Phồn Hoa Ánh Tình Không
|
|
Nội Dung Truyện : Phồn Hoa Ánh Tình Không
Tác Giả :Tô Du Bính
Edit: Fantasia Sango
Beta: nao-chan
Thể loại: cổ đại, giang hồ, võ hiệp, hài.
Vị chưởng môn Cửu Hoa chết một cách ly kỳ không rõ nguyên nhân. Tên hung thủ vô cùng bí ẩn. Chức vị trưởng môn không ai đảm nhiệm. Cuối cùng ai mới là người cười, gạt bỏ mây đen nhìn trời quang.
|
Quyển 1 - Chương 1-1: Tiết tử
Đây là hai phần mộ mới. Thế nhưng tại nơi bia mộ như rừng như biển này thì không thể nhận thấy được. Chỉ thấy trước mộ có một tiểu nam hài, khoảng năm, sáu tuổi, trên mặt đã có vẻ thành thục trước tuổi. Hắn quỳ ở nơi đó đã lâu, lâu đến mức hai chân đã cùng với bùn đất thành một thể. Ba tháp ba tháp. (SFX: tiếng đồ vật va chạm) Từ phía sau hắn truyền đến tiếng bước chân. Một nam hài xấp xỉ tuổi hắn xách một cái giỏ nhỏ đan bằng tre, từng bước đi tới. “Phiền Tế Cảnh, cha ta nói ta tới đưa cơm cho ngươi.” Sau đó tiểu nam hài đem cái giỏ đặt trước mặt hắn. “Phiền Tế Cảnh, ngươi có nghe ta nói không vậy?” Tiểu nam hài đẩy đẩy vai Phiền Tế Cảnh. Phiền Tế Cảnh đột nhiên vươn tay, chỉ vào phần mộ bên trái nói: “Đây là cha ta.” Tay của tiểu nam hài dừng lại. Phiền Tế Cảnh lại đưa tay chỉ sang bên phải, “Đây là mẹ ta.” Tiểu nam hài sỏa hồ hồ (ngây ngốc) đứng bên cạnh. Phiền Tế Cảnh rút tay về, kế tục trầm mặc quỳ. Tiểu nam hài đột nhiên ngồi xuống, đưa tay ôm bờ vai hắn, nói: “Người xưa viết: nhân sinh tự cổ thùy vô tử [1]… Ôn cố nhi tri tân [2], ách, phương tri, phương tri (hiểu biết)… Tình đáo thâm xử (tình cảm sâu đậm)… Thuyền đình bạc [3]. Những lời này nói cho chúng ta, mọi người đều sẽ chết, cha mẹ cũng sẽ chết, ách, chúng ta nhớ tới họ, thế nhưng cũng phải bảo trọng bản thân. Cha ta thường nói, ‘cựu đích bất khứ tân đích bất lai’ [4], cho nên ngươi không nên quá đau buồn.” Y nói xong, phát hiện Phiền Tế Cảnh đang trừng mắt nhìn mình, mặt không khỏi có chút đỏ, “Ta nói đều là lão sư dạy. Lão sư nói, đều là thánh nhân dạy, đều là đạo lý.” Phiền Tế Cảnh không nói gì nhìn y. Y bị nhìn thẹn quá hóa giận, “Ngươi không tin thì tự đi mà nhìn thư! Cha ta nói, người thông minh đều là đọc thư mà ra. Kẻ ngu ngốc mới động đao động thương.” “Khái khái.” Phía sau y truyền đến tiếng ho khan. Tiểu nam hài quay đầu lại nhìn, lập tức rụt đầu lại, cẩn thận trạc trạc vai Phiền Tế Cảnh nói: “Cha ta cùng sư bá ngươi tới.” Thân thể Phiền Tế Cảnh khẽ run. “Ngươi đang hồ ngôn loạn ngữ cái gì?” Khuôn mặt tuấn mỹ của Hoa Vân Hải nhăn lại. Tiểu nam hài lúng túng nói: “Nhi tử hiện đang an ủi hắn.” “Thật không?” Hoa Vân Hải đem âm cuối kéo dài. Tiểu nam hài liều mạng gật đầu. Hoa Vân Hải thở dài, quay sang Bộ Lâu Liêm bên cạnh nói: “Khuyển tử si ngoan [5], khiến Bộ chưởng môn chê cười.” Bộ Lâu Liêm thản nhiên nói: “Hoa đại hiệp khách khí.” Hoa Vân Hải đối với thái độ ôn hòa của hắn không lưu tâm, hướng về Phiền Tế Cảnh nói: “Tế Cảnh, ngươi tới.” Phiền Tế Cảnh hơi nhắm mắt, chậm rãi đứng lên xoay người, đầu vẫn cúi thấp. Hoa Vân Hải nói: “Ta đã cùng Bộ chưởng môn thương lượng. Ngươi tuy là nhi tử của Vân Khê, nhưng xuất giá tòng phu [6], Vân Khê đã gả nhập Phiền gia, từ đấy về sau đã là người của Phiền gia. Cho nên, ngươi nên cùng với đại sư bá ngươi hồi Cửu Hoa phái.” Hắn nói xong, liền hướng Bộ Lâu Liêm chắp tay nói, “Sau này đành phiền Bộ chưởng môn quản giáo.” “Đâu có.” Bộ Lâu Liêm sắc mặt hòa hoãn, đối Phiền Tế Cảnh nói, “Ta cùng phụ thân ngươi tuy là sư huynh đệ, nhưng tình cảm còn thân hơn thân huynh đệ. Từ nay về sau, ta sẽ coi ngươi là thân sinh nhi tử dưỡng dục tài bồi, quyết không phụ linh hồn phụ mẫu ngươi trên trời. Nhưng sau này ngươi không được khóc nữa. Nam tử hán đại trượng phu, phải đỉnh thiên lập địa, quang minh lỗi lạc, mới không thẹn với trời đất [7].” Khóe miệng Phiền Tế Cảnh khẽ nhếch, chậm rãi ngẩng đầu, hai mắt đã khô không còn nước mắt. “Tế Cảnh cẩn tuân giáo huấn của sư bá.” ——————————————————————————————————— Vậy là tiết tử của PHATK cũng đã được tung ra. Trong tuần tới sẽ bắt đầu nhả hàng lại dần ;x ~phần chú thích này credit cho beta nao-chan ;x nàng đã trở lại sau bao ngày bị bắt cóc ;x~ và đã dội bom chúng ta bằng phần chú thích vô cùng chi tiết và khổng lồ này ; ; [1] Nhân sinh tự cổ thùy vô tử: Xưa nay hỏi có ai không chết? Câu thơ này thường được sử dụng thành cặp trong: 人 生 自 古 誰 無 死 Nhân sinh tự cổ thùy vô tử Xưa nay hỏi có ai không chết? 留 取 丹 心 照 汗 青 Lưu thủ đan tâm (1) chiếu hãn thanh (2) Hãy để lòng son chiếu sử xanh (1) Đan tâm: lòng trung với vua (2) Hãn thanh: sử sách. Thanh: xanh; hãn thanh là tre xanh, hơ lửa cho chảy nước ra, đời xưa chưa có giấy dùng để viết, chỉ có viết trên thẻ tre. Bởi vậy dùng hai chữ ấy để nói sử sách. Chữ nho có chữ “thanh sử 青史“, ta dịch là “sử xanh”, cũng do chữ ấy mà ra. Hai câu thơ trên được trích trong bài thơ rất nổi tiếng Quá Linh Đinh Dương (過零丁洋) của Văn Thiên Tường. Khi ông bị quân Nguyên bắt giam, ép dụ thân thuộc ra đầu hàng. Văn Thiên Tường không chịu, làm bài thơ này, quân Nguyên đọc xong không nỡ ép, lại đối xử tử tế. Văn Thiên Tường (文天祥, 06/06/1236 – 09/01/1283), ông xuất thân từ Cát Châu Lô Lăng (吉州廬陵), bây giờ là huyện Cát An, tỉnh Giang Tây, ông là thừa tướng thời Tống mạt (nhà Nam Tống), là một thi sĩ nổi tiếng và là anh hùng dân tộc của Trung Hoa. Ông cùng với Lục Tú Phu và Trương Thế Kiệt được sử Trung Quốc gọi là “Tống vong tam kiệt” (ba bậc hào kiệt lúc nhà Tống mất). Văn chương của Văn Thiên Tường có lời lẽ hùng tráng, khảng khái, hào hùng của kẻ sĩ trong thời nước nhà lâm nạn, khí tiết của Văn Thiên Tường ảnh hưởng rất nhiều đến sĩ phu đời sau. Sau đây là bài thơ gốc Quá Linh Đinh Dương của Văn Thiên Tường:
|
Quyển 1 - Chương 1-2: Chân hung vị minh (nhất)
Lam Diễm Minh tàn sát giang hồ đã lâu, rốt cục kích thích bạch đạo công phẫn. Huy Hoàng môn Kỷ Vô Địch dựa vào sự chi trì của Vũ Đương Lăng Vân đạo trưởng, Thiếu Lâm Từ Ân phương trượng, hiệu triệu bạch đạo võ lâm đồng đạo, tiến hành một đợt tiêu diệt Lam Diễm Minh. Phiền Tế Cảnh là đại biểu tham dự của Cửu Hoa phái, cùng với bạch đạo đồng đạo đạt được thắng lợi to lớn. Từ nay về sau, Lam Diễm Minh trở thành giang hồ tà ác truyền thuyết, bạch đạo chúng nhân sau khi khải hoàn trở về liền thu thập bao phục hồi gia. Phiến Tế Cảnh sau gần hai tháng đi đường, cuối cùng đã về tới Cửu Hoa Sơn. Hắn vừa bước chân vào đại môn Cửu Hoa phái, liền nhìn thấy nhị sư thúc Tống Bách Lâm và ngũ sư thúc Ngô Thường Bác vẻ mặt ngưng trọng đứng đó. “Nhị sư thúc, ngũ sư thúc.” Phiền Tế Cảnh lưng đeo bao phục, cung kính hành lễ. “Ngươi biết rồi sao?” Tống Bách Lâm trầm giọng nói. Phiền Tế Cảnh ngây người, nghi hoặc hỏi: “Không biết nhị sư thúc đang nói đến chuyện gì?” “Sư phụ ngươi đã chết.” ... Không hề có báo trước cùng trì hoãn, cái gọi là tình thiên phích lịch [1] bất quá cũng chỉ như vậy. Phiền Tế Cảnh cả người như bị sét đánh, nhất thời không có phản ứng. Ngô Thường Bác tức giận nói: “Nhị sư huynh, ngươi quá trực tiếp rồi.” Tống Bách Lâm dùng khóe mắt nhìn hắn, “Không ngươi nghĩ nên nói thế nào?” Ngô Thường Bác vội ho một tiếng, kéo dài thanh âm nói: “Tế Cảnh a.” Phiền Tế Cảnh có điểm phản ứng, mê man nhìn hắn, nhãn thần mơ hồ mang theo chờ mong, chờ mong hắn bác bỏ những gì Tống Bách Lâm nói. “Sư phụ ngươi đã chết.” ... Phiền Tế Cảnh lại bị sét đánh trúng lần nữa. Khóe mắt Tống Bách Lâm giật giật, “Ngươi nói với ta nói có gì khác nhau?” Ngô Thường Bác nói: “Ta gọi tên hắn, nhượng hắn cảm nhận được sự quan tâm của ta dành cho hắn.” Tống Bách Lâm chỉ vào Phiền Tế Cảnh vẫn còn chưa hoàn hồn nói: “Vậy hắn hiện giờ với khi nãy có gì khác biệt?” Ngô Thường Bác nói: “Hắn vừa rồi là khiếp sợ, hiện tại là cảm động.” “Ngươi cường từ đoạt lý [2].” “Ngươi vô lý thủ nháo [3].” “Ngươi xảo ngôn lệnh sắc [4].” “Ngươi tham đồ mỹ sắc [5].” Tống Bách Lâm tức đến mức râu thiếu chút nữa vểnh lên, “Ta lúc nào tham đồ mỹ sắc?” Ngô Thường Bác hừ lạnh nói: “Ta lúc nào xảo ngôn lệnh sắc?” “Ngươi hiện tại chính là như vậy!” “Ta...” “Nhị sư thúc, ngũ sư thúc...” “Chuyện gì?” Tống Bách Lâm và Ngô Thường Bác tức giận quay đầu lại nhìn hắn. Phiền Tế Cảnh chớp mắt, chậm rãi mở miệng nói, “Sư phụ ta chết như thế nào?” Sắc mặt Tống Bách Lâm tối sầm nói: “Là bị người giết.” “Ngươi nói thật dễ nghe.” Ngô Thường Bác lập tức bổ sung nói, “Lúc thích khách ám sát, hắn không tránh được một kiếm tại cổ, lại không tìm được thứ gì để chặn miệng vết thương, không may mất máu quá nhiều... Ai.” Phiền Tế Cảnh nói: “Thế nhưng võ công của sư phụ rất cao, giang hồ danh liệt tiền mao [6], năm xưa ngay đến Vũ Đương Lăng Vân đạo trưởng từng khen ngợi Tiên Liên kiếm pháp của sư phụ là thiên hạ độc bộ [7]. Từ Ân phương trượng cũng từng...” “Được rồi được rồi. Ngươi trở về sao lại biến thành nói nhiều như vậy.” Tống Bách Lâm lạnh lùng nói, “Sư phụ ngươi là bị ám sát chết. Đối phương dùng chính là Tiên Liên kiếm pháp mà Lăng Vân đạo trưởng khen không ngớt.” Ngô Thường Bác khó có dịp không phản bác, phụ họa nói: “Sư phụ ngươi vừa đem Tiên Liên kiếm pháp truyền cho ba y bát truyền nhân [8], liền bị Tiên Liên kiếm pháp ám sát. Điều này làm cho chúng ta hoài nghi...” Hắn kéo dài âm cuối, Phiền Tế Cảnh quả nhiên truy vấn hỏi: “Hoài nghi cái gì?” Tống Bách Lâm nói: “Hoài nghi hung thủ chính là người trong phái.” Phiền Tế Cảnh thất sắc nói: “Sao có khả năng?” Tống Bách Lâm nói: “Trừ sư phụ ngươi ra, hội Tiên Liên kiếm pháp chỉ có đại sư huynh ngươi Quan Tỉnh, nhị sư huynh Chu Liêu Đại và ngũ sư đệ Thi Kế Trung. Sư phụ ngươi đối với bọn họ vô cùng tín nhiệm, nếu một trong số họ đột nhiên xuất thủ...” Phiền Tế Cảnh nói: “Thế nhưng cũng không có khả năng thành công. Võ công sư phụ hơn xa các sư huynh đệ, dù là ám toán cũng khó mà thành công.” Ngô Thường Bác nói: “Một người khó có thể thành công, nhưng nếu là cả ba người bọn họ thì rất khó nói.” Phiền Tế Cảnh kinh hãi nhìn hắn: “Ngũ sư thúc, ý của ngươi là...” Ngô Thường Bác bĩu môi nói: “Trước khi tra ra chân tướng, tất cả đều là có thể.” Phiền Tế Cảnh nghiêm mặt nói: “Sư thúc nói thế sai rồi. Mọi việc đều phải dựa vào chứng cứ xác thực, huống chi đây là thí sư sát nhân đại sự. Ba người họ đáng nghi, nhưng nếu không phải do sư huynh đệ họ gây nên, để bọn họ chịu đựng lưu ngôn phi ngữ [9], sư thúc có thể yên lòng sao?” Ngô Thường Bác bị hắn nói vậy, trên khuôn mặt già nua hiện lên mạt ửng đỏ. Tống Bách Lâm hừ lạnh nói: “Nếu không phải bọn họ, còn ai hội Tiên Liên kiếm pháp?” Phiền Tế Cảnh nói: “Vật hữu tương tự [10], nói không chừng kiếm pháp của thích khách rất giống Tiên Liên kiếm pháp.” Tống Bách Lâm nói: “Sư huynh chết vì chiêu ‘Vãn hải cuồng triều’ của Tiên Liên kiếm pháp, ta tuyệt đối không nhìn lầm!” Ngô Thường Bác đột nhiên thanh thanh giọng. Tống Bách Lâm nhịn không được nói: “Ta thấy ngươi vừa trở về, sở dĩ nhắc nhở ngươi. Việc Quan Tỉnh bọn họ thí sư là điều chắc chắn, ngươi nên tự giải quyết cho tốt.” Hắn nói xong, liền phất tay áo rời đi. Ngô Thường Bác liếc mắt nhìn Phiền Tế Cảnh, tựa hồ muốn nói gì đó, nhưng cuối cùng chỉ thở dài, đi theo Tống Bách Lâm. Lúc trước là bởi vì nghĩ đến hung thủ, Phiền Tế Cảnh còn chưa cảm thấy gì. Giờ Ngô Thường Bác và Tống Bách Lâm vừa đi, nghĩ đến khi Bộ Lâu Liêm còn sống, đau đớn vì mất đi sư phụ như cuồng phong cuồn cuộn trong lòng, ngay cả khi bao phục từ trên vai trượt xuống cũng không phát giác. Không biết đã đứng bao lâu. Màn đêm dần buông xuống, ánh trăng trải dài khắp nơi. Có tiếng bước chân nhẹ nhàng từ bên trong truyền ra. Chốc lát. Thượng Quan Đinh Ninh từ hành lang ló đầu ra, nhỏ giọng nói: “Tam sư huynh.” Phiền Tế Cảnh hai mắt mờ mịt tìm kiếm hồi lâu, mới nhận ra hình bóng nàng hòa hợp trong bóng đêm. “Sư muội.” Đôi mắt hắn chợt trở nên trong trẻo, đi về phía trước, chăm chú nhìn nàng nói, “Vừa rồi sư thúc nói sư phụ bị ám hại, là thật hay giả?” Thượng Quan Đinh Ninh nhìn hắn, nhẹ nhàng gật đầu. Tuy rằng trời rất tối, nhưng nương theo ánh trăng, nàng nhìn thấy sắc mặt Phiền Tế Cảnh tái nhợt như tuyết. “Tam sư huynh.” Nàng đem thanh âm phóng cực thấp nói, “Chúng ta trước tiên về Nhạc Ý cư rồi hãy nói.” “Nhạc Ý cư?” Phiền Tế Cảnh khó hiểu nhìn nàng. Thượng Quan Đinh Ninh cũng không giải thích, cúi người giúp hắn nhặt bao phục, liền chạy về phương hướng của Nhạc Ý cư. Phiền Tế Cảnh đi theo sau nàng. Cửu Hoa phái chia làm tiền hậu tả tam đại trạch. Tiền trạch là nơi ở của phổ thông đệ tử, hậu trạch là nơi ở của Bộ Lâu Liêm, Tống Bách Lâm, Phiền Tế Cảnh bọn họ. Mà tả trạch chính là Nhạc Ý cư, là nơi để tiếp đón khách nhân. Tới Nhạc Ý cư, Thượng Quan Đinh Ninh mới chậm rãi thở ra, dùng thanh âm bình thường nói: “Cuối cùng cũng trốn về được.” Phiền Tế Cảnh nói: “Cái gì trốn về?” Thượng Quan Đinh Ninh nói: “Nhị sư thúc và ngũ sư thúc đã kiểm soát bên kia, chúng ta không thể làm gì khác hơn là chuyển đến đây ở.” “Các ngươi...” “Chính là ta cùng đại sư huynh nhị sư huynh ngũ sư đệ.” Thượng Quan Đinh Ninh cười híp mắt vỗ tay hắn, “Hiện tại có thêm tam sư huynh ngươi a.” Phiền Tế Cảnh nghẹn họng, nhìn nàng trân trối, nói: “Sự tình vì sao lại phát triển đến mức này?” Thượng Quan Đinh Ninh nhún vai nói: “Đều là do nhị sư thúc và ngũ sư thúc bức bách. Bọn họ một mực chắc chắn nói là do đại sư huynh nhị sư huynh ngũ sư đệ giết sư phụ, còn hạn cho họ phải lập tức giao ra hung thủ, nếu không sẽ giam giữ tất cả. Chúng ta không có biện pháp, không thể làm gì khác hơn là len lén chuyển tới đây.” “Thế nhưng...” “Không có thế nhưng gì hết, ngươi còn chưa ăn gì, đi theo ta.” Thượng Quan Đinh Ninh hướng hắn ra hiệu, vãng buồng trong chạy đi. Quan Tỉnh bọn họ đều ở trong phòng ăn. Thượng Quan Đinh Ninh kích động chạy vào nói: “Tam sư huynh tới.” Phiền Tế Cảnh vừa mới bước qua thềm cửa, vẻ mặt của những người trong phòng nhìn hắn đều trở nên quái dị. Quan Tỉnh trước sau vẫn một bộ diện vô biểu tình, Thi Kế Trung liền vùi đầu vào ăn, coi như không thấy. Chỉ có Chu Liêu Đại đứng lên nói: “Tam sư đệ, tới, ngồi đây.” Phiền Tế Cảnh nghe lời ngồi xuống. Thượng Quan Đinh Ninh tranh công nói: “May mà ta qua đó thám thính tin tức, mới biết được tam sư huynh trở về. Hắn lúc đó còn sỏa hồ hồ một mình đứng đờ ra.” Chu Liêu Đại trong mắt chợt lóe, nói: “Tam sư đệ, chẳng lẽ sư thúc đã nói gì với ngươi?” “Bọn họ nói...” Phiền Tế Cảnh cố nén bi thống nói, “Sư phụ bị hại chết.” Chu Liêu Đại liếc mắt nhìn Quan Tỉnh, thấy hắn không có phản ứng mới nói: “Không sai. Hung thủ đến giờ còn ung dung bên ngoài.” Phiền Tế Cảnh nói: “Nghe sư thúc nói, sư phụ là chết vì ‘Vãn hải cuồng triều’ của Tiên Liên kiếm pháp?” Chu Liêu Đại lắc đầu nói: “Điều này chúng ta không biết. Chúng ta không nhìn thấy di thể của sư phụ. Sư phụ chết vì Tiên Liên kiếm pháp cũng chỉ là những gì bọn họ nói từ một phía.” Phiền Tế Cảnh nói: “Sư thúc cũng sẽ không đến mức gạt chúng ta.” Chu Liêu Đại cười lạnh nói: “Điều này không chắc. Bọn họ mơ ước Tiên Liên kiếm pháp đã lâu, giờ vừa hay là lúc để bọn họ thực hiện mộng tưởng.” Hắn bỗng nhớ đến điều gì đó, đưa tay vỗ vỗ tay Phiền Tế Cảnh nói: “Kỳ thực sư phụ lần này đã phế bỏ quy củ tuyển y bát truyền nhân, phàm là thân truyền đệ tử của người đều có thể học. Đáng tiếc ngươi đi dự thọ yến của Vũ Đương Lăng Vân đạo trưởng, không được sư phụ tự mình truyền thụ. Nhưng chờ đến khi sự tình được giải quyết, ta sẽ tìm cơ hội truyền thụ cho ngươi, cũng coi như an ủi linh hồn sư phụ trên trời.” Ba. Thi Kế Trung buông đũa đứng lên nói: “Ta ăn no rồi.” Hắn nói, mắt nhìn Quan Tỉnh. Quan Tỉnh gật đầu, “Đi thôi.” Thi Kế Trung lúc này mới xoay người ly khai, từ đầu tới cuối đều không nói gì với Chu Liêu Đại bọn họ. Vẻ tươi cười trên mặt Chu Liêu Đại nhất thời có chút mất tự nhiên, “Ngũ sư đệ vẫn luôn nóng tính như vậy.” Quan Tỉnh nói: “Bởi vì trên đời luôn có nhiều chuyện khiến người ta nóng tính.” Môi Chu Liêu Đại giật giật, một lúc sau cười gượng nói: “Ngươi mau ăn đi, thức ăn đều lạnh rồi.” Phiền Tế Cảnh đột ngột nghe tin dữ, không có hứng thú ăn uống, tùy tiện ăn vài miếng, liền vội vã cáo từ tìm gian khách phòng nghỉ ngơi. +++++++++++++++++++++++ [1] Tình thiên phích lịch 晴天霹雳: sấm sét giữa trời quang, tai họa đột ngột, đất bằng dậy sóng: xảy ra những chuyện ngoài dự tính. [2] Cường từ đoạt lý: lời nói vô lý. [3] Vô lý thủ nháo: cố tình gây sự. [4] Xảo ngôn lệnh sắc: hoa ngôn xào ngữ, nói lấy lòng người khác. [5] Tham đồ mỹ sắc: ham muốn sắc đẹp. [6] Giang hồ danh liệt tiền mao: nhất nhì giang hồ [7] Thiên hạ độc bộ: thiên hạ kiệt xuất. [8] Y bát truyền nhân 衣钵传人: Y Bát là mảnh áo chén cơm. Ý nghĩa câu này sử dụng trong PHATK là: đây là đệ tử duy nhất (trong đây có tới 3 người ^^) được truyền thụ võ học chân truyền của Cửu Hoa phái. Cả câu Y bát truyền nhân và ý nghĩa câu này xuất xứ từ trong Đạo pháp Phật giáo. Y: Cái áo. Bát:cái bình bát vu của các vị sư Phật giáo mang đi khất thực, dùng để đựng cơm và đồ ăn bố thí. Y bát là cái áo cà sa và cái bình bát của một vị sư, là hai món rất cần thiết của một vị sư phái khất sĩ của Phật giáo. Nguyên gốc câu trên là Y Bát ( 衣缽) chơn truyền. Vì sao lại gọi là Y Bát chơn truyền. Sau đây là một chút lịch sử về Y Bát chơn truyền. Khi vị Phật lịch sử có thật là Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (1) khai sáng ra Phật giáo ở Ấn Độ thời cổ đại, thì Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật đã cùng lúc khai sinh ra truyền thống “Khất thực” trong giai đoạn khởi thủy của Phật giáo. Phật giáo có nhiều hệ phái, Khất thực của Hệ phái Khất sĩ có một nguồn gốc lịch sử lâu đời từ thời tiền Phật giáo, từ thời kỳ tìm đạo, tu đạo, thành đạo và hóa đạo của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật ở Ấn Độ thời cổ đại,chẳng những trong giai đoạn tìm kiếm chân lý mà ngay cả sau khi sáng tỏ đạo mầu thì Ngài cũng cho rằng khất thực là một pháp môn phương tiện chính để sinh sống và khẳng định nó là pháp môn truyền thống của chư Phật ba đời. Bởi đạo Phật là đạo Khất sĩ du tăng, con đường của bậc giác ngộ, đi theo con đường ấy là đến với chân lý của vũ trụ, để đạt mục đích Niết bàn (2), Khất sĩ – Y bát là bậc thượng trí, sau sự học của lớp thế gian. Kẻ du học ấy phải đi xin ăn, mặc một bộ áo ba mảnh, và một cái chén đựng đồ ăn, để nhẹ mình lo tu học, và đi khắp xứ. Vậy nên Y Bát lịch sử đã ra đời trong Phật giáo. Dựa theo kinh Bổn Sanh (3) thì sau khi ra khỏi cung thành Ca Tỳ La Vệ (4) và vào tận rừng sâu thì thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm (5) đã đổi bộ y phục sang trọng may bằng lụa xứ Ba-la-nại (6) cho một người thợ săn vốn là hóa thân của một Phạm thiên (7) để nhận một bộ y phục nhạt màu sờn cũ. Ngài nghĩ rằng chiếc áo cà sa (8)đơn giản thì thích hợp hơn khi Ngài còn đang vân du khắp nơi để tìm cầu chân lý. Dựa theo Luật tạng Nhất Thiết Hữu Bộ (9) thì vào thời quá khứ tại cung thành Ca Tỳ La Vệ có mười anh em cùng xuất gia, tu tập và chứng quả Bích Chi Phật (10). Trước khi nhập diệt (11), tất cả những vị Bích Chi Phật nầy đã trao lại những tấm y bá nạp của mình cho bà mẹ và cùng thưa rằng vào đời tương lai có Đức Thích Ca Mâu Ni là con vua Tịnh Phạn (12) chứng được quả vô thượng Bồ-đề. Nếu đem những y phục nầy dâng cho Ngài thì sẽ được phước báu vô lượng. Người mẹ theo ý nguyện trên nên giữ gìn cẩn thận những bộ y đó. Trước khi qua đời bà trao chúng lại cho người con gái của mình để giữ gìn. Đến khi cô con gái trở nên già yếu thì cô bèn đem những tấm y đó treo trên cây và cầu vị thần cây bảo hộ để sau nầy trao lại cho con vua Tịnh Phạn. Vị Phạm thiên đã đem y về giữ gìn và đợi đến khi thái tử xuất gia thì hiện thành một người thợ săn đến đổi y phục cho thái tử. Bộ y phục này được xem là khởi đầu cho truyền thống mặc y phấn tảo (pāṃśukūla) (13) hay y bá nạp (loại y được may từ những mảnh vải rách lượm từ đống rác hay nghĩa địa được giặt sạch) trong Tăng đoàn. Ngoài tấm y ra thì bình bát (14) của Đức Phật được xem là bảo vật truyền thừa của chư Phật. Sau khi thành đạo dưới cội Bồ-đề (15), có hai vị thương gia tên là Đề Vị (Tapussa) và Ba Lợi (Bhallika) dâng cúng thức ăn cho Phật và đây là bữa ăn đầu tiên vào tuần thứ tám của Ngài ở Bồ-đề đạo tràng sau khi thành đạo. Khi được hai vị thương gia cúng dường thức ăn thì Đức Phật liền nghĩ rằng chư Phật trong ba đời đều dùng bình bát để thọ dụng vật thực, nay ta cũng nên theo truyền thống nầy. Lúc bấy giờ có bốn vị Thiên Vương biết được tâm niệm đó nên mỗi người mang một bình bát bằng đá đem dâng lên Đức Phật. Vì thương tưởng các vị Thiên Vương nên Đức Phật liền nhận cả bốn bình bát và Ngài liền dùng thần lực khiến cho bốn bình bát nầy trở thành một cái duy nhất. Bình bát nầy về sau trở thành vật tùy thân của Đức Phật trong suốt 49 năm du hóa của Ngài. Đó là về sự của Y Bát, còn Giáo Lý Y Bát chơn truyền nghĩa rằng: Y là Pháp, Bát là Đạo. Tức là đạo pháp đường chân truyền dạy, có Y Bát mới có chân như. Luật pháp cũng như manh áo che tâm, sự đi sưu tầm gom góp Kinh Luật Luận, cũng như lượm từ miếng vải đâu kết lại, cho thành kho Tạng (16). Giáo lý y bát có ba pháp vắn tắt là Giới định huệ. Giới là những hành vi chuẩn mực của thân và khẩu. Định là thanh tịnh ý nghiệp. Huệ là diệu dụng của tâm, là những thấy biết đúng chân lý do ba nghiệp trong sạch mà khai mở được. Chính Đạo Phật là Đạo Bát Chánh, là Đạo Khất Sĩ mới có Bát Y, là con đường đến Niết Bàn kêu là Đại Đạo, đường đi ngay thẳng chỗ chứa tâm người. Thế nên sự được ban truyền Y Bát, rất kỹ lưỡng khó khăn và kẻ nào thọ lãnh được là vinh hạnh lắm, rồi sẽ nối chí giống hệt Tổ thầy, nối truyền chân đạo, nên khắp trời người đều uy tín hy vọng cho kẻ đó sẽ đắc đạo buổi tương lai vậy. Vậy nên Y Bát Chơn Truyền, xưa nay là giáo lý riêng đặc sắc của thầy tổ trao dạy, một thầy chỉ có một trò thôi.Quý báu vô cùng, nhờ đó Đạo Phật mới được nâng cao, và mãi mãi bền dài không dứt tuyệt. Y Bát chơn truyền: Trước khi Đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn, Ngài đem cái áo cà sa (Y) và cái bình bát vu (Bát) của Ngài trao cho Ma Ha Ca Diếp để làm tín vật và truyền ngôi Tổ Sư Phật giáo cho Ma Ha Ca Diếp, giữ ngôi Nhứt Tổ, chưởng quản Giáo hội tăng già (17). Sau đó, Ma Ha Ca Diếp truyền Y Bát lại cho A-Nan làm Đệ Nhị Tổ Sư Phật giáo Ấn Độ. Y Bát nầy được truyền dần xuống những vị Tổ Sư kế tiếp, truyền mãi đến vị Tổ Sư thứ 28 là Bồ Đề Đạt Ma. Tổ Sư Bồ Đế Đạt Ma vâng lịnh vị Tổ Sư tiền nhiệm, sang truyền đạo nơi nước Trung Hoa và đem Y Bát qua nước Trung Hoa. Ngài Bồ Đề Đạt Ma ẩn cư tại chùa Thiếu Lâm nước Trung Hoa, quay mặt vào vách đá Thiền định trong 9 năm, Ngài thâu được một người đệ tử vừa ý là Huệ Khả, rồi sau đó Ngài truyền Y Bát cho Huệ Khả làm Tổ Sư Phật giáo tại Trung Hoa. Thế là Ngài Bồ Đề Đạt Ma trở thành Đệ nhứt Tổ Sư của Phật giáo Trung Hoa, và Huệ Khả là Đệ nhị Tổ Sư của Phật giáo Trung Hoa. Y Bát chơn truyền của Phật giáo Ấn Độ đã chuyển sang nước Trung Hoa, và Y Bát nầy được truyền dần xuống các vị Tổ Sư nối tiếp theo. Huệ Khả truyền Y Bát cho Tăng Xán làm Tam Tổ. Tăng Xán truyền Y Bát cho Đạo Tín làm Tứ Tổ. Đạo Tín truyền Y Bát cho Hoằng Nhẫn làm Ngũ Tổ. Hoằng Nhẫn truyền Y Bát cho Huệ Năng làm Lục Tổ. Từ đây trở về sau, không còn lệ truyền Y Bát nữa. Như vậy, Huệ Năng là vị Tổ Sư cuối cùng của Phật giáo có được Y Bát. Vì sao Lục Tổ Huệ Năng lại bỏ lệ truyền Y Bát? – Bởi vì Ngài tuân theo mật lịnh của các vị Tổ Sư đời trước, vì theo lời dặn dò của Ðạt Ma Tổ Sư, sau 200 năm kể từ ngày Ðạt Ma Tổ Sư nhận Y Bát thì không truyền nữa, chớ không phải do ý riêng của Ngài. Y và Bát của Đức Phật Thích Ca là hai bảo vật thiêng liêng. Có lẽ các vị Tổ Sư biết trước rằng, sau đời Lục Tổ Huệ Năng thì Phật giáo bắt đầu thất chơn truyền, đi vào thời kỳ Mạt pháp. Con người vào thời Mạt pháp ít học ít tu, dễ sanh lòng tham dục, muốn dùng bạo lực để tranh đoạt báu vật, không ngại giết hại lẫn nhau. Chính Đại Sư Thần Tú khi hay tin Ngũ Tổ đã truyền Y Bát cho Huệ Năng, liền cho đệ tử đuổi theo Lục Tổ, ý cũng muốn tranh đoạt Y Bát, nhưng thất bại. Các vị Tổ Sư đã ý thức được điều đó, nên truyền mật lịnh cho Lục Tổ Huệ Năng, sau đời Ngài thì chôn giấu Y Bát một cách bí mật cho tuyệt tích luôn, để tránh việc tranh giành báu vật mà giết hại lẫn nhau. (1) Thích Ca Mâu Ni: Shakyamuni. Đức Phật Thích ca nguyên tên là Tất đạt đa. Họ Ngài là Thích ca (tiếng Phạn: śākya), một dòng họ hoàng tộc lớn thống trị đất nước lúc bấy giờ của hoàng gia Kiều tất la (tiếng Hán: 憍薩羅, tiếng Phạn: kośala, tiếng Pali: kosala). Tên Ngài nói đủ là Kiều tất la Thích ca Tất đạt đa Cồ đàm (Kośalaśākya Siddhārtha Gautama). Còn Mâu ni là đức tính trong sạch, vắng lặng của Ngài, chỉ là tiếng để khen ngợi. (2) Niết bàn: chữ Hán:nièpán涅槃,tiếng Phạn:nirvāṇa,tiếng Pali:nibbāna,tiếng Nhật:nehan là từ được dịch âm từ gốc tiếng Phạn nirvāṇa hoặc tiếng Pāli nibbāna. Thuật ngữ Niết-bàn có thể được hiểu là: Tình trạng ngọn lửa phiền não đã bị dập tắt; Là động từ, có nghĩa là đã nhập niết-bàn và Vô vi (Vô vi nghĩa là không phụ thuộc, không bị ảnh hưởng, không vì nhân duyên mà sinh ra, đối nghĩa với vô vi là Hữu vi (有爲, tiếng Phạn: saṃskṛta), cũng thường được hiểu là “Không làm”. Trong Phật giáo nguyên thủy thì chỉ có Niết – bàn được xếp vào hạng vô vi, tất cả các pháp còn lại đều là hữu vi.) (3) Kinh Bổn Sanh: tiếng Hán: 本生經, tiếng Phạn: Jàtaka, gọi âm Hán theo Xà-đà-già: 闍陀伽, còn gọi là Bản Sanh Kinh, Bổn Duyên Kinh, Bản Duyên Kinh, truyện tiền thân đức Phật, truyện tái sanh của Bồ Tát, là 1 trong 9 bộ Kinh Nam Truyền (Nikaya) và là 1 trong 6 bộ Kinh Bắc Truyền. (4) Cung thành Ca Tỳ La Vệ: chữ Hán: 迦毘羅衛, tiếng Phạn: Kapilavastu, thuộc Nepal ngày nay. Ca Tỳ La Vệ là hoàng thành nơi hoàng tộc dòng Thích Ca cai trị ở vương quốc Kiều Tất La. (5) Thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm: là tên phiên âm từ tiếng Phạn Siddhārtha Gautama – có nghĩa là “người đã hoàn tất (siddha) ý nghĩa cuộc sống (artha) – của vị Phật lịch sử Thích Ca Mâu Ni. Đôi lúc ta cũng tìm thấy cách dịch ý Nhất thiết nghĩa thành, Thành tựu chúng sinh dịch từ dạng dài của tên Phạn ngữ là sarvārthasiddha. Như vậy Tất Đạt Đa Cồ Đàm là tên của vị Phật lịch sử, từng sống trên trái đất, người sáng lập Phật giáo. Năm sanh và năm Đức Phật nhập diệt rất khó để tìm ra, và có nhiều tài liệu đưa ra nhiều số liệu khác nhau. Nhưng tổng kết chung các số liệu đó thì chúng ta chỉ có thể đưa ra một khoảng thời gian cho năm sanh và nhập diệt Niết bàn của Đức Phật Thích Ca. Hầu hết các nhà sử học đầu thế kỷ 20 nhận định rằng Đức Phật Thích Ca được đản sanh vào khoảng năm 563 trước công nguyên và nhập diệt năm 483 trước công nguyên. Nhưng có nhiều ý kiến của những nhà nghiên cứu khác lại cho rằng Đức Phật nhập diệt năm 486 trước công nguyên, và cũng có những nhà nghiên cứu về tôn giáo trên thế giới lại đưa ra những ý kiến khác nữa, là Đức Phật nhập diệt vào khoảng những năm 411 hoặc 400 trước công nguyên. Cũng có những tài liệu lại cho rằng Đức Phật sanh năm 623 trước công nguyên và nhập diệt năm 543 trước công nguyên. Chỉ có một điều tất cả mọi tài liệu đều thống nhất với nhau là Đức Phật thọ 80 tuổi. (6) Xứ Ba-la-nại: Varanasicòn được gọi là Bénares – thành Ba La nại – hay Kasi, nằm bên bờ tây sông Hằng, thuộc bang Utta Pradesh Ấn Độ. (7) Phạm thiên: Phạm còn gọi là Phạn nghĩa là Phật ( Thanh tịnh). Thiên là Trời. Phạm Thiên là Phật Trời – cõi thanh tịnh. Phạm Thiên (Brahma) là một vị thần trong ba vị thần linh tối cao của Ấn Độ giáo. Brahma là đấng sáng tạo. Theo Chú Giải Kinh Bổn Sanh, vị Phạm thiên này vốn là một người bạn của thái tử trong thời Phật Ca diếp. Kinh Phổ Diệu còn ghi rằng khi trở về thiên giới, vị phạm thiên này đã xây một bảo tháp để thờ bộ y phục bằng lụa xứ Ba-La-Nại của thái tử, và tháp này có tên là Xuất gia y tháp. (8) Áo cà sa: Cà-sa (Trung văn phiên âm từ tiếng Phạn: 袈裟 (ca-sa); phiên âm latinh từ tiếng Phạn: Kasāya), là một loại áo dài mặc ngoài của giới tăng lữ Phật giáo, được may bằng các mảnh vải ghép lại, có hình chữ nhật dài để quấn quanh người. Áo cà-sa có 3 loại: đại, trung, tiểu. Loại đại gồm 9 – 25 mảnh vải (còn gọi cửu điều), loại trung có 7 mảnh (còn gọi thất điều), loại tiểu dùng 5 mảnh (còn gọi ngũ điều). Loại trung và tiểu thường được mặc bên trong. Màu sắc áo tuỳ theo vùng. Ấn Độ thường dùng màu vàng nghệ (sẫm); Trung Quốc dùng màu đỏ pha đen, đến đời Võ Hậu đời Đường cho tăng ni dùng thêm màu tím; Nhật Bản dùng màu trà sẫm; Việt Nam dùng màu nâu và vàng sẫm. (9) Luật tạng Nhất Thiết Hữu Bộ: Luật tạng (chữ Hán: 律藏; tiếng Phạn & Pali: vinaya-piṭaka) là phần thứ hai của Tam tạng, quy định về việc sống tập thể của chư tăng, chư ni. Luật tạng có nhiều hệ khác nhau như Luật tạng của Thượng toạ bộ, Pháp Tạng bộ, Thuyết nhất thiết hữu bộ. Thuyết nhất thiết hữu bộ (chữ Hán: 說一切有部, tiếng Phạn: sarvāstivādin), còn gọi là Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ (根本說一切有部, tiếng Phạn: mūlasarvāstivādin, tiếng Tây Tạng: thams cad yod par smra ba`i sde ཐམས་ཅད་ཡོད་པར་སྨྲ་བའི་སྡེ་) hoặc Nhất thiết hữu bộ (chữ Hán: 一切有部), là một bộ phái Phật giáo cho rằng mọi sự đều có, đều tồn tại (nhất thiết hữu, tiếng Phạn: “sarvam asti”). Là một nhánh của Tiểu thừa tách ra từ Thượng toạ bộ (tiếng Phạn: sthaviravādin) dưới thời vua A-dục. Giáo phái này quan niệm là tất cả, hiện tại, quá khứ, vị lai đều hiện hữu đồng thời. Tông phái này hoạt động mạnh tại Kashmir và Càn-đà-la (gandhāra). Quan điểm của bộ này được xem như nằm giữa Tiểu thừa và Đại thừa. Thuyết nhất thiết hữu bộ có kinh điển riêng viết bằng văn hệ Phạn ngữ, ngày nay chỉ còn bản dịch chữ Hán và Tây Tạng. (10) Bích Chi Phật (辟支佛): còn được gọi là Độc Giác Phật (獨覺佛), có gốc từ chữ pratyeka trong tiếng Phạn (hay paccekabuddha trong tiếng Pali). Đôi khi còn được biết với tên Duyên Giác Phật. Vị Phật là người đạt được Phật quả do tự mình chứng ngộ. Người ta cho rằng Độc giác Phật không đạt được các năng lực như Nhất thiết trí (sarvajñatā) hay Mười lực (daśabala) của một vị Tam-miệu Tam-phật-đà (samyak-sam). Độc giác Phật được xem như bậc ở quả vị giữa A-la-hán và Phật. Có khi Độc giác Phật là danh hiệu chỉ người đạt giác ngộ trong thời không có vị Phật nào xuất hiện trên Trái Đất. Độc giác thừa là một trong ba cỗ xe để đạt Niết Bàn. (11) Nhập diệt 入滅: Nhập: Vào, đi vào, đem vào, trái với Xuất. Diệt: ý nói Hư vô tịch diệt, tức Niết Bàn. Nhập diệt là đi vào cõi Hư vô tịch diệt, tức là linh hồn đi vào cõi Niết Bàn.Đây là từ ngữ của Phật giáo, chỉ bậc cao tăng đắc đạo, lìa bỏ xác trần, linh hồn bay lên đi vào cõi Niết Bàn. Tịch diệt 寂滅: đồng nghĩa Nhập diệt: Tịch: yên lặng. Diệt: tiêu tan, dứt sạch các mối ràng buộc với cõi trần. Tịch diệt là từ ngữ của Phật giáo, chỉ trạng thái linh hồn của người tu đắc đạo thoát ra khỏi thể xác, rời bỏ cõi trần, đi lên nhập vào cõi Niết Bàn.Cõi giới tịch diệt là cõi Niết Bàn. (12) Vua Tịnh Phạn (chữ Hán: 淨飯, tiếng Phạn: śuddhodana): Cha của thái tử Tất Đạt Đa. (13) Y phấn tảo (pāṃśukūla): Tấm y mà thái tử Tất Đạt Đa đã đổi cho người thợ săn chính là y phục mà thái tử đã mặc trong suốt thời gian tu khổ hạnh. Theo kinh Phổ Diệu, trải qua thời gian sáu năm khổ hạnh, tấm y này của thái tử dần dần cũ và bị rách đi, và ngài đã đến nghĩa địa nhặt những mảnh vải cũ vốn được dùng để bọc tử thi của một tỳ nữ. Cô gái này đã chết trong ngôi nhà gần nơi trú ngụ của vị trưởng làng. Thái tử đã giặt sạch những mảnh vải này và sau đó khâu thành một bộ y phục mới cho mình tại một gốc cây mà nơi này về sau có tên là Pāṃśukūlasīvana (nơi khâu y phấn tảo). (14) Bình Bát: Bát Vu: 缽盂: Bát: Tám, thứ tám. Vu: Cái bầu đựng đồ ăn. Bát vu là cái bình đựng đồ ăn của các tăng ni Phật giáo thuộc phái khất sĩ, dùng để đi khất thực.Mỗi vị sư trong phái Khất sĩ, khi thọ cụ túc giới thì được vị hoà thượng nhơn danh Giáo hội phát cho một cái bát, hoặc khi cái bát bị bể thì Giáo hội cũng phát cho cái khác. Lúc thọ lãnh bát, vị sư nguyện ba lần bài chú sau đây: “Thiện tai Bát-đa-la, Như Lai ứng lượng khí! Phụng trì dĩ tư thân, trưởng dưỡng trí mạng. Án chỉ rị chỉ rị phạt nhựt ra hồng phấn tra.” Nghĩa là: Lành thay cái Bát-đa-la, món đồ ứng lượng của Phật! Tôi nay phụng trì để nuôi thân và nuôi lớn cái mạng trí huệ. Tiếp theo sau cùng là câu Thần chú bằng tiếng Phạn. Bát-đa-la là chữ phiên âm từ tiếng Phạn: Patra, có nghĩa là cái Bát, cái Bình bát hay Bình bát vu. Bát của hàng Tỳ-kheo (khất sĩ) và Sa-di (tập sự khất sĩ) giống nhau, đều bằng đất, hông tròn 6 tấc, miệng rộng, đốt đen, có nắp bằng nhôm trắng. Còn bát của hàng tập sự xuất gia (gọi tắt: “Tập sự”) bằng nhôm trắng, không sơn. Ngày nay, ngoài bát đất, Tăng, Ni khất sĩ còn dùng cả bát bằng gỗ, bằng nhựa trắng hoặc nhựa đen. Các loại bát này đều được sơn đen bên ngoài và cả bên trong, riêng bát đất thì bên trong thường tráng men. Đáy bát bằng, tự đứng được, không cần cái kiềng để đỡ như bát của Phật giáo Nam tông. So với bát của Phật giáo Bắc tông thì bát Khất Sĩ to gấp đôi. Với chu vi khoảng 0,6m và cao khoảng 0,12m, bát Khất Sĩ vừa phải để sử dụng mà lại gọn vì không cần thêm một cái kiềng. Để mang bát cần phải có túi đựng bát. Túi bát bằng vải màu vàng, tròn vừa với bát, có 2 nắp phủ, có quai đeo rộng 1 tấc và dài đến ngang thắt lưng khi mang túi lên vai. Túi bát được may bằng 8 miếng vải nhỏ xung quanh, trông như một hoa sen 8 cánh xinh đẹp được làm nên bởi những người hộ pháp thuần thành… Chư Tăng khất sĩ mang túi bát bên vai phải, phía trong y thượng. Chư Ni khất sĩ mang túi bát xéo từ vai trái qua hông bên phải và ở phía ngoài y thượng. Bát của chư Ni trông khiêm tốn hơn bát của chư Tăng vì chúng nhỏ hơn một chút, mặc dù Tổ sư không quy định như thế. Các vị khất sĩ không ai cố ý làm cho cái bát của mình đẹp hơn, tốt hơn bát của vị khất sĩ khác. Để phân biệt, bên ngoài mỗi bát đã thường được viết hoặc dán tên chủ nhân của nó lên, ngoài ra không được trang trí thêm gì cả. Bát là vật dụng để Tăng, Ni khất sĩ đi khất thực và thọ trai hàng ngày. Theo thực tế mà nói, thì bát chính là chén cơm của vị khất sĩ. Với cái bát chơn truyền, vấn đề đời sống của vị khất sĩ đã được giải quyết ổn thỏa một phần từ mấy ngàn năm nay. Ai cũng biết rằng các khất sĩ không làm kinh tế, không sản xuất. Sống trong cuộc đời, vị khất sĩ có thể làm tròn phận sự của mình là nhờ có y bát chơn truyền. Y bát đã hỗ trợ, đã bảo vệ người biết sử dụng chúng. (15) Bồ-đề: (Hán: 菩提, tiếng Phạn, Pali: bodhi) là danh từ dịch âm từ bodhi tiếng Phạn, dịch nghĩa là Tỉnh thức, Giác ngộ (Hán: 覺悟). Trong thời Phật giáo nguyên thuỷ, Bồ-đề là từ chỉ trạng thái chứng được bốn cấp Thánh đạo (tiếng Phạn: āryamārga) bằng cách hành trì 37 Bồ Đề phần và diệt trừ Vô minh, thông suốt được Tứ diệu đế. (16) Kho Tạng: Kinh Tam Tạng (chữ Hán: 三藏, tiếng Phạn: tripiṭaka, tiếng Pali: tipiṭaka, tiếng Tây Tạng: sde snod gsum སྡེ་སྣོད་གསུམ་), là ba phần cốt tủy của kinh sách đạo Phật, gồm: Kinh Tạng (chữ Hán: 經藏, tiếng Phạn: sūtra-piṭaka, tiếng Pali: sutta-piṭaka, tiếng Tây Tạng: mdo sde`i sde snod མདོ་སྡེའི་སྡེ་སྣོད་), Luật Tạng (chữ Hán: 律藏; tiếng Phạn, tiếng Pali: vinaya-piṭaka, tiếng Tây Tạng: `dul ba`i sde snod འདུལ་བའི་སྡེ་སྣོད་) và Luận Tạng (chữ Hán: 論藏, tiếng Phạn: abhidharma-piṭaka, tiếng Pali: abhidhamma-piṭaka, tiếng Tây Tạng: mngon pa`i sde snodམངོན་པའི་སྡེ་སྣོད་). (17) Giáo hội tăng già: Tăng-già (chữ Hán: 僧伽; tiếng Phạn & Pali: saṅgha) của đạo Phật gồm có Tỳ Kheo (chữ Hán: 比丘, tiếng Phạn: bhikṣu, tiếng Pali: bhikkhu), Tỳ Kheo Ni (chữ Hán: 比丘尼, tiếng Phạn: bhikṣuṇī, tiếng Pali: bhikkhunī) và giới Cư sĩ. [9] Lưu ngôn phi ngữ: đồn đại vô căn cứ. [10] Vật hữu tương tự: cái gì cũng có thứ tương tự.
|
Quyển 1 - Chương 2: Chân hung vị minh (nhị)
Đêm khuya tĩnh lặng. Phiền Tế Cảnh nằm trên giường trằn trọc, thật lâu không thể ngủ. Trong đêm tối thâm trầm này, những chuyện cũ trước kia như nước từ trong đầu chảy ra. Giọng nói, dáng cười của Bộ Lâu Liêm chưa khi nào lại rõ ràng đến thế, rõ ràng đến mức như đang đứng trong đêm tối, im lặng nhìn hắn như mọi khi. Thế nhưng, hắn chung quy sẽ không còn được gặp lại người nữa. Hắn cảm thấy ngực mình dần dần bị thứ gì đó nắm chặt, cơ hồ không thể thở được. Lạch cạch. Một hòn đá nhỏ đánh trúng song linh (song cửa sổ). Phiền Tế Cảnh vén chăn, đứng dậy choàng y phục. Cửa sổ nửa mở, ánh trăng mỏng manh chiếu lên người hắn, có dạng mờ ảo lỗi giác. Hắn đi tới trước cửa sổ, thấy một bóng lưng chìm đắm trong ánh trăng, mái tóc rối tung được ánh trăng chiếu lên có chút nhạt màu. “Sư đệ...” Phiền Tế Cảnh nghi hoặc khẽ gọi. Thi Kế Trung chậm rãi quay đầu lại. Hắn lớn lên nhìn không tốt lắm, mũi diều hâu, cằm dài, ngũ quan mạnh mẽ dưới ánh trăng càng trở nên nổi bật. Rõ ràng chỉ mới mười sáu tuổi, nhìn qua lại như người ba mươi sáu tuổi, toàn thân đều lộ ra một cỗ ngưng luyện trầm ổn của người lớn tuổi. “Tam sư huynh.” Thanh âm hắn có chút khàn khàn, là sự đan xen giữa nam nhân trưởng thành và nam hài. Phiền Tế Cảnh nhẹ nhàng nhu nhu ngực, như là muốn xóa bỏ những tích tụ trong lòng, “Còn chưa ngủ?” “Ngủ không được.” Phiền Tế Cảnh thở dài, đôi mắt trở nên u ám, “Là vì chuyện của sư phụ? Ta cũng vậy.” “Không phải...” Thi Kế Trung dừng một chút, nói, “Cơm tối ăn quá nhanh, bị nghẹn.” ... “Nga.” Phiền Tế Cảnh một lát sau mới nói, “Sau này ăn chậm một chút.” “Ân.” Bầu không khí vốn ngưng trọng nhất thời có chút khác lạ. “Vừa rồi là ngươi đập cửa sổ của ta?” Phiền Tế Cảnh hỏi. “Ân.” “Có việc?” “Lúc ném tảng đá không cẩn thận ném trúng.” Thi Kế Trung mặt không biến sắc nói dối. Phiền Tế Cảnh chớp chớp mắt, tựa hồ không tin. “Ban đêm gió lớn, sớm trở về phòng nghỉ đi.” Thi Kế Trung mân chặt môi, trầm giọng nói: “Sư phụ không có dự định đem Tiên Liên kiếm pháp truyền thụ cho ngươi.” Phiền Tế Cảnh đang định xoay người về phòng, bỗng dừng lại cước bộ, chậm rãi xoay người nhìn hắn. Thi Kế Trung mặt không biến sắc nói: “Đại sư huynh nhượng ta nói cho ngươi biết.” Phiền Tế Cảnh nhìn hắn, trong mắt lấp lánh sự nghiêm túc chưa từng có, “Ta thuở nhỏ thất hỗ (mồ côi), là sư phụ một tay nuôi dạy lớn lên, ân trọng như núi. Có thể luyện Tiên Liên kiếm pháp hay không đối với ta mà nói không phải là điều trọng yếu, hiện tại việc duy nhất mà ta muốn làm là tìm ra hung phạm, để an ủi linh hồn sư phụ trên trời.” Đối mặt với sự kiên định trong mắt hắn, Thi Kế Trung diện vô biểu tình gật đầu nói: “Hảo. Giờ ta trở về phòng nghỉ.” Phiền Tế Cảnh sớm đã quen với sự thờ ơ của hắn. Bộ Lâu Liêm khi còn sống từng đánh giá bọn họ, Quan Tỉnh trầm ổn nhưng không có chí tiến thủ, Chu Liêu Đại có chí tiến thủ nhưng cũng rất khéo đưa đẩy, Thượng Quan Đinh Ninh tiểu sự thông tuệ đại sự mơ hồ (việc nhỏ thì rõ, việc lớn thì mơ hồ), Thi Kế Trung lãnh tĩnh đạm mạc tựa như băng. Mà hắn... Phiền Tế Cảnh ngửa đầu nhìn trăng sáng trên trời, khẽ thở dài. Ngày hôm sau. Phía đông mới xuất hiện một mạt xám trắng, thiên địa vạn vật còn đang nửa tỉnh nửa mơ, Tống Bách Lâm liền mang theo các đệ tử của Cửu Hoa phái đăng môn (đến gặp). Phiền Tế Cảnh mãi gần sáng mới ngủ được, lúc bị gọi dậy chỉ cảm thấy thiên toàn địa chuyển [1], hai tai ong ong không nghe được gì, Thượng Quan Đinh Ninh phải gọi đến lần thứ hai hắn mới nghe thấy. Chu Liêu Đại gấp đến độ đi vòng vòng trong sân. Quan Tỉnh và Thi Kế Trung đều lãnh đạm nhìn hắn, một bộ không liên quan đến bản thân. “Tam sư huynh, ở đây chỉ có ngươi là không bị nghi ngờ, ngươi nhanh nghĩ biện pháp, giúp chúng ta tẩy sạch hiềm nghi.” Thượng Quan Đinh Ninh vội la lên. Phiền Tế Cảnh dùng sức vỗ vỗ đầu, dường như muốn đánh cho đầu hết hồn hồn ngạc ngạc (ngơ ngơ ngác ngác, ta nghĩ ở đây là cho hết ngái ngủ mơ hồ), “Ta ngày hôm qua cũng nói qua với sư thúc, vật hữu tương tự, chiêu thức cũng thế. Có thể chiêu thức mà hung thủ dùng vừa hay lại tương tự với ‘Vãn hải cuồng triều’, vì thế nếu chỉ dựa vào điểm này mà một mực chắc chắn rằng là do người trong phái gây nên, thật có phần độc đoán.” Chu Liêu Đại giống như người chết đuối vớ được tấm gỗ, liên tục gật đầu nói: “Đúng thế.” Quan Tỉnh nói: “Những chiêu thức khác còn có thể, thế nhưng vết thương do ‘Vãn hải cuồng triều’ tạo ra là độc nhất vô nhị.” Phiền Tế Cảnh sửng sốt. Ở đây chỉ có hắn và Thượng Quan Đinh Ninh không được học Tiên Liên kiếm pháp. Bởi vậy cũng không biết “Vãn hải cuồng triều” là chiêu thức như thế nào. Chu Liêu Đại thần sắc căng thẳng, trừng mắt nhìn Quan Tỉnh: “Đại sư huynh.” Quan Tỉnh thản nhiên nói: “Muốn chứng minh sự trong sạch của bản thân phải dùng chứng cứ rõ ràng. Bệnh cấp loạn đầu y [2] sẽ chỉ khiến cho bản thân càng thêm khả nghi.” Chi Liêu Đại miễn cưỡng bình tĩnh nói: “Vậy không biết đại sư huynh có đối sách gì?” Quản Tỉnh nói: “Thanh giả tự thanh [3].” Chu Liêu Đại chế giễu nói: “Ngươi cho rằng sư thúc hội cho chúng ta cơ hội sao? Từ khi sư phụ muốn truyền thụ Tiên Liên kiếm pháp cho ba chúng ta, bọn họ liền bất mãn. Lúc thì nói sư phụ tế tổ (vi phạm quy định của tổ tông), lúc thì nói sư phụ cân nhắc cân nhắc tái cân nhắc. Nếu sư phụ không kiên trì, sợ là hiện giờ chúng ta ngay đến Tiên Liên kiếm pháp cũng không biết là gì.” Thi Kế Trung lạnh lùng nói: “Là ngươi và ta không biết. Đại sư huynh là đệ tử được sư phụ định làm y bát kế thừa, sư phụ nhất định hội truyền thụ cho hắn.” Chu Liêu Đại nghẹn lời, hồi lâu mới cười lạnh nói: “Chẳng lẽ ngươi hiện tại là bất mãn cùng ta chia sẻ một chén canh? Đừng quên đây là nguyện vọng của sư phụ! Muốn Cửu Hoa phái phát dương quang đại (rạng rỡ phát triển), phải vứt bỏ ràng buộc ngăn cách giữa trưởng môn và đệ tử, nhượng phổ thông đệ tử cũng có thể học được kiếm pháp thâm sâu tối cao của phái. Nếu không Cửu Hoa phái chỉ có thể quanh quẩn làm một môn phái nhất lưu nhị lưu, vĩnh viễn không có khả năng cùng các đại phái như Vũ Đương Thiếu Lâm Huy Hoàng Môn bình khởi bình tọa (địa vị ngang nhau)!” Thượng Quan Đinh Ninh lặng lẽ kéo kéo ống tay áo của hắn, “Việc cấp bách hiện giờ là ứng phó như thế nào với sư thúc bọn họ.” Chu Liêu Đại hít một hơi thật sâu, quay đầu nhìn Phiền Tế Cảnh. Bởi ánh mắt của hắn vô cùng quỷ dị, nên những người khác cũng đều nhịn không được quay đầu nhìn theo. Phiền Tế Cảnh bị nhìn khiến mặt nóng lên, “Làm sao vậy?” Chu Liêu Đại chậm rãi nói: “Sư thúc mấy ngày nay vẫn mặc kệ chúng ta, mặc cho chúng ta chuyển đến đây. Thế nào hôm nay đột nhiên lại tới?” Ánh mắt của những người khác nhất thời có điểm bất đồng. Chỉ có Phiền Tế Cảnh ngơ ngác hỏi ngược lại: “Vì sao?” Chu Liêu Đại nói: “Có thể là bởi vì... Ngươi?” Phiền Tế Cảnh mờ mịt nói: “Ta?” Thi Kế Trung lạnh lùng nói: “Sư phụ chục năm nay vẫn luôn bình an vô sự, thế nhưng đúng lúc ngươi hội học Tiên Liên kiếm pháp thì lại xảy ra việc, chẳng lẽ không phải là bởi vì ngươi?” Chu Liêu Đại tức giận đến mức ngực phập phồng, “Ngũ sư đệ! Học Tiên Liên kiếp pháp cũng có phần của ngươi.” Thi Kế Trung nói: “Ta chưa từng phủ nhận.” Thượng Quan Đinh Ninh hòa giải nói: “Được rồi được rồi, đừng nói nữa. Càng nói càng giống như trong chúng ta có người giết sư phụ.” “...” Yên tĩnh. Yên tĩnh đột ngột đến. Ngay cả Thượng Quan Đinh Ninh cũng bị câu nói vô tâm của mình dọa sợ. Nhất thời, không một ai lên tiếng. Tống Bách Lâm ở bên ngoài chờ người hiển nhiên là không nhịn được nữa, sai đệ tử đi vào xem. Đệ tử đi vào nhìn thấy mấy người đưa mắt nhìn nhau, không động đậy nhúc nhích, cả kinh nhanh chân bỏ chạy, “Đại sư huynh bọn họ bị người ám toán! Bị điểm huyệt đạo rồi!” “...” Chu Liêu Đại nguyên bản là mũi ngưa ngứa, định gãi gãi mũi nhất thời cứng đờ, trong đầu hiện lên ý niệm tương kế tựu kế. Những người khác tựa hồ cũng không nghĩ sự tình sẽ phát triển thành như vậy, chờ Tống Bách Lâm vội vã đi tới thì, sự tình đã không còn đường lui, chỉ có thể dùng ánh mắt cảnh cáo lẫn nhau —— Nghìn vạn lần đừng động! “Chuyện gì xảy ra?” Tống Bách Lâm kinh sợ nhìn bọn họ. Phiền Tế Cảnh khóe miệng giật giật, nghĩ mở miệng, nhưng rất nhanh bị nhãn thần tàn bạo của Chu Liêu Đại cấp trừng trở về! Đệ tử bên cạnh Tống Bách Lâm nói: “Giống như bị điểm huyệt đạo.” “Nói giỡn! Tại địa bàn của Cửu Hoa phái, ai có thể thần không biết quỷ không hay song song điểm...” Hắn bỗng nhớ tới Bộ Lâu Liêm đồng dạng thần không biết quỷ không hay bị giết, lưng bỗng nhiên cảm thấy một cỗ lãnh ý, tiến lên trước, vỗ vỗ huyệt đạo của Chu Liêu Đại. Chu Liêu Đại bị vỗ đến đau nhức, vẫn cắn răng không nhúc nhích. Tống Bách Lâm lẩm bẩm nói: “Đây là loại thủ pháp gì? Quỷ dị như thế!” Phiền Tế Cảnh rốt cục nhìn không được, giật giật, mở miệng nói: “Sư thúc...” “A! Rốt cục cũng hết thời gian rồi.” Theo động tác vung tay của Chu Liêu Đại, Quan Tỉnh và Thi Kế Trung cũng chậm rãi cử động. Thượng Quan Đinh Ninh giả vờ kinh hoàng nói: “Sư thúc. May mà ngài tới kịp, vừa rồi thật sự là...” Mắt Tống Bách Lâm đảo một vòng nhìn bọn họ, sau đó nhìn thẳng vào Phiền Tế Cảnh nói: “Đến tột cùng xảy ra chuyện gì?” Chu Liêu Đại căng thẳng nhìn hắn. Phiền Tế Cảnh bị kẹt ở giữa khó xử, chốc lát mới nhẹ giọng nói: “Ta cũng không biết đã xảy ra chuyện gì.” Chu Liêu Đại vội vàng nói tiếp: “Người nọ xuất thủ thật là quá nhanh, chúng đệ tử cũng nhìn không rõ.” Thượng Quan Đinh Ninh nhận được ám chỉ của hắn, cẩn cẩn dực dực nói: “Người đó có thể hay không là kẻ đã sát hại sư phụ...” Tống Bách Lâm hừ lạnh một tiếng, nhìn Quan Tỉnh nói: “Ngươi là đại sư huynh, ngươi nói.” Quan Tỉnh cúi đầu nói: “Đệ tử xấu hổ.” Xấu hổ? Xấu hổ cái gì? Cái này có rất nhiều loại giải thích, mỗi người một ý. Chí ít với tình huống hiện giờ, loại xấu hổ này chỉ có một loại giải thích, đó chính là hắn cũng không thấy rõ tướng mạo của đối phương. Tống Bách Lâm di chuyển ánh mắt, muốn nói gì đó, đột nhiên có đệ tử vội vã tới thông báo, “Nhị sư thúc, Hoa gia tam công tử tới.” Hắn nhíu mày, “Ai?” “Hoa gia tam thiếu gia Hoa Hoài Tú công tử.” Tống Bách Lâm nhìn về phía Phiền Tế Cảnh, đã thấy vẻ mặt hắn tràn đầy kinh ngạc. ————————————————– [1] Thiên toàn địa chuyển 天旋地转: trời đất quay cuồng. Xuất xứ của câu này từ trong tuyệt phẩm Trường Hận Ca長恨歌 – Hận tình muôn thuở – của đại thi hào Bạch Cư Dị 白居易 (nhà Đường), kể về mối tình bi lụy của Đường Minh Hoàng và Dương quý phi. Bạch Cư Dị tự Lạc Thiên (樂天), hiệu là Hương Sơn cư sĩ(香山居士) và Túy ngâm tiên sinh (醉吟先生), thụylà Văn (文) (vì thế còn gọi là Bạch Văn Công 白文公), người đời nhà Đường, quê ở Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây, đậu Tiến sĩ năm 28 tuổi, nhận chức Hàn lâm học sĩ. Có lúc ông bị biếm làm Tư mã đất Giang Châu. Sau, ông giữ chức Thứ sử ở Tô Châu, Hàng Châu. Về già, được thăng Hình bộ thượng thư. Sau mất tại Hương Sơn, Lạc Dương. Chứng kiến được cảnh thảm khốc của một bi tình si lụy của Đường Minh Hoàng, họ Bạch để lòng cảm xúc bằng bài “Trường hận ca”. Thơ ông mang đậm tính hiện thực, lại hàm ý châm biếm nhẹ nhàng kín đáo. “Trường hận ca” nói về mối tình đẹp của Đường Minh Hoàng và Dương Quý Phi, nhưng đọc kỹ thì những ý châm biếm, mỉa mai kín đáo đều có. Sơ lược một chút về nguốn gốc xuất xứ của Trường Hận Ca: Hoàng đế Đường Huyền Tông (08/09/685 – 03/05/762), họ tên thật là Lý Long Cơ (李隆基), thụy hiệu Đường Minh Hoàng, là vị hoàng đế thứ 6 đời nhà Đường. Lúc thiếu thời là một người anh vũ, có tài thao lược. Dưới triều đại của ông, đất nước được thanh bình. Nhưng mấy năm sau cùng, nhà vua đã 50 tuổi, đâm ra si mê Dương Quí Phi tức Dương Ngọc Hoàn, lại tin dùng bọn Dương Quốc Trung (anh họ của Dương Quí Phi), Lý Lâm Phủ… nên quốc chính ngày càng suy tệ. Lúc bấy giờ có tướng An Lộc Sơn, người Hồ, quê ở vùng Nhiệt Hà là người rất thông minh, được nhà vua tin mến. Nhất là đối với Quí Phi, họ An rất được yêu thương. An xin làm con nuôi của Quí Phi để được phép ra vào cấm uyển mà khỏi ai dị nghị. Nhà vua mù quáng lại vui lòng ưng thuận. Vì có sự hiềm khích với Tể tướng Dương Quốc Trung, An Lộc Sơn sợ bị ám hại nên bỏ trốn, rồi cử binh từ quận Ngự Dương, tự xưng hoàng đế, đánh thẳng vào kinh đô Trường An. Binh triều đại bại, vua cùng một số quần thần phải bỏ kinh thành chạy vào đất Thục. Đến Mã Ngôi, tướng sĩ không chịu đi nữa, lại đồng nhau phải giết chết quyền thần Dương Quốc Trung; và bức vua phải đem thắt cổ con người ngọc kia thì họ mới chịu phò vua. Vì họ cho rằng Quí Phi là mầm sinh đại loạn. Lương thực hết, quân sĩ khổ mệt, căm tức. Gặp bước đường cùng, nhà vua đành giấu mặt, cắt lòng mà “hy sinh người yêu khuynh quốc”. Sau, loạn dẹp xong, Đường Minh Hoàng trở về Trường An. Đế đô còn đó, mà con người ngọc yêu dấu ngày xưa nay đâu còn nữa. Nỗi nhớ thương dào dạt, dằng dặc đầy lòng. Mối tình vương giả này, rồi sẽ bị chìm trong lãng quên của thời gian, nếu không có ngòi bút tài hoa tuyệt vời của Bạch Cư Dị tô điểm cho thêm phần lâm ly, chua xót. Sau đây là câu thứ 50 đến câu thứ 56 trong nguyên tác tiếng Trung của Trường Hận Ca, đoạn thơ này nói về đoạn Đường Minh Hoàng sau khi đã dẹp yên được phản loạn, trên đường hồi kinh: Nguyên bản 夜雨聞鈴腸斷聲 天旋地轉迴龍馭到此躊躇不能去 馬嵬坡下泥土中 不見玉顏空死處 君臣相顧盡霑衣 東望都門信馬歸 Hán Việt Dạ vũ văn linh (1) trường đoạn thanh, Thiên toàn (tuyền) địa chuyển hồi long ngự. Đáo thử trừ trừ bất nhẫn khứ, Mã Ngôi (2) pha hạ nê thổ trung. Bất kiến ngọc nhan không tử xứ, Quân thần tương cố tận triêm y, Đông vọng đô môn tín mã quy. (1) Văn linh: Khi đến Tà Cốc, Đường Huyền Tông 唐玄宗 nghe tiếng chiêng trong lúc mưa dầm, buồn bã vì nhớ tới Quý Phi, liền làm ra khúc ca gọi là Vũ Lâm Linh khúc (khúc chiêng trong lúc mưa dầm). (2) Mã Ngôi: Tên đất, nay ở phía tây huyện Hưng Bình 興平, tỉnh Thiểm Tây 陝西, nơi Dương Quý Phi 楊貴妃 chết. Dịch thơ Đêm mưa đứt ruột, canh dài tiếng chuông. Phúc trời đất quay cuồng vận số, Bánh xe rồng đến chỗ ngày xưa. Đất bùn chỗ chết còn trơ! Thấy đâu mặt ngọc, bây giờ Mã Ngôi! Đầm vạt áo vua tôi giọt lệ, Gióng dây cương ngựa tế về Đông. (Tản Đà dịch) Dịch nghĩa Trong đêm mưa, nghe tiếng chiêng, toàn là những tiếng đoạn trường. Trời xoay, đất chuyển, xe rồng nhà vua lại trở về. Đến nơi đây ngựa trù trừ không nỡ dời chân. Trong đám đất bùn, dưới bãi Mã Ngôi, Mặt ngọc nào thấy đâu, chỉ còn trơ chỗ thác uổng! Vua tôi nhìn nhau, ai nấy lệ rơi thấm áo. Trông về cửa kinh đô phía đông, mặc cho vó ngựa quen đường lững thững bước về. [2] Bệnh cấp loạn đầu y 病急乱投医: cái gì cũng có thể thử khi tuyệt vọng. Đưa vào trong ý nghĩa cả câu trong chương trên là “khi tuyệt vọng thì có thể làm ra nhiều việc để cứu vãn tình thế, nhưng những việc làm này sẽ chỉ càng tăng thêm sự nghi ngờ cho bản thân mình mà thôi.” [3] Thanh giả tự thanh 清者自清: thanh (清) là thanh bạch, tức là trong sạch, không làm điều bậy. Giả (者) là người. Tự (自) là tự mình, chính mình. Vậy ý nghĩa câu này là: Người vô tội tự nhiên sẽ được trả lại sự trong sạch, khi mình trong sạch thì tự mình trong sạch, không cần biện minh hay bào chữa cũng sẽ trong sạch, cứ để thời gian sẽ chứng minh mình trong sạch.
|
Quyển 1 - Chương 3: Chân hung vị minh (tam)
Mấy người Phiền Tế Cảnh chân trước vừa bị người tập kích, Hoa Hoài Tú chân sau liền tới chơi, vừa khớp như vậy nhượng Tống Bách Lâm liên tưởng đến rất nhiều thứ. Hắn cân nhắc một lúc, một bên phái đệ tử thân tín đưa Hoa Hoài Tú thỉnh đến đại thính (phòng khách), một bên mang theo mấy người Phiền Tế Cảnh tùy tiện vào một gian khách phòng. Bởi trong lòng hắn lúc đó đầy tâm sự, nên khi đẩy cửa cũng không chú ý sắc mặt của người khác, đến tận khi một trận hương phấn xông vào mũi, ngẩng đầu nhìn thấy hai cái yếm treo trên bình phong thì, mới thất kinh, thẹn quá hóa giận nói: “Đây là phòng của ai?” Thượng Quan Đinh Ninh xấu hổ đến mức suýt khóc, nhưng vẫn phải kiên trì nói: “Sư thúc, gian phòng này là của ta.” “Phòng của ngươi, phòng của ngươi...” Tống Bách Lâm nghĩ muốn phát hỏa, nhưng hít sâu vài lần cũng không nghĩ ra được nên viện cớ gì, không thể làm gì khác hơn là tức giận nói, “Ngươi vì sao không chốt cửa?” Thượng Quan Đinh Ninh ủy khuất nói: “Có chốt mà.” “Có chốt như thế nào hội...” Tống Bách Lâm cúi đầu nhìn then chốt cửa bị hắn dùng lực đẩy ra rơi trên mặt đất, “Then cửa này sao lại yếu như vậy?” Những người khác cúi đầu nhìn mặt đất. Tống Bách Lâm đại khái cũng nhận ra được là bản thân có phần vô lý thủ nháo, đối Thượng Quan Đinh Ninh hung dữ nói: “Sau này không được chọn gian phòng dễ tìm như thế này!” “Vâng, sư thúc.” Thượng Quan Đinh Ninh cắn răng lên tiếng trả lời. Tống Bách Lâm giận dữ xoay người, hướng Chu Liêu Đại nói: “Phòng của ngươi ở đâu?” Gian phòng của Chu Liêu Đại đương nhiên không có yếm, nhưng có miệt tử (tất) và hài tử (giầy), hơn nữa là miệt tử và hài tử cực thối. Tống Bách Lâm đi vào, cả người có loại cảm giác muốn có người mông trụ (che, bịt) miệng mũi, khiến cho các giác quan như sinh ra một cỗ tức giận mông lung hỗn tạp. “Đây...” Vừa mới mở miệng, mùi hôi hít vào càng trở nên gay gắt, mắt nhìn trợn ngược, Phiền Tế Cảnh và Quan Tỉnh hai người lập tức mở cửa sổ, nhượng mùi hôi tiêu tán ra ngoài. “Sư thúc.” Chu Liêu Đại hắng giọng nhìn sắc mặt Tống Bách Lâm, đã làm tốt chuẩn bị nghe mắng. Tống Bách Lâm oán hận liếc mắt trừng hắn, cố nén lại sự khó chịu trong ngực nói: “Chưởng môn bị giết tại Cửu Hoa Sơn chính là sỉ nhục đối với Cửu Hoa phái, trước khi bắt được hung thủ, không được tiết lộ với bất kì ai! Nếu có người hỏi, nói chưởng môn hiện đang bế quan.” Phiền Tế Cảnh mặt lộ vẻ khó xử. Những lời của Tống Bách Lâm chính là muốn nói cho hắn nghe, liền bổ sung thêm: “Ngay cả biểu huynh cũng không được.” Phiền Tế Cảnh nói: “Ta đây cũng bế quan.” “...” Tống Bách Lâm tức giận đến mức nghiến răng kẽo kẹt kẽo kẹt, “Ngươi vừa hồi Cửu Hoa Sơn liền bế quan, chẳng lẽ muốn cho người ta biết Cửu Hoa phái có việc không thể cho ai biết?” Phiền Tế Cảnh nói: “Bình sinh sở vi, sự vô bất khả đối nhân ngôn [1].” “Nhưng chưởng môn sư huynh cũng không phải là do ngươi giết chết! Liên quan gì tới ngươi? Cần ngươi nói với người khác?” “Thành giả vật chi chung thủy, bất thành vô vật. Thị cố quân tử thành chi vi quý [2].” Phiền Tế Cảnh nói, “Biểu ca đối với ta như anh em, ta sao có thể lừa gạt hắn?” Tống Bách Lâm rất muốn dùng búa đập mở đầu hắn, nhìn bên trong xem có phải là gỗ hay không, “Ngươi...” Mắt Phiền Tế Cảnh mở to so với hắn còn tròn hơn. May là mùi trong phòng đã tản đi rất nhiều, nhượng tâm tình của hắn có chút hồi chuyển, “Mà thôi. Hoa Hoài Tú chưa hẳn hội hỏi gặp chưởng môn.” Tiếng bước chân ở ngoài cửa vang lên, một đệ tử ở bên ngoài nói: “Sư phụ.” “Chuyện gì?” Tống Bách Lâm nói. “Hoa tam công tử muốn cầu kiến chưởng môn.” “...” Tống Bách Lâm nhìn về phía Phiền Tế Cảnh. Phiền Tế Cảnh vẻ mặt vẫn như trước kiên định. “Nhượng hắn ở đây ngốc trứ.” Hắn thở ra, tựa như đang đưa ra quyết định vô cùng trọng yếu, “Ngươi nếu đã cố ý như vậy, ta đây cũng chỉ hảo...” “Sư thúc hạ thủ lưu tình.” Thi Kế Trung nhíu mày nói. Quan Tỉnh không nói gì tiến về phía trước nửa bước. Chu Liêu Đại do dự một lúc, đi theo sau hắn. Thượng Quan Đinh Ninh sắc mặt mới nãy xấu hổ, giờ thì sợ đến mức muốn thét lên. “Hạ thủ lưu tình?” Tống Bách Lâm lạnh lùng nhìn họ, “Ngươi nghĩ rằng ta muốn?” Phiền Tế Cảnh từ phía sau Quan Tỉnh đi tới, thành khẩn nhìn hắn nói: “Là ta vi phạm mệnh lệnh của sư thúc, nếu sư thúc muốn nghiêm phạt, ta cũng không có gì để nói.” “Vậy ngươi phải hảo hảo dùng công bồi tội.” Tống Bách Lâm nói, “Ta cho ngươi thời gian nửa tháng, tra ra hung thủ là ai, bằng không, hậu quả cãi lại mệnh lệnh của ta sẽ không đơn giản như vậy.” Phiền Tế Cảnh nghiêm mặt nói: “Dù sư thúc không nói, ta cũng tuyệt đối sẽ không để cho hung thủ tự do bên ngoài.” “Còn có.” Tống Bách Lâm nói, “Trong vòng nửa tháng này, vị biểu ca kia của ngươi không được ly khai Cửu Hoa Sơn nửa bước, không được phép dùng bồ câu đưa tin, không được phép viết thư. Nói chung, không được phép tiết lộ tin tức ra bên ngoài.” Phiền Tế Cảnh mân mân môi. Tống Bách Lâm lập tức ngăn chặn nói: “Ngươi nếu còn coi ta là sư thúc, tựu chiếu theo những gì ta nói mà làm.” “Thế nhưng biểu ca và Hoa gia...” Phiền Tế Cảnh biết Hoa gia có nhiều quy củ, không muốn ép buộc. “Ngươi không gạt người chẳng lẽ cho rằng toàn bộ người trong thiên hạ cũng không gạt ngươi sao?” Tống Bách Lâm thở hắt ra, “Quên đi. Việc này để tự ta đi nói.” Phiền Tế Cảnh thở phào nhẹ nhõm. Nhượng hắn nói còn không biết nói thế nào. Tống Bách Lâm đưa mắt nhìn những người khác: “Các ngươi luôn miệng nói kẻ giết sư phụ mình là người khác, như vậy lẽ ra không nên thẹn với lương tâm. Hảo hảo hiệp trợ hắn phá án.” Chu Liêu Đại đảo mắt nói: “Thế nhưng người nọ võ công cao cường...” Tống Bách Lâm nói: “Ngươi sao không nói là võ công các ngươi thấp?” Chu Liêu Đại không dám nói nữa. “Ta đi gặp Hoa Hoài Tú.” Tống Bách Lâm phất tay áo xuất môn. Mấy người lưu lại trong phòng, mỗi người một tâm tư khác nhau. Chu Liêu Đại nhịn không được mở miệng đầu tiên nói: “Không biết tam sư đệ định bắt tay điều tra từ đâu?” Phiền Tế Cảnh nói: “Ta nghĩ thỉnh sư thúc cho ta thấy di dung của sư phụ.” Một lời kinh sợ bốn người còn lại. Không chỉ Chu Liêu Đại và Thượng Quan Đinh Ninh động dung, ngay đến Thi Kế Trung và Quan Tỉnh cũng lộ ra thần tình kinh ngạc. Chu Liêu Đại hoàn hồn đầu tiên, vỗ tay hoan nghênh nói: “Phải, nên như vậy!” Thượng Quan Đinh Ninh nhỏ giọng nói: “Thế nhưng sư thúc chưa chắc hội đáp ứng.” Chu Liêu Đại cười vỗ vai Phiền Tế Cảnh nói: “Hiện tại là Tống sư thúc muốn tam sư đệ tra án. Nếu nhượng hắn tra án, làm sao có thể không cho hắn nghiệm thi?” “Sư đệ.” Quan Tỉnh bình thường không nói nhiều lắm, nhưng mỗi lời đều vô cùng có trọng lượng. Chu Liêu Đại lập tức không dám nói gì nữa. Quan Tỉnh nhìn Phiền Tế Cảnh nói: “Thử án này mê vụ [3] trùng trùng điệp điệp, ngươi muốn tra rõ, chỉ sợ sẽ gặp không ít khó khăn.” Phiền Tế Cảnh ôm quyền nói: “Ta minh bạch.” Quan Tỉnh cũng không nói nhiều, gật đầu nói: “Vậy là tốt rồi.” Chu Liêu Đại liếc mắt, nói: “Đúng là huynh đệ đồng tâm, kỳ lợi đồng tâm [4]. Chúng ta tuy rằng không phải là thân huynh đệ, chỉ là sư huynh đệ, nhưng muốn tề tâm hợp lực, tuyệt không có chuyện gì là không thể làm!” Thi Kế Trung lạnh lùng nói: “Tra án chỉ có tam sư huynh mà thôi.” Chu Liêu Đại nói: “Sao? Sư huynh đệ trong lúc khó khăn không thể giúp đỡ nhau sao? Lẽ nào muốn khoanh tay đứng nhìn tam sư đệ một mình ứng phó với kì hạn nửa tháng?” Thi Kế Trung nói: “Ngươi là một trong các hung hiềm (nghi phạm).” “Ngươi...” Chu Liêu Đại muốn phát hỏa, nhưng nhìn đến Quan Tỉnh đứng bên cạnh, cố đem lửa giận đè xuống nói, “Thế chẳng lẽ ngươi không phải?” Thượng Quan Đinh Ninh thấy Phiền Tế Cảnh vẫn nhìn ra ngoài cửa sổ không nói lời nào, đi tới cạnh hắn, nhẹ giọng nói: “Tam sư huynh đang nhìn gì vậy?” Phiền Tế Cảnh nói: “Không biết sư thúc sẽ nói gì với biểu ca?” Mặc dù Hoa Hoài Tú và Tống Bách Lâm rất nhanh thảo luận xong, vào ở căn phòng ngay bên cạnh phòng Phiền Tế Cảnh, nhưng hắn vẫn không biết Tống Bách Lâm cùng y đã nói những gì. Hoa Hoài Tú một bên sai bảo Cửu Hoa đệ tử thay vào chăn đệm mà y mang theo, một bên ngồi đó mạn mạn du du (chậm rãi) chử trà. Phiền Tế Cảnh nhịn không được nói: “Biểu ca, ngươi sao lại đến Cửu Hoa?” Hoa Hoài Tú không ngẩng đầu nói: “Muốn tới thì tới thôi.” “Thế nhưng Hoa gia trước giờ không phải vẫn giục ngươi hồi gia sao?” Hoa Hoài Tú nói: “Ta đã trở về.” “Nhanh như vậy?” Phiền Tế Cảnh hơi giật mình. Theo như hắn biết, môn quy Hoa gia vô cùng nghiêm khắc, con cháu một năm phải ở nhà hầu hạ vài tháng. Trừ phi là chuyện quan trọng, nếu không tuyệt đối không thể đồng ý người ít khi hồi gia như y rời đi. Hoa Hoài Tú quay đầu nhìn mấy vị Cửu Hoa đệ tử đầu đầy mồ hôi đang trải giường, hơi nhíu mày, đứng lên nói: “Đa tạ chư vị, còn lại để tự ta làm.” Đệ tử Cửu Hoa phái như được đại xá, cả đám vội ôm quyền, cuống cuồng chạy ra. Chờ bọn hắn đóng cửa lại, Hoa Hoài Tú mới ngồi xuống nói: “Ta trốn nhà đi.” Phiền Tế Cảnh kinh ngạc nói: “Vì sao?” “Đào hôn.” “Là vị Tống cô nương gặp tại An Khang thành lần trước sao? Ta thấy nàng tự nhiên thanh nhã, coi như cũng là đẹp đôi.” Tay cầm ấm trà của Hoa Hoài Tú hơi run, một lúc mới bình tĩnh giúp hắn châm trà nói: “Nga? Ngươi thích.” Phiền Tế Cảnh vội vàng xua tay nói: “Đương nhiên là không.” “Không phải nàng.” Hoa Hoài Tú nhìn cái chén trước mặt hắn nói, “Uống trà.” Phiền Tế Cảnh không nghi ngờ y, cầm chén lên uống một ngụm, ngay sau đó mặt nhăn lại, “Hảo khổ.” (thật đắng, ‘khổ’ ở đây = đắng) Hoa Hoài Tú đắc ý cười nói: “Ta chử chính là hoàng liên, đương nhiên khổ.” Phiền Tế Cảnh nói: “Vì sao chử hoàng liên?” “Cho ngươi uống.” Hoa Hoài Tú mỉm cười nói, “Giúp ngươi bổ thân.” Phiền Tế Cảnh nhìn nước trong chén, mặt so với hoàng liên còn khổ (‘khổ’ ở đây là đau khổ) hơn. ————- Tác giả nói ra suy nghĩ: Chú ý: Thứ tự huynh đệ thế hệ trước: Nhất – Bộ Lâu Liêm (步楼廉) (chính là vị sư phụ đoản mệnh của Phiền Tế Cảnh, về phần hắn vì sao đoản mệnh, khái khái, nhìn tên đã biết) (mình không hiểu vì sao ~.~) Nhị – Tống Bách Lâm (宋柏林) (lão Đại mất, lão Nhị gào to gào to cũng là đúng) Tam – Biển Phong (扁峰) (còn chưa lên sân khấu, thỉnh bỏ qua không tính) Tứ – Phiền Anh (樊英) (cha của Phiền Tế Cảnh. “Tử” cùng “tứ” là hài âm (đồng âm), sở dĩ tựu... ╮(╯_╰)╭) Ngũ – Ngô Thường Bác (吴常博) (họ Ngô mà, đương lão Ngũ là đúng rồi) (chữ ‘Ngũ’ và ‘Ngô’ trong tiếng TQ phát âm gần giống nhau) Thế hệ sau, cũng là nhất nhị tam tứ ngũ năm người. Nói thêm, bài danh của sư huynh đệ bọn họ là do một hồi thi đấu viết tên —– 1 – Quan Tỉnh (关醒) (bởi vì tên ngắn nhất, sở dĩ đoạt đệ nhất) 2 – Chu Liêu Đại (朱辽大) (tên hơn một chữ, nhưng may là viết đơn giản, sở dĩ thưởng đệ nhị) 3 – Phiền Tế Cảnh (樊霁景) (không cần nhìn, viết nhiều nét hơn a) 4 – Thượng Quan Đinh Ninh (上官叮咛) (ngay đến họ tên đều là bốn chữ, nàng không làm lão Tứ người nào là lão Tứ?) 5 – Thi Kế Trung (施继忠) (buổi tối luôn đi dạo, thế nên sáng không dậy sớm được, thi đấu viết tên đến muộn, dẫn đến thành lão Ngũ ╮(╯_╰)╭) —————————————————— [1] Bình sinh sở vi, sự vô bất khả đối nhân ngôn 平生所为, 事无不可对人言: xưa nay, những việc đã làm, không có việc gì không thể nói ra với người khác. 语出 《宋史·司马光传》:“平生所为,未尝有不可对人言者。” Câu này có xuất xứ từ Tống sử – Tư Mã Quang truyện: “Bình sinh sở vi, vị thường hữu bất khả đối nhân ngôn giả”. Tư Mã Quang 司馬光 tự Quân Thực 君實, hiệu Vu Phu 迂夫, sau lớn tuổi xưng là Vu Tẩu 迂叟, người đời gọi ông là Tốc Thủy Tiên Sinh 涑水先生, sinh năm 1019, mất năm 1086. Ông sinh ra trong một gia đình giàu có ở Hạ Huyện 夏縣, Thiểm Châu, nay thuộc huyện Vận Thành 運城, tỉnh Sơn Tây. Ông là một sử học gia, một học giả lớn, văn học gia, chính trị gia, thừa tướng thời nhà Tống. Ông đã làm quan cho bốn triều đại nhà Tống là: Tống Nhân Tông, Tống Anh Tông, Tống Thần Tông, Tống Triết Tông. Năm Bảo Nguyên đời Tống Nhân Tông, ông mới 20 tuổi thi Tiến Sĩ đỗ khoa đầu (Giáp Khoa). Ông được bổ làm Phụng Lễ Lang, vừa làm quan thì bố mẹ mất, ông từ chức về nhà chịu tang tất cả 5 năm. Sau đó lại ra làm quan, được bổ làm Quốc Tử Trực Giảng (Giảng viên Đại học ở Kinh đô). Quan Khu Mật Phó Sứ (Chức vụ tương đương với Tể Tướng) là Bàng Tịch 龐籍 tiến cử ông làm Quán Các Giáo Khám, Đồng Tri Lễ Viện (nắm việc bộ Lễ). Ông lần lượt nắm chức ở Phủ Khai Phong, rồi Bộ Lễ, gặp việc đều cương trực tâu trình, ít tị hiềm, nhưng cũng may mắn là lời ông thường được nghe theo. Đời Tống Anh Tông, ông làm Gián Nghị Đại Phu, đời Thần Tông, ông được phong Hàn Lâm Học Sĩ, Ngự Sử Trung Thừa. Tớii đời Tống Nhân Tông và Tống Anh Tông, ông thường tham gia luận bàn chính sách quốc gia, nên dần trở thành nhân vật quan trọng trên chính trường. Ông chủ trương bảo thủ, nặng tư tưởng Khổng-Mạnh, ông trở lành thủ lĩnh nhóm bảo thủ (Cựu Đảng) đối lập với chủ trương canh tân của Vương An Thạch 王安石. Đời Tống Thần Tông, vì tư tưởng không đồng nhất với Vương An Thạch, ông phẫn uất với chính trường, năm 1070 ông từ quan dời đến Lạc Dương, quyết không bàn bạc gì đến chính trị, chú chăm vào việc biên soạn sử, ‘Tư Trị Thông Giám’ nhờ đó hoàn thành. Tư trị thông giám không chỉ đề cập các sự kiện lịch sử mà còn có những bình luận, kiến giải về các sự kiện đó. Tư Mã Quang viết “Tư trị thông giám” nhằm đích củng cố sự thống trị của nhà Tống nên nội dung và hình thức công trình sử học này mang màu sắc chính trị rõ nét. Được Tống Thần Tông ủng hộ, cùng với những tài liệu mà ông sưu tầm, ông có tổng cộng gần 4 vạn đầu sách tham khảo để viết “Tư trị thông giám”. Cuốn sách được hoàn thành vào năm 1084 sau 19 năm. Tựa đề Thông giám ở đây có thể được hiểu được hiểu là đề cập tới một tác phẩm có tính chất tham khảo và hướng dẫn; vì thế hoàng đế đã chấp nhận tác phẩm trong lĩnh vực khoa học lịch sử và những ứng dụng của nó trong công việc triều đình, và trong nhiều thập kỷ cai trị của mình vị hoàng đế luôn để tâm tới công trình đó. Cuối năm 1084, dù trời mùa đông đầy tuyết, Tư Mã Quang vẫn đóng sách vào 10 chiếc hòm được trang trí chạm trổ lộng lẫy và thân chinh áp tải từ Lạc Dương đến Biện Kinh dâng lên Tống Thần Tông. Tư trị thông giám có ảnh hưởng sâu rộng đến lịch sử sử học Trung Quốc, thành công được đánh giá ngang với Sử Ký Tư Mã Thiên. Đến năm 1085, Tống Thần Tông mất, Triết Tông lên ngôi, Thái Hậu bổ Tư Mã Quang làm Tể Tướng. Ông loại bỏ gần hết những cải cách của Tân Pháp, song ông làm Tể Tướng chỉ được 8 tháng thì mất, thọ 67 tuổi. Triều đình truy tặng ông làm Thái Sư, thụy là Văn Chính, tước Ôn Quốc Công 溫國公, nên người đời sau còn gọi ông là Ôn Công. Không chỉ là chính trị gia và sử học, ông còn sáng tác, bình phẩm, chú thích văn học, triết học, y học, và tham gia biên soạn tự điển. Ngoài Tư Trị Thông Giám, tác phẩm của ông gồm: Thông Giám Cử Yếu Lịch 通鑑舉要歷, Kê Cổ Lục 稽古錄, Bản Triều Bách Quan Công Khanh Biểu 本朝百官公卿表, Hàn Lâm Thi Thảo 翰林詩草, Chú Cổ Văn Học Kinh 注古文學經, Dịch Thuyết 易說, Chú Thái Huyền Kinh 注太玄經, Chú Dương Tử 注揚子, Thư Nghi 書儀, Du Sơn Hành Ký 遊山行記, Tục Thi Trì 續詩治, Y Vân醫問, Tốc Thủy Kỷ Văn 涑水紀聞, Loại Thiên 類篇, v…v… Tương truyền còn cho ông là chủ biên của Tập Vận 集韻. Sau đây là bài Ôn Công Danh Ngôn. Câu “Bình sinh sở vi, vị thường hữu bất khả đối nhân ngôn giả” chính là từ bài này mà lưu truyền cổ kim. Nguyên văn: 温公名言 平而后清,清而后明。 用人如器,各取所长。 不宝金玉,而忠信为宝。 家贫思良妻,国乱思良相。 由俭入奢易,由奢入俭难。 正心以为本,修身以为基。 与其得小人,不如交愚人。 读重要之书,不可不背诵。 学者贵于行之,而不贵于知之。 人不可以求备,必舍其短,取其所长。 才者,德之资也;德者,才之师也。 上以制下,寡以统众,而纲纪定矣。 贫贱之交不可忘,糟糠之妻不下堂。 生无益于时,死无闻于后,是自弃也。 众人皆以奢靡为荣,吾心独以俭朴为美。 人臣之谊,宜直言正论,非苟阿意顺指。 凡百事之成也在敬之,其败也必在慢之。 小事不糊涂之谓能,大事不糊涂之谓才。 天地之功不可仓卒,艰难之业当累日月。 侈则多欲。君子多欲则念慕富贵,枉道速祸。 为官择人,唯才是与。苟或不才,虽亲不用。 不素养士而欲求贤,譬犹不琢玉而求文采也。 大者为纲,小者为纪,所以张理上下,整齐人道也。 吾无过人者,但平生所为,未曾有不可对人言者耳。 德才兼备为圣人,德才兼亡为愚人,德胜才为君子,才胜德为小人。 善治财者,养其所自来,而收其所有余,故用之不竭,而上下交足也。 书不可不成诵,或在马上,或在中夜不寝时,咏其文,思其义,所得多矣。 尽小者大,慎微者著;积善在身,犹长日加益而人不知也;积恶在身,犹火销膏而人不见也。 天之生人,各有偏长。国家之用人,备有众长。然而投之所向,辄不济事者,所用非所长,所长非所用也。 积金以遗子孙,子孙未必能守;积书以遗子孙,子孙未必能读。不如积阴德于冥冥之中,子孙必有受其报者。 Hán Việt: Ôn công danh ngôn Bình nhi hậu thanh, thanh nhi hậu minh. Dụng nhân như khí, các thủ sở trường. Bất bảo kim ngọc, nhi trung tín vi bảo. Gia bần tư lương thê, quốc loạn tư lương tương. Do kiệm nhập xa dịch, do xa nhập kiệm nan. Chính tâm dĩ vi bản, tu thân dĩ vi cơ. Dữ kỳ đắc tiểu nhân, bất như giao ngu nhân. Độc trọng yếu chi thư, bất khả bất bối tụng. Học giả quý vu hành chi, nhi bất quý vu tri chi. Nhân bất khả dĩ cầu bị, tất xá kỳ đoản, thủ kỳ sở trường. Tài giả, đức chi tư dã; đức giả, tài chi sư dã. Thượng dĩ chế hạ, quả dĩ thống chúng, nhi cương kỷ định hĩ. Bần tiện chi giao bất khả vong, tao khang chi thê bất hạ đường. Sinh vô ích vu thì, tử vô văn vu hậu, thị tự khí dã. Chúng nhân giai dĩ xa mỹ vi vinh, ngô tâm độc dĩ kiệm phác vi mỹ. Nhân thần chi nghị, nghi trực ngôn chính luận, phi cẩu a ý thuận chỉ. Phàm bách sự chi thành dã tại kính chi, kỳ bại dã tất tại mạn chi. Tiểu sự bất hồ đồ chi vị năng, đại sự bất hồ đồ chi vị tài. Thiên địa chi công bất khả thương tốt, gian nan chi nghiệp đương luy nhật nguyệt. Xỉ tắc đa dục. Quân tử đa dục tắc niệm mộ phú quý, uổng đạo tốc họa. Vi quan trạch nhân, duy tài thị dữ. Cẩu hoặc bất tài, tuy thân bất dụng. Bất tố dưỡng sĩ nhi dục cầu hiền, thí do bất trác ngọc nhi cầu văn thải dã. Đại giả vi cương, tiểu giả vi kỷ, sở dĩ trương lý thượng hạ, chỉnh tề nhân đạo dã. Ngô vô quá nhân giả, đãn bình sinh sở vi, vị tằng hữu bất khả đối nhân ngôn giả nhĩ. Đức tài kiêm bị vi thánh nhân, đức tài kiêm vong vi ngu nhân, đức thắng tài vi quân tử, tài thắng đức vi tiểu nhân. Thiện trì tài giả, dưỡng kỳ sở tự lai, nhi thu kỳ sở hữu dư, cố dụng chi bất kiệt, nhi thượng hạ giao túc dã. Thư bất khả bất thành tụng, hoặc tại mã thượng, hoặc tại trung dạ bất tẩm thì, vịnh kỳ văn, tư kỳ nghĩa, sở đắc đa hĩ. Tẫn tiểu giả đại, thận vi giả trứ; tích thiện tại thân, do trường nhật gia ích nhi nhân bất tri dã; tích ác tại thân, do hỏa tiêu cao nhi nhân bất kiến dã. Thiên chi sinh nhân, các hữu thiên trường. Quốc gia chi dụng nhân, bị hữu chúng trường. Nhiên nhi đầu chi sở hướng, triếp bất tể sự giả, sở dụng phi sở trường, sở trường phi sở dụng dã. Tích kim dĩ di tử tôn, tử tôn vị tất năng thủ; tích thư dĩ di tử tôn, tử tôn vị tất năng độc. Bất như tích âm đức vu minh minh chi trung, tử tôn tất hữu thụ kỳ báo giả. Dịch nghĩa: Ôn Công Danh Ngôn Phải công bằng rồi phải trong sạch, trong sạch rồi phải công khai quang minh chính đại. Dùng người phải chiếu theo đức độ tài năng, đều phải theo sở trường của người đó. Không được lấy vàng ngọc làm bảo bối, mà phải lấy trung tín làm bảo bối. Nhà nghèo thì tưởng niệm vợ hiền, quốc loạn thì suy nghĩ cách hỗ trợ. Nên tiết kiệm mà tránh xa xỉ, bởi đã xa xỉ muốn tiết kiệm sẽ rất gian nan. Bản thân phải là chí công vô tư, tu thân sửa mình phải là nền tảng. Chơi với kẻ tiểu nhân, không bằng kết giao với người ngốc nghếch. Đọc những sách quan trọng, thì không phải chỉ nhớ thuộc lòng. Người học rộng quý là biết áp dụng kiến thức, chứ không quý biết nhiều mà không thực hành. Nhân không thể cầu toàn, nhất định đều có sở đoản, phải biết lấy sở trường làm gốc. Người tài, phải hướng tới đức hạnh; người đức hạnh, mới tài năng làm thầy. Thánh thượng phải quản thúc người dưới, phải đặt vào công chúng, thì kỷ cương mới bền vững. Có gian nan mới biết bạn bè, nghèo khổ mới biết nghĩa vợ chồng. Sinh mà không có ích gì, tử cũng không để lại tiếng gì, thì là người không có chí tiến thủ. Nếu thiên hạ đều lấy xa hoa lãng phí làm quang vinh, thì chúng ta chỉ duy độc lấy cần kiệm làm đắc ý. Bề tôi khi nghị sự, phải lấy chính kiến của mình làm lập trường, không phải là cẩu thả tùy tiện buông theo. Bởi vì nếu sự thành thì là tôn kính bề trên, nếu sự mà bại cũng không phải là thể hiện sự bất kính. Việc nhỏ mà không hồ đồ thì là có năng lực, đại sự không hồ đồ thì là người tài năng. Công đức trong trời đất không thể vội vàng hấp tấp mà đạt được, sự nghiệp gian nan không nên nản chí mệt mỏi theo năm tháng. Xa xỉ tức sẽ kéo theo nhiều dục vọng, vua thần mà nhiều dục vọng sẽ ham mê phú quý, đây là một tai họa to lớn. Làm quan phải vì dân, đây mới là điều phải. Cẩu thả hoặc bất tài, thì cũng không cần người đó nữa. Không lo rèn luyện đức hạnh hàng ngày mà muốn tìm hiền tài giúp sức, thì cũng sẽ như một viên ngọc không được mài dũa mà đòi phải tỏa ánh sáng xinh đẹp vậy. Người trưởng bối phải có cương thường riềng mối, người vãn bối phải biết kỷ cương phép tắc, phải biết để ý trên dưới, thì đó là đạo làm người. Chúng ta phải vượt hơn người ở chỗ, những việc đã làm suốt cả cuộc đời, không có việc gì là không thể đối người đời không thể nói ra. Tài đức vẹn toàn là thánh nhân (vua), quên đi đức tài là ngu nhân, đức thắng tài là người quân tử, có tài mà không có đức là tiểu nhân. Người thiện lương trị người tài, là điều vốn dĩ từ tước đến nay, mà thu dụng thêm người tài, sẽ không bao giờ là đủ, mà kết giao người dưới cũng không là xấu. Đọc sách thì phải đọc nhiều, bất kể ở đâu, cả trên lưng ngựa, cả trong thư phòng, phải biết ngâm thơ, phải biết kể nghĩa, sẽ đạt được nhiều thành quả vui sướng. Tích tiểu thành đại, là người cẩn thận; tích thiện trong người, do ngày ngày giúp người mà chẳng màng báo đáp; tích ác trong người, do nóng giận mà vô tình làm cũng không kể hết được. Trời xanh sinh ra, con người đều bị thiên vị khác nhau. Quốc gia cần người, thì có dân chúng. Nhưng mà người cần được tiếp nhận, không phải là không nên việc người, phải là người sở dụng được, chứ không phải chỉ có sở trường người, có sở trường mà không thể sở dụng thì cũng như không. Cho con cháu vàng bạc châu báu, con cháu không có khả năng giữ được lâu dài; cho con cháu sách vở học thức, con cháu chưa hẳn sẽ đọc được lâu dài. Không bằng tích đức của chính mình cho con cháu, con cháu chắc chắn sẽ được người báo đáp. (nao-chan: Phần Nguyên văn tiếng Trung trích từ baike. Phần Hán Việt từ QT ca ca, còn phần Dịch nghĩa là ta tự mình làm toàn bộ, trên web không hề có phần dịch nghĩa này, với chút kiến thức của mình, ta đã cặm cụi mài gươm tự mình xông trận, phần Ôn Công Danh Ngôn này khó, toàn từ cổ ngữ, toàn thuật ngữ trị quốc làm người, nên có chỗ nào sai sót, thỉnh mọi người góp ý. Đa tạ. ^_^) [2] Thành giả vật chi chung thủy, bất thành vô vật. Thị cố quân tử thành chi vi quý 诚者,物之终始,不诚无物。是故君子诚之为贵: Bởi vật vốn tự nhiên không thay đổi mới không bị mất đi, dù có bị biến hóa đa đoan thế nào, rồi lúc chung cuộc, cũng trở về nguyên bản, cũng như quân tử lấy sự thành thật hoàn thiện mình làm quý giá. Thành 誠 = có nghĩa là thành thật, cũng có nghĩa là sự hoàn thiện. Câu trên vốn nguyên bản được trích từ sách Kinh Lễ (1) hay còn gọi là Lễ ký (禮記 Lǐ Jì), bộ Trung Dung (中庸 Zhōng Yóng), chương thứ 25, mục Thánh nhân trong ngoài trọn hảo. (1) Kinh Lễ: là một quyển trong bộ Ngũ Kinh của Khổng Tử, tương truyền do các môn đệ của Khổng Tử thời Chiến quốc viết, ghi chép các lễ nghi thời trước. Tiếng Trung: 第 二 十 五 章 誠 者, 自 成 也; 而 道, 自 道 也. 誠 者, 物 之 終 始, 不 誠 無 物. 是 故 君 子 誠 之 為 貴. 誠 者, 非 自 成 己 而 已 也, 所 以 成 物 也. 成 己, 仁 也; 成 物, 知 也; 性 之 德 也, 合 外 內 之 道 也. 故 時 措 之 宜 也. Hán Việt: Đệ nhị thập ngũ chương Thành giả, tự thành dã; nhi đạo, tự đạo dã. Thành giả, vật chi chung thủy, bất thành vô vật. Thị cố quân tử thành chi vi quý. Thành giả, phi tự thành kỷ nhi dĩ dã, sở dĩ thành vật dã. Thành kỷ, nhân dã; thành vật, trí dã; tính chi đức dã, hợp ngoại nội chi đạo dã. Cố thời thố chi nghi dã. Dịch và bình nghĩa: 1. Thành giả, tự thành dã; nhi đạo, tự đạo dã. Thành chi (trở nên hoàn thiện) là đạo quân tử, là đạo người. Thành là đạo Trời, là đạo thánh nhân vốn tự nhiên mà có. Nơi Trời, nơi thánh, sự hoàn thiện đã sẵn có nơi mình, mà đạo lý cũng đã sẵn có nơi mình,không phải cầu cạnh nơi đâu. Tự thành ở đây cũng như tự cường, tự lập, tự trị. Sở dĩ, mình nên tự trị được mình chỉ là mình làm lấy mình, nên không phải vay mướn nhờ cậy ai cả, nên bảo rằng tự thành; mà sở dĩ tự thành được là gốc ở cái tinh thần chân thật, nên nói rằng ‘Thành giả, tự thành dã’. Xem ở hai chữ ‘tự đạo’ thì chúng ta nên biết rằng ta đã là người thì chính giữa chân lý của mình ta làm nên người tức là đạo. Dầu Phật, dầu Thánh, dầu Thượng Đế, dầu Thiên chúa cũng chỉ ở giữa mình ta mà thôi, không bao giờ ở ngoài mình ta mà có đạo, nên nói rằng ‘tự đạo’. (Dẫn từ sách cụ Phan Bội Châu, Khổng học đăng I, tr.378) Thành giả tự thành dã, nhi đạo tự đạo dã. Thành (tuyệt đối thể) tự mình mà có, và thành làm đường cho chính mình. (Vũ Đình Trác & Trần Văn Hiến Minh, Triết học Đông phương, tr.140) 2. Thành giả, vật chi chung thủy, bất thành vô vật. Trời Đất hoàn thiện là gốc gác phát sinh ra muôn vật. Như vậy gốc gác muôn vật dĩ nhiên là hoàn thiện. Hơn nữa vạn vật dẫu biến hóa đa đoan đến mức nào, rồi ra lúc chung cuộc cũng phải trở về nguyên bản là Trời Đất. Đó là định luật tuần hoàn. Cho nên sự hoàn thiện cũng chính là mục đích muôn loài. Không Trời, dĩ nhiên không người, không vạn vật. Nhưng sinh muôn vật mà không để cho biến thiên tiến hóa cho tới hoàn thiện, thì sinh ra đã vô nghĩa, mà biến hóa cũng vô nghĩa. Cho nên dù xét về phương diện nguyên thủy, quá trình biến hóa, hay cùng đích, thì sự hoàn thiện cũng vẫn là lẽ sống muôn loài. 3. Cố quân tử thành chi vi quý. Hiểu biết đầu đuôi của cuộc thế, hiểu biết ý nghĩa sâu xa của lẽ biến dịch, tuần hoàn, cũng như của cuộc đời, dĩ nhiên người quân tử lấy sự hoàn thiện mình làm quý. 4. Thành giả, phi tự thành kỷ nhi dĩ dã, sở dĩ thành vật dã. Thành kỷ, nhân dã; thành vật, trí dã; tính chi đức dã, hợp ngoại nội chi đạo dã. Cố thời thố chi nghi dã. Thành kỷ là hoàn thiện mình, thành vật là cải thiện hoàn cảnh bên ngoài. Người hoàn thiện phải có đủ hai mặt trong ngoài, không thể khinh khi một khía cạnh nào. Sách Ecclésiastique nói: «Mọi sự đều có một lúc, mọi vật đều có một thời ở dưới trời này.» Cho nên dồn cả thời gian vào công việc chắc không phải là thuận theo ý Trời. Á Đông ta từ trước đến nay thường chỉ chú trọng nội tâm, mà quên đi hoặc coi thường ngoại cảnh, nên đã phải chứng kiến cảnh bao nhiêu triệu sinh linh đói khát lầm than. Đó cũng là một bài học cần phải được ngẫm nghĩ. Sống trong thế giới tương đối, dĩ nhiên là phải chấp nhận hai chiều, hai mặt biến thiên, cần phải có cả trong lẫn ngoài, bỏ một phương diện nào cũng có thể gọi là không hoàn toàn. Cho nên cái hay là phải biết sắp đặt thời giờ. Tuổi trẻ thì để tâm nhiều hơn đến xác thân, vật chất, ngoại cảnh, quốc gia, xã hội. Tuổi già cần chú trọng phương diện nội tâm. Thế mới đúng là chiều Xuân sinh, Hạ trưởng, Thu liễm, Đông tàng của trời đất. Tuy nhiên bao giờ cũng phải tâm niệm rằng vật chất cốt là để phục vụ tinh thần, chứ không phải là tinh thần cốt để phục vụ vật chất. Suốt đời lấy tinh thần phục vụ vật chất là không biết bắc cân nặng nhẹ. Đã không biết nặng nhẹ trọng khinh thì rốt cuộc sẽ nếm mùi thất bại. Lã Thị Xuân Thu viết: «Vật dã giả sở dĩ dưỡng tính dã, phi sở dĩ tính dưỡng dã. Kim thế chi nhân hoặc giả đa dĩ tính dưỡng vật, tắc bất tri khinh trọng dã. Bất tri khinh trọng tắc trọng giả vi khinh, khinh giả vi trọng hĩ. Nhược thử tắc mỗi động vô bất bại.» 物 也 者 所 以 養 性 也, 非 所 以 性 養 也. 今 世 之 人 惑 者 多 以 性 養 物 則 不 知 輕 重 也. 不 知 輕 重 則 重 者 為 輕 輕 者 為 重 矣. 若 此 則 每 動 無 不 敗 (Chư Tử văn túy, q.47, tr.1) (Phần “Dịch và bình nghĩa” dẫn từ Sơn Trung Thư Trang, phần Trung Dung bình dịch IV) [3] Mê vụ 迷雾重重: sương mù dày đặc. Ý cả câu là: chứng cứ hư ảo, không xác thực, làm mất phương hướng. [4] Huynh đệ đồng tâm, kỳ lợi đồng tâm 兄弟同心,其利断金: huynh đệ đồng chung một lòng thì việc gì cũng sẽ đồng chung ích lợi lớn.
|