Ngồi Khóc Trên Cây
|
|
Ngồi Khóc Trên Cây Tác Giả : Nguyễn Nhật Ánh Thể loại : Truyện Teen Số Trang : 14 Trạng Thái : FULL
Giới thiệu truyện:
Tên sách có làm bạn tò mò? “Ngồi khóc trên cây” có vẻ là một truyện hành động của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh? Bạn sẽ gặp, sau những câu thơ lãng mạn của chính tác giả làm đề từ, là cuộc sống trong một ngôi làng thơ mộng ven sông, kỳ nghỉ hè với nhân vật là những đứa trẻ mới lớn có vô vàn trò chơi đơn sơ hấp dẫn ghi dấu mãi trong lòng. Câu chuyện của cô bé Rùa và chàng sinh viên vốn ở quê chuyển ra thành phố có giống như bạn từng có thời đi học? Và cái cách họ thinh thích, rồi thương nhau giấu giếm, sợ làm nhau buồn, mong mỏi gặp nhau đến mất ngủ… có phải là mối tình đầu giống như của bạn? “Dài nhanh lên với Tóc xõa ngang mày Lớn nhanh lên với Bé bỏng chiều nay” Bạn sẽ được tác giả dẫn đi liền một mạch trong một thứ cảm xúc rưng rưng của tình yêu thương. Bạn sẽ thấy may mắn vì đang được sống trong cuộc sống này, thấy yêu thế những tấm tình người… tất cả đều đẹp hồn hậu một cách giản dị. Với cuốn sách mới này, một lần nữa người đọc lại được Nguyễn Nhật Ánh tặng món quà quý giá: lòng tin rằng điều tốt có thật trên đời.
|
Chương 1 - Phần 1 Chương một “Nồng nàn lên với Cốc rượu trên tay Xanh xanh lên với Trời cao ngàn ngày Dài nhanh lên với Tóc xõa ngang mày Lớn nhanh lên với Bé bỏng chiều nay” 1. [Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại . .com - gác nhỏ cho người yêu sách.] Chiều rớt nắng trên ngọn sầu đông. Nắng rơi xuống, rất dày, nhưng bị các nhánh lá cản lại trên cao. Vô số nắng nằm trên ngọn cây. Ở những khoảng trống, nắng tiếp tục rơi. Tôi ngồi duỗi chân trên cỏ, nghe nắng ấm xuyên qua lớp vải. Trước mặt tôi, trong dòng sông Kiếp Bạc, nắng đang đùa giỡn với cát. Mùa hạ, sông Kiếp Bạc khô cạn. Lòng sông phơi những tảng đá đen, bây giờ đã mượt rêu xanh. Cô Út Huệ ở bên kia sông. Hồi bé, đi thăm cô tôi phải lần mò qua cây cầu dây cheo leo, luôn đong đưa. Tôi nhớ, mỗi lần qua cầu tôi phải nhắm tịt mắt, tay lần theo dây bám dò từng bước một. Lớn lên một chút, tôi bạo dạn hơn hẳn, đã dám mở mắt nhưng không bao giờ đủ can đảm nhìn xuống lòng sông. Cúi nhìn xuống, tôi sợ hãi cảm thấy không phải dòng nước đang trôi mà chính là cây cầu đang trôi. Cảm giác đó làm tôi lảo đảo, chếnh choáng như người say. Lần đó, nếu chú Thảo đi phía sau không kịp đưa tay tóm lấy tôi, tôi đã rơi xuống dòng nước đang chảy xiết kia. Thoáng đó mà đã xa rồi. Chú Thảo đã mất trong một mùa mưa, sau một cơn tai biến. Con đường từ đường quốc lộ dẫn về làng đổ bê tông từ nhiều năm trước, nhưng nửa chừng thì ngoài huyện bảo hết tiền, chả hiểu tại sao. Thế là từ đường quốc lộ ngoặt về làng chỉ có bảy cây số đường phẳng. Bảy cây số còn lại vẫn là con đường đất đỏ lồi lõm, mùa nắng xe nảy tưng tưng, mùa mưa bánh xe bị bùn gói kín, không nhúc nhích được. Chú Thảo người gầy gò nhưng huyết áp cao, cô Út Huệ bảo thế. Vào giữa mùa mưa năm đó, huyết áp chú có lúc lên gần 200. Chú bị đứt mạch máu mũi, máu chảy ướt cả ngực áo. Nhưng thím Lê không chuyển chú đến bệnh viện được. Đường làng lầy lội như trâu tắm, xe gắn máy bì bõm lội sình một quãng đã nhuộm đầy bùn đỏ. Xe ô tô thì vô phương cựa quậy. Chú Thảo nằm chết gí ở nhà, đến ngày thứ ba thì mất. Đám ma chú, tôi có về. Đáp xe đò từ Sài Gòn, chạy suốt hai ngày một đêm, đến ngã ba Quán Gò phải đón xe thồ ngược lên. Trong màn mưa lướt thướt, tôi thấy những ô tô đi đám chú dồn cục ở cuối con đường bê-tông, loay hoay một lúc đành quay về sau khi cử một người đại diện leo xe thồ đi tiếp. Bà nội tôi mất trước chú Thảo mấy năm. Đó là hai người thân thiết nhất của tôi. Lần gần nhất tôi về thăm bà xảy ra đã lâu. Nhớ lần đó tôi thường len lén bỏ tiền vào sạp gạo. Sáng, bà đong gạo thổi cơm thấy tiền trong sạp, ngước nhìn tôi dò hỏi: - Cháu bỏ tiền vô đây phải không? - Dạ, không ạ. Bà nhìn tôi, hiền từ: - Cháu chứ ai? - Không phải cháu đâu bà. – Tôi tinh nghịch – Chắc trong nhà mình có một cô Tấm mà tại bà không biết đó thôi! Bà móm mém cười: - Đó là cậu Tấm không phải cô Tấm! 2 Tôi nhìn ra sông nắng và bất giác mỉm cười. Câu chuyện xưa khiến tôi tự nhiên thấy lòng nao nao khó tả. - Anh Đông ơi! Tiếng thằng Thục con chú Thảo vọng lại từ xa, phía sau tôi. - Anh ngồi làm gì đó? – Tiếng thằng nhóc lại vang lên – Đi xuống chợ Kế Xuyên chơi với em đi! - Xuống chợ làm gì giờ này? Chợ Kế Xuyên cách làng Đo Đo gần mười cây số. Nghĩ đến quãng đường xa, tôi thấy ngần ngại. - Đi lượm nắp keng! Tôi chợt nhớ trò chơi hồi bé, mặt dãn ra: - Đã hết mùa giấy kính rồi hả mày? - Dạ. Bọn trẻ con làng Đo Đo không đo ngày tháng theo thời tiết tự nhiên. Chúng chả bao giờ gọi tên bốn mùa theo cách thông thường. Một năm của bọn chúng có tới sáu mùa: Mùa giấy kính, mùa nắp keng, mùa cọng dừa, mùa bao thuốc lá, mùa thả diều, mùa chong chóng. Mùa giấy kính thường trùng với mùa xuân. Những ngày tết bọn trẻ con trong làng được ăn mứt, hạt dưa, bánh thuẫn, bánh in… Bánh in hình vuông, gói bằng giấy kính màu. Màu xanh, màu đỏ, màu cam, màu vàng, màu nõn chuối… Ăn xong, bọn trẻ giữ lại tờ giấy kính, chốc chốc đưa lên mắt để nhìn cảnh vật khi thì màu hồng lúc thì màu xanh để sung sướng tận hưởng cảm giác mới lạ. Lúc còn ở làng, tôi đã bao nhiêu lần áp tờ giấy kính màu vào mắt, rồi ngoẹo cổ quay đầu nhìn bốn phía, thích thú khi thấy mái nhà màu vàng, con gà màu vàng, con chó màu vàng, con mèo màu vàng, cây me trước ngõ nhà chú Thảo cũng màu vàng. Một lát, tôi thay tờ giấy kính xanh để lâng lâng thấy mái nhà màu xanh, con gà màu xanh, con chó màu xanh, con mèo màu xanh, cây me trước ngõ nhà chú Thảo cũng màu xanh. Trong thời gian đó, đứa nào có nhiều giấy kính nhất là đứa giàu nhất làng. Một tờ giấy kính có thể đổi được năm mươi cọng dây thun đeo tay. Hai tờ giấy kính đổi được mười viên bi, hoặc có thể thuê bạn bè chép bài giùm suốt buổi học. Những ngày xuân trôi mau kéo theo mùa giấy kính. Qua tháng tư, những tờ giấy gói bánh thẳng thớm ngày nào đã không còn trong suốt. Chúng nhàu rách theo thời gian và theo sự giày vò của bọn trẻ, không còn dùng để nhìn đời được nữa. Bánh in thì các tiệm tạp hóa vẫn bán quanh năm nhưng trẻ con không có tiền mua. Những ngày tết rủng rỉnh tiền lì xì đã qua mất rồi! Và khi những tờ giấy kính giống như những tờ giấy bạc sờn cũ không còn xài được nữa thì mùa nắp keng bắt đầu. Giống như khi hoa mai rụng báo xuân tàn thì mùa hè vội vã kéo sang. Thực ra các mùa của bọn trẻ diễn ra không cố định. Mỗi mùa bắt đầu từ ngày nào và chấm dứt vào ngày nào thường do đứa lớn nhất trong bọn khởi xướng. Có khi thằng đầu lĩnh này do đã chán trò chơi cũ hoặc do thua sạch vốn liếng liền gian lận bằng cách tuyên bố kết thúc một mùa sớm hơn thường lệ khiến các loại tiền tệ như nắp keng hay bao thuốc lá trong chốc lát bỗng hóa thành vô dụng. Gặp trường hợp đó, những đứa bé hơn chỉ còn biết khóc lóc trong ấm ức, sau đó chùi nước mắt cất tiền vào hộc tủ để dành cho năm sau. - Mày xin phép mẹ chưa? – Tôi ngập ngừng hỏi Thục. - Dạ rồi. Em bảo em và anh xuống chợ mua compa. Vừa nói Thục vừa leo xuống xe đạp, giúi ghi đông vào tay tôi: - Anh chở em đi! Xe chạy qua những đoạn đường gồ ghề, tôi phải thường xuyên bẻ tay lái để tránh những hục hang chi chít và những mô đất lổm ngổm như những con heo con. Lúc tôi chạy tới đoạn đường sắt vắt ngang con đường mòn, vừa nghe tiếng còi tàu vang lên từ xa, Thục đã đập tay lên lưng tôi, rối rít: - Ngừng lại xem đi anh! Tàu sắp chạy qua kìa! Tôi mỉm cười dừng xe theo lời thằng nhóc. Tôi nhớ hồi tôi còn bé, bé hơn Thục bây giờ, mỗi lần ba tôi chở tôi ngang qua đây, thế nào ông cũng dừng xe lại, chờ đoàn tàu chạy ngang để chỉ cho tôi xem. Tôi ngồi trên yên sau, ngóng mắt về cuối cánh rừng, nơi đường ray nhỏ dần rồi mất hút sau những rặng cây xanh, thấp thỏm chờ đợi. Một lát, tôi nghe có tiếng còi tàu văng vẳng, ngay sau đó một chiếc đầu đen sì, vuông vức, khói mù mịt phun ra từ chiếc ống cũng đen sì hiện ra sau một khúc quanh. Những toa sắt dài lê thê như một con rồng bằng kim loại sầm sập lao đến, mỗi lúc một lớn dần khiến lòng tôi háo hức xen lẫn sợ sệt. Tôi nhích người ra xa bằng cách ẹo người trên yên xe, hồi hộp nhìn các toa tàu lướt qua trước mặt với những bóng người lố nhố bên trong, có cảm tưởng đoàn tàu dài vô tận, lòng dậy lên ao ước được ngồi lên con tàu kì dị đó một lần. Những lúc không nghe tàu kéo còi, ba tôi dựng xe bên vệ đường, dắt tôi vào cánh rừng bên cạnh để tìm trái chín. Những chùm trái nổ trắng ngần, những chùm trâm tím sẫm, những trái mô đỏ như gạch cua và những trái dủ dẻ màu vàng là những thứ trái cây gắn liền với tuổi thơ tôi trong những lúc chờ tàu. - Tàu kìa! Tàu kìa! Thằng Thục reo lên từ sau lưng tôi. Dường như nó đứng cả người lên miếng sắt đặt chân nên tôi thấy chiếc xe chao đi, hai chân tôi phải ghìm thật chặt mới gượng lại được. Tôi nhăn nhó: - Mày ngồi xuống xem cũng được mà! Nghe lời tôi, Thục không đứng trên xe nữa. Nhưng nó cũng không ngồi. Nó trèo xuống khỏi xe, chạy ra đứng trước mặt tôi, hai tay chống lên đầu gối, tròn mắt ngắm đoàn tàu. Nó cứ đứng với tư thế đó, quay cổ ngó theo đoàn tàu mỗi lúc một xa dần về phía hoàng hôn. - Lên xe đi mày! – Tôi lắc ghi đông xe, nhắc – Trời sắp tối rồi đó! 3 Chợ Kế Xuyên đã vãn khi tôi đến, nhưng hàng quán dọc hai bên chợ vẫn ồn ào, tấp nập người vào ra. Thục hấp tấp nhảy xuống đất khi tôi trờ tới trước một quán ăn: - Anh đứng ngoài này, để em vào! Từ ngoài cửa, tôi nhìn thấy Thục hớn hở rảo quanh các bàn ăn, loay hoay giữa các chân ghế, có lúc ngồi thụp xuống đất, lui cui nhặt nhạnh. Trong một lúc, tôi bắt gặp tôi đang bâng khuâng nhớ lại hình ảnh của mình cách đây nhiều năm về trước. Cùng nhặt nắp keng với Thục có một con bé trạc tuổi nó. Tôi thấy thỉnh thoảng hai đứa lại giành giật nhau. Có lần, hai đứa ngoác miệng cãi cọ, Thục thò tay giật tóc con bé làm nó thét lên thất thanh. Nghe ồn ào, chủ nhà bước lại vung tay đuổi cả hai ra khỏi quán. Trong khi con bé đứng buồn rầu trước cửa, Thục mặt hầm hầm đi về phía tôi. - Gì thế Thục? – Tôi hỏi. - Con Rùa! – Thục hừ mũi – Nó giành nắp keng với em! Tôi trố mắt: - Con bé đó tên Rùa à? - Cái tên đó là do tụi em đặt. – Thục giải thích, giọng vẫn chưa hết ấm ức. – Nó lớn tồng ngồng rồi mà chẳng biết chạy xe, đi đâu cũng lết bộ nên tụi em gọi nó là con Rùa. Bây giờ cả làng đều gọi nó bằng cái tên đó. Bà nội cũng gọi nó là con Rùa. - Nó ở làng mình à? - Dạ. Nhà nó ở bên kia sông. Tôi ngạc nhiên: - Thế nó đi bộ mười cây số để lượm nắp keng sao? - Dạ. Tôi thọc tay vào hai túi quần căng phồng của Thục, lôi ra một vốc nắp keng: nắp chai bia, nắp chai xá xị, nắp chai nước cam. Tôi chép miệng, tự nhiên thấy tội con Rùa: - Mày nhặt được nhiều thế này, thì còn giành với con bé đó làm chi! Vừa nói tôi vừa quay đầu nhìn về phía cửa quán nhưng con Rùa đã chạy đi đâu mất. Tôi sẽ quên mất con Rùa nếu sáng hôm sau đang ngồi đọc sách trong nhà, tôi không có cảm giác có ai đó đang nhìn mình. Nhưng khi tôi ngước mắt trông lên thì chẳng thấy người nào. Bên ngoài cửa sổ là một khoảng sân vắng ngập tràn gió và nắng. Chỉ có hai con chích chòe đang líu lo trên cây me trước ngõ. Xa xa, trên bãi cỏ rộng dưới chân đồi một bọn trẻ trạc tuổi thằng Thục đang chia phe chơi u. Có ai nhìn mình đâu nhỉ? Tôi tự hỏi, và cúi xuống trang sách. Nhưng mới đọc được vài dòng, tôi ngờ ngợ, lại ngẩng đầu nhìn quanh. Lần này, sau một hồi quét mắt ra bốn phía, tôi phát hiện một đôi mắt đen láy lấp ló chỗ kẽ hở giữa hai tấm phên. Vừa bắt gặp tia nhìn của tôi, đôi mắt biến mất và tôi nghe rõ tiếng chân chạy vù đi bên kia bức vách. Tôi rời bàn, bước lại chỗ cửa sổ nhìn theo, nhận ra là con Rùa qua mái tóc trông rất kỳ cục của nó. Tối hôm qua, tôi đã nhìn thấy mái tóc này ở chợ Kế Xuyên, cụt ngủn, so le, nom giống như một khóm lá bị tỉa vụng. Tôi tính ngoác miệng gọi con Rùa nhưng đến phút chót tôi quyết định làm thinh. Nó chạy được một quãng xa, tôi kêu chưa chắc nó đã chịu quay lại. Hơn nữa tôi không muốn làm nó sợ. Trưa, tôi khều thằng Thục: - Thục này! - Gì hở anh? - Con Rùa là con ai vậy mày? - Nó là cháu thầy Điền. Tôi biết thầy Điền. Hồi bé tôi từng học thầy. Thầy Điền dạy học trò, nổi tiếng nhất môn thủ công. Hôm nào nhà thầy sắp có giỗ, thế nào môn thủ công của thầy cũng có đề bài là: vót đũa. Tới ngày, mỗi đứa học trò nộp cho thầy mười đôi đũa tre, bó thành một bó. Thầy sung sướng đem “bài làm” của học trò về nhà bày ra mâm, khỏi phải đi mượn hàng xóm hay ra chợ mua. Đã thành lệ, hôm nào thầy ra đề “vót đũa”, tụi học trò biết ngay nhà thầy sắp có giỗ. Nhà thầy lắm giỗ, có lẽ vì thầy là con trai cả. Nhờ thầy mà khả năng vót đũa của bọn trẻ con trong làng chẳng mấy chốc được nâng lên thành hàng nghệ thuật. Con trai thầy Điền là ông Hương, ba con Rùa. Ông Hương chết vì bị nước cuốn. Người làng bảo ba con Rùa nửa đêm một mình xách gậy rượt theo bọn cướp. Khi băng qua chiếc cầu treo, ông sẩy chân rớt xuống sông Kiếp Bạc, bị nước xoáy cuốn đi mất tích. Một tháng sau ngày chồng mất, mẹ con Rùa khăn gói bỏ nhà ra đi. Có người làng gặp bà ở một thị trấn phương Nam, về thuật lại rằng bà đã có chồng khác, hiện hai vợ chồng đang mở một quán nước nhỏ để kiếm sống. Còn bĩu môi nói thêm rằng người chồng sau của bà suốt ngày say xỉn, chắc chẳng ra gì. Từ khi con trai chết, con dâu bỏ đi, vợ chồng thầy Điền phải chăm lo cho đứa cháu nội là con Rùa. Thầy dời nhà từ dốc Sỏi xuống gần nhà cô Út Huệ, cạnh chùa Tịnh Độ. Thày bỏ dạy về nhà, suốt ngày ngồi quay mặt sang giàn nguyên tiêu của nhà chùa, ê a tụng kinh gõ mõ. Thằng Thục chắc không học thầy được ngày nào, nhưng quen cách gọi của người làng, vẫn gọi là thầy Điền. - Thế con Rùa là đứa mồ côi ba mẹ hả mày? – Tôi buột miệng hỏi. - Mẹ nó còn sống mà anh. - Sống nhưng ở xa, lại lấy chồng khác, coi như con Rùa không có mẹ. - Dạ. - Tội nó ghê há mày. - Dạ. - Vậy sao hôm qua mày còn giật nắp keng với nó? Tôi hỏi khó quá nên thằng Thục tảng lờ. Nó kéo tay tôi, đánh trống lảng: - Qua nhà thằng Hợi chơi đi anh! - Nhà nó có gì hay à? - Qua mua kẹo đậu phộng! Tôi sờ túi áo, tặc lưỡi: - Tao hết tiền rồi! Thục vỗ vỗ tay lên túi quần căng phồng: - Anh đừng lo! Em có khối tiền đây! Tiền của thằng Thục là mớ nắp keng. Cách đây một tuần, tiền của bọn trẻ làng là những tờ giấy kính. 4 Nhà thằng Hợi là tiệm tạp hóa. Tiệm tạp hóa đối với bọn trẻ con là một kho báu vô giá. Kho báu đó chứa đủ thứ trên đời: nước mắm, xì dầu, rượu, những quả trứng, vòng đeo tay, kẹp tóc… Và hằng hà những món mà bất cứ đứa trẻ nào cũng thèm nhỏ dãi: kẹo ú, kẹo đậu phộng, bánh tai heo, bán in, bánh thuẫn, nước cam, xá xị, đường phèn, những viên bi ve, những quả bong bóng chưa thổi, dây thun, những hộp chì màu có hình nàng Bạch Tuyết hay bảy chú lùn ngoài vỏ hộp. Thằng Hợi đi học về, thường ngồi trên chiếc ghế nhựa thấp màu đỏ, bán hàng phụ mẹ nó. Khi mẹ nó ngồi đó, Hợi bán hàng thu tiền đàng hoàng. Nhưng khi mẹ nó chạy vô bếp làm thịt, lặt rau, vo gạo, giao cửa tiệm cho nó trông coi, nó bán hàng bằng tiền giấy kính, tiền nắp keng, tiền cọng dừa… tùy theo mùa. Thằng Thục kéo tôi qua tiệm tạp hóa nhà thằng Hợi bên kia đường, chếch về phía trường học. Tụi tôi không qua ngay mà lượn qua lượn lại trước cửa tiệm bốn, năm lần cho đến khi mẹ thằng Hợi bỏ vào nhà trong. Chỉ chờ có thế, Thục vọt lại trước mặt bạn nó, lôi mớ nắp keng trong túi quần ra: - Bán cho tao hai miếng kẹo đậu phộng! Hợi thô lố mắt nhìn bàn tay đang chìa ra của Thục: - Mày có bao nhiêu nắp keng đó? - Mười cái. Hợi nhún vai: - Mười cái chỉ mua được một miếng kẹo thôi. - Mày bán mắc vậy? – Thục đá chân vô chiếc ghế thấp thằng Hợi đang ngồi, hừ mũi – Năm ngoái tao nhớ là… Hợi phẩy tay, cắt ngang: - Năm ngoái khác, năm nay khác. Mày không mua thì thôi. Thục đành phải trả thêm mười nắp keng nữa, mặt mày đau khổ như thể nó vừa phải hi sinh thêm mười ngón tay hay mười ngón chân. Nó đón lấy hai miếng kẹp, không quên chửi kèm một câu cho hả tức: - Đồ tham lam! Trên đường về, thằng Thục vẫn chưa nguôi hậm hực: - Để ngày mai chơi bi, em sẽ ăn sạch nắp keng của thằng Hợi cho anh coi. “Bi” trong trò chơi của bọn trẻ làng tôi không phải là những viên bi ve đắt tiền đang bày bán trong tiệm tạp hóa của mẹ thằng Hợi. Mỗi đứa chọn cho mình một cái nắp keng tròn trịa nhất, ưng ý nhất, đổ đầy sáp đèn cầy vào, nén chặt, đợi cho khô rồi đem ra chơi thay cho những viên bi thủy tinh. Mùa này, chúng đánh “bi” ăn tiền nắp keng. Và thằng Thục, theo như nó tự khoe, nó là một tay chơi siêu hạng. Tất nhiên là tôi không tin thằng Thục. Bởi vì nếu đúng như nó nói thì chẳng việc gì nó phải mò xuống tận chợ Kế Xuyên để lui cui nhặt nắp keng trong các hàng quán. Nhưng tôi không chọc quê nó. Chỉ nói: - Ờ, ráng lên đi mày! 5 Hồi trưa tôi định kể với thằng Thục chuyện con Rùa nấp ngoài hè rình tôi nhưng khi Thục rủ tôi qua nhà thằng Hợi, bỗng dưng tôi quên bẵng mất chuyện đó. Sáng hôm sau, tôi vẫn ngồi chỗ chiếc bàn cạnh cửa sổ, lật cuốn sách đang đọc dở ra xem tiếp. Nhưng lần này, tôi bắt gặp mình không thể tập trung như hôm qua. Tôi càng cố vùi mình vào trang sách thì trang sách càng đẩy tôi ra. Hình bóng con Rùa lấp đầy tâm trí tôi làm tôi lãng đi. Nó ám ảnh tôi đến mức khi ngẩng đầu lia mắt ra chung quanh, thoạt nhìn thấy thứ gì tròn tròn tôi cũng tưởng là con mắt: những hạt nút của chiếc áo bông với những đường sọc chéo đã cũ treo trên vách, một mẩu đinh bị cong trên thân cột, một vết ố trên tấm liếp, một chiếc khoen han gỉ… Nhưng tới một lúc, tôi nhận ra cạnh chiếc tủ quần áo, ở khe hở giữa hai tấm phên, có một đôi mắt đang nhìn tôi thật. Khi phát giác ra con Rùa, tôi giật đánh thót một cái, nhưng ngay lập tức tôi kềm mình lại. Tôi vờ như không hay biết, lại cúi xuống trang sách trước mặt, cắm cúi đọc. Tôi ngồi yên trên ghế, cố không nhìn về phía con Rùa nấp, nhưng đôi tai tôi dỏng lên nghe ngóng xem nó có bỏ đi hay không. Một hồi lâu, tôi vẫn không nghe thấy động tĩnh gì. Như vậy, con Rùa vẫn còn ở ngoài hè. Nó vẫn đang nhìn trộm tôi qua khe liếp. Tới đây thì tôi vô cùng bối rối, vì tôi không biết phải làm gì tiếp theo. Tôi biết nếu tôi đứng lên, chắc chắn con Rùa sẽ bỏ chạy. Nhưng tôi cũng không thể ngồi trơ ra mãi như vậy. Cuối cùng, tôi đánh liều lên tiếng, vẫn không ngẩng mặt lên, cố lấy giọng thật ngọt ngào, thân thiện: - Em thích đọc sách lắm hả em? Có tiếng sột soạt từ phía vách đáp lời tôi. Có lẽ con Rùa bị bất ngờ nên gây ra tiếng động nhưng rồi nó kịp dập tắt ngay. Không thấy tiếng chân chạy, tôi bắt đầu cảm thấy yên tâm. Vẫn tư thế cũ, tôi lại dịu dàng hỏi: - Em thích đọc sách gì hả Rùa? Lần này bị tôi gọi đích danh, con Rùa biết là tôi đã phát hiện ra nó. Cũng như tôi, có lẽ nó đang lúng túng không biết phải làm gì: bỏ chạy, vẫn đứng nguyên tại chỗ hay lên tiếng trả lời. Ở bên trong, tôi cũng đang nín thở chờ đợi, vì thực ra tôi cũng không rõ con Rùa sẽ phản ứng ra sao. Một bầu không khí khắc khoải chạy quanh căn nhà. Tiếng gió rít qua những tàng cây vọng vào tai tôi rõ mồn một. Tiếng cãi nhau giữa hai con chích chòe trên cành me trước ngõ nhà thằng Thục dường như cũng lảnh lót hơn ngày thường. Tóm lại, tôi nghe đủ thứ tiếng, kể cả tiếng cỏ xào xạc sau vườn lẫn tiếng lao xao mơ hồ vẳng lại từ ngọn đồi xa. Tôi nghe thấy tất, trừ tiếng con Rùa. Tôi đành phải liếm môi, nói mà chẳng có chút hi vọng gì: - Vào nhà chơi đi em! Tôi thở dài khi nghe tiếng chân con Rùa rời đi và trong khi tôi không trông mong gì nó sẽ quay trở lại thì mái tóc kỳ quặc của con Rùa thình lình hiện ra trước cửa sổ chỗ tôi ngồi. Tôi ngước nhìn nó, mỉm cười và bây giờ tôi nhận ra mái tóc nó có màu hung đỏ, có lẽ do nó chạy nhảy ngoài nắng nhiều quá. Trái ngược với mái tóc xấu xí đó, con Rùa có một gương mặt rất dễ coi, đặc biệt là đôi mắt nó sáng ngời và long lanh như hai giọt nước. Hai giọt nước nhìn tôi và tôi nhìn hai giọt nước. Một lúc lâu, chẳng ai nói gì. Trong tình thế đó, nụ cười trên môi tôi bỗng hóa thành gượng gạo và khi các cơ mặt tôi sắp sửa cứng lại như gỗ thì con Rùa chợt giải vây cho tôi. Nó hỏi: - Đọc sách thích không anh? - Thích! Thích lắm! – Tôi rối rít đáp, mừng rỡ một cách lộ liễu – Trên đời không có gì thú hơn đọc sách, em à. Giọng điệu nhuốm màu quảng cáo của tôi lập tức tác động đến con Rùa. Nó liếm môi: - Thật không anh? - Thật mà! – Tôi cầm cuốn sách chìa ra cửa sổ, hào phóng – Em đem cuốn sách này về đọc đi. Anh cho em mượn đó. Con Rùa cầm lấy cuốn sách, lật lật vài trang rồi đặt xuống bàn trước ánh mắt ngạc nhiên của tôi: - Thôi. - Sao thế em? Con Rùa trả lời tôi bằng một nụ cười bẽn lẽn: - Em chỉ đọc truyện tranh à. 6 Hôm đó, tôi đi theo con Rùa lên nhà nó chơi. Nhà nó bên kia sông, cạnh nhà cô Út Huệ. Tôi bảo tôi đi thăm cô Út, sẵn dịp ghé nhà nó cho biết. Nghe tôi khoe tôi hồi bé tôi là học trò của ông nội nó, con Rùa có vẻ thích thú lắm. Tôi chưa thấy ai đi qua cầu treo ung dung như con Rùa. Trên chiếc cầu không ngừng đong đưa đó, nó chạy nhảy tung tăng như đi trên mặt đất, chẳng thèm bám vào dây vịn. Qua khỏi cầu, con Rùa chẳng chịu về nhà ngay. Nó rủ tôi di dọc bờ sông, la cà theo dãy bìm bịp hoa tím, hái trái dành dành và hoa dong riềng đỏ ối cầm tay. Trông con Rùa lúc này thật sinh động và đáng yêu. Nó chẳng giống chút gì với con Rùa rụt rè đứng trước cửa sổ tôi lúc nãy. Thậm chí mái tóc hung đỏ cắt vụng của nó cũng chẳng làm tôi buồn cười nữa. Con Rùa ở trước mặt tôi đây, chẳng khác nào một con sóc nhỏ. Nó chạy vô bụi cây bên tay trái bứt một chiếc lá, lội qua bụi cây bên tay phải hái một bông hoa. Có một lúc, nó ngồi xổm xuống ven đường quơ tay hái mấy nắm lá xanh đang mọc lan dưới chân bụi cúc tán. Nó đưa tôi một chiếc lá, còn nó bỏ một chiếc vô miệng nhai: - Anh ăn không? Tôi cúi nhìn chiếc lá mỏng có ba cánh, mỗi cánh lá có hình trái tim, ngần ngừ một chút rồi bỏ vô miệng nhằn lấy nhằn để, thấy chua chua, giống như lá bứa. Hồi bé, tôi hay trèo cây bứa tìm trái, không có trái thì hái lá nhai cho vui miệng. - Lá gì vậy em? - Me chua đất. Em hái về cho bà nội em nấu canh chua. Tôi nhìn con Rùa, tự nhiên thấy lòng dâng lên một cảm giác gì đó khó tả. Nó đi chơi, vẫn không quên hái lá về cho nội nấu canh. Chắc nó thương bà nó lắm. Lúc tôi bước vào nhà con Rùa, thầy Điền đang ngồi xếp bằng trên chiếc chiếu cói bạc màu, quay mặt ra cửa. Mắt thầy nửa nhắm nửa mở, miệng lầm rầm tụng kinh, tay gõ mõ bằng chiếc dùi trông giống như chiếc chày giã tiêu của mẹ tôi. Tôi ngần ngừ nhìn con Rùa, phân vân không biết có nên mở miệng không. Như biết ý tôi, nó kêu khẽ: - Ông ơi ông! Có học trò cũ đến thăm ông nè! Thầy Điền không mở hẳn mắt ra, chỉ nhướn lên một chút để nhìn tôi. - Con là Đông, cháu ông Chín Ngạc, thưa thầy! – Tôi rụt rè nói. Tôi thấy ánh mắt thầy Điền lóe lên như có một ngọn đèn pin vừa chớp lên trong đáy mắt. Ngọn đèn chỉ chớp lên trong tích tắc thôi, rồi tắt phụt. Đôi mắt thầy lại lim dim như cũ, miệng vẫn rì rầm tụng niệm, chiếc dùi trên tay thầy nhịp vào chiếc mõ những điệu buồn, khoan thai và đều đặn. Tôi đứng chôn chân bên cạnh chiếc chiếu cói, xéo bên tay trái thầy, có cảm giác mình bị hoa mắt, miệng khô cứng. Tôi không biết thầy có nhận ra tôi không. Phải chăng thầy đã nhận ra đứa học trò ngày nào qua tia chớp vừa lóe lên trong mắt thầy? Nhưng có thực là tôi đã nhìn thấy tia chớp đó hay tất cả chỉ là do tôi tưởng tượng, tôi cũng không chắc lắm. Bây giờ thì thầy Điền có vẻ đã quên phắt sự có mặt của tôi. Chỉ con Rùa là nhớ. Nó kéo áo tôi: - Ra sau hè chơi đi anh! Tôi lẽo đẽo theo nó rời khỏi phòng khách, sau lưng tôi tiếng mõ không ngừng đuổi theo với một âm điệu rầu rầu. - Từ khi dời nhà về đây, ông em bắt đầu lẩn thẩn. Tiếng con Rùa vang lên bên tai tôi, nó nói như thanh minh. Tôi không nói gì, nhưng tôi tin lời con Rùa. Lúc còn dạy học, thầy Điền đã là ông giáo già nhất làng. Mười năm trước, lúc nhà tôi chuyển vào phương Nam, thầy Điền đã xấp xỉ sáu mươi tuổi. Lẽ ra, ở tuổi đó người ta đã nghỉ hưu. Nhưng vì trường thiếu giáo viên nên thầy được giữ lại. Sau hè nhà con Rùa, cây bướm bạc khoe những chiếc lá trắng xanh với những đường gân mảnh còn ướt sương đêm nhờ những tàu lá chuối to bản phía trên quạt giùm hơi nóng. Tôi nhìn những chiếc lá, tưởng tượng đó là những bàn tay có làn da mỏng đến mức thấy rõ mớ gân xanh và tôi không kiềm chế được ý định sờ tay vào một chiếc lá để ngắm những hạt sương âu sầu rơi xuống. Kế cây bướm bạc là hòn non bộ với những nhành dương xỉ mọc ra từ kẽ đá, một cây cầu bắc qua khe nước nhỏ và một con gà trống bằng đất nung đang đứng nghển cổ ngay ven hồ nước. Ở bậc đá phía trên là một hang động huyền bí tối om om, ngay cửa hang một ngư phủ đang kiên nhẫn buông câu với chiếc nón rộng vành che gần hết gương mặt. Hai tiên ông ngồi đánh cờ trên một chiếc bàn đá vuông gần đó. Quân cờ là những hòn sỏi, có lẽ đó là lý do khiến cả hai ngồi bất động vì không phân biệt được quân nào với quân nào. Hồi bé tới chơi nhà bạn, thấy hòn non bộ là tôi thích mê. Trừ bầy cá vàng bơi lội tung tăng bên dưới đám bèo tai chuột, những gì còn lại ở một hòn non bộ đều im lìm trầm mặc. Tôi từng đứng hàng giờ bên một hòn non bộ để hồi hộp chờ ông tiên đẩy quân cờ hay vung cây rìu bén vào thân gỗ trước mặt, với niềm tin ngây thơ nếu tôi kiên trì chờ đợi thế nào điều kì diệu đó cũng xảy ra. Con gà bằng đất nung trước mặt tôi lúc này cũng vậy. Tư thế của nó sống động đến mức tôi có cảm tưởng sớm muộn gì nó cũng sẽ cất tiếng gáy và tôi cứ đứng lì ra một lúc lâu cho đến khi con Rùa kéo tay tôi: - Đi chơi đi anh! Anh có đứng đến tối nó cũng không gáy đâu! Tôi đỏ mặt khi con Rùa nói huỵch toẹt ý nghĩ trong đầu tôi. - Đi đâu hở em? – Tôi hỏi, như để chữa thẹn. - Ra đầm sen chơi! Đi hái sen với em! Tôi chưa kịp hỏi đầm sen ở đâu, một con ngỗng không biết từ đâu lạch bạch lao tới chỗ tôi, vừa chạy vừa kêu quàng quạc khiến mặt tôi tái mét. Tôi rất sợ ngỗng. Từ bé tôi đã sợ ngỗng. Hồi đó mỗi lần mẹ tôi rủ tôi về thăm ngoại là tôi hãi. Ông ngoại tôi nuôi một bầy ngỗng thả rong trước sân để giữ nhà. Lần nào tôi tới thăm ông cũng bị bầy ngỗng rượt chạy trối chết, không ít lần tôi bị ngỗng mổ vào bắp chân. Ngỗng mổ rất đau, chẳng khác nào có ai lấy kèm kẹp vào da mình. Thấy mắt tôi mở trừng trừng, bộ tịch như sắp lăn ra xỉu tới nơi, con Rùa cười: - Anh sợ hả? Nói xong, con Rùa đứng chắn trước mặt tôi và thò tay thộp trúng ngay cổ con ngỗng lúc này đã vươn ra rất dài và chiếc mỏ cứng như thép của nó suýt chút nữa đã chạm được vào đùi tôi. Tôi chưa kịp thở phào, con Rùa đã buông con ngỗng ra khiến tôi muốn ngất, lần này chắc chắn là ngất thật. Con Rùa dường như cũng biết điều đó. Nó ngồi thụp xuống, nói với con ngỗng bằng giọng nhẹ nhàng: - Em đi chơi đi! Đây là anh Đông, bạn của chị đó. Trước ánh mắt ngạc nhiên của tôi, con ngỗng quay mình bỏ đi về phía ao rau muống. - Nó hiểu được em nói gì ạ? – Tôi liếm môi hỏi, khi con ngỗng đã đi xa. - Dạ. Tôi nuốt nước bọt: - Thế còn nó? Khi nãy nó nói gì vậy, lúc nó chạy về phía anh đó? - Nó kêu “Kẻ trộm! Kẻ trộm!”. Con Rùa khiến tôi dở cười dở khóc. Tôi liếc nó, nghĩ nó chơi xỏ tôi. Nhưng vẻ mặt con Rùa thản nhiên đến mức tôi không tìm thấy một dấu hiệu gì tố cáo rằng nó đang trêu tôi. - Thôi, anh qua nhà cô Út Huệ đây! – Đột nhiên tôi nói. - Anh không ra đầm sen với em à? – Con Rùa nhìn tôi bằng ánh mắt nheo nheo. - Chiều đi em! Bây giờ nắng lắm! Tôi từ chối. Trời nắng chỉ là cái cớ. Tôi đang sợ ngỗng.
|
Chương 1 - Phần 2 7 Ăn trưa nhà cô Út Huệ xong, tôi leo lên phản nằm nghe gió mơn man da thịt. Nhà cô Út Huệ cửa nẻo thông thốc, gió tha hồ ra vào chơi đùa chạy nhảy trên người tôi khiến tôi bị giấc ngủ cuốn trôi lúc nào không hay. Khi tiếng chim chèo bẻo kẹt trên cây sầu đông trước sân đánh thức tôi dậy, nhà đã vắng tanh. Cô Út Huệ chắc đã đội nón ra đồng. Bé Loan, mười tuổi, con gái cô cũng chẳng thấy đâu, tôi đoán nó đang mải mê bắt chuồn chuồn ngoài vườn cải. Tôi ra sau hè, múc nước rửa mặt. Lúc đi vào, tôi nhác thấy bé Loan đứng chỗ cây ổi, đang loay hoay với cái lon sữa bò trên tay. Tôi tò mò nhón chân lại gần, trố mắt quan sát. Hóa ra nó đang chơi trò gọi điện thoại. Cái lon được đục rỗng hai đầu, một đầu bịt giấy, có sợi chỉ xuyên qua ngay chính giữa. Sợi chỉ từ cái lon này nối với cái lon kia. Khi bị kéo căng, sợi chỉ truyền được âm thanh. Lúc tôi sè sẹ bước tới, bé Loan đang trò chuyện với con Rùa bên kia hàng rào. Nó nói huyên thuyên gì đó vào cái lon, hình như đang hỏi về bài học ở lớp, xong úp cái lon vào tai để nghe con Rùa trả lời. Tôi tưởng nó đang mải mê tán chuyện, không biết tôi đứng ngay sau lưng. Nào ngờ nó nói oang oang trong ống lon khiến tôi giật bắn mình: - Chị nói sao? Có kẻ trộm đứng sau lưng em à? Tôi chưa kịp phản ứng, đã giật mình thêm cái nữa khi bé Loan tiếp tục ông ổng: - Con ngỗng tưởng là kẻ trộm chứ thực ra anh Đông không phải là kẻ trộm hả chị? Tới đây tôi không nhịn được nữa, liền đưa tay cốc đầu con nhóc một cái: - Đủ rồi nghe em! Tôi giật phắt cái lon trên tay nó: - Đưa đây cho anh! Tôi áp cái lon vào miệng: - Em nói xấu gì anh đó, Rùa? Tôi liếc qua nhà con Rùa, thấy nó đang đứng tủm tỉm sau bờ giậu. Nghe tôi hỏi, nó lật đật nói vào ống loa: - Bé Loan nói chứ em đâu có nói. Em chỉ bảo anh đang đứng sau lưng nó thôi. - Vậy tại sao nó biết chuyện… “kẻ trộm”? - Đó là en kể cho nó nghe. Kể lúc anh còn ở trong nhà kia. Vậy là bé Loan trêu tôi chứ không phải con Rùa. Tôi quay lại tính cốc con nhóc này thêm cái nữa nhưng nó đã chạy mất. Nhớ đến cuộc trao đổi về bài học giữa con Rùa và bé Loan khi nãy, tôi ngập ngừng hỏi: - Em học chung lớp với bé Loan hả Rùa? - Dạ. - Sao anh nghe thằng Thục nói em… bằng tuổi nó. - Dạ. Năm nay em mười bốn tuổi. Mười bốn tuổi lẽ ra phải học lớp chín như thằng Thục. Nhưng con Rùa vẫn học lớp năm trường làng. Tôi tính hỏi nó tại sao nó lại học trễ như vậy, trong khi ông nội nó là thầy giáo, nhưng cuối cùng tôi quyết định không đả đọng gì đến chuyện đó. Có hàng trăm lý do để một người học trễ, mỗi lý do là một nỗi buồn và thật là bất nhẫn nếu gợi lại nỗi buồn của người khác. Con Rùa như đọc được thắc mắc của tôi qua sự im lặng đột ngột. Nó giải thích: - Hồi bảy tuổi, em bị bệnh. Bệnh nặng lắm, em ốm giơ xương, rụng hết tóc, tưởng chết rồi. Em phải nghỉ học mất bốn năm. 8 Nghỉ học tới bốn năm là một điều kinh khủng với trẻ con. Một đứa lớn xác, lẽ ra học lớp chín lại ngồi chung với lũ nhóc tì, thế nào cũng bị bạn bè trêu chọc. Thế nhưng chuyện học trễ có vẻ chẳng phải là một gánh nặng đối với con Rùa. Khi đã chơi thân với nó, tôi thấy nó không hề mặc cảm gì về chuyện lớn tồng ngồng rồi mà ngày ngày vẫn ôm tập đến trường tiểu học ngồi lê la với lũ nhóc lên mười. Con Rùa còn khoe tôi nhờ nằm nhà uống thuốc suốt bốn năm trời, nó biết thêm khối thứ về cái loại cây lá chữa bệnh. Trong bốn năm đó, ngoài ông bà nội nó ra, con Rùa chỉ có một người bạn duy nhất là ông thầy thuốc bắc. Những đứa trẻ làng thỉnh thoảng cũng đến thăm nó nhưng con nít mải chơi, ngồi với con Rùa một lát đám trẻ buồn chân lại chạy ra đồng bắt dế, thả diều, bỏ mặc nó ngồi một mình trên chiếc phản lạnh tanh ngắm mặt trời chiều chín đỏ bên kia dãy núi xa mờ. - Thế em không buồn à? - Không. Em có nhiều bạn lắm. Trước cái miệng há hốc của tôi, con Rùa long lanh mắt: - Để em kể anh nghe nhé. Con Cổ Dài nè, thằng Đuôi Dài nè, con Đít Đỏ nè… Lúc đầu tôi chẳng hiểu con Rùa nói gì. Mãi đến khi nó giải thích, tôi mới biết nó muốn nhắc đến con ngỗng thường quẩn quanh bên ao rau muống, con sóc hay trèo lên trèo xuống cây dừa sau vườn, rồi con chào mào mới về làm tổ trên ngọn tre trước ngõ nhà nó. Con Rùa còn liệt kê thêm nhiều nữa. Nó còn một lô bạn trong rừng, trong đó có một con khỉ thỉnh thoảng vẫn chạy ra chơi với nó. Tôi ù cả tai, vội vã cắt ngang: - Chậc, chậc… anh biết rồi. Bạn em nhiều thật đó. - Thế anh có thích chơi với bạn em không? – Con Rùa ngước nhìn tôi, cắc cớ hỏi. - Thích. Anh thích lắm! – Đang hùng hồn, sực nhớ tới con ngỗng suýt mổ vào đùi tôi hồi sáng, tôi lập tức ngắc ngứ - Ờ… ờ… nhưng để anh suy nghĩ lại đã… Con Rùa đập lên tay tôi, cười khúc khích: - Anh đừng lo! Con Cổ Dài không rượt anh nữa đâu. Em đã bảo nó rồi. Con Rùa làm mặt tôi ửng lên như củ cải phơi nắng. Một lần nữa, nó đi xe đạp vào bụng tôi, dù trên thực tế nó không biết chạy xe. - Sao em không tập chạy xe hả Rùa? - Em bị ốm mấy năm trời mà anh. - Ờ há. Tôi ngượng ngập đưa tay gãi đầu và chữa thẹn bằng cách đưa mắt nhìn lên tàng cây bướm bạc đang chảy tràn ánh nắng, ân cần nói: - Vậy mai mốt cần đi đâu xa em nói anh, anh lấy xe chở em đi. - Em suốt ngày chỉ loanh quanh trong làng thôi à. Tôi nheo mắt: - Thế ai hôm trước đi xuống chợ Kế Xuyên lượm nắp keng? - Thỉnh thoảng em mới đi xuống đó mà anh. Tôi khua tay vô cành huỳnh anh um tùm cạnh giếng nước, tò mò hỏi: - Em để dành nắp keng được nhiều chưa? Con Rùa chớp mắt, khi nó chớp mắt tôi mới thấy đôi mi nó thật dài: - Em nhặt giùm cho bé Loan. - Nhặt giùm? – Tôi tròn xoe mắt. - Ờ, bé Loan còn nhỏ, không tranh lại với các bạn khác nên em nhặt đem về cho nó. Giọng con Rùa tỉnh khô như thể đó là chuyện bình thường, mặc dù khi những chiếc nắp keng trở thành thứ mà thằng Thục có thể để mua kẹo đậu phộng tôi nghĩ nó không bình thường chút nào. Sau này tôi mới biết con Rùa vẫn thường làm thế với lũ bạn học lóc nhóc của nó. Những đứa trẻ lớp năm mỗi khi bị những đứa lớn hơn bắt nạt đều được con Rùa chở che. Tự nhiên nó trở thành đứa con gái nổi tiếng ngang ngạnh, thậm chí sẵn sàng đánh nhau. Nhưng chuyện đó sau này nghe thằng Thục kể tôi mới biết. Còn ngay lúc này tôi và nó ngồi trên thành giếng trò chuyện với nhau dưới bóng mát của cành huỳnh anh không ngừng đong đưa trên đầu, trong mắt tôi nó vẫn là đứa con gái dịu hiền và tôi không giấu lòng rằng càng gần gũi với con Rùa, tôi càng thích nó. 9 Chiều đó, con Rùa rủ tôi đi chơi. - Đi ra đầm sen hở em? – Tôi tỏ vẻ hiểu biết. - Không. Đi đầm sen em chỉ thích đi vào buổi trưa. Tôi nhướng mày: - Ai lại đi hái hoa sen vào lúc nắng chang chang như vậy? Con Rùa cười khì khì: - Em đâu có hái hoa sen. - Ủa? - Em hái lá sen đó anh. Hái lá sen che đầu rồi đi về nhà, có cảm giác như đang che dù vậy. Thích lắm. Tôi ngó sững con Rùa, không ngờ nó có những ý thích lạ lùng như vậy. Chờ đến khi hái được lá sen để che đầu, tóc nó đã cháy vàng như rơm, vậy mà nó vẫn thích. Lạ ghê! Hôm đó, đúng như con Rùa nói, chúng tôi không đi ra đầm sen. Hai đứa dọ dẫm theo con đường mòn dẫn vào rừng. Trên đầu chúng tôi, chim từng bầy nháo nhác bay về phía chân trời đang ngả màu mỡ gà. Tôi đang tự hỏi không biết trong rừng có gì hay mà con Rùa nằng nặc đòi dẫn tôi đi thì nó đột ngột ngừng lại. - Gì thế em? Sao không đi nữa? Con Rùa nghiêng tai qua một bên: - Anh nghe gì không? - Anh có nghe gì đâu! - Máy bay. Thêm một lúc nữa, tôi mới nghe thấy tiếng rì rầm ở đằng xa vọng tới. Tôi ngước mắt lên cao, thấy một vệt khói trắng lờ mờ hiện ra ở một góc trời xanh. Vệt khói thoạt đầu như một dấu chấm, rồi dài ra một khúc, một khúc nữa, cứ thế dài thêm mãi giống như ai đang cầm một viên phấn trắng vạch ngang bầu trời khiến tôi và con Rùa phải quay đầu từ Đông sang Tây đến ngoẹo cả cổ. Tiếng rì rầm biến thành tiếng rít khi chiếc máy bay bay ngang đầu chúng tôi, chốc sau tiếng rít nhỏ dần và lại biến thành tiếng rì rầm khi chiếc máy bay bay xa, một lát sau thì tắt hẳn. Thực ra, tôi không trông rõ chiếc máy bay. Nó bay cao quá, chỉ thấy một chấm đen. Nhưng tôi biết chấm đen đó là chiếc máy bay, vì nó giống như ngón tay thầy Điền lúc thầy đứng trên bục giảng. Nó đi tới đâu, vệt phấn đi theo tới đó. Con Rùa vẫn ngước cổ ngắm vệt khói lúc này đã bị gió đánh tơi đi, tỏa ra tứ phía, tan tác như lông ngỗng. Vẻ mặt thích thú đến đờ đẫn của nó khiến tôi bất giác nhớ đến tuổi thơ của mình. Lúc còn ở làng, tôi cũng như con Rùa, như thằng Thục, như những đứa trẻ thôn quê khác, cũng sung sướng khi trông thấy một chiếc máy bay bay ngang bầu trời kéo theo một vệt khói trắng đằng sau đuôi hay một đoàn tàu kéo còi và phun khói đen sì chạy ngang con đường mòn dẫn xuống đường quốc lộ. Bây giờ, tôi không còn những niềm vui ngây thơ đó nữa. Tôi đã lớn, đã rời làng, đã thành một đứa con trai thành phố, hoàn toàn đánh mất sự ngơ ngác đáng yêu tỏa ra từ một tâm hồn chất phác. - Máy bay nữa kìa em! – Tôi vụt kêu lên, với sự háo hức chính tôi cũng ngạc nhiên, khi tiếng rì rầm bất thần vọng vào tai tôi từ chiếc máy bay vừa bỏ đi – Chắc chiếc máy bay khi nãy quay lại… - Tiếng sấm đó anh. – Con Rùa cười, nó đáp mà không buồn ngước mắt nhìn lên. – Trời sắp mưa rồi. Tôi lo lắng nhìn về phía cánh rừng xa nơi những ngọn đồi tạo ra vô số những con hẻm nhỏ phủ kín lá xanh. Bên trên các bụi cây thấp và mớ dây leo chằng chịt bọc kín chân đồi, những thân cây tôi không biết tên trông giống như những cánh tay khổng lồ đang rướn lên cao và quẹt điên cuồng cành lá vào những đám mây lúc này đã rất giống bùn lầy, ủ ê và xám xịt, càng lúc càng sà xuống sát đỉnh đồi. - Mình có đi tiếp không? – Tôi nơm nớp hỏi, mong đến thắt ruột con Rùa sẽ đáp “Mình quay về nhà thôi anh”. Như đọc được ý nghĩ trong đầu tôi (hình như nó luôn luôn đọc được ý nghĩ trong đầu tôi), con Rùa tặc lưỡi: - Mình không đi tiếp được đâu. Nhưng quay về nhà cũng không kịp. Như phụ họa cho nó, những hạt mưa đầu tiên đã bắt đầu cào nhẹ lên cánh tay tôi. Tôi quay đầu nhìn quanh: - Thế mình đi đâu bây giờ? Con Rùa nắm lấy tay tôi theo cái cách người lớn nắm tay một em bé và không nói không rằng nó dắt tôi chạy về phía bụi duối dại lấm tấm hoa vàng nằm dọc con đường mòn. Trước vẻ mặt ngẩn ngơ của tôi, nó khom người vẹt cành lá um tùm, miệng giục: - Mình chui vô đây nè anh. Một cái tổ giữa bụi cây hiện ra trước mắt tôi. - Nhà của em đó. Tôi chưa kịp hỏi lại, con Rùa đã đẩy lưng tôi một cái thật mạnh rồi lật đật chui theo. Chúng tôi vừa vào “nhà”, mưa đã đổ xuống sầm sập. Tiếng gió kêu u u, những hạt mưa to quất ràn rạt vào cành duối dại ngay trên đầu hai đứa khiến tôi có cảm giác ngoài kia trời đang bão. Những cành duối chằng chịt, lá ken dày như một mái nhà được lợp khéo léo giúp tôi và con Rùa khô ráo một cách khó tin, trừ hai bàn chân con Rùa không biết từ bao giờ đã lót bên dưới một lớp lá khô. Thỉnh thoảng cái mông của tôi cũng bị ướt khi tôi vô tình muốn ngồi xệp xuống cho đỡ mỏi chân. Ngồi thu lu bên con Rùa nhìn màn mưa mù mịt bên ngoài qua kẽ lá, nghe tiếng mưa rơi lộp bộp trên đầu, nghe hơi nước ướp vào da thịt mát lạnh, hấp háy hai cánh mũi để hít hà mùi đất ẩm không ngừng xông lên ngào ngạt, tất cả những điều đó đánh thức mọi giác quan trong tôi khiến tôi ngỡ như tôi đang sống hai ba cuộc sống cùng một lúc và cảm giác đó thực vô cùng thú vị. 10 Em làm ngôi nhà này lâu chưa? - Lâu rồi anh. Con Rùa đáp, rồi nó khoe: - Em có vài ngôi nhà như thế này rải rác từ đây đến trong rừng. - Em chu đáo thật. – Tôi gật đầu, giọng tán thưởng – Sẵn nhà khắp nơi, khi nào cần là em có chỗ nghỉ chân. Chúng tôi trò chuyện trên nền những tiếng mưa nhưng vì hai đứa tôi ở cạnh nhau trong chiếc tổ lá nên tiếng nói vẫn nghe rõ như phát ra từ một quả chuông. - Em hay vào rừng lắm sao? - Dạ. Nhưng thỉnh thoảng em mới đi buổi chiều như thế này. Em thích đi vào sáng chủ nhật hơn. Tôi cười: - Đi sáng chủ nhật thì em được tung tăng suốt ngày trong rừng chứ gì! Đến lúc này tôi vẫn chưa biết tại sao con Rùa lại thích vào rừng. Tôi biết khu rừng này từ thời tôi còn bé nhưng tôi chưa bao giờ bén mảng tới đó. Người làng mỗi khi vào rừng lấy củi đều quấn xà cạp, chân đi ủng, trên người bôi thuốc kỵ rắn. Vào mùa mưa, họ giã tỏi thoa khắp tay chân đầu cổ để chống vắt, mỗi khi đi ngang tỏa mùi nồng nặc. Con Rùa không có chút gì giống thế. Nó dắt tôi vào rừng như dắt tôi đi hái hoa ngoài đồng nội, cứ quần áo phong phanh mà rảo bước. Khi tôi quay sang con Rùa định hỏi nó vào rừng làm gì mà vào hoài vậy, đôi môi tôi vô tình chạm phải má nó khiến tôi giật nảy một cái, câu hỏi đột ngột nghẹn ngay cổ. Mặt nóng ran, tôi hấp tấp ngó lơ chỗ khác và lúng búng nói: - Trời ngớt mưa rồi đó… Câu nói và thái độ của tôi chẳng ăn nhập gì với nhau, giống như người ta lắp nhầm cán búa vào lưỡi rìu, nhưng con Rùa dường như không nhận ra sự khập khiễng đó. Nó có vẻ không để ý gì đến sự đụng chạm vừa rồi, cũng không nhận ra sự bối rối của tôi, hồn nhiên nói: - Chờ thêm chút nữa đi anh. Tạnh hẳn rồi mình về. Từ lúc đó, tôi không một lần quay sang con Rùa nữa. Tôi ngồi tư lự trên hai chân, không ngớt ngạc nhiên vì sự xấu hổ của mình. Chuyện cỏn con như thế, con Rùa chắc cũng chỉ coi đôi môi tôi như cành lá quẹt vào mặt nó trên đường đi, chẳng mảy may bận tâm, thậm chí chắc nó cũng chẳng có cảm giác tôi vừa chạm vào nó. Thế mà tôi lại bắt gặp mình ngượng đến chín người. Tôi đưa tay dứt một sợi tóc, rồi hai sợi tóc rồi ba sợi và khi dứt đến sợi tóc thứ mười thì tôi đoán ra sở dĩ tôi có cảm giác đó vì tôi đã là người lớn mất rồi. Năm nay con Rùa chỉ mới mười bốn tuổi trong khi tôi lớn hơn nó bốn tuổi. Mười tám tuổi, tôi đã biết tình yêu là gì, đã biết thế nào là nụ hôn mặc dù tôi chưa từng yêu ai và hôn ai. Con nhỏ Bích Lan, con một người bạn gái của mẹ tôi, lần nào tới nhà chơi cũng làm tôi sợ chết khiếp khi nó luôn tìm mọi cách để ngồi gần tôi và hễ không có ai thế nào nó cũng đòi tôi hôn nó. Bích Lan lớn hơn tôi một tuổi, nhưng bạo dạn hơn tôi gấp một trăm lần. Mặt nó lấm tấm tàn nhang nhưng trông nó vẫn rất xinh nhờ cặp mắt lúng liếng và miệng cười tươi như hoa nở, và có lẽ biết thế nên nó cười suốt ngày. Có thể tôi sẽ thích nhỏ Bích Lan nếu như nó đừng làm tôi hoảng vía. Mặc dù tôi theo gia đình dọn vào Sài Gòn đã được mười năm nhưng tôi vẫn không gột rửa được gốc gác nông thôn của mình. Tôi luôn nhút nhát trước con gái, coi việc đụng chạm vào cơ thể họ là điều không đàng hoàng cho dù trong những giấc mơ thầm kín tôi rất hay làm ngược lại. Tất nhiên không phải đứa con gái thành phố nào cũng dạn dĩ như Bích Lan. Những đứa bạn học của tôi trên lớp đâu có tấn công ồ ạt như vậy. Dĩ nhiên một phần vì chẳng có đứa con gái cùng lớp nào thích tôi. Bích Lan thì khác, vừa gặp tôi lần đầu tiên nó đã nói ngay “Ui, trông anh dễ thương quá!”, lại nói bô bô ngay trước mặt mẹ tôi và mẹ nó, chẳng kiêng nể gì. Hai bà mẹ nghe nó nói vậy, toét miệng ra cười trong khi mặt tôi chín nhừ như đang đút vào lò nướng. Đến nay tôi vẫn chưa hôn Bích Lan cái nào theo lời xúi bậy của nó, dù sau khi nói “Anh dễ thương ghê” nó còn nói thêm nhiều câu nóng bỏng khác nữa, đại để như “Lan thích anh rồi đó”, vài hôm sau lại “Chắc Lan yêu anh thật rồi”… Dĩ nhiên Bích Lan rất thất vọng trước sự ù lì của tôi, nó bảo tôi là đồ nhà quê, và sau khi nói vậy nó vẫn kiên trì ngồi cạnh tôi mỗi khi có dịp và tiếp tục gạ gẫm tôi. Gạ gẫm không được thì nó hỏi tôi có phải là pêđê không mà không chịu hôn nó, điều mà những bạn trai cũ của nó đứa nào cũng thích. Những lúc như vậy tôi chỉ biết cười trừ và nhìn ra màn mưa ngoài trời, ấp úng nói: - Trời ngớt mưa rồi đó… Bây giờ tôi phát giác ra mình vừa lặp lại mẫu câu đó với con Rùa. Chỉ khác là tôi đang ngồi cạnh con Rùa trong lòng một bụi duối dại giữa cánh đồng lướt thướt mưa và bối rối vì trót hôn nó chứ không phải vì từ chối hôn nó. 11 Hôm đó, khi về tới nhà con Rùa bất ngờ rút từ trong vạt áo ra một cuốn truyện tranh khoe tôi. Đi với nó cả buổi, tôi không phát hiện nó giắt theo cuốn truyện trong người. Nhìn lướt qua cái bìa, tôi đã nhận ra đó là cuốn Asterix và lưỡi hái vàng trong xêri truyện về Asterix. Ở Sài Gòn, tôi đã đọc gần hết bộ truyện này qua bản dịch. - Em giắt cuốn truyện theo chi vậy? – Tôi tròn mắt nhìn nó. - Em định đem vô rừng đọc. Con Rùa thản nhiên đáp, như thể nó vẫn hay vô rừng để đọc sách. Mà sự thực đúng là như thế. Khi tôi hỏi “Em thích vô rừng ngồi đọc sách lắm sao?” thì nó xác nhận câu hỏi trêu của tôi bằng một cái gật đầu không nghĩ ngợi. Trong khi tôi bắt đầu nghĩ thần kinh con Rùa chắc không được bình thường thì nó hồn nhiên nói tiếp: - Ở trong rừng, em không đọc sách một mình đâu. Em đọc cho con Tập Tễnh nghe nữa. Bây giờ thì tôi đã quen với cách con Rùa đặt tên cho đám bạn của nó. Tôi gật gù ra vẻ hiểu biết: - Tập Tễnh chắc là con khỉ vẫn hay chạy ra đây chơi với em? Không ngờ tôi hố to. Con Rùa cười: - Tập Tễnh là một con nai con. Tôi không biết một con nai có thể nghe chuyện được không nhưng tôi nhớ hồi sáng con Rùa từng nói chuyện với con Cổ Dài và con ngỗng hung hăng đó đã lập tức bỏ đi khi nghe con Rùa xác nhận tôi không phải là kẻ trộm. Để lảng tránh đề tài mù mờ này, tôi cầm lấy cuốn truyện tranh trên tay con Rùa và nhìn nó bằng cặp mắt nheo nheo: - Em đọc hết cuốn truyện này chưa? - Chưa. Anh đọc cho em nghe đi! - Sao em không tự đọc? Tự mình đọc bao giờ cũng thích hơn em à. - Em không biết tiếng Pháp. Ánh mắt tôi lập tức rớt xuống cuốn truyện trên tay. Bây giờ tôi mới để ý các dòng chữ ngoài bìa. Toàn tiếng Pháp. Lật vào bên trong cũng vậy. Tôi cười, nửa đùa nửa thật: - Anh cũng đâu có biết thứ tiếng này. - Anh là sinh viên mà. Tôi là sinh viên nhưng tôi không giỏi tiếng Pháp. Tôi biết tôi không đủ sức đọc hết cuốn truyện này, nhưng do tôi gần như thuộc lòng bản tiếng Việt nên giờ đây tôi giả vờ đọc rồi kể lại cho con Rùa nghe là chuyện chẳng có gì khó. Tôi mân mê cuốn sách: - Làm sao em có cuốn sách này? - Người ta cho ông ngoại em. Lúc em còn bé, ông em đọc rồi kể cho em nghe. Mỗi ngày ông kể một đoạn. Nhưng chưa kịp kể xong cuốn sách thì ông em mất. Tôi không ngờ ông ngoại của con Rùa giỏi giang như vậy. Ông ngoại nó mất rồi, nó đang đi tìm một người giỏi ngang ông ngoại nó để đọc và kể cho nó nghe phần sau của cuốn truyện. Bây giờ thì tôi đã biết tại sao hai hôm nay nó nấp ngoài hè để rình tôi. Có lẽ nó biết tôi là sinh viên, lại thấy tôi ham đọc sách, nó tin tôi có thể giúp nó được. Nhưng hôm đó không phải là ngày may mắn của con Rùa. Tôi đang lật cuốn truyện, định hỏi ông nó đã kể cho nó nghe tới chỗ nào thì tiếng thằng Thục đã vọng tới lồng lộng: - Anh Đông ơi anh Đông! Tôi chưa kịp lên tiếng, Thục đã tru tréo tiếp: - Anh Đông ơi, anh đang ở đâu vậy? - Tao ở đây nè! Lúc đó tôi và con Rùa đang đứng cạnh hòn non bộ. Trời chưa tối hẳn nhưng mặt trời đã nấp sau những vạt sương mù khiến hai ông tiên đánh cờ trông như người ngủ gục. Trên chiếc bàn đá ẩm ướt, những hòn sỏi chắc chắn đã ngủ say, như đã ngủ như thế từ rất lâu rồi. Bầy cá vàng uể oải vẫy những chiếc vây dài dưới đám tai bèo, có vẻ cũng sắp sửa chui vào các kẽ đá để nằm mơ những giấc mơ về lũ lăng quăng. Thằng Thục nhô đầu sau hàng giậu thưa: - Anh đang làm gì đó? - Tao đang ngắm hòn non bộ. Mày đi đâu đây? - Mẹ em bảo em đi kiếm anh về ăn cơm. - Mày về nói với mẹ tao ăn ở nhà cô Út Huệ. Tối tao ngủ trên này luôn. Thằng Thục bứt một nhánh tơ hồng leo trên bờ giậu, vẻ không bằng lòng. Nó khẽ đánh mắt về phía con Rùa nhưng khi nói với tôi nó làm như không có con Rùa ở đó, hoặc cũng có thể nó nghĩ con Rùa là một gốc cây không có khả năng hiểu những gì nó nói: - Trên xóm này có gì hay đâu mà anh ở lại. Tôi chưa kịp trả lời, cũng chưa biết phải trả lời như thế nào, thằng Thục đã vạch hàng rào đi về phía tôi, miệng tiếp tục bô bô: - Ở đây toàn những đứa chán phèo à. Lần này thì con Rùa không làm thinh nữa. Nó hất mặt về phía thằng em tôi: - Mày muốn đánh nhau hả Thục? - Tao không đánh nhau với con gái. Thục bĩu môi về phía con Rùa và nó nắm lấy tay tôi: - Về thôi, anh! Tôi quay nhìn con Rùa, đưa cuốn truyện tranh cho nó và mỉm cười: - Em cất đi! Ngày mai anh sẽ đọc cho em nghe. Tôi theo chân thằng Thục quay về nhà cô Út Huệ, lòng hoàn toàn để ngỏ cho sự áy náy tràn vào. Vẻ mặt ngẩn ngơ của con Rùa khi tôi chuẩn bị quay gót khiến tôi muốn ngoảnh lại cười với nó một cái nữa nhưng thằng Thục lôi tôi đi nhanh quá.
|
Chương 1 - Phần 3 12 Vừa bước qua ngưỡng cửa, Thục đã hạch sách tôi ngay, theo cái kiểu cha mẹ vẫn rầy con cái chơi với bạn xấu: - Sao anh lại chơi với con Rùa? Đang bực mình, tôi hừ mũi hỏi lại: - Sao tao lại không thể chơi với con Rùa? - Vì tụi em không đứa nào chơi với nó. Lý do của thằng Thục nghe rất chướng tai. Nhưng tôi không cãi, chỉ nói: - Tao thấy bé Loan rất mến con Rùa. - Chỉ mấy đứa con gái ngốc nghếch mới đánh bạn với nó thôi. - Chị Rùa không thèm chơi với tụi anh thì có! Tiếng bé Loan thình lình cất lên đằng sau lưng tôi, và tôi phải thú nhận là tôi hết sức khoái trá khi thấy gương mặt thằng Thục đột ngột méo đi. - Mày… mày… Thục ấp a ấp úng, trông nó như người vừa nuốt phải lưỡi. Bé Loan bước lại chỗ Thục, thò tay véo thằng này một cái: - Nói xấu chị Rùa nè! Thằng Thục có vẻ rất ngán bé Loan, dù nó lớn hơn con bé đến bốn tuổi. Con bé này véo nó chắc là đau lắm nhưng Thục chỉ biết ôm cánh tay xuýt xoa. Bữa đó, tôi chở thằng Thục về tới đầu cầu treo. Khi leo xuống khỏi yên và giao xe lại cho nó, tôi cười nói: - Tao biết mày thù con Rùa chuyện nó giành nắp keng với mày nè. Thằng Thục cầm lấy ghi-đông, mặt đột nhiên nghiêm trọng: - Tụi em không chơi với nó vì nó là một đứa… một đứa… - Một đứa gì? - Một đứa… – Thục nhíu mày, nó lục lọi vốn từ trông vất vả như đang tìm một đồng xu đánh rơi trong bể cá – Nói chung nó là một đứa… một đứa không bình thường. - Tao vẫn chưa hiểu một đứa không bình thường là một đứa như thế nào! – Tôi liếm môi, vẫn nhìn chằm chằm vào mặt Thục. - Là nó không giống như tụi em. Nó không giống bất cứ ai ở trong làng. Tôi nhún vai: - Ai bảo mày vậy? - Ông Hai Sắn bảo. Ổng bảo ông thường bắt gặp nó trò chuyện hàng giờ với các con vật. Tôi vỗ vai Thục: - Tao đã tận mắt thấy con Rùa nói chuyện với con ngỗng nhà nó. - Đó! Anh thấy chưa? – Thục reo lên, giọng đắc thắng như thể điều tra viên vừa tóm được chứng cứ của tội phạm – Em đâu có bịa chuyện. - Nhưng tao thấy chẳng có gì là không bình thường cả. Hôm nào mày thử nói chuyện với con ngỗng xem, biết đâu nó hiểu được tiếng mày. – Tôi đáp, giọng bỡn cợt. Bằng thái độ đó tôi muốn thằng Thục biết là tôi không đứng về phía nó. Tôi cố ý bông đùa, nào ngờ Thục gật đầu: - Em thử rồi. - Mày thử rồi? – Tôi dựng mắt lên – Mày đã nói chuyện với con ngỗng nhà Rùa rồi hả? - Dạ. Thằng Thục làm tôi tò mò quá thể: - Kết quả sao? - Kết quả là nó rượt em và mổ vào mông em một phát bầm tím đến mấy ngày. - Ha ha ha… Tôi không muốn chế giễu thằng Thục nhưng tiếng cười vẫn cứ phát ra. - Anh đừng cười nhạo em. – Thục sa sầm mặt – Em nói thật đó. Anh không nên chơi với con Rùa. - Tao cứ chơi. - Ông Hai Sắn còn bảo cứ vài ngày con Rùa lại vào rừng để làm chuyện mờ ám gì đó. Ông Bốn Lai cũng bảo thế. - Chuyện mờ ám là chuyện gì? Thục đột nhiên thấp giọng như sợ ai nghe lỏm: - Có thể nó liên lạc với giặc cướp. - Trong rừng có giặc cướp á? Thục nhăn nhó, có vẻ không hài lòng về câu hỏi của tôi: - Anh quên ba con Rùa chết là do rượt theo bọn cướp rồi sao. Sào huyệt của bọn chúng ở trong rừng chứ đâu. - Ông Hai Sắn và ông Bốn Lai bảo thế à? - Dạ. - Mày tin mấy ông đó sao? – Tôi nheo một bên mắt, giọng đã bắt đầu bực bội. - Tin chứ. – Thục gật đầu, phớt lờ vẻ mặt khó coi của tôi. – Họ đều là thợ săn, chuyện gì trong rừng mà họ chẳng biết. Ông Bốn Lai còn đề nghị thầy Điền cấm con Rùa ra khỏi nhà nữa kìa. - Tao thì tao chẳng tin. Tôi đá chân vào bánh xe sau: - Trời tối rồi. Thôi, mày về đi kẻo mẹ mong. Đợi thằng Thục chạy xe lên cầu treo, tôi quay mình lần về lối cũ. Dĩ nhiên tôi không tin câu chuyện của mấy ông thợ săn, mặc dù tôi không hiểu tại sao họ lại bịa chuyện để nói xấu con Rùa. Trời tối dần trên vai, và tôi vừa đi vừa sung sướng căng ngực hít thở mùi vị của buổi chiều. Như một loại trái cây, khi chín dần thành đêm, buổi chiều cũng tỏa ra hương thơm đặc biệt của nó, trong đó có mùi gió, mùi cỏ, mùi lá cây và phảng phất cả thứ hương mọc kín đáo đâu đây khiến cánh mũi tôi không ngớt phập phồng. Tôi lại nghĩ đến con Rùa khi đá chân vào bụi mắc cỡ bên đường để thấy những chiếc lá khép lại như rèm mi dài của nó. 13 Tối đó, tôi không qua nhà con Rùa chơi như dự định. Vừa ăn cơm xong, trời đổ mưa ríu rít. Ngồi trong nhà nhìn ra, thấy mưa dày như vải mùng. Những hạt nước to rơi xuống sân bắn ngược trở lên tung tóe, tưởng như ông trời đang vãi thóc. Có lẽ đây là lượng nước hồi chiều những đám mây giữ lại giữa không trung, dành cho một trận mưa khác vào ngày khác. Nhưng tối ngủ quên, những đám mây lỡ tuột tay đánh rơi mưa xuống. Xưa nay những con mưa trái mùa bao giờ cũng đến từ những đám mây lơ đễnh. Bé Loan ngồi thu lu bên cạnh tôi trên ngách cửa, nói: - Chạy ra tắm đi anh! - Trời tối thui à. - Trời tối tắm mới thích. - Nhưng lạnh lắm. Tôi nói, bắt gặp mình đang xấu hổ. Hồi còn ở làng, tôi rất thích tắm mưa. Tôi không sợ lạnh, dù là ban ngày hay ban đêm. Mưa, với trẻ con nông thôn, bao giờ cũng kéo theo niềm vui, sự hân hoan và phấn khích. Cởi truồng, hoặc để nguyên quần áo nếu lớn lên tí nữa, chạy nhảy dưới mưa là niềm thích thú khó tả. Tôi hỏi bé Loan, cố lảng đi đề tài tắm mưa: - Em biết ông Hai Sắn, ông Bốn Lai không em? - Biết. Em cũng biết cả ông Bảy Thành và chú Ngãi nữa. - Bọn họ là thợ săn à? - Dạ. Họ sống bằng nghề đi săn và bẫy thú. - Nghe nói họ ghét chị Rùa lắm hả? - Dạ. - Tại sao vậy? - Tại chị Rùa ghét họ. Tôi nhớ ra con Rùa rất yêu các con vật. Tôi nhớ đến đám bạn của nó: con ngỗng, con sóc, con nai, con chim, con khỉ… Trong khi phường săn là kẻ thù của các con vật. Theo lời bé Loan kể thì vào mùa thả diều năm ngoái, ông Hai Sắn bẫy được một con nai con. Con nai bị bẫy kẹp què giò. Con nai còn bé, lại rất đẹp, ông Hai Sắn không muốn xẻ thịt. Có người xúi ông đem vào phương Nam bán cho các sở thú. Nhưng con nai đang bị què, ông Hai Sắn chưa đem bán vội. Con Rùa bảo ông Hai Sắn nó có thể chữa lành cho con nai con. Nghe nó kể vanh vách tên các cây thuốc và công dụng của từng loại, ông Hai Sắn tin ngay. Con Rùa đem con nai về nhà, nẹp chân và bó thuốc một thời gian, con vật lành thật. Nhưng con Rùa không trả con nai cho ông Hai Sắn mà lén thả ra. Nó bảo với ông Hai Sắn là nửa đêm con nai bứt dây bỏ chạy vô rừng, nó đuổi theo bắt lại nhưng không kịp. Ông Hai Sắn giận lắm, làm ầm ĩ suốt một tuần lễ liền. Tôi hồi hộp theo dõi câu chuyện về con nai, nhưng đến đoạn cuối thì tôi cười ngất. Cái tên Tập Tễnh đổ chuông trong trí nhớ tôi. Tôi nhớ con Rùa từng bảo nó hay đem theo cuốn Asterix và lưỡi hái vàng vào rừng để đọc cho con Tập Tễnh nghe. Bây giờ thì tôi hiểu tại sao con Rùa hay vào rừng. Cùng chơi đùa với con nai con, đọc sách cho nó nghe là một chuyện. Điều quan trọng hơn là con Rùa tìm cách che giấu con Tập Tễnh khỏi mắt phường săn trong làng. Nếu con nai không tìm thấy đàn, hẳn nó phải ở xa lắm, trong một hang động bí mật nào đó mà trừ con Rùa ra không một ai tới được hoặc tìm thấy được. Nhớ đến cuốn truyện tranh, tôi bất giác mỉm cười, nhận ra mình đang cảm động. Tôi không biết ông ngoại con Rùa qua đời đã bao lâu nhưng cái cách con Rùa giữ gìn cẩn thận cuốn truyện và đem ra đọc đi đọc lại chỉ mỗi đoạn mà nó biết khiến tôi thấy nao nao. Thực ra con Rùa không đọc, nó chỉ xem từng bức tranh và nhớ lại những gì ông nó kể. Những lúc như vậy, tôi đoán nó vừa xem sách vừa mường tượng lại gương mặt, giọng nói, dáng đi của ông nó và khi quay lại cuộn phim đó trong đầu hẳn lòng nó bồi hồi lắm. Tối đó tôi đi ngủ trong tiếng mưa mỗi lúc một thưa dần tuy thỉnh thoảng vẫn nghe vọng vào tai những âm thanh rào rào vọng lại từ phía hòn non bộ, tiếng của vô số những giọt nước trên cành cây sẩy tay té xuống mặt ao bèo khi một cơn gió tinh nghịch thổi qua. 14 Sáng hôm sau, cô Út Huệ đãi tôi món xôi đậu xanh chấm muối mè ngon đến điếc lưỡi. Ăn xong, tôi cầm ly nước ngồi trước hiên lười nhác nhìn ra. Chung quanh tôi, nhà cửa cây cối đều ướp nắng vàng. Sau khi được cơn mưa đêm tắm gội, lau chùi, mọi thứ càng như tỏa sáng. Trên cành sầu đông trước ngõ đôi chèo bẻo chẳng biết đi đâu, chỉ thấy một con chiền chiện đang nghển chiếc cổ vàng hót chào bình minh. Ở góc hàng rào, cây nắp ấm vừa nghe chim hót vừa đong đưa những bông hoa trong nắng mai theo cái cách người mẹ hiền đang sưởi ấm những đứa con bé bỏng, mặc dù đứa nào đứa nấy hình thù trông giống một bình rượu hơn là một đứa bé. Ý nghĩ đó bất giác khiến tôi phì cười. - Có gì vui vậy anh? Tiếng con Rùa từ bên kia hàng giậu vọng sang khiến tôi ngoảnh đầu lại. - À, có gì đâu em! Nhìn gương mặt tươi cười của nó thấp thoáng sau bóng lá, tôi sực nhớ đến lời hứa của mình hôm qua: - Em chờ anh chút nhé! Tôi chạy vô nhà cất vội cái ly rồi phóng sang nhà nó: - Em đưa cuốn truyện đây anh đọc cho em nghe. Con Rùa đã thủ sẵn cuốn Asterix và lưới hái vàng trong vạt áo. Không đợi tôi nhắc đến lần thứ hai, nó lôi cuốn sách ra chìa vào mắt tôi: - Nè anh! Giống như hai ông tiên đánh cờ trên hòn non bộ, một phút sau tôi và con Rùa đã ngồi trên phiến đá xanh dưới nhánh cây bướm bạc chụm đầu vào trang sách lốm đốm bóng nắng. - Ngoại em kể em nghe tới chỗ nào rồi? - Tôi hào hứng hỏi. Trong sự yên lặng đầy đặn và ấm áp của buổi sáng thôn quê, tôi ngạc nhiên nghe giọng nói của mình vang vang đến mức tôi có cảm tưởng tôi vừa kề miệng vào tai tôi để thốt lên câu đó. Con Rùa một tay cầm cuốn sách, tay kia lật tới trang có đánh dấu: - Tới chỗ này nè anh. Truyện Asterix và lưỡi hái vàng tôi đã đọc qua rồi nên nhìn vô các bức tranh tôi nhớ ra ngay đây là đoạn Obelix và Asterix bắt lão chủ quán Arvene dẫn đi tìm Amerix, người chuyên sản xuất lưỡi hái vàng cho các pháp sư. Tôi chỉ vào bức tranh lão Arvene ria rậm đang đánh xe bò xuôi dốc bị Obelix chặn lại, gật gù: - Lúc này Obelix và Asterix đang chặn đường lão Arvene. - Obelix á? - Ừ, Obelix và Asterix là một đôi bạn. Em cũng biết rồi mà, họ sống ở làng Gaulois… - Không phải đâu anh! – Con Rùa lắc đầu nguầy nguậy – Đây là làng Đo Đo hồi xưa. Nó chỉ tay vào nhân vật Obelix đang khuân tảng đá to tướng sau lưng: - Đây là bác Bụng Bự. Bác làm nghề đục đá trên núi Phụng Sơn… Tới lượt tôi ngơ ngác: - Bác Bụng Bự ư? Ai bảo em thế? - Ngoại em kể thế mà. – Con Rùa chớp đôi rèm mi dài – Ngoại em bảo hồi xưa người Pháp đến nước mình truyền đạo. Họ đi khắp nơi, và khi đến làng Đo Đo họ nghe dân làng kể chuyện bác Bụng Bự và bác Ria Vàng đi bắt bọn cướp, họ thích quá nên về viết ra cuốn truyện này. Bác Ria Vàng theo như tay chỉ của con Rùa là nhân vật Asterix. Thoạt đầu tôi ngớ ra, nhưng nghe thêm một hồi tôi dần dần hiểu ra ông ngoại của con Rùa không hề biết tiếng Pháp. Ông nhìn vào các bức tranh và tưởng tượng ra một câu chuyện hoàn toàn khác để thỏa mãn yêu cầu của đứa cháu bé bỏng là con Rùa. - Không phải đâu em. Câu chuyện người ta kể trong sách là như thế này… Tôi hắng giọng nói, rồi chỉ tay vào trang đầu tiên tôi bảo với con Rùa rằng đây là ngôi làng Gaulois ở bên nước Pháp. Khi câu chuyện bắt đầu thì dân làng đang vui chơi thanh bình: Asterix kể chuyện săn bắn, Obelix đẽo đá, Tourix dạy bọn trẻ làng… Bỗng nhiên mọi người nghe tiếng thét của pháp sư Panoramix vọng tới. Khi dân làng chạy lại thì thấy Panoramix đang đeo lủng lẳng trên cây sồi. Thầy vừa làm gãy chiếc liềm vàng chuyên dùng hái lá để chế tạo thuốc tăng sức mạnh. Đại hội pháp sư sắp tổ chức mà không chế tạo được thần dược, thầy Panoramix xem như nắm chắc phần thất bại. Vì vậy, Asterix và Obelix lên đường đi đến Lutèce để tìm nhà buôn Amerix, người chuyên sản xuất lưỡi liềm vàng… - Không phải đâu anh. – Con Rùa lên tiếng phản đối, cái cách nó lúc lắc mái tóc cháy nắng như thể tôi vừa nói điều gì ngớ ngẩn – Người đang bị bọn cướp treo lên cây là bác Bông Gòn. Bác Bông Gòn cao tuổi nhất làng, là người duy nhất biết kho báu của nhà vua chôn giấu ở chỗ nào. - Thế còn cây liềm trong tay… - Tôi cố vặn vẹo, đã bắt đầu ngập ngừng trước gương mặt đang bừng bừng của con Rùa. - Đó là vũ khí của bác Bông Gòn mà anh. – Con Rùa ngước hai giọt nước long lanh nhìn tôi, có vẻ ngạc nhiên tại sao tôi lại không hiểu một điều đơn giản như vậy – Bác dùng chiếc liềm chống lại bọn cướp nhưng bọn chúng đã đánh gẫy chiếc liềm của bác. Và do bác nhất định không hé môi về kho báu, bác đã bị bọn chúng treo lên cây… Mặt trời lúc này đã lên cao, nắng dày hơn bắt đầu sưởi ấm hai đứa tôi và những trang sách. Tôi nhìn tia nắng xuyên qua những chiếc lá bướm bạc đang nhảy nhót trên má con Rùa, cảm thấy không nên tranh cãi với nó nữa. Ông nó đã phả tình yêu làng mạc quê xứ vào từng trang truyện của Rene Goscinny đậm đà đến mức con Rùa không thể chấp nhận một ngôi làng nào khác ngoài làng Đo Đo của nó (và cả của tôi) là địa điểm được nhắc tới trong truyện. - Nếu đó là làng Đo Đo tại sao nhân vật trong truyện toàn mắt xanh mũi lõ? – Tôi vét hết hi vọng, hỏi một câu vớt vát. - Họa sĩ phải vẽ như thế để trẻ em xứ họ dễ xem mà anh. Con Rùa giải thích một cách giản dị. Và đó cũng là câu hỏi cuối cùng tôi hỏi con Rùa trong buổi sáng đầy nắng đó. Sau đó tôi không còn gì để hỏi nữa, vì tôi biết nếu cố bắt bẻ con Rùa tôi sẽ là người thất bại. Tôi đành phải làm cái chuyện bất đắc dĩ là chấp nhận chân lý đứng về phía ông ngoại con Rùa, càng khó khăn hơn nữa khi tôi phải kể tiếp cho nó nghe câu chuyện dở dang mà ông nó để lại như một gánh nặng đối với tôi. 15 Tôi nhìn những bóng nắng run rẩy trên trên sách vừa học cách tưởng tượng, một điều không đơn giản khi câu chuyện về Asterix đã in sâu trong tâm trí tôi như những luống cày trên cánh đồng kí ức. Tôi vểnh tai nghe con Rùa kể lại câu chuyện về ngôi làng Đo Đo không bình yên, về các nhân vật Bụng Bự, Ria Vàng, Bông Gòn, cố để cho đầu óc làm quen với ý nghĩ rằng Asterix, Obelix, Panoramix chính là hóa thân của những chàng dũng sĩ can trường trong ngôi làng nhỏ luôn phảng phất mùi dạ lý hương khi chiều xuống. - Ờ, anh hiểu rồi. Đây là đoạn kể về bác Bụng Bự và bác Ria Vàng chặn đường lão đánh xe bò để hỏi về chỗ trú ngụ của bọn cướp… - Cuối cùng, tôi gật đầu nói, bằng giọng của người đang cố chống lại chính mình, có chút gì ngượng nghịu trong cách phát âm. Con Rùa xích sát vào tôi lúc nào không hay, mê mẩn nghe tôi bịa chuyện. Cho đến khi tảng đá dưới mông tôi bắt đầu nóng lên vì trời đã vào trưa thì tôi kể cho con Rùa được một đoạn khá dài và quả tình tôi rất lấy làm ngạc nhiên về óc tưởng tượng của mình. Câu chuyện bịa của tôi càng lúc càng trôi chảy, đến mức có một lúc tôi có cảm tưởng cuốn truyện tranh trên tay tôi đúng là kể về ngôi làng Đo Đo thật và những Asterix, Obelix đúng là Ria Vàng, Bụng Bự thật. Con Rùa ngồi bên cạnh chốc chốc lại xuýt xoa: - Hay quá! - Hồi hộp ghê! Những tiếng tấm tắc của nó như một thứ gia vị nêm vào câu chuyện giúp cho lời kể của tôi thêm đậm đà và trí tưởng tượng của tôi thêm bay bổng. Thằng Thục xuất hiện ngay vào lúc tôi và con Rùa chuẩn bị rời đi chỗ khác vì tảng đá hai đứa tôi ngồi đã nóng đến mức có thể thui chín chúng tôi trong mười lăm phút nữa. Thục vẹt rào giậu thò đầu qua, nhưng nó không nhìn tôi. - Chết mày rồi, Rùa! – Thục hắng giọng – Ông Bảy Thành đang đi tìm mày kìa! - Ổng tìm tao làm chi? - Làm chi thì lát nữa gặp ổng mày sẽ biết! Ông Bảy Thành xuất hiện trước ngõ nhà con Rùa không lâu sau đó. - Con Rùa đâu rồi? Mày ra đây tao bảo! Một giọng gầm ghè, hơi khàn khàn đập vào tai tôi. Gần như ngay sau tiếng quát, một người đàn ông cao gầy bước vào sân, trên tay đang cầm cây súng kíp. Chòm râu dưới cằm ông dày đến mức tưởng như râu giả mới được ông gắn vào trước đó ít phút trong khi đầu ông thì hoàn toàn ngược lại: chỉ có mớ tóc loe hoe bám sau ót, nửa đầu phía trước trơn bóng tạo cảm giác ông đang sở hữu một cái trán lớn gấp đôi người bình thường. Mũi ông hơi khoằm và chính chi tiết này khiến ông giống một cách kỳ lạ với pháp sư Panoramix trong truyện Asterix. Nếu tóc và râu của ông đem nhuộm trắng đi thì ông đúng là pháp sư Bông Gòn theo cách nói của con Rùa. Trong khi tôi chằm chằm nhìn người thợ săn, sự lo lắng mỗi lúc một dâng lên khiến bụng tôi cứ quặn lại từng chặp, con Rùa nhìn người mới đến, thản nhiên hỏi: - Con nè. Có chuyện gì vậy chú Bảy? - Mày đừng có giả vờ, tao đập mày bây giờ! – Mặt ông Bảy Thành đỏ phừng phừng khi nhìn thấy con Rùa đứng lên khỏi phiến đá xanh. Ông giơ báng súng lên khỏi đầu vẻ đe dọa. Con Rùa ngước nhìn cây súng của người thợ săn, ánh mắt nó lướt qua cái báng gỗ rồi rớt xuống gương mặt đỏ như hơ lửa kia, ngơ ngác: - Sao tự nhiên chú đòi đánh con? Chòm râu dưới cằm ông Bảy Thành gần như dựng lên: - Tối hôm qua mày lẻn vô nhà tao phá phách phải không? - Tối hôm qua trời mưa con đâu có ra khỏi nhà. – Con Rùa đáp bằng giọng nếu nó có làm chuyện đó thì trời sẽ sập xuống đầu nó ngay lập tức. Bà nội con Rùa nghe ồn, lẹp kẹp bước ra hiên, chiếc khăn trầu còn nhét hờ nơi mép túi, chắc bà vừa phun bã trầu vô ống nhổ. Nhác thấy ông Bảy Thành, bà chưa kịp lên tiếng, người thợ săn đã nghiến răng: - Bác xem đứa cháu quý hóa của bác nè. Tối qua nó lẻn vô nhà tôi đổ nước vào túi thuốc nhồi ướt hết trơn. Bà nội con Rùa ngập ngừng: - Có phải nó không, chú? Con Rùa giậm giậm chân trên nền đất: - Không phải con! Không phải con mà! Thằng Thục lúc này đã đến bên cạnh tôi. Nó kề miệng vào tai tôi, nói nhỏ: - Nó chứ ai! Ông Bảy Thành lắc cây súng trên tay, tay kia xoa lên chiếc mũi khoằn như để nén giận, giọng hăm he: - Đây không phải là lần đầu tiên nghe Rùa. Hôm nào tao mà bắt quả tang được, mày đừng có trách tao. Trước khi đùng đùng bỏ đi, ông Bảy Thành tức tối giáng cây súng kíp lên hòn non bộ, trúng ngay con gà bằng đất nung làm con gà văng tuốt vô hàng rào. Có lẽ đây không phải là lần đầu những người thợ săn trong làng đến hỏi tội con Rùa. Tôi đoán vậy khi thấy con Rùa lẫn bà nó không ai có biểu lộ gì cho thấy họ bị bất ngờ trước hành vi lỗ mãng của ông Bảy Thành. Con Rùa lúc này đang lấm lét nhìn bà nó, tay vẫn cầm cuốn truyện tranh Asterix. Trong khi tôi đứng đực tại chỗ, không biết phải làm gì hay nói gì, thằng Thục đã kịp khều nhẹ lên cánh tay tôi: - Về đi anh! 16 Trưa đó, thằng Thục rủ tôi về nhà thím Lê nhưng tôi lắc đầu: - Tao không về đâu. - Anh về đi lượm nắp keng với em. – Thục vừa nói vừa lay cánh tay tôi. Tôi nhún vai: - Mày muốn xuống chợ Kế Xuyên thì tao chở mày đi. Nhưng đi xong, tao về lại nhà cô Út Huệ. Mặt thằng Thục xịu xuống: - Anh không thích chơi với em nữa hả? - Sao mày nói vậy? Lúc nào tao chẳng thích chơi với mày! - Anh thích chơi với con Rùa thì có. Tôi khựng lại mất ba mươi giây sau nhận xét của Thục. Tôi bối rối ngoảnh đầu ra sân nắng, đưa mặt nhìn những bông hoa nắp ấm đong đưa cạnh hàng rào, liếm môi đáp: - Tại mày không biết đó thôi. Tao đang hứa với con Rùa một chuyện, tao phải ở lại đây làm cho xong. - Anh hứa với nó chuyện gì vậy? Tôi khụt khịt mũi: - Khi nào làm xong tao sẽ kể cho mày nghe. Tôi không nói với Thục tôi đang phải đọc cuốn Asterix để kể cho con Rùa nghe hết câu chuyện tưởng tượng về làng Đo Đo ngày xưa. Tôi sợ thằng Thục đòi nghe ké. Không chỉ giấu thằng Thục, tôi cũng không nói chuyện đó với cả bé Loan. Tôi không bao giờ tự hỏi tại sao tôi làm vậy. Nhưng bây giờ thì tôi hiểu ra khi ở bên cạnh con Rùa, tôi không muốn bất cứ ai phá hỏng bầu không khí êm ái vây quanh hai đứa tôi. Bữa đó, thằng Thục ở lại chơi với tôi và bé Loan đến khi trời lưng lửng chiều. Nó không rủ tôi đi lượm nắp keng nữa. Nó lấy hai hột xoài bé Loan phơi khô để dành trong ngăn tủ ra ngồi giữa nhà loay hoay làm cối xay cho con bé. Trong khi bé Loan lục lọi nhà kho kiếm mấy sợi chỉ to, loại chỉ dùng để may miệng bao tải, tôi xuống nhà bếp đánh cắp của cô Út Huệ một chiếc đũa tre để làm trục cối xay. Hai anh em đóng đóng gõ gõ một hồi đã làm được cái cối xay hột xoài rất đẹp. Trong chuyện này, tôi phải công nhận thằng Thục rất khéo tay. Cái cối xay của nó không chênh, không lắc, không nhảy chồm chồm. Bé Loan cầm sợi chỉ kéo tới kéo lui, hột xoài nằm ngang phía trên vẫn chạy êm ru. Bé Loan là đứa ham chơi mau chán. Nó chơi một hồi, liệng cái cối xay cho thằng Thục, rồi chạy ra sau hè nhặt một miếng kính vỡ. Xong, nó đứng ngoài sân nắng, ngọ nguậy miếng kính trên tay, hào hứng chiếu những đốm sáng vào nhà. Những đốm sáng sau khi nhảy nhót lung tung trên vách, trên tủ, trên bàn ghế, bắt đầu rọi vào mặt tôi và mặt thằng Thục. Lần đầu tôi và thằng Thục nhe răng cười, một lát thấy bé Loan chơi dai nhách, ánh sáng chói chang cứ chiếu thẳng vào mặt hai đứa tôi hàng buổi, Thục nổi cáu: - Mày có thôi đi không, Loan! Mày còn rọi vô mắt tao lần nữa là tao về à. Thục về thật. Khi bé Loan không thèm nghe lời, tay vẫn xoay miếng kính để điều khiển đốm sáng rọi trúng mục tiêu là mặt thằng anh họ nó, Thục đùng đùng bò ra khỏi nhà, nhảy lên xe đạp chạy thẳng. Nó chạy nhanh đến mức tôi chỉ kịp kêu “ơ”, nó đã mất dạng sau cây sầu đông trước ngõ. Tôi rầy bé Loan: - Em đùa dai thật đó! Bé Loan cười hì hì: - Ai bảo anh Thục cứ rủ anh về xóm dưới, không cho anh ở lại đây chơi với chị Rùa. Bé Loan là con nhóc mười tuổi ngây thơ, nhưng lém lỉnh không ai bì. Câu nói của nó quét lên mặt tôi một thứ màu giông giống màu gạch cua. Tôi định nói với nó tôi ở lại nhà cô Út Huệ còn vì tôi thích chơi với nó nữa nhưng cuối cùng tôi làm thinh vì tôi thấy sự thanh minh đó giả tạo quá. Tôi ở nhà cô Út Huệ gần hai ngày nhưng chẳng chơi với bé Loan được bao nhiêu, chỉ toàn la cà với con Rùa. 17 Chiều hôm đó, tôi phát hiện con Rùa chưa từng đọc cuốn sách nào khác ngoài cuốn Asterix và lưỡi liềm vàng ông ngoại nó để lại. Đó là cuốn sách duy nhất mà nó có. Hồi bé tôi cũng thế. Cho tới lúc rời làng vào năm tám tuổi, tôi chưa từng đọc một cuốn sách nào. Không chỉ ở làng, ngay cả thị trấn Hà Lam cũng không hề có nhà sách. Hồi chú Thảo còn sống, thỉnh thoảng chú mượn được của ai đó một cuốn truyện. Chú đọc và sung sướng kể cho tôi nghe từng đoạn ngắn vào những buổi trưa hai chú cháu nằm bên nhau trên chiếc phản rộng ghép bằng bốn miếng ván để chờ giấc ngủ kéo đến. Tôi hỏi con Rùa: - Thế em kể cho con Tập Tễnh nghe đi nghe lại mãi một chuyện à? - Dạ. Tôi gật gù: - Anh sẽ kể cho em nghe thêm nhiều chuyện mới. Rồi em kể lại với con Tập Tễnh. Có vô số chuyện hay ở trong sách. - Anh kể em nghe bây giờ đi! – Con Rùa chớp mắt, háo hức giục. Trong mười năm sống ở Sài Gòn, tôi đọc được rất nhiều truyện hay. Và tôi chọn cuốn Tâm hồn cao thượng của Edmond de Amicis để kể cho cô bạn mới. Tâm hồn cao thượng là cuốn sách tôi rất thích, nhưng điều khiến tôi chọn cuốn này là do nó gồm những mẩu chuyện ngăn ngắn, rất dễ dàng kể lại. Dưới bóng lá của cây bướm bạc, vẫn trên phiến đá xanh bây giờ đã dịu mát khi mặt trời trượt rất dài xuống khỏi đỉnh và sắp chạm ngọn đồi phía tây, tôi từ tốn kể cho con Rùa nghe về cậu bé thành Padova và cố dằn lòng để không buột miệng thắc mắc rằng có phải nó đã lẻn vào nhà ông Bảy Thành để làm hỏng túi thuốc nhồi của người thợ săn vào tối hôm qua hay không. Tôi không hỏi, vì tôi biết nếu cần nói thì con Rùa sẽ tự động dốc bầu tâm sự, còn một khi nó đã lờ đi chuyện đó có nghĩa là nó không thích ai chạm vào những dây tơ bí mật trong lòng nó làm vang lên những âm thanh mà nó muốn giấu kín đằng sau vẻ ngoài bình thản kia. Trong khi con Rùa luôn miệng xuýt xao khi nghe tới chỗ cậu bé lang thang xứ Padova ném trả những đồng tiền vàng vào mặt những người nói xấu đất nước cậu, tôi vẫn không ngớt nghĩ tới cơn giận dữ của ông Bảy Thành, và sở dĩ tôi cứ băn khoăn mãi chuyện đó là vì tôi rất lo cho con Rùa. Tôi sợ rằng nếu nó cứ quậy phá như thế một ngày nào đó nó sẽ bị bắt quả tang, và lúc đó không biết điều gì sẽ xảy ra với nó. Tôi lo vẩn vơ thế thôi, lòng chỉ mong mai mốt tôi rời khỏi làng con Rùa ở lại bình yên vô sự bởi vì tôi nhận ra tôi đã vô cùng yêu mến nhỏ. Tôi cũng cảm nhận được sự cô độc của con Rùa và điều đó không khỏi khiến tôi chạnh lòng trong rất nhiều ngày. Đúng như thằng Thục nói, con Rùa hầu như không có bạn. Những đứa cùng tuổi với nó thì học hơn nó quá xa, hai bên không có cùng mối quan tâm về bài vở, cũng không thể chia sẻ những kỉ niệm trường lớp. Ngược lại, những đứa học cùng lớp với nó ở trường làng lại quá nhỏ, con Rùa không thích hợp để chơi những trò trẻ con với đám bạn lóc nhóc của mình. Bé Loan rất quý con Rùa, lúc nào cũng bênh vực “chị Rùa” chằm chặp nhưng trừ hôm nó nói chuyện với con Rùa qua ống lon, tôi không thấy nó chạy qua chơi với con Rùa bao giờ. Dĩ nhiên con Rùa cũng có bạn bè theo kiểu của nó: con Cổ Dài suốt ngày lùng sục kiếm ăn bên ao rau muống, thằng Đuôi Dài khoái trò trèo lên tuột xuống cây dừa sau vườn, con Đít Đỏ hay đứng rỉa cánh trên ngọn tre trước ngõ khi nắng bắt đầu lên, và những con vật khác trong rừng. Nhưng lũ bạn đó có làm cho con Rùa bớt cảm giác lẻ loi hay không thì tôi không biết, tôi chỉ thấy dậy trên lòng nỗi lo lắng mơ hồ. Tôi sợ rằng vì chở che cho đám bạn của mình, con Rùa đã gây thù chuốc oán với phường săn trong làng và rất có thể một ngày nào đó nó sẽ rơi vào tình cảnh rắc rối. Khi nơm nớp nghĩ như vậy, tôi không ngờ viễn ảnh đó xảy ra sớm hơn tôi tưởng.
|
Chương 1 - Phần 4 18 Mọi chuyện bắt đầu từ chuyến đi rừng ba ngày sau khi tôi kể cho con Rùa nghe những mẩu chuyện trong cuốn Tâm hồn cao thượng. Tôi chưa từng thấy người nào nghe chuyện say sưa như con Rùa. Con Rùa không chỉ nghe bằng tai. Nó nghe bằng cả mắt lẫn miệng, bằng cả tay chân điệu bộ, với vẻ sung sướng rạng ngời tưởng như có thể sờ thấy được. Nói tóm lại khi nghe chuyện tâm hồn con Rùa dường như đặt hết vào từng câu chữ chảy ra từ miệng tôi, trông nó như kẻ đói đang rình một món ăn. Hôm đó, sau khi nghe tôi kể về chú lính đánh trống người đảo Sardegna, con Rùa vùng bảo: - Ngày mai mình vào rừng chơi đi anh! - Vào rừng á? – Tôi ngạc nhiên hỏi lại, không hiểu tại sao đang mải mê hóng chuyện, nó lại nghĩ đến chuyện vào rừng. - Ừ, vào rừng em kể những chuyện này cho con Tập Tễnh nghe. – Con Rùa hào hứng – Lâu nay em bắt nó nghe đi nghe lại mỗi chuyện về bác Bụng Bự và bác Ria Vàng, tội nó quá! Tất nhiên tôi không tin con Tập Tễnh có thể phân biệt được chuyện mới với chuyện cũ, thậm chí tôi không nghĩ một con nai có thể nghe chuyện nhưng tôi không phản đối đề nghị của con Rùa. Tôi muốn đi vào rừng một phần vì chúng tôi đã bỏ dở một chuyến đi như thế cách đây mấy ngày do trời đột ngột đổ mưa lớn, nhưng quan trọng hơn tôi muốn sau chuyến đi này tôi sẽ chứng minh cho thằng Thục thấy rằng con Rùa vào rừng không phải để liên lạc với giặc cướp hay làm chuyện gì mờ ám như cánh thợ săn rêu rao. Tôi và con Rùa ra đi vào lúc mặt trời vừa lên ngang ngọn tre. Nó bảo đi buổi sáng rùi gặp mưa bất chợt, hai đứa tôi có thể chui vào các “ngôi nhà” rải rác dọc đường chờ tạnh mưa rồi đi tiếp, không phải quay về như hôm trước. Nó dặn tôi đem theo một ổ bánh mì nhưng nhà cô Út Huệ không có bánh mì nên tôi lận theo người một nắm xôi đậu phộng ép trong mo cau. Con Rùa khoe tôi mấy củ khoai lang luộc bỏ trong túi, bảo: - Trong rừng có nhiều thứ ăn được nhưng mình cứ đem theo cho yên tâm. Theo con đường hôm trước chạy dọc giữa các bụi duối dại, hai đứa tôi đi mãi về phía tây. Từ xa tôi đã có thể nhìn thấy cánh rừng bắt đầu từ con hẻm luồn giữa những ngọn đồi rợp lá xanh. Những thân cây gần nhất có màu xanh, nhưng tôi không thể nói như thế về những cây cối nằm sâu trong rừng. Ở quãng giữa, rừng như phát sáng, những hàng cây trông giống những ngọn nến trắng, tôi thấy có khói màu xanh lơ bốc lên. Khi bắt đầu đặt chân qua cửa rừng, con Rùa hỏi tôi: - Anh mỏi chân không? - Không. - Đi xa lắm đó. Tôi không sợ đi xa, tôi chỉ sợ rắn rết hùm beo. Tôi chép miệng: - Anh không sợ đi xa. Con Rùa cười, nói tiếp ý nghĩ trong đầu tôi: - Trong này không có cọp. Khu rừng làng mình toàn những con thú hiền. Không khí trong rừng hoàn toàn khác bên ngoài khiến tôi có cảm giác vừa bước vào một nơi rất xa thế giới tôi đang sống. Những hơi mát dễ chịu ngấm vào da tôi, dù chúng tôi vừa băng qua một khoảng rừng thưa đầy nắng. Bên những loại cây tôi không biết tên, thỉnh thoảng tôi vẫn bắt gặp những cây duối dại, những cây dừa hoang mọc rải rác khắp sườn đồi. Những loại cây quen thuộc này tạo cảm giác tôi vẫn chưa cách ly hẳn với thế giới bên ngoài và điều đó giúp lòng tôi yên tâm được một chút. Càng đi sâu, rừng càng dày. Tới một lúc, lá trên đầu tôi bắt đầu kết thành vòm và tôi thích thú một cách sợ hãi khi chốc chốc lại phát hiện những thân cây có hình thù cổ quái. Con Rùa dẫn tôi đi theo con đường mòn do những người thợ săn và những người hái củi vạch ra trên cỏ có lẽ từ lâu lắm, nhưng lối đi đó càng xa càng mờ dần và tới một lúc tôi không còn nhìn thấy nữa. Trước mặt tôi con Rùa vẫn tiếp tục rảo bước, không hề bối rối mảy may, như thể đã có sẵn lối đi trong đầu nó. Tôi sải chân thật nhanh, cố bám sát con Rùa. Nắng lên cao nhưng tôi bắt đầu thấy lạnh. Cái lạnh của sương dâng lên là là mặt cỏ, của bóng lá mỗi lúc một ken dày, của cả nỗi sợ mơ hồ từ trái tim tôi tỏa ra. Đây là lần đầu tiên tôi vào rừng, dù tôi đã sống cạnh khu rừng này suốt tám năm tuổi thơ. Ngay từ bé tâm trí tôi đã chất đầy những lời người lớn hù dọa, vì thế với tôi rừng luôn gắn với những gì nguy hiểm, độc địa, chết chóc. Rừng có rắn rết, có những con trăn lớn, có cọp beo. Và có những con ma. Những con ma nhảy nhót bên cạnh những con quỷ rừng. Ngay chú Thảo cũng nói với tôi như thế. Chú bảo “Con không nên vào rừng”. Lúc đe tôi câu đó, giọng chú giống như thể nếu tôi không nghe lời chú tôi sẽ không bao giờ có dịp thấy ánh sáng mặt trời nữa. Bây giờ chú Thảo đã mất và tôi đang ở trong rừng. Lời hăm dọa của chú năm nào hiện ra trong tâm trí khiến tôi vội vàng cúi xuống nhặt một cành cây cầm tay. Con Rùa hỏi, như thể nó có mắt sau gáy: - Anh muốn chống gậy rồi hả? - Ờ. Tôi đáp, thà để con Rùa tưởng tôi mỏi chân còn hơn để nó biết tôi nhát gan. - Gần tới rồi đó anh. Con Rùa trấn an tôi, và tôi thấy rõ nó cố tình đi chậm lại. Một con sóc xám với chiếc đuôi thật đẹp hiện ra ngay khúc quanh. Tôi chưa từng thấy con sóc nào có cái đuôi to như vậy. Khi chạy trên cỏ, cái đuôi của nó không ngừng nảy lên đập xuống như thể nó đang kéo theo một quả bóng bằng bông. Nó chạy vài bước qua phải, vài bước qua trái, rồi dừng lại bên gốc cây thông non giương mắt nhìn hai đứa tôi, không chút sợ hãi. Chỉ đến khi tôi và con Rùa đến thật gần, nó mới chạy vào nấp dưới đám lá kim thò đầu ngó ra. - Luẩn quẩn ở đây có ngày chết đấy, nhóc. – Con Rùa nói với con sóc xám – Đi theo chị qua bên kia cho an toàn. Tôi nghĩ con Rùa chỉ thuận miệng nói chơi, nó sợ con sóc gặp phải cánh thợ săn. Tôi cũng không tin con sóc hiểu được đề nghị của con Rùa, mặc dù tôi từng chứng kiến nó nói chuyện với con ngỗng trong vườn nhà nó. Niềm tin trong lòng tôi càng được củng cố khi hai đứa tôi đi một quãng xa, con sóc vẫn chẳng buồn nhúc nhích. Nhưng rồi, bất chợt tôi nghe có tiếng xào xạc phía sau lưng. Tôi ngoảnh lại, sửng sốt thấy con sóc xám đang lúp xúp đuổi theo hai đứa tôi. Nó chạy từng quãng ngắn, thoáng chút ngại ngần, nhưng xem ra rất quyết tâm. Có lẽ sự hiện diện của tôi bên cạnh con Rùa làm nó cảnh giác. Con Rùa vẫn điềm nhiên đi tới, trong khi tôi không ngăn được mình cứ chốc chốc lại ngoái đầu ra sau để ngạc nhiên phát hiện đằng sau con sóc bây giờ có thêm một con chồn lẽo đẽo nối đuôi. Con chồn đi những bước rụt rè, chiếc đuôi dài quét đất làm vang lên những tiếng sột soạt mỗi khi băng qua một đám lá khô. Từ xa tôi thỉnh thoảng lại thấy hai vành tai mỏng của nó ửng lên khi có những tia sáng bất chợt rọi qua. Có lẽ đây là đám bạn của con Rùa, tôi nhủ bụng. Hôm trước nó khoe tôi nó có rất nhiều bạn ở trong rừng. Dĩ nhiên là tôi tin những gì con Rùa nói nhưng lúc đó tôi vẫn chưa hình dung được. Khung cảnh trước mắt vì vậy khiến tôi vô cùng bỡ ngỡ nhưng sau đó thì chợt nhớ ra các con vật có trực giác rất nhạy. Chỉ qua vài lần tiếp xúc chúng biết ngay ai là bạn bè ai là kẻ thù và chúng có cách riêng để truyền tín hiệu cho nhau. Tôi ngắm hai con thú hoang đang rón rén bám theo sau lưng, thầm đoán nhiều con vật khác có lẽ cũng đang nấp đâu đó trong các bụi rậm quan sát chúng tôi qua kẽ lá. Hôm nay nếu không có tôi, chắc chúng đã ùa ra tung tăng trên cỏ. Trước mặt tôi, con Rùa vẫn đều đặn rảo bước, không một lần quay đầu lại. Tôi nghĩ có lẽ nó không lạ gì chuyện các con vật chạy ra chơi với nó mỗi khi nó vào rừng nhưng đến khi có thêm hai con nhím nhập bọn thì tôi không làm thinh được nữa. Tôi sải chân nhanh về phía trước, rối rít: - Em nhìn phía sau xem kìa! Con Rùa hơi nghiêng mình để có thể nhìn đám thú qua vai, mỉm cười: - Em biết rồi. Tụi nó theo em đi lánh nạn đó. Tôi biết con Rùa định dẫn đám thú nhỏ tránh xa những chiếc bẫy và những phát súng của phường săn. Trong khi tôi định mở miệng hỏi nó định dẫn đám thú (cả tôi nữa) đi đâu thì tai tôi đột ngột vểnh lên. Có tiếng nước róc rách ở đằng trước vẳng tới. 19 Trước khi con thác hiện ra, theo như con Rùa nói là sau năm phút nữa, một con khỉ đeo mình trên cành xà cừ bên tay phải phát ra những tiếng chí chóe khiến tôi và con Rùa lật đật lia mắt nhìn. - Thằng Miếng Vá! Con Rùa buột miệng, không phải để gọi con khỉ mà để giới thiệu với tôi. Tôi hiểu ngay đây là con khỉ thỉnh thoảng vẫn chạy vào làng chơi với con Rùa. Thằng Miếng Vá, giống như cái tên mà con Rùa đặt cho nó, có một chỏm tóc màu đen ngộ nghĩnh ở chính giữa trán trông như một đứa bé để tóc trái đào. Trên hai gò má nó cũng có hai vệt đen giống như vừa bị ai chơi nghịch trét lọ nồi. Thằng Miếng Vá sau khi cất tiếng kêu liền trèo thoăn thoắt lên ngọn cây, thoáng chốc đã biến mất sau đám lá xà cừ xanh. Chỉ đến khi các cành cây rung lên tôi mới biết nó vừa quăng mình qua ngọn trắc bá kế bên. Khi con Rùa tiếp tục rảo bước thì tôi hiểu ra con khỉ con đang láu táu giành nhiệm vụ dẫn đường. Đó là cách để con khỉ háo thắng thể hiện mình, vì nếu không nó cứ sau một cú quăng mình lại dừng lại chờ đợi để hãnh diện thực hiện một cú quăng mình tiếp theo, con Rùa vẫn đang đi đúng con đường vạch sẵn trong đầu nó kể từ khi chúng tôi đặt chân vào bìa rừng. Tiếng nước reo mỗi lúc một lớn và khi thằng Miếng Vá dừng lại, tôi thấy có thêm hai con khỉ khác đang ngồi trên tảng đá dưới chân ngọn thác vừa hiện ra sau khúc ngoặt. Hai con khỉ này lớn hơn, có lẽ là khỉ anh chị hay khỉ bố mẹ, cũng có chỏm lông dày ở giữa trán như thằng Miếng Vá, chỉ khác là chỏm tóc này màu vàng. Khi con khỉ to nhất chớp mắt nhìn tôi và con Rùa, tôi thấy mi mắt nó có màu trắng như vừa được tô bằng cây bút chì bạc. Thác không cao, nhưng màn nước giống như một miếng voan trắng phủ kín sườn đồi lởm chởm những bụi cây thấp, ở vài chỗ lá nhúng cả xuống mặt nước. - Tới rồi đó anh. Con Rùa nói, ngoảnh cổ không phải để nhìn tôi mà để quan sát đám thú nhỏ phía sau lưng tôi. Tôi đưa mắt nhìn nước từ đỉnh thác lao xuống vùng xoáy tạo nên một núi bọt trắng xóa, những đợt sóng ngắn và những vòng tròn lan ra bốn phía, tai ngập trong một thứ âm thanh rộn rã, hoang sơ nhưng vô cùng dễ chịu. - Em dẫn tụi nó đi tắm hả? Tôi hỏi con Rùa, không nghĩ là mình hỏi trêu. Như để trả lời thắc mắc của tôi, ba con khỉ đứng lên khỏi tảng đá cạnh chân thác, nối đuôi nhau trèo qua những mô đất dọc triền đồi, chân bám trên những bụi cây, men dần về phía bức màn nước. - Đi anh! - Con Rùa vừa nói vừa bước ra phía sau cúi xuống ẵm một con nhím lên tay. - Đi đâu? - Chui qua bên kia. – Con Rùa hất đâu về phía ngọn thác – Có một lối đi nằm ngay sau thác nước. Trước bộ mặt ngơ ngác của tôi, con Rùa nói tiếp: - Anh ẵm con nhím kia giùm em đi! Con nhím khi xù lông như một quả cầu gai nhưng lúc tôi bế nó trên tay, lông nó rạp xuống như những ngọn giáo được xếp gọn gàng, dù vậy tôi vẫn cố cẩn thận hết mức để tránh bị các mũi nhọn vô tình đâm vào tay. Một tay ôm con nhím, tay kia bám vào những cành lá đong đưa trên đầu, tôi thận trọng đặt chân lên những mô đất và những bụi cây rải rác dọc triền đồi, dè dặt nhích từng bước một. Ba con khỉ lúc nãy đã biến mất sau màn nước. Trước mặt tôi, con Rùa di chuyển một cách nhẹ nhàng trên sườn dốc, trông nó không có chút gì gắng sức. - Anh nhìn cho kĩ chỗ em chui vào nhé! Con Rùa nói với tôi trước khi biến mất ở một chỗ nào đó giữa màn nước. Tôi run lên trong bụng khi bắt đầu nhúng người vào thác nước, cứ nghĩ sức nước tuôn xuống từ trên cao sẽ hất văng tôi xuống vũng xoáy bên dưới bất cứ lúc nào. Nhưng điều tôi lo sợ đã không xảy ra. Do ngọn thác không cao nên sức nước không mạnh như tôi nghĩ, mặc dù tôi phải bám thật chắc cả tay lẫn chân vào các bụi cây mới không bị ngã. Con nhím co rúm trong lòng tôi, như cảm nhận được rằng bất kỳ một sự cựa quậy nào của nó cũng có thể khiến cả tôi lẫn nó rơi xuống vực. Thực tế thì tôi đã vượt qua thử thách này không đến nỗi vất vả như tôi tưởng. Tôi tin con Rùa đã từng chui qua màn nước này nhiều lần và nó biết đó không phải là hành động quá nguy hiểm, nếu không nó đã không rủ tôi đi theo. Tôi thở phào khi đặt được chân vào cửa hang, đầu cổ tóc tai ướt đẫm, mắt cay xè, lòng phân vân không biết làm gì với con nhím trên tay. - Anh đặt nó xuống nền hang đi. Nó sẽ tự bò theo mình. – Trong thứ ánh sáng lờ mờ hắt vô từ màn nước, con Rùa vẫn nhận ra sự lúng túng của tôi. Nó nói, tôi thấy con nhím của nó đang nằm ngay dưới chân. Tôi khẽ đặt con nhím trên tay xuống nền hang. Vừa rời khỏi tay tôi, những cọng lông nhọn của nó lập tức xù ra bốn phía, có lẽ là để rũ nước. Trông nó có vẻ hồi hộp, lúc này nhìn nó giống hệt một con chuột nấp trong vỏ sầu riêng đang thò đầu ra nghe ngóng. Thằng Miếng Vá đứng cách đó một quãng, miệng chí chóe không ngừng. - Nó giục mình đi theo nó đó anh. - Hai con khỉ kia đâu? - Tụi nó quay ra ngoài rồi. Vòm hang khá rộng, tôi có thể đứng thẳng người nhưng con Rùa vẫn dặn tôi cảnh giác với những mỏm đá thỉnh thoảng nhô ra từ trần hang. Hang càng vào sâu càng tối, chúng tôi chỉ biết dò dẫm đi theo tiếng kêu của con khỉ con. Có rất nhiều ngóc ngách trong cái hang kì lạ này, nếu không thuộc đường sẽ rất dễ bị lạc. Con Rùa bảo tôi đây là cái hang tự nhiên, về sau được con người sửa chữa thêm để chuyển quân bí mật trong thời kỳ chiến tranh. Tôi hỏi em còn bé sao biết chuyện này. Nó bảo nó nghe ông ngoại nó kể. Con Rùa còn nói trừ ông ngoại nó ra, không một ai trong làng biết cái hang này. - Chắc em giấu con Tập Tễnh trong cái hang này đúng không? - Không đúng. Câu trả lời của con Rùa hoàn toàn ngoài tiên liệu của tôi. - Không đúng à? – Tôi tròn xoe mắt – Em bảo em vào rừng để gặp con Tập Tễnh mà? - Điều đó thì đúng. – Con Rùa cười khúc khích – Nhưng con Tập Tễnh không ở trong hang. Ánh sáng đùng đục hắt tới từ phía trước như thay cho con Rùa trả lời tôi. Tiếng chí chóe của con khỉ con lúc này vẳng lại từ rất xa, tôi đoán nó không kiềm được háo hức khi nhìn thấy quầng sáng nên đã lao nhanh về phía trước. Ánh sáng càng lúc càng tỏ dần, nhưng không vì vậy mà tôi tránh khỏi hai cú va đầu vào các mỏm đá đột ngột chĩa xuống từ trần hang. Một cú bên trái một cú bên phải khiến đầu tôi sưng lên hai cục. Nếu coi đó là hai cái sừng thì tôi đã rất giống một thành viên trong đám thú nhỏ của con Rùa. Màu xanh của cây lá bên ngoài cửa hang lúc này đã hiện ra trong tầm mắt nhưng tôi chưa kịp reo lên bỗng nghe có tiếng sột soạt từ phía sau lưng rồi có cái gì đó chạm vào chân tôi khiến tôi “á” lên một tiếng đầy hoảng hốt. - Tụi nhóc đó. Con Rùa vừa dứt lời, tôi đã thấy hai cái bóng đen vọt lên từ sau lưng tôi phóng vù về phía cửa hang. Đó là con chồn và con sóc đi theo tôi và con Rùa trong rừng. Tôi không biết tụi nó đã vào hang và lẳng lặng bám theo hai đứa tôi từ lúc nào. - Con chồn có thể vượt qua bức màn nước nhưng anh nghĩ con sóc sẽ bị nước cuốn trôi. - Lúc nãy hai con khỉ quay ra là để giúp sức cho con sóc đó anh. Bọn nhím và bọn khỉ đi sau cùng. Tôi biết khỉ là loài hiếu động (nhìn thằng Miếng Vá lơn tơn phi lên trước là biết), nếu hai con khỉ phía sau không chịu vượt lên từ sớm có lẽ chúng sợ bọn nhím chậm chạp đi lạc đường. Chúng khôn ghê! 20 Cửa hang trổ ra một rẻo xanh tươi chạy giữa hai sườn núi. Một thung lũng nên thơ với những loại cây thấp và rất nhiều hoa bướm dại, hoa đuôi diều, hoa sao và các bụi cúc ngũ sắc mọc dọc các khe nước nhỏ chảy len lỏi giữa các kẽ đá trước khi róc rách buông mình xuống những chiếc hồ nhỏ ngập hoa tím nằm rải rác giữa thung. Thận trọng đặt chân lên những tảng đá ngoài cửa hang để leo xuống, con Rùa nói với tôi: - Đẹp không anh? - Đẹp quá. – Tôi xuýt xoa – Cỏ cây bên này khác hẳn bên kia. - Ngoại em bảo sườn đồi bên này nằm về hướng đông nên đón được nhiều nắng và các luồng gió ấm từ biển thổi lên. - Hèn gì bên này không có những loại cây to giỏi chịu lạnh… - Cũng có thể có một mạch nước nóng chảy ngầm bên dưới thung lũng này. Ngoại em đoán thế. Con Rùa đưa mắt nhìn quanh: - Rất may ở đây không có sông hoặc suối chảy qua. Nếu không, phường săn men theo các nguồn nước thế nào cũng tìm thấy chỗ này. Tôi tin ngay lời con Rùa nói, không chỉ vì khung cảnh bên này ngọn đồi hoàn toàn khác với bên kia mà vì không khí thanh bình tỏa ra từ mỗi gốc cây ngọn cỏ, từ những cánh bồ công anh bay rợp trời như những vũ công kiêu hãnh khoe chiếc váy trắng tinh trong nắng sáng, từ cách bọn thú nhỏ nô đùa tung tăng trước mắt, và cả từ tiếng đập cánh rì rào của đám bọ dừa, tiếng châu chấu nhảy tanh tách trong đám cỏ mượt dưới chân khiến tôi cảm nhận được sự êm đềm dễ chịu vây bọc chung quanh. - Con Tập Tễnh sống ở đây. Con Rùa nói, và gần như ngay lập tức tôi nhìn thấy một con nai tuyệt đẹp đang đứng dưới bóng cây bạc hà miêu đưa đôi mắt đen láy nhìn lên chỗ cửa hang. Đó là một con nai màu vàng nâu với những chấm trắng lốm đốm trên toàn thân, hai tai to như hai chiếc lá bàng lúc này đang vểnh lên hướng về phía tôi và con Rùa. Nó đứng đó, dưới bóng lá, không kêu lên cũng không gõ móng xuống mặt cỏ nhưng tôi vẫn mường tượng được sự bồn chồn trong dáng đứng bất động của nó. Chưa bao giờ tôi quan sát một con nai ở khoảng cách gần đến thế, và khi tôi theo con Rùa tiến đến sát bên con Tập Tễnh, đưa tay vuốt ve bộ lông mềm mại và chiếc mũi đen ướt của nó thì đó là lần đầu tiên trong đời tôi chạm tay được vào con thú xinh đẹp xưa nay tôi chỉ nhìn thấy trong những trang sách. Đến lúc đó thì con nai con mới gõ móng, nhảy vài bước ngắn quanh hai đứa tôi để chào mừng, rồi dừng lại âm yếm dụi đầu vào ngực con Rùa, cánh mũi không ngớt phập phồng vì xúc động. Trông cái cách con nai con mừng rỡ đón con Rùa, tôi không khỏi liên tưởng đến hình ảnh tôi hồi bé mỗi lần đón mẹ đi chợ về. Con Rùa không có quà bánh cho con Tập Tễnh như mẹ tôi vẫn có quà chợ cho tôi. Con nai con có lẽ cũng chẳng thiếu thốn gì giữa một thung lũng vui tươi tràn ngập hoa cỏ như tôi đang nhìn thấy. Quà của con Rùa là những mẩu chuyện trong cuốn Tâm hồn cao thượng nó mới được nghe tôi kể. Tất nhiên tôi không tin một con nai có thể nghe chuyện nhưng khi con Rùa thong thả bước lại phía lạch nước, ngồi lên tảng đá đang được che dù bởi những cành lá buông rủ trễ tràng như những bím tóc cài hoa đỏ của cây tràm liễu ở phía trên, tôi ngạc nhiên thấy con nai vội vã đi theo trên những bước chân náo nức. Và khi con Rùa đặt mình lên tảng đá, con Tập Tễnh lập tức nằm dán mình lên các bụi thủy trúc, đầu ghếch lên đùi con Rùa, lặng yên chờ đợi. - Hôm nay chị có chuyện mới kể cho em nghe nè. Con Rùa âm yếm nói, vừa nựng Tập Tễnh bằng cách vuốt ve vành tai của con nai bằng hai ngón tay như thể đang mân mê một chiếc lá. Tôi đứng bên cạnh, tựa lưng vào cây tràm liễu, tò mò xem một con nai nghe chuyện là như thế nào. Vì tôi như không tin được vào mắt mình khi thấy cái cách con Tập Tễnh nghe con Rùa kể chuyện giống một cách kỳ lạ dáng điệu của con Rùa khi nó ngồi trước mặt tôi để rình từng mẩu chuyện về cậu bé thành Padova hay chú lính chì đánh trống người đảo Sardegna. Về sau này tôi mới biết con Tập Tễnh thực ra chẳng thể hiểu được những chuyện kể của con Rùa. Điều mà con nai con cảm nhận được và chờ đợi một cách hạnh phúc là tình cảm của con Rùa dành cho nó bộc lộ qua ánh mắt long lanh, qua giọng kể thủ thỉ, qua bàn tay mơn trớn, tất cả toát lên một tình yêu đủ sức sưởi ấm bất cứ một trái tim nào, của một con người hay của một con nai. Chỉ có con nai nghe con Rùa kể chuyện, có lẽ đó là thói quen trong những ngày con Rùa chữa trị thương tật cho nó và lúc đó có lẽ con Rùa đã dùng câu chuyện về làng Đo Đo trong cuốn truyện tranh để làm dịu những cơn đau của con nai con. Gần đó, những con thú khác đang làm những công việc khác: con chồn hương xám tro đang lăng xăng trên những cẳng chân ngắn, chiếc mõm nhọn đánh hơi ra bốn phía bằng những cú quay tròn, đôi mắt màu hạt dẻ không ngừng láo liên tìm kiếm thức ăn trong những bụi thảo quả và đậu ma, cuối cùng trèo lên một cây đu đủ hoang mọc chen giữa các bụi móng rồng. Bầy khỉ đánh đu trên cây vảy ốc, vừa chí chóe vừa hái trái ném nhau một cách phấn khích, đôi lúc trúng phải lũ sóc leo trèo trên cây nhãn lồng gần đó khiến bọn nhóc bỏ chạy toán loạn. Trong khi bọn nhím nhai lá đinh lăng chán lại rủ nhau sục mõm dưới các bụi dong để bới củ, lũ gà rừng đậu trên các cành cây thấp hân hoan gáy chào mặt trời ban trưa. Trên cái nền âm thanh xáo động đó, lại còn thêm tiếng gió lao xao lùa qua các nhánh tràm liễu nữa, giọng kể rì rầm của con Rùa có lúc bị chìm đi nhưng sự âu yếm trong mọi cử chỉ của nó lúc nào cũng truyền đi một thông điệp dịu dàng khiến trái tim của con nai con có lẽ không ngừng thổn thức. 21 Thung lũng mộng mơ là nơi con Rùa giấu con nai con khỏi mắt của phường săn. Đó cũng là thiên đường bình yên của những con thú nhỏ. Đã đặt chân đến miền đất hứa này rồi, không một con thú nào muốn quay lại bên kia ngọn đồi để sống nơm nớp trước những mũi súng và những cái bẫy rập. Chỉ bọn khỉ là thích trở lại phía rừng ngoài, chẳng hiểu tại sao. Con Rùa bảo tôi vậy, khi hai đứa tôi chui vào hang để quay về lối cũ, ba con khỉ liền lập tức bám theo. Có thể vì chúng là loài thú thông minh nhất trong đám, luôn nuôi trong lòng sự tự hào chính đáng là chỉ có chúng mới có thể đi xuyên qua ngọn đồi mà không sợ lạc đường để chết giấm giúi ở một ngóc ngách nào đó trong hang tối. Ước muốn trở thành người dẫn đường tin cậy và là một trợ thủ đắc lực cho con Rùa cũng có thể là động lực khiến tụi nó luôn muốn có mặt ở khu vực hiểm nguy. Bọn khỉ lúc tụt lại đằng sau lúc vọt lên đằng trước, liên tục va một cách bất cẩn vào chân tôi và thường là do thằng Miếng Vá hiếu động dẫn đầu. Tôi cố nhớ những chỗ đầu tôi đụng phải các mẩu đá chĩa xuống từ trần hang và vì không thể nào nhớ nổi nên tôi phải đi lom khom một quãng khá xa mới dám thẳng lưng lên. Trước mặt tôi, con Rùa vẫn lặng thinh rảo bước mặc cho bọn khỉ nhảy nhót và chí chóe luôn mồm. Chỉ đến khi tiếng nước chảy vọng tới càng lúc càng gần và ánh mặt trời từ bên ngoài rèm nước tạo nên một quầng sáng đục mờ nhễ nhại ở phía trước, con Rùa mới lên tiếng: - Miếng Vá, gượm đã em! Lần này tôi đã bớt ngạc nhiên khi con khỉ con đứng lại ngay khi nghe mệnh lệnh của con Rùa. Hai con khỉ kia cũng lập tức dừng chân. - Sao thế em? – Tôi hỏi. - Cẩn thận kẻo chạm phải phường săn ở bên ngoài. Tôi biết con Rùa sợ cánh thợ săn trong làng phát giác ra lối đi bí mật đằng sau thác nước và như một phản xạ tự nhiên tôi nín thở bám theo nó tiến đến sát bức màn nước nghiêng tai nghe ngóng, mặc dù tôi biết phường săn không thể nghe thấy tiếng hô hấp của bọn tôi cũng như bọn tôi không thể nghe được tiếng chân của họ nếu quả thực họ đang ở bên ngoài. - Mình chờ một chút xem có nghe thấy tiếng súng nào không. Con Rùa nói khẽ, không biết lần thứ bao nhiêu nó nhìn thấu tim gan tôi và cũng như mọi lần nó ngay lập tức, gỡ bỏ câu hỏi đang vướng trong đầu tôi như một thứ móc câu mà từ lúc chơi với nó tôi luôn luôn mắc phải. Bọn khỉ bắt chước con Rùa, hết nghiêng bên tai này lại nghiêng bên tai kia nhưng đã mười lăm phút trôi qua chúng tôi vẫn chẳng nghe thấy động tĩnh gì. - Ra trước đi em! Tiếng con Rùa vang lên và chỉ chờ có vậy, thằng Miếng Vá láu táu chui tọt qua màn nước. Con Rùa kiên nhẫn đợi thêm một lát rồi nhẹ nhàng đưa tay vén bức rèm nước với động tác y như đang vén một bức rèm thật, bất chấp nước văng tung tóe lên người. Nó đưa tay tóm lấy một nhánh cây lơ lửng phía trên để giữ thăng bằng, rồi dọ dẫm bước ra ngoài bằng cách sờ soạng chân lên những mỏm đá và những bụi cây mà bọn tôi từng bám vào đó để đi vào hang. Năm phút sau, bọn tôi (tức là tôi và con Rùa cộng thêm hai con khỉ) đã ở bên ngoài bức rèm nước và tôi bỗng nhiên bắt gặp cái cảm giác mình đang quay về chốn cũ, sau chuyến du lịch dài vào một thế giới bình yên, thơ mộng và gần như không có thật. Mặt trời lúc này đã lên giữa đỉnh đầu và những tia sáng láu lỉnh đã tìm cách xuyên qua những chiếc lá du sam để đến nhảy nhót trên vai tôi và trên má con Rùa. Tôi quay đầu nhìn dáo dác, nhẹ nhõm khi không thấy bóng phường săn quanh đây nhưng đúng vào lúc tôi định giục con Rùa ra về thì có tiếng khỉ kêu vọng tới. Tiếng kêu kéo thành tràng, sợ hãi, đau đớn vì hoảng loạn. - Thằng Miếng Vá! Con Rùa buột miệng và nó co giò chạy theo hai con khỉ lớn đã nhốn nháo phóng đi ngay từ khi nghe tiếng kêu đầu tiên. Tôi cũng lập tức vọt theo và sau khi vất vả bươn qua mớ bụi rậm và dây leo ngáng đường, tôi nhìn thấy một vạt cỏ dường như đã được bàn tay con người dọn dẹp, dấu vết dao rựa còn để lại trên những thân cây non chưa khô nhựa, những ngọn cỏ bị dày xéo, gãy ngang và tàn héo với phần ngọn bị úa đi trong nắng gió. Trên mặt đất vương vãi những hạt ngô màu vàng chạy thành một vệt dài. Ở cuối con đường màu vàng đó một cái hố có lẽ trước đây được ngụy trang dưới lớp lá khô. Thằng Miếng Vá đang ở dưới hố, ngước đôi mắt nhỏ nhìn lên, tay vươn về phía con Rùa, miệng kêu rối rít, khiếp đảm và mừng rỡ. Hai con khỉ bồn chồn chạy tới chạy lui trên miệng hố, mắt nhìn con Rùa chờ đợi. Tôi thấy rõ một chân thằng Miếng Vá bị kẹp vào bẫy, trông nó đau đớn và lo lắng. Con Rùa nhờ tôi kiếm vài khúc cây và khi tôi đang lượm những cành cứng đem về, con Rùa leo xuống đáy hố và làm cách nào đó chỉ riêng nó biết đã phá tung được cái bẫy kẹp. Thằng Miếng Vá tỏ ra rất đau đớn trong lúc con Rùa tháo bàn chân nó ra khỏi bẫy. Trông nó vừa kêu khóc vừa choàng tay ôm chặt cổ con Rùa, tôi như nhìn thấy một đứa bé con đang được mẹ chăm sóc vết thương và cảm giác đó khiến tôi nghe cay cay nơi sống mũi. Sau khi tôi và hai con khỉ tiếp sức cùng con Rùa lôi thằng Miếng Vá lên khỏi miệng hố, cả bọn quay trở lại lối cũ – con khỉ con đeo trên lưng một con khỉ lớn, miệng không ngớt rên theo kiểu khỉ – để ngược về phía thác nước. Theo cách sắp xếp của con Rùa, để phòng những người thợ săn thình lình xuất hiện, một lần nữa bọn tôi lại xuyên qua rèm nước để vào trong hang, trong khi đó con Rùa ở lại ngoài rừng để lùng sục các loại cây lá cỏ dược liệu trị thương. Một chốc sau, nó trở vô với cả nắm lá mỏ quạ, bòng bong và mọc sởi – đó là theo lời con Rùa, còn trong các thứ lá trên tay nó tôi chỉ bết mỗi lá cúc tần. Con Rùa cầm chân thằng Miếng Vá nhúng vào rèm nước để rửa sạch vết thương trước khi nhai nát các thứ lá trong miệng, cẩn thận đắp lên. Con khỉ con lúc này có lẽ đã bớt đau, nó vẫn ôm cứng cổ con Rùa nhưng chỉ phát ra những tiếng rít khẽ trong cổ họng như một động cơ bị nén. Dưới thứ ánh sáng mờ mờ chỗ cửa hang, con Rùa trông rất giống một bác sĩ trong thời chiến. Nhìn các động tác khéo léo và thuần thục của nó, tôi đoán nó đã nhiều lần chữa thương cho các con vật trong rừng, có lẽ đó là lý do bọn thú nhỏ tin cậy và yêu mến nó đến vậy. Sau khi đắp thuốc, nó lấy lá chuối rừng, bọc bàn chân bị thương của thằng Miếng Vá rồi lấy dây chuối buộc chặt giống như người ta gói bánh tét vào những ngày cuối năm.
|