang lơ lửng trên không như thế này. Mình đành tiếp tục leo và lên tới một thềm đà tối o mom. Mái trần cũng bằng đá và thấp lè tè đến nỗi mình không thể đứng thẳng người được. Khi Loor và Alder lên tới nơi, mình hỏi:
-Giờ thì sao đây?
Alder rất thông thạo đường đi. Anh bước mấy bước dọc bờ đá, rồi đưa hai tay lên. Mình thấy phía trên anh ta là một cái cửa gỗ. Một cửa sập. Alder đẩy cánh cửa lên một cách dễ dàng, rồi đánh đu, chui qua. Loor cũng nhẹ nhàng vượt qua. Nhưng tới phiên mình lại chẳng được dễ dàng như vậy. Không chỉ vì mình thấp hơn họ, mà còn vì mình có cái ba-lô trên lưng. Mình ngửa mặt lên, gọi:
-Hê! Làm ơn giúp một tay đi!
Cả Alder và Loor đều với tay xuống, kéo mình lên nhẹ tênh như kéo một đứa trẻ con. Lúc này tụi mình lại ở trong một gian phòng tối khác. Alder thì thầm:
-Lối này dẫn tới kho nhà bếp.
Thái độ anh ta làm mình đoán sắp đi qua nơi có tụi Bedoowan.
Alder đưa tụi mình qua một phòng nhỏ, rồi anh ta rờ rẫm lên một bức tường. Mình không biết anh ta tìm kiếm gì, cho đến khi tay anh ta ngừng lại tại một khe nhỏ khắc trên mặt đá. Alder móc ngón tay vào khe, kéo nhẹ. Bức tường bỗng mở ra như một cánh cửa. Cả ba vội bước qua, rồi Alder vội đóng cánh cửa bí mật lại. Mình quay nhìn: vách tường không còn chút dấu vết nào của cánh cửa. Mặt tường phẳng lì như làm bằng thạch cao. Thật kỳ lạ! Cho đến lúc đó, tất cả những gì mình thấy tại Denduron đều thô nhám, lởm chởm. Bức tường này lại có vẻ rất… hiện đại! Mình nhìn quanh. Thì ra đây là một buồng kho. Những túi giỏ căng phồng đồ ăn. Nồi xoong bằng đất chất chồng. Một lô mùi vị mới xộc vào mũi mình. Vì mới mấy tiếng đồng hồ trước mình toàn phải ngửi mùi nồng nặc trong mỏ. Nhưng lúc này là mùi đồ ăn đang nấu nướng thơm lừng. Chẳng hiểu đó là món gì làm nước bọt ứa đầy trong miệng mình. Sao mà giống mùi ở nhà mình trong ngày lễ Tạ Ơn đến thế. Bụng mình sôi ùng ục. Và mình vui mừng nói rằng: Loor cũng vậy.
Trên bức tường cuối phòng cũng có một cửa gỗ. Alder lặng lẽ tiến lại, mở cửa nhẹ nhàng. Ngay lập tức, tiếng nồi xoong chạm nhau, tiếng lèo xèo xào nấu tràn ngập trong phòng như nhà bếp của một quán ăn đông khách. Bụng mình càng sôi bạo. Mình muốn vọt ngay ra khỏi đây, vì tiếng động và mùi thơm này như tra tấn mình vậy. Alder ngoắc tay bảo hai đứa lại gần. Mình và Loor đến bên anh ta, liếc vào trong. Những gì trong thấy làm mình hoàn toàn bị sốc.
Đây là một nhà bếp đang tất bật làm việc. Nhiều người vội vàng qua lại với những khay gà tây quay mập ú, vàng ươm. Bên một bàn gỗ lớn, những người khác đang lặt rau, gọt khoai tây, trong khi các đầu bếp đang ngoáy những nồi súp sôi sung sục trên bếp lò, nghi ngút bốc mùi thơm. Nhưng đó không phải là những gì làm mình kinh ngạc là: nhà bếp này quá xịn. Các bạn tin không, nếu so sánh với tiêu chuẩn của chúng ta thì nhà bếp này trông vẫn còn hơi cổ lỗ, những không thể so sánh được với những gì mình đã thấy từ khi tới Denduron. Nồi xoong được gò đập bằng thép đen; bếp lò bằng đá. Đầu bếp lật trở gà lôi, thịt nướng bằng những thanh gỗ dài. Dụng cụ nhà bếp không hoàn toàn giống như hàng trong siêu thị, chúng rất thô sơ đơn giản, nhưng đi trước những người Milago đang có cả mấy trăm năm.
|