Phồn Hoa Ánh Tình Không
|
|
Quyển 1 - Chương 4: Chân hung vị minh (tứ)
Hoàng liên thanh nhiệt giải độc. Phiền Tế Cảnh uống hai chén lớn, ăn thêm một viên mứt hoa quả, nghĩ cả người thanh tỉnh hơn rất nhiều, không giống như khi mới hồi Cửu Hoa phái hồn hồn ngạc ngạc. Hoa Hoài Tú lấy thêm một bộ trà cụ ra, chử thêm một ấm khác. Phiền Tế Cảnh im lặng nhìn y. Phân ly trước mộ phụ mẫu khi còn nhỏ, nhiều năm sau gặp lại, đã cách nhau một khoảng thời gian dài. Khoảng thời gian này cũng đủ để thay đổi nhiều việc. Tỷ như tiểu nhi năm nào mở miệng ra toàn thất bính bát thấu [1] văn chương phu tử giờ đã trưởng thành thành một vị trọc thế phiên phiên giai công tử [2]. Tựa hồ cảm nhận được ánh mắt của hắn, khóe miệng Hoa Hoài Tú hơi nhếch lên, hơi nghiêng đầu sang trái, làm cho đường cong duyên dáng của cổ lộ ra rõ ràng hơn. Phiền Tế Cảnh quả nhiên không kiềm chế được mở miệng nói: “Biểu ca.” “Ân?” Y lười biếng đáp lại. “Buổi tối ở đây nhiều muỗi, ngươi phải cẩn thận cái cổ.” “...” Sắc mặt Hoa Hoài Tú tối sầm, quay đầu lại hung hăng trừng mắt nhìn hắn. Phiền Tế Cảnh bị y trừng mạc danh kì diệu, biểu tình cực kỳ vô tội. “Ta biết Cửu Hoa Sơn các ngươi không chỉ muỗi nhiều, cả thích khách cũng nhiều.” Hoa Hoài Tú hừ lạnh nói, “Chuyện sư phụ ngươi, sư thúc ngươi đã nói với ta.” Nhắc đến Bộ Lâu Liêm, sắc mặt Phiền Tế Cảnh liền trở nên u ám. “Nửa tháng này, ngươi muốn bắt đầu từ đâu?” Hoa Hoài Tú hỏi. Phiền Tế Cảnh ngẩng đầu, kinh ngạc nhìn y, “Ngươi thực sự đáp ứng điều kiện của sư thúc.” Nếu hắn không nói cái câu sát phong cảnh khi nãy, Hoa Hoài Tú còn có thể sẽ nói “ta là vì ngươi” các loại lời phiến tâm tình, nhưng hiện tại y đối với tên đầu gỗ kia chỉ có một bụng tức giận, “Nói nhảm. Ta là đào hôn trốn tới đây, chẳng lẽ còn muốn viết thư về nhà để bọn họ tới bắt sao?” Phiền Tế Cảnh lo lắng nói: “Thế nhưng vạn nhất nhượng cữu cữu biết...” Sắc mặt Hoa Hoài Tú càng trở nên lạnh hơn, “Ngươi sợ ta liên lụy tới ngươi?” Phiền Tế Cảnh thở dài nói: “Ta là sợ hắn phạt ngươi.” Ánh mắt Hoa Hoài Tú lúc này mới thoáng trở nên nhu hòa, “Hoa gia đệ nhất không thiếu tiền, đệ nhị không thiếu người. Thiếu ta cũng không hội cải biến gì.” Phiền Tế Cảnh nói: “Cữu cữu rất thương ngươi.” Hoa Hoài Tú không muốn kéo dài vấn đề này, chuyển trọng tâm câu chuyện nói: “Ngươi định tra án thế nào?” Phiền Tế Cảnh nói: “Ta nghĩ trước tiên đi nhìn vết thương của sư phụ.” “Nghiệm thi?” Hoa Hoài Tú nhíu nhíu mày, “Ngươi biết sao?” “Không biết.” Phiền Tế Cảnh nói, “Sở dĩ ta nghĩ thỉnh đại sư huynh đi cùng ta.” Hoa Hoài Tú ẩn ẩn bài xích từ miệng hắn nhắc đến người khác, nét mặt nhất thời mang theo vài phần chế giễu, “Hắn biết sao?” “Không biết. Nhưng hắn nhất định biết thương thế do ‘Vãn hải cuồng triều’ tạo ra là như thế nào.” Hoa Hoài Tú nghe hắn nói có lý, đành phải đồng ý. Mấy người Quan Tỉnh đối với việc không được nhìn thấy thi thể của Bộ Lâu Liêm vẫn luôn canh cánh trong lòng, đương nhiên là nhất phách tức hợp (nhất chí, đồng ý, ăn nhịp với nhau). Vấn đề duy nhất hiện giờ là liệu Tống Bách Lâm hội đồng ý cho phép hay không. Ngoài dự tính của tất cả, hắn ngay lập tức đáp ứng. Tống Bách Lâm nói: “Ta đã đem việc này giao phó cho ngươi, tất nhiên là sẽ hết lòng chi trì.” Phiền Tế Cảnh thấy sự tình thuật lợi như vậy, cảm kích không ngớt. Tống Bách Lâm xua tay nói: “Hà tất phải cảm tạ ta? Ngươi nếu trong vòng nửa tháng không giao ra được hung thủ, ta sẽ tính thêm phần này vào nợ.” Phiền Tế Cảnh không hề có ý lùi bước nói: “Ta tuyệt đối sẽ không để sư phụ chết oan!” Tuy rằng Tống Bách Lâm đồng ý nhượng Phiền Tế Cảnh và Quan Tỉnh nghiệm thi, nhưng cũng không muốn cho người khác biết. Bí mật an bài buổi tối, để bọn họ vào dâng hương khấn vái xong, mới dẫn vào hậu đường. Bởi tử trạng của Bộ Lâu Liêm vô cùng thê thảm, Tống Bách Lâm và Ngô Thường Bác vì không muốn làm tổn hại đến hình tượng chưởng môn của hắn, sớm nhập quan, chỉ đợi ngày hoàng đạo nhập táng. Bởi vậy muốn nghiệm thi thì phải khai quan. Tống Bách Lâm thấy Phiền Tế Cảnh và Quan Tỉnh đều đang nhìn hắn, chậm rãi gật đầu nói: “Khai đi.” Quan Tỉnh và Phiền Tế Cảnh đều là người luyện võ, nhổ mấy cái đinh đều dễ như trở bàn tay. Nhưng bọn hắn cũng không dám nhổ quá nhanh, e sợ làm kinh động đến anh linh (hồn thiêng trên trời) của sư phụ. Nhổ hết đinh xong, Phiền Tế Cảnh và Quan Tỉnh lại giương mắt nhìn Tống Bách Lâm. Tống Bách Lâm hựu gật đầu. Bọn họ lúc này mới cẩn cẩn dực dực nâng nắp quan tài lên, mùi thi thể thối rữa lập tức xông vào mũi, Phiền Tế Cảnh theo bản năng đưa tay che lại mũi miệng. Tống Bách Lâm nhíu mày, nhưng hắn dù sao cũng là sư thúc, che mũi miệng sẽ tổn hại đến thân phận, không thể làm gì khác hơn là diện vô biểu tình đứng im nín thở. Bởi Phiền Tế Cảnh và Quan Tỉnh sợ quấy nhiễu Bộ Lâu Liêm, động tác vô cùng thong thả nhẹ nhàng, hết nửa nén hương cũng chưa xem xong. Tống Bách Lâm nghĩ muốn mở miệng giục, lại sợ hít phải thi khí, dứt khoát xoay người đi ra ngoài. Hắn vừa đi, Quan Tỉnh che miệng hạ giọng nói: “Từ vết thương nhìn ra, sư phụ đích xác là chết bởi ‘Vẫn hải cuồng triều’. Chiêu này phải phối hợp với nội công Loa Toàn Kính của bản phái, làm cho kiếm liên tục xoay tròn, vì thế vết thương gây ra là viên khẩu (động tròn).” Phiền Tế Cảnh tưởng tượng đến tràng cảnh khi đó, sắc mặt tái nhợt nói: “Vậy chẳng phải sẽ khiến cho da thịt xung quanh bị xoắn...” Quan Tỉnh khẽ gật đầu, “Trách không được lúc đó sư thúc không cho chúng ta nhìn hiện trường.” Phiền Tế Cảnh nhíu mày. Quan Tỉnh biết hắn đang suy nghĩ hung thủ, cũng không quấy rối, yên lặng khép quan tài lại, tay không đóng đinh mới vào hảo, mới thúc vai hắn nói: “Đi ra ngoài hãy nói.” Phiền Tế Cảnh xoay người đi ra ngoài. Tống Bách Lâm đứng tại ngoại đường, nhìn bài vị Bộ Lâu Liêm. “Sư thúc.” Phiền Tế Cảnh và Quan Tỉnh thấp giọng gọi. “Thế nào?” Tống Bách Lâm hỏi. Phiền Tế Cảnh liếc mắt nhìn Quan Tỉnh, thấy hắn gật đầu, mới nói: “Sư phụ xác thực là chết vì ‘Vãn hải cuồng triều’ của Tiên Liên kiếm pháp.” Tống Bách Lâm cười lạnh nói: “Việc này còn cần các ngươi nói? Ta là hỏi các ngươi có phát hiện gì mới không.” Phiền Tế Cảnh nói: “Không có.” Tống Bách Lâm cũng không tức giận. Hắn và Ngô Thường Bác kiểm tra thi thể của Bộ Lâu Liêm trước sau hơn mười lần mới cho ra được một kết quả, nếu Quan Tỉnh và Phiền Tế Cảnh nhìn vài lần có thể phát hiện ra cái gì khác, hắn mới thấy phiền muộn. “Lại đây dâng hương cho sư phụ ngươi. Sau đó trở về tẩy rửa sạch sẽ rồi hãy nói.” Hắn nói xong, chắp tay xoay người đi ra ngoài. Quan Tỉnh và Phiền Tế Cảnh im lặng dâng hương, sau đó tự động trở về phòng. Từ lúc Tống Bách Lâm đồng ý cho bọn họ nghiệm thị, hai người đã có dự cảm, từ thi thể sợ rằng cũng nhìn không ra được chu ti mã tích [3] gì. Nhưng dự cảm là một chuyện, thực sự không tìm được manh mối gì lại là một chuyện khác. Phiền Tế Cảnh về phòng tắm rửa sạch sẽ, khoác ngoại y, ngẩn người đứng nhìn ánh trăng bên ngoài. “Không có đầu mối?” Hoa Hoài Tú từ phòng mình đi ra, y phục chỉnh tề, hiển nhiên vẫn chưa ngủ. Phiền Tế Cảnh nói: “Sư phụ xác thực là chết vì ‘Vãn hải cuồng triều’.” “Cửu Hoa phái có bao nhiêu người hội Tiên Liên kiếm pháp?” “Sư phụ trước khi qua đời từng truyền thụ cho đại sư huynh nhị sư huynh và ngũ sư đệ.” “Một mình ngươi không được?” Hoa Hoài Tú bĩu môi nói, “Ta sớm đã biết sư phụ ngươi bất công. Luận tư chất phẩm tính, ngươi mới là ngươi có điều kiện tốt nhất trở thành y bát truyền nhân.” Phiền Tế Cảnh nhíu mày nói: “Sư phụ làm thế, tất có lý do của riêng mình.” “Ngươi...” Hoa Hoài Tú nguyên bản còn muốn nói gì đó, nhưng thấy vẻ mặt nghiêm túc của hắn, dường như lúc nào cũng có thể bị kích động, không thể làm gì khác hơn là nói sang chuyện khác: “Ngươi tiếp theo định chuẩn bị tra án như thế nào?” Phiền Tế Cảnh nói: “Nếu Tiên Liên kiếm pháp chỉ có đại sư huynh bọn họ hội, ta trước tiên sẽ đi hỏi bọn hắn.” Hoa Hoài Tú ôm ngực nói: “Tống Bách Lâm và Ngô Thương Bác ngay từ đầu một mực chắc chắn rằng sư phụ ngươi chết vì Tiên Liên kiếm pháp, xem ra đối với Tiên Liên kiếm pháp cũng rất lý giải.” Phiền Tế Cảnh giật mình nói: “Ý của ngươi là?” “Ý ta nói chính là...” Hoa Hoài Tú đảo mắt bốn phía, “Ta cảm thấy người trong Cửu Hoa phái không bình thường.” Phiền Tế Cảnh nói: “Không bình thường?” Hoa Hoài Tú nói: “Theo lý thuyết, sư huynh sư phụ của mình chết, phải bi phẫn tuyệt vọng mới đúng. Ngay cả nếu không bi phẫn tuyệt vọng, cũng phải bi thương. Thế nhưng ngươi xem, cả núi này trừ ngươi ra, còn người nào vì cái chết của Bộ Lâu Liêm mà đau buồn?” Phiền Tế Cảnh nói: “Sư thúc và sư huynh đệ trước giờ vẫn luôn không biểu lộ tình cảm ra ngoài.” Hoa Hoài Tú nhíu mày nhìn hắn. “Làm sao vậy?” Phiền Tế Cảnh sờ sờ mặt mình. “Khi còn bé không cảm thấy...” Vùng xung quanh lông mày của Hoa Hoài Tú càng nhăn chặt, “Ngươi khi lớn lên sao lại trở thành tên chất phác cổ hủ như thế này?” Phiền Tế Cảnh nghiêm mặt nói: “Bởi vì ta hiểu chuyện.” Hoa Hoài Tú tức giận nói: “Ta thà rằng ngươi cả đời không hiểu chuyện.” Phiền Tế Cảnh suy nghĩ một chút nói: “Chờ đến khi nào biểu ca trưởng thành sẽ minh bạch.” Hoa Hoài Tú không nói gì nữa, xông về phòng chộp ấm trà rồi lao tới chuẩn bị đập hắn. Đáng tiếc người đứng ở chỗ này đã trở về phòng rồi. Hoa Hoài Tú đi tới cửa, tay vừa đưa lên định gõ, bên trong phòng đột nhiên tối sầm, sau đó là tiếng tất tất tác tác của giường. “...” Hoa Hoài Tú buồn bực trờ về phòng đặt ấm trà xuống, cũng chuẩn bị lên giường ngủ, trong đầu đột nhiên hiện lên một tia sáng—– Phiền Tế Cảnh là người luyện võ, vừa rồi hắn không có ý che giấu cước bộ. Theo lý thuyết, Phiền Tế Cảnh hẳn là có thể nghe ra hắn đứng tại cửa? Hoa Hoài Tú tức giận nghiến răng, vọt nhanh tới bức tường ngăn cách giữa hai phòng, mạnh mẽ đấm một quyền. ... Sau đó tắt đèn, lên giường, trùm chăn... Nhu nhu mu bàn tay. ————————————————- [1] Thất bính bát thấu 七拼八凑: ý chỉ kết hợp miễn cưỡng những điều không liên quan với nhau hoặc chỉ liên quan với nhau một cách khiên cưỡng, vụn vặt lại một chỗ thành một ý nghĩa tổng của những điều gán ghép kia. Đây là thành ngữ của Trung Quốc. Câu thành ngữ này mang hàm nghĩa xấu. [2] Trọc thế phiên phiên giai công tử 浊世翩翩佳公子: công tử tốt đẹp xuất chúng, thanh nhã quý phái giữa trần tục ô trọc hỗn loạn. Sau đây là một chút nguồn gốc sự tích và bối cảnh lịch sử thời bấy giờ của câu trên. “Phiên phiên trọc thế giai công tử. Vạn niên thâm khuê mộng lý nhân” Hai câu trên là để chỉ việc giữa thế gian ô trọc mà có bậc phong lưu thanh tao văn nhã, là giấc mộng trong lòng nữ nhi chốn khuê phòng. Vốn “Phiên phiên trọc thế giai công tử” xuất xứ từ bộ Sử Ký Tư Mã Thiên, thiên Bình Nguyên quân, Ngu Khanh liệt truyện (平原君虞卿列傳). “Phiên phiên trọc thế giai công tử” ở đây là chỉ Bình Nguyên Quân, một trong bốn vị Công tử thời Chiến quốc. Chiến Quốc tứ công tử (chữ Hán: 战国四公子) là bốn vị công tử nổi tiếng trong các nước chư hầu Sơn Đông thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Hoạt động của cả 4 vị công tử đều liên quan tới tình hình chính trị, quân sự cuối thời Chiến Quốc. Bốn vị công tử có đóng góp nhất định cho sự tồn vong của các quốc gia Sơn Đông trước sự xâm thực của nước Tần lớn mạnh phía tây khi đó. Bốn vị công tử gồm có: § Mạnh Thường quân Điền Văn nước Tề § Bình Nguyên quân Triệu Thắng nước Triệu § Tín Lăng quân Ngụy Vô Kỵ nước Ngụy § Xuân Thân quân Hoàng Yết nước Sở Trong 4 công tử, ba người kể trên đều là con cháu vua chư hầu, chỉ có Hoàng Yết không phải dòng dõi quý tộc nhưng cũng là dòng dõi thế gia nước Sở. Ở đây, chúng ta sẽ bàn về Bình Nguyên quân, vị Công tử được Thái Sử Công nói: Bình Nguyên Quân là một trang công tử tuyệt vời ở trong đời ô trọc. Bình Nguyên quân (chữ Hán: 平原君;? – 253 TCN) tên thật là Triệu Thắng (赵胜), là công tử nước Triệu, một trong Tứ công tử Chiến Quốc. Ông là con của Triệu Vũ Linh Vương, em của Triệu Huệ Văn Vương. Trong hàng công tử nước Triệu, ông được coi là người hiền hơn cả. Ông thích tân khách, nuôi tân khách trong phủ được đến mấy nghìn người. Ông làm Tướng Quốc nước Triệu trên 30 năm dưới 3 đời vua Triệu Văn Vương, Huệ Văn Vương, Hiếu Thành Vương. Ba lần thôi không làm tể tướng, ba lần trở lại địa vị, được phong ở Đông Vũ Thành. Sau khi Bình Nguyên Quân mất năm 253 TCN, con cháu ông nối dõi đời đời mãi khi Tần diệt Triệu mới hết. Nuôi môn khách: Các công tử đều gây uy tín và thanh thế bằng việc nuôi các thực khách trong phủ. Số thực khách ăn ngủ ở nhà các công tử khi đông có đến hàng ngàn. Sử ký Tư Mã Thiên ghi nhận Mạnh Thường quân, Bình Nguyên quân và Tín Lăng quân đều có đến 3000 thực khách trong nhà. Họ đến ở nhờ một thời gian và có thể ra đi, không có sự ràng buộc như các thủ hạ dưới quyền các vị công tử này. Bình Nguyên quân luôn tìm cách thu phục lòng người mà giữ môn khách. Có người què bị mỹ nhân của ông cười nhạo liền đến gặp ông đòi giết mỹ nhân đã cười nhạo. Bình Nguyên quân không nghe, một thời gian sau môn khách bỏ đi dần. Ông liền nghe lời môn hạ giết người mỹ nhân kia để chuộc tội cho người què rồi đến nhà người què để tạ lỗi. Môn khách mới dần trở lại. Hợp tung với Sở: Năm 258 TCN, tướng Tần là Bạch Khởi đem quân đánh thắng Triệu, vây khốn Hàm Đan- kinh đô Triệu. Bình Nguyên Quân theo ý vua sang sứ nước Sở cầu viện binh, hợp tung đánh Tần. Ông chọn ra 20 người môn hạ trong đó có Mao Toại. Vì Mao Toại khéo ăn nói lên việc hợp tung thành công, vua Sở phải uống máu ăn thề. Từ đó Bình Nguyên Quân tôn Mao Toại làm thượng khách. Đánh Tần giải cứu Hàm Đan: Quân Tần vây khốn Hàm Đan rất gấp viện binh chưa đến kịp. Bình Nguyên Quân nghe lời người coi trạm thành Hàm Đan là Lý Đồng hiến kế đem của cải trong nhà chia cho quân sĩ tuyển chọn được ba nghìn người cảm tử đánh Tần. Vì thế mà quân Tần phải lui, Hàm Đan được bảo toàn. Môn hạ: Trong số các môn hạ của ông nổi tiếng nhất là: § Mao Toại § Công Tôn Long Kết cục: Uy tín rất cao của các vị công tử đã vượt ra ngoài phạm vi biên giới quốc gia và chính điều này khiến một số vị gặp phải sự nghi ngờ, đố kỵ của các quân vương. Mạnh Thường quân, Tín Lăng quân tuy từng được vua Tề, vua Ngụy dùng nhưng cuối cùng các vua Tề, Ngụy đều sợ các công tử giành mất ngôi mà đoạt chức. Cuối cùng cả hai ông đều mất trong buồn bã. Xuân Thân quân bị Lý Viên, thủ hạ của ông, phục binh giết chết. Chỉ có Bình Nguyên quân có kết cục trọn vẹn và là người may mắn hơn cả trong tứ công tử. Ông mất năm 253 TCN. (Có bản dịch khác của Sử Ký ghi là Bình Nguyên quân mất năm 251 TCN) Sự thất sủng hoặc cái chết của tứ công tử Chiến Quốc ít nhiều ảnh hưởng đến sức mạnh của nước chư hầu mà họ phục vụ. Mặc dù sự cường đại về sức mạnh của nước Tần ngày càng áp đảo các chư hầu và xu thế thống nhất của quốc gia này là khó đảo ngược, song thực tế cho thấy sự hiện diện trên chính trường của bốn vị công tử góp phần duy trì, kéo dài cục diện Thất hùng thời Chiến Quốc. Lời kết và bình về Bình Nguyên quân Triệu Thắng của Thái Sử Công: Thái Sử Công nói: “Bình Nguyên Quân là một trang công tử tuyệt vời ở trong đời ô trọc. Nhưng ông ta chưa biết cái đạo lớn. Tục ngữ nói, ‘Lợi làm cho trí mờ’. Bình Nguyên Quân tham nghe lời tà thuyết của Phùng Đinh (1), khiến cho quân Triệu bị vây hãm ở Trường Bình, bị chôn sống mất hơn bốn mươi vạn, suýt nữa mất Hàm Đan. “ (1)Năm 262 trước công nguyên, quân Tần đánh Hàn, tướng Hàn là Phùng Đinh đem đất Thương dâng Triệu. Bình Nguyên Quân khuyên nhà vua nhận đất ấy. Tần đem quân đến Trường Bình đánh Triệu, thua to, bốn mươi vạn quân bị chôn sống. Thủ đô Triệu là Hàm Đan suýt bị mất. [3] Chu ti mã tích 蛛丝马迹: chu ti: sợi tơ nhện, mã tích: vết chân ngựa, “chu ti mã tích” ví với việc không tìm ra manh mối rõ ràng của sự việc.
|
Quyển 1 - Chương 5: Chân hung vị minh (ngũ)
Phiền Tế Cảnh nói được thì làm được, ngày thứ hai liền đi tìm Quan Tỉnh bọn họ hỏi thăm tình tiết vụ án. Khi Hoa Hoài Tú ăn xong điểm tâm chạy tới, Chu Liêu Đại đang đối diện Phiền Tế Cảnh trừng to mắt nhìn hắn, dáng dấp có vẻ đang vô cùng giận dữ. Quan Tỉnh và Thi Kế Trung trầm mặc ngồi một bên. Thượng Quan Đinh Ninh lo lắng đứng phía sau Chu Liêu Đại, muốn kéo Chu Liêu Đại lại, rồi lại sợ hãi rụt rè cố kỵ điều gì đó mà lại thôi. Phiền Tế Cảnh nghiêm túc nói: “Còn thỉnh nhị sư huynh nói rõ bản thân lúc đó ở nơi nào, để tiêu trừ hiềm nghi.” Chu Liêu Đại cười lạnh nói: “Ý của ngươi là nếu ta không nói bản thân lúc đó ở nơi nào, ngươi sẽ đổ ta tội giết sư phụ?” “Ta cũng không có ý này.” Phiền Tế Cảnh dừng một chút, ngay khi Chu Liêu Đại cho rằng hắn muốn bỏ qua, lại nói: “Còn thỉnh nhị sư huynh nói rõ bản thân lúc đó ở nơi nào.” Chu Liêu Đại tức giận tới mức sắc mặt trắng bệch, “Giết người luôn luôn có nguyên do, ta vì sao phải giết sư phụ?” “Đúng vậy. Vì sao?” Hoa Hoài Tú thong thả đi tới, đứng tại trước mặt hắn, nghiêm túc nhìn hắn nói, “Rốt cục là vì sao?” “Ta không có giết sư phụ.” Chu Liêu Đại gằn từng chữ một nói. Hoa Hoài Tú nói: “Hung thủ nhất định cũng sẽ nói như vậy.” Chu Liêu Đại mặt đỏ lừ, trừng to mắt, gằn từng chữ một nói, “Ngươi có ý gì?” Hoa Hoài Tú không chút sợ hãi nói: “Tựu sự luận sự (tùy việc mà xét).” Quan Tỉnh rốt cục cũng đứng ra nói: “Nhị sư đệ, sư phụ đã qua đời rồi, ngươi có nan ngôn chi ẩn (việc khó nói) gì cứ nói hết ra, đừng ngại.” Chu Liêu Đại trán nổi gân xanh, bỏ lại một câu “Các ngươi tin hay không thì tùy!” liền chạy về phòng. Thượng Quan Đinh Ninh nhìn bóng lưng hắn rời đi, rồi lại quay đầu lại nhìn mọi người, có chút do dự. Quan Tỉnh nói: “Sư muội, ngươi đi xem hắn đi.” Thượng Quan Đinh Ninh như trút được gánh nặng, nhanh chóng đuổi theo. Hoa Hoài Tú có chút suy tư nói: “Chẳng lẽ...” Quan Tỉnh gật đầu nói: “Đúng vậy.” ... Phiền Tế Cảnh mờ mịt nhìn bọn họ, “Chẳng lẽ cái gì?” Thi Kế Trung vươn tay trái nói: “Nhị sư huynh.” Lại duỗi tay phải ra, “Tứ sư tỷ.” Sau đó vỗ tay một cái. Phiền Tế Cảnh bừng tỉnh nói: “Nhất phách tức hợp (ăn nhịp với nhau)?” Thi Kế Trung vươn ngón tay cái ra. (thumbs up =))) “Bất quá...” Phiền Tế Cảnh nhíu mày nói, “Nhất phách tức hợp cái gì?” “...” Ngón cái của Thi Kế Trung gập lại. Hoa Hoài Tú bất đắc dĩ nói: “Một nam một nữ, nhất phách tức hợp, hai hợp làm một...” “Khái khái.” Quan Tỉnh ho khan. Phiền Tế Cảnh rốt cục cũng hiểu ra, trên mặt tràn đầy kinh ngạc. Quan Tỉnh nói: “Nếu như ta đoán không sai, nhị sư đệ lúc đó hẳn là cùng một chỗ với tứ sư muội.” Phiền Tế Cảnh bình tĩnh nói: “Vậy tại sao nhị sư huynh không nói ra?” Thi Kế Trung nói: “Sư phụ trước nay vẫn luôn phản đối quan hệ của nhị sư huynh và tứ sư tỷ.” Hoa Hoài Tú kinh ngạc nói: “Lưỡng tình tương duyệt, nhân chi thường tình [1]. Huống chi hỉ sự của bọn họ là sư xuất đồng môn [2], là cẩm thượng thiêm hoa [3], vì sao Bộ chưởng môn lại phản đổi?” Thi Kế Trung nhìn về phía Quan Tỉnh, nhất thời không dám nói gì. Quan Tỉnh hơi nhíu mày. Hoa Hoài Tú nhìn Phiền Tế Cảnh nói: “Ngươi có biết?” Phiền Tế Cảnh lắc đầu nói: “Không biết. Từ nhỏ đến lớn ta rất ít khi luyện công cùng các sư huynh muội.” Hoa Hoài Tú nhíu mày nói: “Vì sao?” “Sư phụ nói, Hoa gia là danh môn Giang Nam, ta là người của Hoa gia, hiển nhiên phải là người văn võ song toàn. Bởi vậy từ nhỏ sư phụ đã thỉnh rất nhiều vị lão sư đến dạy ta.” Phiền Tế Cảnh nói. Hoa Hoài Tú thở dài nói: “Ta cuối cùng biết được sự cổ hủ của ngươi là từ đâu mà ra.” Thi Kế Trung thấp giọng nói: “Môn hạ của Cửu Hoa phái đi học chi hồ giả dã [4] làm chi.” Hoa Hoài Tú trong lòng khẽ động. Bộ Lâu Liêm nói nghe như có đạo lý, nhưng cẩn thận ngẫm lại, đã thấy sự không vừa ý đối với đệ tử. Văn võ toàn tài, là việc vô cùng khó khăn. Như Phiền Tế Cảnh mà văn võ cùng lúc, trừ phi thiên tư hơn người, còn không thì sẽ nhất sự vô thành. Nghĩ đến việc Bộ Lâu Liêm ngay lúc tuyển chọn y bát, phái Phiền Tế Cảnh đi chúc thọ Vũ Đương chưởng môn, điều này nghĩa gì không cần nói cũng biết. Mặt y nhất thời đen đi, giễu cợt nói: “Thật làm khó hắn lo nghĩ chu đáo đến vậy.” Phiền Tế Cảnh tựa như tìm được tri kỷ, “Sư phụ và cha ta tình đồng thủ túc [5], suốt bao năm qua năm nào cũng tế bái, mặc kệ gió mưa. Đối ta ân trọng như núi, vô luận thế nào, ta cũng phải vì người mà tìm ra hung thủ.” Vẻ mặt Hoa Hoài Tú như là ăn phải ruồi (FS: chỗ này… không biết edit thế nào khác) (nao: ta cũng giống nàng =.=), tràn đầy phiền muộn. Phiền Tế Cảnh đối Quan Tỉnh nói: “Đại sư huynh, ngươi nếu còn biết cái gì, thỉnh nói cho ta biết.” Thi Kế Trung thấy mi đầu (vùng giữa lông mày) của Quan Tỉnh thả lỏng, lập tức mở miệng nói: “Sư phụ trước nay không thích tứ sư tỷ.” “Vì sao?” Hoa Hoài Tú và Phiền Tế Cảnh song song hỏi. Theo như bọn họ nghĩ, nữ đệ tử sống trong một đám đệ tử nam giống như một đóa hoa tươi sinh trưởng giữa đồng cỏ dại, nên được nâng niu như trân bảo mới đúng, sao lại không thích? Thi Kế Trung nói: “Sư phụ bình thường ghét tứ sư tỷ tay chân vụng về. Nhưng theo ta được biết, sinh hoạt hàng ngày và ẩm thực của sư phụ đều là do tứ sư tỷ một tay lo toan. Thậm chí thọ đản hàng năm của sư phụ cũng là do tứ sư tỷ thu xếp.” Hoa Hoài Tú đối Bộ Lâu Liêm trước nay luôn có thành kiến, nghe được những lời đó, không chút nghĩ ngợi buột miệng nói: “Sư phụ ngươi trong lòng không chừng khát vọng có người mỗi ngày đánh đánh hắn mắng mắng hắn mới thoải mái.” (SM? O.o) Phiền Tế Cảnh giận dữ nói: “Biểu ca!” Hoa Hoài Tú nói ra, tự biết rõ bản thân nói lỡ, nhưng thấy hắn trợn mắt nhìn mình, phiền muộn trong lòng lập tức bị tức giận thay thế, lạnh lùng nói: “Làm sao?” Phiền Tế Cảnh hai mắt trừng tròn vo, hai má cũng phình lên tức giận, vẻ như muốn nói gì đó, lại bất giác nghĩ đến gì đó. Hoa Hoài Tú chăm chú nhìn hắn một lúc, bỗng nghĩ hắn khả ái hơn, vẻ mặt có chút hòa hoãn nói: “Những chuyện khác tạm thời gác sang một bên không nói tới. Về chuyện Chu... Sư huynh và Thượng Quan sư muội của ngươi. Nếu lúc đó bọn họ thực sự cùng một chỗ, ngươi có thể hỏi sư muội ngươi.” Phiền Tế Cảnh vẫn như trước tức giận nhìn hắn. Hoa Hoài Tú đột nhiên mỉm cười, nói: “Hay là, ngươi tưởng cả đời nhìn ta như vậy?” “...” Phiền Tế Cảnh quyết định hoàng hôn đi tìm Thượng Quan Đinh Ninh. Nói đến Thượng Quan Đinh Ninh, nàng cũng là hậu nhân của danh môn, kỳ phụ Thượng Quan Hoành là Đông Nam đại hiệp tiếng tăm lừng lẫy trên giang hồ, nhưng bất hạnh tao ngộ bị Huyết Đồ đường ám sát, nàng lưu lạc thành cô nhi, bị đưa tới Cửu Hoa phái, giao cho bạn thân của Thượng Quan Hoành là Bộ Lâu Liêm nuôi dưỡng. Trong số năm sư huynh đệ, chỉ có Phiền Tế Cảnh và Thượng Quan Đinh Ninh là phụ mẫu song vong. Có lẽ là vì đồng mệnh tương liên (số mệnh giống nhau), trong lòng hắn, nàng so với những người khác có chút khác biệt. Đi tới trước cửa phòng của Thượng Quan Đinh Ninh, hắn nghe thấy âm thanh xoát xoát xoát va chạm của nồi niêu từ trù phòng bên cạnh. Từ khi bị Tống Bách Lâm xông vào khuê phòng, Thượng Quan Đinh Ninh đã chuyển đến gian phòng cạnh trù phòng. Thứ nhất vì là nơi đây vắng vẻ, khó có thể tìm. Thứ hai là làm cơm nấu thức ăn cũng dễ dàng thuận tiện hơn. Bất quá sau đó Tống Bách Lâm liền đưa tới một trù nương của Cửu Hoa phái, nói là chăm sóc cho Hoa Hoài Tú, nhưng kỳ thực là nấu cơm cho mọi người. Phiền Tế Cảnh đứng trước cửa, đưa tay lên chuẩn bị gõ, cánh cửa tựu y nha một tiếng mở ra. Thượng Quan Đinh Ninh đứng bên trong cửa mỉm cười, nghiêng người nói: “Tam sư huynh, vào đi.” Phiền Tế Cảnh vừa nhấc chân, liền nhớ ra quan hệ giữa nàng và Chu Liêu Đại, đành hạ chân xuống, đứng tại chỗ nói: “Không cần, ta chỉ muốn hỏi hai câu thôi.” “Hỏi đêm sư phụ bị giết, nhị sư huynh có ở cùng với ta không?” Thượng Quan Đinh Ninh sớm nghĩ đến. Phiền Tế Cảnh nhìn nàng, chậm rãi gật đầu. “Đúng vậy.” Nàng ngẩng đầu, trên khuôn mặt xinh xắn tinh tế mang theo sự cương nghị kiên quyết. Phiền Tế Cảnh thở phào nhẹ nhõm, “Nhị sư huynh vì sao không nói sớm?” Theo như hắn thấy, hai người họ ở cùng một chỗ không phải là chuyện gì đáng ngại. “Bởi vì...” Thượng Quan Đinh Ninh chậm rãi nói, “Chúng ta lúc đó đang ngủ trên cùng một giường.” Phiền Tế Cảnh đi khỏi cửa phòng Thượng Quan Đinh Ninh rất xa rồi, trên mặt vẫn giữ nguyên vẻ kinh ngạc. Có thể hắn thực sự đã ly khai Cửu Hoa Sơn quá lâu rồi. Có thể việc diệt trừ Lam Diễm minh thực sự tốn rất nhiều thời gian. Có thể... Hắn thực sự quá trì độn rồi. Hoa Hoài Tú lắc lắc tay trước mặt hắn, “Biết tiểu sư muội trong lòng có người khác, khiến ngươi bội thụ đả kích, thất hồn lạc phách?” Phiền Tế Cảnh đưa mắt chậm rãi nhìn y, trầm mặc một lúc mới nói: “Án phát đêm đó, đại sư huynh và ngũ sư đệ cùng một chỗ, nhị sư huynh và tứ sư muội cùng một chỗ... Vậy còn người nào đáng nghi nữa?” Hoa Hoài Tú nói: “Còn có sư thúc của ngươi.” “Thế nhưng bọn họ không hội ‘Vãn hải cuồng triều’.” “Ngươi chờ ta hai ngày. Hai ngày sau ta sẽ cho ngươi xem một thứ.” Trong mắt Hoa Hoài Tú hiện lên một tia sáng. Hai ngày rất nhanh trôi qua. Hoa Hoài Tú ngay từ sáng sớm đã đứng chờ trước cửa phòng Phiền Tế Cảnh, chờ hắn vừa ra khỏi cửa liền bắt cóc đưa đến trù phòng. Trù nương thấy Hoa Hoài Tú, trên mặt tựa như lau qua dầu, trở nên sáng loáng. “Hoa công tử, thứ ngài muốn ta đã chuẩn bị tốt rồi.” Nàng vừa nói vừa chỉ vào chích trư bên bếp. Hoa Hoài Tú hài lòng gật đầu, mỉm cười với nàng nói: “Đa tạ.” Trù nương tựa như mới uống hơn chục bình bạch tửu, khinh phiêu phiêu (nhẹ nhàng bay bổng) đi ra ngoài. Phiền Tế Cảnh khó hiểu nhìn trư nói: “Ngươi muốn ăn thịt trư?” “Ta chỉ là muốn cho ngươi nhìn thấy một thứ.” Hoa Hoài Tú nói, từ trong tay áo lấy ra một binh khí thô chế lạm tạo (làm cẩu thả). Đại khái là vì rèn quá nhanh, ngay đến chuôi vẫn còn chưa xong, chỉ dùng vài thô bọc lại xung quanh. Phiền Tế Cảnh nhìn thứ kia như kiếm không phải kiếm, mà là giống thân kiếm của hai thanh kiếm một ngang một dọc giao với nhau cùng một chỗ, khó hiểu nói: “Vì sao mũi kiếm lại đúc thành thập tự (chữ thập)?” “Ngươi lui ra xa nhìn.” Hoa Hoài Tú chờ hắn lui đủ xa, đưa binh khí đến gần thân trư, sau đó trên tay dùng chút nội lực, bắt đầu nhanh chóng chuyển động. Chỉ thấy nhục toái phi tiên [6], một lúc sau hình thành một vết thương hình tròn. “...” Phiền Tế Cảnh không tin được mở to hai mắt nhìn. Hoa Hoài Tú nói: “Sau khi nghe ngươi nói về đặc điểm của ‘Vãn hải cuồng triều’, ta luôn nghĩ xem có biện pháp nào khác để tạo thành vết thương như vậy hay không. Cho nên vẽ ra một bức vẽ nhờ trù nương mang xuống núi tìm thợ rèn làm, kết quả cũng tạm được.” Phiền Tế Cảnh lúng túng nói: “Nhìn qua thật giống như đúc.” Hoa Hoài Tú tức giận nói: “Thế nên ta mới nói là tạm được.” Phiền Tế Cảnh nói: “Như vậy ai cũng đáng nghi.” “Cũng không hẳn vậy.” Hoa Hoài Tú đứng lên, đem ngoại bào bị dính thịt vụn chậm rãi cở ra, lộ ra bào tử (áo choàng) sạch sẽ bên trong, “Đệ nhất, người đó phải biết rõ đặc điểm của ‘Vãn hải cuồng triều’, trong Cửu Hoa phái ngay đến ngươi còn không biết, những đệ tử khác càng khó có thể biết được. Đệ nhị, người đó phải có năng lực chế trụ Bộ Lâu Liêm. Đệ tam, người đó phải có động cơ giết Bộ Lâu Liêm.” Phiền Tế Cảnh nói: “Sư phụ ta là đệ nhất cao thủ của Cửu Hoa phái.” Hoa Hoài Tú nói: “Thế nhưng song quyền khó địch lại tứ thủ. Nếu như hai vị sư thúc của ngươi liên thủ, ngươi cho rằng sư phụ ngươi trong tình trạng không phòng bị có thể tránh được sao?” Phiền Tế Cảnh mân mân môi. “Về phần động cơ... Cái chết của Bộ Lâu Liêm, đối với người đó chắc hẳn phải có lợi rất lớn, thế nên mới dám mạo hiểm.” “Có lợi rất lớn?” Phiền Tế Cảnh ngơ ngác lần theo suy đoán của Hoa Hoài Tú. Hoa Hoài Tú nói từng chữ một: “Chẳng hạn như, chức vị chưởng môn.” Phiền Tế Cảnh mờ mịt nói: “Nhưng sư phụ không có lập di chúc nói người nào kế thừa chức vị chưởng môn.” “Hắn đích xác không có lập di chúc, bất quá vị trí chưởng môn của Cửu Hoa phái trước nay đều truyền cho y bát truyền nhân.” “Nhưng lần này có ba...” Phiền Tế Cảnh cả kinh nói, “Ngươi là nói đại sư huynh?” Tuy rằng có ba y bát truyền nhân, nhưng luận về lai lịch, võ công hay uy vọng, đều chỉ có Quan Tỉnh là xứng đáng. Hoa Hoài Tú lắc đầu nói: “Ngươi đã quên sư thúc ngươi từng hoài nghi ai là hung thủ sao?” Hắn đương nhiên là chưa quên, “Đại sư huynh, nhị sư huynh và ngũ sư đệ.” Hoa Hoài Tú nói: “Loại trừ ba cao đồ của Bộ Lâu Liêm, chức vị chưởng môn chỉ có thể thuộc về sư đệ rồi.” Phiền Tế Cảnh kinh ngạc nhìn y. Hoa Hoài Tú ban đầu còn cảm thấy mừng rỡ, cho rằng hắn bị thông minh tài trí của mình làm cho khuynh đảo (ái mộ, bái phục), nhưng càng về sau y càng thấy nhãn thần của hắn tựa hồ không giống bị khuynh đảo, mà giống như muốn... Ngất. “Ngươi làm sao vậy?” “Nếu nói như vậy...” Phiền Tế Cảnh nói, “Đáng nghi nhất không phải là Tống sư thúc.” “Vì sao?” Hoa Hoài Tú nghĩ suy đoán của bản thân quả thực là thần lai chi bút [7], thiên y vô phùng [8]. “Bởi vì ngoài đại sư huynh, nhị sư huynh và ngũ sư đệ ra, người có hi vọng kế thừa chức vị chưởng môn nhất...” Phiền Tế Cảnh chậm rãi nói, “Là ta.” Hoa Hoài Tú: “...” Tính toán cho những người khác của y, tất cả đều đổ vào một mình Phiền Tế Cảnh. ———————————————————- [1] Lưỡng tình tương duyệt, nhân chi thường tình 两情相悦,人之常情: hai người yêu nhau là chuyện thường tình của con người. “Lưỡng tình tương duyệt” [两情相悦] là một thành ngữ hiện đại nhằm chỉ hai bên vừa ý yêu nhau, bắt nguồn từ 《 Trương Cư Chính [张居正] 》 quyển 3 hồi 19 của tác giả Hùng Triệu Chính [熊召政] Trương Cư Chính (chữ Hán giản thể: 张居正, chính thể: 張居正, latinh hóa: Zhāng Jūzhèng), còn được phiên âm là Chang Chü-cheng, (1525-1582), tự Thúc Đại (叔大), hiệu Thái Nhạc (太岳), là một nhà chính trị và học giả Trung Quốc thời nhà Minh. Ông sinh tại Giang Lăng, Hồ Bắc, vì vậy ông còn được goi là Trương Giang Lăng(张江陵). Ông từ nhỏ đã nổi tiếng là người thông minh, học giỏi, 12 tuổi đã tham gia thi tú tài và được tri phủ Kinh Châu là Lý Sĩ Cao khen ngợi. Tới năm 16 tuổi thì Trương Cư Chính đỗ cử nhân, tới năm Gia Tĩnh thứ 16 (1547) thì Trương Cư Chính trúng tiến sĩ khi mới 22 tuổi và được cử vào làm biên tu tại Hàn lâm viện. Là quan to dưới triều Minh Mục Tông, ông được giao trọng trách làm phụ chính đại thần cho Minh Thần Tông trong thời gian hoàng đế còn nhỏ tuổi. Trong giai đoạn này, Trương Cư Chính đã đưa ra nhiều biện phải cải cách sâu rộng về chính trị và kinh tế giúp cho triều đình nhà Minh phát triển cực thịnh. Tuy nhiên sau khi Trương Cư Chính qua đời năm 1582, phần lớn cải cách của ông đã bị Minh Thần tông xóa bỏ, danh tiếng của ông bị hủy hoại trong khi gia đình Trương Cư Chính bị hoàng đế ra lệnh tịch thu gia sản. Phải hơn nửa thế kỷ sau vị trí thực sự của Trương Cư Chính cũng được phục hồi, tuy nhiên khi đó nhà Minh đã bắt đầu suy sụp và không bao giờ còn đạt được trạng thái thịnh vượng như thời Trương Cư Chính là phụ chính. 【成语词条】 两情相悦 【成语拼音】 liǎng qíng xiāng yuè 【常用程度】 常用 【成语结构】 主谓式 【感情色彩】 中性词 【产生年代】 现代 【成语解释】 指双方互相中意与相爱 【语法用法】 作谓语、定语;多用于口语 【典故出处】 熊召政《张居正》第三卷第19回:“我与孟芳见面,两情相悦,就定下这门亲事。” 【应用举例】 洪放《秘书长》:“两相情愿,~。” 【近义词】 两情两愿 Chú giải: [Thành ngữ] Lưỡng tình tương duyệt [Phiên âm thành ngữ] liǎng qíng xiāng yuè [Mức độ được sử dụng] Rất phổ biến [Kết cấu thành ngữ] Chủ vị ngữ [Mức độ sắc thái trong thành ngữ] Là từ trung tính [Thời gian xuất hiện] Hiện đại [Giải nghĩa thành ngữ] Chỉ song phương đều hợp lòng nhau, đều yêu nhau [Ngữ pháp sử dụng] Làm vị ngữ, định ngữ, khẩu ngữ đa dụng [Điển cố xuất hiện] 《 Trương Cư Chính (张居正) 》quyển 3 hồi 19 của tác giả Hùng Triệu Chính (熊召政): “Ta cùng với Mạnh Phương gặp mặt, lưỡng tình tương duyệt, nên định ra lần này việc hôn nhân.” [Ví dụ ứng dụng] Hồng Phóng 《 bí thư trường 》: “Hai bên đều tình nguyện, lưỡng tình tương duyệt ~.” [Từ gần nghĩa] Lưỡng tình lưỡng nguyện. [2] Sư xuất đồng môn 师出同门: cùng theo học một thầy, một môn phái. [3] Cẩm thượng thiêm hoa 锦上添花: Cẩm: gấm; thượng: trên; thiêm: thêm; hoa: bông hoa. Nghĩa: Trên gấm thêm hoa. Ý nói đã đẹp mà làm cho đẹp hơn nữa. Đây là câu thành ngữ của Trung Quốc. [4] Chi hồ giả dã 之乎者也: Chi, hồ, giả, dã là bốn hư từ thông dụng trong Hán văn cổ để làm trợ ngữ từ. Hoàn toàn không có ý nghĩa gì khác ngoài tác dụng trợ ngữ. Đặt trong PHATK có ý nghĩa là Bộ Lâu Liêm cố ý cho Phiền Tế Cảnh học không đúng trọng tâm, chỉ cho học những thứ lan man. Một chút thông tin về “Chi, hồ, giả, dã”: “Chi hồ giả dã” ở Trung Quốc khoảng đầu thế kỷ 20, thứ văn viết được dùng gọi là Văn Ngôn Văn 文言文 (hay còn gọi nôm na là Cổ Văn) với hàng loạt các từ Chi Hồ Giả Dã 之乎者也 được sử dụng làm trợ ngữ rất khó hiểu. Tiếng Hán cổ đại (văn ngôn văn) khó nhất là cách dùng hư từ. “Chi, hồ, giả, dã, yên, tai…” là những hư từ của tiếng Hán cổ. Loại văn cổ này khi viết không có dấu ngắt câu và các cấu trúc câu kiểu phương Tây, mà chủ yếu nhờ các hư từ kiểu “chi, hồ, giả, dã…” để phân tích câu. Do đó nó là thứ văn rất khó hiểu, đọc rất nhức đầu. “Văn ngôn văn” đọc lên khác hẳn với cách nói thông thường trong dân dã. Ở ta có thể coi là cách “nói chữ”, muốn hiểu thì phải học mới hiểu. Nắm vững cách dùng mấy chữ này thì phần văn pháp coi như đã thông, không cần học cú pháp, văn phạm (grammar) gì cả. Các cụ đồ nho ta xưa học chữ Hán cổ đọc chữ nho có biết “văn phạm” là cái gì mà viết vẫn hay. Ấy là nhờ nắm vững hư từ “chi, hồ, giả, dã…”. Ở Trung Quốc cũng vậy, trước năm 1990, chẳng có sách nào về văn phạm: chủ từ, túc từ, tĩnh từ, động từ, câu đơn, câu kép gì cả. Về sau này bắt chước tây phương. Họ vẫn viết đúng quy luật, là nhờ chú trọng cách dùng hư từ. Họ chỉ có sách giảng cách dùng hư từ. Ta có thể tạm coi đó là các sách về văn phạm. Vì thế các nhà nho Trung Quốc khi dạy học cách viết văn cho đúng, thường đọc hai câu sau khuyên học trò: “Chi hồ giả dã hỹ yên tai.” (ý nói các hư từ nếu biết sử dụng đắc thành chương hảo tú tài, dùng viết được thành văn coi như đậu tú tài) Giới trí thức sĩ phu ta, cũng như Trung Quốc, xưa kia cứ mở miệng là chữ thánh hiền vọt ra, đầy “chi, hồ, giả, dã…”. Ý là nói chữ, dân học thức, nôm na là “xổ nho”. Cũng từ đó người ta dùng “chi hồ giả dã” để chỉ những người học cao hiểu rộng, bụng mang một bồ sách, mở mồm ra là dùng cách nói chữ, khiến những người chung quanh không hiểu nổi. “Bác Khổng Ất Kỷ là người độc nhất mặc áo dài mà lại đứng trước quày uống rượu. Bác ta người to cao, mặt tai tái, giữa những nếp răn thường có vài vết sẹo, lại có một bộ râu hoa râm lổm xổm, rối như mớ bòng bong. Áo tuy là áo dài nhưng vừa bẩn vừa rách, hình như hơn mươi năm nay chưa hề vá mà cũng chưa hề giặt. Bác ta nói chuyện với ai, mở miệng là “chi hồ giả dã”làm cho người ta chẳng hiểu gì hết.” (Trích truyện ngắn Khổng Ất Kỷ của Lỗ Tấn) Sau đây là một vài ví dụ, có đề cập đến những hư từ trên: Trích từ Luận Ngữ – Chương Tử Hãn có đoạn: “Thái tể vấn Tử Cống, viết: ‘Phu tử thánh giả dử Hà kỳ đa năng dã.’ Tử văn chi, viết: ‘Thái tể chi ngã hồ? Ngô thiếu dã tiện, cố đa năng bỉ sư… Quân tử đa hồi tai? Bất đa dã.’” Dịch văn: “Quan Thái Tể (một chức quan lớn) hỏi Tử Cống (một môn đệ của Khổng Tử): ‘Đức Khổng Tử có phải là thánh nhân không? Hẳn là ngài phải nhiều tài năng!’ Tử Cống trả lời: ‘Vì trời muốn ngài là thánh nhân nên ngài đa tài đa nghệ..’ Khổng Tử nghe được, nói rằng: ‘Quan Thái Tể biết rõ ta chăng? Ta thiếu thời nghèo hèn, nên phải học nhiều tài vặt. Người quân tử có cần nhiều tài năng không? Không cần nhiều.’” (Chú ý mấy chữ “chi hồ giả dã” được viết đậm trong đoạn Hán Việt trên) Nhân chi sơ tính bản thiện 人之初性本善 con người lúc nhỏ bản tính vốn thiện (Tam tự kinh). Nhân giả nhân giã, nghĩa giảnghi giã 仁者人也, 義者宜也 – nhân ấy là đạo làm người, nghĩa ấy là sự làm phải vậy. Tất cả những “chi hồ giả dã” trong các ví dụ ở trên đều gần như không có nghĩa mà chỉ dùng để cấu trúc câu theo lối văn cổ. Người ta gọi là những “từ khó hiểu” vì nó khác với lối nói thông tục của dân thường. Trước năm 1919, ở bên Trung Quốc chưa có “văn bạch thoại”, chỉ sử dụng cổ văn “Chi, hồ, giả, dã”. Bạch Thoại Văn 白话文 (Hay Văn Bạch Thoại) là thứ văn viết được xuất hiện sau phong trào “Ngũ – Tứ” ( 4.5.1919). Sau khi phong trào Ngũ Tứ nổ ra, Trung Quốc đề xướng và lưu hành một thứ văn thông tục dễ hiểu, gần sát với ngôn ngữ cuộc sống hàng ngày – thứ văn này gọi là văn Bạch Thoại. Các tác phẩm của Lỗ Tấn và một số nhà văn khác trong thời điểm này được coi là đại diện của thứ văn Bạch Thoại. Ngoài ra, có một tích sau: 之乎者也 Chi Hồ Giả Dã 宋朝的开国皇帝赵匡胤在当上皇帝以后,准备拓展外城。他来到朱雀门前,抬头看见门额上写着“朱雀之门”四个字,觉得别扭,就问身旁的大臣赵普:“为什么不 写‘朱雀门’三个字,偏写‘朱雀 之门’四个字?多用一个‘之’字有什么用呢?”赵普告诉他说:”这是把‘之’字作为语助词用的。”赵匡胤听后哈哈大笑,说:“之乎者也这些虚字,能助得什么事情啊!” Sau khi Triệu Khuông Dận – vua lập ra nhà Tống – lên ngôi, chuẩn bị mở rộng vùng ngoại thành, ông đến trước Chu Tước môn, ngẩng đầu nhìn thấy 4 chữ “Chu Tước Chi Môn” trên tấm biển, cảm thấy rất khó chịu, bèn hỏi đại thần Triệu Phổ bên cạnh: “Tại sao không đề ba chữ ‘Chu Tước Môn’ thôi, viết bốn chữ ‘Chu Tước Chi Môn’ chi vậy? Dùng thêm chữ ‘Chi’ có tác dụng gì?” Triệu Phổ bẩm rằng: “Chữ ‘Chi’ này được dùng làm trợ từ.” Nghe xong, Triệu Khuông Dận cười lớn nói: “Mấy hư từ chi hồ giả dã này có thể giúp ích được gì!” 【释读】 古汉语的文言虚词,借为讽刺人说话喜欢咬文嚼字,不讲实际。 [Giải thích] hư từ trong cổ văn, dùng châm biếm những người nói chuyện thích chọn câu chữ, không nói theo tình hình thực tế. Qua những phân tích trên, “Chi, hồ, giả, dã” dùng trong Hán văn chỉ để âm vận câu văn được êm tai, réo rắt hơn, hoặc tăng thêm ngữ khí, hoặc dùng để nối kết các thành phần của một câu. Vì thế “chi hồ giả dã” là bốn hư tự (chữ đệm không có nghĩa lý gì) thường được dùng để chỉ những chuyện trống rỗng, vô ích, những gì hư huyễn, không thực tế. Làm chuyện “chi hồ giả dã” tức là làm chuyện phù phiếm, không thiết thực. [5] Tình đồng thủ túc 情同手足: tình cảm như anh em ruột thịt. Câu này xuất xứ từ “Điếu Cổ Chiến Trường Văn”《吊古战场文》 của Lý Hoa 李華: “谁无兄弟,如足如手。” “Thùy vô huynh đệ, như túc như thủ” Lý Hoa (715 – 766), tên thật là Hà Thúc遐叔, quê ở Tán Hoàng 赞皇 (nay thuộc Hà Bắc 河北). Lý Hoa là một nhà thơ, nhà văn lớn. Ông thuộc đời nhà Đường, vua Đường Huyền Tông. Lý Hoa năm Đường Huyền Tông Khai Nguyên (735) đậu tiến sĩ, năm Thiên Bảo (743) làm giám sát Ngự Sử. “Điếu cổ chiến trường văn” miêu tả cảnh tượng chiến trường hoang vắng, thê lương, nói lên việc chinh chiến tàn khốc cùng tạo nghiệt cho dân chúng lâm cảnh lầm than. Đường Huyền Tông những năm cuối, kiêu ngạo vô lối, hiếu chiến hỉ công, gạt bỏ trung thần, trọng dụng gian thần, say mê sắc đẹp của Dương Quý Phi, nghe lời xúi giục của loạn thần, khơi mào chiến tranh với các bộ tộc thiểu số, đề ra chiến tranh lập công ban thưởng, tạo thành mâu thuẫn nội bộ sâu sắc, họa chiến tranh liên miên, binh sĩ thương vong thảm trọng, dân chúng sống cảnh khói lửa binh biến triền miên. Thiên Bảo năm 749, lệnh cho tướng Thư Hàn tấn công dân tộc Thổ Phiên, quân Đường chết trận mấy vạn; năm 751, phái An Lộc Sơn dẫn 6 vạn binh mã tấn công Khiết Đan, toàn quân bị diệt, tiếng oán ngập trời xanh. “Điếu cổ chiến trường văn” tưởng nhớ về cảnh chiến trường thê lương, vì phải tuân mệnh vua, lấy vua làm trung tâm không thể cãi mệnh mà binh sĩ phải ra chiến trận, thương vong vô số. Lời văn châm biếm, vì nghiệp lớn thống nhất thiên hạ mà đem dân chúng đầu nhập chiến tranh. Mặc dù lời lẽ văn chương biền ngẫu, nhưng văn vẻ lưu loát, tình cảm giao hòa, chủ đề minh mục, ý nghĩa thâm sâu, không hổ là cổ kim truyền tụng nổi danh. “Điếu cổ chiến trường văn” có 5 phần, ở đây, chúng ta sẽ chỉ trích dẫn phần 5, phần có liên quan đến câu Tình đồng thủ túc. Phần 5 nói về cốt nhục ly tán, cha chết trận, để lại vợ góa, con côi, anh em chia lìa, ai không có cha mẹ, ai không có anh em? Nguyên văn: 苍苍蒸民,谁无父母?提携捧负,畏其不寿。谁无兄弟,如足如手?谁无夫妇,如宾如友?生也何恩?杀之何咎?其存其没,家莫闻知。人或有言,将信将疑。悁悁心目,寝寐见之。布奠倾觞,哭望天涯。天地为愁,草木凄悲。吊祭不至,精魂何依?必有凶年,人其流离。呜呼噫嘻!时耶?命耶?从古如斯。为之奈何?守在四夷。 Hán Việt: Thương thương chưng dân, thùy vô phụ mẫu? Đề huề phủng phụ, úy kỳ bất thọ. Thùy vô huynh đệ, như túc như thủ?Thùy vô phu phụ, như tân như hữu? Sinh dã hà ân? Sát chi hà cữu? Kỳ tồn kỳ một, gia mạc văn tri. Nhân hoặc hữu ngôn, tương tín tương nghi. Quyên quyên tâm mục, tẩm mị kiến chi. Bố điện khuynh thương, khốc vọng thiên nhai. Thiên địa vi sầu, thảo mộc thê bi. Điếu tế bất chí, tinh hồn hà y? Tất hữu hung niên, nhân kỳ lưu ly. Ô hô y hi! Thì da? Mệnh da? Tòng cổ như tư. Vi chi nại hà? Thủ tại tứ di. Dịch nghĩa: Trời xanh sinh ra đông đảo nhân dân, ai không có phụ mẫu? Từ nhỏ ôm ôm ấp ấp, bồng bế nâng niu, chỉ lo e sợ con trẻ bọn họ (“bọn họ” là ý chỉ quân lính ra chiến trường) chết sớm không thọ! Ai không có huynh đệ tình thâm cốt nhục thân như tay chân? Ai không có thê tử tương kính như tân hết lòng yêu quý? Bọn họ sống đã được hưởng quá cái gì ân huệ? Lại tạo nên tội gì mà gặp phải nghiệt chết chóc? Sinh tử tồn vong của bọn họ, trong nhà người thân không thể nào biết được; cho dù có nghe được từ người đưa tin, cũng chỉ là hồi hộp lo sợ, bán tín bán nghi. Cả ngày ưu sầu phiền muộn, ban đêm mơ về giọng nói và dáng điệu của người thân nơi chiến trường xa. Bất đắc dĩ, không thể làm gì khác hơn là bày biện tế phẩm, dùng rượu tế điệu, ngóng trông về phương xa, nước mắt thê lương, vọng khắp thiên nhai. Thiên địa vọng trông mà u sầu theo, cỏ cây cũng vậy mà theo đau khổ bi thương. Như vậy không minh bạch việc tế lễ, không biết người thân còn sống hay đã bỏ mình, không thể vì người chết trên trời có linh thiêng mà nhận biết được, linh hồn bọn họ cũng không thể tịnh yên. Huống chi lúc chiến tranh loạn lạc, nhất định sẽ gặp phải thiên tai, nhân dân khó tránh khỏi bị trôi giạt khắp nơi. Than ôi! Đây là thời thế tạo thành, là mệnh số cho nên phải chấp nhận đi? Từ cổ chí kim đều như vậy! Thế nào có thể may mắn tránh cho chiến tranh đâu? Chỉ có tuyên dương giáo hóa, thi hành nhân nghĩa, có khả năng làm cho dân tộc tứ phương vì thiên tử mà bảo vệ toàn lãnh thổ đi! (Trích dẫn phần Nguyên văn từ baike.baidu.com) [6] Nhục toái phi tiên: thịt vỡ bắn tung tóe [7] Thần lai chi bút 神来之笔: xuất phát từ cổ đại Trung Quốc, ý chỉ những vị danh họa tài ba vẽ tranh sống động, như có hồn thổi vào, đặc biệt câu này chỉ những vị vẽ tranh thủy mặc, họa sĩ vẽ thủy mặc phải hơn cả một võ sư: tích đủ nội công lại đầy cảm xúc, ý tưởng rồi mới hạ bút, họ có lối vẽ tinh vi, tỉ mỉ, hóa cái phàm tục thành tinh phẩm truyền đời, ngoài vẽ vật, vẽ cảnh, là vật tĩnh, còn chủ ý thêm vào “động”, tức gió, nước chảy, mây bay, tức là thần, là ý, lấy “động” làm chủ, làm tranh như có linh hồn, hào hoa, sống động. Còn ở đây sử dụng câu này ý chỉ là sự vật hoàn mỹ, linh động được nắm chắc trong lòng bàn tay. [8] Thiên y vô phùng 天衣无缝: nghĩa đen là áo thần tiên không thấy đường chỉ may, nghĩa bóng ám chỉ những gì hoàn hảo không chút sơ sót, không có kẽ hở nào.
|
Quyển 1 - Chương 6: Chân hung vị minh (lục)
Quy củ của Cửu Hoa phái xưa này là truyền đồ không truyền đệ. Nếu như Quan Tỉnh, Chu Liêu Đại và Thi Kế Trung thực sự là hung thủ thí sư, như vậy môn hạ của Bộ Lâu Liêm chỉ còn lại có Phiền Tế Cảnh và Thượng Quan Đinh Ninh. Thượng Quan Đinh Ninh vừa là nữ tử, vừa là sư muội của Phiền Tế Cảnh. Tuy rằng Cửu Hoa phái không có quy củ truyền nam không truyền nữ, thế nhưng từ trước đến giờ chưa từng có nữ chưởng môn. Như vậy tính ra, người có khả năng trở thành chưởng môn nhất chính là Phiền Tế Cảnh. “Thế nhưng ngươi không hội Tiên Liên kiếm pháp.” Hoa Hoài Tú suy nghĩ hồi lâu, chỉ có thể vì hắn nghĩ ra lý do như vậy để biện giải. Phiền Tế Cảnh nói: “Kiếm phổ của Tiên Liên kiếm pháp vẫn luôn được thờ cúng trong từ đường. Nếu như chưởng môn phát sinh bất trắc, lại không kịp chỉ định y bát truyền nhân, có thể lấy ra dùng.” Hoa Hoài Tú nhíu mày. Y tưởng rằng suy đoán của mình là thiên y vô phùng, tiếp cận được với chân tướng, nhưng hiện tại xem ra, chân tướng vẫn còn đang nằm trong biển mờ mịt. Y lại nói tiếp, “Thế nhưng lúc đó ngươi không có mặt ở Cửu Hoa phái.” Phiền Tế Cảnh nhìn y nói: “Ngươi hình như đang thay ta giải vây?” Hoa Hoài Tú trừng mắt nhìn hắn, còn thiếu chút nữa là đem thập tự kiếm trên tay khoan một cái lỗ trên người hắn. Phiền Tế Cảnh mờ mịt nhìn lại y. Chốc lát. Hoa Hoài Tú bại trận, hừ lạnh nói: “Ta chỉ là đang tựu sự luận sự!” Phiền Tế Cảnh nói: “Thiện ác cuối cùng tất báo, khó có thể tìm ra manh mối chân tướng trong một ngày đêm. Biểu ca không nên quá mức buồn lo vô cớ.” ... Y buồn lo vô cớ?! Lửa giận áp chế nhiều ngày của Hoa Hoài Tú bừng cháy mạnh mẽ! Y nhìn Phiền Tế Cảnh, rồi lại nhìn trư trên mặt đất, bỗng xoay người đi ra ngoài, “Ta đi gọi trù nương đến đem nó nấu lên ăn!” Phiền Tế Cảnh vội nói: “Đây là vật chứng, có thể chứng minh sư phụ không hẳn là chết vì ‘Vãn hải cuồng triều’.” Hoa Hoài Tú dừng chân, nghiêng người liếc hắn, “Sau đó để mũi nhọn của mọi người đều chỉ hướng ngươi?” Phiền Tế Cảnh nghiêm mặt nói: “Thanh giả tự thanh. Ta tin tưởng thứ cần báo ứng chung quy sẽ có báo ứng.” “...Tùy ngươi.” Hoa Hoài Tú lạnh lùng bỏ lại ba chữ rồi đi. “Ngươi đi đâu?” Phiền Tế Cảnh ở phía sau truy vấn nói. Hoa Hoài Tú không quay đầu lại nói: “Câu dẫn trù nương.” Phiền Tế Cảnh: “...” Phát hiện của Hoa Hoài Tú một khi công khai, quả nhiên tạo nên một hồi sóng to gió lớn. Như vậy, Tống Bách Lâm và Ngô Thường Bác đều đáng nghi, nghi ngờ đối với Quan Tỉnh mấy người tự nhiên cũng sẽ giảm xuống. Chu Liêu Đại lộ rõ vui mừng trên mặt. Tống Bách Lâm và Ngô Thường Bác vẫn giữ nguyên vẻ mặt trấn định, đối với kết quả này cũng không ngoài ý muốn. Tống Bách Lâm nhìn Phiền Tế Cảnh nói: “Vậy ý của ngươi thế nào?” Phiền Tế Cảnh nhìn quanh một vòng, thấp giọng nói: “Đệ tử cho rằng hung thủ dù có hội ‘Vãn hải cuồng triều’ hay không, đều thập phần hiểu rõ vết thương do chiêu thức tạo thành.” Ngô Thường Bác nói: “Ngươi có gì cứ nói thẳng ra.” Phiền Tế Cảnh nói: “Đệ tử muốn hỏi lúc án phát, hai vị sư thúc đang ở đâu?” Tống Bách Lâm trừng to mắt, vừa định phát tác, liền nghe thấy Ngô Thường Bác nói: “Ngô. Ngươi đúng là trực tiếp như Tống sư thúc ngươi.” Tống Bách Lâm hừ lạnh nói: “Ta không phải không có quy củ như hắn.” Ngô Thường Bác nói: “Sư phụ trước đây đều nói như vậy.” Tống Bách Lâm hung dữ nói: “Ngươi muốn đối đầu với ta?” Ngô Thường Bác nói: “Ta chỉ là đang tựu sự luận sự.” Phiền Tế Cảnh ngắt lời nói: “Còn thỉnh hai vị sư thúc nói cho đệ tử biết.” Ngô Thường Bác vội ho một tiếng nói: “Ta lúc đó ở trong phòng luyện công.” Tống Bách Lâm cười lạnh nói: “Luyện công? Ta thấy lúc đó ngươi đang ngủ thì đúng hơn.” Ngô Thường Bác hỏi ngược lại: “Vậy ngươi lúc đó đang làm gì?” Tống Bách Lâm mặt cứng đờ, thanh âm có chút cứng ngắc, “Luyện công.” Ngô Thường Bác “ha hả” cười. Phiền Tế Cảnh hỏi: “Hai vị sư thúc có người nào làm chứng không?” “Lúc ngươi ngủ... Ngươi luyện công hội thỉnh người khác đứng cạnh nhìn?” Tống Bách Lâm tức giận phản vấn. Phiền Tế Cảnh nhíu mày nói: “Thế nhưng đại sư huynh bọn họ đều có.” Tống Bách Lâm lạnh lùng đưa mắt nhìn Quan Tỉnh mấy người một vòng rồi nói: “Nếu như hung thủ không phải chỉ có một, vậy chẳng có gì lạ hết.” Nói xong, Chu Liêu Đại mấy người đều biến sắc. Ngay đến Quan Tỉnh trước nay luôn trầm ổn trên mặt cũng xuất hiện một tia phẫn nộ. Bầu không khí trong đại sảnh nhất thời đông cứng thành băng. “Tam sư đệ.” Chu Liêu Đại đột nhiên đánh vỡ im lặng, “Từ Bễ Nghễ Sơn hồi Cửu Hoa Sơn, ngươi hình như mất nhiều hơn nửa tháng thời gian.” Hoa Hoài Tú vẫn khoanh tay dựa vào cửa hơi thẳng lưng. Rốt cục cũng bắt đầu rồi. Phiền Tế Cảnh nói: “Ta tại Giang Châu bị bệnh nặng, phải nghỉ ngơi mất nửa tháng.” Chu Liêu Đại nói: “Giang Châu? Nơi đó ly Cửu Hoa Sơn không xa, nếu dùng hết sức để đi, trong vòng hai mươi mấy ngày có thể cả đi cả về.” Ánh mắt mọi người theo lời nói của hắn đều hướng về Phiền Tế Cảnh. Hoa Hoài Tú thản nhiên nói: “Thế nhưng lúc đó, ai có thể nói cho hắn biết Tiên Liên kiếm pháp đến tột cùng là như thế nào?” Chu Liêu Đại nghẹn lời. Hoa Hoài Tú nói tiếp: “Huống chi, ta khả dĩ làm chứng.” Phiền Tế Cảnh nghe vậy, không khỏi nhìn y một cái. Chu Liêu Đại vẫn ghi hận lần trước bị Phiền Tế Cảnh ép hỏi, cười lạnh nói: “Ngươi và hắn là biểu huynh đệ, tự nhiên sẽ vì hắn mà che giấu.” Hoa Hoài Tú nói: “Nếu ngươi nói thế, vậy ngươi và Thượng Quan cô nương cũng khó có thể làm chứng cho nhau.” Sắc mặt Chu Liêu Đại trở nên trắng nhợt, tựa hồ không nghĩ tới dây dưa lại dây dưa cuối cùng lại tự nhóm lửa chính mình. Thi Kế Trung thì thầm: “Thật chế giễu. Hoài nghi đi hoài nghi lại, cuối cùng không có ai là trong sạch cả.” “Làm càn.” Tống Bách Lâm khẽ quát. Ngô Thường Bác hòa giải nói: “Lưới trời tuy thưa nhưng khó lọt. Hung thủ nhất định sẽ lưu lại manh mối.” Ai cũng biết đây chỉ là lời an ủi. Trên đời này số án tử chưa phá được hoặc chưa bị phát hiện nhiều như cá bơi trên sông, huống chi án tử của Bộ Lâu Liêm thực sự quá mức kỳ quặc, lại không có một chút manh mối nào. Hoa Hoài Tú một đường trở về phòng, trong đầu đều xoay quanh án tử này. Nếu như không thể điều tra từ manh mối hung án, như vậy chỉ có thể điều tra từ... Y bỗng quay đầu lại, thấy Phiền Tế Cảnh bám đuôi theo sau y. “Ngươi theo ta làm gì?” Hoa Hoài Tú nghiêm mặt hỏi. Phiền Tế Cảnh nói: “Ta nghĩ cùng ngươi nói chuyện.” “Nói chuyện?” Hoa Hoài Tú nhướng mày, “Nói chuyện với người buồn lo vô cớ như ta thì có gì hảo chứ.” Tuy rằng nói không khác khí như vậy, nhưng trong ngực không ngừng suy đoán xem hắn muốn nói chuyện gì. Không phải là khi nãy bản thân vì hắn làm chứng khiến hắn cảm kích chứ? Nghĩ tới đây, hai má y không khỏi có chút nóng lên. “Chỉ cần biểu ca cam đoan không đem tin tức sư phụ qua đời truyền ra ngoài, ta nghĩ thỉnh sư thúc cho phép ngươi hạ sơn.” Phiền Tế Cảnh nói khiến khóe miệng chuẩn bị nhếch lên của Hoa Hoài Tú bị chèn ép ngay xuống. Đôi mắt phẫn nộ của y trở nên lạnh như băng, “Ngươi lặp lại lần nữa.” Phiền Tế Cảnh chậm rãi mở miệng nói: “Chỉ cần biểu ca cam đoan không đem tin tức sư phụ...” Không đợi hắn nói xong, nắm đấm của Hoa Hoài Tú đã hướng mặt hắn vung tới! Phiền Tế Cảnh hơi nghiêng đầu, đưa tay nắm lấy tay y. “Buông tay!” Hoa Hoài Tú trừng mắt nhìn hắn. Hai má trắng nõn bị lửa giận nhiễm trở nên đỏ bừng, rực rỡ như hoa đào nở rộ vào tháng ba. Trong mắt Phiền Tế Cảnh mơ hồ có chút sóng quang lưu động, thở dài nói: “Biểu ca...” Ánh mắt Hoa Hoài Tú nhìn về bàn tay đang nắm lấy tay mình, “Buông tay.” Phiền Tế Cảnh không thể làm gì khác hơn là buông tay ra. Hoa Hoài Tú không chút do dự vung quyền. Phiền Tế Cảnh theo bản năng liền nắm lấy. Bốn mắt nhìn nhau. Hoa Hoài Tú giận dữ nói: “Ngươi không nắm không được sao?” Phiền Tế Cảnh nói: “Nếu như biểu ca không đánh.” Hoa Hoài Tú trầm mặc giây lát, nói: “Buông tay, không đánh.” Phiền Tế Cảnh buông tay ra. Hoa Hoài Tú nhấc chân giẫm mạnh xuống bàn chân của hắn, bĩu môi nói: “Ta lần này là giẫm.” Phiền Tế Cảnh bất đắc dĩ nhìn vết giày trên chân mình, “Biểu ca.” “Đi theo ta.” Hoa Hoài Tú không đợi hắn nói ra những lời làm y tâm phiền, trực tiếp đẩy cửa đi vào. Phiền Tế Cảnh thở dài, không thể làm gì khác hơn là đi theo sau y. Hoa Hoài Tú lôi trà cụ ra, bắt đầu pha trà. Phiền Tế Cảnh đứng một bên. Hoa Hoài Tú chậm rãi nói: “Nếu như không thể điều tra từ manh mối hung án, như vậy chúng ta sẽ điều tra từ động cơ gây án của hung thủ.” Phiền Tế Cảnh sửng sốt nói: “Kẻ có động cơ gây án nhất không phải là ta sao?” Hoa Hoài Tú tức giận trừng mắt nhìn hắn: “Ngươi như vậy có thể là hung thủ sao?’ “Ta chỉ là...” Hoa Hoài Tú không đợi hắn nói hết lời, nói: “Ngươi không cảm thấy sư huynh đệ và sư thúc ngươi đối với cái chết của sư phụ ngươi quá mức lãnh đạm sao?” Phiền Tế Cảnh nhíu mày không nói. “Một bên là đồng môn thủ túc, một bên là thụ nghiệp ân sư, thế nhưng biểu hiện của bọn họ tựa như chỉ là người xa lạ bình thường.” Ánh mắt Hoa Hoài Tú trở nên ngưng trọng, “Trong đó tất phải có nguyên nhân.”
|
Quyển 1 - Chương 7: Chân hung vị minh (thất)
Phiền Tế Cảnh nói: “Biểu ca, đây là chuyện của Cửu Hoa phái, ngươi dù sao cũng là người của Hoa gia...” “Chuyện của Cửu Hoa phái?” Hoa Hoài Tú hừ lạnh nói, “Những người đứng đầu Cửu Hoa phái hiện nay đều là kẻ đáng nghi, ngươi nghĩ để ai tra?” “Ta...” Phiền Tế Cảnh mở miệng, vừa định mao toại tự tiến [1], đã bị Hoa Hoài Tú chặn đứng nói, “Ngươi chớ quên, kết quả suy đoán lần trước của ta, ngươi là người có động cơ nhất trong tất cả.” Phiền Tế Cảnh lúng túng nói: “Thế nhưng vừa rồi biểu ca làm chứng cho ta...” Hoa Hoài Tú nheo mắt nói: “Vậy nên ngươi hiện tại là qua sông đoạn cầu? Hay là ngươi định đi tìm cái tên Âm Sơn phái kia làm chứng?” Y càng nói càng nhỏ. Phiền Tế Cảnh kinh ngạc nhìn y nói: “Biểu ca ngươi...” Hoa Hoài Tú thẹn quá hóa giận nói: “Ta mặc kệ ngươi với cái tên Trịnh Phong kia có quan hệ gì.” Phiền Tế Cảnh nói: “Ta và hắn chỉ là đồng lộ đồng hành.” Hoa Hoài Tú nhìn chằm chằm hắn, tựa hồ đang suy nghĩ xem những gì hắn nói là thật hay giả. Phiền Tế Cảnh không thể làm gì khác hơn là đứng im bất động, tùy ý y nhìn. Nhìn một lúc lâu, Hoa Hoài Tú cuối cùng cũng thỏa mãn, nói sang chuyện khác: “Nói tóm lại, Cửu Hoa phái muốn tra ra hung thủ sát chưởng môn, ta muốn nhanh chóng ly khai Cửu Hoa Sơn, vì vậy ta phải nhanh chóng tra ra hung thủ sát sư phụ ngươi.” Phiền Tế muốn phản bác, nhưng Hoa Hoài Tú đã nhanh tay đưa cho hắn một chén trà nóng hổi. Hắn tiếp nhận chén trà, dùng nội lực làm trà nguội bớt. Hoa Hoài Tú nhíu mày nói: “Nội công của ngươi so với chiêu thức tốt hơn nhiều.” Hoa gia tài hùng thế đại, không thiếu võ công bí tịch. Hoa gia thiếu chính là nhân tài có thể luyện thành tuyệt thế võ công. Vì thế tuy võ công của Hoa gia không cao, nhưng mắt nhìn người rất tốt. Phiền Tế Cảnh nói: “Cửu Hoa phái chỉ có một bộ nội công tâm pháp.” Hoa Hoài Tú mắt sáng ngời nói: “Lại nói, sư phụ ngươi có vẻ như không giống người tốt.” “Biểu ca!” Sắc mặt Phiền Tế Cảnh trầm xuống nói, “Vô luận sư phụ ta đã từng làm gì, cũng nên tôn trọng người đã chết. Ngươi cũng đừng quấy nhiễu anh linh của lão nhân gia nữa.” Hoa Hoài Tú bĩu môi nói: “Ta bất quá chỉ là tựu sự luận sự. Một người công bằng chính trực, người hại hắn nhất định là tiểu nhân. Mà một người... Thiếu công bằng chính trực, người hại hắn có thể là người đã bị đối xử không công bằng.” Thấy Phiền Tế Cảnh nhíu mày nhìn mình, y mỉm cười nói, “Nói như vậy, ngươi lại có hiềm nghi rồi.” Phiền Tế Cảnh buồn bực nói: “Ta chưa bao giờ bị đối xử thiếu công bằng?” “Bộ Lâu Liêm có tổng cộng năm đệ tử, ngoại trừ nữ đệ tử duy nhất Thượng Quan Đinh Ninh cùng ngươi khi đó đang ở ngoài, ai cũng đều hội Tiên Liên kiếm pháp. Như vậy không tính là không công bằng sao?” Phiền Tế Cảnh lắc đầu nói: “Sư phụ là chưởng môn Cửu Hoa phái, người có quyền quyết định cho người nào kế thừa Tiên Liên kiếm pháp.” Mỗi lần hắn dùng vẻ mặt kiên cường chính trực nói ra những lời ngu ngốc, Hoa Hoài Tú thực vô cùng hoài niệm Phiền Tế Cảnh năm xưa tuy còn nhỏ nhưng thông minh. Y thở dài nói: “Ngươi nghĩ như vậy, không hẳn là người người đều nghĩ như vậy.” Phiền Tế Cảnh nghi hoặc nhìn y. “Thượng Quan Đinh Ninh tuy là nữ tử, nhưng nữ tử cũng sẽ có dã tâm của nữ tử. Cửu Hoa phái cũng không phải là môn phái truyền nam không truyền nữ. Ngươi không ở Cửu Hoa Sơn không nói tới, nàng rõ ràng tại Cửu Hoa Sơn, sư phụ ngươi truyền kiếm pháp cho người khác nhưng không truyền cho nàng. Khó có thể nói nàng trong lòng không có suy nghĩ.” Y nói tiếp, “Huống chi, Thi Kế Trung có nói qua, sư phụ ngươi trước giờ vẫn chê nàng tay chân vụng về, đối nàng quát mắng, phàm là nữ tử có lòng tự trọng đều sẽ luôn canh cánh trong lòng.” Phiền Tế Cảnh nói: “Nhưng sư muội nàng...” “Càng huống chi, Thượng Quan Đinh Ninh và Chu Liêu Đại lưỡng tình tương duyệt, nhưng bị sư phụ ngươi tìm mọi cách cản trở, thù mới hận cũ cùng một chỗ, hai người tất sẽ có ý muốn...” Hoa Hoài Tú giơ chén lên cao, trong mắt hiện lên một tia lãnh ý. Phiền Tế Cảnh bị lãnh ý trong mắt y làm kinh hãi, một lát sau mới nói: “Thế nhưng...” “Thế nhưng chỉ dựa vào hai người bọn họ cũng không chắc có thể giết được sư phụ ngươi.” Phiền Tế Cảnh gật đầu. “Vì thế hiện tại bọn họ cũng chỉ là có điểm nghi ngờ.” Hoa Hoài Tú buông chén trà xuống nói, “Ta hiện tại có cảm giác kỳ quái.” “Cảm giác kỳ quái?” “Sư huynh đệ và sư thúc ngươi đối với cái chết của sư phụ ngươi thờ ơ, có thể là bởi vì...” Phiền Tế Cảnh truy vấn nói: “Bởi vì sao?” Hoa Hoài Tú chậm rãi nói: “Mặc kệ có là hung thủ hay không, bọn họ đều có động cơ giết người.” Phiền Tế Cảnh sửng sốt, một lúc sau mới nói: “Ngươi là nói, bọn họ đều mong muốn sư phụ chết?” “Có khả năng.” Hoa Hoài Tú nói, “Bất quá chính là bởi vì vậy nên ta mới thấy kỳ quái. Nếu như là hung thủ, hắn hẳn sẽ trăm phương nghìn kế che giấu động cơ của mình, sau đó giả vờ cực kỳ bi thương, vì sao bọn họ đều là không chút che giấu?” Phiền Tế Cảnh nói: “Bọn họ cũng không phải là không bi thương, bọn họ chỉ là hướng nội.” Hoa Hoài Tú không để ý tới phản bác của hắn, “Trừ phi...” “Trừ phi cái gì?” Hoa Hoài Tú suy nghĩ một chút, nghĩ suy đoán của bản thân quá mức kinh thế hãi tục, liền lắc đầu nói: “Không có gì.” Tai Phiền Tế Cảnh đột nhiên giật giật, sau đó liền nghe thấy cánh cửa sát vách bị đập mạnh. Hoa Hoài Tú đứng dậy mở cửa, thò ra nửa người nói: “Tống đại hiệp? Ngô đại hiệp?” Bên ngoài truyền đến thanh âm của Tống Bách Lâm, “Hoa công tử có biết Tế Cảnh ở nơi nào?” Phiền Tế Cảnh vội vã từ trong phòng đi ra, “Nhị sư thúc, Ngũ sư thúc.” Tống Bách Lâm không đáp lời, liền từ phía sau lôi ra một tên đệ tử nói: “Ngươi nói đêm án phát ngươi nhìn thấy gì?” Đệ tử rụt đầu, thấp giọng nói: “Đêm chưởng môn gặp chuyện không may đệ tử thấy Quan Tỉnh đại sư huynh và Thi Kế Trung ngũ sư huynh đem theo kiếm đi qua hoa viên.” Phiền Tế Cảnh kinh hãi. Từ phòng của chưởng môn đến phòng bọn họ tất phải đi qua hoa viên. Tống Bách Lâm cười lạnh nói: “Bọn họ không phải nói đêm đó ở trong phòng uống trà nói chuyện phiếm sao? Lẽ nào uống trà còn phải đến hoa viên?” Ngô Thường Bác nói: “Sư huynh, ngươi hiện tại là hoài nghi bọn họ giết chưởng môn, hay là hoài nghi bọn họ đạp hư hoa ngươi trồng trong hoa viên?” Tống Bách Lâm tức giận liếc hắn: “Ngươi cho rằng ta vì vài bông hoa mà trở mặt?” Ngô Thường Bác thanh thanh giọng nói nói: “Kỳ thực hoa ngươi trồng tại hoa viên là do ta không cẩn thận lộng đoạn.” “...” Tống Bách Lâm đột nhiên xuất chưởng nói, “Ta muốn giết ngươi.” Ngô Thường Bác đưa tay ngăn trở hắn công kích, thở dài nói: “Sư huynh, ngươi vừa rồi rõ ràng nói sẽ không vì vài bông hoa mà trở mặt.” Tống Bách Lâm nói: “Ta vừa rồi là hỏi ngươi ta có đúng là loại ngươi như thế không. Hiện tại ta nói cho ngươi, ta chính là người như thế!” Ngô Thường Bác: “...” Hoa Hoài Tú đối với hoa hoa chiêu thức của bọn họ không có hứng thú, xen vào nói: “Nếu là như vậy, ta nghĩ chúng ta nên hỏi rõ Quan Tỉnh và Thi Kế Trung đêm đó thực chất là làm gì mới đúng.” Tống Bách Lâm hừ một tiếng nói: “Việc này còn cần phải hỏi?” Nói xong phát hiện tất cả mọi người đều đang nhìn mình, nhất thời sốt ruột nói, “Tùy các ngươi đi hỏi!” Dứt lời, phẩy tay áo bỏ đi. Ngô Thường Bác mỉm cười với Phiền Tế Cảnh nói: “Vậy liền giao cho ngươi.” Phiền Tế Cảnh trịnh trọng gật đầu. Mấy ngày qua tại Cửu Hoa phái, ngoại trừ Phiền Tế Cảnh ra, Hoa Hoài Tú chỉ nhìn thuận mắt được có Quan Tỉnh và Thi Kế Trung, vì vậy khi hỏi cũng có chút kín đáo, nhưng dù kín đáo đến mấy cũng không che giấu được bản chất chất vấn. Vì thế nên sắc mặt Thi Kế Trung nhất thời có chút xấu xí, mở miệng định phản bác, đã thấy Quan Tỉnh khoát khoát tay nói: “Có người nhìn thấy chúng ta tại hoa viên?” Tại hoa viên và đi ngang qua hoa viên là khác nhau. Tại hoa viên có nghĩa là mục đích lúc đó của hắn chỉ là hoa viên, vẫn chưa đi tới thêm chỗ nào khác. Hoa Hoài Tú nói: “Các ngươi vì sao nửa đêm lại tới hoa viên?” Quan Tỉnh mặt không đổi sắc nói: “Luyện công.” Hoa Hoài Tú nhíu mày. Vì sao Cửu Hoa phái đều thích luyện công vào ban đêm? Tống Bách Lâm và Ngô Thường Bác cũng vậy. Lẽ nào võ công của Cửu Hoa phái cần hấp thu nhật nguyệt tinh hoa? Phiền Tế Cảnh nói: “Luyện công là chuyện tốt, vì sao lúc trước đại sư huynh không nói thật?” Thi Kế Trung muốn nói lại thôi. Quan Tỉnh nói: “Chúng ta luyện chính là Tiên Liên kiếm pháp.” Hoa Hoài Tú nói: “Sư phụ các ngươi đều không phải là quang minh chính đại truyền thụ Tiên Liên kiếm pháp cho các ngươi sao? Vì sao phải lén lút luyện giữa đêm khuya.” Y tựa như nghĩ tới gì đó, hạ giọng nói, “Lẽ nào các ngươi sợ có ai học trộm?” “Đều không phải học trộm, là, là...” Thi Kế Trung thần sắc phức tạp, phẫn nộ, thất vọng, thống khổ, nghi hoặc... Các loại cảm tình tập hợp cùng một chỗ, khiến hốc mắt hắn hơi đỏ lên. Quan Tỉnh thở dài nói: “Chúng ta không phải là hung thủ.” Hoa Hoài Tú nói: “Chúng ta tin tưởng ngươi, thế nhưng muốn có một lý do để tin tưởng.” Quan Tỉnh vốn là một người hướng nội, lúc này trong mắt cũng không nhịn được lộ ra một tia tức giận, “Ta dạy hắn thức cuối cùng mỗi chiêu của Tiên Liên kiếm pháp.” Hoa Hoài Tú và Phiền Tế Cảnh ngẩn người. Phiền Tế Cảnh nói: “Sư phụ không phải đã đem Tiên Liên kiếm pháp truyền thụ cho các ngươi rồi sao?” Quan Tỉnh nói: “Ta ban đầu cũng nghĩ như vậy, nhưng sau mới biết được, hắn chỉ truyền thụ cho bọn hắn phần đầu của chiêu thức, không có truyền thụ thu chiêu.” Hoa Hoài Tú nói: “Thu chiêu này nghĩa là sao?” Quan Tỉnh nói: “Thu chiêu phối hợp với nội công tâm pháp dẫn dắt chân khí trong cơ thể hồi đan điền. Nếu không thu chiêu, lâu dài về sau, người luyện công sẽ bị tẩu hỏa nhập ma mà chết.” ———————————————————————- [1] Mao toại tự tiến 毛遂自荐: tự đề cử bản thân. Một câu tục ngữ nói: “Vàng thế nào cũng óng ánh”. Trung Quốc có một câu thành ngữ “Mao Toại tự tiến” (tức Mao Toại tự tiến cử mình) chính là chỉ việc này. Câu thành ngữ này có xuất sứ từ “Sử ký – Bình Nguyên Quân liệt truyện”. Thời Chiến Quốc cổ đại Trung Quốc, vào năm 258 trước công nguyên, kinh đô Hàm Đan nước Triệu bị quân đội nước Tần hùng mạnh bao vây chặt chẽ, lâm nguy sớm tối. Để giải cứu Hàm Đan, vua Triệu muốn liên hợp với Sở, một nước lớn ở khu vực cùng chống lại Tần. Vì vậy vua Triệu cử hoàng thân Bình Nguyên Quân đến Sở du thuyết. Tể tướng Bình Nguyên Quân phụng mệnh đi sứ Sở, khuyên Sở cùng hợp sức với Triệu đánh lại quân Tần. Bình Nguyên Quân dự định chọn 20 người dũng cảm và có mưu trí trong hàng nghìn môn khách ở nhà đi cùng, nhưng chọn đi chọn lại, ông chỉ chọn ra được 19 người. Lúc này, một khách không mời mà đến, xin bù vào chỗ thiếu. Khách này tên Mao Toại. Bình Nguyên Quân hầu như không hề quen biết Mao Toại, và cũng chưa hề nghe ai nhắc đến người này, cho là anh ta không có tài cán gì, nên ngần ngại không dám nhận lời. Bình Nguyên Quân nhìn Mao Toại hỏi: “Nhà ngươi là ai? Tìm ta có việc gì?” Mao Toại nói: “Thưa ngài, tôi tên là Mao Toại. Nghe nói ngài sẽ đến Sở du thuyết để giải cứu Hàm Đan, tôi xin sẵn sàng đi cùng ngài.” Bình Nguyên Quân hỏi tiếp: “Thế nhà ngươi đã đến nhà ta lâu chưa?” Mao Toại đáp: “Dạ, ba năm rồi.” Bình Nguyên Quân nói: “Ba năm là một quãng thời gian không ngắn. Nếu một người có tài năng đặc biệt gì đó, thì giống như cái dùi để trong túi sẽ lộ ra ngay cái mũi nhọn của nó, tài năng của người này cũng sẽ lộ rõ rất nhanh. Nhưng mà nhà ngươi đã ở nhà ta ba năm, ta chưa nghe thấy nhà ngươi có tài năng gì đặc biệt. Lần này ta đi Sở, gánh vác trọng trách xin cứu binh giải cứu xã tắc, những người không có tài năng không thể đi cùng với ta. Theo ta, nhà ngươi lưu lại thì tốt hơn.” Bình Nguyên Quân nói rất thẳng thắn. Nhưng Mao Toại lại trả lời một cách mạnh dạn tự tin rằng: “Thưa ngài, ngài nói không đúng. Không phải là tôi không có tài năng đặc biệt, mà là ngài không để tôi trong túi. Nếu như ngài sớm để ý đến tôi, và để tôi trong túi sớm hơn, thế thì tài năng đặc biệt của tôi sẽ lộ ra như cái dùi lộ ra mũi nhọn, và chắc chắn là tôi đã trở thành chiếc dùi nhọn trong túi vải đâm ra ngoài. Bây giờ ngài hãy bỏ tôi vào trong túi có được không?” Qua lời nói của Mao Toại, Bình Nguyên Quân cảm thấy Mao Toại có lẽ quả thật có tài năng, do vậy ông chấp nhận yêu cầu của Mao Toại, dẫn 20 người tùy tùng đi Sở. Đến Sở, Bình Nguyên Quân đàm phán với vua Sở. Sau khi trình bày tường tận sự cần thiết liên hợp chống lại Tần, Bình Nguyên Quân mong vua Sở nhanh chóng cử quân đội đi giải cứu Hàm Đan, nhưng vua Sở không trả lời. Cuộc đàm phán của họ kéo dài từ sáng sớm đến buổi trưa, nhưng vẫn chưa có kết quả gì. 20 người tùy tùng chờ đợi bên ngoài thấy nóng ruột. Vì Mao Toại là tự giới thiệu mới được đi cùng, nên 19 tùy tùng khác coi khinh ông, cảm thấy ông có phần nào tự tâng bốc mình. Lúc đó, họ muốn xem Mao Toại có tài năng gì, bèn xúi giục ông rằng: “Mao tiên sinh, đàm phán lâu rồi mà chưa có kết quả. Anh vào xem thế nào.” Mao Toại đồng ý ngay. Ông nắm chắc chuôi gươm đeo trên lưng, đến gần vua Sở nói: “Thưa bệ hạ, Sở và Triệu liên minh chống Tần là việc nhất thiết phải thực hiện. Việc này chỉ cần vài câu đã có thể xác định. Nhưng tại sao đàm phán từ sáng sớm đến bây giờ vẫn không có kết quả?” Sự xuất hiện và lời quở trách của Mao Toại khiến vu Sở tức giân. Vua Sở bỏ mặc Mao Toại, quay sang hỏi Bình Nguyên Quân một cách tức giận: “Hắn là ai?” Bình Nguyên Quân đáp: “Dạ, hắn là tùy tùng của tôi.” Vua Sở tức giận, quay mình trách mắng Mao Toại rằng: “Quả nhân đang bàn việc với chủ ngươi, nhà ngươi là ai, dám nói chen vào!” Lời nói của vua Sở gợi lòng phẫn nộ của Mao Toại. Mao Toại rút gươm, tiến hai bước đến sát vua Sở, to tiếng nói: “Kính thưa bệ hạ, sở dĩ bệ hạ dám trách móc thần là vì nước Sở của bệ hạ là một nước lơn, là vì bên cạnh bệ hạ có nhiều thị vệ. Nhưng bây giờ thần cho bệ hạ biết rằng, trong phạm vi 10 bước hiện nay, nước lớn không có tác dụng gì, thị vệ đông cũng không có tác dụng gì. Tính mạng của bệ hạ đã nằm trong tay thần, bệ hạ kêu không có tác dụng gì.” Nghe Mao Toại nói vậy, vua Sở sợ hãi, không nói gì nữa. Mao Toại nói tiếp: “Sở là nước lớn, nên làm bá chủ thiên hạ. Thế nhưng bệ hạ sợ Tần vô cùng. Tần từng nhiều lần xâm lược Sở, chiếm đóng nhiều địa phương của Sở, đây là sỉ nhục lớn biết bao! Nhớ lại những việc như trên, thậm chí người Triệu chúng tôi cũng lấy làm xấu hổ. Hiện nay, chúng tôi mong liên minh với quý quốc chống lại Tần, nói là giải cứu Hàm Đan, nhưng đồng thời cũng là trả thù rửa nhục cho Sở. Nhưng bệ hạ là hèn nhát như vậy. Bệ hạ có phải là vua không? Chẳng lẽ bệ hạ không lấy làm xấu hổ?” Trước lời nói mạnh mẽ của Mao Toại, vua Sở lấy làm xấu hổ và không biết nên trả lời thế nào. Mao Toại lại nói tiếp: “Kính thưa bệ hạ, bệ hạ thấy thế nào? Bệ hạ có sẵn sàng liên minh với Triệu cùng chống Tần không?” “Ta xin sẵn sàng! Ta xin sẵn sàng!” Vua Sở trả lời một cách quả quyết. Sau khi Sở Triệu hai nước kí hiệp nghĩ liên minh chống Tần, Bình Nguyên Quân trở về Hàm Đan rất nhanh. Khi gặp vua Triệu, Bình Nguyên Quân nói: “Lần này đi sứ Sở, may sao có Mao Toại tiên sinh đi cùng. Nhờ khẩu tài của tiên sinh, Triệu đã đạt được mục đích. Tiên sinh thật là mạnh hơn quân đội có hàng triệu chiến sĩ.” Mấy hôm sau, ở kinh đô Hàm Đan, ai ai cũng biết tên Mao Toại. Hiện nay, câu thành ngữ “Mao Toại tự tiến” này được dùng trong tình hình người có tài năng dũng cảm tự mình tiến cử với người khác để đi làm một công việc nào đó.
|
Quyển 1 - Chương 8: Chân hung vị minh (bát)
Hoa Hoài Tú nghe mục trừng khẩu ngốc. Nếu những gì Quan Tỉnh nói là sự thật, vậy Bộ Lâu Liêm là có tâm hại chết Thi Kế Trung và Chu Liêu Đại. Đến tột cùng là do ân oán gì có thể khiến sư phụ không màng đến chục năm tình sư đồ, muốn hại chết đồ đệ của mình? Y nghĩ không ra. Như khi phụ thân tức giận vì y đào hôn, cũng tuyệt đối sẽ không đối y đuổi tận giết tuyệt. Phiền Tế Cảnh hiển nhiên bị chân tướng này dọa, mở miệng khẽ gọi vài tiếng đại sư huynh, nhưng không có nói thêm được gì nữa. Quan Tỉnh đối với sự thất thố của hắn cũng không kinh ngạc. Cái này hắn cũng đã từng trải qua. Hoa Hoài Tú dù sao cũng là người ngoài cuộc, sau khi kinh hãi qua đi, lập tức khôi phục lý trí, nắm lấy thời cơ hỏi: “Các ngươi có biết nguyên nhân?” Thi Kế Trung im lặng quay mặt đi chỗ khác, giơ tay lên như muốn lau khóe mắt. Quan Tỉnh hơi nghiêng người, giúp hắn cản lại ánh mắt của Hoa Hoài Tú và Phiền Tế Cảnh. Một lúc sau, Thi Kế Trung mới quay đầu lại, lộ ra khuôn mặt đau khổ nói: “Ta tự hỏi từ nhỏ đến lớn đều coi sư phụ như chí thân trưởng bối, cũng không có nửa điểm bất tôn bất kính. Ta cũng không hiểu sư phụ vì sao lại đối với ta như vậy.” Phiền Tế Cảnh đột nhiên nhớ tới một việc, “Nhị sư huynh biết việc này sao?” Khuôn mặt Thi Kế Trung cứng lại. Quan Tỉnh diện vô biểu tình nói: “Ta có bóng gió nhắc nhở qua, bất quá hắn không để ý đến.” Hoa Hoài Tú nguyên bản chỉ cảm thấy những người ở Cửu Hoa phái đều lạnh lùng, hiện tại xem ra, quả thực là quỷ dị. Sư phụ trăm phương nghìn kế hạ độc thủ hại đồ đệ, mà sư huynh đối với sinh tử của sư đệ cũng là thờ ơ lạnh nhạt. Duy nhất bình thường chỉ có Phiền Tế Cảnh, nhưng Hoa Hoài Tú đột nhiên nghĩ người như hắn ở môn phái như thế này vô cùng kỳ lạ, không hợp với Cửu Hoa phái. Phiền Tế Cảnh nghe Quan Tỉnh nói, quả nhiên trở nên lo lắng, “Ta đi nói cho nhị sư huynh.” Quan Tỉnh hầu kết giật giật, cuối cùng là nhịn xuống. Hoa Hoài Tú nghĩ kĩ lại, hỏi: “Ngươi có gì chứng minh được các ngươi lúc đó chỉ ở hoa viên, không đi tới nơi khác?” “Không thể chứng minh.” Quan Tỉnh thản nhiên nói, “Giống như lúc trước các ngươi vô pháp chứng thực chúng ta có thực là ở trong phòng nói chuyện phiếm hay không.” Nếu là bình thường, Hoa Hoài Tú nhất định sẽ rất thưởng thức sự thẳng thắn của hắn, thế nhưng giờ này khắc này, y chỉ cảm thấy biểu tình của đối phương như đang khiêu khích “ngươi không làm khó dễ ta được”. Đúng như đã từng nghe, khi ngươi nghi ngờ một người thì thế nào cũng thấy nhất cử nhất động của người đó thập phần khả nghi. Thi Kế Trung đột nhiên nói một câu, “Bộ Lâu Liêm không phải do chúng ta giết.” Hắn không như trước đây xưng hô sư phụ mà gọi thẳng tục danh của Bộ Lâu Liêm, có thể thấy được trong lòng tích hận càng sâu, nguyên bản còn cố che lấp, giờ đây đã bị xé rách, tâm tình chôn sâu trong lòng liền không cần che giấu nữa. Phiền Tế Cảnh thấp giọng nói: “Có thể sư phụ có nỗi khổ riêng.” Thi Kế Trung trừng mắt nhìn hắn, giống như muốn từ trên mặt hắn nhìn ra một tia dấu hiệu ngôn bất do trung [1], thế nhưng nhìn đi nhìn lại, hắn nhìn hồi lâu, chỉ thấy được sự kiên định, tựa như sự tôn kính đối với sư phụ đã ăn sâu vào trong lòng, cho dù có chuyện gì xảy ra cũng không bị dao động hay mất đi. Quan Tỉnh nói: “Nhân tử đăng diệt [2]. Vô luận khi còn sống hắn đã làm gì, hiện tại đều không còn trọng yếu nữa.” “Nhưng hung thủ là ai lại rất trọng yếu.” Hoa Hoài Tú nói. Ánh mắt Quan Tỉnh nhìn y trở nên băng lãnh. Hoa Hoài Tú dung mạo nhã lệ thế gian khó có được, thế nhưng trong mắt hắn, so với một một khúc gỗ không có gì khác biệt. Phiền Tế Cảnh nhịn không được tiến lên một bước, kéo Hoa Hoài Tú lùi lại sau: “Đại sư huynh, ta mong muốn những gì ngươi nói là đúng.” Quan Tỉnh thu lại tia nhìn băng lãnh, thản nhiên liếc nhìn hắn nói: “Ta tuy không phải là hung thủ, nhưng vô cùng kính phục hung thủ.” Phiền Tế Cảnh ngẩn người, còn hắn xoay người hướng hoa viên đi. Thi Kế Trung đi theo được hai bước, quay đầu lại nói: “Ta cũng không biết hung thủ là ai, bất quá ta nghĩ hắn nhất định có nỗi khổ riêng.” Hai người đi rồi, Hoa Hoài Tú và Phiền Tế Cảnh còn đứng tại chỗ ngẩn người. Hoa Hoài Tú nhìn bàn tay Phiền Tế Cảnh nắm lấy tay mình, mà Phiền Tế Cảnh thì đang nhìn phương hướng hai người kia rời đi. Hồi lâu. Đại khái là tay Phiền Tế Cảnh cầm có chút mỏi, nhịn không được buông ra, lại bị Hoa Hoài Tú nắm lấy. “Biểu ca?” Phiền Tế Cảnh buồn bực nhìn hai tay giao tại một chỗ. Hoa Hoài Tú vội ho một tiếng, giơ tay hắn lên nói: “Ngươi đã bao lâu không cắt móng tay rồi?” Phiền Tế Cảnh nhất thời không phản ứng lại, suy nghĩ kĩ càng chớp chớp mắt vài lần mới nói: “Ba ngày trước.” “Trách không được móng tay dài như vậy.” Hoa Hoài Tú trợn mắt nói dối rồi buông tay hắn ra, nói sang chuyện khác, “Ngươi đang nghĩ cái gì?” Phiền Tế Cảnh nhẹ nhàng thở dài rồi nói: “Ta đang suy nghĩ, ta có nên tìm hung thủ hay không.” Hoa Hoài Tú nhướng mày nói: “Bởi vì những gì mà đại sư huynh và ngũ sư đệ ngươi nói?” Phiền Tế Cảnh nói: “Có thể người nọ thật là có nỗi khổ riêng.” “Ngươi nghĩ tính tình của sư phụ ngươi thế nào?” Hoa Hoài Tú hỏi. Y cho rằng Phiền Tế Cảnh nhất định sẽ trả lời là sư phụ đối với hắn ân trọng như núi hay đại loại thế, nhưng đợi hồi lâu, nhưng chỉ đợi được khuôn mặt sầu khổ của Phiền Tế Cảnh. “Ngươi dao động rồi?” Hoa Hoài Tú mừng rỡ. Phiền Tế Cảnh chậm rãi ngẩng đầu, mi đầu giãn ra, nói: “Ý nghĩ của ta trước sau không đổi.” Hoa Hoài Tú thở dài. Hắn chính không có thay đổi. “Huống chi, giết ngươi là sai.” “Bộ Lâu Liêm là chưởng môn một phái.” Hoa Hoài Tú nói, “Ví dụ như sư đệ ngươi, biết rõ chuyện sư phụ ngươi dạy võ công như vậy, nhưng cũng chỉ giận mà không dám nói gì. Không chỉ không thể vạch trần chân tướng, lại còn phải thời thời khắc khắc đề phòng sư phụ ngươi hạ độc thủ tiếp. Nếu như hắn là hung thủ, chẳng lẽ làm như vậy không phải là để tự bảo vệ mình?” Phiền Tế Cảnh nói: “Thế nhưng sư phụ vì sao phải giết hắn?” “Kỳ thực có một câu ta không biết có nên nói cho ngươi nghe hay không.” Hoa Hoài Tú chậm rãi nói. Phiền Tế Cảnh hai mắt sáng ngời nhìn y. “Chỉ sợ ta nói ra lại làm ngươi tức giận.” Ánh mắt Phiền Tế Cảnh có hơi buồn bã nói: “Ngươi lại muốn nói xấu sư phụ sao?” Hoa Hoài Tú nghe hắn nói xong, không khỏi nâng cằm ngẫm xem bản thân đến tột cùng là đã nói xấu nhiều hay ít. “Nếu là đối án tử hữu dụng...” Phiền Tế Cảnh đấu tranh, “Thì nói ngắn gọn chút.” Hoa Hoài Tú một bên suy nghĩ ngắn gọn chừng mực, một bên chậm rãi nói: “Ta chỉ là nghĩ, nếu như là hai người có ân oán, như vậy có thể là trong đó một người là có lỗi, cũng có thể là song phương đều sai. Thế nhưng nếu như nhiều người đối với một người đều có ân oán, như vậy, sai khả năng là do người kia.” Phiền Tế Cảnh nghe y nói lòng vòng, lòng vòng đến mức hồ đồ rồi, “Ý của biểu ca là?” “Tính tình của sư phụ ngươi có thể là...” Hoa Hoài Tú nhớ hắn nói qua muốn nói ngắn gọn, vì vậy hơn nửa ngày mới tìm được từ nói. “Có thể là không được hoan nghênh.” Phiền Tế Cảnh hờ hững. Hoa Hoài Tú nói: “Chí ít hiện giờ chúng ta biết được, năm sư huynh đệ các ngươi trừ ngươi ra, đều có động cơ giết hắn. Mà hai vị sư thúc của ngươi tuy rằng luôn miệng nói muốn tìm ra hung thủ, thế nhưng xem ngôn hành cử chỉ của bọn họ, cũng không phải thật tình là muốn thay sư phụ ngươi chủ trì công đạo, tựa như là...” “Tựa như là gì?” Hoa Hoài Tú trầm ngâm nói: “Như là ngư ông.” “Ngư ông?” “Trai cò đánh nhau, ngư ông đắc lợi.” Hoa Hoài Tú nói. “Hiện cò đã ăn thịt trai, mà ngư ông có thể tùy thời bắt được cò.” “Sư thúc bọn họ...” Phiền Tế Cảnh nghĩ muốn biện giải gì đó, rồi lại nghĩ bản thân không thể nào biện giải nổi. Hoa Hoài Tú suy nghĩ một chút, đột nhiên nói: “Được rồi. Ta nhớ ngươi nói ngươi có ba vị sư thúc, một người nữa đâu?” “Người còn lại là Biển sư thúc. Hắn từ khi ta còn rất nhỏ đã bế quan không ra, không để ý tới việc thế tục nữa rồi.” Phiền Tế Cảnh nhíu mày giải thích. “Ngươi có biết vì sao không?” Hoa Hoài Tú đột nhiên có loại cảm giác nói không nên lời. Giống như mỗi một sự việc trong Cửu Hoa phái đều có liên quan đến cái chết của Bộ Lâu Liêm. Khi hắn còn sống, từng việc một đều như hạt giống bị chôn dưới đất, chờ hắn vừa chết, liền thi nhau đâm chồi nảy mầm. Phiền Tế Cảnh nói: “Sư phụ nói Biển sư thúc trời sinh dữ thế vô tranh [3], sở dĩ không thích ở lại trong môn phái.” “Môn phái các ngươi có gì hảo tranh chứ?” Hoa Hoài Tú nghĩ những lời của Bộ Lâu Liêm bên trong có vấn đề. Phiền Tế Cảnh lần đầu nghe Bộ Lâu Liêm nói những lời này còn chưa cảm thấy gì, hôm nay bị Hoa Hoài Tú nói như vậy, cũng hiểu được có vài phần cổ quái. Hoa Hoài Tú lắc đầu nói: “Ta nghĩ cuối cùng chúng ta cũng không nắm được đầu mối chính xác nào cả.” “Đầu mối chính xác?” “Tỷ như...” Y dừng một chút nói, “Hung thủ đến tột cùng là có bao nhiêu người.” Phiền Tế Cảnh sửng sốt. “Lại tỷ như...” Một đệ tử canh giữ Cửu Hoa Sơn vội vã đi tới nói: “Phiền sư huynh, Hoa công tử.” Phiền Tế Cảnh gần đây có chút thần hồn nát thần tính [4], khẩn trương nói: “Xảy ra chuyện gì sao?” Đệ tử trông giữ Cửu Hoa Sơn nói: “Bên ngoài có vị cô nương muốn tìm Hoa công tử.” “Cô nương?” Khuôn mặt xinh đẹp tuyệt trần của Hoa Hoài Tú nhăn lại. Phiền Tế Cảnh hỏi: “Vị cô nương đó họ gì?” Đệ tử canh giữ Cửu Hoa Sơn đáp: “Lữ.” ============================================================== [1] Ngôn bất do trung 言不由衷: nghĩ một đằng nói một nẻo. Ngôn bất do trung, chất vô ích dã. Câu thành ngữ này xuất phát từ “Tả truyện – Ẩn Công tam niên”. Dương Bá Tuấn ghi rằng “Nhânngôn vi tín, trung đồng trung”. 言不由衷 Ngôn bất do trung 春秋时期,诸侯郑国的实力强大,郑庄公任周朝的卿士,执掌朝廷大权。他凭借自己的势力和地位,不把周天子放在眼里。当时任天子的周平王,是一个软弱无能的人,他不得不依靠郑庄公处理郑朝政,却有对号公忌父十分相信,想让他代替郑庄公处理朝政。 Thời kỳ Xuân Thu, chư hầu của nhà Chu là nước Trịnh thực lực rất cường đại, Trịnh Trang Công được làm khanh sĩ trong triều đình nhà Chu, chấp chưởng quyền lực to lớn trong triều đình. Trịnh Trang Công dựa vào thế lực và địa vị của mình, thường tỏ ra chuyên quyền, không để Chu thiên tử vào mắt. Lúc đó thiên tử là Chu Bình Vương, là một thiên tử mềm yếu và vô năng, Chu Bình Vương nhân lúc Trịnh Trang Công phải lo xử lý việc triều chính của Trịnh quốc, Chu vương đã muốn đưa Quắc Công Kỵ Phụ là người mà Chu vương thập phần tin tưởng, thay thế chỗ của Trịnh Trang Công xử lý triều chính nhà Chu. 郑庄公知道这件事后,对周平王特别不满。周平王非常害怕,赶紧向郑庄公解释说,他没有让忌父取代郑庄公的想法。为了取得郑庄公的信任,他和郑庄公互换人质,让周太子狐到郑国去作人质,而郑公子忽则到周朝来做人质。 Sau đó, khi Trịnh Trang Công biết việc này đã đối Chu Bình Vương rất bất mãn. Chu Bình Vương phi thường sợ hãi, đã vội vàng hướng Trịnh Trang Công giải thích là, mình không có ý tìm cách cho Kỵ Phụ thay thế Trịnh Trang Công. Để làm cho Trịnh Trang Công tín nhiệm, Chu vương đã cùng Trịnh Trang Công thương lượng trao đổi con tin, cho Chu thái tử Cơ Duệ Phụ tới Trịnh quốc làm con tin, và ngược lại, Trịnh Hốt là con cả Trịnh Trang Công sang nhà Chu làm con tin. 公元前720年,周平王死去,他的孙子姬林继位。称周桓王。周桓王也想让忌父代替郑庄公当卿士掌管朝政。郑庄公知道后大怒,派大夫祭足领兵马,到周朝的温地收割麦子,并全部运送到郑国。到了秋天,祭足又带领兵马到周朝成周,把那里的谷子全部割掉,运回郑国。从此,两国之间的关系愈加恶化,彼此间结下了仇恨。 Năm 720 TCN, Chu Bình Vương mất, cháu nội của Chu Bình Vương là Cơ Lâm lên kế vị. Hiệu Chu Hoàn Vương. Chu Hoàn Vương cũng muốn để Kỵ Phụ thay thế Trịnh Trang Công làm khanh sĩ, chưởng quản triều chính. Trịnh Trang Công biết nên đã rất giận dữ, phái Đại phu Tế Túc lĩnh binh mã, đến đồng ruộng của nhà Chu lúc đang mùa thu hoạch lúa mạch, đem toàn bộ vận chuyển về Trịnh quốc. Khi tới mùa thu, Tế Đủ lại đem binh mã kéo vào thành của nhà Chu, những nơi nào có ngũ cốc, toàn bộ đều lấy hết, đem về nước Trịnh. Từ đó về sau, quan hệ lưỡng quốc ngày càng chuyển biến xấu đi, hình thành cừu hận. 解释: 由:从;衷:内心。话不是打心眼里说出来的,即说的不是真心话。指心口不一致。 Giải thích: do: tòng (tuân theo); trung: nội tâm (cũng có thể hiểu là trung với thiên tử). Nói điều không phải trong tâm tư, tức là nói không thật tâm. Tâm và lời nói bất nhất. Ở tích trên, Chu Bình Vương nhu nhược, hèn yếu, Trịnh Trang Công chuyên quyền lấn lướt thiên tử, cả hai đều muốn lật đổ người kia nhưng còn e ngại lẫn nhau. Trịnh Trang Công không trung với vua. Thiên tử lòng muốn mà miệng nói khác. Dân gian dùng [2] Nhân tử đăng diệt 人死灯灭: người chết thì đèn cũng tắt. Ý là người đã chết rồi thì mọi việc cũng tốt nhất nên cho qua đi. [3] Dữ thế vô tranh 与世无争: không tranh với đời. Đây là một loại thái độ xử thế tiêu cực lảng tránh mâu thuẫn. Cũng là một mục tiêu hướng tới của con người, một thái độ xử thế vô cùng lạc quan. Câu trên xuất xứ từ Chiến Quốc sách – cuốn tứ,Sở sách (楚策): “Tự dĩ vi vô hoạn, dữ nhân vô tranh dã”. TRANG TÂN DÙNG NGỤ NGÔN KHUYÊN SỞ TƯƠNG VƯƠNG(Trang Tân vị Tương Vương) Trang Tân bảo Sở Tương Vương (1): – Nhà vua (ngồi xe) bên tả có Châu Hầu, bên hữu có Hạ Hầu; sau xe có Yên Lăng Quân và Thọ Lăng Quân (2). Bốn người đó chuyên dâm loạn, xa xỉ, không lo việc nước, Dĩnh đô (3) tất nguy mất. Tương Vương bảo: – Tiên sinh già rồi lẫn chăng? Hay là muốn rủa Sở đấy? Trang Tân đáp: – Tôi thực tâm thấy tất nhiên phải như vậy, không dám rủa nước Sở. Nếu nhà vua cứ sủng ái bốn người đó mãi như vậy, thì Sở tất mất! Tôi xin được lánh qua Triệu, ở đó một thời gian để quan sát những biến cố của Sở. Trang Tân qua Triệu ở năm tháng. Quả nhiên Tần chiếm những đất Yên, Dĩnh, Vu, Thượng Thái, Trần của Sở, Tương Vương phải chạy trốn (4) tới Thành Dương, sai người kỵ mã dẫn đường qua Triệu đón Trang Tân. Trang Tân bằng lòng đi. Trang Tân tới. Tương Vương bảo: – Quả nhân không biết dùng lời khuyên của tiên sinh, nay sự thể đã như vậy, làm sao bây giờ? (5) Trang Tân đáp: – Tôi nghe tục ngữ có câu: “Thấy thỏ rồi mới nghĩ tới chó săn, cũng không phải là muộn; mất bò rồi mới lo rào chuồng cũng chưa phải trễ”. Tôi nghe nói xưa kia vua Thang, vua Vũ chỉ có trăm dặm đất mà hưng thịnh lên được; vua Kiệt, vua Trụ có cả thiên hạ mà bị nguy vong. Hiện nay nước Sở tuy nhỏ, cắt chỗ dài bù vào chỗ ngắn thì cũng còn được vài ngàn dặm, chứ nào phải trăm dặm mà thôi. (6) Nhà vua không thấy con chuồn chuồn kia ư? Nó có sáu chân, bốn cánh, bay lượn giữa khoảng trời đất, cúi mổ con muỗi, con ruồi để ăn, ngửa hứng nước sương ngọt ngào để uống, tự cho rằng chẳng lo lắng gì cả, vì không cạnh tranh gì với ai; có ngờ đâu một đứa nhỏ cao năm thước lấy mật làm keo bôi vào tơ, cột ở đầu cái gậy dài bốn nhẫn (7) mà bắt được con chuồn chuồn, chuồn chuồn rơi xuống đất, vị kiến ăn thịt. Con chuồn chuồn là vật nhỏ. Đến như con chim sẻ vàng kia, cúi thì mổ những hạt gạo trắng, ngửa (8) thì đậu ở trên cây rậm rạp, hăng hái vỗ cánh, tự cho rằng chẳng lo gì cả vì không cạnh tranh với ai; có ngờ đâu rằng có cậu công tử vương tôn nọ, tay trái giương ná, tay phải cầm đạn, bắn nó ở chỗ cao mười nhẫn, đem về làm chim mồi bắt chim sẻ khác; ban sáng nó còn bay nhảy trên cây rậm mà tối đã bị xào nấu với muối dấm, chỉ trong khoảnh khắc đã bị rớt vào tay cậu công tử nọ. Con sẻ còn là vật nhỏ. Đến như con hộc (9) vàng kia bay lượn trên sông biển, đậu ở cái đầm lớn, cúi thì mổ con lươn, con cá chép, ngửa thì ăn củ ấu, cây hoành (10), hăng hái vỗ cánh chẳng lo lắng gì cả vì không cạnh tranh với ai. Có ngờ đâu người thợ săn sửa soạn mũi tên và cây cung, buộc sợi dây tơ vào cây tên (11), bắn nó ở chỗ cao trăm nhẫn, nó bị trúng mũi tên nhọn, bị sợi tơ kéo về (phía người thợ săn) và rớt xuống đất trong luồng gió mát; ban sáng còn bay lượn trên sông biển mà buổi tối đã bị nấu nướng trong cái đỉnh cái vạc rồi. Con hộc vàng còn nhỏ. Đến như việc Thái Linh Hầu (12) thì cũng vậy. Phía nam ông ta chơi miền Cao Pha (13), phía bắc ông ta leo núi Vu Sơn, uống nước suối Như Khuê, ăn cá sông Tương, tay trái ôm hầu non, tay phải đỡ ái thiếp, cùng với họ dong ruổi ở trong miền Cao Thái mà không lo gì việc nước cả. Có ngờ đâu rằng Tử Phát (14) được lệnh của Sở Tuyên Vương (15), bắt trói ông ta bằng dây tơ đỏ, đem về cho Tuyên Vương. Việc Thái Linh Hầu còn là nhỏ. Đến việc của nhà vua; ngồi xe, bên trái có Châu Hầu, bên phải có Hạ Hầu, sau xe có Yên Lăng Quân và Thọ Lăng Quân, ăn lúa gạo của đất được vua phong, chở vàng trong kho do bốn phương tiến cống, cùng với bọn đó rong ruổi ở miền Vân Mộng, mà không lo gì việc quốc gia thiên hạ cả. Có ngờ đâu rằng Nhương Hầu phụng mệnh vua Tần (16), đem binh lại đóng đầy trong thành Mãnh Tái mà nhà vua phải trốn ra khỏi thành đó (17). Tương Vương nghe xong, mặt tái mét, toàn thân run rẩy, rồi cầm viên ngọc khuê trao cho Trang Tân, phong Trang Tân làm Dương Lăng Quân, và cho hưởng đất Hoài Bắc (18). (1) Trong bộ Tuân Tử chép là Sở Trang Vương, có lẽ sai. Vì Trang Tân là hậu duệ của Trang Vương. Việc này xảy ra trong đời Chu Noản Vương. [Sở Tương Vương tức Sở Khoảnh Tương Vương (298 tr.T.L-263 tr.T.L.]. (2) Châu, Hạ là những nơi thuộc Hồ Bắc; Yên Lăng nay thuộc Hồ Nam, còn Thọ Lăng thì không biết ở đâu. Bốn nơi đó là đất phong cho bốn sủng thần của Sở Tương Vương. (3) Dĩnh đô: chỉ kinh đô nước Sở. (4) Nguyên văn: có chữ yểm là che. Crump dịch là chống giữ. (5) Cổ văn quan chỉ trích từ đây. (6) Margoulies dịch từ đây. (7) Mỗi nhẫn tám thước. (8) Chữ cúi, ngửa ở đây có nghĩa là ở dưới thấp, ở trên cao. (9) Hộc là một loài chim giống con nhạn. (10) Một loại cỏ thơm. (11) Để kéo cây tên về, khi đã bắn xong. (12) Không rõ ai. (13) Có sách giải thích là gò núi. (14) Tử Phát: là đại phu nước Sở. Trong Tả truyện và Sử ký, gọi là công tử Khí Tật. (15) Có lẽ là Sở Linh Vương thì phải hơn. (16) Tức Tần Chiêu Vương. (17) Cổ văn quan chỉ và Margoulies trích tới đây. (18) Nguyên văn: dữ Hoài Bắc chi địa dã. Diệp Ngọc Lân dịch là: dùng kế hoạch của Trang Tân mà khôi phục được miền Hoài Bắc. (Trích từ CHIẾN QUỐC SÁCH, Chú dịch và giới thiệu: Giản Chi – Nguyễn Hiến Lê, Nhà xuất bản: Từ điển Bách khoa, Năm xuất bản: 2006, Số trang: 496) Chú giải: ở đây chúng ta thấy có sự xuất hiện của câu “Tự dĩ vi vô hoạn, dữ nhân vô tranh dã”, tức là việc Trang Tân dùng ví dụ những con chuồn chuồn, con chim sẻ vàng, con nhạn vàng để diễn tả sự tưởng chừng như vô tranh với ai, nhưng cuối cùng lại bị diệt thân. Nhân gian dùng tích trên để miêu tả việc tích cực cũng như tiêu cực của “Dữ thế vô tranh”. [4] nguyên văn Thảo mộc giai binh 草木皆兵: tương tự như câu thần hồn nát thần tính, trông gà hóa cuốc. Ý nghĩa của câu thành ngữ này là cỏ cây đều là binh lính. Sau đây là một chút lịch sử của câu thành ngữ trên: “Phong thanh hạc lệ, thảo mộc giai binh” có xuất xứ lịch sử từ một trận đánh nổi tiếng, Trận Phì Thủy. Trận Phì Thủy (Phì Thủy chi chiến: 淝水之戰) là trận đánh nổi tiếng năm 383 thời Đông Tấn – Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung Quốc giữa quân Tiền Tần và quân Đông Tấn. Gần 100 vạn quân Tiền Tần gồm nhiều sắc tộc Ngũ Hồ và Hán, dưới sự chỉ huy của vua Tiền Tần Phù Kiên vừa thống nhất miền bắc đi thân chinh, cuối cùng bị quân Đông Tấn dưới sự chỉ huy của Tạ Huyền, đánh cho đại bại. (nước Tiền Tần ở đây không phải là nước Tần của Tần Thủy Hoàng thời Chiến Quốc). Tiền Tần lúc này đang rất mạnh, thế lực dần bành trướng, tiêu diệt các nước Hồ, diệt nước Đại, thống nhất toàn miền bắc Trung Quốc. Phù Kiên thu dụng nhiều tướng sĩ các tộc Ngũ Hồ khác thành một đội quân đông đảo. Phù Kiên rất tự tin vào sức mạnh của mình, nên quyết ý nam tiến, muốn tấn công nhà Đông Tấn. Tháng 8 năm 383, Phù Kiên dẫn quân xuống phía nam. Cả đoàn quân Tiền Tần hùng mạnh hành quân kéo dài hàng ngàn dặm. Triều đình Đông Tấn quyết định cử Tạ Huyền làm Đô đốc tiên phong. Lúc này, quân Tiền Tần rất đông đảo và dũng mãnh, quân Đông Tấn kém hơn. Trước thế mạnh của quân Tần, Tạ Huyền và Tạ Thạch dựng trại cách Lạc Gián khoảng 25 dặm, không thể tiến lên nữa. Còn Phù Kiên để lại phần lớn quân ở lại Thuận Thành, còn mình tự dẫn 8000 kỵ binh đến Thọ Dương. Bấy giờ, Tạ Huyền dùng kế, sai Lưu Lao Chi mang 5000 quân đến Lạc Gián, lợi dụng đêm tối và tình thế sông nước, làm chủ phía tây Lạc Gián. Phù Kiên đứng trên núi Bát Công thấy quân Đông Tấn dũng mãnh bắt đầu lo lắng, bèn sai bộ tướng của Phù Dung là Kỳ Liệt mang quân đóng ở bờ bắc sông Phì Thủy. Tạ Huyền bèn sai sứ đến nói với Phù Dung rằng: Ông là người tinh thông binh pháp, vậy lại dàn quân ngay mặt trước, như thế là có ý lưu lại đánh lâu ngày, không muốn thắng nhanh. Chi bằng hãy lui lại phía sau một ít để quân tôi qua sông, quyết một trận sống mái cho xong! Phù Kiên muốn nhân lúc quân Đông Tấn qua nửa chừng thì đánh úp nên chấp thuận đề nghị đó trong khi các tướng Tiền Tần phản đối. Phù Dung tán đồng ý kiến của anh, bèn hạ lệnh cho quân lui lại để chờ quân Đông Tấn. Quân Tiền Tần đông, rút lui dần dần loạn đội hình. Hàng tướng Chu Tự cầm 1 cánh quân, nhân đó hô to: Quân Tần thua to rồi! Quân Tiền Tần nghe vậy hoảng loạn, tranh nhau chạy trốn, Phù Dung không ngăn lại được. Tạ Huyền thừa cơ thúc quân qua sông tấn công vào quân Tiền Tần. Các tướng Tạ Diễm, Hoàn Y xung trận, quân Tiền Tần bị giết rất nhiều. Phù Dung ngã ngựa chết trong đám loạn quân. Tạ Huyền thừa thắng đuổi theo quân Tiền Tần đến tận huyện Thọ, thu được chiếc xe vân mẫu của Phù Kiên cùng rất nhiều khí giới và 10 vạn con trâu, bò, ngựa; sau đó lấy lại thành Thọ Xuân. Phù Kiên dẫn tàn quân chạy về Hoài Bắc. Trận Phì Thủy là trận lớn nhất thời Ngũ Hồ thập lục quốc, quyết định cục diện đối lập nam bắc. Trận đánh quyết định sự tồn vong của nhà Đông Tấn vốn đã suy yếu vì loạn Ngũ Hồ, làm tan rã nhanh chóng đế quốc Tiền Tần hùng mạnh vừa được xác lập. Như vậy, chỉ sau một thời gian rất ngắn sau trận Phì Thuỷ, miền bắc lại bị chia cắt trở lại, trên bản đồ phía bắc có sự tồn tại của 7 quốc gia. Bản thân Phù Kiên không sao lập lại được thế thống nhất như trước đây. Không chống nổi sự trỗi dậy các bộ tộc, Phù Kiên bị vua Hậu Tần là Diệu Tràng bắt giết năm 385. Từ các sự kiện của trận Phì Thủy người Trung Quốc đã sáng tác một câu thành ngữ nổi tiếng: 風聲鶴唳草木皆兵 Phong thanh hạc lệ, thảo mộc giai binh Câu thành ngữ này để chỉ quân Tiền Tần khi rút chạy sợ hãi đến mức nghe tiếng gió rít (phong thanh), hạc kêu (hạc lệ), nhìn thấy cây cỏ (thảo mộc) mà cũng tưởng là quân Đông Tấn đang đuổi theo mình. Sau này thành ngữ này thường được sử dụng chỉ lúc hoang mang, trông gà hóa cuốc.
|