Bánh Mì Thơm Cà Phê Đắng
|
|
BÁNH MÌ THƠM CÀ PHÊ ĐẮNG
Tác giả: Ngô Thị Giáng Uyên
Thể loại: Ngôn Tình
Tình trạng: full
TÓM TẮT NỘI DUNG TRUYỆN
Tác giả Ngô Thị Giáng Uyên đã gửi đến bạn đọc một truyện mới với nhan đề Bánh Mì Thơm Cà Phê Đắng, truyện rất hồn nhiên và phóng khoáng theo đúng phong cách của cô từ trước đến nay - cô gái đam mê du lịch tự nhận mình là “tín đồ” sùng bái chuyện ăn uống. Một truyện ngôn tình ghi lại hành trình trên bước đường rong ruổi đó đây, cùng với việc khám phá vẻ đẹp nguyên sơ, tiềm ẩn của cảnh vật quanh mình, Uyên cũng kịp thưởng thức không ít món ngon vật lạ ở nơi chốn từng đặt chân qua, thậm chí có những chuyến đi mà ngay từ đầu cô đã xác định là để... ăn, sau một thời gian dài bị nhịn. Khó ai ngờ tác giả của những cuốn Ngón Tay Mình Còn Thơm Mùi Oải Hương, Sống Xanh lại có “tâm hồn ăn uống” đến như vậy.
Chắc chắn đây không phải là bộ sưu tập ẩm thực chỉn chu, có hệ thống. Đơn thuần chỉ là sự kết nối cảm xúc theo hứng khởi chủ quan của tác giả mỗi khi dùng xong món ăn mới... Truyện không chỉ miêu tả lại thành phần, cách bài trí mà Uyên còn chịu khó đặc tả lịch sử và cách chế biến món ăn. Này nhé, chẳng hạn như món cá tuyết Thụy Điển trải qua nhiều công đoạn cầu kỳ: được ngâm nước lạnh từ năm đến sáu ngày, sau đó nhúng vào dung dịch nước hòa tro từ cây linh sam trong vòng hai ngày để miếng cá phồng lên lớn gấp rưỡi, tiếp theo ngâm nước lạnh hai ngày trước khi nấu bằng cách hấp rồi bỏ lò. Trong khi đó, món mứt hoa hồng Bồ Đào Nha được xếp vào hàng quí hiếm trên thế giới, thơm, không dùng hoa hồng công nghiệp, được ướp với đường và các gia vị đặc biệt... Chưa kể về chủng loại phong phú của bánh mì và cà phê. Nào là bánh mì baguette, bánh mì pita theo phong cách Trung Đông, bánh xứ Galicia, rồi bánh mì Ý, tên ciabatta - tiếng Ý nghĩa là “chiếc dép”...
Tuy nhiên chính Uyên đã xác nhận, dù ăn cao lương mỹ vị ở đâu - “ngon ơi là ngon” - nhưng món ăn của mẹ nấu vẫn là số một. Cô thú nhận rằng “dường như chất nước mắm thấm vào tận xương tủy” rồi. Để đến khi “gặp gỡ” món ba khía mặn mà của quê nhà trong một buổi tình cờ ghé qua siêu thị, khi ăn lại hoài mong người dân nghèo quê mình sẽ sớm sung túc hơn từ các sản vật tự làm. Lan man chuyện ăn uống trời Âu một chút, cũng nhằm hiểu thêm về tính đa dạng và chiều sâu kích cỡ văn hóa ẩm thực của nhiều dân tộc khác. Nhưng đồng thời – từ lăng kính của công dân thời hội nhập như Uyên – mới tự hào quả quyết rằng món ăn Việt Nam tuyệt vời lắm và luôn có một chỗ đứng nhất định trong lòng bè bạn quốc tế. Đọc để cùng trải nghiệm với tác giả hành trình đầy thú vị này, đọc để cùng chiệm nghiệm, đọc để yêu nhiều và rộng mở trái tim. Bạn cũng có thể đón đọc những truyện khác cùng thể loại như: London Còn Xa Lắm, Hoa Hồng Sớm Mai,...
|
BÁNH MÌ THƠM CÀ PHÊ ĐẮNG Tác giả: Ngô Thị Giáng Uyên Chương 1
Ads Lan man ẩm thực trời u Rất hồn nhiên và phóng khoáng theo đúng phong cách của Ngô Thị Giáng Uyên từ trước đến nay, cô gái đam mê du lịch tự nhận mình là “tín đồ” sùng bái chuyện ăn uống. Trên bước đường rong ruổi đó đây, cùng với việc khám phá vẻ đẹp nguyên sơ, tiềm ẩn của cảnh vật quanh mình, Uyên cũng kịp thưởng thức không ít món ngon vật lạ ở nơi chốn từng đặt chân qua, thậm chí có những chuyến đi mà ngay từ đầu cô đã xác định là để... ăn, sau một thời gian dài bị nhịn. Khó ai ngờ tác giả của những cuốn Ngón tay mình còn thơm mùi oải hương, Sống xanh lại có “tâm hồn ăn uống” đến như vậy.
Chắc chắn đây không phải là bộ sưu tập ẩm thực chỉn chu, có hệ thống. Đơn thuần chỉ là sự kết nối cảm xúc theo hứng khởi chủ quan của tác giả mỗi khi dùng xong món ăn mới... Không chỉ miêu tả lại thành phần, cách bài trí mà Uyên còn chịu khó đặc tả lịch sử và cách chế biến món ăn. Này nhé, chẳng hạn như món cá tuyết Thụy Điển trải qua nhiều công đoạn cầu kỳ: được ngâm nước lạnh từ năm đến sáu ngày, sau đó nhúng vào dung dịch nước hòa tro từ cây linh sam trong vòng hai ngày để miếng cá phồng lên lớn gấp rưỡi, tiếp theo ngâm nước lạnh hai ngày trước khi nấu bằng cách hấp rồi bỏ lò. Trong khi đó, món mứt hoa hồng Bồ Đào Nha được xếp vào hàng quý hiếm trên thế giới, thơm, không dùng hoa hồng công nghiệp, được ướp với đường và các gia vị đặc biệt...
Chưa kể về chủng loại phong phú của bánh mì và cà phê. Nào là bánh mì baguette, bánh mì pita theo phong cách Trung Đông, bánh xứ Galicia, rồi bánh mì Ý, tên ciabatta - tiếng Ý nghĩa là “chiếc dép”...
Tuy nhiên chính Uyên đã xác nhận, dù ăn cao lương mỹ vị ở đâu - “ngon ơi là ngon” - nhưng món ăn của mẹ nấu vẫn là số một. Cô thú nhận rằng “dường như chất nước mắm thấm vào tận xương tủy” rồi. Để đến khi “gặp gỡ” món ba khía mặn mà của quê nhà trong một buổi tình cờ ghé qua siêu thị, khi ăn lại hoài mong người dân nghèo quê mình sẽ sớm sung túc hơn từ các sản vật tự làm. Lan man chuyện ăn uống trời u một chút, cũng nhằm hiểu thêm về tính đa dạng và chiều sâu kích cỡ văn hóa ẩm thực của nhiều dân tộc khác. Nhưng đồng thời - từ lăng kính của công dân thời hội nhập như Uyên - mới tự hào quả quyết rằng món ăn Việt Nam tuyệt vời lắm và luôn có một chỗ đứng nhất định trong lòng bè bạn quốc tế
|
BÁNH MÌ THƠM CÀ PHÊ ĐẮNG Tác giả: Ngô Thị Giáng Uyên Chương 2
Ads "Phong cách" bánh mì Mùa hè xứ Alps, chỉ cần một tách cà phê nóng hổi và bánh mì giòn, thêm bình hoa tươi mới hái trong vườn, là có một bữa ăn ngon lành giản dị - Felkirch, Áo. Tôi dừng tay đẩy xe, hít một hơi dài. Mùi bánh mì nướng mới ra lò thơm sực làm thoáng chốc nước miếng ứa ra. Trời đất, đây là siêu thị Sainsbury chứ đâu phải cửa hàng bánh gia đình nào trên phố! Có khi siêu thị còn cố ý bơm mùi bánh nướng nhân tạo vào không khí để "rù quyến" khách hàng vào mua không chừng. Vậy mà niềm vui khi ngửi thấy bánh mì nướng làm tôi hơi choáng váng, cảm giác choáng váng như những lần đầu hẹn hò với người yêu mới (có khi còn choáng váng hơn hẹn hò). Đó là một ngày giữa năm 2007, những ngày đầu tiên tôi quay trở lại Anh sau hơn một năm làm việc ở Sài Gòn. Và mùi bánh mì, hơn cả Big Ben, sông Thames hay lâu đài Windsor, là một trong những điều làm tôi cảm thấy quyết định quay lại của mình là đúng đắn.
Thời gian mới sang tôi ở chung nhà với hai anh bạn địa phương Alastair và Dave, thỉnh thoảng cao hứng lại tổ chức ăn barbeque: tiệc nướng ngoài trời, trong vườn nhà.
Chỉ có ba người nên rất "gia đình". Vườn mọc đầy hoa và ngay cạnh một khu rừng thưa nên có cảm giác không phải đang ở London nhộn nhịp mà là một nơi xa xôi nào đó, nghe mùi thịt nướng cháy mỡ xuống than xèo xèo thơm phức.
Chúng tôi kẹp thịt và xúc xích vào bánh mì ăn. Vui miệng, tôi kể cho hai anh chàng nghe chuyện khi trước tôi rất khoái ăn hai cùi bánh mì vì giòn giòn rất nôn. Nhưng hôi cấp II tôi có đứa bạn dặn rằng đừng bao giờ ăn hai cùi đó vì nhà người quen nó làm lò bánh mì. Tròn lò nóng quá nên mấy ông thợ làm bánh đều ở trần, mồ hôi nhễ nhại không có gì lau nên thỉnh thoảng lại lấy một ổ bánh mì lên gãi vào... nách cho đỡ ngứa ngáy.
Nói chung mỗi lứa bánh vài ngàn ổ chỉ khoảng vài ổ bị gãi nách kiểu đó, nhưng cẩn thận vẫn chắc ăn.
Hai anh chàng cười lăn lộn, rồi hỏi:
-Bánh mì mới nướng nóng quá.. phỏng nách làm sao ?
-Thì lấy bánh chưa nướng.
-Bánh chưa nướng mềm xèo sao gãi nách được ?
Tôi nhún vai thay cho câu trả lời. Bỏ qua chuyện về sinh thực phẩm (có khi thật, cũng có khi chỉ là giai thoại), khó có thể tưởng tượng được cuộc sống ở Việt Nam thiếu bánh mì. Tôi lớn lên ở nhà quê miền Trung với những ổ bánh mì nhiều phong cách. Phong cách "kinh điển" là bánh phết patê, bơ (tới giờ tôi vẫn không biết là bơ gì mà màu vàng đậm và có độ dẻo như mỡ đông), chả lụa thái sợi, thịt ba chỉ nấu kiểu chi mà miếng da đỏ chói. Hồi còn bé, có người ở Nha Trang đem cho mấy ổ bánh mì kẹp chả và chà bông, tôi ngồi tẩn mẩn lượm hết chà bông ra bỏ rồi mới ăn vì tưởng bánh ... dính mạnh nhện. Phong cách "ăn sáng ở nhà" là trứng ốpla lòng đào, lòng trắng viền vàng cong lên giòn tang, quệt bánh mì ăn với xì dầu và muối tiêu. Phong cách lạ đời nhất, bây giờ có lẽ đã thất truyền, là phong cách "sữa Ông Thọ": bánh mì chấm với sữa nóng và thậm chí cả sữa đặc. Thời tôi còn nhỏ, có sữa ăn là tốt lắm nên món bánh mì chấm sữa cả nóng lẫn đặc này chỉ được dành cho người bệnh cần ăn lại sức. Phong cách " béo ngậy" là lạp xưởng và xì dầu, thường có mặt những ngày sau Tết, trưng dụng những cây lạp xưởng còn sót lại. Nhưng đỉnh cao của bánh mì đối với tôi vẫn là phong cách "biển cả". Bánh mì kẹp chả cá và một loại nước mắm ớt sền sệt, để cái giòn của bánh mì mới hơ bếp than hòa với cái dai của chả cá mối quết nhuyễn và nước mắn cay hít hà. Tất cả các phong cách bánh kể trên, ngoại trừ bánh chấm sữa, hành ngò làm tê lưỡi mát rượi và "dằn" độ béo của thịt cá xuống.
Trong bài Paris ẩm thực, tôi có nhắc đến việc văn hóa ẩm thực của Việt Nam chịu ảnh hưởng nhiều từ Pháp, dễ thấy nhất qua thói quen uống cà phê, có lẽ nhân tiện viết bài này cũng cần bổ sung thêm thói quen dùng bánh mì. Những năm học phổ thông tôi hay chịu khó tìm đọc những tác phẩm không có trong sách giáo khoa, trong đó có truyện Đói của Thạch Lam, mô tả: "Sinh nhìn thấy miếng thịt ướp hồng hào, mỡ trắng và trong như thủy tinh, mấy khoanh giò nạc mịn màng, mấy cái bánh tây vàng đỏ...", vừa đọc vừa nuốt nước miếng ừng ực. Lúc đó cứ tưởng bánh tây là bánh gì lạ lắm, sau mới biết là tên gọi khác của bánh mì thời thuộc địa.
Bánh mì Pháp, baguette, ở Anh còn có tên gọi "French stick", dịch nghĩa đen là "Cây gậy Pháp". Hình ảnh kinh điển mà dân Anh tưởng tượng dân Pháp là hình ảnh một ông đội mũ bêrê, trước giỏ xe đạp có treo một ổ bánh mì dài ngoẵng. So với những lại bánh mì khác có rắc thêm gia vị như mè, trái ôliu, phô mai, nho khô, bánh mì Pháp chân chính có vị ngọt chân phương của bột mì nướng đúng lửa, bẻ miếng bánh ra bên ngoài giòn tan, bên trong mềm nóng, quệt với bơ hoặc dầu ôliu ăn khai vị rất bắt, không cần thịt cá hải sản gì. Kỷ niệm đáng nhớ nhất ở vườn Luxembourg, Paris của tôi là lúc ngồi gặm bánh mì kẹp thịt gà quay tên bãi cỏ với một nhóm người lạ ngồi gần cũng đang nhai bánh mì. Một nhâm viên an ninh lướt qua bảo cả đám phải đi chỗ khác, không được ngồi trên cỏ. Mọi người lục tục giải tán, đến khi anh này quay lưng thì tụ tập trở lại ăn bánh mì tỉnh bơ như không có việc gì xảy ra.
Những kệ bánh mì ở siêu thị Anh hay có món bánh pita, tôi ăn ròng rã mấy tháng mới biết đây là bánh phong cách Trung Đông, ở chấu u thịnh hành nhất tại Hi Lạp. Bánh màu trắng đục hình giống chiếc túi, khi nướng phồng lên đầy hơi bên trong, xẻ chính giữa nhét thịt rau và ớt xanh vào rồi gặm, lần nào ăn tôi cũng tưởng tượng phải kéo fermeture đóng"túi bánh" lại. Đặc biệt là bánh pitta nướng chỉ đủ ẩm vì phải ăn mềm. Nếu bánh tự làm ở nhà sau khi lấy từ lò cần phủ khăn ấm lên để bánh khỏi giòn và cứng.
Ở Hi Lạp, bánh được nhét với thịt heo hoặc thịt cừu ướp bia nước xiên, còn ở Trung Đông, bánh hay được xé hoặc cắt miếng nhỏ chấ với hummus thơm vị chanh, vị tỏi hay vị ớt cay. Thời đi học ở Anh tôi ăn bánh pitta gần như mỗi ngày, đến nỗi bây giờ nhắc lại thấy ngán, ba bốn năm nay không dám đụng tới.
"Đối thủ" về du lịch Đia Trung Hải của Hi Lạp là Tây Ban Nha cũng tỏ ra không kém cạnh với những phong cách bánh mì đặc trưng. Đặc sản bánh mì Tây Ban Nha được biết tới nhiều nhất ở những nước châu u khác có lẽ là pan gallego (bánh mì xứ Galicia). Ổ bánh tròn màu nâu nứt ra làm bốn khía phía trên, nhìn giống như một hạt dẻ rang khổng lồ chờ tách ra nhấm nháp vị giòn bùi. Bánh được rắc thêm hạt hướng dương hoặc hạt bí, ăn vui miệng. Nhưng đặc biệt hơn hết phải kể đến tapas, món ăn nhẹ có mặt ở những quán bar và nhà hàng. Mỗi món để trong một dĩa nhỏ xíu bằng bàn tay, có thể là món nguội như ôliu, salad cá cơm dầu giấm, hoặc món nnóng như thịt băm viên xốt cà chưa, xúc xích chorizo hầm rượu vang đỏ, trứng chiên kiểu địa phương. Tuy nhiên nhắc đến tapas, nhiều người nghĩ ngay đến những khoanh bánh mì nhỏ bằng ba ngón tay, phía trên phủ một món mặn như thịt giămbông, trứng cá, tôm sốt tỏi, bầy trên quầy trông thật "gợi cảm". Chữ tapa tiếng Tây Ban Nha nghĩa là nứap phủ, nắp đậy, vì vậy nhiều người cho rằng món này được chế bởi nông dân vùng Andalucia, khi họ dùng miếng bánh mì phủ lên ly rượu để tránh ruổi. Sau đó người ta có sáng kiến đặt lên mấy trái ôliu muối, miếng pho mát, rồi cá hồi xông khói, vậy là thành một món ăn nhẹ ngon lành.
Bánh mì có tên ngộ nhất là ciabatta, một loại bánh mì Ý, tên ciabatta tiếng Ý nghĩa là "chiếc dép". (Tình cở ở Việt Nam những năm giữa thập niên 1990 thịnh hành một kiểu dép gọi là dép "bánh mì", màu xanh đậm có quai ngang sọc xanh trắng, những anh chàng choai bạn tôi thời đó rất thích mang). Đúng như tên gọi, ciabatta nhìn giống như chiếc dép, màu vàng nâu phủ một lớp bột trắng mỏng bên trên.
Bánh mì nửa dẹp nửa phông, bẻ ra nên trong xốp lỗ chỗ như tổ ong, khi ăn thơm thoảm mùi dầu ôliu, làm ta nhớ tới những bờ biển Địa Trung Hải. Bánh có thể được xẻ ra kẹp thịt nguội, phô mai Ý mozzarella trắng dai và béo, cà chua, lá húng thơm và tiêu xay là xong một bữa nhanh gọn đủ chất. Một số nơi ở Ý còn ăn bánh này kèm những món pasta cũng khá ngon nhưng hơi nhiều tinh bột, không phù hợp khi ăn kiêng, mà dân những thành phố lớn châu u hầu như ai cũng ăn kiêng nên hiếm khi ăn kiểu này.
Kể bánh mì châu u hoài có lẽ cũng phải tử tế ưu ái nói thêm một chút về bánh mì ở Anh. Đến bất cứ siêu thị hoặc hội chợ nông dân nào ở Anh cũng có thể bắt gặp hàng loạt bánh mì đến từ khắp nơi trên thế giới, nhưng ít ai biết thời điểm trước những năm 1960 ở quốc đảo này không hề biết đến baguette, ciabatta hay focaccia gì hết. Đó là thời ky kham khổ sau chiến tranh thế giới thứ hai, khi mỗi người nông dân còn phải nhận khẩu ohần ăn mỗi tuần bao nhiêu trứng, bao nhiêu lạng thịt heo muối, bao nhiêu bánh mì.
Tiểu thuyết Trên bãi biển Chesil của tác giả nổi tiếng Ian McEwan có viết về sự cách biệt giai cấp ở Anh, khi chàng trai nghèo dùng bữa ở nhà người yêu gọi bánh baguette là bánh croissant (bánh sừng trâu Pháp), làm cô em gái người yêu phải cười phá lên không kìm nổi , khiến cha mẹ cô phải yêu cầu cô ra khỏi bàn ăn cho đến khi ngưng cười.
Quả vậy, thời điểm đó ở Anh chỉ biết tới bánh mì xắt lát bằng bàn tay đựng trong túi nhựa, lại này ở Việt Nam gọi là bánh mì sandwich. Thật ra sandwich chỉ những lại bánh có kẹp thức ăn ở giữa, dù là bánh mì xắt lát dẹp hay bánh mì ổ kiểu Việt Nam. Bánh này có tên từ Bá tước Mỏnagu xứ Sandwich, một thị xã ở hạt Kent miền Nam nước Anh, vì ông sáng chế ra kiểu ăn kẹp thức ăn vào bánh này.
Người viết tiểu sử của Mỏnàu cho là ông phải ăn như vậy do cần ăn uống gọn nhẹ vì phải làm việc nhiều nơi bàn giấy, trong khi giới gian hồ đồn ông ăn như vậy vì... nghiền đánh bạc, muốn ăn tại chỗ không muốn rơi "sòng". Không biết phải tin ai, nhưng dù sao ẩm thực thế giới cũng biết ơn ông đã sáng chế ra món ăn ngon lành, tiện lợi.
Quay trờ lại món bánh mì xắt lát, thành ngữ Anh có câu "Thứ tốt nhất kể từ khi có bánh mì xắt lát". (The best thing since sliced bread), ám chỉ thứ gì rất tốt, rất tiện lợi, xuất sắc. (Ví dụ bản thân tôi hay nói "Google là thứ tốt nhất kể tự khi có bánh mì xắt lát"). Chỉ như vậy cũng đủ thấy bánh mì xắt lát được ưa chuộng đến mức nào. Dân số liên hiệp Anh hiện nay chỉ có hơn sáu mươi triệu, nhưung mỗi ngày trên dưới mười triệu túi bánh mì xắt lát gầ một kí được bán ra. Ngày nay ở Anh đã quen ăn những món tin bột khác như mì Ýhoặc gạo, nhưng bánh mì lát vẫn là món ăn của mọi nhà, không chi ở những ai mang tính hoài cổ. Để nguyên thì ăn mềm, còn buổi sáng thì cho vào lò nướng, bánh vừa giòn là nhảy bật ra khỏi lò kêu tanh tách, phết bơ lên ăn với tách trà sữa nóng hay cà phê. Dân Anh còn hay phết lên những loại thức ăn lên men từ rau củ hoặc thịt bò nhãn hiệt Brovril hoặc Marmtie, có mùi vị đặc trưng rất khó chịu đối với người Việt Nam như mắm tôm đối với Tây.
Còn rất nhiều phong cách bánh mì nữa nhưng đến đây đã khuya đói bụng, chắc tôi phải xuống bếp kiếm ổ bánh mì Tây Ban Nha rồi kẹp lạp xưởng Việt Nam, kếp hợp phong cách "béo ngậy Địa Trung Hải". Những loại khác, xin hẹn dịp nào kể tiếp vậy!
|
BÁNH MÌ THƠM CÀ PHÊ ĐẮNG Tác giả: Ngô Thị Giáng Uyên Chương 3
Ads Slovenia, ngon quên đường về Có tiếng gõ cửa phòng, tôi choàng dậy thấy trời đã sáng rỡ, có mấy con chim đậu ngoài cửa hót nghe vui vui. "Loạng choạng" ra mở cửa, tôi thấy chị chủ khách sạn bưng lên một dĩa bánh nhìn đã thấy thèm.
Chị có vẻ áy náy khi thấy tôi mắt nhắm mắt mở, nhưng tôi xua tay: "Ồ không, giờ này dậy là trễ quá rồi", rồi đón lấy dĩa bánh: "Chị tử tế quá, cảm ơn chị".
Tôi tự pha cho mình một ly cà phê rồi ra ban công nhấm nháp bánh. Loại bánh chị đem lên cho tôi là gibanica, bánh truyền thống Slovenia và các nước vùng Balkan, được sắp thành lớp bột mỏng, loại bột nướng cắn vào giòn như bánh sừng trâu của Pháp, ở giữa kẹp phô mai ngọt mềm mại và hạt poppy giống mè đen li ti.
Ban công nơi phòng tôi nhìn xuống thung lũng xanh rờn thích mắt, không khí buổi sáng vùng núi xứ Alps làm người nhẹ tênh, thật là một ngày khởi đầu "có lý" cho một kỳ nghỉ đúng nghĩa.
Cá nướng và vang...
Trước khi đến Slovenia (thuộc Nam Tư trước đây), tôi đã có hơn tám tháng không rời khỏi nước Anh ngoại trừ một chuyến đi ngắn ngủi đến miền Bắc xứ Wales, nhưng xứ Wales cũng tính là Anh vì mọi thứ không khác gì mấy.
Vốn hay đi đó đây, tám tháng đủ làm tôi cuồng chân và không chịu nổi, vì vậy tôi rất trông đợi những ngày ở đất nước Đông u ít người biết đến này, đất nước nhỏ bé nhưng dường như có tất cả: có những dãy núi xứ Alps trùng điệp quanh năm tuyết phủ, có Địa Trung Hải nóng bỏng, có những con sông chảy xiết đầy cá, có những cánh đồng nho ngút ngàn, và đặc biệt có những món ăn ngon lành nhưng ít ai biết đến. Đêm đầu tiên ở đây, tôi đã ăn món cá nướng tuyệt ngon trong một nhà hàng nhỏ phong cách Balkan gần hồ Bled. Khi gọi cá nướng, tôi tưởng sẽ được đem ra một miếng philê cá nhỏ nhưng không ngờ đầu bếp cho nguyên một con cá khổng lồ dài gần hai gang tay lên bếp. Nhà hàng có bếp nướng đặt trực tiếp ở chỗ những nơi khác làm quầy bar, khách có thể nghe tiếng xèo xèo của mỡ cá và mùi thơm dậy lên làm chảy nước miếng. Lớp da cá chín vàng giòn, bên trong thịt trắng muốt và chắc nịch, ăn với khoai tây và món rau spinach địa phương luộc trộn muối hột và dầu ôliu đậm đà, kèm ngụm rượu vang trắng làm đê mê đầu lưỡi. Nhắc đến rượu vang, có thể nói tôi chưa đến bất cứ nơi đâu rượu rẻ như ở đây. Một ly rượu ở một nhà hàng sang trọng chỉ dưới một euro, mà rượu ngon đàng hoàng, khô, ngọt và thanh, không thua kém các loại vang nổi tiếng của Pháp, Ý, Tây Ban Nha... Những cánh đồng nho xanh rờn ở Slovenia cũng là một trong những điểm du lịch, trong đó có luống tuổi đời trên dưới 400 năm, được cho là luống nho già nhất thế giới còn cho trái. Có lần tôi thắc mắc hỏi sao rượu Slovenia ngon vậy nhưng không thấy bán ở những nước khác, mới được biết rượu ở đây làm ra chỉ đủ cho dân bản xứ dùng.
Pizza "ngon nhất thế giới" Ẩm thực Slovenia chịu ảnh hưởng qua lại của nhiều nước láng giềng. Những năm dưới sự cai trị của đế quốc Áo - Hung mang lại những món xúc xích và bánh strudel (1) của Áo, món xúp goulash và thịt bò hầm của Hungary. Ảnh hưởng của Đức có thể thấy qua việc bắp cải và khoai tây có mặt trong hầu hết những bữa chính. Miền Nam giáp với Ý nên cũng du nhập nhiều món Ý như cơm risotto, mì sợi và không thể không nhắc đến pizza.
Một lượng tinh bột giàu chất amylopectin từ các hạt gạo ngắn tròn thường được sử dụng để làm risotto, loại gạo này có khả năng hút nước cao, chứa nhiều tinh bột nên thường dẻo hơn những loại khác.
Bánh Apple strudel Bánh táo vốn là món ăn truyền thống của người Áo và Đức xúp goulash Tôi đã đi Ý hai lần, ăn nhiều pizza chính hiệu Ý nhưng món pizza ngon nhất thế giới tôi từng được ăn lại ở Slovenia, tại một nhà hàng trong con hẻm nhỏ trên đường đi xuống từ lâu đài Bled. Đó là một buổi chiều mưa bất chợt, đang tham quan lâu đài trên cao nhìn xuống hồ thì mưa bắt đầu lắc rắc, làm tôi phải chạy hụt hơi xuống mấy trăm bậc thang vì sợ mưa lớn bị kẹt lại ở trên thì khổ.
Xuống đến hồ ngồi vào chỗ có mái che nhìn mưa dầm, hồ có đẹp, có nhiều vịt nhiều thiên nga đến mấy nhìn hoài cũng chán, tôi đội mưa đi lòng vòng kiếm chỗ ăn. Ngày hôm trước tôi trang bị đầy đủ áo ấm khăn choàng thì nắng nóng, hôm nay chủ quan không mang gìtheo thì mưa gió lạnh run cầm cập.
Đi bộ một lúc, tôi thấy quán pizza có ban công mái che thắp đèn ấm áp, chỗ ngồi nhìn ra tháp nhà thờ và những căn nhà gỗ xinh đẹp treo những giỏ hoa tươi, nước mưa nhỏ long tong. Tôi hơ tay trên nến đặt giữa bàn, gọi một pizza cỡ nhỏ nhưng được mang ra một chiếc to như chiếc mâm, lớp bột bên dưới và rìa bánh giòn rụm nhưng bên trong lại dẻo mềm nhờ lớp phô mai vàng nhạt lẫn với cà chua đỏ óng ánh, bề mặt đầy hải sản mực, cá, tôm, cua, sò, vẹm, đúng nghĩa "ngon quên trời đất", mưa sụt sùi ngòai kia vẫn thấy cuộc đời tươi đẹp biết bao. Đang ăn, một khách bước vào nhìn tôi kêu lên: "Trời, gặp bạn ở đây!", tôi nhận ra cô gái người Ailen ngồi cùng chuyến xe buýt từ sân bay thủ đô Ljubljana đến Bled. Cô mở cuốn sách hướng dẫn du lịch trên tay, hỏi: "Bạn cũng biết nhà hàng này qua sách?". Tôi lắc đầu: "Không, tôi tình cờ khám phá ra. Số tôi luôn gặp xui với thời tiết nhưng hay gặp hên chuyện ăn uống".
Bánh kem và xúp... ngon quên đường về Bánh kem Bled nổi tiếng béo ngậy ngon là nh Sau năm ngày, tôi luyến tiếc chia tay thành phố Bled non xanh nước biếc, dĩ nhiên trước khi đi không quên ăn bằng được món bánh kem (Kremna rezina) nổi tiếng, được sáng chế tại đây sau Thế chiến thứ hai. Người Slovenia ở những vùng khác vẫn thường lặn lội đến tận Bled để ăn món này.
Tôi chọn quán bánh ngọt Smon có logo hình con gấu liếm kem, chỉ cần nhìn lượng khách dài ngoằng xếp hàng ra tận cửa là thấy yên tâm. Có lẽ quán có tới hàng trăm loại bánh và kem khác nhau, xếp lớp trong tủ kính, ai hảo ngọt vào đây chắc không thể kềm lòng được.
Tôi gọi món "quốc hồn" ở đây rồi ngồi trong cái nắng xứ Alps cũng ngọt như bánh, ngắm nghía mãi không dám ăn vì sợ hết. Bánh thoảng mùi vani, được sắp thành nhiều lớp, dưới cùng là lớp bột giòn mỏng, đến một lớp dày sữa trứng dẻo giống món tráng miệng custard của Anh, rồi một lớp kem dày mềm mịn màng, loại kem tươi phết trên bánh sinh nhật, trên nữa là mấy lớp bột giòn, trên cùng rắc đường trắng li ti như tuyết.
Như đã nhắc tới ở trên, Slovenia tuy nhỏ bé nhưng có vị trí địa lý khiến nhiều nước châu u lớn phải lấy làm ghen tị, vì chỉ gần hai giờ đồng hồ trên xe, tôi đã rời xứ Alps núi non chập chùng để đến với Địa Trung Hải ngập nắng và gió mang theo mùi muối biển mặn. Phố cổ Piran đẹp như tranh với bờ biển chan hòa nắng có những con thuyền trắng giương buồm, những ngôi nhà xưa ở quảng trường mang phong cách Venice, những quán ăn dưới giàn nho chín mọng đầy khách ăn uống nói chuyện rôm rả.
Ở đây, tôi như sống trên thiên đường vì món xúp cá. Hôm đầu tiên, xúp nấu với vẹm xanh lẫn những sớ cá nạc thơm ngon mặn mà như tô bánh canh cá dầm miền Trung Việt Nam, cà rốt xắt mỏng, bên dưới là những hạt gạo mềm nở bung, ăn kèm bánh mì nhỏ bằng bàn tay phết bơ và dĩ nhiên, rượu vang.
Súp cá mặn Món xúp cá ngày hôm sau khác hẳn, nấu với rất nhiều cà chua nghiền đỏ tươi kèm rau thơm nhuyễn, tôm lột vỏ đỏ hồng lặn bên dưới chung với cá trắng phau, ăn với bánh mì nướng xắt khoanh chấm dầu ôliu. Mỗi loại xúp ngon mỗi kiểu, ngọt lừ vì nấu bằng hải sản tươi. Xúp cá ngày thứ hai này là món khai vị cho một set menu buổi trưa giá chỉ 14 euro của một nhà hàng hạng sang bên biển, thực đơn này ở những thành phố châu u khác ở nhà hàng sang như vậy giá gấp ba, bốn lần, vì ngòai xúp cá còn có món chính phile cá nướng than vàng óng, ăn kèm một tô rau trộn khổng lồ đầy dưa leo, cà chua, xà lách, bắp ngọt và hành tây, cuối buổi lại tráng miệng bằng ly cocktail trái cây xắt hạt lựu chua chua ngọt ngọt. Bàn tôi ngồi hướng ngay ra Địa Trung Hải xanh thẳm lấp loáng nắng trưa, trong những cơn gió lồng lộng thỏi từ biển thật thích. Về lại Anh, mỗi lần tôi khoe bữa ăn này, bụng ai cũng sôi lên sùng sục.
Ở Slovenia, tôi thích thú nhận ra ngay cả những thành phố du lịch vẫn không thấy bóng dáng các quán ăn nhanh hay các chuỗi cà phê toàn cầu. Đất nước Đông u này vẫn tự hào là một trong những nơi khởi nguồn "ăn chậm", với những buổi họp mặt bạn bè, những bữa ăn ở các nông trang hoặc các nhà hàng theo trào lưu này, mỗi bữa từ tám món trở lên, tất cả đều được nấu theo kiểu cổ, được mang ra lần lượt và mỗi món được uống với mỗi loại rượu khác nhau.
Bữa "ăn chậm" cũng là dịp trò chuyện trong không gian ấm áo thư giãn, để vào tuần lễ mới tiếp tục với công việc bận rộn.
Nhưng tôi không tham gia vào bữa "ăn chậm" nào, một phần vì mỗi bữa hơn tám món chắc sẽ lên ký vùnvụt, một phần vì chỉ một tuần ăn uống bình thường ở Slovenia thôi đã ngon quên đường về.
|
BÁNH MÌ THƠM CÀ PHÊ ĐẮNG Tác giả: Ngô Thị Giáng Uyên Chương 4
Ads Ăn hàng chợ Helsinki Có lần tôi đọc một vài viết của nhà văn Nguyễn Tuân về phở, trong đó lấy bối cảnh chuyến đi tham gia hội nghị tại thủ đô Helsinki, Phần Lan của ông và một số người Việt làm trong các lĩnh vực khác nhau. Đại loại trong bài viết có phần chê món sở tại khó ăn và nói lên nỗi nhớ nhà, nhớ món ăn quê hương, đặc biệt là phở. “Mỗi ngày ăn ba bữa, khẩu phần thừa thãi bổ béo. Nghi thức lúc ăn thật là trang trọng: đồ sứ, pha lê, kắn bàn trắng muốt, quanh bàn ăn chốc chốc lại cử nhạc, những chị đưa món ăn trông đẹp như rượu rót trong các truyện thần thoại phương Bắc này. Tôi hào hứng làm việc liền liền ở Đại hội Hòa bình thế giới, cơ thể nhịp đều, tâm trí có nhiều sáng kiến. Nhưng ăn uống sao không thấy ngon. Người ta thường nói rằng những bậc vĩ nhân hoặc hiền giả có chí lớn chỉ biết có sự nghiệp mà rấy coi nhẹ miếng ăn. Nhưng trường hợp tôi kể ra đây chỉ là cái trường hợp thông thường của một con người bình thường thôi.” “Này, các cậu có thấy món ăn ở Phần Lan có nhiều cái rất kỳ quặc không.
Thịt bò rán, lại phiết mứt công phi chưa ngọt sắt lên trên.
Cam chanh lại ăn kèm với cá gỏi. Cơm lại ướp vào tủ nước đá, mình thấy đĩa cơm có khói, lúc ăn buốt đến chân răng.
Nghệ thuật ẩm thực tôi gọi tên là lối nấu nướng của trường phái lập thể. Cho nên tôi càng thấy cần phải trở về với món quà cổ điển rất tính chất dân tộc của ta, tức là phở.” Bài viết rất hay, mô tả được những cung bậc, sắc thái của món ăn quốc hồn quốc túy Việt Nam. Tôi đảm bảo ai đọc xong bài này cũng muốn chạy ra quán phở mưa ngay một tô bốc khói nghi ngút thơm lừng thịt bò tái và tiêu xay, thoảng nhẹ mùi gừng và hành hoa, xì xụp ăn. Chỉ có điều tôi thấy tiếc cho các nhà văn nước ta, chỉ ăn những món được phục vụ tại hội nghị mà không chịu ra ngoài dạo chợ Helsinki, ăn những món người dân địa phương thường ăn, để thưởng thức được hết hồn ẩm thực của đất nước xa xôi này.
Đi lòng vòng quanh chợ là một trong những thú vui lớn nhất của tôi mỗi lần có dịp đến Scandinavia, bởi lẽ đó cũng là một phần đời sống văn hóa của bán đảo hàn đới. Chợ mùa thu ở đây là cả một rừng màu sắc tươi tắn như thể để dung hòa bầu trời xám và những cơn mưa Bắc u đỏng đảnh chợt ào đến rồi đi làm ướt áo người qua đường. Theo lời mách bảo của nhiều người, tôi đến Kauppatori, ngôi chợ ngoài trời ở quảng trường trung tâm thành phố, ngay cạnh cảng thuyền. Đó là một ngày chủ nhật không được đẹp trời cho lắm, mưa lâm thâm và mây về giăng kín trên cao. Tôi đến đúng vào dịp hội trưng bày thuyền, rất nhiều thuyền gỗ, cả xưa lần hiện đại, về neo bên cảng, cánh buồm vươn bay phần phật trong gió. Mùa này vắng du khách nên xung quang toàn thấy người địa phương đi mua sắm và ăn uống ngày cuối tuần, trông ai cũng vui vẻ hồ hởi.
Ngay lối vào là quầy trái cây tươi rực rỡ. Sở dĩ tôi nói thích chợ xứ Scandinavia là vì trái cây và rau củ phong phú nơi đây. So với Phần Lan, các nước Anh hay Pháp kém xa về chủng loại berry tươi mọng. Đứng trước các quầy trái cây, bạn dễ bị “chóng mặt” không biết phải chọn lựa gì, vì berry ở đây loại nào trông cùng ngon lành, căng mẩy, nhất là dây mây (cloudberry) múi tròn mọng màu hổ phách mọc hoang trong những cánh rừng xứ Lapland – quê hương ông già Noel. Ở Phần Lan, các loại berry chín chậm hơn những nơi khác, từ khi hoa thụ trí đến lúc trái chin là cả một quá trình dài ướp hương trời, hương gió, hương nắng và hương mưa, vì vậy mùi vị ngọt ngào của no cũng độc đáo hơn những nơi khác. Berry ở đây được bán đong bằng lon, cách bán dân dã đã “thất truyền” từ lâu ở những điểm hiện đại hơn như siêu thị và các cửa hàng tiện nghi. Ba euro một lon vun đầy trái đỏ ối, nhỏ bằng đầu ngón út, mọng nước trong trĩnh.
Táo ở đây màu không đỏ tía như táo Mỹ cũng không nhợt nhạt như táo Trung Quốc mà có khúc đỏ tươi có khúc vàng hườm, chỉ bằng nắm tay, da bóng lưỡng chỉ cần tường tượng cắn ngập răng vào đó nước táo ngọt thanh sẽ tràn ngập trong miệng Quầy rau củ trông cũng thật ngon mắt, nhất là dãy nấm dại vàng mướt chỉ có ở những vùng phía rừng phía Bắc Phần Lan. Nấm dại ở đây được cho phép hái thoải mái, nên lúc trước có những người Thái sang Phần Lan chỉ để vào rừng hái nấm, có loại bán được 800 USD/kg cho Nhật, vi người Nhật chuộng nấm Phần Lan hơn hết. Nấm vàng bày ở chợ Kauppatori này nếu mang về được Việt Nam để đúc bánh xèo hoặc nấu cháo thì hết chê, xào lăn hay đút lò kiểu Tây cũng ngon không kém nhưng ở đây tôi không có bếp nấu nên đành chép miệng tiếc rẻ.
Đói bụng, tôi đi nhanh qua những quầy bán hàng lưu niệm từ sừng và da tuần lộc (con vật kéo xe cho ông già Noel), bán mũ và với len, bán đồ gỗ được làm bởi người dân tộc Sami ở Lapland…để “thẳng tiến” đến quầy ăn uống với mùi chiên nướng thơm lừng. Đây chính là nơi đáng lẽ Nguyễn Tuân phải đến. Hải sản ở Phần Lan rất tươi và là một phần không thể tách rời trong bữa ăn hàng ngày của người bản xứ. Chợ Kauppatori lại nằm ngay cảng thuyển nên nếu bạn gặp may còn có thể gặp những ngư dân với thuyền đầy ắp cá hồi và tôm mới đánh được, mang thẳng ra quầy ăn để chế biến ngay tại chỗ cho khách. Bảng thực đơn được sơn vẽ trên tấm bạt che mưa phía trên đầu người bán được viết toàn bằng tiếng địa phương, không có tiếng Anh.
Nhưng bạn cũng không lo gọi nhầm món vì có tể chỉ trực tiếp vào món người bán đang nấu trong những chảo gang khổng lồ, mùi mỡ xèo xèo nức mũi. Nhiều người chọn món cá chiên hỗn hợp: gồm một loại cá nhỏ như cá cơm được bọc lớp bột mỏng đem chiên giòn, philê cá hồi hồng tươi và cá trích nguyên con. Một đĩa 8 euro chấm với sốt ớt hoặc mayonnaise đến no.
Cũng có người thích ăn cá hồi xông khói đỏ au mềm mại kèm bánh rye bằng lúa mạch màu nâu đen có lỗ tròn lớn ở giữa, có nguồn gốc là bánh dành cho nông dân Phần Lan.
Những đặc sản khác của Helsinki được cả dân địa phương lẫn khách du lịch ưa thích, bao gồm cá trích biển Baltic nướng than ăn kèm nước sốt bơ đun chảy với rau thì là xắt nhuyễn hoặc thịt băm viên tròn kiểu truyền thống sốt cà chua. Tôi tạt vào quầy súp, gọi món súp cá hồi đặc sản và được mang ra một tô bốc khói nước súp nóng bỏng, với những sớ phi lê cá hồi hồng hồng dầm lẫn khoai tây vàng ươm. Cá hồi ở đây quả “danh bất hư truyền” (vì lẽ đó mà các siêu thị ở Anh nơi tôi sống luôn có cá hồi Bắc u trong quầy hải sản), thịt cá chắc và ngon tuyệt, đưa một muỗng nước súp có cá hồi dầm lên, mùi thơm lừng trên mùi khó mà đợi thêm một giây nào không đưa lên miệng. Những miếng khoai tây được nấu nhừ nhưng không nát, còn nguyên vẹn hình khối, thật hòa hợp với súp cá lẫn thêm hành tây được xào sơ trước khi trút vào, giòn sần sật để đi đôi với vị khoai tây nhuyễn. Người bán còn đưa kèm một chiếc bánh pulla đặc trưng Phần Lan. Bánh mì hình tròn nhỏ - ăn kèm súp, nhúng vào nước cho miếng bánh mềm mại rồi nhau chầm chậm đến khi bánh tan trên đầu lưỡi.
Tôi ngồi ăn trong chợ mái vòm ở xứ sở Helsinki xa vời vợi ngay cả đối với dân các nước châu u khác (vì Phần Lan nằm ở cực Bắc). Miếng súp cá hồi cuối cùng lẫn nhiều hạt tiêu xay thơm cay trong miệng, làm tôi chợt nhận ra nó giống nước súp từ món bánh canh cá dầm tôi hay ăn hồi còn đi học ở quê Khánh Hòa, mặc dù ở quê bánh canh làm từ cá mối chẳng có họ hàng gì với cá hồi xứ lạnh. Thể mới biết món ăn cũng là sợi dây kết nối những nền băn hóa xa xôi mà du khách đôi khi giật mình nhận thấy.
- Nhưng có lẽ điểm nhấn thú vị nhất của chuyến đi dạo chợ Helsinki lần này là khám phá bất ngờ từ những con thuyền neo bên bến cảng gần chợ, từ ống khói thuyền có làn khói bảng lảng bay lên trời. Đặc biệt một số thuyền rất đông người lên xuống, tôi đoán thuyền được trưng bày nên mọi người có thể xuống cabin tham quan phía trong nên lần mò theo xuống bận thang hẹp và thấp. Và bạn biết tôi thấy gì không? Cabin thuyền là một quán ăn nhỏ nhắn mà chỉ những người sành và khoái ăn uống mới biết, vì bên ngoài thuyền không có bảng hiệu hay bất cứ một dấu hiệu nào cho thấy đây là nơi bán thức ăn. Mọi người đang xì xịp húp húp súp nóng hoặc xiên cá trích xông khói vào nĩa, bên những dãy bàn ghế gỗ dài cũ kỹ. Ánh sáng trong thuyền được thắp bằng nến và đèn dầu kiểu hàng hải xưa. Ngay lối vào, nơi có một số cửa số thuyền hình tròn che màn vải cứng có đặt một rổ mây đựng bánh mì nướng và bánh mì lúa mạch cùng một tảng bơ lớn. Ánh đèn dầu tù mù hắt vào làm ta liên tưởng đến những bữa ăn của thủy thủ và ngư dân ngoài khơi. Hào hứng, tôi đi xuống mấy thuyền như vậy đều là những quán ăn bán đủ thứ nóng sốt ngon lành.
Đã no sau món súp cá hồi nhưng tôi cũng tự thưởng cho pháy hiện nhà hàng ẩn trong thuyền của mình bằng món tráng miệng bánh pancake (giống bánh xèo Việt Nam nhưng vị ngọt) vừa tráng trong chảo còn nóng hổi, trên mặt phết kem tươi dẻo quánh và béo ngầy béo ngậy, ngồi ăn và nhìn trời mưa rơi bên ngoài boong thuyền.
Trời cứ mưa rả rich như vậy cho đến khi tôi ra về. Nhưng một ngày dạo chợ Helsinki mùa vắng du khách, để thưởng thức những món ăn đặc sản địa phương như chính người địa phương, để tự mình khám phá những điểm bất ngời thú vị mà không sách hướng dẫn du lịch hay bài báo nào biết được, dù bị mưa ướt thì tôi cũng chẳng phiền chút nào.
|