Tắt Đèn (Ngô Tất Tố)
|
|
Tắt Đèn Ngô Tất Tố
Tác phẩm đã vạch trần bộ mặt tàn ác, bất nhân bất nghĩa của xã hội thực dân phong kiến đương thời. Xã hội ấy đã đẩy người nông dân vào tình cảnh vô cùng khổ cực khiến họ phải liều mạng chống lại.
Tắt đèn là một trong những tác phẩm văn học tiêu biểu nhất củahà văn Ngô Tất Tố (tiểu thuyết, in trên báo Việt nữ năm 1937). Đây là một tác phẩm văn học hiện thực phê phán với nội dung nói về cuộc sống khốn khổ của tầng lớp nông dân Việt Nam đầu thế kỉ 20 dưới ách đô hộ của thực dân Pháp.
Tác phẩm xoay quanh nhân vật chính là chị Dậu và gia đình đang trong mùa sưu thuế; một điển hình của cuộc sống bần cùng hóa do sưu cao thuế nặng mà chế độ thực dân áp đặt lên xã hội Việt Nam. Tác phẩm Tắt đèn không chỉ phản ánh được sự hống hách, bất nhân, tàn nhẫn của bộ máy quan lại đương thời, mà còn cho thấy những phẩm chất cao quý của người nông dân, được coi là những kẻ ở dưới đáy xã hội qua hình ảnh chị Dậu. Dù họ có bị tầng lớp thống trị lấn át, dù có bị những gông cùm vô hình kìm kẹp bấy lâu nay và dù cuộc sống của họ có tăm tối, cùng quẫn đến mức nào cũng không thể khiến họ đánh mất những đức tính cao đẹp vốn có, nhưng đồng thời cũng thể hiện sức phản kháng tiềm tàng mạnh mẽ của những người nông dân nghèo. Và dù khi câu chuyện kết thúc, chị Dậu vẫn không thoát khỏi cuộc đời tăm tối của mình, nhưng qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ, Ngô Tất Tố đã nêu lên một quy luật tự nhiên rằng: ở đâu có áp bức thì ở đó có đấu tranh, và có lẽ đoạn trích trên chính là dấu hiệu báo trước cho cuộc cách mạng năm 1945.
Tắt đèn đã được đưa vào chương trình giáo dục văn học Việt Nam trong sách Ngữ văn 8, tập một (đoạn trích Tức nước vỡ bờ) và đã được điện ảnh Việt Nam chuyển thể thành một bộ phim. Tắt đèn là một tác phẩm mang tính chất của một luận ngữ phê phán chế độ thực dân nửa phong kiến đương thời của thế kỉ 20, tắt đèn là luận văn mang tính nghệ thuật cao góp phần thúc đẩy quá trình nhận thức của xã hội đương đại, nó đúng là tác phẩm hay nhất đương thời làm cho giới nghệ sĩ luôn khó khăn trong việc đả kích chế độ "tư nhân sở hữu". Nhà văn Nguyễn Tuân cho rằng: "Ngô Tất Tố đã xui người nông dân nổi loạn".
Tóm tắt Nội dung
Tác phẩm kể về nhân vật chính là chị Dậu. Trước khi lấy chồng chị vốn có tên là Lê Thị Đào, một cô gái đẹp, giỏi giang, tháo vát và (theo nhà văn là) sinh ra trong gia đình trung lưu.
Vốn lúc đầu, gia cảnh anh chị Dậu có dư dả, nhưng vì liền lúc mẹ và em trai anh Dậu cùng qua đời, anh chị dù đã hết sức cần kiệm nhưng vẫn phải tiêu quá nhiều tiền cho hai đám ma chay. Chưa hết, sau khi đám ma cho em trai xong, anh Dậu bỗng mắc bệnh sốt rét, không làm gì được, mọi vất vả dồn lên vai chị Dậu, khiến gia cảnh lâm vào hạng cùng đinh trong làng.
Mùa sưu đến, chị Dậu phải chạy vạy khắp nơi vay tiền để nộp cho chồng, nhưng không kiếm đâu ra. Anh Dậu dù bị ốm nhưng vẫn bị bọn cai lệ cùm kẹp lôi ra giam ở đình làng. Cuối cùng, bần quá, chị buộc lòng phải dứt ruột bán đi cái Tí, đứa con gái đầu lòng 7 tuổi ngoan ngoãn hiếu thảo, và ổ chó mới đẻ cho vợ chồng lão Nghị Quế để lấy hai đồng nộp sưu. Nhưng vừa đủ tiền nộp sưu cho chồng, bọn cai trong làng lại ép chị nộp cả tiền sưu cho em trai anh Dậu với lí do chết ở năm ta nhưng lúc đó lịch năm tây đã sang năm mới. Vậy là anh Dậu vẫn bị cùm kẹp không được về nhà.
Nửa đêm, anh Dậu dở sống dở chết được đưa về. Được bà con lối xóm giúp đỡ, anh dần tỉnh lại. Một bà lão hàng xóm tốt bụng cho chị bò gạo nấu cháo để anh ăn lại sức. Nhưng vừa kề bát cháo lên miệng, bọn cai lệ và người nhà lý trưởng ập vào ép sưu. Chị Dậu ra sức van xin không được, cuối cùng uất ức quá, chị đã ra tay đánh cả cai lệ và tên người nhà lý trưởng.
Phạm tội đánh người nhà nước, chị bị thúc giải lên quan. Tên quan huyện lại là tên dâm ô, định ra tay sàm sỡ chị. Chị bèn vứt tọt nắm bạc vào mặt hắn rồi vùng chạy.
Sau đó, chị may mắn gặp một người nhà quan cụ trên tỉnh. Người này cho chị 2 đồng nộp nốt tiền sưu và hứa hẹn cho chị công việc vắt sữa để quan cụ uống (do quan cụ đã rụng hết răng không ăn được cơm). Chị bèn về bàn với anh Dậu, cho cái Tỉu làm con nuôi nhà hàng xóm, lên tỉnh làm việc.
Thời gian đầu, chị làm được tiền và gửi về cho anh Dậu. Nhưng vào một đêm tối, quan cụ mò vào buồng của chị... Tác phẩm kết thúc bằng câu "Chị vùng chạy ra ngoài giữa lúc trời tối đen như mực, đen như cái tiền đồ của chị vậy"! Nhân vật Chị Dậu: (nhân vật chính): một người phụ nữ nông dân nghèo, vừa xinh đẹp, chu đáo, tháo vát, đảm đang, yêu thương chồng con hết mực.
Anh Dậu: một nông dân hiền lành chất phác, là chồng của chị Dậu. Anh bắt đầu đi làm ruộng từ năm 8 tuổi, và là một tá điền lực lưỡng. Sau khi lo ma cho em trai xong, anh bị mắc bệnh sốt rét, không làm ăn được gì. Tới mùa sưu, anh bị cùm kẹp ra đình làng để vợ ở nhà phải bán con kiếm tiền nộp sưu chuộc anh về.
Cái Tí: là con gái đầu lòng của vợ chồng anh chị Dậu. Đây là một cô bé ngoan ngoãn, hiếu thảo, đảm đang, tháo vát. Mới 7 tuổi nhưng đã thay mẹ đảm đương việc nhà, chăm em, biết thương thầy bu. Vì không có tiền nộp sưu cho thầy, em buộc lòng bị bán làm con nuôi cho con dâu Nghị Quế để gánh bớt đi bệnh tật. Trong đoạn bị bán cho vợ chồng lão Nghị, em bị vợ lão ép phải ăn cơm thừa của chó cho tới khi nào ăn hết mới được ăn cơm mới.
Thằng Dần: đứa con trai 5 tuổi của vợ chồng anh chị Dậu. Nhõng nhẹo và chưa biết nghĩ tới thầy bu như cái Tí nhưng rất quý chị. Sau khi cái Tí bị bán, đã nằng nặc bắt bu phải dẫn chị về.
Cái Tỉu: đứa con gái út mới hai tuổi, luôn khát sữa mẹ.
Vợ chồng Nghị Quế: hai kẻ địa chủ độc ác. Nhân mùa sưu thuế đã đi xiết đồ của các dòng họ với giá rẻ. Vợ chồng lão tuy giàu nhưng lại kẹt sỉ, ngu dốt và thủ đoạn. Một số câu thoại như: "Đồng hồ tây có bao giờ sai?", "Bếp! Dọn mâm! Bà đã đếm rồi! Đúng đủ 14 miếng giò! Thiếu miếng nào là mày chết với bà"... Khi trả tiền bán con, bán chó cho chị Dậu, bà Nghị còn đưa thiếu mấy hào làm chị Dậu cũng phải thốt lên: "Vợ chồng Nghị Quế giàu thế mà còn điêu"!
Cai lệ: kẻ đi thúc sưu và bị chị Dậu đánh ngã ngửa ra giữa nhà.
Quan huyện: tên quan dâm ô, lợi dụng xử án cho chị Dậu định cưỡng bức chị.
Quan cụ: là lão già đã rụng hết răng, không ăn được cơm, phải uống sữa người (vì uống sữa bò rất nóng). Trong đêm tối mưa gió, lão đã mò vào buồng chị Dậu...
Mụ cửu Xung: vợ quan cửu Xung trên tỉnh. Người này đã cho chị Dậu 2 đồng nộp tiền sưu còn thiếu và giới thiệu cho chị công việc mới.
|
Chương 1
Bắt đầu từ gà gáy một tiếng, trâu bò lục tục kéo thợ cày đến đoạn đường phía trong điếm tuần.
Mọi ngày, giờ ấy, những con vật này cũng như những người cổ cầy, vai bừa kia, đã lần lượt đi mò ra ruộng làm việc cho chủ. Hôm nay, vì cổng làng chưa mở, chúng phải chia quãng đứng rải rác ở hai vệ đường, giống như một lũ phu cờ chờ đón những ông quan lớn.
Dưới bóng tối của rặng tre um tùm, tiếng trâu thở phì phò, tiếng bò đập đuôi đen đét, xen với tiếng người khạc khúng khắng.
Cảnh tượng điếm tuần thình lình hiện ra trong ánh lửa lập lòe của chiếc mồi rơm bị thổi. Cạnh dãy sào, giáo ngả nghiêng dựng ở giáp tường, một lũ tuần-phu lố nhố ngồi trên lớp chiếu quằn quèo. Có người phì phò thổi mồi. Có người vê vê mồi thuốc và chìa tay chờ đón điếu đóm. Có người há miệng ngáp dài. Có người dang hai tay dụi mắt. Cũng có người còn gối đầu trên cái miệng hiệu sừng trâu, ngảnh mặt vào vách mà ngáy.
Cái điếu cày và cái đóm lửa bị năm, sáu người chuyên tay, chiếu đi, chiếu lại độ vài ba vòng, ánh lửa lại tắt, trong điếm chỉ còn tiếng nói chuyện rầm rầm.
Gà gáy giục. Trời sáng mờ-mờ.
Trâu bò, con đứng, con nằm, thi nhau quai hai hàm răng nhai trầu suông và nhả ra những cục nước bọt to bằng cái trứng.
Thợ cày khắp lượt dùng bắp cày, vai cày làm ghế ngồi, cùng nhau bàn tán bâng quơ về chuyện sưu thuế.
Những con chèo bẻo chẽo choẹt hót trên ngọn tre, như muốn họa lại khúc ca réo rắt - mà người quê vẫn gọi là khúc “váy cô, cô cởi” - của mấy con chào mào đậu trên cành xoan, đon đả chào vẻ tươi đẹp của cảnh trời buổi sáng.
Trong cổng vẫn đóng chặt. Tuần-phu lại lần lượt thổi mồi hút thuốc lào.
- Ông trương ơi, ông làm ơn mở cổng cho tôi đánh trâu ra đồng. Mọi ngày bây giờ tôi đã cày được ba sào ruộng rồi. Hôm nay, bây giờ còn nhong nhóng ở đây... Phỏng chừng từ giờ đến trưa, cầy sao cho xong cái ruộng mẫu hai? Thôi ông làm phúc, làm đức...
Sau tiếng năn nỉ của anh chàng cục mịch, vai vác cày, tay cầm thừng trâu, trương tuần quẳng cái điếu cày xuống đất, thở nốt khói thuốc trong miệng, rồi giương đôi mắt say thuốc lờ đờ:
- Nay chẳng xong thì mai! Ông lý đã bảo thuế còn thiếu nhiều, không cho một con trâu, bò nào ra đồng hết thảy...
- Thưa ông, ông chủ tôi nóng tính lắm kia! Ông ấy đã dặn buổi nay tôi phải cày cho xong ruộng ấy, nếu không xong, đến trưa về ăn cơm, ông ấy mắng như tát nước và nói như móc cơm ra... Chớ tôi có muốn vất vả vào mình làm gì? Vả lại, ông lý sai tuần đóng cổng, cốt để bắt trâu, bắt bò của những người thiếu thuế kia chứ! Ông chủ tôi nộp thuế đủ từ hôm qua rồi, xin ông mở cổng cho tôi!...
Trương tuần nhăn mặt:
- Tôi không phải tộc biểu, không phải phần thu, biết đếch đâu ông chủ anh nộp thuế rồi hay chưa nộp. Bây giờ mở cổng cho anh, chốc nữa ông lý ông ấy chửi cha tôi lên, anh có nghe hộ tôi không?
Anh chàng cục mịch lủi thủi đánh trâu gồng cày lùi xuống, để nhường khu đất trước điếm cho người khác vác bừa và đuổi trâu lên.
- Người ta cắt bỏ trâu của nhà, ông chẳng cho thì chớ. Đây tôi, trâu thuê... đồng hai một buổi đáp, ông ạ. Xin ông lượng tình mà ngỏ cổng cho tôi ra đồng, kẻo trưa quá mất rồi.
Người ấy nói tuy thiết-tha, trương tuần chỉ đáp lại bằng cái lắc đầu:
- Nếu trưa quá thì bừa luôn đến chiều. Trâu thuê sợ gì!
- Thế được thì còn gì nói truyện gì nữa! Của một đống tiền, ai để cho mình ốp nó đến chiều! Chỉ đến non trưa, ông chủ có trâu cho thuê đã ra tận ruộng tháo vai trâu mà dắt trâu về, muốn bừa thêm một nửa đường nữa, người ta cũng không cho, ông ạ. Thôi! Mùa làm ăn, ông nghĩ lại...!
- Tôi chẳng nghĩ lại, nghĩ đi gì cả! Bố tôi sống lại, bảo tôi mở cái cổng này bây giờ, tôi cũng xin chịu, đừng nói anh...
Người ấy lại vác bừa, đưa trâu trở lại chỗ cũ với cái sắc mặt thìu thịu.
Mặt trời ngấp nghé mặt lũy, muốn nhòm vào điếm. Tuần phiên lẻ tẻ vác sào, cắp chiếu, đeo hiệu đi về. Trong điếm chỉ còn trương tuần duỗi gối kiểu gọng bừa, ngồi trên chiếc chiếu điểm những tro mồi, bã điếu, đốc suất mấy tên đàn em ở lại canh ngày.
Xa xa nẻo trong đình, một hồi mõ cá thật dài, tiếp luôn đến trống ngũ liên nện đủ ba hồi chín tiếng.
Như có vẻ kinh ngạc về những thứ hiệu lệnh dữ dội, mấy con trâu bò đang nằm còng queo trên đường, đồng thời lóp ngóp đứng dậy.
- Mẹ cha chúng nó! Hôm nay vẫn chưa đóng thuế, chúng nó định để tội vạ cho ai? Được! Cứ bướng đi, ông thì bắt hết trâu bò! Bán ráo!...
Tiếng chửi om sòm như giục mấy chục cặp mắt ngơ ngẩn của bọn cày đều phải nghiêng về phía đình. Ông lý nách cắp cuốn sổ, một tay cầm gậy song, một tay xếch đôi ống quần móng lợn, vừa đi ra phía điếm tuần vừa thét mắng những người chậm thuế.
Đã năm hôm nay, nghĩa là sau khi bài bổ trình phủ đã giao về với một chữ “y”, lý trưởng Đông Xá ngày nào cũng vất vả về thuế.
|
Đầu tiên hắn còn cho mõ đi rao. Rồi đến tộc biểu, phần thu đi hỏi. Rồi đến đầy tớ của hắn đưa đầy tớ chánh-tổng đi thúc từng người. Trong năm ngày nay, ngày nào cũng vậy, mõ cá, trống thúc liên hồi, hiệu ốc, hiệu sừng thổi inh ỏi. Suốt từ sáng sớm cho đến tối mịt, trong làng lúc nào cũng như đám đánh cướp. Bây giờ đã gần đến ngày đổ thuế, công việc càng gấp. Hôm qua hắn đã lên phủ, xin với ông phủ phái cho một người cai lệ và hai người lính cơ về làng để trừng trị những kẻ bướng bỉnh. Nhờ có cái thần thế ấy, hắn mới chửi rủa, thét mắng khắp làng cho oai.
Thợ cày và tuần phu đều biết cái hách dịch của ông lý, ai nấy chỉ đáp lại những câu chửi chùm chửi lợp bằng sự nín im.
Trâu, bò nhiều con vẫy tai như muốn chào một người chức việc chăm chỉ phận sự trong khi người ấy qua trước mặt chúng.
Bước lên sàn điếm, lý trưởng quăng tạch cuốn sổ xuống bàn, giơ tay chỉ vào mặt mấy tên đàn em:
- Hiệu không thổi, để làm sỏ bố chúng mày à?
Một hồi còi tu tu đồng thời nổi lên, hiệu sừng xen với hiệu ốc cố theo đúng lệnh của “nhất lý chi trưởng”.
Đập hai bàn chân vào nhau, giũ cho sạch bụi, rồi co chân lên ngồi vào chiếu, lý trưởng vớ luôn lấy cái điếu cày và sai tuần phu lấy đóm, thổi lửa.
Mấy anh thợ cày của những điền chủ đã nộp đủ thuế, bạo dạn tiến đến trước mặt ông lý:
- Thưa ông, trưa lắm rồi! Xin ông cho tuần mở cổng để chúng tôi đánh trâu đi cày!...
- Thong thả! Hãy đứng đấy! Cày đã nóng bằng thuế của nhà nước à?
Vừa nói, lý trưởng vừa giặt mồi thuốc vào điếu, hút luôn một xạp ba điếu. Khói thuốc theo hai lỗ mũi tuôn ra như hai ngà voi, lý trưởng dõng dạc:
- Trương tuần, anh bảo nó mở cổng ra. Nhà nào đủ thuế thì cho trâu bò ra đồng. Còn nhà nào thiếu thì bắt trâu bò điệu cả về đình cho tôi, để tôi liệu cho chúng nó!
Sau một tiếng dạ của trương tuần, mấy tên đàn em loay hoay tháo nêm, rút then cổng. Rồi cùng đứng choãi chân chèo, cố lấy hết sức của lực điền, họ kéo mãi mới được hai bức cánh lim bị sịt xuống gạch vì cối cổng đã mòn nhiều quá. Lý trưởng đứng lên mở sổ xướng tên những người đủ thuế cho trương tuần nghe. Ước chừng mươi con trâu bò được đi với bọn thợ cày cùng ra ngoài cổng. Còn độ hai chục con nữa đều phải vâng lệnh ông lý, theo gót trương tuần và tuần phu lũ lượt kéo vào sân đình, chờ khi phải chịu tội thay cho chủ
|
Chương 2
Mõ cá trên cột đình lạ há miệng nhận những cây dùi giận dữ. Trống cái dưới xá đình lại lỳ mặt chịu những cái nện phũ phàng. Vừa dứt hồi vang của những tiếng mõ, tiếng trống bị những lũy tre ngăn cản phải lật trở lại, Lý trưởng liệng dùi trống xuống sân đình và quát một cách a dáng ra phết: - Từ sáng đến giờ vẫn chưa đem chiếu ra trải, thì cha nó ngồi vào đâu? À cái thằng Mới láo thật! Xong thuế rồi ông tống cổ... Mẹ Mới ở phía sau đình lếch thếch ôm mấy chiếc chiếu đặt lên sàn đình: - Bẩm ông hôm qua ông dặn bố nó nhà con sáng nay phải đi chợ sớm... - Trải ra! Rồi đi gọi các ông phần việc đến đây... Kệnh dệnh, kệnh dệnh! Bố người ta đấy mà hôm nào cũng bắt người ta phải mời... Chẳng qua việc là việc làng, chứ việc riêng nhà ai!.. Ngày mai mà không đủ thuế, thì ông khai hết ra cho, thử xem thằng nào ngồi tù? Đằng sau có tiếng léo xéo: - Làm gì mà gắt gỏng dữ thế ông Lý? Bà cháu bận đi mang cơm thợ cầy, tôi phải nấu chín nồi cám cho con lợn sề nó ăn. Vì nó mới đẻ, sợ bỏ đói thì nó mất sữa, rồi con nó xấu. Bởi thế tôi mới chậm ra một chút, chứ có kệnh dệnh gì đâu? Những câu phân trần tha thiết kéo dài từ ngoài đường vào đến giọt đình. Thủ quỹ nhanh nhảu bước lên thềm đình với cái tráp sơn đen bệ vệ nấp ở sườn tay phải. Lý trưởng vội vàng nói chữa: - Tôi nói là nói người khác kia! Chứ ông... nhà neo, lắm việc, tôi có trách gì ông đâu... Kìa các ông ấy đã ra cả kìa! Chưởng bạ Ôm ống sổ và một tập sổ đi đầu một bọn độ hơn mười người : Thư ký lồng khăn xếp vào cánh tay, Phó lý quần áo thâm trên cổ. Chánh hội vắt áo the bên vai, năm sáu ông kỳ cựu và tộc biểu lệt xệt kéo đôi guốc gỗ đã mòn hết gót. Cả bọn lật đật tiến từ xóm giữa vào đình. Ai nấy trụt guốc cầm tay, nhảy lên sàn đình, đút guốc vào dưới gậm chiếu rồi ngồi lên trên. Con vợ thằng Mới cung kính đệ len bên cạnh cột đình một cái điếu đàn đựng trong một chiếc bát gỗ đánh đai bằng lạt và cái mồi rơm dài chừng một sải. Hai đứa con nó kỳ kệch khiêng lên chỗ đó nồi nước chè khô mới nấu, khói đương bốc lên nghi ngút và chồng bát đàn sơn bằng những cáu nước chè. Chánh hội vừa khơi mào nói về chuyện thuế thì người nhà Lý trưởng lễ mễ bưng một bộ khay đèn thuốc phiện rước Chánh tổng từ nẻo xóm dưới đi lên. Ông cai lệ và hai ông lính cơ hộ tống cụ Chánh vào trước cửa đình. trong đám đông mỗi người một câu: - Cụ đã ra! - Lạy cụ. - Xin mời cụ lên trên. Chánh tổng khoan thai bỏ giầy, bước qua một giẫy chiếu dưới, để lại mặt chiếu hai hàng dấu chân đầy cát bụi, rồi vắt vẻo ngồi lên chiếc chiếu trên cùng. Bộ khay đèn tự tay người nhà Lý trưởng sang tay cai lệ, lên nằm làm bạn với quan trong hàng tổng . Ngay từ sáng sớm, cụ Chánh đã có điểm tâm độ vài chục điếu ở nhà Lý trưởng, cho nên cụ rất tỉnh táo. Nghiêm nghị, cụ lên giọng kẻ cả: - Các ông chức việc làng này thật lười quá. Hôm nay mà thuế còn thiếu be thiếu bét, chưa thu được một nửa bài chỉ! Tôi hạn từ giờ đến tối phải thu cho đủ. Nếu không đủ, sáng mai tôi phải trình quan. Lý trưởng đón: - Vâng! Xin cụ thúc giục đi cho! Chứ mấy hôm nay các ông ấy cứ ỳ ra đó, chẳng ông nào chịu ra miệng ra tiếng.. thì phỏng ai nó nộp cho? Mọi người đều im lặng. Không phải sợ câu dọa nạt của Chánh tổng Lý trưởng, họ còn mãi nhìn ra cổng đình. Thằng Mới kĩu kịt trên vai chiếc đòn gánh treo hai chiếc quang. Giằng trước là một xanh vừa gan vừa phổi, vừa tiết để trên rỗ lòng. Đằng sau thì một thúng thịt lợn. Lững thững ở ngoài tiến vào, nó đặt quang gánh xuống sân đình, và mời ông Lý ra xem. - Bẩm ông, hôm nay thịt đắt, tất cả hết sáu đồng rưỡi. Ông Chánh hội, ông thủ quỹ và nhiều ông khác cùng đổ xô ra. Ai nấy đều biểu môi chê đắt, Chánh tổng nằm trong giữa đình nói ra: - Đắt với rẽ chẳng qua cũng của mấy đứa phụ canh, các ông có mất gì đâu! Thôi để cho nó đem về làm đi, trưa lắm rồi! Thằng Mới mừng rỡ lại cất quang gánh lên vai. Lý trưởng dặn theo: - Phải đánh mỗi mâm một bát tiết canh, mày nhé! Rồi mọi người cùng lên sàn đình, bắt đầu nhúng tay vào việc. Lý trưởng quăng cuốn sổ điền ra chiếu và bảo thư ký: - Ông đọc cho các ông kia tính, xem rằng chủ nào bao nhiêu... rồi biên ghi vào mảnh giấy. Tính những chủ chưa nộp đồng nào ấy thôi. Thủ quỹ mở tráp lấy ra cái bàn tính, cái bút chì và một tờ giấy tây, rồi đưa bàn tính cho ông Lý cựu: - Ông tính ta, tôi tính tây, rồi cùng kháp lại, hễ hai đằng mà không sai nhau là đúng. Một người đàn bà rón rén bước vào sàn đình với một chuỗi tiền chinh trong tay: - Lạy cụ Chánh, lại các cụ a... Bên bàn đèn, một cậu lính cơ ngẩng cổ lên quát: - Làm gì mà đến hôm nay mới đem nộp thuế? Lại còn vác những khải định ra đấy! Ai lấy cho? Lý trưởng gạt đi: - Người nhà tôi đấy... các ông tính giùm, xem của bà ấy có bao nhiêu ruộng tất cả. Thư ký giở sổ đọc: - Nguyễn Thị Qúi điền dĩ hạ : nhất sở Đồng Bắc xứ bảy sào chín thước, nhất sở Đồng Cá xứ sáu sào ba thước hai thốn... Lý cựu vừa gẫy con toán lách tách vừa nhẩm: - Nhất ngũ như ngũ, nhị ngũ nhất thập chi, tam ngũ nhất thập ngũ... Thủ quỹ chăm chỉ để hai con mắt vào mảnh giấy tây dưới ngọn bút chì. Một hồi sau, Thư ký đọc hết, Lý cựu hỏi: - Có phải ba mẫu bốn sào năm thước ba thốn hay không? Thủ quỹ đáp: - Không biết. Bây giờ tôi mới tính. Cộng bằng tính tây vẫn chậm hơn tính tạ Ông biết thế. Thị Qúi nói theo: - Vâng, ông thủ tính kỹ chọ Ruộng nhà cháu có đâu mà được ba mẫu! Một hồi nữa, thủ quỹ hì hục với cây bút chì, rồi ngẩng đầu lên mắng Thị Quí: - Bà nói lạ! Bốn mẫu hai ruộng cả thảy, sao dám bảo không được ba mẫu! Thị Qúi thề sống, thề chết: - Cháu có ăn gian thì trời không chứng! Thật quả ruộng của nhà cháu chỉ có hai mẫu bẩy sào... Lý cựu, Thủ quỹ cùng sô lại dồn Thị Quí. Người đàn bà ấy nhất định không chịu. Cái bàn tính và cây bút chì phải làm việc thêm nhiều lần nữa. Chánh tổng sốt ruột, giục Lý trưởng: - Ai tính cứ tính, ai đi đốc cứ đi đốc. Chứ xúm nhau ở cả đây, thì đến tết cũng không thể thu xong thuế! Lý trưởng lấy làm phải, liền sai mấy tên gia nhân đi đưa các ông lệ, lính cơ đầy tớ Chánh tổng vào khắp những nhà đinh cùng và dặn: - Đứa nào chưa có sưu hay chưa có thuế thì cứ trối cổ nó lại và điệu ra đây, để tôi cho chúng một mẻ. Mõ lại thúc, trống lại giục, tù và lại inh ỏi thổi lên. Ánh nắng bứt rứt chiếu đến nửa sân đình. Mấy con trâu, bò vẫn nằm gò lưng dưới những gốc gạo, gốc đa, hơi thở trong cổ họng kéo ra hồng hộc.
|
Chương 3
Nếp nhà tranh lủn củn nấp dưới rặng tre là ngà, lặng lẽ úp lấy khu đất dề thành và kín đáo náu trong một con xóm cuối làng Đông xá, đứng xa ngó lại, có thể lầm với nơi nhốt lợn hay chứa tro, đó là nhà của Nguyễn Văn Dậu. Với tầm cao vừa xế mặt thành, giẫy mái hiên cườm cượp nhòm ra ven thành, luôn luôn phạt kẻ ra vào bằng những cái cộc bươu đầu choáng óc, nếu họ quên không cúi đầu. Với lớp rêu xanh điểm những lá tre vàng úa và những cỏ gấu phất phơ, cái sân đất rộng bằng đường bừa, lỗ chỗ vết chân chó sen vết chân người, vừa làm đường đi, vừa làm khu vực hoãn xung , phòng bị những lúc mưa rào, đất ở chân thành khỏi lở vào thềm và cửa. Bao nhiêu bộ phận cần có của một gia đình, đều được thu cả vào trong nhà. Nhà cất theo lối kiến trúc phổ thông của các cụ, toàn thể gồm có một chái và hai gian. Gian đầu là buồng. Bức mành rách mép lướt thướt rủ ngoài cửa buồng, cũng như bức phên nan nứa sừng sững chắn ngang lòng nhà, đều hết sức giữ cho trong buồng có vẻ bí mật. Trái lại, những khe hở ở cạnh cửa và nhưng lỗ thủng ở chân phên lại cùng ra ý phô sòng, như muốn khai rằng : ngoài chiếc giường tre gẫy giát, kê giáp bức bụa, trong này có một chum mẻ, vại hàn, chen nhau đứng bên cạnh đống đất hang chuột. Đối với buồng, ấy là bếp đun, cảnh tượng lại càng bề bộn. Dưới từng máy chái thấp hẹp, những luồng ánh sáng xanh tía, thông thống kéo thẳng từ nóc đến nền, cố hun cho khô những chỗ đêm qua mưa dột. Cạnh bó củi giong ẩm ướt, đoàn vung sứt miệng hềnh hệch nằm ngửa trong những cái rế tre, như muốn cười với lũ mêu đất thư nhàn, lông lốc lăn nghiêng lăn ngửa. Trên bãi tro trấu tanh bành, nguội lạnh, mấy hòn gạch vỡ chầu đầu vào nhau, nghiêng mình nằm theo thế chân vạc, đương chờ đến lúc đội nồi. Kề đó đến bàn thờ. Chiếc ngưỡng tre uốn lưng gù gù đỡ lấy một đố tre, dõng dạc đứng ra hình chữ môn và hộ vệ cho một mớ nan tre lành phành long bựt, giường thờ giống như cái chạn đựng bát. lơ lửng gác giữa khoảng cột của bếp và buồng. Tờ giấy xanh lạnh lùng phủ ngoài vách đất tỏ rằng nhà mới có tang. Nhưng mớ mạng nhện chằng chịt quấn trên đám chân hường lơ thơ, lại làm chứng cho một thời gian khá lâu, chủ nhân không hề cúng lễ. Rồi ở giữa nhà, chiếc chiếu rách thủng xộc xệch phủ trên tấm phản long đinh. Rồi ở dưới phản, mấy con chó con đòi ăn, ăng ẳng kêu không dứt tiếng. Và ở ngoài hiên, quang, gánh, liềm, hái sen, với áo yếm, áo, váy, quần, lôi thôi rủ suốt mấy gian ruổi. Trong tay bồng đứa con gái hai tuổi, chị Dậu thơ thẩn ngồi trên chiếc chõng long nan. Cái nhanh nhảu của đôi mắt sắc ngọt, cái sinh sắn của cặp môi đỏ tươi, cái mịn màng của nước da đen giòn và cái nuột nà của người đàn bà hai mươi bốn tuổi, vẫn không đánh đổ những cái lo phiền buồn bã trong đáy tim. Nét mặt rầu rầu, chị im lặng nhìn sự ngoan ngoãn của hai đứa con nhỏ. Cái Tý và thằng Dần, đương hỳ hục bới đống rễ khoai, tìm những củ mập, củ giày, bỏ vào trong rổ. Chúng nó mừng reo hý hửng khi thấy một củ nguyên lành, và chúng nó cãi cọ lầu nhầu khi lục mãi chẳng được gì cả. Mặt trời gần đến đỉnh đầu. Ánh nắng xuyên qua lũy tre chiếu xuống trước thềm khoang cửa. Đằng sau gà gáy te te. Nóc bếp láng giềng ngọn khói bốc lên nghi ngút. Thằng Dần với bộ mặt thìu thịu, bỏ đống rễ khoai đứng dậy lùng bùng: - Nhặt mãi từ sáng đến giờ mới được ba mẫu khoai ranh! Con không phải tội mà bới nữa. U đi mua gạo mau lên! Hàng xóm nấu cơm trưa rồi, nhà ta vẫn chưa ăn cơm sáng! Chúng con đói quá! Ngó con một cách đau đớn, chị Dậu ngọt ngào: - Con hãy cố nhặt thêm vài chục mẫu nửa, rồi chị nó luộc cho ăn, chứ u làm gì có tiền đông gạo? Thằng bé phụng phịu: - Hôm qua và hôm kia u bán hai gánh khoai lang được năm hào mà... đã tiêu gì đâu! Vừa nói nó vừa tung tăng chạy đến cạnh mẹ, toan lần dải yếm của mẹ. Cái Tý thỏ thẻ khuyên em: - Tiền bán khoai còn phải để dành đóng sưu cho ông Lý chứ? Dễ được đem mà mua gạo đấy hẳn? Em có đói thì hãy ăn tạm củ khoai sống vậy! Câu nói nghĩa lý của con bé bảy tuổi, hình như có một sức mạnh thần bí, khiến cho chị Dậu hai hàng nước mắt chạy quanh. Uể oải, chị bế cái Tỉu lên sườn và lừ thừ đi ra ngoài cổng, để ngóng xem chồng đã về chưa. Chồng chị, - anh Nguyễn Văn Dậu - tuy mới hai mươi sáu tuổi, nhưng đã học nghề làm ruộng đến mười bảy năm. Với cái sức khỏe mạnh, với cái tính nhanh nhẩu, với cái đức chịu thương chịu khó trong nghề cầy thuê cuốc mướn, những năm son rỗi, vợ chồng nhà anh cũng vẫn kiếm được thừa ăn. Mấy năn nay phần vì thóc cao, gạo kém, phần thì con đẻ thêm ra, vợ bận mọn luôn, sự tiêu dùng của anh mới không được rồi rào như trước, vặt mũi chỉ đủ đút miệng mà thôi. Rồi tháng tám năm ngoái, mẹ anh bị bệnh qua đời. Lại tháng giêng năm nay, thằng em trai của anh cũng vì phải gió mà chết. Dầu anh hết sức tằn tiện, hai cái ma ấy cũng cứ lôi kéo đi mất của anh hai món là làng hết đúng sáu đồng, và hai cổ quan tài hết gần tám đồng. Nhà không có, anh phải quang co tần tảo cho có. Hai cái rớp ấy cũng đủ đưa anh lên đến bậc nhì, bậc nhất trong hạng cùng đinh rồi. Hơn nữa, tháng ba đến giờ thần bệnh sốt rét ở đâu kéo đến, nó bắt anh cứ phãi nghĩ việc nằm nhà. Thế là gần ba tháng trời, những sự đóng góp chi tiêu của một gia đình năm miệng ăn, hết thảy trông vào hai bàn tay trắng của người đàn bà con mọn. Sự đói rách của con và sự lầm than của vợ, đắp đổi tiến đến trước mắt, đã làm cho anh gan ruột nẫu nà. Thêm mấy bữa nay, Lý trưởng ngày ngày sai người giục thuế, anh càng luống cuống như con kiến bò trong chảo nóng, không biết lo liệu thế nào. Sớm ngày, cơn sốt đã tan anh phải gắng gượng chống gậy ra đi, cũng định vay mượn lấy một vài đồng, trả cho xong món nợ nhà nước . Nhưng đi thì đi, chính anh cũng không tự biết mình sè đi đến nhà a, và chừng bao giờ thì về. Mong mãi không thấy bóng chồng, chị Dậu lại bỗng cái Tỉu trở vào, ngồi phịch xuống chõng. Cái Tý vẫn loay hoay với đống rễ khoai. Thằng Dần đương ráu ráu nhai mẫu khoai sống. Bên nhà láng giềng có tiếng mâm bát lạch cạch. Mấy con nít tíu tít gọi nhau ăn cơm. Mùi canh rưa và mùi cá khi theo ngọn gió nồm đưa sang ngào ngạt. Thằng bé háu đói nuốt vội miếng khoai trong miệng, vớ tấm áo nâu toạc vạt khoác luôn vào mình, đon đả chạy lại vỗ vào vai mẹ : - Con sang chơi bên nhà ông Bác, u nhé! Cái Tý chừng mắt: - Bên ấy sắp sửa ăn cơm ấy mà... ! Sang làm gì? Rồi bà Bác lại đuổi oai oái như hôm nọ ấy. Thôi, đói thì chịu vậy, chứ em cứ nhặt cố lấy mấy củ nữa, rồi chị đứng lên bắc nồi. Thằng Dần quăng tọt cái áo vào chõng, ngoảnh đít quay lại, trên mặt đầy vẻ thất vọng: - Khổ lắm, bao nhiêu củ ngon củ lành, u đã lựa hết đem bán, ở đây chỉ còn những rễ và rễ, lấy đâu ra khoai mà nhặt? Cái Tý lại dịu nét mặt : - Chả bán thì lấy tiền đâu đóng sưu?... Em hãy chịu khó nhặt đi với chị! Hãy còn vô khối củ mẫm ra đấy. - Nhưng mà em còn đói vàng cả mắt, không nhặt được nữa... ! Nói xong, thằng Dần bước đến bên cạnh rổ khoai, chọn lấy một củ lớn nhất, nó chùi vào bụng cho sạch cát bụi rồi cho vào mồm cắn... Chị Dậu tuy vẫn ngồi im không nói, nhưng ở khóe mắt, nước mắt lại cứ chan chứa chảy ra. Chừng như không muốn để cho các con thấy sự đau lòng của mình, chị vờ ngảnh mặt nhìn vào trong vách.
|