Bánh Mì Thơm Cà Phê Đắng
|
|
BÁNH MÌ THƠM CÀ PHÊ ĐẮNG Tác giả: Ngô Thị Giáng Uyên Chương 5
Ads Paris ẩm thực Có một câu nói vui truyền miệng của dân châu u: thế giới là thiên đường nếu tất cả cảnh sát là người Anh, đầu bếp là người Pháp, thợ máy là người Đức, người tình là người Ý và tất cả mọi thứ được sắp đặt bởi người Thụy Sĩ.
Ngược lại, thế giới là địa ngục khi tất cả cảnh sát là người Đức, thợ máy là người Pháp, người tình là người Thụy Sĩ, đầu bếp là người Anh và tất cả mọi thứ được sắp đặt bởi người Ý.
Đang sống và học tập ở Anh, tuy không đến nỗi phải than vãn về những món ăn của các đầu bếp Ănglê nhưng vốn có “tâm hồn ăn uống” và vốn mê đồ ăn Pháp, nhân nghỉ lễ Phục sinh tôi làm một chuyến qua Paris ngay để ăn uống thỏa chí một tuần.
Văn hóa ẩm thực VN ảnh hưởng rất nhiều từ người Pháp, dễ thấy nhất qua thói quen uống cà phê buổi sáng (trong những tấm postcard Paris bán cho du khách trên đường phố, bên cạnh những tấm ảnh chụp tháp Eiffel, Khải Hoàn môn, sông Seine… có những tấm ảnh chỉ chụp những tách cà phê bốc khói nghi ngút).
Dân Paris trước khi đi làm thường uống cafe express - cà phê đen có hoặc không có đường trong tách nhỏ, cafe au lait - cà phê pha thật nhiều sữa nóng uống trong những tách lớn, có khi to bằng chén ăn cơm, và cafe crème - thức uống đặc trưng Pháp với cà phê pha kem sủi bọt nâu thơm lừng.
Trong khi người Anh ăn rất nhiều vào buổi sáng với thịt heo muối, trứng ốpla, xúc xích, bánh sandwich nướng..., người Pháp ăn sáng nhẹ, thường là bánh mì baguette, giống y bánh mì VN nhưng nhỏ và dài, kẹp xà lách, thịt jambon và bơ. Khác với những gì ta thường nghĩ, dân Paris không ăn bánh sừng trâu (croissant) mỗi sáng mà chỉ dành cho những ngày cuối tuần.
Buổi sáng trên hai đường phố Rue de Seine và Rue de Guci ở khu phố Latinh phía nam Paris vốn nổi tiếng với những hàng ăn rất ngon, hình ảnh đầu tiên đập vào mắt là hàng bánh mì lề đường mà tôi chưa thấy ở đâu ngoài VN. Người bán thoăn thoắt xẻ bánh mì, kẹp thịt, nhồi rau, nhưng thay vì có chút nước tương hoặc muối tiêu thì bánh mì thịt kiểu Pháp có sốt mayonaise béo ngậy.
Khi phát hiện xe gà quay với hàng dãy gà béo núc, quay đều, tươm mỡ vàng ươm, tỏa mùi thơm phưng phức; tôi chọn mua bánh mì kẹp gà quay rồi cùng Daniel đi bộ đến vườn Luxembourg gần đó làm một buổi picnic nho nhỏ.
Những miếng bánh giòn tan, đậm đà làm tôi nhớ quá VN.
Hôm sau tôi gọi điện cho Benjamin. Khi Ben còn vác balô du lịch Sài Gòn hồi năm ngoái, anh được tôi dẫn đi ăn phở tái nạm gầu gân ở quận 1. Ben làm một mạch hết tô phở to đùng rồi uống một hơi hết ly sinh tố xoài, khen hết lời “Ngon quá! Ngon quá!”. Để đáp lễ, Ben hẹn buổi tối sẽ dẫn chúng tôi tới một quán ăn Pháp chính gốc mà theo lời anh “khách du lịch không biết được đâu nhe”.
Quán ăn Ben dẫn chúng tôi đến mãi 12g khuya mới có bàn trống. Đó là nhà hàng nằm trên một góc phố nhỏ, chật hẹp với những bộ bàn ghế gỗ trải khăn nhựa carô (lại một điểm giống VN nữa). Thực đơn viết bằng phấn trắng trên bảng đen cũ kỹ, treo trên những bức tường ám khói và không có bản tiếng Anh như khu khách du lịch dọc sông Seine.
Chúng tôi chọn món khoai tây chiên sơ trên trải những lát jambon cru- thịt heo không nấu chín mà xông khói đỏ au thơm lừng, béo ngậy và thơm mùi phó mát Pháp lẫn nấm tươi. Sau bữa ăn no căng bụng, tôi vẫn chọn món tráng miệng bánh gatô kiểu xứ Basque vàng ruộm, thơm mùi hạnh nhân. Khi bánh xèo VN được biết đến nhiều trên thế giới, rất nhiều người cho là bánh xèo bắt nguồn từ bánh crêpe. Bánh crêpe Pháp cũng làm bằng bột pha nước, tráng mỏng trên khuôn cho tới khi ngả vàng, kẹp nhân ngọt (đường, bơ, kem, bơ đậu phộng) hoặc nhân mặn (trứng, jambon, hải sản). Bánh crêpe nhân bơ mặn ở Pháp thành thật mà nói không thể ngon bằng bánh xèo nhân tôm kẹp rau sống chấm nước mắm chua ngọt mẹ tôi làm.
Paris còn nổi tiếng về những món ăn từ hải sản tươi từ Brittany và Provence chở về. Chợ hải sản Paris là một bữa tiệc về hình ảnh, màu sắc, mùi vị của đủ chủng loại cá tươi, tôm hùm béo núc, cua lớn bằng hai bàn tay, sò điệp đỏ au, hàu xù xì gai xám, mực nang trắng phau... Chúng tôi đến đây đúng tuần lễ ẩm thực sò, những quán ăn Paris đua nhau đưa sò làm món ăn trong ngày (plat du jour). Trong khi hải sản ở Anh mắc như vàng theo đúng nghĩa đen thì một thố sò đầy ngồn ngộn trong một quán ăn gần nhà thờ Đức Bà giá chỉ 8 euro (khoảng 160.000 đồng), rất rẻ so với vật giá châu u. Những con sò Địa Trung Hải tươi rói, đầy ắp thịt, được hấp rượu vang trắng, hành tây và rau mùi xắt nhuyễn, thơm lừng, nhấm nháp với rượu Bordeaux trắng thật đúng điệu.
Không chỉ ẩm thực VN chịu ảnh hưởng của Pháp mà ngược lại ẩm thực Pháp cũng du nhập rất nhiều món ăn Việt. Sách du lịch Lonely planet viết về VN nhiều nhất trong phần viết về ẩm thực nước ngoài ở Paris. Người Pháp đưa món chả giò và phở bò vào thực đơn nhiều nhà hàng truyền thống Pháp với cái tên le nem và le pho, cũng như người Anh lấy càri n Độ làm một trong những món truyền thống Anh vậy.
Còn món bánh tráng cuốn tôm luộc, bún tươi và rau thơm ăn kèm nước chấm tương tự những quán lề đường gần hồ Con Rùa trước đây cũng nằm trong những quán ăn sang trọng Paris với cái tên rất “kêu” rouleux du printemps (nem cuốn mùa xuân).
Đến lúc tạm biệt thủ đô Pháp, tôi đã thật sự tiếc nuối vì không đủ thời gian để nếm thử tất cả những món ăn Pháp nổi tiếng thế giới như foie gras, pâté du tête (món patê rất giống giò thủ VN), phó mát camembert (rất nặng mùi nhưng khi đã ăn được rồi rất dễ ghiền như người Việt mê ăn sầu riêng vậy), súp hành mà một phóng viên người Mỹ từng so với phở VN, và tất nhiên, rượu vang Pháp đủ mùi vị chủng loại từng làm say đắm không biết bao nhiêu người.
Đến Paris với hành lý nhẹ hẫng, tôi về lại Anh với một vali nặng trĩu những rượu vang, phó mát, bơ, jambon, xúc xích, hải sản đóng hộp, dầu ôliu nguyên chất, viên súp... làm quà cho bạn và cho mình. Và trong khi gà gật ngủ chờ chuyến bay, tôi mơ thấy hai giáo sư ở trường đổi đề tài hai bài luận sắp đến hạn tôi phải nộp: không phải về nghiên cứu thị trường và quản lý nhân sự nữa mà về ẩm thực Paris! 6. Đi uống cà phê - Ngô Thị Giáng Uyên Những ngày học cấp hai, tôi thường rất khoái được mẹ chở đi chợ cách nhà bốn cây số để hí hửng cầm tờ tiền mới được cho, chạy một mạch tới quầy nước đối diện hàng vải, gọi một ly cà phê sữa mịn màng. Rồi tôi thích thú dùng muỗng khuấy đá bào (thường chiếm tỉ lệ áp đảo trong ly) cho cà phê trộn sữa Ông Thọ sủi bọt lên, nhấm nháp thứ thức uống vừa đắng, vừa ngọt, vừa béo ngậy thơm lừng. Ai thấy cũng bảo mẹ tôi "Sao nó còn nhỏ mà cho nó uống cà phê dữ vậy?", nhưng mẹ tôi cười "Kệ, nó thích cứ để nó uống".
Có lẽ cũng vì những ngày "nó thích cứ để nó uống" đó mà bây giờ đi đâu tôi cũng lân la muốn biết cà phê xứ đó ra sao, có khi sợ mất ngủ không dám uống cà phê cũng vào quán gọi món khác, nhìn không khí quán và người qua lại.
Khi còn đi học ở Anh, nhà tôi ở có một anh bạn người Ailen tên Paddy. Anh chàng này khá luộm thuộm và hay làm hai đứa con gái trong nhà là Janette và tôi cằn nhằn, nhưng thỉnh thoảng anh lại chịu khó làm cà phê kiểu Ailen (Irish cfee) cho cả nhà uống nên chúng tôi ít khi giận anh được lâu, nhất là từ khi biết được Irish cfee là món cà phê rất mắc tiền mà chỉ những quán tương đối sang mới có.
Tờ Telegraph gọi đây là "thức uống mịn như nhung và dễ chịu, làm ta hồi phục cả sức khỏe lẫn tinh thần". Làm Irish cfee rất công phu, phải dùng nước nóng rửa ly thủy tinh có chân, lau khô, rót rượu whiskey vào, phải là những loại whiskey "chân chính" của Ailen như Bushmills hay Tyrconnell, thêm một muỗng đường nâu, khuấy đều cho tan đường, lấy diêm châm lửa đốt rượu vài giây để giảm độ cồn trong rượu và cân bằng hương vị giữa cồn và caffeine, đúng là "nghề chơi cũng lắm công phu". Rót đầy cà phê thật nóng và đậm đặc cách miệng ly đúng 1cm, chờ một lúc để hỗn hợp rượu và cà phê hòa lẫn vào nhau mới cho kem tươi (whipped cream) trắng muốt lên trên, không khuấy nữa vì bí quyết uống Irish cfee là nhấm nháp cà phê nóng xuyên qua lớp kem lạnh.
Tuyệt vời nhất là chui vào chăn vừa đọc báo vừa uống món cà phê làm ta chếnh choáng này vào những ngày mưa lạnh và sương mù giăng kín khắp nơi. Bởi vậy lâu lâu tìm hoài không thấy cái dĩa yêu thích nhất trong bếp và biết ngay "thủ phạm" Paddy ăn xong chưa rửa, Jannette và tôi cũng vui vẻ đi kiếm dĩa khác, không càu nhàu chút nào.
Mê tìm hiểu về cà phê nên sang Pháp, tôi như cá gặp nước.
Trong một cuốn sách tôi đọc, dù không phải dân tộc đầu tiên uống cà phê nhưng người Pháp đã có không ít cải tiến cho thứ nước uống đã được nâng lên tầm văn hóa này, như việc cho thêm đường vào cà phê vào đời vua Louis XIV.
Cuối thế kỷ 17, việc uống cà phê pha sữa trở nên phổ biến khi một bác sĩ người Pháp khuyên nên dùng café au lait (cà phê sữa) để cải thiện sức khỏe. Có đến Pháp mới thấy dân tình uống cà phê "dữ dội" đến mức nào. Sáng sớm, trong những quán cà phê hè phố hay những tiệm ăn Paris, dân văn phòng ai nấy cũng nâng tách cà phê, có thể là café au lait to tướng như chén ăn cơm, gồm một nửa cà phê một nửa sữa tươi nóng bốc khói nghi ngút, mờ cả mắt kiếng, café serré đậm đặc vì chỉ có một nửa lượng nước so với cà phê đen thông thường, hay café crème màu nâu có kem thơm và béo, uống một hơi rồi tất tả đứng dậy xách cặp chạy ra bến tàu điện ngầm.
Nhưng phần lớn thời gian, người Pháp thích ngồi rề rà trong quán nhâm nhi cà phê với mấy viên sôcôla đen hay kẹo truffle mềm, thư giãn và tán dóc, y như ở Việt Nam.
Những lần rề rà "nhập gia tùy tục" ở những quán cà phê Paris, tôi thích gọi un noisette, món cà phê giống espresso nhưng có pha ít kem hay sữa, đơn giản chỉ vì thích được nghe người phục vụ hỏi lại "Un noisette?" bằng thứ giọng mũi rất đáng yêu của người địa phương.
2g khuya một ngày Paris cuối tuần đẹp trời, sau một bữa ăn no nê, trong khi chúng tôi nhấm nháp tráng miệng, anh bạn người Pháp tên Ben gọi một tách cà phê. Thấy tôi tròn mắt nhìn, anh khoát tay: "Không có cà phê tôi... không ngủ được". Khi được hỏi sao lạ đời quá vậy, Ben cười "Ở đây ai cũng vậy hết mà!". Quán đông, mãi nửa tiếng sau, anh chàng phục vụ mới mang cà phê lại, bị cằn nhằn, anh này chỉ nhún vai, cái nhún vai đặc trưng kiểu Gôloa, với hai vai kéo lên tận mang tai và hai bàn tay ngửa ra, ý nói "Tôi không biết. Không phải tại tôi". (Nếu bạn muốn thấy cái nhún vai tương tự, hãy để ý Thiery Henry lúc bị trọng tài thổi phạt khi đá cho Arsenal). Nhưng tách cà phê sóng sánh thơm phức kia chắc ngon lắm nên Ben không nhăn nhó nữa, vả lại những anh chàng và cô nàng phục vụ người Paris vẫn nổi tiếng thế giới vì sự đỏng đảnh.
Tôi trải qua ba tháng uống trà thay cà phê ở xứ sương mù trước khi đến Ý, "kỳ phùng địch thủ" của Pháp trong việc chiếm trái tim dân ghiền cà phê. Quả thật, ở quốc gia xinh đẹp này việc uống cà phê được xem như một môn nghệ thuật. Espresso bạn uống ở khách sạn năm sao nơi khác có thể được người pha chế lừng danh pha từ máy espresso loại xịn, nhưng tôi mạo muội nói không thể sánh bằng espresso đậm đặc, đắng và thơm trong tách nhỏ xíu uống tại một trong những torrefazione bên một cây cầu gỗ với những ngôi nhà kiểu Phục hưng, do một cô nàng người địa phương tóc đen, mắt cũng đen láy, pha rồi bưng ra kèm một câu chúc uống ngon miệng bằng tiếng Ý du dương.
|
BÁNH MÌ THƠM CÀ PHÊ ĐẮNG Tác giả: Ngô Thị Giáng Uyên Chương 6
Ads (Đặc biệt nữa, nếu không muốn bị dân địa phương cười thầm, bạn đừng gọi espresso thành expresso, có nghĩa là tàu tốc hành) Nhưng tôi thấy cappuccino ngon và dễ uống hơn, có lẽ vì loại thức uống này có 1/3 espresso, 1/3 sữa tươi nóng để làm "mềm" bớt vị đắng của cà phê, và 1/3 bọt sữa mịn màng có rắc bột quế hay bột sôcôla xay li ti lên trên. Thức uống này đã chiếm lĩnh thực đơn từ những quán bar rất "hip" ở trung tâm Manhattan của New York ồn ào náo nhiệt đến những thị trấn xa xôi quê mùa ở Marốc, nơi người phục vụ cả đời chưa gặp khách du lịch nước ngoài.
Tôi đo lường sự lịch lãm nổi tiếng thế giới của người Ý bằng khả năng uống cappuccino rất nhanh nhưng khi uống xong bọt không trắng cả mép như những "người trần mắt thịt" khác. Du khách đến đây, đặc biệt là người Mỹ, dù có sang trọng cách mấy cũng hay bị cho là "nhà quê" vì quen gọi cappuccino sau bữa trưa hoặc bữa tối, mà theo dân địa phương là không đúng điệu chút nào. Người Ý chỉ uống món này trong bữa sáng hoặc dành thời gian riêng trong ngày để thưởng thức cappuccino như một món riêng biệt, và đặc biệt rất chăm chút bọt sữa, không bao giờ hớt bỏ hay khuấy bọt hòa lẫn vào cà phê vì làm như vậy mất hết "tinh túy" của thức uống này mất rồi.
Nếu quá nhiều caffeine trong cơ thể làm bạn "tim đập chân run" không còn sức lang thang qua những con phố cổ nhỏ xíu đáng yêu ở Ý, hãy chuyển sang dùng caffè hag, tức cà phê không có caffeine, hoặc granita di caffè con panna, tức cà phê nóng pha ít đường, đổ vào khay đá tủ lạnh qua đêm cho đông lại, khi uống mới bỏ vào máy xay nhuyễn với ít nước rồi rồi đổ đầy vào ly, phía trên cho thật nhiều kem tươi ngon béo. Những ngày hè nóng nực, du khách và dân địa phương ngồi lười biếng trong cái nắng tháng bảy đổ lửa của mặt trời phương Nam, vừa uống món cà phê có cái tên dài ngoằng này vừa nhìn thế giới chậm chạp trôi qua.
Nhưng "đi uống cà phê" ở Amsterdam lại là chuyện khác.
Trước khi sang Hà Lan, tôi vẫn biết Amsterdam là một trong những thành phố "quậy" nhất châu u nhưng không ngờ lại tự do đến mức này. Thủ đô nhỏ bé này có cả một hệ thống hơn 300 quán cà phê được cấp giấy phép cho khách mua và hút các loại thuốc phiện nhẹ, cần sa (marijuana, weed, grass, hash, cannabis). Việc hút những loại ma túy nhẹ đã được chính phủ hợp pháp hóa từ năm 1976, dĩ nhiên chỉ dành cho người trên 18 tuổi và với liều lượng dưới 5gr mỗi lần, đặc biệt những quán này không được bán bia rượu hay bất cứ thức uống có cồn nào khác. Lý lẽ đưa ra nghe chừng cũng khá hợp lý: nếu được phép hút những loại thuốc phiện nhẹ tại một nơi được quản lý đàng hoàng, sẽ không ai ra đường mua những loại ma túy gây nghiện nặng như heroin hay cocaine của những kẻ buôn bán bất hợp pháp, bằng chứng là tỉ lệ người nghiện ma túy ở Hà Lan luôn ít hơn gấp nhiều lần so với Mỹ và nhiều nước khác.
Nhưng trộm nghĩ những điều luật tương tự chỉ có thể được áp dụng ở những nơi ý thức thật sự cao mà thôi, nếu không rất dễ biến thành con dao hai lưỡi.
Những ngày ngắn ngủi ở Amsterdam, vì hết phòng chúng tôi phải ở ngay khu phố dành cho khách du lịch gần ga xe lửa trung tâm thành phố, nơi tập trung rất nhiều quán cà phê kiểu này. Mỗi lần đi ngang qua quán đúng lúc có người mở cửa bước ra, mùi cà phê đâu không thấy, chỉ thấy mùi cần sa thoang thoảng trong gió. (Mỗi lần tôi kể tới đây, đám bạn tôi lại rụt đầu, le lưỡi: "Ghê quá, ngửi mùi vậy có ghiền không?") Đối diện chỗ tôi ở là một quán cà phê tên Grasshopper cao đến mấy tầng, buổi tối đèn màu xanh châu chấu thắp sáng rực soi bóng xuống con kênh nước chảy loang loáng. Khi gặp cô bạn người Hà Lan lái xe tận Ultrech lên Amsterdam dẫn chúng tôi đi chơi, tôi đòi qua đó uống cà phê, cô cười: "Gan quá ha? Biết trong đó tụi nó làm gì không?" rồi đưa hai ngón tay trước miệng làm hiệu như đang "phê" thuốc. Khi được hỏi có hút không, cô bảo:
"Hồi trẻ ở đây ai chẳng thử, phần lớn thấy chẳng có gì hay ho nên thôi. Thông thường cái gì cấm đoán người ta mới thích, với lại còn tùy ý thức mỗi người mà", rất thản nhiên như được hỏi có thích chơi bóng bàn không vậy.
Bởi không có gì hay ho nên cô quyết định đưa chúng tôi đến một bruine kroeg (tiếng Hà Lan nghĩa là quán cà phê nâu, ban đầu tôi cứ tưởng đây mới là loại hình cà phê như đã đề cập ở trên, vì tên gọi dễ liên tưởng đến... nàng tiên nâu, nhưng không phải). Đó là một trưa hè nóng gần 38 độ C, dân tình khoái chí đổ hết ra đường phơi nắng tận hưởng cái nóng phương Bắc hiếm hoi. Những chiếc bàn kê bên ngoài, dọc theo bờ kênh của quán cà phê nâu chúng tôi đến đã chật ních, nhưng để thật sự hiểu được hết chữ "gezellig" mà người địa phương rất thích dùng, nghĩa đại loại là ấm áp, thân mật, vui vẻ..., bạn nên ngồi bên trong. Những bruine kroeg ở Amsterdam đã có tuổi đời vài trăm năm, với cách trang trí như trong những chiếc tàu thủy xưa, xà nhà nặng trĩu, ván lót sàn và bàn ghế gỗ sẫm màu, tên gọi của nó có lẽ bắt nguồn từ những bức tường ám khói thuốc lá nâu qua thời gian, dưới sàn có cả cát biển và trải thảm Ba Tư để lau cà phê hay bia bị tràn. Trong quán chúng tôi đến có cả một cây kèn khổng lồ kiểu xưa để trong góc. Cà phê Hà Lan không đặc sắc lắm nên chúng tôi, cũng như hầu hết những người vào bruine kroeg, mặc dù gọi là "đi uống cà phê" nhưng lại chọn bia, vốn là đặc sản ở đây.
Mãi đến khi tới Stockholm, tôi mới tự nghiệm ra một chân lý là quốc gia nào uống nhiều bia như Anh, Scotland, Đức, Bỉ, Hà Lan... sẽ không uống nhiều cà phê và ngược lại. Bởi vậy, không ngạc nhiên chút nào khi biết ở Thụy Điển, nơi bia bị đánh thuế rất nặng và đắt gấp bốn, năm lần những nước châu u khác, cà phê là một phần không thể tách rời cuộc sống. Ở Thụy Điển có một từ rất phổ biến, fika, nghĩa là đi uống cà phê, thoát khỏi những bận rộn thường ngày của cuộc sống, gặp gỡ bạn bè cũ, làm quen bạn mới, tán gẫu... Fika gần như một thứ tôn giáo ở đây, người ta có thể fika sáng, trưa, chiều, tối, trong những Kafekoppen ấm cúng. Sau một ngày quanh quẩn trong thành phố Bắc u này, qua khu phố cổ muôn màu Gamla Stan với những con đường đá cuội nhỏ bé chỉ dành cho khách bộ hành, chúng tôi nghỉ chân nơi Stortorget, quảng trường chính của thành phố có đặt nhiều ghế dài và những chậu hoa tươi thơm dìu dịu, có trong rất nhiều tấm ảnh của ban nhạc người Thụy Điển ABBA, nghe mùi hạt cà phê rang từ những quán cà phê dọc quảng trường ngào ngạt trong không gian.
Thụy Điển đắt đỏ nhất trong số những nước tôi từng đi, mỗi lần qua những nước EU khác đều có thể ăn uống thoải mái vì vật giá rẻ hơn ở Anh, nhưng qua Thụy Điển, ông bạn Alastair và tôi phải thực hiện chính sách "thắt lưng buộc bụng". Song mùi cà phê mới pha thơm lừng như níu bước chân làm tôi tự thưởng cho cả hai một chầu trong Sundbergs Konditori, tiệm cà phê và bánh ngọt xưa nhất Stockholm, có từ năm 1785, nhỏ xíu và ấm áp với những ấm samovar bằng đồng đựng đầy cà phê mới pha sóng sánh nóng bỏng, đặt trên bàn thấp cạnh quầy để khách tự rót lấy.
Bánh ngọt ở đây quả tuyệt vời. Tôi ăn một chiếc bánh không biết tên, mềm và dẻo như tan trong miệng, chính giữa có một lớp mứt mỏng vị thanh thanh dễ chịu, trên trải kem mềm và dày làm từ một thứ trái cây ngòn ngọt màu vàng mướt. Cà phê ở đây hơi giống caffè Americano, đựng trong những tách dày và nặng bốc khói nghi ngút, không đậm đặc nhưng đủ độ mịn và đắng để đi kèm với các loại bánh ngọt thơm phức cô phục vụ đang bê ra trên những khay gỗ từ lò nướng bên trong.
Bán đảo Scandinavia vào thu sớm hơn những nơi khác, lá vàng xào xạc rụng đầy những công viên và trời đã lạnh hơn nhiều. Mặc dù vậy, những quán cà phê Stockholm vẫn kê bàn ghế ra vỉa hè cho dân tình ngồi "fika", và vì trời lạnh nên quán nào cũng để sẵn... mền cho khách quấn nếu chọn ngồi ngoài. Những chiếc mền cũng là một phần trang trí của quán, được mua thành bộ có màu sắc hợp với bàn ghế và màu sơn tường, đặt cạnh ghế ngồi. Thật buồn cười khi thấy mọi người uống cà phê kiểu alfresco, nhưng không đeo kiếng đen trong cái nắng chói chang mà vừa ngồi quấn mình thu lu trong mền vừa nhấm nháp cà phê nóng hổi, thỉnh thoảng lại xuýt xoa co ro vì cơn gió buốt giá từ mặt hồ Malaren thổi tới.
Chỉ cách Thụy Điển vài tiếng đồng hồ bay nhưng Hy Lạp là một thế giới khác hẳn, với nắng vàng biển xanh và cái nóng Địa Trung Hải làm người ta uể oải, chỉ muốn... đi uống cà phê. (Quả vậy, dù trời nóng hay lạnh dân châu u cũng kiếm cớ uống thứ thức uống dễ ghiền này). Để phù hợp với khí hậu ở đây, đã có frappe, món cà phê đá đặc trưng Hy Lạp không kém bánh pita kẹp thịt nướng hay yaourt ăn với mật o ng. Trên khắp đất nước khi xưa đầy ắp những chuyện thần thoại này, ngày nay đâu đâu cũng thấy những quán cà phê (kafeneio) đầy khách uống frappe: Từ thủ đô Athens đông đúc ồn ào không kém Sài Gòn, nơi khi đi bộ trên vỉa hè chật hẹp bạn phải vừa trông chừng luồng xe cộ đi loạn xạ trên lòng đường sát bên và xe hơi đậu không theo trật tự, vừa tránh những bộ bàn ghế kê bên ngoài quán; đến những hòn đảo vắng vẻ với những tòa nhà sơn trắng mát mắt và gió biển mang theo vị muối mằn mặn.
Cách làm frappe khá đơn giản, chỉ cần Nescafe, nước lọc, đá, đường, cho vào đồ trộn cocktail xốc mạnh trong vòng nửa phút, rót vào ly để đá kèm uống hút là bạn đã có thứ thức uống dễ chịu đầy bọt li ti thơm và mát lạnh làm dịu đi cái nóng mùa hè Địa Trung Hải. Nói về khoản ngồi dầm dề ở quán cà phê, người Pháp hay người Việt ắt hẳn thua xa người ở đây. Bất cứ lúc nào trong ngày, bạn cũng có thể thấy người địa phương ngồi quán, từ những quán cà phê lớn sang trọng thắp đèn thủy tinh vàng lóng lánh đến những quán tạm bợ với vài bộ bàn ghế lỏng chỏng, nhiều nhất vẫn là những ông già vừa uống nước vừa đánh cờ.
Sách du lịch Fodor nói: Ngôi nhà là nơi trú ngụ của trái tim, nhưng với phần lớn người Hy Lạp, quán cà phê mới là nơi trú ngụ của trái tim, nhà chỉ là nơi... về ngủ.
Phần lớn thời gian hai tuần ở Hy Lạp, tôi ở với gia đình bạn tôi trên đảo Evia, hòn đảo vắng vẻ không có khách du lịch cách Athens hai giờ vừa đi phà vừa lái xe. Ngày cuối cùng trước khi về, chúng tôi sang chào gia đình hàng xóm và được thưởng thức món cà phê Hy Lạp (Greek cfee) tuyệt vời. Trong bất cứ một ngôi làng nào trên đất nước hiếu khách đầy nắng và gió biển, đây cũng là thức uống "làm đầu câu chuyện" mang ra mời bạn đến nhà. Nhưng nếu cà phê phin Việt Nam làm bạn "xây xẩm" thì nên dè dặt khi thử thứ cà phê đậm đặc gấp nhiều lần này, được nấu sôi trong ấm bằng đồng có tay cầm dài và miệng rộng, gọi là ấm ibrik. Bà chủ nhà đứng tuổi rắc vào bột cà phê xay nhuyễn mịn một ít hạt gia vị có mùi hơi giống hoa hồi, rồi cho nước vào nấu sôi trong ấm ibrik đến ba dạo trước khi rót vào tách. Những chiếc bánh quy giòn bà mới nướng làm cân bằng vị đắng và tăng lên vị thơm có hậu ngọt của Greek cfee làm chúng tôi nhấm nháp hoài không chán, khi bên ngoài mặt trời đỏ rực bắt đầu lặn xuống biển và gió đại dương thổi lao xao những cây ôliu xanh rờn ngoài sân.
Và đến buổi trưa nọ tình cờ theo chị đi bộ trên con đường giày dép gần chợ Bến Thành, quầy cà phê bên hông chợ với những chiếc ghế nhựa thấp lè tè có lẽ sẽ khuất trong những tấp nập đường phố không để lại chút ấn tượng gì nếu người bán không dùng muỗng khuấy đá, cà phê và sữa đặc trong ly lên với một âm thanh rồn rột vui tai. Và nhất là cái mùi quen thuộc ấy, mùi cà phê phin nhỏ từng giọt mới pha, nóng và thơm, sực nức không gian bụi bặm ồn ào làm tôi đứng nhìn sững, vừa nhìn vừa nuốt nước miếng. Mùi thơm quyến rũ ấy làm tôi nhớ những ngày học cấp hai theo mẹ đi chợ uống cà phê sữa đá, hay khi lang thang ở châu u, bên ngoài tuyết rơi lạnh cóng nhưng vừa bước vào quán hai má đã nóng rực lên... Những ngày đi uống cà phê ấy, "ngỡ đã xa xăm bỗng về quá thênh thang..."
|
BÁNH MÌ THƠM CÀ PHÊ ĐẮNG Tác giả: Ngô Thị Giáng Uyên Chương 7
Ads (Hôm nay có trà kem) Béo ngậy trà kem Đã từ lâu cả hai người láng giềng Devon và Cornwall, cùng là những vùng biển nổi tiếng ở Anh, đã ngấm ngầm “kình” nhau xem món kem đông của ai ngon hơn, ai cũng cho nó xuất phát từ địa phương mình. Ảnh: webshop.atimea.hu Tôi biết đến món trà kem béo ngậy lần đầu tiên khi còn sinh viên, theo bạn đến hạt Devon miền Tây nước Anh vào kỳ nghỉ lễ Phục sinh. Hầu như những quán trà, quán cà phê ở phố biển lộng gió này đều để bảng giới thiệu đặc sản địa phương: kem đông (clotted cream) dẻo quánh ăn với bánh Scone nướng còn ấm nóng, kèm trà. Trà kem từ món ăn quê mùa đã thành đặc sản Anh, chỉ ở Anh mà thôi vì món này không thể xuất khẩu hay chuyên chở đi quá xa.
Ảnh: dkimages Anh chàng phục vụ mang ra trước tiên hai chiếc bình ủ nóng sực, khói bốc nghi ngút từ miệng vòi nhỏ xíu thơm mùi đặc trưng của trà Sri Lanka, hai bộ tách trà bằng sứ và bình sữa tươi sóng sánh vẽ mấy bông hoa đỏ bên ngoài.
Tiếp đó là một chiếc xuồng nhỏ đan bằng mây, lót ren, trên để mấy chiếc bánh Scone được làm từ bột nổi, trứng và bơ, còn nóng hổi từ lò nướng trong bếp. Và cuối cùng là liễn thủy tinh lớn chia làm ba ngăn, một để đầy mứt dâu ngọt lịm, một để miếng bơ nhỏ, và ngăn cuối cùng là món ăn tôi nhớ quá chừng khi về lại Việt Nam: kem đông mịn màng dẻo quánh màu vàng bơ, hứa hẹn một bữa trà chiều ngon nhớ đời.
Trong khi chờ bánh Scone nguội bớt (phải ăn khi bánh âm ấm vì nếu quá nóng, phết lên kem sẽ tuột xuống), chúng tôi rót trà vào tách và hơ hai bàn tay lạnh cóng vì đi mưa về trên làn khói mỏng. Bánh được làm tại nhà nên mỗi chiếc một kiểu, lại hơi méo mó chứ không tròn trịa với lớp diềm hơi giòn chuẩn xác bên trên như bánh Scone làm hàng loạt bán ở siêu thị. Bánh Scone thường lớn bằng nửa nắm tay, có những lỗ nhỏ li ti xôm xốp, cứng hơn bánh gatô nhưng mềm hơn bánh quy, bề mặt vàng rộm và hơi giòn, còn bên trong mềm ấm và thoảng mùi trứng, chỉ một thoáng nhẹ thôi.
Miếng bánh Scone bổ đôi được phết kem đông nhìn ngon không thể tả, cắn một miếng – cái béo ngậy của kem tươi, cái mềm ấm của bánh, kèm theo cái hơi đăng đắng của ngụm trà chắc chắn sẽ làm dậy lên trong bạn tình yêu đồng quê với những mái nhà tranh lúp xúp như tai nấm mũm mĩm, những con bò khoang trắng đen gặm cỏ trên những cánh đồng xanh mướt trải dài ngút mắt.
Để làm được món kem đông ngon lành, nhất định phải lấy sữa nguyên kem mới vắt ra từ vú bò còn âm ấm. Sữa bò vùng đồng quê phía Tây nước Anh chứa nhiều kem và béo thơm nổi tiếng. Sữa mới vắt cho vào một nồi đồng lớn rồi để khoảng nửa ngày cho kem nổi lên trên mặt. Sau đó không đặt trực tiếp lên lửa mà cho nồi sữa nổi trên một chảo nước sôi trên bếp, nấu thật chậm trong vòng một giờ, cho đến khi lớp sữa bên trên hơi nhăn lại nhưng không bao giờ để sôi lên.
Nấu càng chậm càng tốt, rồi đặt nồi vào chỗ mát để qua đêm. Sáng hôm sau lớp kem đông trên cùng có màu vàng đậm, mỏng và hơi giòn, lớp kem đông bên dưới nhạt hơn, màu vàng tơ và cũng dẻo mịn như tơ, cả hai được dùng muỗng hớt cho vào hũ thủy tinh, còn lớp sữa bên dưới có thể uống bình thường. Nếu có dịp đến với phố biển Devon và Cornwall, bạn sẽ dễ bắt gặp những xe bán kem lạnh (kem qua hay kem trên bánh ốc quế) gần bờ biển. Dù bạn chọn kem vị gì, người bán cũng sẽ thêm một muỗng nhỏ kem đông đặc quánh lên trên như muốn cho khách phương xa biết đặc sản quê hương mình. Dù ăn theo kiểu nào đi nữa, món kem đông với bánh scone uống kèm trà nóng đối với tôi vẫn là ngon nhất hạng, đến nỗi lòng bồn chồn mỗi khi nhớ về những vùng quê nước Anh có quán trà với tấm bảng đen viết bằng phấn trắng bên ngoài: “Hôm nay có trà kem”.
Ăn đồ Việt với Tây bánh ít trần (1) Miếng bánh ram được chiên vàng ruộm, những bong bóng phồng trên mặt hứa hẹn cảm giác giòn tan khi cắn. Bên trên là bánh ít trần (1) tròn trĩnh trắng mượt mà, mặt phủ lớp tôm tươi chấy đỏ.
Tôi hí hửng chan một muỗng nước mắm trong vắt, có thả mấy lát ớt xanh vào cặp bánh ram –ít nhỏ nhắn, xắn một miếng cho vào miệng.
Trên bàn bốn người còn bày thêm một dĩa bánh lá ( hay bánh nậm) (2) mỏng manh nổi bật trên sắc xanh của lá dong luộc, 1 dĩa chả tôm (3) xắt miếng bằng hai ngón tay cái, phớt 1 lớp tròng đỏ trứng vịt nhìn thấy đã con mắt; 1 dĩa bánh bột lọc (4) còn nguyên trong lá chuối gói nhưng hứa hẹn những miếng bánh trong vắt nóng hổi khi bóc ra thấy nguyên con tôm đỏ au bên trong và miếng thịt ba chỉ ?nhỏ giòn sần sật. 1 rá bánh bèo chén (5) nhỏ bằng miệng ly, cũng rải tôm chấy và tóp mỡ uốn cong như trăng lưỡi liềm.
Bánh nậm (2) Chả tôm (3) Bánh bột lọc (4) bánh bèo chén (5) Thông thường khi người nước ngoài viết về món ăn Việt Nam thường nhắc tới với những tình cảm trìu mến, khen ngợi hết lời, làm ngay cả người Việt đọc cũng thấy thèm chảy nước miếng. nhưng những món ăn được đề cập tới gần như 90% là phở và chả ram (theo tiếng miền Trung, còn gọi là chả giò ở miền Nam và nem ở miền Bắc), thỉnh thoảng thêm món café sữa đá hoặc bánh mì kẹp chả & pate, vì đây là những món VN kinh điển, dễ ăn phù hợp với khẩu vị phương Tây và tương đối lành. Bởi vậy lần nào có dịp trổ tài nấu thức ăn Việt tôi cũng ngắm đến 2 món phở và chả ram cho chắc cú, vì gần như 10 lần như chục lúc nào cũng được khen (khen thật chứ ko phải giả bộ khách sáo, vì tôi biết bạn bè của mình nếu ko ngon là nói liền).
Lần về VN vừa rồi biết tôi thích sầu riêng, mẹ mua mấy kí về lột vỏ bỏ tủ lạnh. Tôi nói với mấy anh chàng đang nhìn tò mò “Khó ăn lắm, Tây ko ăn được đâu”. Họ tưởng tôi nói vậy để dành ăn hết một mình. Và lại trước đó, các anh ăn trái mít, trái vải, trái măng cụt lạ đều khen ngon quá chừng, nên hi vọng món sầu riêng lần này cũng thế. Vừa đưa miếng sầu riêng vào miệng, mặt ai cũng biến sắc, có mẹ tôi ở đó nên ko dám nhả ra, nhưng nuốt vào thì chắc chắn ko chịu nổi, sau cũng ngây cổ ra nuốt. Dave nói trước, giọng có phần thều thào: “Sao trái cây gì ăn giống cá ươn vậy?” Khả năng nấu thức ăn Việt của tôi ở nước ngoài đúng nghĩa “chột làm vua xứ mù”. Về nhà chắc khó cạnh tranh với ai nhưng ở đây gần như lần nào cũng được khen nức nở. co lần tôi chiên chả ram nhân tôm, trứng gà, cà rốt và nấm băm nhỏ (ko có nấm mèo mộc nhĩ như ở Việt Nam nên dùng tạm chestnut mushroom màu nâu), trong lần về thăm ba mẹ Alastair . nhà anh ko có nước mắm nên chỉ chấm tương ớt cà chua cũng rất ngon. Mọi người, đặc biệt ba anh ăn rất mê mải và sau khi ăn hết còn xuống chảo vét những miếng vụn chiên còn sót lại.
|
BÁNH MÌ THƠM CÀ PHÊ ĐẮNG Tác giả: Ngô Thị Giáng Uyên Chương 8
Ads Như thế này mà về nhà mẹ tôi, ăn chả ram mẹ tôi chiên với tôm tươi băm lẫn tôm khô, thịt heo xay, hành tím, có để thêm một cọng hành xanh mướt, chiên giòn chấm với nước mắm mẹ làm thì hẳn mọi người chết mê chết mệt. xa nhà, tôi vẫn hay nhớ món nước mắm của mẹ tôi, với tỏi và tương ớt nổi đặc quánh trên mặt, hứa hẹn cảm giác chua cay mặn ngọt đê mê đầu lưỡi, chấm chả ram cũng ngon, chan lên gỏi ngó sen kèm bánh phồng tôm cũng tuyệt vời.
nếu ăn với nghêu hoặc ốc bưu luộc phải thêm gừng cay nông nàn kèm lá rau răm ướt rượt thì rất “bắt”.
Nhưng thôi, biết đâu món ăn Việt chính hiệu rồi họ quay lại chê món tôi nấu thì sao. Như anh chàng Alastair sau khi qua Việt Nam 2 lần bắt đầu dè dặt so sánh tối nấu “chưa bằng” mẹ… Mẹ tôi đãi 1 bữa ăn hoàng tráng với tôm hấp bia – mỗi con to bằng ½ bàn tay, nghêu mập núc ních xào hẹ, chả cá thác lác và lẩu hải sản… Sau này nhỏ em họ tôi méc “anh kia ảnh thích nghêu quá kéo đĩa nghêu lại gần mình, tưởng ko ai thấy ai dè em thấy”.
Nhà tôi đâu biết ở Anh ăn thịt cừu thịt gà thì rẻ nhưng hải sản mắc như vàng. Để có hải sản tươi thường phải đi du lich về vùng biển. Tôi hay thèm ăn cá ngừ kho với nhiều tiêu ớt, sớ cá chắc nịch vì kho đi kho lại nhiều lần, nước cá mặn đậm đà mà hồi ở VN tôi hay chan bún ăn sáng sau khi dầm thêm ớt tươi dù nồi cá đã lấp xấp ớt đỏ. Nhưng nơi tôi ở lại ko có cá ngừ như VN, chỉ có loại cá ở nhà mình gọi là cá ngừ đại dương. Thỉnh thoảng chúng tôi mới mua 1 ít xắt mỏng làm món sushi hoặc sashimi kiểu Nhật. Nếu làm kiểu “chém to kho mặn” như ở VN chắc cả triệu đồng 1 nồi kho.
Dân anh lâu lâu mới có điều kiện đi ăn hải sản ở nahf hàng 1 lần, vì ở Anh chỉ có 1 là takeaway bán fish&chip hoặc kebabs, 2 là quán bia bán thức ăn kèm ko khởi sắc cho lắm, 3 là nahf hàng haute cuisines ngon nhưng rất đắt đỏ. Riêng tôi chỉ dám ăn khi đi công tác và được cty trả tiền thôi.
Pháp giống Vn ở chỗ có rất nhiều quán ăn đơn giản nhưng ko kém phần ngon so với những quán sang trọng đắt tiền, thậm chí ngon hơn. ở Paris có bistros, ở Lyons có bouchons, và gần như trên khắp nước Pháp đâu cũng có những nhà hàng relais routiers giản dị trải khăn kẻ caro.
Nhắc tới Pháp, tôi đoán có lẽ người Pháp dễ thích nghi với món Việt nhất. Pháp thường dùng nhiều tỏi để phi dầu mỡ, cũng có những món nhưu ốc hoặc thịt ếch mà Châu u chỉ có Pháp hay ăn, ko nước nào dám đụng tới (bới vậy dân Anh mới gọi dân Pháp là frogs). Tôi mới chỉ được ăn thịt ếch nướng muối ớt một lần tại sinh nhật một người bạn ở SG, mơ ước được một lần ăn canh ếch nấu lá lốt như trong truyện Hành trình về ngày thơ ấu. Về VN tôi cố tìm nhưng hình như món này chỉ có ở bữa cơm gia dình ngoài quê … Nhưng thôi, nói tới đây lại thèm.
Thông thường khi đi du lich ở đâu tôi chỉ ăn món ăn bản xứ, nhưng vì chuyến đi Paris năm đó đi gần quận 13 nơi nhiều người Việt, lại có anh bạn Daniel đi theo chưa từng dùng món Việt, nên tôi phá lệ 1 lần… Những nơi tôi từng sống ở nước Anh: Southampton, Highgate ở London, Windsor, ko nơi nào có nhiều người Việt. Gần nhà tôi có 1 siêu thị Châu Á cạnh sân vận động Wembley bán hàng hóa Việt nhưng ko phong phú bằng ở Hackney, 1 khu đông người Việt sinh sống ở phía Bắc London, và cũng được vinh hạnh 1 trong 10 khu tệ nhất cả nước Anh. Nghe đồn Việt Kiều Anh khét tiếng trồng cần sa trên bệ cửa sổ nhà.
Mỗi lần tới Hackney, thấy xe cộ bóp còi ko khác gì ở VN.
Vào siêu thị Việt trên đường Mare mua vội mì gói, gạo nếp, nước mắm, bánh phở , mắm tôm, cua ghẹ đông lạnh, cá cơm đông lạnh, nghêu đông lạnh, mực đông lạnh rồi về.
những món đông lạnh này toàn những loại ngon nhất ở Vn để dành xuất khẩu, nhưng ngon mấy cũng ko bằng thức ăn tươi sống còn giãy đành đạch ở quê nhà.
Tôi thường làm biếng nấu thức ăn Việt, ăn món Tây cho nhanh. Kỷ lục hơn ½ năm ko ăn cơm là chuyện bình thường, nhưng trong tủ bếp lúc nào cũng có ngăn riêng chất đầy đồ khô VN. Hồi còn đi học, tôi nướng mực khô trong bếp, cô bạn thấy con mực còn cả đầu râu ria sợ chết khiếp. Lần nọ thèm quá ko chờ đến lúc mọi người ra khỏi nhà, tôi lôi cà pháo mắm nêm mới mua trong hũ ra ăn, anh bạn hỏi mùi gì nghe sợ quá vậy rồi chạy dài. Nhưng dần dần anh ko còn nhận ra mùi mắm trong món ăn, và trở thành fan rất nhiệt tình của món lạp xưởng tôm (prawn sausage) Sóc Trăng.
Người Việt sống lâu ở nước ngoài ko có đủ nguyện liệu nấu thức ăn Việt nên cái khó ló cái khôn thường sáng chế ra nhiều món rất có lí. Trần Kiêm Đoàn trong tùy bút về cơm hến có viết “thiếu hến cồn, người ta dùng loại sò xanh (green mussel) nhập cảng từ Thụy Sĩ, luộc lấy nước và xắt nhỏ thay hến rất dễ làm cho khách nghiền cơm hến xa Huế ngàn dặm “lạc bước bên Cồn”. thiếu khế thì dùng cây cần Tây (celery) xắt mỏng dầm ngâm giấm. thiếu bắp chuối sứ thì dùng bắp su tím cắt thành sợi thế vào”. Riêng tôi, khám phá tôi cho là vĩ đại nhất là dùng con whelk thay ốc nhảy (6). con whelk cũng có vỏ cứng màu trắng xoắn vòng ở đít như ốc nhảy, thịt cũng giòn sần sật, nướng hoặc hấp chấm mắm gừng cay nồng ăn ngon quên trời đất. có điều ít ai mua được whelk tươi sống mà là whelk đã bị luộc chin, bóc vỏ. canh ốc-nhảy-whelk với cà chua bi, củ parsnip và lá quế tây là 1 trong những món sáng chế tôi tự hào nhất.
chỉ tiếc vì ốc này hiếm nên thỉnh thoảng mới trổ tài đc 1 lần, lần này bạn Tây chung nhà cũng mê mẩn đòi ăn nữa.
sau này đi du lịch Bỉ cuối năm trời lạnh, thấy quảng trường phố cổ Bruges có những quầy hải sản khói bốc lên như sương mù bán súp Escargots de mer (ốc biển), hóa ra là con whelk quen thuộc. Những miếng thịt ốc dai giòn trong nước súp nóng bỏng cả tay.
Nhưng món độc chiêu nhất tôi từng chế biến là món đông sương (thạch rau câu) làm từ agar agar nấu với nước. màu đen được pha từ café phin, còn màu trắng từ nước cốt dừa.
độc chiêu bởi lần 1st tôi làm món này, Daniel nảy ra sáng kiến đặt những chén thạch vừa làm trên tuyết ngoài sân.
Nhìn những chén thạch nằm trên tuyết trắng lạnh buốt chẳng khác nào 1 tác phẩm nghệ thuật ẩm thực sáng tạo.
dường như sau đó thạch cũng giòn ngon hơn để tủ lạnh thông thường. mùi nước cốt dùa béo hơn và café thơm đắng hơn trong miếng đông sương vỡ ra trong miệng.
Khi còn sống ở Việt Nam, đọc những bài tùy bút về món ăn của những người sống ở nước ngoài tôi thường nghĩ chắc họ làm bộ “xa quê hương nhớ mẹ hiền”, không có món này thì ăn món khác. Đến khi tới lượt mình, mới biết chắc cái chất nước mắm đã ngấm vào máu mất rồi. Không có nước mắm trong người bứt rứt khó chịu làm sao. Dù ăn món Tây ở nhà cũng đi lấy một chén nước mắm bẻ ớt khô vắt chanh vào, để muốn chấm gì thì chấm. Nhà tôi ở ai đến chơi cũng nói sao nhìn cách trang trí không biết có người Việt sống trong nhà. Tuy nhiên, chỉ cần tôi dắt vào bếp mở tủ ra chỉ vào bộ sưu tập: nước mắm cá cơm, nước mắm cá sặc, măng dầm ớt, tôm khô, mắm ruốc, phở, miến, bánh đậu xanh, xí muội, bột bánh xèo, bột bánh bèo, bột bánh cuốn, gạo nếp, chà bông… bảo đảm sẽ gật gù “nhà có người Việt thiệt …Năm nay ko biết vì tôi mới về VN qua lại đây hay vì trời London tự nhiên lạnh và đổ tuyết sớm, tôi thèm đủ thức ăn Tết hồi xưa và quyết tâm Tết này phải ăn Tết đàng hoàng, đúng nghĩa "ăn" Tết. Thế nên, dù tủ còn đầy thức ăn nhưng khi sắp Tết, tôi biết mình sẽ vẫn len lỏi giữa những làn xe bóp còi loạn xạ ở Hackney để mua bánh tét thịt mỡ, củ kiệu muối, thịt đông, mua chả lụa của Việt kiều Hà Lan, chả cá của Việt kiều Anh, mứt hột sen của Việt kiều Pháp, mua rượu nếp về "lai rai", mua trứng vịt về kho tàu, mua bánh tráng rế về làm chả ram. Tôi cũng sẽ vui mừng để dành bánh tét tới mùng sáu cắt khoanh ra chiên chấm nước mắm…
|
BÁNH MÌ THƠM CÀ PHÊ ĐẮNG Tác giả: Ngô Thị Giáng Uyên Chương 9: Xúc Xích Nướng, Yaourt Mật Ong Và Hơn Nữa…
Ads Mới đây, một chị bạn tôi hỏi "Nghe nói ở Anh ăn dở mà khổ lắm phải không em? Bạn chị kể qua đó thấy có mấy đứa sinh viên ngày nào cũng gặm bánh sandwich trên bãi cỏ trường đại học vào giờ trưa, nhìn cô đơn lắm".
Của đáng tội, món ăn Anh cũng không đến nỗi dở như người ta thường đồn đại, một phần cũng vì vật giá đắt đỏ quá, cũng chừng đó tiền qua Pháp hay Ý tha hồ ăn uống phủ phê còn ở Anh chỉ ăn được lát pizza hay cái sandwich thôi. Những ngày đi học ở Anh, sáng sáng tôi cho bánh làm sẵn mua ở siêu thị (không chút “khởi sắc” về mặt mùi vị ẩm thực) vào nấu trong lò viba, thêm trái chuối- có khi thay bằng trái cam, mận vàng, chùm dâu hay trái đào- và chai nước, rồi buổi trưa sau giờ học ngồi dựa vào gốc cây trong khuôn viên trường mà ăn chung với đám bạn. Sau khi hoàn tất bằng cao học căng thẳng, tôi hớn hở tuyên bố “Đã tới giờ của Lọ Lem”, rồi một tuần lễ sau bắt đầu chuyến chu du ẩm thực xuyên Châu u để ăn uống cho bõ những ngày cực khổ.
Stockholm Du khách trước khi đến Thụy Điển đều vẽ ra trong đầu hình ảnh những người cao lớn tóc vàng mắt xanh, ngồi trong nhà hàng trang trí bằng đồ nội thất của IKEA trong tiếng nhạc ABBA, trò chuyện bằng điện thoại Sony Ericsson và chỉ ăn ba món thịt băm viên, cá trích ngâm dấm và khoai tây luộc. Nhưng đó chỉ là những khuôn mẫu người ta thường đồn đại vì quả sai lầm khi nghĩ rằng món ăn của đất nước lớn nhất vùng Scandinavia này đơn điệu và thiếu phong cách riêng.
Tôi được ăn tô súp ngon nhất Châu u trong chợ Ostermalmhallen, một khu chợ lớn có mái vòm ở Stockholm, bán đầy những thức ăn địa phương mới nấu.
Hành trình tìm đến chợ này rất "gian truân" vì cả tôi và ông bạn người Anh Alastair đi cùng đều dở xác định phương hướng, đi lòng vòng một hồi bị lạc tới nhà hát thành phố, bên trong có nhà hàng Operakällaren được xem là nơi xa xỉ vào bậc nhất Thụy Điển. Chúng tôi ngồi nghỉ chân trên ghế bên ngoài, bụng đói meo, và vì đã quyết tâm ăn bằng được món súp hải sản ở chợ mà một tờ báo ở Anh đã giới thiệu nên bây giờ có ăn ngọc ăn vàng, ăn trứng cá caviar hay nem công chả phượng cũng không ngon.
Cuối cùng chúng tôi cũng lò dò đến được khu chợ như mong mỏi. Đến nơi đúng giờ cơm trưa, dân văn phòng túa ra ăn nhiều như nấm, đứng trước chúng tôi là vài chục người mặc đồ vét lịch sự đang kiên nhẫn xếp hàng. Hải sản là món ăn chính ở vùng Scandinavia- nơi cung cấp hải sản lớn nhất Châu u- nên tô súp của tôi rất "thịnh soạn", hơi giống súp bouillabasse của Pháp nhưng ngon hơn nhiều so với món súp ở Paris tôi từng ăn, có lẽ một phần khi chờ tới lượt tôi đã đói gần xỉu. Tô súp đầy những sớ cá biển Baltic được gỡ thịt trắng phau ngon dai, tôm bóc vỏ đỏ au chắc nịch, mực giòn sần sật, thỉnh thoảng lại lẫn vào những con hàu tươi rói núc ních thịt mọng nước. Nước súp được làm toàn bằng hải sản nguyên chất, thêm cà chua bằm nhuyễn đỏ au nên ngon đậm đà, trên lại phủ một lớp kem tươi mỏng làm tăng thêm vị béo ngầy ngậy. Còn bánh mì ở đây làm bằng lúa mạch (nên chắc phải gọi là bánh mạch chăng?) không biết nướng lúc nào mà giòn tan, phết bơ lên trên ăn kèm súp không gì bằng. Xung quanh tôi, dân văn phòng cũng đang xì xụp húp món đặc sản này trên những chiếc bàn trải khăn kẻ carô. Cạnh tôi, Alastair ăn món lutefisk truyền thống Thụy Điển, trên đĩa là khoanh cá tuyết lớn phủ sốt trắng đặc như kem, ăn kèm khoai tây nghiền và thịt băm viên. Trước khi nấu, cá tuyết được ngâm nước lạnh từ năm đến sáu ngày, sau đó nhúng vào dung dịch nước hòa tro từ cây linh sam (đúng là "phú quý sinh lễ nghĩa") trong vòng hai ngày để miếng cá phồng lên lớn gấp rưỡi ban đầu, sau đó ngâm nước lạnh thêm hai ngày nữa trước khi nấu bằng cách hấp rồi bỏ lò.
Được ăn ngon, chúng tôi tươi tỉnh trở lại và đi dạo một vòng quanh khu chợ, nơi có nhiều quầy bán rau quả tươi Bắc u: việt quất mọng nước, quả lý chua, dâu tươi đỏ thắm, bắp cải tím xanh xếp thành lớp đẹp như những bông hoa khổng lồ…, và đặc biệt nhất là nấm vàng Scandinavia.
Những tai nấm mỡ màng, hơi giống nấm mối nhưng màu vàng mướt trông mập mạp ngon lành không thể tả, dễ làm ta tưởng tượng tới những khu rừng cổ tích có nấm mọc dưới gốc cây sồi già, nơi những cô bé mặc áo đầm hoa xinh xắn rủ nhau đi hái nấm đựng trong lẵng đan bằng cây liễu.
Ngày cuối cùng, sau một buổi đi bộ mỏi chân quanh khu phố cổ Gamla Stan muôn màu, chúng tôi ghé vào Chokladkoppen (tiếng Thụy Điển nghĩa là “cốc sôcôla”), quán nhỏ trong tòa nhà xưa Stockholm sơn màu vàng cam, những ô cửa sổ vuông vắn và đầu hồi uốn lượn. Bắc u lạnh hơn nhiều so với những nước khác nên chúng tôi không ngồi ngoài quảng trường Stortorget mà vào trong căn phòng nhỏ bé và ấm cúng, sực nức mùi bánh quy bơ mới nướng và hạt cà phê rang. Bên trong có cả một bếp nhỏ bày những tô đựng đầy cam chín cây, trên bàn khách là những đế đựng nến bao bọc lớp sáp nến dày từ những lần thắp trước. Chúng tôi uống sôcôla nóng trong những cốc dày, nhấm nháp semlor, loại bánh có từ thế kỷ 16 tròn múp míp làm bằng bột mì pha hương bạch đậu khấu, chính giữa xẻ ra nhét bơ hạnh nhân và lớp kem tươi dày, mịn màng béo ngậy, trên rắc lớp đường vani li ti. Bánh ăn theo kiểu truyền thống sẽ để trong một đĩa sữa tươi còn âm ấm ăn cùng, nhưng tôi ăn không kèm sữa để thưởng thức được vị ngon rất riêng. Dù bánh rất ngon, tôi cũng không dám ăn nhiều vì vừa mới đọc được câu chuyện về vua Thụy Điển Adolf Fredrik chết năm 1771 sau khi ăn quá nhiều semlor cuối bữa dạ tiệc linh đình.
Tôi chia tay một tuần lễ giá lạnh trên bán đảo Scandinavia để về với nắng Địa Trung Hải bằng chuyến bay Thụy Điển- Hi Lạp trên chuyến bay của hãng hàng không có cái tên khá ngộ: Bông tuyết (Snowflake) *. Ẩm thực của "quê hương thần thoại, thuở hồng hoang đã thấy, đã xanh ngời liêu trai" cũng khác hẳn Thụy Điển như chính khí hậu hai vùng ở hai đầu Châu u này.
Bạn tôi đón tôi từ sân bay và chở thẳng đến trung tâm Athens, vào một hàng bán souvlaki để bếp bên ngoài, thịt nướng xèo xèo tỏa mùi thơm khó cầm lòng được. Souvlaki gồm thịt heo hoặc thịt gà, tuần tự một miếng nạc một miếng mỡ xắt quân cờ, xiên que nướng trên than hồng rực, khi ăn kẹp trong bánh pita (bánh mì ổ dẹp Hi Lạp, nay đã thành món bánh đại chúng trên khắp thế giới) chung với rau ngâm dấm. Hãy tạm quên cholesterol khi bạn đang ăn món này, cứ thưởng thức "đã đời" món thịt nướng ướp cỏ xạ hương và bia, thoảng mùi khói như níu bước chân rồi chịu khó về tập thể dục vậy! Nếu không muốn ăn với bánh pita, có thể xiên thịt xen kẽ với các loại củ quả trước khi nướng, rồi chấm với xốt tzatziki làm từ yaourt, dưa leo xay nhuyễn và nước ép tỏi. Trên khắp Hi Lạp đâu đâu cũng thấy những quầy bán souvlaki thơm phưng phức kiểu này, chả trách người Hi Lạp phần đông "tròn trịa" hơn những người láng giềng Châu u khác.
Hi Lạp Tôi ở Hi Lạp hai tuần với gia đình bạn trên đảo Evia, một kỳ nghỉ mát "chân chính" sau những giờ làm luận văn căng thẳng. Ở đây, tôi học cách làm món rau trộn kiểu Hi Lạp, với dưa leo và hành tây tím xắt khoanh trộn dầu ôliu extra virgin địa phương, rưới vài trái ôliu đúng nghĩa nhà trồng được, hái từ khoảng sân sau nhà, thêm những miếng vuông phô mai feta nhìn hơi giống miếng đậu phụ nhưng mùi thơm nồng. Tôi cũng học cách làm món ăn truyền thống moussaka (đặc trưng như phở với người Việt vậy) gồm những lớp cà tím thái lát, thịt bò bằm nhuyễn, hành, bơ, trứng, sữa, phô mai và gia vị đem bỏ lò, khi ăn mềm và dai khá giống món lasagna thịt bằm của Ý.
Ẩm thực Hi Lạp không thanh cảnh, tinh tế như những nước khác mà rất thịnh soạn, thường những bữa ăn tối luôn kèm theo pilafi, món gạo nấu bông lên ninh nhỏ lửa với bơ, gia vị và nước luộc gà; và không thể thiếu chai bia tươi Mythos (nghĩa là "thần thoại" trong tiếng địa phương, tiếng Anh myth cũng bắt nguồn từ tiếng Hi lạp) làm ta chếnh choáng trong khi chén đẫy những món ngon lành.
yaourt mật ong Hi Lạp Còn món tráng miệng, ôi tôi chết mê chết mệt món tráng miệng "quốc túy" Hi Lạp với yaourt ăn kèm mật ong.
Yaourt ở đây không ngọt, được làm từ sữa cừu nguyên chất không qua chế biến, đặc và dẻo quánh như kem trong miệng, rưới mật ong mới mua ở chợ về trong hũ còn nguyên tổ ong sáp. Tôi sáng chế thêm cách cho miếng nhỏ tổ ong vào ăn kèm, ngon lịm người. Sau này về Việt Nam, tôi cũng có dịp ăn lại món yaourt mật ong kiểu này trong một quán ăn ở Sa Pa sương mù cũng ngon không kém, có điều tổ ong kiếm đỏ mắt không ra nên đành rưới mật ăn tạm vậy.
|