Hoa Tư Dẫn
|
|
Chương 2 Sau khi tôi chết, nghe nói thế tử Trần quốc là Tô Dự đã hạ lệnh hậu táng tôi theo lễ chế dành cho công chúa. Phụ vương và mẫu phi vốn dĩ ngày hôm sau sẽ bị áp giải về Hạo thành, kinh đô nước Trần, nhưng vì tang lễ của tôi nên hoãn lại một ngày. Lúc khâm liệm, tôn thất vương tộc bắt buộc phải đến xem lễ, để khi về sẽ viết một bài phú, không ai được vắng mặt. Những người dân ở kinh thành còn sống cũng đổ ra đường tiễn biệt công chúa, khiến quãng đường từ vương cung tới vương lăng ngày hôm đó xảy ra một cảnh tượng tắc nghẽn chưa từng có trong cả trăm năm qua. Dân chúng ở bên này đường muốn chạy sang bên kia đường ăn bát mỳ cũng không có cách nào sang được, mọi người đành bất lực. Đương nhiên những chuyện đó tôi hoàn toàn không biết, tất cả do Quân sư phụ sau này kể lại. Lúc hay tin kinh thành nước Vệ bị bao vây, ông đã cùng Quân Vỹ đến nước Vệ định đưa tôi đi, nhưng không ngờ tôi đã chết cùng Vệ quốc. Từ nước Trần cách xa vạn dặm tới kinh thành nước Vệ, khi họ đến nơi cũng là lúc tôi được nhập quan. Lúc đó, tôi nằm trong chiếc quan tài bằng gỗ mun, đã là một người chết, phía sau là tiếng kèn thê lương, dưới bầu trời ảm đạm những nắm tiền giấy bay lả tả. Quân sư phụ nói: “Trong tám mươi sáu năm nước Vệ được phong hầu, đây là lần đầu tiên ta thấy cảnh tượng tang lễ công chúa long trọng như vậy”. Nhưng tôi nghĩ, đó không phải là cảnh tượng tang lễ của tôi mà là cảnh tượng diệt vong của một quốc gia, mà cái chết của một quốc gia, cho dù long trọng thế nào cũng xứng đáng. Quân sư phụ là một cao nhân ngoại thế, từ việc ông ẩn cư trên núi Nhạn Hồi lâu năm như vậy cũng không bị dã thú ăn thịt, chúng ta có thể nhận ra điều đó. Núi Nhạn Hồi là một khu bảo tồn động vật hoang dã đã được đại triều(*) công nhận, nên ở đây thường xuyên bất ngờ xuất hiện dã thú tấn công con người. Từ khi tôi quen biết Quân sư phụ, tôi chỉ coi ông là một cao nhân bình thường, không ngờ ông cao siêu tới mức có thể cải tử hoàn sinh. Điều đó trái lại với quy luật tự nhiên. Thử hình dung, kẻ thù ta khó khăn lắm mới giết được, vậy mà hắn có thể sống lại làm ta phải tìm cách giết hắn lần nữa. Nhưng chuyện thần kỳ đó cuối cùng lại xảy ra với tôi. Nên đành phải ngừng bình luận về khả năng kỳ lạ đó của Quân sư phụ, vì phủ nhận nó tức là phủ nhận sinh mệnh của tôi. Cái ngày tôi được cải tử hoàn sinh, tôi cảm thấy mình ngủ sâu rất lâu, tôi mở mắt tỉnh lại vào một đêm đông mịt mù. Từ cửa sổ nhìn ra, ánh trăng treo trên đầu cành cây, chỉ một màu vàng nhạt, bốn bề tĩnh mịch, thỉnh thoảng có tiếng chim kêu lạc lõng. Tôi nhớ lại lúc mình nhảy từ trên tường thành xuống, cao như vậy mà có thể cứu sống, quả là y thuật cao siêu. Quân sư phụ ngồi trước mặt tôi, đang lật giở một quyển sách cổ, Quân Vỹ gục đầu ngủ trên bàn, ánh đén mờ ảo, họ dường như không chú ý tới tôi. Ngước mắt nhìn hình bông hoa sen trắng trên đỉnh màn, tôi nói: “Con vẫn còn sống ư?”. Một thoáng im lặng, Quân sư phụ lập tức để cuốn sách xuống án thư, hỏi: “A Trăn, là con nói phải không?”. Quân Vỹ cũng bị đánh thức, dụi mắt tỉnh dậy. Tôi mở miệng, nói một tiếng: “Vâng”. Tay Quân Vỹ vẫn đang dụi mắt, sững người nhìn tôi: “A Trăn hả?”. Tôi không có thời gian để ý tới anh ta, vì Quân sư phụ đã bước ngay đến bên tôi, ông đặt ngón tay trước mũi tôi, cầm tay tôi bắt mạch. Khá lâu, ông thốt lên: “Viên giao châu đó quả nhiên là thần kỳ, A Trăn, con có đau không?”. Tôi lắc đầu: “Không đau”. Ông cười đau khổ: “Vết thương nặng thế này mà nói không đau, là ta đã mang con về, nhưng con đã chết. Con sẽ không đau nữa, ta đã tự ý làm vậy, con có muốn tỉnh lại không?”. Tôi nhìn ông, nhoẻn cười, gật đầu: “Con muốn”. Đó không phải là cải tử hoàn sinh, Diệp Trăn đã chết. Vạn sự đều có nhân quả, đây chính là nhân quả của tôi. Người ta sau khi chết, ý thức dần dần phân tán, cuối cùng tan biến, đó là truyền thuyết của Cửu Châu. Trước đây, tôi vẫn tưởng đó là truyền thuyết, cho tới khi bản thân nếm trải cái chết mới biết truyền thuyết cũng đáng tin cậy. Ba ngày sau khi tôi được an táng, nhân lúc đêm khuya, Quân sự phụ lén vào vương lăng, mang thi thể tôi về núi Quân Vu. Lúc đó, phần hồn chưa thoát hẳn, vẫn lưu lại trong cơ thể tôi. Ông đưa thần dược của giáo phái vào cơ thể dập nát của tôi, đó là một viên giao châu sáng chói, dùng để giữ phần ý thức còn sót lại, để nó mãi mãi không thể rời khỏi cơ thể. Về cơ bản, đó chẳng qua là thay đổi trạng thái tử vong, ngoài có thể cử động và suy nghĩ, tôi chẳng khác gì người chết. Cơ thể đó không thể lớn thêm được nữa, tôi không thể thở, mất hẳn khứu giác và vị giác, cũng không cần phải ăn để sống, không có cảm giác đau đớn. Bên ngực trái, nhịp đập không phải là của trái tim nóng hổi mà chỉ là của một viên ngọc lặng lẽ nằm đó, rất sáng nhưng lạnh ngắt như một khối băng, khiến tôi rất lạnh. Nhưng rút cục, tôi có thể mở mắt ngắm nhìn thế gian đã là sung sướng lắm rồi. Bây giờ tôi không còn là công chúa gì nữa, cũng không phải gánh vác bổn phận gì hết. Quân sư phụ đặt cho tôi một cái tên mới, Quân Phất. Có nghĩa là, cuộc đời tôi nhẹ như hạt bụi, phủi một cái là tan. Tôi nghĩ, đúng là một cái tên bi thương mà ý nghĩa. Lần tuẫn tiết đó, tôi đã phải trả giá đắt, mất mạng đã đành, quan trọng là xương sọ bị vỡ, nội tạng cái xô lệch, cái giập nát, chảy rất nhiều máu. Điều đó có nghĩa từ nay về sau, cơ thể sẽ rất yếu, mặc dù không có có cảm giác đau đớn, nhưng thường xuyên nôn ra máu. Quân sư phụ dùng giao tơ chỉnh sửa dung mạo cho tôi, chỉnh xong xinh đẹp hơn trước nhiều, chỉ có điều, vết nứt trên sọ quả rất lớn, giao tơ cũng không vá được, để lại một vết sẹo dài từ giữa lông mày, qua trán xuống tai trái. Lúc đầu nhìn thấy mặt tôi, Quân Vỹ mãi không nói nên lời, lúc lâu sau mới nói: “Yêu quái, như thế này quá giống yêu quái, thanh thoát như cũ không tốt hơn sao?”. Tôi nói: “Tôi đã nhìn kỹ rồi, ngũ quan thì không có gì thay đổi, chỉ là nhìn hơi kỳ lạ, yêu ma hơn trước một chút thôi, không sao cả, cứ coi như tôi chỉnh hình thất bại đi”. Nhưng những vết sẹo ấy cuối cùng lại rất chướng mắt, Quân sư phụ dùng giấy bạc làm chiếc mặt nạ, che nửa khuôn mặt tôi. Tôi định đề nghị dùng mặt nạ da người, như vậy nhìn sẽ tự nhiên hơn, nhưng thấy mặt nạ da người thông hơi rất kém, nên cuối cùng lại thôi. Tôi đã tưởng sau đó, có thể sống những tháng ngày thoải mái tự tại nhưng thực tế không như thế. Chỉ là lúc đó không nghĩ ra, lại cho là người chết rồi thì vô lo vô nghĩ, nhưng ưu phiền đến từ tâm tưởng, tâm tưởng vẫn còn sao có thể vô ưu. Quân sư phụ đã bỏ bao tâm huyết để tôi sống lại. Sư phụ muốn hoàn thành một việc, việc này rất khó, chỉ dễ hơn việc bắt Quân Vỹ sinh cho tôi một đứa con mà thôi. Ông muốn tôi đi hành thích Trần vương. Ông cấy viên giao châu vào người tôi, đánh thức tâm thức tôi từ hư không trở về. Viên giao châu được thổi vào Hoa Tư dẫn thần bí nhất trong mật la thuật, bí thuật này được đưa vào cơ thể tôi cùng với viên giao châu. Nếu có người uống vài giọt máu của tôi, sẽ bị nhiễm hơi khí của giao châu trong cơ thể tôi, dù chỉ một giọt, cũng khiến tôi lập tức nhìn thấy Hoa Tư điệu của họ. Tấu ra khúc nhạc này là có thể dệt mộng cảnh cho người đó. Mộng cảnh này tái hiện một thời đoạn của quá khứ, có thể ra khỏi mộng cảnh hay không, phải xem người đó có thoát khỏi ước vọng trầm luân của mình hay không. Nhưng trên đời rất hiếm người thoát khỏi ước vọng trầm luân của chính mình. Quân sư phụ muốn tôi giết chết Trần vương bằng cách đó. Về góc độ cá nhân, cho dù nước Trần đã thôn tính nước Vệ, tôi cũng không oán hận Trần vương. Trong thời đại mạng người như cỏ rác, thắng làm vua thua làm giặc, chuyện đó cũng là thường tình. Nhưng tính mạng Trần vương đổi lấy nửa cuộc đời tôi trên nhân thế, tôi cho rằng rất đáng. Tôi muốn đi giết ông ta không phải vì tôi từng là công chúa nước Vệ, mà chỉ vì tôi còn lưu luyến thế gian. Quân sư phụ nói: “Chưa vội hành thích Trần vương. Hoa Tư dẫn mới cấy vào cơ thể con chưa lâu, vận dụng chưa thành thục, con cần có thời gian thích nghi”. Tôi nghĩ việc này đúng là không nên vội. Quân sư phụ nhìn thần sắc, dường như đoán được suy nghĩ của tôi. Lại nói thêm: “Nhưng con cũng không nên quá ung dung, Trần vương bệnh trọng, quy thiên cũng là chuyện hai, ba năm tới. Con vẫn nên chớp thời cơ, nếu ông ta chết trước khi con đến hành thích, thì không hay”. Tôi nói: “Vậy thì tốt quá!”. Sư phụ nhìn ra dãy núi phía xa, sắc mặt thâm trầm khó đoán: “Như thế không được, vậy báo thù còn có ý nghĩa gì”. Thực ra tôi rất muốn thức tỉnh sư phụ, nếu Trần vương bị bệnh tật đau đớn giày vò, rất cần ai đó cho một nhát dao, một liều độc dược kết thúc mọi đau đớn, tôi đi giết ông ta lại hóa ra giúp ông ta, như vậy càng chẳng có ý nghĩa gì. Nhưng nghĩ lại, giúp người là tốt, cũng là giúp Quân sư phụ tích đức, tôi liền im lặng. Nửa tháng sau, Quân sư phụ đưa Quân Vỹ xuống núi, tìm một loại cây thuốc để giúp tôi mau liền các vết thương trên người. Lúc sắp đi, Quân Vỹ an ủi tôi: “Bây giờ muội thành ra thế này chắc chắn là không ai lấy, không sao, không ai lấy thì huynh sẽ lấy. Muội tuyệt đối không nên buồn phiền mà lấy viên giao châu ra khỏi người, phụ lòng sư phụ và huynh”. Tôi nói: “Nhưng lấy muội thì họ Quân tuyệt hậu mất”. Anh ta lại an ủi: “Sao lại tuyệt hậu? Lấy muội rồi, huynh vẫn phải cưới thêm vài vợ bé nữa chứ. Ha ha ha!”. Kết quả anh ta bị tôi vác gậy đuổi đánh. Thấm thoát đã sáu tháng trôi qua, những cành cây khẳng khiu đã nhú mầm non. Tôi đào được một hũ rượu hoa mai dưới gốc cây mơ già trước sân. Quân sư phụ cùng Quân Vỹ trở về, theo sau là Tiểu Hoàng. Trước đó, Tiểu Hoàng ăn nhầm phải con thỏ trắng Quân sư phụ nuôi để dưỡng độc. Con thỏ trắng đó có lẽ là con thỏ độc nhất đại lục này, trong người hội tụ cả trăm loại độc. Ngay Quân sự phụ cũng đành bó tay, đành phải đưa Tiểu Hoàng tới chỗ Thánh dược Bách Lý Việt nhờ giúp đỡ. Mất hơn nửa năm mới giải hết độc trong cơ thể nó. Lúc đầu, Tiểu Hoàng nhìn dung nhan kỳ dị của tôi, nó không nhận ra, há mồm nhe nanh rất lâu. Tôi lấy thịt thỏ cho nó ăn nó cũng không vui. Quân Vỹ vuốt ve tai nó, nhẹ nhàng vỗ về: “Đây là mẹ con đấy, con không thể ở với cha mãi mà không nhận ra mẹ, dù sao con cũng là do cô ấy hoài thai mười tháng sinh ra”. Tiểu Hoàng quả nhiên chạy lại dụi đầu vào tôi rất thân thiết. Tôi nói: “Huynh mới hoài thai mười tháng sinh ra nó, huynh hoài thai mười tháng sinh ra cả họ nhà nó”. Quân Vỹ dứ nắm đấm về phía tôi: “Huynh vẫn còn lòng tốt muốn lấy muội đấy”. Tôi nói: “Huynh có thể sinh cho muội một chú hổ nữa để chơi không? Nếu sinh được thì muội sẽ xem xét có nên lấy huynh không”. Anh ta ngây ra một lúc, xấu hổ quay sang Tiểu Hoàng: “Con trai, cắn cô ta đi”. Dường như biết là đùa, Tiểu Hoàng càng dụi vào tay tôi mạnh hơn. Thuốc Quân sư phụ mang về quả nhiên có tác dụng kỳ diệu, nghiền thành bột bôi lên người, một ngày bôi ba lần. Năm ngày sau, vết sẹo trên người đều liền hết. Điều này khiến tôi rất mãn nguyện, tôi liền bôi khắp lên người, cả vết sẹo ở trán. Nhưng vết thương do nứt hộp sọ, cho nên không liền lại được, vẫn nhìn rất rõ. Tôi ngắm mình trong chiếc gương đồng, nghĩ tới tám chữ “Kim ngọc kỳ ngoại, bại tự kỳ trung”. Có nghĩa là, có ai ngờ bên trong diện mạo bừng bừng sức sống đó lại là một cơ thể mục nát, nếu lấy ra viên giao châu, chưa đầy nửa khắc cả cơ thể lập tức biến thành tro bụi. Nghĩ tới cảnh đó, quả thật cũng thấy sợ. Sáng sớm ngày thứ sáu, Quân sư phụ tới thăm tôi. Theo sau là Tiểu Hoàng. Hai cây đào trước hiên nhà ra hoa thật đẹp, đầu cành hoa rực rỡ, trên lá vẫn còn đọng sương long lanh như ngọc. Quân sư phụ dắt Tiểu Hoàng ra sân chơi, cho nó bắt bướm rồi quay đầu hỏi tôi: “Nửa năm nay, Hoa Tư dẫn thế nào?”. Tôi thực thà trả lời: “Không được thực hành, sao có thể thành thục”. Quân sư phụ trầm ngâm một hồi, rồi nói: “A Trăn, con cũng biết viên giao châu này với công lực tự thân của nó chỉ giữ được tính mạng cho con trong ba năm. Công lực của nó được tu luyện do hút giấc mộng đẹp của con người, nếu con muốn sống lâu hơn, chỉ có thể lợi dụng Hoa Tư dẫn dệt ra mộng cảnh hút lấy giấc mộng đẹp của người khác. Con là một đứa trẻ lương thiện, e là không làm được điều đó, nhưng ta phải nghĩ trăm phương nghìn kế để cứu con, quyết không muốn con chỉ sống được thêm ba năm. Ta nói vậy, con có hiểu không?”. Sư phụ sợ tôi không hiểu nhưng tôi đã hiểu ngay từ đầu. Tôi không thể chỉ sống ba năm, cũng không thể tùy tiện lạm sát, lấy đi sinh mệnh người khác. Nhưng trên đời có bao nhiêu người hối hận đau khổ vì những người thân đã khuất, vì những lỗi lầm của mình. Hoa Tư dẫn chỉ có thể dệt ảo mộng tái hiện quá khứ, khiến cho con người có thể sửa chữa lỗi lầm đã qua, nếu người đó chìm đắm trong ảo mộng không muốn thoát ra, cam tâm tình nguyện hiến cho tôi tính mệnh nơi trần thế của họ, như vậy đôi bên đều có thể tu nhân tích đức.
|
Tôi hỏi: “Sư phụ đã tìm giúp con được mối nào rồi sao?”. Quân sư phụ mỉm cười gật đầu: “Đúng, sắp tới, con đi Khương quốc một chuyến”. Năm ngày sau, tôi mang theo cây đàn thất huyền, cùng Quân Vỹ và Tiểu Hoàng xuất hiện tại một trấn nhỏ gần biên giới nước Trần. Thực ra, núi Quân Vu cách biên giới hai nước Khương, Trần không xa, đi bộ ba ngày là tới. Lần đó phải kéo dài thêm hai ngày, chủ yếu là do chúng tôi chỉ có một con ngựa. Nếu chỉ thế cũng không có vấn đề gì, nhưng phải liên tục canh chừng Tiểu Hoàng kẻo nó ăn thịt con ngựa, chuyện này quả rất vất vả và mất thời gian. Cuối cùng, chúng tôi quyết định làm thịt con ngựa nướng ăn dần, cùng đi bộ với Tiểu Hoàng. Tất cả được một bữa no nê, hành trình trở nên nhanh hơn rất nhiều. Biên giới hai nước Khương, Trần là một mạch núi chạy dài. Vì dân bản địa thường đào được ngọc bích trong núi nên gọi là Bích sơn. Chúng tôi nghĩ, nếu là nguyên nhân đó tại sao không gọi là Ngọc sơn? Hỏi những cư dân trong trấn, mọi người đều đoán là có thể vì chữ “Bích” nhiều nét hơn, nghe có vẻ rất văn hoa. Chúng tôi đến đúng vào mùa đông, cả dãy Bích sơn phủ tuyết trắng xóa, ở đây thường xuyên có tuyết lở. Ngoài những thợ săn có kinh nghiệm, hầu như không ai dám vượt núi vào mùa đông. Lúc này, chúng tôi men theo những con đường nhỏ trên núi, vừa đi vừa thưởng thức cảnh đẹp hai bên đường, thực là vui tai vui mắt. Trên núi có những con suối nhỏ chảy róc rách, tôi dùng ống bương đang cúi xuống định múc nước, chợt dừng lại. Quân Vỹ ngồi bên cạnh vục nước suối rửa mặt, lấy tay áo lau xong, nhìn thần sắc của tôi, thấy lạ hỏi: “Sao thế?”. Tôi chỉ tay về phía trước, sau bụi tường vi dại: “Kia kìa, huynh nhìn đi, nhìn kỹ đi, xem người ta hoa nguyệt thế nào, tích lấy ít tư liệu mà viết tiểu thuyết”. Quân Vỹ nhíu mày nhìn theo hướng tay tôi. Đó là một đôi trai thanh gái tú đang yêu đương nồng nàn. Nam vận áo chùng gấm, nữ diện váy vân mây. Vì khoảng cách khá xa, nên không nhìn rõ mặt, chỉ thấy dáng hình, nam mạnh mẽ như cây trong gió, nữ yểu điệu như liễu dưới trăng. Phía sau họ là một rừng hoa không rõ tên, một con ngựa béo tốt buộc dưới gốc cây cổ thụ bên cạnh. Chúng tôi phải để mắt trông chừng Tiểu Hoàng, hai mắt nó sáng quắc, hau háu nhìn con ngựa, quả nhiên nó đã thèm rỏ dãi, Quân Vỹ chộp gáy nó ấn xuống, nó đành đứng yên. Chàng trai cúi xuống hái một bông tường vi, cài lên tóc cô gái. Cô gái vươn tay ôm lấy chàng, hai người dán vào nhau… Quân Vỹ quay đầu, giơ tay che mắt tôi: “Nhìn nhiều mắt sẽ mọc gai”. Mắt vẫn không rời phía trước, tôi vừa hất tay anh ta vừa nói: “Muội cũng phải học hỏi kinh nghiệm chứ”. Anh ta vẫn không nhúc nhích, xem ra chưa chắn được tầm mắt tôi thì quyết không thôi, cuối cùng tôi bực mình, đá anh ta một cái. Đúng lúc đó, phía trước đột nhiên có biến, tôi hốt hoảng. Quân Vỹ ngoái lại, trố mắt ngạc nhiên: “Sao nhoáng cái anh chàng đã bị cô nàng đè xuống? Ái chà cô ta cũng quá chủ động, ối, ối, sao thế, sao vừa mới hôn, cô ta đã nhảy lên ngựa chạy mất? Yêu đương kiểu gì thế?”. Tôi nói: “Yêu đương cái đầu huynh ấy. Huynh không thấy cô ta đâm anh ta một nhát từ phía sau à. Người ta sợ tội chạy trốn rồi”. Quân Vỹ nói: “Sao? Vừa rồi họ còn ôm ôm ấp ấp cơ mà?”. Chung quy chỉ là tôi tự tìm rắc rối, tôi và Quân Vỹ khoanh tay đứng nhìn cũng chẳng sao nhưng bóng chàng trai gục xuống như ngọn Bích sơn sụp đổ, đột nhiên khiến tôi nhớ tới một người, Mộ Ngôn. Từ sau khi tỉnh lại, lâu lắm rồi tôi không nghĩ tới chàng, không phải vì tình trong lòng đã phai, mà chỉ là giả sử lúc này gặp lại, không biết sẽ thế nào. Trước đây tôi rất đỗi kiên cường, bởi vì tôi là người sống, nhưng giờ đây tôi đã là người chết, không hít thở, không cảm giác, không làm chàng sợ đã khó rồi, nói chi những chuyện khác. Thà không gặp còn hơn. Quân Vỹ xem vết thương của anh ta, mặc dù nhát dao đâm khá sâu nhưng không trúng chỗ hiểm. May mà chúng tôi cứu kịp thời mới giữ được tính mệnh anh ta. Tôi ngắm nhìn dung mạo con người đó, lông mày đen rậm, sống mũi rất thẳng, đôi môi mỏng nhợt nhạt, một khuôn mặt đẹp hiếm có. Máu vẫn chảy chẳng mấy chốc đã thấm đẫm đám cỏ bên dưới. Quân Vỹ giúp anh ta cầm máu, cuối cùng quay lại hỏi tôi: “Rốt cuộc, tại sao chúng ta phải cứu anh ta?”. Tôi nói: “Huynh xem anh ta đẹp thế kia, chúng ta chữa khỏi cho anh ta rồi bán đi, chẳng phải sẽ kiếm được khoản tiền ư?”. Quân Vỹ bực mình, vẫy tay gọi Tiểu Hoàng: “Con trai, qua đây giúp cha cõng người này”. Tiểu Hoàng ngoẹo đầu. Quân Vỹ lại dỗ dành: “Đến thị trấn, cha sẽ mua gà rán cho mà ăn”. Tiểu Hoàng vui sướng chạy đến. Chàng công tử đẹp trai đó nằm hai ngày trong y quán của thị trấn thì tỉnh lại. Ngoài hai tiếng “Tử Yên” gọi trong lúc mê sảng, anh ta không nói gì khác. Tôi đoán Tử Yên là tên một cô gái, chưa biết chừng chính là người đã đâm anh ta nhát dao đó. Nghĩ lại, từ cổ chí kim đều như vậy, anh hùng đều khó qua ải mỹ nhân. Quân Vỹ nói: “Người này sao thế nhỉ, dù gì chúng ta cũng cứu anh ta. Từ lúc tỉnh lại tới giờ, nửa câu cảm ơn cũng không thấy”. Tôi nói: “Đẹp trai thế cơ mà, tùy tiện một chút cũng dễ hiểu thôi”. Quân Vỹ trợn mắt nhìn tôi: “Đẹp trai thì có thể uống thuốc không trả tiền? Đẹp trai thì có thể mắc nợ ân tình cũng không cám ơn?”. Tôi nói: “Ừ”. Quân Vỹ ôm ngực, tức tối suýt té xỉu. Chúng tôi vẫn nghĩ sẽ nhận được chút gì báo đáp khi cứu anh ta. Nếu nhà anh ta gần đây, chúng tôi sẽ đưa anh ta về rồi mới tiếp tục hành trình. Nhưng sự đời luôn không như ý, ai ngờ, một công tử ăn vận phong lưu như vậy mà trong người lại không có một cắc bạc. Tôi bối rối phân trần: “Đưa huynh từ Bích sơn về đây coi như chúng tôi làm việc thiện trên đường, nhưng vết thương của huynh không nhẹ, phải dùng rất nhiều loại thuốc tốt, đều do chúng tôi chi trả. Hành trình của chúng tôi còn dài, lại còn mang theo một con hổ, chi phí rất nhiều, lưng vốn cũng chẳng có bao nhiêu, huynh xem…”. Tôi nghĩ, nếu anh ta vẫn không có phản ứng, tôi sẽ cho anh ta một trận. Nhưng người đó không cho tôi có cơ hội đánh anh ta. Tôi còn chưa nói xong, anh ta đã cướp lời: “Đường xa ư?”. Hàng lông mày rất đẹp hơi nhướn lên, nụ cười thoáng trên miệng. Tôi nghĩ, có phải anh ta bị vết thương lòng quá nặng không? Anh ta tiếp tục: “Nếu đường xa, lại đèo dốc hiểm trở, ắt nhiều nguy hiểm. Tại hạ bất tài, may mắn từng học vài năm kiếm thuật, cô nương nếu không chê, tại hạ xin được hộ tống bảo vệ cô nương, cũng là để trả ơn cứu mạng”. Tôi ngập ngừng: “Nhưng còn tiền thuốc…”. Anh ta lập tức rút chiếc nhẫn ngọc lớn trên tay đưa cho tôi: “Đem cầm chiếc nhẫn này cũng được gần một lượng vàng, không những đủ tiền thuốc mà còn đủ tiền lộ phí cho tại hạ đi theo cô nương”. Tôi đón chiếc nhẫn ngọc, nhìn anh ta: “Huynh không cần phải bảo vệ tôi, gần một lượng vàng này đã đủ trả ơn cứu mạng rồi”. Anh ta cười nhạt: “Mạng của tại hạ không đến nỗi rẻ như vậy”. Tôi đắn đo một hồi: “Nhưng ngày mai chúng tôi đã phải lên đường, huynh có đi được không?”. Anh ta khẽ cười một tiếng: “Ngày mai ư? Không hề gì”. Quân Vỹ không rõ tại sao chàng công tử áo lam đó nhất quyết muốn đi theo chúng tôi. Nghĩ mãi, cảm thấy chỉ có một lý do, chính là anh ta thích tôi. Tôi vốn lòng nở hoa một lúc, nhưng chợt liếc vào gương, thấy dung mạo mình giờ đây đã khác. Trừ phi anh ta là người trọng tình nghĩa hiếm có, nếu không với nửa khuôn mặt bị bọc chặt trong lớp giấy bạc, tôi có gì đáng quý. Quân Vỹ nghe tôi nói, trầm ngâm: “Nếu không phải thế thì chẳng có lý do nào khác”. Tôi giải thích thêm: “Sự đời đâu phải mọi việc đều có lý, ví như Tiểu Lam, rõ ràng ngời ngời là bậc anh tài, chắc đã khiến không ít ong bướm si mê. Nhưng kết cục, huynh thấy đó, cô gái anh ta thích lại không ngần ngại đâm anh ta một nhát. Nếu không gặp chúng ta, thì đã bỏ xác ở chốn rừng hoang. Lúc chọn bạn đời anh ta không có mắt, khiến bản thân sống dở chết dở, nếu theo đạo lý sao có thể xảy ra chuyện đó”. Quân Vỹ nghĩ một lúc, cũng gật gù, lại hỏi tôi: “Tiểu Lam là ai?”. Tôi nói: “Chẳng phải là cái người mặc áo lam chúng ta cứu mấy ngày trước đó thôi?”. Nói rồi, tôi quay người, định xuống bếp xem ấm thuốc sắc. Vừa ngẩng đầu, bắt gặp Tiểu Lam trang phục gọn gàng đang nhàn tản tì tay vào khung cửa, mắt lạnh lùng nhìn về phía chúng tôi. Bàn tán chuyện riêng của người khác sau lưng họ, quả là khiếm nhã, bị người ta bắt quả tang, tôi rất bối rối, một lúc sau mới cười gượng một tiếng. Anh ta cũng cười, nhưng ánh mắt nghiêm lạnh, trở gót đi vào trong. Quân Vỹ đi đến nói: “Huynh không tin là anh ta thích muội”. Tôi quay đầu lại hỏi Quân Vỹ: “Huynh xem, liệu có khả năng anh ta thích huynh không?”. Vừa lúc Tiểu Hoàng đi qua trước phòng, Quân Vỹ nghiến răng, chỉ vào tôi nói: “Tiểu Hoàng, cắn cô ta đi”. Mười ngày sau, chúng tôi đã đến Nhạc thành, kinh đô Khương quốc. Tiểu Lam nói, đường đi núi non hiểm trở, ắt nhiều hiểm nguy. Tôi ngẫm nghĩ, thấy anh ta có vẻ nhiều kinh nghiệm hơn chúng tôi, hoàn toàn tin lời anh ta, luôn sẵn sàng đón đợi hiểm nguy. Nhưng đi suốt mười ngày đều bình an, không gặp một tên sơn tặc, thổ phỉ nào hết. Quân Vỹ hỏi tôi: “Muội nói xem khi nào chúng ta sẽ gặp thổ phỉ?”. Tôi trả lời: “Không biết, cứ đợi xem”. Nhưng đợi mãi, vẫn chẳng thấy tên cướp nào xông ra, khiến chúng tôi rất bực. Đêm trước khi vào Nhạc thành, đoàn chúng tôi lại thêm một cô gái, nói là hầu nữ kiêm thị vệ của Tiểu Lam, tên là Chấp Túc. Chúng tôi gặp cô ta khi đang mua bánh nướng bên đường. Trong ánh chiều tà đỏ rực, cô ta cưỡi một con tuấn mã trắng phi tới. Quân Vỹ kéo tôi tránh sang bên đường, cô ta nhảy xuống ngựa, tay áo trắng phất qua mặt tôi. Tôi và Quân Vỹ còn chưa hiểu có chuyện gì, cô ta đã quỳ sụp trước mặt Tiểu Lam. Mắt đỏ hoe nhìn anh ta nghẹn ngào: “Công tử, cuối cùng Chấp Túc đã tìm thấy công tử”. Chấp Túc có khuôn mặt vô cùng thanh tú, giữa trán có một nốt ruồi son. Việc cô ta khăng khăng đòi đi theo chúng tôi, thái độ của Tiểu Lam không rõ ràng. Quân Vỹ gật đầu, tỏ ra phấn khởi. Chắc vì Chấp Túc quả là một cô gái xinh đẹp, khiến anh ta động lòng trắc ẩn. Nhưng trong khi động lòng bởi Chấp Túc, Quân Vỹ lại rất không hài lòng với Tiểu Lam, anh ta ghé tai tôi nói: “Anh chàng này đến là phong lưu, ngay hộ vệ cũng là nữ”. Nhưng tôi nghĩ, không thể nói như vậy, khi chúng tôi rời khỏi núi Quân Vu, Quân sư phụ đã dặn Quân Vỹ phải chăm sóc cho tôi, cũng có thể coi là hộ vệ của tôi, theo lý lẽ đó, chẳng phải tôi cũng rất phong lưu? Buổi tối hôm đó, chúng tôi trọ ở một quán nhỏ. Nửa đêm, Tiểu Hoàng cắn tay áo đánh thức tôi, nhờ ánh trăng tôi nhìn kỹ nó, dường như nó muốn tôi đi với nó. Chúng tôi đi xuyên qua hành lang dài, một chú hổ và một người đã chết, bước chân nhẹ như bay. Vừa lúc sắp bước vào hậu viên, bất chợt nghe thấy tiếng Chấp Túc: “Cô gái đó chẳng có gì đặc biệt, tại sao công tử không chịu cùng Chấp Túc về phủ? Công tử có biết, khi công tử đi vắng, nhị công tử đã làm bao nhiêu việc rồi không? Chấp Túc biết, Tử Yên cô nương đã làm công tử bị tổn thương sâu sắc, nhưng công tử, mong công tử lấy đại sự làm trọng”. Tôi nghĩ, chuyện riêng của họ tôi có nên nghe lén? Cuối cùng đạo đức đã chiến thắng tính hiếu kỳ, tôi quyết định không nghe tiếp nữa. Nhưng tôi chưa kịp bỏ đi, Tiểu Lam đã nói, tiếng rất nhỏ, theo gió truyền đến tai tôi, giọng nghe rất quen, “Các ngươi…”, ngừng một lát “… tìm được Tử Yên rồi?”. Tôi kéo Tiểu Hoàng lùi về phía cánh cửa hình bán nguyệt, nghe thấy giọng Chấp Túc: “Công tử đối với Tử Yên cô nương tình sâu nghĩa nặng, nhưng cô ta là gian tế của nước Triệu, cô ta rắp tâm hành thích công tử, cô ta…”. Tiếng nói dần biến mất sau lưng tôi và Tiểu Hoàng. Dưới mái hiên, tôi sực nhớ cảm giác quen thuộc vừa rồi, ngẩn ngơ nhớ lại cái hang núi ba năm trước, Mộ Ngôn ngồi đối diện với tôi, những ngón tay trắng như ngọc gẩy cây cổ cầm, dây bằng tơ tằm, nụ cười trên môi. Đã ba năm, tôi thực sự không thể nhớ tiếng nói của chàng, chỉ có âm thanh từ cây cổ cầm đó thỉnh thoảng lại vẳng bên tai, trầm bổng du dương, là khúc ca ngân mãi trong tôi. Ánh trăng trong sáng vằng vặc, tôi đưa tay bịt mắt mình, như chàng đã từng làm vậy. Nhưng đôi mắt đó bây giờ đã chết. Chuyện này thực không biết làm sao.
|
Chương 3 Ba ngày sau, tôi gặp vị khách Quân sư phụ đã thu xếp cho tôi, Thẩm Tống Thị Tống Ngưng, phu nhân của Khương quốc tướng quân Thẩm Ngạn đồn trấn biên ải. Nói là “khách” cũng chưa thỏa đáng, bởi vì rút cục không biết cô mua một giấc mộng đẹp từ tôi, hay tôi mua một sinh mệnh từ cô. Đó là một biệt viện ở ngoại thành, nghe đồn Thẩm Ngạn tướng quân bất hòa với phu nhân, hai năm trước, Tống Ngưng đã chuyển tới tĩnh dưỡng ở biệt viện này, sau không quay về phủ tướng quân nữa. Trong hai năm, đã xảy ra khá nhiều biến cố như, Thẩm Ngạn nạp thiếp, Tống Ngưng bị bệnh. Tóm lại, sức khỏe của Tống Ngưng càng tĩnh dưỡng lại càng suy yếu, bây giờ gần như sắp chết. Lão bộc ra đón chúng tôi cho biết, phu nhân muốn gặp riêng tôi, ba người Tiểu Lam, Quân Vỹ và Chấp Túc được đưa về nghỉ ở nhà ngang. Tiểu Lam không ý kiến gì, Quân Vỹ rất không hài lòng, tôi hiểu, anh ta lo cho sự an toàn của tôi. Nhưng tôi không hiểu, với tình trạng một người đã chết như tôi, như thế nào là bảo đảm an toàn. Mọi người thảo luận rất lâu, quyết định để Tiểu Hoàng đi cùng tôi. Quân Vỹ xoa đầu Tiểu Hoàng, căn dặn: “Con trai, cố gắng bảo vệ mẹ nuôi thật tốt”. Tôi cũng xoa đầu Tiểu Hoàng, vừa ngẩng lên, bắt gặp ánh mắt của Tiểu Lam, không biết anh ta có ý gì, lại nhìn tôi cười: “Quân cô nương đi sớm về sớm”. Lão bộc dẫn tôi qua hai dãy hành lang, qua những khu vườn hoa lá tốt tươi, vừa đi vừa giới thiệu, những loài cây, giống hoa này được chuyển từ đâu tới, có mùi kỳ hương thế nào nhưng tôi chẳng ngửi thấy gì. Vòng qua một hồ sen rộng, bước lên ngôi thủy tạ trên hồ sen đó, bốn bề có rèm chắn gió. Người phụ nữ nằm trên chiếc giường mây đọc sách ngẩng đầu nhìn tôi. Tôi nhìn khuôn mặt của cô như được in ra từ bức họa. Mặc dù gắng tỏ ra vui vẻ nhưng vẫn trắng bợt, ủ rũ. Cho dù tôi không lấy đi tính mạng của cô, thì cô cũng chẳng sống được bao lâu. Điều này không có nghĩa là tôi biết xem tướng mà chỉ là vì trong chuyện này không ai có kinh nghiệm bằng tôi, đó là khuôn mặt của một người sắp chết. Huống hồ, tôi đến đây là để lấy tính mạng của cô. Trong một thời gian ngắn, nếu cô không chết tự nhiên, tôi cũng phải làm cho cô chết bất ngờ. Gió lay nhẹ bức rèm, bây giờ đã là tháng năm. Thẩm phu nhân đặt cuốn sách xuống, ho nhẹ, lặng lẽ nhìn Tiểu Hoàng đang nằm phục trên đất, một hồi lâu, nhẹ nhàng nói: “Một chú hổ thật hiền, lúc chưa xuất giá, ở quê nhà ta cũng nuôi một con sói nhỏ”. Cô giơ tay, “To bằng ngần này”. Ngón tay cô như bông hoa lan phác ra một hình trên không, dừng lại, khẽ lắc đầu mỉm cười, rồi nhìn tôi, ánh mắt kỳ dị: “Cô nương chính là Quân Phất? Người mà Quân sư phụ nói có thể giúp tôi thực hiện tâm nguyện bấy lâu?”. Tôi trả lời: “Dạ phải”. Lúc trả lời như vậy, thực sự tôi chưa nhớ ra Quân Phất là ai. Điều đó chứng tỏ tôi không phải là người có mới nới cũ. Tôi đã là Diệp Trăn được mười bảy năm, tràn đầy tình cảm với cái tên đó, mặc dù đổi tên đã lâu, cũng không thể dễ dàng quên được. Cô đặt tay lên mép giường mây, khe khẽ gật đầu, sắc mặt trắng xanh trầm lại dần dần ửng hồng, nhìn rõ lúm đồng tiền rất sâu trên má. Một lúc lâu sau, cô cười: “Quân Phất, tôi muốn có một giấc mơ, cô có biết tôi muốn có giấc mơ thế nào không?”. Tôi ngồi trên lưng Tiểu Hoàng, trang nghiêm nhìn cô: “Tôi không biết, nhưng phu nhân cần nói cho tôi biết”. Nghĩ một lát lại thêm: “Tuy vậy, không phải tôi tới giúp phu nhân, chỉ là đến làm một cuộc trao đổi. Tôi không cần núi vàng núi bạc, mấy ngày lưu ở Nhạc thành này chỉ xin phu nhân bữa cơm. Tôi có thể cho phu nhân một giấc mơ đẹp, phu nhân muốn một giấc mơ thế nào, tôi sẽ cho phu nhân giấc mơ như thế. Phu nhân có thể tự lựa chọn, ở lại trong giấc mơ đó, hay thoát ra ngoài”. Cô tỏ ra rất ngạc nhiên: “Sao?”. Tôi gật đầu: “Nếu phu nhân lựa chọn thoát ra khỏi giấc mơ, tôi không cần một xu tiền công, nhưng nếu phu nhân lựa chọn ở lại trong mơ…”. Cô hơi nheo mắt: “Nếu tôi chọn ở lại trong mơ, Quân cô nương, cô sẽ thế nào?”. Tôi nhìn vào mắt cô: “Nếu phu nhân lựa chọn ở lại trong giấc mơ, hãy trả thù lao cho tôi bằng tính mệnh của phu nhân trên trần thế, phu nhân thấy thế nào?”. Hàng lông mày thanh tú khẽ nhướn, rồi ngoảnh nhìn bầu trời bên ngoài thủy đình, trầm ngâm hồi lâu, cô đột nhiên mỉm cười: “Được”. Ngày hôm đó, tôi không đi sớm về sớm như lời dặn của Tiểu Lam, ngồi trong thủy đình rất lâu. Bởi vì Tống Ngưng kể chuyện cho tôi nghe, đó là tâm nguyện của cô. Cô muốn sửa lại câu chuyện đó, dẫu chỉ trong mơ. Đương nhiên chỉ là tự dối mình. Nhưng cô không hiểu điều đó, nên mới khao khát một giấc mơ như vậy. Rèm ở bốn phía được kéo lên, phía xa là mặt hồ đầy nắng. Cô uống vài giọt máu của tôi pha với nước trà, huyết dịch kích thích sinh khí trong người tụ lại, hóa thành những nốt nhạc nhảy múa, xếp hàng trước mặt tôi. Tôi ghi nhớ từng nốt một, đó là Hoa Tư điệu của Tống Ngưng. Trong ánh sáng từ mặt hồ hắt lên, cô dần dần nhớ lại. Còn tôi đã nhập tâm Hoa Tư điệu đang nhảy múa trước mặt, nhìn thấy từng cảnh, từng cảnh quá khứ của cô. Cô chậm rãi: “Quân cô nương chắc từng nghe nói, tuy tôi là phu nhân Khương quốc tướng quân, nhưng lại không phải là người nước Khương. Bảy năm trước, tôi mười bảy, cũng bằng cô bây giờ, được gả tới nước Khương, lòng tràn trề tình yêu mãn nguyện, thực là những ngày đẹp như hoa…”. Trong những ngày đẹp như hoa đó, Tống Ngưng, em gái Tống Diễn đại tướng quân nước Lê tình cờ gặp Thẩm Ngạn trên chiến trường cuộc chiến giữa hai nước Khương, Lê. Lúc đó, Thẩm Ngạn tướng quân là viên tướng trẻ nhất nước Khương, có cặp mày uy nghiêm, tài năng trác việt, uy danh lẫy lừng bách chiến bách thắng. Tống Ngưng xuất thân trong một gia đình võ tướng danh giá, từ nhỏ đã được dạy dỗ nghiêm khắc như một cậu con trai, lúc còn bé tí đã ngơ ngẩn ngắm nhìn thanh kiếm chuôi có dải lụa hồng, mười bốn tuổi đã theo huynh trưởng chinh chiến bốn phương. Tuổi mười sáu, mười bảy, là lúc các khuê nữ bận rộn chuẩn bị đồ thêu cho ngày xuất giá, còn Tống Ngưng với cây kiếm mang dải lụa hồng lại lập công xuất sắc ngoài trận mạc. Nước Lê từ cổ nhiều nam ít nữ, các cô gái vô cùng đắt giá. Mùa xuân năm Lê Trang Công thứ mười bảy, những gia đình danh giá phàm có con gái đến tuổi cập kê, đều bị các đám dạm hỏi giẫm mòn bậu cửa. Nhưng phủ đệ đại tướng quân danh giá như vậy lại vắng vẻ đìu hiu, không vị công tử quý tộc nào dám lấy Tống Ngưng. Mọi người đều sợ, cưới cô vợ như Tống Ngưng, nếu nạp thiếp, với dòng máu con nhà võ sẽ bị cô đánh chết. Lê Trang Công có thiện ý đích thân đứng ra làm mối gả Tống Ngưng cho nhị công tử ở phủ thừa tướng. Nhị công tử vừa nghe chuyện sợ đến nỗi ngã từ lưng ngựa xuống. Tống Ngưng đang ở chiến trường nghe tin đó, đứng trầm ngâm rất lâu bên bờ suối. Tống Diễn tìm thấy cô, cau mày, nói: “Muội đừng lo, đó chỉ là những kẻ nhát gan, huynh sẽ có cách để hắn nhất định phải lấy muội”. Tống Ngưng mỉm cười: “Huynh đừng giận, bọn chúng là những gã công tử ham chơi trói gà không chặt, chúng không thích muội, huynh tưởng muội thích chúng sao? Tống Ngưng nếu lấy chồng, cũng phải lấy anh hùng hào kiệt”. Vốn tưởng nói vậy để chứng tỏ Tống Ngưng không bận tâm chuyện bị nhị công tử ruồng bỏ. Nhưng sau đó không lâu, quả nhiên gặp được vị anh hùng của đời mình. Chính vào mùa đông năm đó, vị anh hùng cưỡi con hắc mã, tay cầm thanh kiếm nặng bốn chục cân, họ Thẩm tên Ngạn, tự Bạc Đan. Mùa đông năm Lê Trang Công thứ mười bảy, tiết trời giá lạnh khác thường, tuyết phủ trắng khắp nơi, ở biên giới hai nước Lê, Khương bỗng xuất hiện một đàn ngựa hoang, hai nước đều muốn nhận là của mình, không bên nào nhường bên nào, dẫn tới xích mích, hận thù, cuối cùng gây nên đại chiến. Tống Ngưng từ lâu đã nghe nói chiến công hiển hách của Thẩm Ngạn, nhưng thâm tâm không phục, luôn muốn tìm cơ hội so tài với chàng. Cuối cùng vào một ngày, tuyết rơi dày đặc, hai nước giao tranh trước ải Ngọc Lang. Thời cơ hiếm hoi đã đến, Tống Ngưng, một người vốn điềm đạm cẩn trọng, lại bất chấp ánh mắt cảnh báo của đại huynh, quất ngựa xông lên, hét tên mình và gọi: “Tử Vi thương Tống Ngưng đến lĩnh giáo cao chiêu của Thẩm Ngạn Thẩm tướng quân”. Gió lạnh ù ù truyền tiếng nói như vỡ họng của Tống Ngưng tới trận địa quân Trần. Lá cờ bay phần phật, một vị tướng trẻ mình vận bạch bào cưỡi ngựa khoan thai đi tới. Khuôn mặt anh tuấn lạnh lùng, thanh kiếm lạnh như nước trong tay lóe sáng. Trong trận thách đấu đơn phương đó, kiếm pháp của Tống Ngưng chưa bao giờ vụng về đến vậy, chưa đầy năm chiêu, cô đã bị ngã ngựa, suốt ngần ấy năm chinh chiến chưa bao giờ thất bại nhanh như vậy, thảm hại như vậy. Nhưng đối phương vẫn không đổi sắc mặt, chỉ khi dùng mũi kiếm hất mũ giáp trên đầu cô, mới ngạc nhiên thốt lên: “Thì ra là một tiểu thư”. Tống Ngưng yêu Thẩm Ngạn vì chàng đánh bại cô. Đó cũng là nguyên nhân tục đấu võ kén chồng rất thịnh hành sau đó, các cô gái mạnh mẽ ngày càng nhiều, các cô gái mạnh mẽ khi lựa chọn lang quân đều mang một trái tim của Độc Cô Cầu Bại(*). Muốn có được cô, trước hết phải đánh bại cô. Chỉ cần đánh bại cô, tất sẽ có được cô. Nếu đánh bại cô, lại không muốn có cô, sẽ bắt đầu một cuộc tình bi thảm. Tóm lại, cây thương buộc dải lụa hồng bị thanh trường kiếm trong tay Thẩm Ngạn đánh bật ra cách đó hai trượng. Chàng ngồi trên lưng ngựa, hơi cúi xuống, mũi kiếm chớp mắt đã hất lên cây thương dài trên đất, tung lên rồi cắm phập bên cạnh Tống Ngưng, giọng dửng dưng: “Cây thương của tiểu thư”. Gió lạnh mang theo tuyết lồng lộn tung hoành, trong mắt chàng là ba vạn hùng binh phía sau cô, môi cô ẩn nụ cười, trong mắt cô có chỉ hình bóng chàng. Thẩm Ngạn sừng sững uy nghiêm như trái núi trong lòng Tống Ngưng. Con chiến mã đen tuyền, bộ chiến bào lóng lánh như ánh trăng bạc, đường kiếm mau lẹ, chuẩn xác, quyết không chịu đớn hèn trong vòng tay đàn bà. Cô nghĩ, đó mới là vị anh hùng của lòng mình, đáng tiếc, đó lại là vị anh hùng của phía địch quân. Nhưng anh hùng cũng có lúc thất bại, hơn nữa rồi sẽ thất bại. Các bậc hào kiệt trong lịch sử xứng danh hai chữ “danh tướng” đều như vậy, không phải đã thất bại, thì cũng sắp thất bại. Thế là, Thẩm Ngạn gặp Tống Ngưng, từ đó chàng dần dần thất bại… Thực ra, thì cũng không nói như thế được, nói như vậy không đúng, nói như thế có vẻ Tống Ngưng quá ưu thế. Thẩm Ngạn bị thua trong trận chiến trên cánh đồng hoang Thương Lộc quả thật không liên quan đến cô, các nhà quân sự phân tích rất lâu, tìm ra lý do đáng tin cậy nhất có lẽ là sao chiếu mệnh của Thẩm Ngạn chỉ ra ngày hôm đó chàng không nên xuất hành. Trong trận chiến trên cánh đồng hoang Thương Lộc, Thẩm Ngạn bị thua dưới tay đại tướng quân Lê quốc Tống Diễn, năm vạn tinh binh đi theo bị tiêu diệt, bản thân chàng cũng trúng mấy mũi tên, suýt mất mạng. Lúc trời vừa rạng, con chim ưng của Tống Diễn bay qua sa mạc, nghiêng cánh chao liệng, rồi đậu xuống tay Tống Ngưng. Tống Ngưng lấy ra ống tre nhỏ buộc ở chân chim, trong đựng mảnh thư lụa báo tin chiến thắng, tay run run, mảnh thư lụa nhỏ bằng bàn tay rơi xuống, con chữ nhập nhòa nghiêng ngả. Tống Ngưng không thể tin Thẩm Ngạn đã chết, bởi thâm tâm cô đã coi Thẩm Ngạn là vị anh hùng bất khả chiến bại. Chưa đầy ba ngày, vị anh hùng đã bại trận, cô không thể chấp nhận điều đó. Tống Ngưng mang theo thuốc, phi ngựa ra khỏi quân doanh. Cô nghĩ, nếu Thẩm Ngạn chưa chết, bất luận thế nào cô cũng cứu sống chàng. Còn nếu Thẩm Ngạn đã chết, cô phải tìm được thi thể, tự tay chôn cất chàng. Thẩm Ngạn không thể trở thành bộ xương vô chủ. Thẩm Ngạn là người đầu tiên khiến cô rung động, chàng là người đàn ông đích thực, khác hẳn những gã công tử nhà giàu tầm thường ở nước Lê. Kỳ thực làm sao cô biết chàng có phải là người đàn ông đích thực hay không. Cô cũng chưa từng thử, tất cả đều là tưởng tượng, và trong tưởng tượng cô lại càng yêu chàng. Một ngày trời âm u, gió sa mạc sắc như dao, gió xoáy mang theo đá vụn quất vào mình ngựa, làm nó đau đớn hí vang, Tống Ngưng cúi rạp mình trên lưng ngựa, giữa sa mạc bao la, cô dùng dải sa trắng quấn ngang che mắt, cố bảo vệ số thuốc quấn trong người, nghiến răng phi ngược chiều gió, tay và mặt bị gió cát quất bỏng rát. Cô liếm vết thương trên tay, tiếp tục phi ngựa trong gió. Cô thầm nghĩ, Thẩm Ngạn đang đợi cô ở phía trước. Niềm tin này giúp cô vượt qua quãng đường rất dài trong thời gian ngắn nhất, trên đường còn phải tránh đại quân của đại huynh thắng trận trở về quân doanh. Chung quy có lẽ chỉ mình cô nghĩ như vậy, thực ra, Thẩm Ngạn sao có thể đợi cô? Thậm chí chàng chưa hẳn còn nhớ cô. Cánh đồng hoang Thương Lộc đã ở phía trước, những vũng máu bị gió cát phủ lấp quá nửa, giống như chiến trường bị bỏ quên lâu ngày, chỉ có mùi máu tanh vẫn nồng nặc trong không khí nhắc người ta cảnh địa ngục Tu La vừa mới diễn ra. Xác binh sĩ Khương quốc đen ngòm phủ kín cánh đồng Thương Lộc, vừa xuống ngựa đi vài bước, đã vấp phải xác người. Tống Ngưng tay không lật hơn hai ngàn xác chết. Điều đó có vẻ như cô và Thẩm Ngạn không có duyên với nhau. Nếu có duyên, thì xác đầu tiên lật thấy sẽ là Thẩm Ngạn. Nhưng cô vẫn kiên trì quyết không bỏ cuộc. Có lẽ quyết tâm của cô cuối cùng đã động đến trời xanh, khi lật đến xác thứ hai ngàn bảy trăm hai mươi tám, lau hết máu trên mặt một người, nhìn thấy đôi mắt vị anh hùng, cô ôm chặt chàng nghẹn ngào: “Thẩm Ngạn”. Tống Ngưng đã không đoán nhầm, những bậc anh hùng thường cao số, Thẩm Ngạn vẫn còn sống. Cô ôm xác chàng nghe thấy tiếng rên vô thức của chàng khi bị chạm vào vết thương, lòng như trút được gánh nặng ngàn cân, nước mắt trào ra, chảy dài trên má: “Em biết mà, em phải đến”. Lúc này, chỉ có hai người giữa ngổn ngang xác chết, Thẩm Ngạn hoàn toàn không biết gì. Mặc dù giữa cảnh địa ngục, Tống Ngưng cũng nở nụ cười, cô ôm mặt khóc, nước mắt đầm đìa. Tống Ngưng đã cứu sống Thẩm Ngạn. Thuở nhỏ, trong phủ cô đã từng học y, chỉ tiếc cô không có năng khiếu về mặt này, khi thành nghề cũng chỉ chữa được bệnh thương hàn nhẹ. Vết thương của Thẩm Ngạn lại rất nghiêm trọng, có lẽ ngay cả thần y Bách Lý Việt cũng chưa chắc chữa được. Trong tình hình thuốc thang thiếu thốn như vậy, Tống Ngưng lại không làm Thẩm Ngạn chết, ngược lại khiến chàng khá dần lên, chỉ có thể nói, tấm lòng cô một lần nữa thấu tận trời xanh. Nhưng đôi mắt Thẩm Ngạn bị gió cát làm tổn thương, tạm thời chưa thể hồi phục. Chàng ngồi trong hang núi tuyết gần cánh đồng hoang Thương Lộc nhẹ nhàng vuốt thanh kiếm, lạnh lùng nói với Tống Ngưng: “Xin hỏi, ân nhân cứu mạng là một cô nương hay một vị công tử?”. Nhưng cuối cùng Tống Ngưng không cho Thẩm Ngạn biết cô là ai. Đại quân nước Lê dẹp bằng cánh đồng Thương Lộc, tiêu diệt năm vạn tinh binh của Thẩm Ngạn, chắc chắn chàng căm hận người Lê đến tận xương tủy, cho nên sao cô có thể cho chàng biết mình là Tống Ngưng của nước Lê?
|
Nhưng ý trời khó đoán, đêm hôm đó, vết thương của Thẩm Ngạn phát tác, chàng sốt rất cao, rét run cầm cập, trong hang đốt bao nhiêu lửa cũng không đủ. Tống Ngưng lo lắng bồn chồn, trầm ngâm rất lâu, cuối cùng đành dùng một cách được ghi trong sách cổ, cô cởi bỏ xiêm y, ép người sát vào chàng, ôm chàng thật chặt. Trong động bốn bề là lửa, nóng rừng rực, làm tan cả lớp băng trên vách động, nước theo kẽ nứt tí tách nhỏ giọt. Thẩm Ngạn bỗng bừng tỉnh, đẩy mạnh cô ra, cô lại ôm chàng chặt hơn, chàng bất lực nói: “Cô nương, không cần hủy hoại sự trong trắng vì tại hạ”. Cô cười thầm, tay viết lên ngực chàng: “Lương tâm thầy thuốc mà, chớ bận lòng”. Kỳ thực, không phải lương tâm nào hết, chỉ là bởi vì đó là người cô yêu, là vị anh hùng của cô, dùng cách gì cứu được chàng cũng rất đáng, dẫu phải đổi mạng cũng cam lòng, huống hồ chỉ là sự đụng chạm da thịt. Thẩm Ngạn không cự tuyệt nữa, nhẹ nhàng đặt tay lên vai cô: “Nếu cô nương không chê, khi tại hạ khỏi bệnh, xin đến quý gia cầu hôn cô nương”. Tống Ngưng run rẩy, gục đầu vào ngực chàng. Từ sau đêm đó, tình trạng của Thẩm Ngạn vẫn rất nguy kịch, đêm ngày mê man. Chỗ thuốc đem theo cuối cùng cũng hết, không còn cách nào khác, cô định cõng Thẩm Ngạn vượt qua núi tuyết vào trong trấn tìm lang y. Việc này thực sự vô cùng nguy hiểm, đầu tiên phải nghĩ tới tình hình thời tiết giá lạnh trên núi, họ có thể bị chết cóng trên đường đi, tiếp nữa, có thể gặp tuyết lở, có thể bị tuyết vùi, cuối cùng là có thể bị chết đói do lạc đường trên núi. Tóm lại, thực sự rất gian nan. Nhưng Tống Ngưng nghĩ đi nghĩ lại, cô quyết định cứ đi. Mặc dù ra khỏi hang núi đồng nghĩa với tự tìm cái chết, nhưng ở mãi trong hang cũng là tự tìm cái chết, mạo hiểm để may ra còn tia hy vọng sống. Nhưng cô chưa từng nghĩ đến chuyện để lại Thẩm Ngạn, một mình trở về quân doanh. Ba ngày liên tiếp không nghỉ, cô cõng Thẩm Ngạn vượt qua núi tuyết. Khi đến được một y quán trong thị trấn, cũng là lúc sức cùng lực kiệt, chân tay trầy xước rớm máu, đặt Thẩm Ngạn xuống rất lâu nhưng Tống Ngưng vẫn không thể nào đứng thẳng lên được. Thẩm Ngạn vẫn mê man. Gần mười ngày cô không trở về quân doanh, Tống Diễn vô cùng lo lắng, phái thuộc hạ đi tìm khắp nơi. Cô vừa tới thị trấn, liền nhìn thấy thuộc hạ của đại huynh, biết là không thể ở lại lâu hơn, liền đập miếng ngọc bội của mình thành hai mảnh. Một nửa dùng sợi tơ đỏ xuyên qua đeo lên cổ Thẩm Ngạn, một nửa mình giữ, coi đó là tín vật về sau. Cô gửi gắm Thẩm Ngạn cho hai ông cháu vị đại phu ở y quán, để lại năm lượng vàng, dặn dò: “Đây là Khương quốc tướng quân của các vị, hãy chữa khỏi cho chàng, nhất định sẽ được hậu thưởng xứng đáng”. Vị đại phu có tuổi quỳ sụp trước mặt cô, đứa cháu gái bị câm đứng bên đỡ lấy ông, giơ tay ra hiệu điều gì mà Tống Ngưng không hiểu. Bàn tay cô vuốt nhẹ mắt Thẩm Ngạn, khuôn mặt chàng trắng bệch, vẫn hôn mê sâu, chàng không hay biết cô sắp phải rời đi. Tống phu nhân kể cho tôi nghe câu chuyện đó, còn những chuyện không có trong ký ức của cô tôi lại nhìn thấy. Ngày thứ ba sau khi Tống Ngưng rời đi, Thẩm Ngạn tỉnh lại trong một đêm mưa, đôi mắt chàng được rửa và tra thuốc, đã sáng trở lại. Đứa cháu gái bị câm của vị đại phu ngồi cạnh giường chàng. Chàng chăm chú nhìn cô, mỉm cười: “Thì ra trông cô như thế này, những ngày qua chắc lo cho tôi lắm? Bây giờ chúng ta đang ở đâu?”. Khuôn mặt thanh tú của cô gái chợt ửng đỏ, cắn môi, không dám nhìn chàng. Chàng nhìn quanh hỏi: “Đây là y quán ư? Cô ngồi lại gần đây”. Cô gái câm nhích lại gần chàng. Chàng cau mày: “Cô không nói được ư?”. Cô gái bẽn lẽn gật đầu. Chàng nắm lấy tay cô: “Chả trách trước giờ tôi chưa nghe thấy cô nói, thì ra cô không nói được”. Cô gái khẽ ngước nhìn chàng, lại bối rối cúi đầu, tay vẫn để yên trong tay chàng. Năm Lê Trang Công thứ mười tám, nước Khương thua trận, dâng hai thành ấp biên ải cầu hòa. Lê, Khương kết đồng minh. Đồng minh mới kết chưa lâu, Lê Trang Công nhận Tống Ngưng em gái Khương quốc đại tướng quân làm nghĩa muội, phong là Kính Võ công chúa, phái sứ giả tới nước Khương yết kiến Khương vương, ngỏ ý muốn tác thành hôn sự cho Tống Ngưng và Thẩm Ngạn để thắt chặt mối bang giao hữu hảo giữa hai nước. Trước đây Tống Ngưng không để Thẩm Ngạn biết cô là ai, do mối quốc thù, cô sợ Thẩm Ngạn thà chết cũng không nhận ân nghĩa của người nước Lê, không chịu để cô cứu sống. Thực ra, chỉ là cô cả nghĩ, anh hùng không cần biết xuất xứ, nghĩa là khi nhận ơn huệ, anh hùng thường không hỏi xuất xứ của ân nhân. Nhưng bây giờ cô sắp được gả sang nước Khương, gả cho người anh hùng của lòng mình. Cô còn nhớ, Thẩm Ngạn nói sẽ cầu hôn cô, không cần biết chàng có yêu cô không, cô muốn chàng thực hiện lời hứa. Đó chính là lý do đàn ông không thích hứa hẹn với phụ nữ. Bởi trí nhớ của phụ nữ quá tốt, hơn nữa họ luôn có cách buộc người hứa giữ lời. Tống Ngưng viết một bức thư dài, lại đính kèm nửa miếng ngọc bội ngày trước, đưa cho sứ giả nhờ chuyển riêng đến tay Thẩm Ngạn. Mãi đến khi đoàn đưa dâu sắp khởi hành, Tống Ngưng vẫn không nhận được thư hồi âm của Thẩm Ngạn. Nhưng chuyện đó cũng không có gì quá thất lễ, cùng lắm chỉ là một lỗi nhỏ trong bản hòa ca mà thôi. Cuối cùng Thẩm Ngạn cũng đồng ý hôn sự Lê Trang Công đưa ra. Tống Ngưng thầm đoán, cảm thấy, thứ nhất, chính miệng Thẩm Ngạn nói sẽ lấy cô. Thứ hai, chàng cũng đồng ý lấy cô theo đề nghị của Khương vương, dù chủ động hay bị động, chàng đều bằng lòng, việc này hầu như đã hoàn toàn viên mãn, không thể sai sót. Không ngờ cuối cùng lại xảy ra sai sót, âu cũng là ý trời. Đó là sự huyền bí, nhưng nếu không huyền bí sao có thể chứng tỏ sự vô tình của số mệnh, giống như với Tống Ngưng, giống như với tôi. Đêm động phòng, vầng trăng tròn vành vạnh treo trên đầu ngọn cây, những áng mây lơ lửng trên trời, trong phòng ánh nến hỉ chập chùng in bóng hoa. Bao tình cảm ấp ủ trong lòng, Tống Ngưng hồi hộp chờ đợi Thẩm Ngạn lật khăn trùm đầu của cô, cô sẽ dành cho chàng nụ cười tươi thắm nhất. Cô rất xinh đẹp, các công tử quyền quý ở kinh đô nước Lê, mặc dù tất cả không muốn cưới cô làm vợ, nhưng tất thẩy đều công nhận nhan sắc mỹ lệ của cô, điều đó thật ra không dễ, nhưng ở một khía cạnh khác có thể thấy trình độ thẩm mỹ của họ rất cao, lại khá thống nhất với nhau. Vì đã là một trang tuyệt sắc, mà trang tuyệt sắc đó lại mỉm cười, tất khiến thành khuynh. Khi Thẩm Ngưng mở tấm khăn trùm đỏ thêu đôi chim uyên ương, nhìn thấy nụ cười khuynh thành đó, chàng bỗng sững người. Tống Ngưng nghiêng đầu nhìn chàng, nụ cười tươi rạng như hoa. Nhưng thần sắc chàng lạnh lùng dửng dưng, là bộ dạng cô đã quen thuộc. Cô nghĩ, hạnh phúc đời mình chính là đây. Nhũ mẫu ở nhà đã dặn cô, trong đêm tân hôn phải nói những lời yêu thương, đại loại như: “Phu quân, em trao Tống Ngưng cho chàng, trao hết cho chàng, chàng hãy trân trọng, vân vân…”. Cô đang định nói những lời đó, nhưng còn đang đắn đo, chợt nghe thấy tiếng chàng lạnh lùng: “Chắc cô biết người ngồi trên chiếc giường này đêm nay vốn là ai chứ?”. Cô không hiểu chàng nói gì, ngẩng đầu hỏi: “Sao?”. Đôi mắt chàng vẫn lạnh băng: “Tôi nghe nói, đại huynh của cô thỉnh cầu Lê vương, muốn tôi cưới cô. Tại sao lại là tôi? Chỉ bởi một lần tôi từng thắng cô ở chiến trường ư? Tống Ngưng, lẽ nào trước đây cô chưa nghe nói, tôi đã có vị hôn thê?”. Tống Ngưng lắp bắp: “Nhưng chàng đã nói muốn lấy tôi”. Chàng cười lạnh lùng: “Rút cục tôi cũng chỉ là phận bề tôi, chủ lấy tính mạng ra để ép tôi. Sao tôi có thể không nghe. Có điều tôi không muốn được gì từ cô. Cũng phiền cô đừng yêu cầu gì ở tôi”. Tống Ngưng ngước nhìn chàng: “Tôi không mong được gì từ chàng, chỉ là…”. Chàng ngắt lời cô: “Vậy thì tốt”. Chàng phảy tay áo bước khỏi phòng tân hôn, mặt đất trước giường đầy ánh trăng vỡ vụn. Cô nhìn theo bóng chàng, thầm nghĩ, tuyệt đối không thể như thế. Cô gọi chàng: “Thẩm Ngạn” giống như khi trong địa ngục Tu La trên chiến trường Thương Lộc, cô ôm chàng nghẹn ngào, dịu dàng gọi tên chàng. Nhưng chàng không dừng bước, cô không khóc, lòng chỉ hoang mang. Cả đời cô chỉ khóc một lần duy nhất. Đó là lúc tìm thấy chàng trên cánh đồng hoang Thương Lộc, phát hiện chàng vẫn sống. Cô cởi áo đỏ đại hỉ, gấp gọn gàng, nằm ngay ngắn trên giường, hai mắt mở to nhìn đôi nến long phượng đã cháy gần hết, ngoài cửa sổ ánh trăng buồn vẫn lặng lẽ buông. Ngày hôm sau, Tống Ngưng tới thỉnh an phu nhân lão tướng quân, nghe các hầu gái xì xào, tối qua tướng quân ngủ ở Hòa Phong viện. Hà Phong viện là nơi ở của Liễu Thê Thê, Thê Thê cô nương. Tống Ngưng thầm nghĩ, Thê Thê vừa xanh tươi vừa tràn trề sinh khí, một cái tên hay. Tống Ngưng nghe nói chiếc áo Thê Thê khâu cho tướng quân đường kim rất khéo, thêu hình cây trúc rất đẹp, sinh động như nghiêng trong gió. Lại nghe nói canh phù dung hạt sen Thê Thê hầm cho tướng quân là loại sen thượng hạng, món canh hầm tỏa hương thơm phức. Lại nghe nói, mặc dù Thê Thê không nói được, nhưng luôn làm cho tướng quân vui lòng. Tống Ngưng thầm nghĩ, Liễu Thê Thê nên là vợ của Thẩm Ngạn, mình xen vào nhân duyên của họ, tất trở thành người thừa, quả thật không nên so đo với cô ta. Sau ngày thành hôn, ngoài lần giáp mặt đêm tân hôn, Thẩm Ngạn hầu như không xuất hiện trước mặt cô. Có thể thấy chàng là người rất mực chung tình, quả đáng khâm phục. Cô nghĩ, mình yêu chàng, nhưng sự thể đã vậy, đành biến tình yêu thành niềm ngưỡng mộ mà thôi. Bởi chỉ có ngưỡng mộ mới không thấy tủi thân, chỉ có ngưỡng mộ mới không còn tham vọng. Cô thường nghe nói Liễu Thê Thê thế này, Liễu Thê Thê thế kia. Mặc dù đã suy nghĩ thông suốt, cố gắng tự an ủi “mình yêu chàng, chẳng liên quan đến chàng” nhưng thâm tâm vẫn muốn gặp mặt Liễu Thê Thê. Tuy nhiên, có những việc không phải cứ muốn là được. Ngay đến hoàng đế cũng không thể muốn có con trai là lập tức có ngay. Sinh con trai, con gái hay sinh ra một kẻ ngu đần, dường như đã là số mệnh. Bao gồm cả Tống Ngưng chưa bao giờ có thói quen tản bộ vào mỗi buổi chiều, đột nhiên một chiều nọ lại ra tản bộ sau hoa viên. Thế là hôm đó trong hoa viên có chim hót, hoa nở, có liễu rủ ven hồ, thế là bất ngờ gặp Liễu Thê Thê như lời gia nhân đồn đại. Mọi sự đều có nguyên do, khi Tống Ngưng nhặt được miếng ngọc bội trong hoa viên, miếng ngọc bội được viền vàng, rất hoàn hảo, ở giữa còn có một vết nứt khá rõ. Cô nhặt miếng ngọc bội, soi rất lâu dưới ánh mặt trời. Nhận ra đó chính là miếng ngọc bội cô đã bẻ đôi đưa cho Tống Ngưng vào dịp đông hàn năm ngoái, hai nửa đó đã được ghép lại, được viền bằng vàng. Bỗng một cô gái vội vã đi tới, một tay chỉ miếng ngọc bội, một tay chỉ vào ngực mình. Tống Ngưng ngẩng đầu, sau khi nhìn rõ mặt Tống Ngưng, sắc mặt cô gái đột nhiên trắng bệch. Tống Ngưng thầm nghĩ, mình đã từng gặp cô ta ở đâu. Trong làn gió nhẹ thoảng mùi thuốc thơm dịu, mùi thuốc này khiến cô chợt nhớ tới y quán nhỏ phía sau núi tuyết. Tống Ngưng cầm miếng ngọc bội, mỉm cười hỏi cô gái: “Cô cũng ở đây ư? Quả nhiên Thẩm Ngạn không phải là người vong ân bội nghĩa, ông cô đâu rồi?”. Cô gái run lập cập, quay người định bỏ đi. Tống Ngưng chau mày, nắm tay kéo cô lại: “Tôi đáng sợ lắm ư? Tại sao cô lại sợ như vậy?”. Cô gái cố vùng ra, lùi lại phía sau, đột nhiên sau lưng có tiếng Thẩm Ngạn: “Thê Thê”. Thê Thê. Cô kinh ngạc, cô gái trong tay cô đã bị Thẩm Ngạn giằng mất. Chàng đứng chắn trước cô ta, như một cây cổ thụ cao ngất che chở cho thân leo yếu ớt bên cạnh, nét mặt cúi xuống dịu dàng, vẻ âu yếm. Nhưng khi ngẩng đầu nhìn Tống Ngưng, khuôn mặt lại như băng giá, chàng hỏi sẵng: “Cô làm gì ở đây?”. Cô không trả lời câu hỏi của chàng, nhìn cô gái Thẩm Ngạn ôm trong lòng: “Thê Thê, cô chính là Thê Thê?”. Cô gái không dám ngẩng đầu. Thẩm Ngạn cau mày, ánh mắt dừng lại trên tay Tống Ngưng, lát sau lạnh lùng hỏi: “Miếng ngọc bội của Thê Thê, tại sao cô lại có?”. Cô sững người, kinh ngạc nhìn chàng: “Của Thê Thê? Cái gì của Thê Thê? Sao lại của Thê Thê?”. Cô bước lên, chìa miếng ngọc bội trước mặt chàng: “Chàng không đọc lá thư tôi gửi ư? Chàng đã quên đó là tín vật tôi trao cho chàng sao? Chàng đã quên ở trong hang núi gần cánh đồng Thương Lộc, chúng ta đã…”. Cô đang định nói tiếp, Liễu Thê Thê bất chợt nắm tay áo chàng lắc đầu. Mắt chàng đột nhiên lóe sáng, ngắt lời Tống Ngưng: “Trận chiến ở cánh đồng hoang Thương Lộc, năm vạn quân Khương đã phải bỏ mạng dưới lưỡi đao của quân Lê các người, mặc dù hai nước Khương, Lê đã có hòa ước, nhưng mối thù đó, ta mãi mãi không quên”. Chàng cười khẩy: “Trong hang núi tuyết gần Thương Lộc nếu không phải Thê Thê đã cứu ta thì Thẩm Ngạn hôm nay chỉ còn là một hồn ma lang thang trên chiến trường, sao có thể lấy công chúa Tống Ngưng của nước Lê các người?”. Liễu Thê Thê vẫn lắc đầu, nắm tay Thẩm Ngạn, nước mắt tuôn như suối, ướt đầm hai má, làm loang lớp phấn hồng trên mặt. Tống Ngưng không tin vào tai mình, cô hét to: “Sao có thể là cô ta cứu chàng? Người cứu chàng… rõ ràng là tôi”. Cô tưởng mình nói rõ ràng, chàng sẽ hiểu ra, thực ra cô đã đánh giá quá cao khả năng lí giải của chàng. Vì lẽ đời thường không như vậy, không phải cứ nói là người khác sẽ nghe ra. Thẩm Ngạn nhìn vào mắt Tống Ngưng, giọng giễu cợt: “Cô nói vớ vẩn gì thế? Cô đã cứu tôi? Tống Ngưng, tôi chưa từng nghe nói là cô am hiểu y thuật, người cứu tôi có y thuật rất cao, cô ấy không biết nói, đó chính là Thê Thê. Cô tưởng rằng Thê Thê không nói được là tôi sẽ tin những lời bịa đặt của cô, giá họa cho cô ấy ư?”. Tống Ngưng không biết làm gì để chứng minh, bởi vì ban đầu khi cô cứu được chàng hoàn toàn là do ông trời đoái thương. Vậy mà hôm nay, rõ ràng ông trời đã đổi ý, chuyển sang thương Liễu Thê Thê. Cô nghĩ, chàng chưa đọc lá thư đó, lá thư thực ra được đưa tới đâu, cô đã biết, bây giờ nhắc lại chuyện này cũng chẳng ích gì, chỉ thấy tủi thân, cho dù Thẩm Ngạn không yêu cô, nhưng chuyện này, cô vẫn phải nói rõ với chàng, khổ nỗi bây giờ cô nói gì chàng cũng không tin, cô đã rất cố gắng nhưng Thẩm Ngạn không cho cô cơ hội. Đúng là một người cố chấp, cố chấp đến bực mình
|
Cô không giải thích thêm nữa. Ánh mắt chàng nhìn cô hoàn toàn băng giá. Lúc đầu Tống Ngưng rất buồn, nhưng không khóc được, đêm đêm cô thường ôm chăn, ngồi đến sáng. Trong những đêm dài, cô thường hồi nhớ lúc chàng đặt tay lên vai cô, dịu dàng nói: “Nếu cô nương không chê, đợi tại hạ khỏi bệnh, sẽ đến quý gia cầu hôn cô nương”. Đó là hồi ức đẹp đẽ duy nhất. Bề ngoài cô có vẻ cương nghị, nhưng chung quy vẫn là nữ nhi, nữ nhi càng cương nghị càng muốn được trân trọng, quá cương dễ gẫy chính là như vậy. Chỉ không ngờ, thành hôn chưa được ba tháng, Thẩm Ngạn đã nạp thiếp. Chuyện này cũng không có gì lạ, một phong tục hết sức bình thường, thậm chí đàn ông không nạp nhiều thiếp còn bị coi thường, cũng như các đế vương, quan lại đều thê thiếp bầy đàn. Người này lấy, người kia cũng phải lấy, không lấy không được. Quân Vỹ thích nghiên cứu chuyện hậu cung các hoàng đế đã phân tích như vậy, cho rằng hoàng đế lấy thêm thiếp chủ yếu vì hoàng hậu là quốc mẫu, mẫu nghi thiên hạ, là hóa thân của vạn vạn thần dân. Thử nghĩ, khi chăn gối cùng quốc mẫu, nhìn khuôn mặt từ bi của bà, lòng rối loạn, ngay cả lúc trên giường cũng gợi nhớ chính sự, làm sao chịu nổi, đành phải nạp thiếp. Nhưng rút cục thế nào, làm sao chúng ta biết được, có lẽ là do đàn ông ham nữ sắc nên mới không ngừng nạp thiếp. Có điều Thẩm Ngạn nạp người thiếp này là vì cái gọi là tình yêu, hơn nữa lại là chuyện duy nhất khiến người ta không thể chịu được. Người đầu tiên không thể chịu được chính là Tống Ngưng. Tống Ngưng nhờ một vị thân vương của Lê Trang Công ngăn chặn chuyện này. Cô ngồi trong một ngôi thủy đình giữa hồ sen, đầy gió và nắng, ven hồ có những cây to không rõ tên, một màu xanh mát quen thuộc, như trong tranh. Thẩm Ngạn đứng trước mặt cô, đó là lần gặp mặt thứ ba sau hôn lễ, chàng cau mày cúi nhìn Tống Ngưng hỏi: “Cố tình phá hôn sự của tôi với Thê Thê, rốt cuộc cô muốn gì?”. Cô đặt cuốn sách trên tay xuống, ngước nhìn chàng, một Tống Ngưng từng luôn mỉm cười trên sa trường ác liệt, giọng nói trầm trầm, hai má ẩn hiện lúm đồng tiền mê hồn: “Tôi muốn gì ư? Câu hỏi khéo thật, tôi chẳng muốn gì hết, chỉ là có một vài thứ Liễu Thê Thê không xứng đáng có”. Chàng lạnh lùng: “Cô không chịu nổi Thê Thê, còn tôi không chịu nổi cô”. Lúm đồng tiền trên má Tống Ngưng càng sâu: “Thẩm Ngạn, chàng không thể không chấp nhận tôi, bởi hôn ước của chúng ta là minh ước giữa hai nước Lê, Khương”. Mặt chàng lộ vẻ phẫn nộ cố nén: “Đêm tân hôn chúng ta đã giao ước, tôi và cô không liên quan đến nhau”. Cô nhìn bàn tay mình, giọng nói dửng dưng: “Thực ra vốn cũng chẳng có gì, chỉ là thấy hai người ân ái như vậy, mà tôi được gả tới đây, cô đơn một mình, nên rất chạnh lòng”. Chàng phẩy tay áo cười khẩy: “Tống Ngưng, cô còn nhớ ban đầu ai đề nghị hôn sự này không?”. Bóng chàng biến mất ở chỗ rẽ, một lúc sau, cô cúi đầu giở cuốn sách trên tay, gió lại thổi, những giọt nước mắt rơi trên sách, ướt nhòe con chữ. Cô giơ tay áo lau nước mắt, lại cúi đầu đọc tiếp, như không có chuyện gì. Không lâu sau, ở nước Hạ cách Khương một con sông, quốc vương băng hà, công tử Trang Nghi lên ngôi. Hai tháng sau, Hạ Trang Nghi tân đế nước Hạ xuất binh chinh phạt nước Khương. Khương vương lệnh cho Thẩm Ngạn xuất chiến. Tháng tư, cỏ héo hoa tàn, trên bầu trời một vầng trăng hoang lạnh, Tống Ngưng ngồi tựa bên song, lặng ngắm vầng trăng lùi dần phía cuối trời. Rút cục cô không thể để Thẩm Ngạn ra đi bỏ mạng ở chiến trường, chàng không phải là đấng phu quân như ý, nhưng nửa năm trước vừa gặp, cô đã thầm yêu chàng, chàng là vị anh hùng của lòng cô. Có những người chưa từng trải, lãng mạn, yêu một lần là nhớ suốt trăm năm, đó chính là Tống Ngưng. Giờ Dần, cô lục trong hòm lấy ra bộ chiến giáp mang theo khi xuất giá, tháo tấm bảo vệ trước ngực, váy lê quét đất, một mình băng qua hoa viên đến thẳng Chỉ Lan Viện, nơi ở của Thẩm Ngạn. Đám hầu nữ của Chỉ Lan Viện ấp úng hồi lâu, nói: “Tướng quân, tướng quân… không ở trong phòng”. Sắc mặt Tống Ngưng nhợt nhạt: “Ở Hà Phong Viện ư?”. Đám người hầu cúi gằm không dám trả lời. Cô nhét tấm giáp bọc trong mảnh lụa vào tay một hầu nữ, nói: “Chàng không có ở đây, vật này nhờ cô…”. Chưa nói xong, đám người hầu đột nhiên ngẩng đầu vui sướng: “Tướng quân!”. Thẩm Ngạn bước vào cửa viện, trời còn chưa sáng, những chiếc đèn lồng trong sân lờ mờ tỏa sáng, ánh sáng vàng vọt bao trùm bóng chàng. Cô nghe thấy tiếng chàng, ở ngay sau lưng, cứng nhắc: “Cô làm gì ở đây?”. Cô quay lại, đứng sững ra đó, nhìn chàng một hồi từ đầu đến chân, mỉm cười. Nụ cười chưa hiện lên mắt, đó chỉ là thói quen của cô. Cô đưa cho chàng bọc lụa trong tay: “Không có gì, nghe nói chàng sắp xuất chinh, tôi đến đưa chàng tấm giáp bảo vệ bằng đá Thanh Tùng, chắc chắn hơn nhiều so với tấm giáp thông thường, nó đã không ít lần cứu tôi thoát chết. Bây giờ tôi không ra trận nữa, phiền chàng mang theo ra chiến trường dùng khi cần thiết”. Chàng khẽ nhíu mày, nhìn cô, lúc sau nói: “Nghe nói, tấm giáp này là báu vật huynh trưởng tặng cô”. Cô ngước mắt, nụ cười thoáng hiện: “Ồ, chàng cũng biết? Nói là báu vật bởi vì nó có thể bảo vệ được tính mạng, không bảo vệ được cũng chẳng là gì. Cho chàng mượn không phải có ý để chàng nợ nần gì tôi. Chàng nói đúng, chúng ta vốn chẳng liên quan đến nhau, nhưng danh phận đã định, nếu chàng chết nơi chiến trường, đại gia đình trong Thẩm phủ này sẽ do tôi gánh vác, thực là vất vả, trách nhiệm của ai do người đó gánh, chàng thấy có đúng không?”. Chàng ngắm kỹ tấm giáp màu ngọc bích trong tay, giống như màu xanh của thảm lá sen đang trải trước mắt. Cô gật đầu định đi, chàng kéo lại: “Cô có thể tái giá”. Cô nhìn bàn tay nắm ống tay áo mình, ánh mắt nhích lên, dừng lại ở hình cây trúc thêu sống động như nghiêng trong gió trên vạt áo chàng, cười tươi như hoa: “Sao cơ?”. Chàng buông tay áo cô nói: “Nếu tôi chết cô có thể tái giá”. Cô cúi đầu, trầm tư, lúc sau nói: “À, đúng”. Cô ngẩng đầu, hai lúm đồng tiền mê hồn lại hiện trên má: “Vậy chàng nên chết ngoài chiến trường, đừng trở về nữa, mãi mãi không nên trở về nữa”. Đám người hầu đứng bên sợ run, nhưng cô lại mỉm cười, ánh mắt lạnh lùng. Đúng là không thể đoán được tâm tư đàn bà, đoán già đoán non, cuối cùng cũng không đoán ra. Trên đời có kiểu đàn bà không câu nói nào khiến người khác bận tâm, cũng có kiểu đàn bà mỗi câu nói đều khiến người ta không thể không suy nghĩ. Cô đi vội vã, cuối cùng để lại cho chàng một hình bóng đoan trang, duyên dáng, cũng đầy ngạo mạn thách thức. Chàng nắm chặt tấm giáp màu ngọc, nhìn mãi về phía bóng người vừa khuất, ánh mắt thâm trầm. Thẩm Ngưng ra đi đã hai tháng. Tháng tám, hương quế ngào ngạt, tin vui từ Hà Phong Viện truyền ra, Thê Thê cô nương đã có thai, lão tướng quân và phu nhân vui mừng khôn xiết. Liễu Thê Thê có thể coi là khách của Thẩm phủ, khách trong nhà có thai, cũng là hạt giống nhà mình, điều này cũng phải thôi, nhưng khách lại có thai ngay trước mặt con dâu danh chín ngôn thuận, thực tình cũng khiến lão tướng quân và phu nhân khó xử. Lúc Tống Ngưng đến thỉnh an, lão phu nhân mới ướm một câu: “Rút cục để cho cốt nhục họ Thẩm lưu lạc bên ngoài cũng không hay gì”. Tống Ngưng mỉm cười gật đầu: “Mẹ nói phải”. Cuối tháng, hoa quế nở tràn lan trên núi Cù ở ngoại thành, Tống Ngưng nhìn về ngọn núi phía xa, nói với người hầu đem theo khi rời cố quốc: “Hãy mời Thê Thê cô nương ngày mai lên núi Cù thưởng ngoạn hoa quế”. Người hầu gửi thiệp tới Hà Phong Viện, Liễu Thê Thê nhận lời. Ngày hôm sau, Tống Ngưng hành lý đơn giản, chỉ mang theo một người hầu. Người hầu một tay xách chiếc làn đựng ít đồ điểm tâm, một tay khoác bọc hành lý. Trái với Tống Ngưng, Liễu Thê Thê long trọng hơn nhiều, ngồi trên kiệu bốn người khiêng, lại thêm hai vú già, bốn hầu nữ. Tống Ngưng cười: “Đi ngắm hoa lại mang theo nhiều người như vậy, thật mất hứng”. Vú già cười nói: “Có lẽ phu nhân không biết, tướng quân vừa rồi có thư về, dặn dò chúng nô tỳ chăm sóc chu đáo Thê Thê cô nương, giờ Thê Thê cô nương đã mang cốt nhục của tướng quân, chúng nô tỳ không dám sơ suất”. Tống Ngưng phe phẩy chiếc quạt, không nói gì. Người hầu của cô cười khẩy: “Nghe vú già nói vậy, không được sơ suất đối với Thê Thê cô nương, nghĩa là có thể sơ suất đối với công chúa của chúng tôi ư. Nói câu này hơi khó nghe, nhưng ở nước Lê chúng tôi, khi công chúa đứng thì kẻ dưới không dám ngồi, khi công chúa ngồi, kẻ dưới nếu chưa được công chúa cho phép vẫn phải quỳ. Đến nước Khương các vị thì ngược lại. Công chúa bộ hành lên núi ngắm hoa, vậy mà cô nương nhà các ngươi lại ngồi kiệu, phải chăng lễ nghĩa của nước Khương là như vậy?”. Vú già nghe thế, quỳ sụp xuống đất, tự tát vào mặt mình. Rèm kiệu vén lên, Liễu Thê Thê bước xuống đỡ vú già, đôi tay có mùi thuốc thoang thoảng giơ lên làm những động tác rất duyên dáng, đẹp mắt, vú già lo lắng giải thích: “Cô nương nói cô không ngồi kiệu nữa, vừa rồi là cô không hiểu lễ nghĩa, cô ấy sẽ đi bộ theo hầu phu nhân”. Ngọn núi Cù cao sừng sững, đi suốt một ngày vất vả, một người mang thai đâu dễ kham nổi. Đêm đó về phủ, Liễu Thê Thê liên tục ra máu. Sáng hôm sau, có tin nói Liễu Thê Thê bị sảy thai. Người hầu của Tống Ngưng lo lắng: “Nếu tướng quân nổi giận thì làm thế nào”. Tống Ngưng ngồi đọc sách bên cửa sổ, hoa quế trong vườn nở rộ, hương quế ngào ngạt trong gió. Liễu Thê Thê bị sảy thai, suy cho cùng là do Tống Ngưng, nhưng đứa trẻ đó không danh chính ngôn thuận nên lão tướng quân và phu nhân mặc dù có thương xót cũng chẳng biết làm thế nào, chỉ có thể bù đắp vật chất cho Thê Thê, nhân sâm, yến sào, hạt sen… mọi thứ quý bổ đều sai người mang tới Hà Phong viện. Chỉ có Liễu Thê Thê vẫn khóc ròng, không ăn uống gì. Để khỏi lãng phí đành phải để vú già, người hầu ăn giúp, kết quả là trong thời gian ngắn, ngoài Liễu Thê Thê vẫn giữ được thân hình thon thả, tất cả kẻ ăn người ở của Hà Phong viện đều béo tốt trông thấy, ngay cả hai con chim sẻ làm tổ trên hốc cửa đình viện cũng béo mẫm vì được hưởng lộc thừa. Thời gian này, Tống Ngưng cáo bệnh, chỉ ở trong phòng rất ít ra ngoài, không gặp gỡ ai. Cuối cùng có một người cô không thể không gặp. Đó là chòm sao ma quỷ trong số mệnh của cô. Cô đã vì chàng cởi bỏ chiến giáp, cài hoa, khoác áo đỏ tân nương, trái tim dịu dàng ăm ắp yêu thương vượt đường trường vạn dặm theo chàng, vậy mà chàng không để mắt đến cô. Tháng chín, tin thắng trận truyền về kinh đô, Thẩm Ngạn khải hoàn dẫn quân trở về triều. Tống Ngưng ngồi bên hồ thả mồi cho cá, nghĩ ngợi một hồi, ngẩng đầu hỏi hầu nữ: “Chàng đã trở về, ngươi nói xem, liệu chàng có giết ta?”. Cốc trà trên tay hầu nữ rơi xuống đất. Tống Ngưng cười: “Thân thủ của ta không bằng chàng, nhưng cũng không dễ để chàng lấy mạng, cùng lắm đánh một trận, ngươi khỏi lo”. Hầu nữ quỳ trước mặt: “Ở đây công chúa sống chẳng vui vẻ gì, nô tỳ cũng thấy người không vui. Sao chúng ta không trở về nước Lê? Công chúa, chúng ta về nước thôi”. Tống Ngưng nhìn đàn cá đớp mồi dưới hồ sen, nói: “Đây là hôn sự giữa hai nước, ngươi tưởng muốn đi là đi được hay sao?”. Mọi sự không thể cứu vãn đều bắt đầu từ đêm đó. Tôi nói như vậy là bởi vì tôi nhìn thấy tất cả, nhìn thấy tính mạng Tống Ngưng bắt đầu từ đêm đó nhích dần đến cái chết. Đẩy cô tới cõi chết chính là tình yêu của cô và bàn tay Thẩm Ngạn. Chàng lao đến như mang theo mưa gió, trên mình vẫn mặc bộ chiến bào màu bạc, giống như lần đầu họ gặp nhau, nhưng trong mắt chàng bừng bừng lửa giận, như một vị Tu La đến từ địa ngục. Cuối cùng, cô không địch được chàng, chưa đầy hai chiêu, kiếm của chàng đã chẹn dưới họng cô. Cô vội vàng dùng tay nắm thanh kiếm, lưỡi kiếm vừa nhích, lướt qua năm ngón tay cô, sâu tới tận xương. Chắc chắn rất đau nhưng cô không để ý, chỉ nhìn xuống tay mình: “Chàng thực sự muốn giết tôi ư?”. Giọng chàng lạnh lùng: “Tống Ngưng, cái thứ dính trên tay cô là tính mệnh con trai tôi. Cô ép Thê Thê lên núi, cô không nghĩ sẽ giết chết nó?”. Cô ngẩng phắt đầu, lông mày giãn ra, tiếng rất nhỏ nhẹ: “Đó không phải là lỗi của tôi, tôi chưa từng sinh con làm sao biết được người có thai lại có thể xảy ra chuyện đó, leo núi là có thể bị sẩy thai. Chàng không có duyên với đứa bé đó lại đổ lỗi lên đầu tôi, Thẩm Ngạn, chàng làm vậy có phải quá vô lý không?”. Cô nói ra những lời đó không phải là lời lòng cô muốn nói, chỉ là do bị chàng kích nộ. Cô nhìn khuôn mặt rắn đanh của chàng cảm thấy buồn cười, liền bật cười thành tiếng: “Thẩm Ngạn, chàng biết đấy, ngoài tôi ra, không ai đủ tư cách sinh đích tôn cho nhà họ Thẩm”. Cô nghĩ, tình yêu của mình gần như sắp chết, ngày trước cô nhìn Thẩm Ngạn, chỉ mong mọi việc với chàng đều suôn sẻ. Bây giờ, lúc nào cũng muốn chàng không vui. Nhưng chàng không vui, cô cũng không thấy vui, giống như con dao hai lưỡi, làm tổn thương người khác, cũng làm tổn thương chính mình. Câu nói vui của cô lại khiến chàng kích động. Cô nhìn thấy cơn sóng phẫn nộ trong mắt chàng. Cô cảm thấy thanh kiếm của chàng sắp xuyên qua tay đâm vào họng mình. Nhưng phán đoán của cô đã sai. Thanh kiếm của Thẩm Ngạn không tiến thêm một phân nào nữa, mà rút khỏi tay cô, dính một vệt máu tươi, đầu thanh kiếm áp vào ngực áo cô, khẽ hất, những chiếc khuy đứt tung. Phu quân của cô đang đứng trước mặt cô, dùng một thanh kiếm nhuốm máu hất toạc áo ngoài của cô, sóng hận trong mắt biến thành nụ cười khẩy lạnh lùng trên môi, giọng nói giễu cợt ghê người: “Tống Ngưng, tôi chưa gặp người đàn bà nào độc ác như cô”. Lần động phòng chậm đúng chín tháng. Cô vùng vẫy giãy giụa, nếu đối phương là một nho sinh, cô không những có thể vùng ra được mà còn đánh cho gã một trận. Nhưng đây lại là một tướng quân, võ nghệ vào bậc nhất nước Lê, lại có sở trường đánh giáp lá cà, cô đành bó tay.
|