Từng Thề Ước
|
|
Q.2 - Chương 16: Đào Rụng Tơi Bời, Người Ly Biệt “Nàng quên ngôi nhà trong núi Cửu Lê mà nàng tự tay bài trí rồi ư? Chúng ta có gia đình của chúng ta. Tuy bấy nhiêu năm nay nàng chưa hề quay lại, nhưng hàng năm ta đều ở đó sửa sang, cây mướp trong vườn đã leo đầy cả giàn rồi; ta còn đào một cái giếng, nước giếng mùa đông thì ấm, mùa hè thì mát, ngày hè nóng nực, bỏ dưa vào giỏ rồi thả xuống giếng ướp lạnh, ăn vào mát lạnh cả người, phải rồi, ta còn bứng một góc tường vi từ Thanh Khâu quốc đem trồng trong vườn, hoa nở ra đẹp như ráng chiều vậy, nàng có thể ngắt lấy chế thành son môi…” Đối diện với đại quân dũng mãnh thiện chiến, hung tàn hiếu sát của Xi Vưu, binh sĩ Hiên Viên không khỏi nhụt chí, cả Phản Tuyền chìm trong không khí nặng nề chết chóc. Ly Chu và Tượng Võng đã phò tá Hoàng Đế suốt mấy ngàn năm, từng trải vô số trận chiến, lần đầu tiên gặp phải tình huống này, nghĩ đủ mọi cách cũng không vực dậy được sĩ khí. Vầng dương đằng Đông vừa nhô lên, ánh sáng chan hòa mặt đất, Phản Tuyền thành sừng sững cao ngất như được phủ một lớp phấn vàng, tỏa hào quang nhàn nhạt. “Xem kìa! Cái gì kia?” Đám binh sĩ xôn xao kinh ngạc. Dưới ánh nắng rực rỡ, chân trời phía Tây dường như đang đùn lên một vầng mây ráng bảy màu. Vầng mây ráng từ từ bay lại gần, bây giờ mọi người mới trông rõ là một con chim cực lớn, bộ lông sặc sỡ đủ màu, đầu có mào, mỗi bên mắt có hai con ngươi, chính là Trùng Minh điểu, được xưng tụng là đệ nhất mãnh cầm của đại hoang. Nhìn “đám mây ráng” bay có vẻ lững lờ nhưng thực tế tốc độ của Trùng Minh điểu rất nhanh, mọi người vừa nheo mắt toan nhìn cho kỹ, chợt thấy trên lưng Trùng Minh điểu cũng đang cõng một vầng dương, tỏa ánh vàng rực chói mắt. Vầng dương này cùng vầng dương đằng Đông phản chiếu lẫn nhau, tự như trên bầu trời xuất hiện hai mặt trời, tỏa sáng chói lòa khiến mọi người không mở nổi mắt. Ly Chu và Tượng Võng tỉnh ra trước nhất, mừng rỡ đưa mắt nhìn nhau, cùng giơ tay lên hoan hô. Là ông ta! Gã thiếu niên từng thề trước mọi người, nhất định sẽ đưa Hiên Viên rời khỏi mảnh đất cằn cỗi ấy lại khoác áo giáp lên rồi! Trùng Minh điểu lượn vòng phía trên Phản Tuyền, Hoàng Đế mình vận giáp vàng, oai phong lẫm liệt đứng sừng sững trên không, đưa mắt nhìn xuống bên dưới. “Hoàng Đế, Hoàng Đế!” Tựa hồ vầng dương ló dạng xua tan hết mây mù, sự xuất hiện của Hoàng Đế khiến cả Phản Tuyền thành bừng lên sức sống. Giọng nói ôn hòa của Hoàng Đế thong thả vang lên: “Hiên Viên quốc từng được gọi là Hiên Viên tộc, nằm ở phía Tây Bắc đại hoang, đất đai cằn cỗi, sản vật nghèo nàn. Hồi trẻ tới Trung Nguyên du ngoạn, chỉ vì nói giọng Hiên Viên mà ta luôn bị người ta khinh miệt, thậm chí mua món nữ trang có giá một chút cho cô gái mình yêu quý cũng bị nghi là ăn cắp. Mấy ngàn năm trước, ta đã đứng trên Hiên Viên sơn hỏi tổ tiên các người có dũng khí theo ta ra khỏi Hiên Viên sơn hay không, bọn họ đều đồng thanh đáp: “có.” khí thế ngất trời! Vì câu trả lời của họ nên bây giờ các ngươi mới có Hiên Viên quốc, không phải lo miếng cơm manh áo, dù đi đến bất cứ đâu, hễ nói giọng Hiên Viên, đều được người ta trọng nể! Kẻ yếu chỉ biết khóc than cho hiện tại, còn kẻ mạnh sẽ đổ máu tranh đấu cho tương lai! Các ngươi là kẻ yếu hay là kẻ mạnh?” Hết thảy binh sĩ đều bừng bừng nhiệt huyết, tựa hồ sự anh dũng khí thái của tổ tiên ngàn năm trước lại đang rần rật cháy lên trong lồng ngực họ. Hoàng Đế đáp xuống đầu thành, giọng rền vang như sấm: “Hôm nay ta lại hỏi các ngươi, có dũng khí tử thủ Phản Tuyền không?” “Có!” Tiếng hô đồng thanh rung chuyển cả núi rừng, chấn động đất trời, vang xa tít tắp. Phong Bá phóng mắt trông về phía Phản Tuyền, chặc lưỡi than, “Chẳng trách lão ta hùng bá một phương, ta cứ ngỡ lão chỉ giỏi giở âm mưu, nào ngờ dương mưu của lão còn bài bản hơn, mới có mấy câu mà xoay chuyển hoàn toàn cục thế, từ cầm chắc thất bại đổi ngay thành thắng bại khó đoán.” Vũ Sư chỉ huy một tốp thợ khiêng đống binh khí vừa rèn lại, ưu tư hỏi: “Xi Vưu đâu rồi?” Phong Bá liếc vào trướng lớn: “Đang ngủ!” “Ầm ĩ thế này mà vẫn ngủ được à?” Phong Bá cười, “Nếu huynh ấy muốn ngủ thì dù có đút đầu vào miệng cọp cũng không tỉnh đâu.” Si đáp: “Khi nãy vừa tỉnh, hỏi “Hoàng Đế đến rồi à?”, ta đáp “Phải”, huynh ấy lại ngủ tiếp.” “Vậy chúng ta phải chuẩn bị thế nào đây?” Vũ Sư hỏi. “Nhóm lửa nấu cơm đi, à, thêm nhiều thịt vào nhé, cả gia vị nữa. Mẹ nó chứ, trời cao đất rộng cũng không bằng cơm nóng canh sốt!” Khép lại vạt áo choàng, Phong Bá bắt đầu đi tuần, cũng như mọi ngày hắn vừa đi vừa cười tít mắt chào hỏi mọi người. Bốn huynh đệ Si Mỵ, Võng Lượng đang căng thẳng vì tiếng hô vang từ phía quân Hiên Viên đưa lại, nhưng thấy Xi Vưu vẫn trở mình ngủ tiếp, Phong Bá thì nhơn nhơn cười đùa, họ cũng phá lên cười theo. Không khí thoải mái lan nhanh chẳng kém gì căng thẳng, các binh sĩ thấy bọn họ vẫn thản nhiên như thường, liền tự động ai vào việc nấy, chẳng mấy chốc lại ngửi thấy mùi thức ăn thơm nức mũi, mọi người vừa cười nói vừa uống bát canh thịt nóng hổi, người nóng bừng lên, áp lực do Hoàng Đế gây ra bất giác tiêu tan đâu hết. Sau khi đến Phản Tuyền, Hoàng Đế cũng chẳng thay đổi chiến thuật, chỉ lo cố thủ thành trì, bất kể Vũ Sư nửa đêm mưa gió dẫn quân đánh lén hay Phong Bá đột ngột kéo binh tập kích như vũ bão, Hoàng Đế vẫn phòng thủ thật vững, mưa đến đất ngăn, gió về cây cản. Cuộc chiến này đã kéo dài hơn hai năm, song phương đều kiệt quệ rồi. Hiên Viên là một quốc gia hoàn chỉnh, lương thảo được cung ứng đầy đủ, binh sĩ lại ở trong thành, có thể cố thủ, còn Thần Nông đã mất nước, lương thảo lúc có lúc không, binh sĩ phải đóng trại giữa đồng hoang, sĩ khí cũng dần dần giảm sút. Nhưng Xi Vưu chẳng hề lưu tâm chuyện đó, hắn lấy dạ dày của một con yêu thú làm thành một quả cầu, mỗi lúc không phải ra trận, hắn lại cùng cả đám huynh đệ Si Mỵ Võng Lượng chơi đá cầu, quả cầu nặng như một hòn núi nhỏ bị họ đá bay đi bay lại trên không, muốn đá trúng ai thì đá trúng người đó. Phong Bá vẫn thả sức thích làm gì làm nấy nên tâm tình thoải mái như thường, chẳng hề bị ảnh hưởng, chỉ có Vũ Sư hơi bồn chồn, bèn kéo Phong Bá tới gặp Xi Vưu, hành lễ hỏi: “Tại hạ có một việc không hiểu, xin thỉnh giáo đại nhân.” Vũ Sư xuất thân từ Xích Thủy Thị, một trong Tứ thế gia. Cũng như Tây Lăng Thị, Xích Thủy Thị là thị tộc từ thời thượng cổ, chỉ xem trọng dòng dõi chứ không để tâm quốc gia, không thuộc về bất cứ quốc gia nào, nhưng lại được tất cả các quốc gia coi trọng, xem như danh gia vọng tộc. Xích Thủy Thị gia phong nghiêm cẩn, giáo dục con cháu rất nghiêm khắc, tuy Vũ Sư đã bị trục xuất khỏi gia tộc, còn bị trừng phạt nặng nề, thành ra xấu xí tật nguyền, nhưng vẫn giữ nề nếp từ nhỏ, lời nói cử chỉ hết sức khiêm tốn lễ độ. Đám huynh đệ của Xi Vưu đa phần lỗ mãng, thoạt đầu thấy rất khó chịu, còn sinh ra mâu thuẫn, phải nhờ Phong Bá đứng ra hòa giải, nhưng sống chung lâu ngày, mọi người lại sinh lòng kính phục vị tướng quân ăn nói lễ độ, hành xử chu đáo, giỏi hô mưa gọi gió, lại giỏi nghề rèn binh khí này. Xi Vưu vốn cũng là kẻ thô lỗ, nhưng được Viêm Đế rèn cặp mấy trăm năm, tạm xem như thông văn hiểu võ, hắn chiếu theo lễ tiết Thần Nông, cùng Vũ Sư chia nhau ngồi xuống, bây giờ mới lên tiếng: “Mời tiên sinh cứ nói.” Vũ Sư nói: “Hai quân giao tranh, càng kéo dài càng bất lợi cho chúng ta, hiện giờ sĩ khí đã có phần giảm sút, nếu còn kéo dài, e rằng sẽ đến lúc Hiên Viên ồ ạt tấn công.” Xi Vưu cười hỏi: “Tiên sinh có thượng sách gì chăng?” Vũ Sư than: “Thật hổ thẹn, tại hạ vắt óc nghĩ mãi chẳng tìm được kế sách gì. Hoàng Đế quả là tướng tài thiên cổ, hành quân bày trận rất nghiêm mật kỹ càng. Hiện giờ chỉ còn một cách duy nhất là nhân lúc quân tâm chưa tan rã hẳn, phải tìm biện pháp vực dậy sĩ khí, sau đó dốc toàn lực công thành, dù sao Phản Tuyền cũng là cố hương của chúng ta, chắc sẽ nắm được năm phần thắng.” Phong Bá lên tiếng: “Phản Tuyền dễ thủ khó công, nếu chủ soái đổi lại là kẻ khác, có lẽ chúng ta còn có cơ lợi dụng, nhưng hiện giờ Hoàng Đế đích thân cầm quân, có thể nói là vững như thành đồng, lỡ dốc toàn lực tấn công mà thất bại, bóng đen từ trận thất thủ Phản Tuyền lần trước sẽ tiếp tục ám ảnh quân sĩ, đến chừng đó, áo giáp vàng của Hoàng Đế sẽ trở thành phướn chiêu hồn, bùa đòi mạng của chúng ta đó.” “Nhưng cứ giằng dai thế này, chúng ta còn thảm hơn. Nếu đánh, may ra còn chút cơ hội, nhược bằng không đánh, có lẽ sẽ bị tiêu diệt toàn quân.” Phong Bá cười hì hì nhìn Xi Vưu, “Này, ta nói huynh đó! Tuy Hoàng Đế lợi dụng Phản Tuyền nhãn, bày cái gì Thất tinh trận chuyên để đối phó huynh, khiến huynh xông pha mấy lần chưa được, nhưng huynh định bó tay chịu trói thật ư?” Xi Vưu trả lời qua quýt: “Vậy ta lại dẫn quân công thành.” Nói là làm, hắn lập tức đi điểm binh, tấn công Phản Tuyền thành. Nửa ngày sau, Xi Vưu hậm hực quay về, mặt nặng như chì, khiến tất cả im re không ai dám nói với hắn một câu, không khí trong doanh trại càng thêm nặng nề bức bối. Đến tối, tướng sĩ coi quản lương thảo lại đến báo sắp cạn lương, mà lương thảo mới còn chưa đến, hiện giờ buộc phải thắt lưng buộc bụng, nếu mỗi người chỉ ăn lưng lửng dạ, thì may ra còn kéo dài được bảy ngày nữa. Lương thảo không đủ, e rằng tướng sĩ có anh dũng đến mấy chăng nữa cũng chẳng đánh trận nổi, việc này ngay đến Phong Bá cũng phải tái mặt. Tám ngày sau, giữa canh khuya. Binh sĩ Thần Nông tộc đang nhịn đói nằm ngủ, chợt các chiến sĩ đi tuần phát hiện có quân sĩ Hiên Viên xuất hiện phía sau doanh trại của họ, từng tên nối đuôi nhau từ trong rừng đi ra. Té ra, Hoàng Đế lợi dụng khoảng thời gian hơn hai năm này, ngoài mặt giao chiến với Xi Vưu, bên trong lại ngầm sai người đào một đường hầm, đầu ra chính là ngọn núi mà quân đội Thần Nông vẫn xem như bức bình phong. Đợi tới khi thời cơ chín muồi, sĩ khí Thần Nông đã tan tác cả, lương thảo cũng cạn kiệt, bấy giờ Hoàng Đế mới phái quân tinh nhuệ đi suốt đêm theo phong đạo vòng ra phía sau doanh trại Thần Nông. Quân tinh nhuệ đánh lén từ phía sau, đại quân từ Phản Tuyền thành tấn công trực diện. Tiếng la thảm xé toang màn đêm yên tĩnh. Quân lính Thần Nông đang đói bụng, lại bị bất ngờ, trở tay không kịp, lập tức thua tơi tả, bỏ chạy tứ tán. Phía trước là Phản Tuyền thành, hàng ngàn hàng vạn binh sĩ Hiên Viên đang xông tới, phía sau là quân tinh nhuệ của Hiên Viên được trang bị kỹ càng, sát khí đằng đằng, bên trái là dòng Tế thủy cuồn cuộn sóng, bọn họ đành men theo cánh phải, chạy vào Phản Tuyền sơn cốc. Thấy sơn cốc địa thế quanh co, khó mà truy kích, tướng sĩ Thần Nông đều thở vào nhẹ nhõm, nhưng họ đâu có ngờ Hoàng Đế đã nghiên cứu kỹ lưỡng địa hình Phản Tuyền, sớm đoán được khi bị hai mặt giáp công, Thần Nông tộc chỉ có thể chạy về hướng này, bởi vậy đã tập trung tất cả binh lực của Thần tộc bày trận đợi sẵn. Vì trận chiến này, Hoàng Đế đã phải thao luyện hơn một năm, bảo đảm mấy trăm tướng sĩ Thần tộc có thể tức tốc vào vị trí, phát động thế công. Tiếng trống trận vang rền như sấm dậy lên từ hai vách núi, khiến tướng sĩ Thần Nông sợ vỡ mật, tuyệt vọng hoàn toàn. Hoàng Đế đứng trên lưng Trùng Minh điểu, từ trên trời đáp xuống: “Xi Vưu, ta cho ngươi một cơ hội để bảo toàn tính mạng cho binh sĩ, hoặc ngươi lập tức quy hàng, thề trung thành với Hiên Viên, hoặc ngươi lặp tức tự vẫn, bất kể ngươi chọn đường nào, ta cũng sẽ đối xử tốt với tất cả tướng sĩ.” Hoàng Đế buông ra những câu ly gián lòng người trong tình cảnh này thật hiểm độc vô cùng, nào ngờ Xi Vưu chỉ ngẩng đầu cười hỏi: “Nếu ta không chọn đường nào cả thì sao?” Hoàng Đế thoạt nhìn đã nhận ra kẻ kia là Phong Bá giả trang, liền biến sắc mặt, Phong Bá nhìn nét mặt Hoàng Đế cũng biết đã bị vạch trần, bèn cởi phăng hồng bào, biến lại nguyên hình, cười nói: “Trong lúc ngươi đuổi theo Xi Vưu giả này, chắc Xi Vưu thật đã tiến vào Phản Tuyền thành rồi.” Hoàng Đế mặt sạm như tro, năm xưa ông ta bảo Thanh Dương đóng giả làm mình để dụ địch, đến hôm nay Xi Vưu lại lấy chính gậy ông đập lưng ông. Hoàng Đế cứ ngỡ Xi Vưu đã trúng kế mình, nào ngờ mình phải trúng lại kế của hắn. Trong Phản Tuyền thành đã xảy ra đại biến, trước thế công như vũ bão của Xi Vưu và Vũ Sư, chỉ trong thời gian uống cạn tách trà, Phản Tuyền thành binh mỏng lực yếu liền đổi chủ. Khi ngọn cờ vàng của Hiên Viên tộc bị hạ xuống, thay vào đó là ngọn cờ đỏ phấp phới giữa không trung, cả dải đồng hoang im phăng phắc. Hiên Viên tộc và Thần Nông tộc đều không thể tin được rằng Phản Thành đã lại bị mất! Phản Thành cũng đã lại quay về! Hoàng Đế không hổ là Hoàng Đế, chỉ một thoáng đã trấn tĩnh lại ngay. Tuy Xi Vưu đã chỉ huy tướng sĩ Thần tộc và Yêu tộc khống chế Phản Tuyền thành, nhưng đại quân Nhân tộc bị Xi Vưu dùng làm mồi nhử vẫn còn ở trong sơn cốc. Hoàng Đế vận linh lực để tiếng nói vang đi thật xa: “Xi Vưu, chỉ cần ta hạ lệnh một tiếng, đỉnh núi hai bên sơn cốc này sẽ đổ sụp, mấy vạn tướng sĩ bị ngươi dùng làm mồi nhử đều phải vùi thây tại đây.” Tiếng nói như sấm rền, xua tan nỗi tuyệt vọng trong lòng tướng sĩ Hiên Viên, đánh tan niềm hân hoan của tướng sĩ Thần Nông. Xi Vưu cưỡi đại bàng, chớp mắt đã tới trước mặt Hoàng Đế, “Vậy chúng ta quyết một trận sinh tử ngay tại đây đi!” Tấm áo choàng của Phong Bá bay vụt lên, cả trời vần vũ gió mây, khiến người ta cơ hồ không đứng vững nổi. Tượng Võng quăng đôi đũa trúc trong tay ra, đũa trúc vừa gặp gió liền dài ra, biến thành một khu rừng trúc san sát, ngăn cuồng phong lại. Vũ Sư đứng trên đầu thành Phản Tuyền, dựa vào Phản Tuyền thủy linh ngưng tụ trong thành làm thành mưa lớn, mực nước Tế thủy chẳng mấy chốc đã dâng lên, một khi nước dâng cao quá mặt đê, tướng sĩ Hiên Viên ngoài thành sẽ chôn thây dưới đáy nước. “Ly Chu!” Hoàng Đế thét lớn, mấy ngàn năm sánh vai chiến đấu bên nhau, đôi bên vô cùng ăn ý, ông ta chẳng cần hạ mệnh lệnh gì, tự khắc Ly Chu sẽ hiểu. Ly Chu đứng ngay lối vào sơn cốc, ngoảnh mặt về phía Tế thủy, hai chân dang ra, biến thành trụ đất, cắm sâu xuống đất, hấp thu thổ linh từ lòng đất, đất vàng nổi lên, nước dâng đến đâu, bờ đê cũng dâng cao theo đến đấy. Trận chiến giữa hai đại Thần tộc đến giờ mới thật sự mở màn. Hoàng Đế và Xi Vưu đứng giữa chừng không, trừng trừng nhìn nhau. Hoàng Đế vung tay phát động thế công, lập tức vách núi hai bên đứt gãy, đá tảng rào rào đổ xuống, Si Mỵ Võng Lượng đã đợi sẵn, dẫn một đám quân sĩ Yêu tộc xông ra, thoắt ẩn thoắt hiện như quỷ mỵ, lần lượt đá văng từng viên đá tảng như đá cầu. Nhờ luyện tập hơn một năm, tất cả đá đều nhắm trúng vào Hiên Viên tộc, chuẩn hơn cả tên bắn. Nhưng dù vậy, vẫn còn không ít đá tảng rơi xuống, đè chết khá nhiều quân Thần Nông, họ nháo nhào chen lấn xông ra khỏi sơn cốc, liền đụng phải đám binh sĩ Hiên Viên cuống cuồng tràn vào sơn cốc vì sợ nước dâng, đôi bên lập tức lao vào nhau chém giết. Xi Vưu và Hoàng Đế kịch chiến trên không, bóng đại bàng đen tuyền và Trùng Minh điểu rực rỡ thoắt phân thoắt hợp, Hoàng Đế dùng một ngọn kim thương, Xi Vưu cầm một thanh trường đao, đao thế của Xi Vưu khi mở rộng, lúc thu lại, hóa thành một con mãnh hổ lộng lẫy đủ màu, thương pháp của Hoàng Đế lại nhanh nhẹn dứt khoát, hóa thành một con giao long vàng rực. Giao long cùng mãnh hổ giao đấu, thoạt đầu khó phân cao thấp, về sau, Hoàng Đế dù sao cũng dựa vào mưu kế mà xưng hùng chứ không phải nổi danh vì võ nghệ, nên thần lực không bì được Xi Vưu, dần dà bị linh lực của Xi Vưu bao phủ, chiêu đòn càng lúc càng chậm, động tác của giao long cũng càng lúc càng chậm theo, mấy lần đã bị mãnh hổ cắn, tuy vẫn vùng vẫy giằng ra được, nhưng thân hình mỗi lúc một nhỏ lại. Hoàng Đế biết linh lực của mình không bì được Xi Vưu, chỉ có thể tốc chiến tốc thắng. Giao long bèn cố ý để lộ sơ hở, mãnh hổ vừa cắn vào bụng nó, lập tức giao long quẫy đuôi đập thẳng vào mình mãnh hổ, mãnh hổ nhảy lên tránh thoát, giao long thừa cơ quay lại cắn trả, nhưng vừa ngẩng đầu lên, chợt trông thấy từ phía chân trời đằng Tây bắn vọt lên một luồng sáng chói mắt. Giao long bất giác khựng lại, để lộ sơ hở, liền bị mãnh hổ ngoạm trúng chỗ bảy tấc trên mình. Giao long đau đớn gầm lên, ngửa đầu ra sau, nhưng cặp mắt vẫn đau đáu nhìn về hướng Tây, từ khóe mắt, hai hàng linh lệ trong veo ứa ra. Xi Vưu cũng cảm thấy hướng Tây có vẻ khác thường, nhìn phản ứng của Hoàng Đế, hắn càng thêm kinh ngạc, vội ngoái đầu nhìn về hướng Tây, thấy luồng sáng chói lọi kia đang bao lấy một con chim phượng trắng bạc chao liệng cuối trời Tây, ánh sáng từ từ nhạt đi, dường như cánh phượng kia cũng mòn mỏi chết dần. Xi Vưu biết, nhất định Hiên Viên quốc đã xảy ra chuyện, nhưng còn chưa hiểu rốt cuộc là chuyện gì, chợt nghe thấy bên dưới có kẻ rú lên thê thiết: “Vương hậu qua đời rồi!” Xi Vưu sững người, mẹ A Hành chết rồi ư? Hoàng Đế vẫn giữ vẻ thản nhiên, vờ như đang vốc toàn lực chiến đấu với Xi Vưu, nhưng trong lòng lại cuộn trào bão tố. Suốt mấy ngàn năm, trải vô vàn trận đánh, mỗi lần rời vào tình huống nguy cấp nhất, ngoảnh đầu lại, ông đều trông thấy bóng giáp bạc kia, lần nào như lần ấy, đều chuyển nguy thành an. Nhưng lần này ngoảnh lại, ông chẳng hề thấy bóng giáp bạc của nàng, thay vào đó, lại trông thấy cái chết của nàng. Đáng lẽ ông nên thấy nhẹ nhõm mới phải, chẳng phải ông vẫn muốn thoát khỏi nàng từ lâu đó sao? Từ sau khi Hiên Viên lập quốc, cùng với sự ổn định của Hiên Viên quốc, ông càng ngày càng ghét nghe đám khai quốc công thần hở ra là nói: “Chỉ sợ vương hậu không đồng ý.”; ghét nghe người các tộc xì xào sau lưng rằng ông phải dựa vào một người đàn bà mới đạt thành đại nghiệp; ghét phải nhẫn nhịn tính tình cương liệt không khoan nhượng của nàng, sự thông tuệ sắc sảo của nàng… Ông cứ ngỡ rằng mình chẳng hề có tình cảm với nàng, rằng mình cưới nàng chỉ để hoàn thành hùng tâm tráng chí, vì nể tình nàng tương trợ mà ban Triêu Vân điện cho nàng. Nhưng, trong khoảnh khắc chứng kiến cánh phượng kia lìa trần, ông chợt nhận ra, từ nay về sau, dù ông có ngoái lại bao nhiêu lần chăng nữa, cũng chẳng còn bóng giáp bạc chạy đến bên cạnh, sát cánh chiến đấu cùng ông, đồng sinh cộng tử. Giao long không kiềm được mà rơi lệ, từng giọt lệ vàng óng do linh lực kết thành, thoắt đến thoắt đi, không tâm không tích, ngay bản thân ông cũng chẳng hiểu đó là vì lẽ gì. Ông đã sớm biết nàng chẳng còn được bao lâu, đáng lẽ ông phải lấy nhẹ nhõm… Linh lực của Hoàng Đế và Xi Vưu giao kích khiến bầu trời vần vũ mây đen, sấm sét ùng oàng, mưa to gió lớn xối xả trút xuống. Mãnh hổ ngoạm chặt chỗ bảy tấc trên mình giao long, bất kể nó vùng vẫy quằn quại ra sao cũng không nhả. Thân mình giao long từ từ thu nhỏ lại, Hoàng Đế đứng trên lưng Trùng Minh điểu thấy vậy liền tái mặt, thân hình lảo đảo muốn ngả. Chỉ cần thêm một đòn nữa, Hoàng Đế sẽ phải bỏ mạng. Chợt trước mắt Xi Vưu hiện lên gương mặt bi ai cùng cực của A Hành, lòng hắng bỗng nhói lên, đao thế lập tức biến đổi, mãnh hổ nhả giao long ra, giao long liền cuống cuồng bỏ chạy, nào ngờ mãnh hổ há to cái miệng đỏ lòm như chậu máu, cắn một nhát, thân mình giao long đứt làm đôi. Ngọn kim thương trong tay Hoàng Đế gãy đôi, Hoàng Đế phun ra mấy búng máu, rớt khỏi lưng Trùng Minh điểu. Xi Vưu mỗi tay cầm một đoạn kim thương, vung tay ném ra, hai ngọn đoạn thương cắm phập vào ngọn núi, hóa thành hai đỉnh núi hình dạng như ngọn nến, đối diện với Phản Tuyền thành, dáng nghiêng nghiêng như tế bái. “Du Võng, lễ vật ta dâng lên ngươi nhân ngày giỗ đây!” Xi Vưu cao giọng thét lớn. Trong tiếng thét của Xi Vưu, sĩ khí quân Thần Nông chợt tăng vọt, trong khi quân Hiên Viên bại trận tan tác như núi đổ. Phong Bá và Vũ Sư xuất lĩnh binh sĩ Thần tộc tấn công hai bên trái phải, Si Mỵ Võng Lượng dẫn binh sĩ Thần tộc ùa theo truy kích tiêu diệt ngót năm vạn quân Hiên Viên tộc. Ly Chu và Tượng Võng dốc sức cố ngăn sự truy sát của Phong Bá và Vũ Sư, nhưng Tế thủy cắt ngang đường, không cách nào dẫn quân lội qua song chạy về biên giới Hiên Viên được, mắt thấy toàn quân sắp bị tận diệt đến nơi, chợt một con thanh long bơi lại, kê đầu lên một bờ Tế thủy, đuôi vắt sang tận bờ bên kia, sống lưng rộng rãi như một cây cầu xanh ngắt, thanh long bảo Tượng Võng: “Bước trên người ta mà qua sông.” Té ra là Ứng Long mất tích bấy lâu, Tượng Võng chẳng kịp cám ơn, vội cõng Hoàng Đế bị trọng thương đang hôn mê, dẫn các binh sĩ còn lại qua sông, Ly Chu cùng các chiến sĩ còn lại đoạn hậu. Tuy Vũ Sư có tài hô mưa không ai bì nổi nhưng trước mặt loài rồng được xưng là vương của Thủy tộc, y cũng đành chịu bó tay. Bất kể y dấy lên sóng to gió mạnh đến đâu, Ứng Long đều có cách ứng phó. Nhờ Ứng Long bất ngờ ra tay tiếp cứu nên Hiên Viên tộc mới bảo toàn được hơn một vạn chiến sĩ. Trong trận chiến Phản Tuyền lần này, có thể nói Hiên Viên tộc đã thảm hại. Trong Phản Tuyền thành râm ran tiếng cười tiếng nói, mọi người đều uống tràn lan, mừng thắng lợi. Chỉ riêng Xi Vưu một mình đứng trên đầu thành, dõi mắt trông về cuối trời Tây. Vũ Sư và Phong Bá dìu nhau loạng choạng bước lên thành lâu, Phong Bá hỏi Xi Vưu: “Huynh như vậy là sao hả? Kẻ nào không biết còn tưởng là chúng ta thua nữa đó.” Vũ Sư cũng đã say đến bảy tám phần, lè nhè hỏi: “Đến giờ ta vẫn chưa hiểu chuyện này rốt cuộc là sao nữa, rõ ràng chúng ta đã lâm vào đường cùng, nói thực, ta đã nghĩ lần này thua chắc, vậy mà giờ lại có thể ngồi trong Phản Tuyền thành uống rượu.” Xi Vưu đáp: “Vừa đúng lúc, để ta dẫn ngươi đi gặp Hình Thiên tướng quân!” Một đại hán cao chừng một trượng bước ra, Xi Vưu giới thiệu: “Đây chính là đại tướng quân phụ trách lương thảo của chúng ta, vì tướng quân luôn ở hậu phương nên các ngươi không có cơ hội gặp mặt.” Hình Thiên hỏi Xi Vưu: “Ta thật không sao chịu nổi ngươi nữa, may mà lần này ta đích thân áp tải lương thảo, giờ gặp nhau ở đây, ta phải hỏi cho ra lẽ mới được, rốt cuộc ngươi định làm gì vậy? Mọi người đều biết chiến sự ở Phản Tuyền liên quan tới sinh tử của Thần Nông, chúng ta ở hậu phương thà nhịn ăn nhịn uống cũng phải gom đủ lương thảo, vậy mà ngươi khi thì bảo ta đưa ít đi, lúc lại bảo ta đưa chậm lại, lần này rõ ràng ta đã nghĩ ra cách, mượn được lương thảo từ Đồ Sơn Thị, vậy mà ngươi lại bảo ta tạm thời giấu cả đi.” Vũ Sư kinh ngạc hỏi thất thanh: “Chúng ta có lương thảo ư?” Hình Thiên hừ mũi: “Tuy chúng ta đã mất nước nhưng còn dân, còn đất, chỉ còn người Hiên Viên không tới quấy phá, thứ gì nên trồng cây thì trồng cây, thứ gì nên thu hoạch thì thu hoạch, vẫn tích trữ được chút lương thảo. Lần này biết không thể thất bại trong chiến dịch Phản Tuyền nên mỗi ngày chúng ta chỉ ăn một bữa cơm, để dành lương thảo đưa ra chiến trường. Ta còn đi cầu khẩn Đồ Sơn Thị, gia tộc giàu có nhất trong Tứ thế gia, Viêm Đế từng có ơn cứu mạng chủ mẫu của họ, nên Đồ Sơn Thị tặng cho chúng ta một ít lương thảo, xem như báo đáp. Ngày sau thì không dám nói chắc, nhưng lúc này, ta không thể để binh sĩ đói được.” Vũ Sư và Phong Bá đều trợn tròn mắt nhìn Xi Vưu, Vũ Sư ngỡ ngàng hỏi: “Sao huynh không cho các chiến sĩ ăn no?” Hình Thiên phẫn nộ: “Nếu chẳng phải năm xưa Viêm Đế đinh ninh dặn ta nghe lời ngươi, ta đã tìm tới hỏi tội ngươi rồi.” Xi Vưu biết tình tình Hình Thiên thẳng thắng bộc trực, bèn nhẫn nại giải thích: “Xưa nay Hoàng Đế cầm quân, không nổi tiếng vì dũng mãnh, mà vang danh nhờ mưu lược. Ông ta rất quý trọng binh lực, luôn muốn sắp sẵn mọi chuyện, đánh một đòn dứt điểm, trận Phản Tuyền lần trước chính là một ví dụ. Lần này nếu Hoàng Đế lấy cứng chọi cứng với chúng ta, thì cũng chỉ năm ăn năm thua, đôi bên lưỡng bại câu thương, Cao Tân sẽ được hưởng lợi, Hoàng Đế không đời nào chịu như vậy. Thế nên, ông ta lợi dụng việc quân đội Hiên Viên được cung ứng đầy đủ, cứ giằng dai kéo dài để tiêu hao sinh lực chúng ta, đợi chúng ta hoàn toàn suy kiệt, ông ta chỉ cần cất tay là dẹp tan, đó là kế sách thứ nhất. Những viên đại tướng bình thường trù tính được đến bậc này hẳn đã vừa ý rồi, nhưng Hoàng Đế lại rất cẩn thận, còn phái binh sĩ đào đường hầm để trước sau giáp kích, kẹp chúng ta vào giữa, đó là kế sách thứ hai. Đến đây, có thể coi như cầm chắc thắng lợi nhưng Hoàng Đế vẫn chưa vừa lòng, lại điều động Thần tộc bày trận thế tại Phản Tuyền sơn cốc, quyết không để xảy ra điều gì sơ sót.” Vũ Sư tán thưởng: “Quả là lợi hại, hết kế này đến kế khác đan cài vào nhau!” Phong Bá gật đầu: “Kế sách thứ nhất là quan trọng nhất, có điều Xi Vưu còn lợi hại hơn, rõ ràng Hình Thiên đã mượn được lương thảo từ Đồ Sơn Thị, vậy mà Xi Vưu vẫn hạ lênh giấu lương đi, để Hoàng Đế ngỡ rằng lương thảo của chúng ta đã cạn kiệt, bấy giờ mới chịu dốc toàn lực tấn công ta. Bằng không chúng ta đâu thể dễ dàng tiến vào Phản Tuyền thành như vậy?” Xi Vưu nói: “Không thể nói là ta giỏi cầm quân hơn Hoàng Đế được, ta chỉ có ưu thế là nghiên cứu được tất cả các trận chiến của ông ta suốt mấy ngàn năm nay, còn ông ta lại chỉ có thể quan sát những trận chiến của ta trong thời gian này mà thôi, nên ta hiểu về ông ta hơn ông ta hiểu về ta nhiều. Bởi vậy, ta biết ông ta sẽ không tấn công trực diện một cách tùy tiện như thế, bèn nghĩ cách phối hợp với ông ta, lấy gậy ông đập lưng ông. Thực ra, trận chiến này, Hoàng Đế đã thua chính bản thân mình.” Vũ Sư và Phong Bá cùng bật cười: “Huynh cần gì phải khiêm tốn? Đây cũng là nhờ huynh khéo léo ứng phó được tất cả những kế sách của ông ta. Ít ra chúng ta cũng không ai biết được huynh bày ra trò đá cầu là để thao luyện binh sĩ, nếu không có bọn Si Mỵ Võng Lượng cùng các huynh đệ Yêu tộc giỏi đá cầu, chẳng hiểu sẽ có bao nhiêu chiến sĩ phe ta phải bỏ mạng nữa.” Chỉ mình Hình Thiên cố chấp lắc đầu: “Xi Vưu, nếu Viêm Đế còn sống, nhất định không tán thành cách làm này của ngươi đâu. Để dụ Hoàng Đế vào tròng, ngươi chẳng nề để tướng sĩ nhịn đói nhịn khát, nếu những binh sĩ hy sinh kia được ăn thêm chút thịt thà, biết đâu họ lại có sức chiến đấu, không đến nỗi phải chết. Ngươi còn chính tay đẩy họ vào trận thế của Hoàng Đế để làm mồi nhử, ngươi có biết bao nhiêu binh sĩ đã bị đá đè chết không? Mấy ngàn người đó!” Thấy Xi Vưu lặng thinh, Hình Thiên lại nói: “Để giành thắng lợi, ngươi không tiếc bất cứ thủ đoạn nào cả, lần này ngươi hy sinh tướng sĩ, lần sau ngươi định hy sinh ai đây?”
|
Thấy Phong Bá toan nói gì đó, Xi Vưu liền giơ tay ngăn lại. Hắn bình thản đối diện với Hình Thiên: “Ngươi từng theo hầu sư phụ, hẳn biết rõ lai lịch xuất thân của ta. Trong mắt ta không có đúng sai đạo nghĩa, cũng chẳng có lễ nghĩa liêm sỉ, chỉ biết giở mọi thủ đoạn để sinh tồn mà thôi. Nếu bất mãn, ngươi cứ việc ra đi, nhưng nếu ngươi muốn ở lại thì phải tuyệt đối trung thành, bằng không…” Xi Vưu cười lạnh lẽo, “Lang vương thường cắn chết con sói phản bội rồi quẳng cho bấy sói xé xác ăn thịt, có điều hình phạt của nó vẫn chưa hung tàn bằng ta đâu.” Thấy Hình Thiên phẫn nộ trợn trừng hai mắt, Vũ Sư ngỡ hắn định tấn công Xi Vưu, nào ngờ hắn trừng trừng nhìn Xi Vưu một hồi rồi quay phắt đi, “Ta chỉ trung thành với Viêm Đế thôi.” Phong Bá và Vũ Sư định nói thêm gì đó, nhưng Xi Vưu đã xua tay, “Ta muốn ở lại một mình.” Hai người đành lui xuống. Xi Vưu đứng trên đầu thành, dõi mắt về phía trời Tây. Mẹ A Hành qua đời rồi! Đến giờ hắn vẫn nhớ như in nỗi đau chết nửa cõi lòng lúc Viêm Đế qua đời, huống chi A Hành vốn gắn bó với Luy Tổ, nhất định sẽ còn đau đớn hơn. Hắn chỉ hận không thể bay ngay đến Triêu Vân phong, nhưng đến rồi hắn phải nói gì đây? Ta đánh bại cha nàng, giết chết mấy vạn tộc nhân của nàng ư? Dùng đôi tay dính đầy máu tươi này ôm lấy nàng an ủi ư? Tiêu Dao đậu xuống đầu thành, nghiêng đầu nhìn hắn như đang hỏi: Ngươi làm gì thế? Xi Vưu cười nói: “Ta đang nhớ A Hành.” Nụ cười bất lực vô chừng, khác hẳn vẻ lãnh khốc bên ngoài. Tiêu Dao lườm hắn rồi kêu lên một tiếng, khẽ vỗ cánh như thể muốn bay đi. Xi Vưu liền nhảy lên lưng nó, “Nào thì đi!” Bất kể ra sao cũng phải tới trông thấy nàng, mới có thể yên tâm. Đã tảng tảng sáng, nhưng trong Triêu Vân điện vẫn vắng lặng như tờ, tưởng chừng nghe được cả tiếng lá rơi, hồ như tất cả mọi người đều đang say ngủ. Xi Vưu tìm từ tiền điện đến sương điện cũng chẳng thấy A Hành, đang lo lắng chợt thấy một bóng người chớp lên, hắn vội vàng lẩn đi. “Xi Vưu.” Vân Tang gọi giật hắn lại, “A Hành đang ở trên đỉnh núi.” Xi Vưu đang định đi, chợt nghe Vân Tang hỏi: “Nghe nói ngươi hiện giờ thiếu thốn lương thảo, sắp không duy trì được nữa ư?” Tốc độ của Tiêu Dao quá nhanh, lại đến trước cả khi tin thắng bại truyền về Hiên Viên thành. Xi Vưu ngoảnh lại đáp: “Chiến dịch đã kết thúc, Hoàng Đế bị trọng thương, Thần Nông thu lại Phản Tuyền rồi.” Sắc trời vẫn còn lờ mờ, Vân Tang lại đứng quay lưng về phía ánh sáng nên không trông rõ được nét mặt, hồi lâu, nàng mới hỏi: “Tiếp sau đây, ngươi định thế nào?” “Đợi thu hồi được toàn bộ lãnh thổ Thần Nông, buộc Hoàng Đế đầu hàng, ta cũng hoàn thành lời hứa với hai đời Viêm Đế, trả hết ơn nghĩa, chừng đó ta sẽ giao lại binh quyền, chuyện về sau là của Thần Nông vương tộc các người.” “Vậy còn ngươi?” “Ta sẽ dắt A Hành vĩnh viễn rời đi.” Vân Tang trỏ con đường mòn tít tắp sâu trong rừng dâu, “Ngươi men theo con đường này sẽ gặp A Hành, đêm qua mẫu hậu vừa qua đời, hiện giờ muội ấy đang vô cùng thương tâm, ngươi đừng khiến muội ấy bị kích động, cũng đừng nhắc tới chiến dịch.” “Đa tạ” Xi Vưu men theo con đường mòn đầy cỏ dại, thẳng lên tận đỉnh núi. A Hành đang ngồi bó gối trên sườn núi. Nghe tiếng bước chân, nàng liền ngoảnh lại, trông thấy Xi Vưu, nàng cũng chẳng nói chẳng rằng, chỉ hơi nhích người ngồi lùi vào trong một chút. Xi Vưu bèn ngồi xuống sát bên nàng. Phóng mắt nhìn ra xa, chỉ thấy mây tía lững lờ tựa một dải lụa, rực rỡ mỏng tan như khói, vầng dương vẫn chưa ló dạng. Xi Vưu đưa mắt nhìn A Hành, thấy gương mặt nàng vừa tái nhợt vừa gầy vò, trong ánh sáng nhàn nhạt đầu ngày, dường như trông rõ mồn một mạch máu xanh ngắt dưới làn da, hắn chợt xót xa khôn xiết, liền quàng tay ôm lấy nàng. A Hành tựa đầu vào vai hắn, nước mắt lã chã: “Xi Vưu, từ nay về sau ta chỉ còn một thân một mình thôi, ta không còn mẹ, cũng không còn ca ca nữa.” Xi Vưu an ủi: “Thanh Dương còn đó, sao nàng lại bảo chỉ còn một thân một mình?” Nỗi bi ai trong lòng quặn lên, A Hành khóc nức: “Đại ca đã chết lâu rồi, trong trận Phản Tuyền lần trước, chính chàng đã lầm lẫn lỡ tay đánh chết Đại ca. Ta vốn đã sắp đặt mọi chuyện, quyết từ bỏ tất cả để ra đi cùng chàng, làm Tây Lăng Hành, không làm Hiên Viên Bạt nữa, Đại ca và Thiếu Hạo đều hứa sẽ giúp ta, Tứ ca cũng ủng hộ hai ta. Nhưng sau khi Đại ca qua đời, mẫu hậu và Tứ ca không còn chỗ dựa, ta không thể bỏ thân phận Cao Tân vương phi được nữa. Vì bảo vệ ẫu hậu và Tứ ca, ta buộc phải mượn sức Thiếu Hạo, để Thanh Dương tiếp tục “sống.” Tứ ca cũng đem lòng hận chàng, cấm ta và chàng ở bên nhau…” Qua những lời nghẹn ngào nức nở ngắt quãng của A Hành, Xi Vưu mới hiểu ra đầu đuôi mọi chuyện, thì ra, hạnh phúc của hắn đã bị hắn chính tay đánh mất. Trong lúc hắn hôn mê ở Bắc Minh, A Hành vừa phải gánh nỗi đau tang tóc, vừa phải lo lắng bảo hộ ẫu hậu và Tứ ca. Nỗi xót xa vô hạn trào dâng trong lòng, chợt một ý nghĩ lóe lên, nếu A Hành không hề thay lòng, chỉ vì bảo vệ mẹ với Tứ ca mới cùng Thiếu Hạo… “Vậy Tiểu Yêu là… là… con gái ta ư?” Xi Vưu bỗng cảm thấy tim đập thình thịch, ngay cả lúc giao đấu sinh tử cùng Hoàng Đế, hắn cũng không căng thẳng và sợ hãi đến vậy. A Hành đánh hắn mấy cái, khóc lóc hỏi ngược lại: “Vậy chàng tưởng nó là con ai? Tên nó là Tiểu Yêu, ẩn ý nhắc tới hoa đào, khi ấy chàng sống chết không rõ, bị kẻ thù săn lùng khắp đại hoang, ta còn có thể làm sao đây?” Xi Vưu vừa mừng rỡ lại vừa buồn bã, hắn có con gái, cuối cùng hắn cũng có con gái thật rồi! Nhưng hắn chưa ngày nào làm tròn trách nhiệm người cha, ngược lại còn vì sát nghiệp của mình, hại con gái từ khi sinh ra đã rơi vào nguy hiểm. Hắn dịu dàng ôm lấy A Hành, thì thầm bên tai: “Xin lỗi nàng, cho ta xin lỗi.” A Hành phải gánh vác trọng trách, xưa nay vẫn gắn nén bi thương vào lòng. Đại ca chết, không dám khóc, sợ mẹ và Tứ ca đau lòng; Tứ ca chết, không dám chết, sợ mẹ và Tứ tẩu thêm đau lòng; giờ đây, cuối cùng nàng cũng vứt bỏ mọi cố kỵ, mặc cho đau thương tràn ra như nước vỡ bờ, vùi đầu vào vai Xi Vưu khóc thảm thiết. Xi Vưu cũng chẳng khuyên giải, chỉ ôm chặt lấy nàng, khẽ vỗ vỗ lưng nàng, như thể đang an ủi một đứa bé. A Hành vừa khóc vừa nói: “Từ nhỏ đến lớn, ta luôn thích ra ngoài chơi, chuyện gì cũng dám làm, bởi ta biết, dù xảy ra chuyện gì, chỉ cần chạy về Triêu Vân điện, sẽ có mẹ và các ca ca ở đó. Nhưng tới khi phát hiện ra gia đình là thứ quý giá nhất, thì đã chẳng còn gì nữa cả. Đại ca đi rồi, ta còn mẹ và Tứ ca, Tứ ca đi rồi, ta chỉ còn mẹ, chỉ cần mẹ vẫn còn sống thì ta vẫn còn gia đình. Hiện giờ mẹ cũng đã đi rồi, ta đã chẳng còn gia đình nữa…” Xi Vưu cúi đầu hôn lên tóc mai nàng, “Nàng quên ngôi nhà trong núi Cửu Lê mà nàng tự tay bài trí rồi ư? Chúng ta có gia đình của chúng ta. Tuy bấy nhiêu năm nay nàng chưa hề quay lại, nhưng hàng năm ta đều ở đó sửa sang, cây mướp trong vườn đã leo đầy cả giàn rồi; ta còn đào một cái giếng, nước giếng mùa đông thì ấm, mùa hè thì mát, ngày hè nóng nực, bỏ dưa vào giỏ rồi thả xuống giếng ướp lạnh, ăn vào mát lạnh cả người, phải rồi, ta còn bứng một góc tường vi từ Thanh Khâu quốc đem trồng trong vườn, hoa nở ra đẹp như ráng chiều vậy, nàng có thể ngắt lấy chế thành son môi…” A Hành nước mắt rưng rưng, cảnh tượng lúc Luy Tổ lâm chung lại hiện ra trước mắt. Mẹ nắm lấy tay nàng dặn dò: “Hành nhi, tuy ta mất đi, nhưng đổi lại, con có thể được tự do. Nếu con thật sự yêu Xi Vưu, thì đi theo hắn đi.” Nàng kinh ngạc nhìn mẹ, ấp úng mãi không nói nên lời. Mẹ nàng cười yếu ớt: “Đồ ngốc ạ, con tưởng đến giờ ta vẫn không nhận ra tâm sự của con ư? Chỉ cần Xi Vưu có thể cho con một gia đình, chăm sóc tốt cho con, thì nó là con rể của ta. Hiện giờ, điều duy nhất ta còn chưa yên lòng, là con đấy!” Nghe Xi Vưu miêu tả, A Hành tựa hồ trông thấy căn nhà nhỏ thấp thoáng giữa bóng hoa đào, khu vườn rau cạnh nhà, từng ngọn non loăn xoăn xanh mướt từ giàn mướp rủ xuống, giếng đá xanh trước nhà, cái gầu nằm lăn lóc bên miệng giếng, hoa tường vi hồng thắm nở đầy quanh giếng, từng chùm từng cụm, đẹp như ráng chiều… Dường như mẹ cũng trông thấy căn nhà mới của nàng, đang đứng trước nhà hân hoan mỉm cười. Mẹ ơi, con có thể tự do đi cùng Xi Vưu thật ư? Mẹ gật gật đầu với nàng, rồi bóng xa dần, lẫn vào giữa bong hoa đào, vẻ mặt thanh thản, chẳng còn gì vướng bận. A Hành ngẩng đầu nhìn Xi Vưu, nước mắt chan hòa, chợt khóe môi nàng lại nở nụ cười rạng rỡ, vui mừng nói: “Mẹ nói kể từ giờ ta đã tự do rồi, mẹ bảo mẹ bằng lòng nhận chàng làm rể.” Xi Vưu sững ra, như không dám tin, một thoáng sau, mới lộ vẻ mừng rỡ như điên cuồng, lắp bắp hỏi: “Mẹ nàng, mẹ nàng… thật… thật…” A Hành gật đầu. Xi Vưu xưa nay vẫn cho rằng mình không thể được người thân của A Hành chấp thuận, nên luôn ngang ngược tuyên bố không để tâm, ngờ đâu được người thân thừa nhận và chúc phúc lại có thể làm người ta yên lòng, khiến niềm hạnh phúc càng tăng lên gấp bội. Xi Vưu mừng đến nỗi nói không nên lời, chỉ biết ngẩn ra nhìn A Hành, cười ngây ngô. Chân trời đằng đông chợt bừng lên, A Hành liền ngoảnh lại nhìn, khẽ lẩm bẩm: “Chàng xem, mặt trời mọc kìa, một ngày mới lại đến rồi.” Vầng mặt trời đỏ ối như ngọn lửa cháy rực nhô lên khỏi bể mây cuồn cuộn, rọi sáng cả đất trời, khiến vạn vật cũng thành ra rạng rỡ. Xi Vưu ôm chặt lấy A Hành: “Về sau, ngày ngày chúng ta sẽ cùng nhau ngắm mặt trời mọc nhé?” A Hành nhoẻn cười, gật đầu. Chẳng rõ nhờ ánh nắng của mặt trời, hay vì hơi ấm của đối phương, cả hai đều thấy thân mình nóng bừng lên. Nhìn vào đôi mắt sáng long lanh của A Hành, Xi Vưu máy môi toan nói với nàng: chiến dịch đã kết thúc, nhưng lời ra đến miệng lại không thốt lên nổi. Lúc này đây, hắn chỉ muốn ôm lấy nàng, yên lặng ngắm nhìn vầng dương chiếu rọi khắp nơi. Ráng đỏ như lửa phủ ngập chân trời, đỗ quyên đỏ như lửa nở đầy sườn núi, hai người yên lặng ngồi trên đỉnh núi, tựa vào nhau, xung quanh là nắng mai tực khói, là hoa dại rực rỡ, thân mình cả hai tựa hồ đã ngưng kết lại thành đá núi, chỉ khi gió sớm thổi qua, mới thấy tà áo nhẹ bay bay. Xi Vưu khẽ hỏi: “Tây Lăng Hành, sau này nàng định làm gì?” Tây Lăng Hành, cái tên tượng trưng cho hạnh phúc và tự do ấy, đã bao lâu rổi chưa xuất hiện trong đời nàng? A Hành mơ màng như đang nằm mộng, hạ giọng thì thầm, “Ta muốn ngày ngày đều được ở bên chàng, nhìn Tiểu Yêu, Chuyên Húc bình an lớn lên, chứng kiến bọn chúng dựng vợ gả chồng, rồi cùng chàng hạnh phúc lìa khỏi thế gian này.” Xi Vưu cười, “Nguyện vọng quá đơn giản, ta nhất định sẽ giúp nàng thực hiện!” “Thật không?” “Thật.” Chợt nghe tiếng Chu Du từ rừng dâu gọi vóng lên: “Vương cơ, A Hành!” A Hành đứng dậy, nhưng Xi Vưu vẫn nắm lấy tay nàng, quyến luyến chẳng nỡ rời. A Hành từ từ lùi lại, bàn tay cũng từ từ tuột khỏi tay hắn. Nàng dặn: “Ta phải lo liệu tang lễ ẹ, chàng về trước đi. Giờ này ngày mai, chàng sẽ nhận được quà ta tặng, coi như… ta đền cho chàng vì bấy nhiêu năm nay lỡ hẹn.” Chiều hôm đó, tin tức về trận Phản Tuyền truyền đến Cao Tân, các đại thần lại được dịp đua nhau tán tụng Thiếu Hạo anh minh cơ trí, không phái binh tham chiến, bằng không đã bị vạ lây với Hoàng Đế. Đối mặt với lời xưng tụng của quần hùng, Thiếu Hạo chỉ lặng yên không nói. Đám đại thần thấy vậy cũng chẳng dám dông dài nữa, Thiếu Hạo bây giờ đã không còn là kẻ ôn hòa khiêm tốn, lấy lễ đối đãi với bề tôi như trước, y luôn lạnh lùng nghiêm khắc, trầm mặc kiệm lời, vui giận khó lường, thủ đoạn tàn nhẫn, quần thần mỗi lần bắt gặp ánh mắt y đều run lên sợ hãi. Thiếu Hạo đang định ọi người lui ra, bỗng một tên nội thị hồng hộc chạy vào đại điện, giơ ột phong thư trắng toát. Thiếu Hạo khẽ phất tay, phong thư liền bay thẳng tới tay y. Giở ra đọc xong, sắc mặt y chợt trầm xuống, y trân trân nhìn phong thư, hồi lâu chẳng nói chẳng rằng. Quý Ly xưa nay chưa hề thấy Thiếu Hạo như vậy, đánh liều hỏi: “Bệ hạ có gì căn dặn chăng?” Thiếu Hạo đưa phong thư cho y, Quý Ly thoạt nhìn đã biến sắc mặt, là giấy tự từ hôn của Hiên Viên Bạt, nàng tuyên bố hủy bỏ hôn nhân với Thiếu Hạo, từ nay trở đi, đôi bên tự do dựng vợ gả chồng, không liên quan đến nhau nữa. Thiếu Hạo bình thản nói: “Chuyện này có lẽ thiên hạ đều biết cả rồi, ngươi đưa cho bọn họ đọc đi, đọc xong thử trình bày ý kiến xem.” Mấy vị đại thần xem xong, lòng vô cùng căm phẫn, nhưng không sao dò đoán được thái độ của Thiếu Hạo, nên chẳng ai dám ra lời. Quý Ly đành lên tiếng: “Tân bệ hạ, Cao Tân lập quốc mấy vạn năm nay, chưa từng nghe nói có chuyện như vậy bao giờ, chúng thần cũng không biết nên làm sao mới phải.” Đám triều thần lao xao gật đầu, xưa nay chỉ nghe nói đế vương hắt hủi phi tử, chưa từng thấy phi tử tự động ra đi bao giờ. Đột nhiên, một kẻ buông miệng hỏi: “Đây là ý của Hoàng Đế sao? Có phải đằng sau có âm mưu gì không?” Thiếu Hạo đáp: “Văn thư này mới được ban bố sáng nay thôi, lúc này dù Hoàng Đế còn sống, cũng đang trên đường trốn chạy từ Phản Tuyền, không thể phát ra ý chỉ này được, trên này chỉ có dấu ấn của Vương hậu, không có dấu của Hoàng Đế, hẳn là ý riêng của Hiên Viên vương cơ thôi.” Triều thần vội tâu: “Vậy thì không tính.” Thiếu Hạo phán: “Các ngươi lui cả xuống, chuyện này cứ như vậy đi!” Nói rồi, y đứng dậy đi thẳng. Cả đám triều thần ngơ ngác nhìn nhau, đều lúng túng như gà mắc tóc. Cứ như vậy đi! Là như thế nào đây? Thiếu Hạo xưa nay nói năng rất rõ ràng rành mạch, đây là lần đầu tiên bọn họ nhận được một mệnh lệnh mơ hồ thế này, thật không biết phải chấp hành ra sao nữa. Thiếu Hạo không quay về Thừa Ân cung mà đi thẳng tới Thừa Hoa cung – phủ đệ của y thời còn là vương tử. Đẩy cửa phòng ngủ, mọi thứ vẫn y như cũ. Y còn nhớ, đêm tân hôn mình đã vờ say, lảo đảo đẩy cửa phòng ra. Bây giờ A Hành ngẩng phắt đầu lên, chăm chú nhìn y, tựa hồ nhìn thấu hết thảy tâm tư y. Chiếc sập kê sát cửa sổ, ngay cạnh án thư, mỗi tối, khi y ngồi trước án thư xử lý công văn, A Hành thường nằm trên sập đọc sách thuốc. Cửa sổ trông thẳng ra vườn hoa, hoa cỏ trong vườn đều do nàng tự tay trồng, nàng vừa nghiên cứu Thần Nông Bản Thảo Kinh, vừa mê mải thực hành, trồng ra đủ loại kỳ hoa dị thảo, nổi danh khắp Cao Tân thần tộc, ngay cả phụ vương cũng phải phái cung nhân tới xin giống hoa cỏ về. A Hành tâm tư tinh tế, biết y thính mùi nên hằng ngày đều hái hoa tươi đặt lên án thư, khiến y luôn được dịp bất ngờ . Hương rượu thoang thoảng trong gió đêm đưa lại, là túy hải đường do A Hành trồng, chỉ chuyên tưới bằng rượu, không thể tưới bằng nước, đóa hoa lớn mà trắng muốt, khiến người ta vừa ngửi đã say, nàng từng đùa rằng, “Đây là bậc quân tử say trong các loài hoa, có thể đặt tên là Thiếu Hạo hoa.” Thiếu Hạo đứng dậy, ra vườn ngắt mấy cành túy hải đường cắm vào bình ngọc trên án thư, lập tức cả phòng sực nức hương thơm, khiến người ta ngất ngây chỉ muốn say. Y ngả người nằm xuống sập, rút trong tay áo ra một chiếc hộp nhỏ bằng thủy ngọc, trong hộp đặt một ngón tay út. Hôm A Hành không mượn được binh bèn chặt ngón tay bỏ đi, y thực sự không ngờ Xương Ý và Xương Phó lại lần lượt qua đời, từ đó trở đi, A Hành cũng chẳng trở về Ngũ Thần sơn nữa, sau này, càng không thể trở về. Thiếu Hạo mê mệt thiếp đi giữa căn phòng nồng nàn mùi rượu. Ánh nắng chói chang, cỏ xanh mơn mởn, hoa nở rực rỡ. Thanh Dương, A Hành, Xương Ý đều có mặt, hệt như hôm Xương Ý thành hôn, tất cả túm tụm cười cười nói nói. Thiếu Hạo thấy vui vẻ vô cùng, nhưng trong lòng lại thấp thoáng một nỗi đau xót khó gọi thành tên, tựa hồ biết ngày vui ngắn chẳng tày gang vậy. Y đem ra hết vò rượu này đến vò rượu khác do mình tự cất, còn luôn miệng giục họ uống, như sợ chậm trễ thì họ sẽ không uống được. Thanh Dương cười bảo Xương Ý: “Tên này đổi tính rồi, trước đây muốn uống hớp rượu ngon của hắn phải nài nỉ năm lần bảy lượt mới được đấy.” Thiếu Hạo rót rượu cho Thanh Dương, Thanh Dương vừa nâng chén lên, chợt thấy Vân Trạch đứng dưới gốc phượng hoàng cười gọi: “Đại ca!” Thanh Dương lập tức đứng dậy, đi về phía Vân Trạch, ba huynh đệ họ đứng dưới gốc phượng hoàng cười cười nói nói, chẳng nhìn nhõi gì đến Thiếu Hạo. Y vội ôm vò rượu chạy tới, “Thanh Dương, Vân Trạch, Xương Ý! Mọi người lại cùng nhau uống rượu đi, chỉ một lần này thôi mà!” Nhưng bất kể y chạy bao lâu, cũng không chạy tới được. “Thanh Dương, Vân Trạch, Xương Ý…” Y đã mệt đến nỗi mồ hôi đầy đầu, mắt thấy sắp đuổi đến nơi, đột nhiên Thanh Dương rút kiếm ra chỉ thẳng vào y: “Tại sao ngươi không cứu Xương Ý? Chẳng phải ngươi đã thề rằng ngươi chính là Thanh Dương ư? Đồ tiểu nhân bội tín bạc nghĩa nhà ngươi!” Thiếu Hạo không sao tránh né, đành giương mắt nhìn thanh kiếm cắm ngập vào tim mình, “A…” Thiếu Hạo bừng tỉnh, mồ hôi đầm đìa, nằm giữa căn phòng nồng nàn mùi rượu, Thiếu Hạo nhất thời cũng chẳng biết bản thân đang ở đâu nữa, đương lúc mơ màng, y còn tưởng mình đang uống rượu với Thanh Dương, bèn trở mình gọi: “Thanh Dương, ta vừa gặp ác mộng.” Coong một tiếng, chẳng rõ thứ gì vừa rơi xuống đất, y cúi đầu nhìn, thấy trong miếng thủy ngọc xanh biếc đặt một ngón tay út, đột nhiên, cả người toát mồ hôi lạnh. Thanh Dương không còn nữa, Vân Trạch không còn nữa, Xương Ý không còn nữa, A Hành cũng đi rồi! Y ngơ ngác ngẩng đầu, lại chẳng hiểu rốt cuộc muốn nhìn gì, chỉ thấy một vành trắng lạnh in bóng lên rèm lụa, cô quạnh tịch liêu. Bốn anh em Si Mỵ Võng Lượng chạy xộc vào phòng hô hoán: “Tin động trời, tin động trời đây.” Phong Bá nghe hò hét mà ong cả óc, liền nạt: “Nếu không phải tin động trời, ta sẽ phạt mỗi tên ba mươi roi.” Mỵ dương dương đắc ý cười nói: “Lần này huynh không phạt được bọn ta đâu, quả là tin động trời đó.” Thấy chúng lại tiếp tục đấu võ mồm với Phong Bá, Xi Vưu bực bội quát: “Nói!” Nghe tiếng quát, Si Mỵ Võng Lượng tức thì đứng nghiêm, Si nói: “Hiên Viên vương cơ thôi không làm Cao Tân vương phi nữa rồi.” “Gì cơ?” Phong Bá và Vũ Sư đồng thanh hỏi. Si nháy mắt với cả hai, như thể nói: Thấy chưa, rõ ràng là tin động trời mà, không ngoa tí nào nhé!. Xi Vưu chống hay tay lên bàn, chồm người tới trước, nôn nóng: “Các ngươi nói lại nghe nào.” Mỵ đáp: “Cao Tân vương phi nói mình tài hèn đức mọn, không xứng với Thiếu Hạo nên tự động từ hôn, từ nay trở đi chỉ còn là Hiên Viên vương cơ, chứ không phải là Cao Tân vương phi nữa, có thể tự do kết hôn.” Phong Bá nghi hoặc hỏi: “Rốt cuộc Hiên Viên vương cơ có ý gì vậy? Giờ đang là lúc Hiên Viên cần Cao Tân nhất, vậy mà cô ta phải phá hủy mối liên minh với Cao Tân là sao?” Chợt nghĩ lại, y vụt hỏi: “Tin này công bố lúc nào?” Si đáp: “Sáng sớm nay.” “Thảo nào, đây nhất định không phải ý của Hoàng Đế, mà là Hiên Viên cơ tự tiện đưa ra.” Phong Bá cười với Xi Vưu, “Đúng là trời giúp Thần Nông rồi, ắt hẳn Cao Tân sẽ coi đây là mối nhục lớn, dẫu Hiên Viên vương cơ muốn rút lời lại cũng chẳng dễ dàng gì đâu.” Xi Vưu từ từ ngồi xuống, vẻ mặt vừa bi ai lại vừa mừng rỡ. Thì ra đây chính là lễ vật A Hành tặng cho hắn – tự do của nàng! Nhưng lúc này đây, hẳn A Hành đã biết mọi chuyện rồi? Từ sáng, sau khi công bố hủy bỏ cuộc hôn nhân với Thiếu Hạo, A Hành vẫn ở lì trên Triêu Vân phong, thu dọn di vật của Luy Tổ, nàng đang đợi cơn thịnh nộ của Hoàng Đế giáng xuống. Mãi đến chập choạng tối mới thấy cung nữ hớt hơ hớt hãi chạy vào thông báo: “Hoàng Đế, Hoàng Đế đến rồi!” A Hành chậm rãi đứng dậy bước ra ngoài, nàng cứ ngỡ rằng sẽ trông thấy Hoàng Đế bừng bừng lửa giận, đứng giữa đám thị vệ dương dương tự đắc, trợn trừng mắt phẫn nộ nhìn nàng. Nhưng ra đến ngoài điện, nàng chỉ thấy Tượng Võng thúc thúc te tua thảm hại, Ly Chu thúc thúc khắp người đầy máu. Bắt gặp ánh mắt nghi hoặc của nàng, Tượng Võng và Ly Chu đồng loạt quỳ xuống: “Xin vương cơ lập tức phái tâm phúc tới Quy khư mời Đại điện hạ xuất quan.” A Hành nhìn vào điện, thấy đám thầy thuốc đang xúm xít tất bật quang giường: “Xảy ra chuyện gì vậy?” Tượng Võng bẩm: “Chúng ta trúng kế Xi Vưu, Hoàng Đế bị trọng thương e rằng không ổn…phải mời nagy Thanh Dương điện hạ về, gặp bệ hạ lần cuối.” Như sấm nổ giữa trời quang, A Hành chợt thấy thần trí trống rỗng, đờ người tại chỗ. Nàng không tin! Phụ vương nàng là Hoàng Đế oai phong lẫm liệt, chẳng ai dám trái ý kia mà, sao có thể nguy cấp được? Hôm qua nàng còn láng máng nghe đồn Xi Vưu bị ép đến nổi cạn lương hết đạn, sắp thất bại rồi mà. A Hành tức tốc chạy vào đại điện, rẽ đám đông ra, xông đến bên giường, chỉ thấy Hoàng Đế hai mắt nhắm nghiền, sắt mặt tái nhợt. “Phụ vương, phụ vương…” A Hành không kiềm được gọi ầm lên. Hoàng Đế chợt mở bừng mắt, mơ màng nhìn A Hành, mỉm cười nhẹ nhõm: “A Luy, ta biết thế nào nàng cũng đến mà, thấy nàng là ta yên tâm rồi.” Tượng Võng và Ly Chu đứng bên nghe thấy, sống mũi bỗng cay xè, lệ tràn lên mắt. Trước là Vương hậu qua đời, rồi lại tới Hoàng Đế trọng thương, chỉ trong một đêm, Hiên Viên đã chao đảo sắp sụp đổ. Thứ phi Phương Lôi, Tứ phi Mô Mẫu đều hay tin chạy đến, Phương Lôi đã hoảng loạn, chỉ biết khóc nức nở, còn Mô Mẫu vẫn giữ được bình tĩnh, hỏi: “Thương thế ra sao?” Đám thầy thuốc đều nhất loạt quỳ xuống, dập đầu lia lịa, không dám lên tiếng, chỉ có một lão thầy thuốc già đánh bạo lên tiếng thưa: “Thương thế rất nặng, phải mau mau mời Đại điện hạ về thôi, nếu về nhanh, may ra còn kịp gặp mặt lần cuối.” Nghe thấy câu đó, Phương Lôi liền ngất xỉu, Mô Mẫu cũng bủn rủn ngồi phệch xuống đất, nhất thời trong điện hỗn loạn cả lên. A Hành nắm lấy hai cổ tay Hoàng Đế, thăm mạch cho ông, lát sau, nàng rút ngọc trâm trên đầu xuống, phong bế mạch tức vài ba nơi trên người ông, đoạn quay ra bảo Ly Chu và Tượng Võng: “Phiền hai vị thúc thúc cho tất cả mọi người lui ra ngoài.” Tượng Võng nôn nóng thưa: “Vương cơ, chúng ta phải lập tức mời Thanh Dương điện hạ về ngay, bằng không Hiên Viên sẽ đại loạn mất.” A Hành đáp: “Việc cấp bách hiện giờ của chúng ta là phải cứu phụ vương đã.” Tượng Võng tính tình nóng nảy, lại là đại tướng khai quốc từng theo Hoàng Đế Nam chinh Bắc chiến giành lấy thiên hạ, trong lúc cấp bách cũng chẳng lựa lời, cứ thế nói thẳng toẹt: “Đương nhiên phải cứu bệ hạ, nhưng ngay cả những thầy thuốc giỏi nhất nước cũng đã chẩn đoán rồi, trừ khi Viêm Đế Thần Nông tái sinh, bằng không làm sao cứu được?” A Hành hỏi: “Phụ vương trước sau trọng thương hai lần, lần thứ nhất là linh thể bị trường đao chém trúng, thoạt nhìn có vẻ nghiêm trọng nhưng cũng như đánh rắn vậy, dù chém rắn đứt làm đôi mà không trúng chỗ hiểm, thì vẫn còn cứu được. Có điều ngay sau đó, phụ vương lại trúng một chưởng vào ngực, đã thương lại thêm thương, tính mạng như ngàn cân treo sợi tóc, hai vị thúc thúc, con đoán có đúng không?” Tượng Võng nghe nói tới vết thương đầu tiên liền gật đầu lia lịa, nhưng đến vết thương thứ hai, ông ta càng nghe càng lộ vẻ quái lạ, mở miệng toan nói. Ly Chu chợt ấn vào vai Tượng Võng, kinh ngạc hỏi: “Hành nha đầu, con biết y thuật từ bao giờ thế? Tình hình khi đó đúng như con nói, thoạt đầu Xi Vưu vung đao chém linh long của Hoàng Đế, tuy linh long bị chém thành hai đoạn, nhưng Hoàng Đế vẫn tránh được, không trúng phải chỗ yếu hại. Thấy Hoàng Đế ngã từ trên tọa kỵ xuống, không còn sức tự vệ, Xi Vưu bèn đuổi theo, bồi thêm một chưởng.” A Hành đáp: “Nói ra thì dài lắm, tóm lại hai vị thúc thúc có tin con không? Nếu để cho con an bài mọi sự thì vẫn còn cứu được phụ vương.” Tượng Võng không nói gì, chỉ nhìn sang Ly Chu. Ly Chu liền nói: “Chúng ta không tin con thì còn biết tin ai? Con cứ tùy ý quyết định mọi chuyện đi.” “Cần tìm một vị cao thủ tinh thông trận pháp để bày trận, sau đó con sẽ dùng linh dược giúp phụ vương điều dưỡng, nếu mọi việc thuận lợi, chắc có thể giữ được tính mạng. Linh dược con đã có đủ đầy rồi, chỉ thiếu cao thủ bày trận…” Tri Mạt chợt bước vào nói: “Xin để vi thần bày trận.” Tượng Võng vô cùng kinh ngạc, mừng đến nỗi thiếu điều nhảy cẩng lên: “Rốt cuộc ông cũng quay về rồi!” Thuở nhỏ, A Hành đã lớn lên cùng những câu chuyện của Tri Mạt, theo nàng được biết, ông ta vốn thuộc tầng lớp hạ lưu ở Cao Tân khi quen biết phụ vương, ông ta rất tinh thông trận pháp, giỏi bày mưu tính kế, từng phò tá phụ vương lập ra Hiên Viên quốc, là khai quốc công thần bậc nhất Hiên Viện, được tôn vinh là Đế sư. Nhưng sau khi Hiên Viên lập quốc, ông ta và Hoàng Đế nảy sinh bất đồng, quan hệ ngày càng lạt lẽo, trước trận Phản Tuyền lần thứ nhất, ông đã treo ấn từ quan, ẩn cư lánh đời. Luy Tổ rất mực kính trọng Tri Mạt nên trước mặt ông, xưa nay A Hành chưa hề coi mình là vương cơ, vội hành lễ với Tri Mạt: “Mọi chuyện xin trông cả vào bá bá.” Theo yêu cầu của A Hành, Tri Mạt dốc hết tâm sức bày bố trận pháp, còn nàng phong ấn thân thể Hoàng Đế vào trận, tạm thời tính mạng Hoàng Đế không có gì đáng ngại, nhưng rốt cuộc có trị khỏi được hay không, còn phải trông vào y thuật của A Hành và sức khỏe của Hoàng Đế. Nửa đêm, A Hành dỗ Chuyên Húc và Tiểu Yêu ngủ xong, vừa bước ra khỏi phòng, chợt thấy trước mắt tối sầm lại, xuýt nữa ngất xỉu. Bây giờ nàng mới sực nhớ ra mình đã không ăn không uống suốt một ngày trời, định tìm gì đó ăn đỡ, nhưng lại thấy nôn nao trong dạ, chẳng biết phải ăn gì nữa. Nàng tìm được trong bếp nửa hũ dâu lạnh chính tay Luy Tổ làm, bèn lặng lẽ ôm vào lòng, ngồi xuống chiếc sập bên cửa sổ, nhón mấy chum đưa lên miệng, vị dâu lành lạnh man mát, chua chua ngòn ngọt tan ra trong miệng. A Hành nhắm nghiền mắt lại, tựa như trông thấy tuyết rơi lả tả, Đại ca vận áo lam đứng giữa một trời tuyết trắng, mẫu hậu đẩy cửa sổ, nhìn mưa tuyết đầy trời, liền sai cung nữ đi hái dâu lạnh tươi rói, trong khi nàng và Tứ ca đang nằm dài ra tuyết cười đùa, chuẩn bị bắc bếp lò hâm rượu, Xương Phó mặc chiếc váy đỏ hồng, vốc tuyết ném vào đầu cả hai. A Hành bật dậy đuổi theo Xương Phó, hai người đều ngả nhào xuống tuyết. A Hành nhoẻn miệng cười, lại nhón một vốc bia lạnh đưa lên miệng, những mong kéo dài niềm hạnh phúc ngòn ngọt chua chua ấy. Xương Phó bị huynh muội nàng ảnh hưởng, cũng rất thích ăn dâu lạnh, ba người chẳng hề ngại rét, còn đứng ngay dưới gốc dâu, vừa cười đùa vừa hái dâu ăn. Những lúc ấy, Đại ca thường đứng xa xa nhìn lại, dẫu có bắt chuyện, y cũng chỉ ơ hờ vài câu rồi thôi. Nhiều lúc A Hành phát cáu, liền lấy tuyết ném y, tới chừng y ngoảnh đầu nhìn, nàng liền chạy đến nấp sau lưng Xương Phó, đại ca rất nghiêm khắc với nàng và Tứ ca, nhưng rất ôn hòa với Xương Phó. Đợi Đại ca quay đi, nàng lại tiếp tục dương oai diễu võ, tay đấm chân đá với bóng lưng y, nhưng hễ y ngoái đầu là nàng nem nép, còn ngoan hơn thỏ, Xương Phó đứng bên vừa cười vừa ghẹo nàng. A Hành cười, lại thò tay vào hũ, nhưng chỉ bốc vào khoảng không, thì ra nàng đã ăn hết nửa hũ dâu lạnh, chẳng còn sót mảy may! Bao nhiêu mộng mơ đều tan cả rồi! A Hành lần tay vét nốt bên thành hũ, cuối cùng cũng vét được mấy mẩu vụn dính trên thành, nàng nhìn nhúm dâu lạnh còn sót lại, toan đưa lên miệng, nhưng lại tiếc rẻ không đành, ngẩn người ra nhìn một lúc lâu, mới dè dặt đưa từng mẩu nhỏ vào miệng. Chua chua ngòn ngọt, lành lạnh man mát. Nàng ôm lấy chiếc hũ không, nước mắt như mưa. Xi Vưu đáp xuống giữa sân, nhìn vào thấy trong nhà tối om. Gió động song sa, phát ra những tiếng nức nở nghẹn ngào. Xi Vưu bước lại gần bên song, tiếng động kia càng lúc càng rõ hơn, hóa ra là tiếng khóc tức tưởi. Tiếng thổn thức đứt quãng, nhưng lại liên tục cứa vào lòng hắn. Tay hắn đặt lên cửa sổ, chỉ cần đẩy khẽ một cái là mở được cửa sổ ra, lau khô nước mắt cho nàng, nhưng hắn quyết không dám dùng đôi tay đẫm máu này chạm tới nàng, vỗ về nàng. A Hành áp mặt vào hũ dâu lạnh rỗng không, giọng khản đặc, “Chàng ở ngoài ư?” “Ừm.” “Sao sáng nay chàng không nói thực với ta?” Xi Vưu lặng thinh. “Ta biết chàng muốn báo thù cho Du Võng, nhưng dù sao đó cũng là người đã sinh ra ta, nuôi nấng ta.” Xi Vưu máy môi, nhưng chẳng thốt nổi lời nào. Kẻ đả thương Hoàng Đế là hắn, hạ lệnh đồ sát binh sĩ Hiên Viên là hắn, có giải thích cũng chỉ là viện cớ, nên hắn không muốn, càng không buồn giải thích. A Hành khẽ nói: “Chàng về đi, hiện giờ phụ vương đang trọng thương hôn mê, sống chết khó liệu, ta phải chăm sóc cho người.” Xi Vưu vẫn bình thản đứng đó, nhưng bàn tay đặt trên khung cửa lại run bắn lên, linh khí tràn ra như nước vỡ bờ, không sao khống chế, song cửa lục lăng chạm trỗ từ gỗ đào chợt bừng lên sức sống, lá xanh mơn mởn nhú ra, vô vàng nụ hoa phấn trắng ló ra từ kẽ lá, từ từ xòe nở, chớp mắt, cả khung cửa chằng chịt cánh nhánh, rực rỡ muôn hoa. A Hành thần người nhìn hoa đào nở đầy cửa sổ, nước mắt thánh thót rơi, nhỏ lên cánh hoa đỏ thắm. “Mẹ, sao mẹ còn chưa ngủ?” Tiểu Yêu dụi mắt, lệt xệt bước lại. Thấy A Hành đang khóc, bé lập tức leo lên sập, ngoan ngoãn lau nước mắt cho nàng, “Mẹ đừng khóc, ông ngoại sẽ khỏe thôi mà.” Nghe thấy tiếng bé, Xi Vưu rung động cả tâm thần, bất giác đẩy cửa sổ ra, vươn tay qua khung cửa rực hoa, toan ẵm con gái, “Tiểu Yêu.” Nào ngờ, Tiểu Yêu lại hung hăn cắn phập vào tay hắn. Cả ngày nay nghe đám cung nhân kể lể chuyện Xi Vưu đả thương ông ngoại, Chuyên Húc còn nói Xi Vưu chính là thúc thúc áo đỏ lần trước đã cứu bé về, nên Tiểu Yêu sinh lòng căm hận Xi Vưu vô kể. A Hành vội bế xốc Tiểu Yêu, kéo bé ra, nhưng Tiểu Yêu vẫn tay đấm chân đá, hét toáng lên: “Đồ xấu xa! Ta phải giết ngươi báo thù cho ông ngoại.” Cánh tay Xi Vưu bị Tiểu Yêu rứt mất một miếng thịt, máu chảy đầm đìa, ướt đẫm vạt hoa đào, nhưng hắn như chẳng biết đau, cứ ngây ra nhìn đôi mắt thù hận của Tiểu Yêu, thoắt chốc, nhu tình dào dạt đều hóa thành buốt giá thấu xương, ánh mắt con gái như một thanh kiếm nhọn hoắt, khoét sâu vào trái tim hắn, khiến hắn đau đến nghẹt thở. A Hành vừa bịt chặt miệng con gái, không cho bé la hét, vừa nhìn Xi Vưu, nước mắt như mưa, “Còn chưa đi đi? Thị vệ sắp tới bây giờ, lẽ nào chàng muốn đại khai sát giới trước mặt con gái ư?” Xi Vưu đau đáu nhìn A Hành và Tiểu Yêu rồi cưỡi Tiêu Dao bay vụt lên chín tầng trời, để gió lạnh cứa vào rát mặt. Xi Vưu ngửa cổ nhìn trời, rống lên thê thiết như loài sói, hắn không làm gì sai, nàng cũng không làm gì sai, tại sao lại thành ra thế này? Mất đi linh lực của Xi Vưu, hoa đào dần tàn héo rơi rụng, những cánh hoa vấy máu lần lượt lìa cành rơi xuống, như từng mảnh tim vỡ nát. A Hành ôm Tiểu Yêu trong lòng, chẳng nói chẳng rằng, chỉ thần người ra nhìn những cánh hoa. Vân Tang, Chu Du nghe thấy tiếng kêu khóc của Tiểu Yêu, liền vội vã dẫn thị vệ chạy tới, nhưng chẳng có gì cả, chỉ thấy A Hành đang ẵm Tiểu Yêu, ngẩn ngơ ngồi giữa muôn ngàn cánh đào đẫm máu. “A Hành, sao thế?” A Hành chậm chạp quay đầu lại, nhìn về phía bọn họ. Thoạt trông thấy nàng, Vân Tang bỗng giựt thót mình, dung nhan A Hành vô cùng tiều tụy, ánh mắt buồn hiu hắt, dường như chỉ trong một đêm đã già sọm hẳn đi.
|
Q.2 - Chương 17: Gió Tung Bông Liễu, Giang Sơn Ngả[1] Chờ đợi suốt ngàn vạn năm, tự mua dây buộc mình, thời gian đằng đẳng như ngưng kết lại trong khoảnh khắc chia tay, mãi mãi dừng lại ở phút giây người đó cất bước ra đi, còn đương đinh ninh dặn dò, thiết tha nhắn gửi, nhìn bề ngoài cứ ngỡ là si ngốc, nhưng đó chẳng phải một dạng thông minh đấy ư? [1] Trích trong bài qua biển Linh Đinh của Văn Thiên Tường (1236-1283). (ND) Hơn một năm sau, nhờ A Hành dốc hết tâm sức săn sóc, cuối cùng Hoàng Đế cũng giữ được tính mạng. Vì linh thể đã trọng thương nên Hoàng Đế bắt đầu lộ vẻ già nua, mái tóc bạc trắng, gương mặt đầy nếp nhăn, cặp mắt cũng trở nên lờ đờ chậm chạp, chỉ thỉnh thoảng khi liếc mắt mới lại thấy sắc lạnh như xưa. Hơn một năm nay tuy có Tri Mạt bày mưu tính kế, Ly Chu, Tượng Võng phụ tá, nhưng dù sao nước không có vua cũng như rắn mất đầu, quân của Xi Vưu liên tiếp giành thắng lợi, đã thu hồi lại toàn bộ lãnh thổ Thần Nông. Từ sau khi tỉnh lại, ngày ngày Hoàng Đế đều thần người nhìn bức địa đồ do thổ linh ngưng tụ lại, trầm tư suy nghĩ. Chuyên Húc và Tiểu Yêu nhón chân ghé mắt nhìn trộm qua cửa sổ, chợt Hoàng Đế ngoảnh lại, cả hai giật thót mình, soạt một tiếng, rụt đầu lại núp dưới khung cửa. Hoàng Đế gọi: “Các cháu vào đây đi.” Chuyên Húc và Tiểu Yêu nắm tay nhau bước tới trước mặt Hoàng Đế, Chuyên Húc chỉ bức địa đồ màu vàng đầy đủ núi non sông ngòi do thổ linh ngưng tụ thành, hỏi: “Ông nội, cái gì đây ạ?” Tiểu Yêu nhanh miệng đáp: “Địa đồ, địa đồ của phụ vương cháu màu lam, do thủy linh ngưng tụ thành.” Hoàng Đế giải thích cho Chuyên Húc: “Đây là địa đồ Hiên Viên quốc.” “Con sông này tên gì?” “Hắc hà.” “Còn ngọn núi này?” “Đôn Vật sơn.” Chuyên Húc luôn miệng hỏi, còn Hoàng Đế cũng ân cần giảng giải từng vấn đề một, cậu nhóc nghe rất chăm chú, trong khi Tiểu Yêu chán nản ngáp dài, tựa vào sập gà gật ngủ. Chuyên Húc trỏ xuống cực Đông Nam của địa đồ, hỏi: “Sông gì đây ạ?” “Tương thủy, có điều nó thuộc về Cao Tân, cháu có muốn ngắm cảnh Tương thủy không?” Chuyên Húc gật đầu lia lịa. Hoàng Đế ngưng tụ linh lực, lập tức một bức tranh phong cảnh Tương thủy trải ra ngay trước mắt Chuyên Húc, non xanh nước biếc, hoa thơm cỏ lạ, quả là muôn màu muôn vẻ. Chuyên Húc liếc trộm Tiểu Yêu, thấy cô bé đã lơ mơ ngủ, không thể cười mình được nữa, bấy giờ mới yên tâm nói thật: “Đẹp quá, đẹp hơn Tiểu Yêu mô tả nhiều, đúng là khác hẳn Hiên Viên chúng ta.” Hoàng Đế mỉm cười: “Phải tới Trung Nguyên, cháu mới biết thế nào gọi là rừng vàng biển bạc.” Chuyên Húc nghe nói không giấu được vẻ háo hức. A Hành bước vào bế Tiểu Yêu lên, vẻ trách móc: “Hiện giờ thân thể phụ vương vẫn chưa hoàn toàn bình phục, người đừng lạm dụng linh lực. Chuyên Húc, về đi ngủ thôi.” Chuyên Húc theo A Hành ra đến cửa, chợt ngoảnh lại hỏi Hoàng Đế: “Ông ơi, sáng mai cháu đến tìm ông được không?” A Hành nhắc: “Sáng mai con phải học vẽ.” Chuyên Húc phản bác: “Con không thích học mấy thứ đó, thích nghe ông và Tri Mạt, Ly Chu và Tượng Võng bàn bạc công việc kia.” A Hành sững người, con trai Tứ ca lại không thích học vẽ là sao? Chuyên Húc kéo tay áo nàng, nài nỉ: “Đi mà, cô cô.” Hoàng Đế cũng bảo A Hành: “Ta vốn định nói chuyện này với con, nào ngờ cháu nó đã tự động nói trước. Ta muốn giữ Chuyên Húc bên mình để đích thân dạy dỗ nó.” A Hành đưa mắt nhìn Chuyên Húc, thấy cậu nhóc vẫn chưa hiểu được ý nghĩa thật sự của câu nói này. Trong mắt Chuyên Húc ăm ắp khát vọng, cậu bé nhìn nàng đầy van nỉ, luôn miệng nài xin: “Đi mà, cô cô, cô cô.” A Hành dịu giọng: “Con đã muốn vậy thì từ mai trở đi, con sẽ theo ông nội để ông nội dạy bảo.” Chuyên Húc mừng rỡ nắm chặt lấy tay A Hành. Về đến tẩm điện A Hành giao Tiểu Yêu cho Chu Du chăm sóc, còn mình giúp Chuyên Húc rửa mặt thay áo. Tuy ngoài mặt Chuyên Húc chẳng lộ vẻ gì, nhưng trong lòng cậu cũng biết, cô cô thương mình hơn cả Tiểu Yêu. A Hành đắp chăn cho Chuyên Húc, đậy chiếc vỏ sò đựng đầy Dạ Minh Châu bên giường lại, căn phòng tức thì tối om. Nàng định quay ra, chợt Chuyên Húc cất tiếng: “Sau này lớn lên, con nhất định sẽ bảo vệ cô cô và Tiểu Yêu, cả Chu Du nữa, không để ai hà hiếp mọi người đâu!” A Hành bật cười mà lòng không khỏi xót xa. Một đứa trẻ đang tuổi vô tư lự, vậy mà phải nếm trải nỗi đau mất cha mất mẹ, đến nỗi chỉ mong mình nhanh nhanh trưởng thành để bảo vệ những người thân cận, không muốn mất thêm một người nào nữa. Nàng ngồi xuống bên giường nhìn Chuyên Húc nhưng cậu nhóc đã nhắm nghiền mắt lại, dường như kẻ vừa rồi lên tiếng chẳng phải mình. A Hành khẽ hôn lên trán cậu, đáp khẽ: “Được.” Đại quân Xi Vưu tiếng sát biên giới Hiên Viên thì dừng lại, Xi Vưu yêu cầu Hoàng Đế đầu hàng, chỉ cần Hoàng Đế không bao giờ tấn công Thần Nông nữa, đồng thời tạ tội với Viêm Đế Du Võng, hắn sẽ không tiến đánh Hiên Viên. Tri Mạt cực lực khuyên Hoàng Đế nhận lời, ký hiệp ước với Thần Nông, thề không tiến đánh Thần Nông nữa để đổi lấy hòa bình. Tất cả triều thần đều cho rằng Hoàng Đế sẽ chấp thuận lời đề nghị của Xi Vưu, dù sao hắn cũng chỉ thu lại phần lãnh thổ thuộc về Thần Nông, chẳng xâm phạm gì đến Hiên Viên cả. Trái với dự liệu của mọi người, Hoàng Đế không chấp thuận lời đề nghị của Xi Vưu. Ông cương quyết tuyên bố: “Muốn ta thề trước toàn thiên hạ vĩnh viễn không xâm phạm Thần Nông, tuyệt không thể được! Mộng tưởng cả đời ta chính là thống nhất Trung Nguyên, ta thà chết cũng quyết không từ bỏ giấc mộng này!” Tri Mạt đương lúc khẩn khiết, cao giọng chất vấn: “Vậy còn bách tính Hiên Viên thì sao? Bệ hạ hãy hỏi xem bọn họ có nguyện chết vì Trung Nguyên hay không? Họ nhất định không bằng lòng! Họ chỉ muốn sống yên ổn mà thôi!” Hoàng Đế còn phải trông cậy vào Tri Mạt, không muốn phát sinh xung đột với ông ta về vấn đề này, nghĩ ngợi giây lát rồi hỏi: “Ngươi thấy ta có thể được coi là anh hùng chăng? Trong thiên hạ có mấy kẻ có thể sánh được với ta?” Tri Mạt nhất thời không nhận ra ý của Hoàng Đế, chỉ biết thành thật đáp: “Bệ hạ chẳng những là anh hùng, mà còn là bá chủ thiên cổ! Xin bỏ qua cho thần cuồng vọng, thần thấy Phục Hy đại đế cũng không bì được với bệ hạ.” Hoàng Đế lạnh lùng nhìn Tri Mạt: “Thần Nông nằm giữa Trung Nguyên, lãnh thổ mênh mông, sản vật dồi dào, địa linh nhân kiệt, hai đời Viêm Đế đều không ham chiến tranh, vậy mà vị bá chủ thiên cổ trong mắt ngươi như ta, tấn công Thần Nông còn khó khăn như vậy, ngươi cho rằng Hoàng Đế tương lai của Hiên Viên có thể làm được hơn ư?” Bây giờ Tri Mạt mới hiểu ý Hoàng Đế, ông ta trầm ngăm hồi lâu, đoạn khó nhọc đáp: “Không thể.” “Ngươi nghĩ cứ yên phận ở mãi miệt Tây Bắc có thể khiến bách tính an cư lạc nghiệp ư? Lỡ như Thần Nông tương lai sản sinh ra một vị Viêm Đế có hùng tâm tráng chí thì Hiên Viên bị diệt quốc chỉ là chuyện trong chớp mắt thôi. Nếu hiện giờ ta không nhổ cỏ tận gốc, nên đánh Thần Nông tới cùng, thì mấy ngàn năm nữa, sẽ tới lượt Thần Nông đánh chiếm Hiên Viên!” Ánh mắt sắc bén của Hoàng Đế nhìn xoáy vào Tượng Võng và Ly Chu dưới thềm, “Các ngươi có bằng lòng theo ta thống nhất Trung Nguyên không?” Tượng Võng và Ly Chu lập tức quỳ xuống, hệt như mấy ngàn năm trước, khảng khái đáp: “Chúng thần thề chết phò tá bệ hạ!” Tri Mạt chăm chú nhìn Hoàng Đế, ông không hề tán thành mộng tưởng của Hoàng Đế, nhưng Hoàng Đế cũng là người ông tôn kính tận đáy lòng, trên thế gian này, có được mấy nam nhân can tâm xả thân vì mộng tưởng của mình đây? Lại có được bao nhiêu nam nhân ôm ấp lý tưởng vô tiền khoáng hậu như vậy? Hoàng Đế tươi nét mặt, bước đến đứng giữa Ly Chu và Tượng Võng, cười nhìn Tri Mạt hỏi: “Ba người chúng ta đều ở đây, huynh đài, ngươi có bằng lòng ở lại, cùng chúng ta gầy dựng nên đại nghiệp oanh liệt ngàn đời chăng?” Hơn bốn ngàn năm trước, trên Hiên Viên sơn, Hoàng Đế cũng đã hỏi Tri Mạt câu này. Vẻ mặt Tri Mạt dần dịu lại, chỉ biết lắc đầu cười khổ. Bốn ngàn măm trước, ông đã bị người đàn ông này khuất phục, bốn ngàn năm sau, ông vẫn bị người đàn ông này khuất phục. Thế nên, dù căm ghét chiến tranh, ông vẫn nguyện dốc lòng dốc sức vì ông ta. Tri Mạt lặng lẽ tiến lại, quỳ xuống trước mặt Hoàng Đế. Hoàng Đế cười lớn, đỡ cả ba dậy, tràn trề tự tin nói: “Bốn huynh đệ chúng ta nhất định sẽ có ngày bước lên đỉnh Thần Nông sơn! Đến chừng đó, sẽ uống tràn cùng mây, ôn lại chuyện xưa, cười xem thiên hạ!” Trong phút chốc, dường như tất cả tóc bạc nếp nhăn đều biến mất, Hoàng Đế lại trở thành gã thiếu niên hào tình vạn trượng, tráng chí ngút trời năm ấy. Hiên Viên cự tuyệt đầu hàng, không những thế, còn tuyên bố sẽ thay Thần Nông thảo phạt Xi Vưu. Hoàng Đế chính tay thảo một bài hịch hơn ngàn từ chiếu cáo thiên hạ, liệt kê hơn trăm tội danh của Xi Vưu: độc đoán chuyên quyền, tàn bạo hiếu sát, chỉ vẻn vẹn hơn hai trăm năm đã tận diệt tám mươi bảy gia tộc trung thành son sắt, đời đời phò tá Viêm Đế, khiến năm ngàn ba trăm chín mươi sáu vị trung thần chết dưới cực hình, chưa kể vô số tội trạng khinh nhờn bề trên, hiếp đáp kẻ dưới nữa. Hoàng Đế trùng trùng lo lắng, khẩn thiết hỏi: mới hơn hai trăm năm đã giết bấy nhiêu người, nếu Xi Vưu nắm giữ Thần Nông quốc, tương lai sẽ còn giết bao nhiêu người, tận diệt nao nhiêu gia tộc nữa đây? Đoạn lại khéo léo lái sang chỉ trích Du Võng ngu dốt bất tài, rõ ràng biết gian thần lộng quyền, vô số đại thần liều chết dâng sớ, xin biểm chức Xi Vưu, y đều phớt lờ, chẳng những không trị tội Xi Vưu, mà còn ngồi nhìn hết trung thần này tới trung thần khác chết thảm, quả là nhu nhược như đàn bà. Bởi thế, Thần Nông quốc mới sinh ra quân thân lục đục, lòng dân tan tác. Hoàng Đế lại giải bày gan ruột cùng thiên hạ: từ khi Hiên Viên lập quốc, ông nhất mực cần mẫn lo việc triều chính, chăm sóc cho bách tính, đối đãi với dân chúng Thần Nông quy hàng chẳng khác nào con dân của mình, Du Võng dung túng Xi Vưu làm nhục những bậc lương đống như Hậu Thổ, còn ông ta lại ban cho Hậu Thổ vinh hoa phú quý tương xứng với thân phận. Ông khẳng định mình không phải kẻ hiếu chiến, mà chỉ vì không đành lòng nhìn Xi Vưu tàn nhẫn giết choc, mới ra tay thay Thần Nông thảo phạt Xi Vưu. Bài hịch của Hoàng Đế xuất hiện rất đúng thời điểm. Quân đội của Xi Vưu đã giành lại Thần Nông từ tay Hiên Viên, Hiên Viên không còn là kẻ xâm lược nữa, vô số quý tộc Thần Nông từng nắm giữ quyền hành da liền sẹo thì cũng quên cả đau, bắt đầu luyến tiếc quyền lực phú quý của mình, nhưng binh quyền đều nằm cả trong tay Xi Vưu, họ chẳng cách nào có được vinh hoa phú quý như xưa nữa, phải làm sao đây? Đúng lúc này, Hoàng Đế ra mặt thay bọn họ tru diệt Xi Vưu, còn hứa hẹn Thần Nông về sau vẫn là của họ, khiến họ mừng rỡ khôn xiết. Vô số bô lão Thần Nông nhận được bài hịch tha thiết chân thành, văn hoa trôi chảy của Hoàng Đế, nghĩ lại những tháng ngày thê thảm luôn phải nơm nớp lo âu, sống nay chết mai sau khi Du Võng đăng cơ, thảy đều rơi nước mắt. Đám quý tộc Thần Nông luôn ôm hận với Xi Vưu, lại được thêm vô số thuyết khách của Hoàng Đế đi khắp nơi uốn ba tấc lưỡi du thuyết, phân tích lợi hại, khiến rất nhiều già trẻ lớn bé Thần Nông bắt đầu ngã theo Hoàng Đế, cho rằng Du Võng quả thật ngu dốt bất tài, nếu không phải Du Võng dung túng Xi Vưu, Thần Nông sao có thể diệt quốc? Nếu Thần Nông còn nằm trong tay Xi Vưu, bọn họ sớm muộn cũng sẽ mất mạng. Tóm lại, bài hịch đã giúp Hoàng Đế được chính danh, đồng thời tàn hủy thanh danh Du Võng, chẳng khác nào một thứ độc dược. Nhận được bài hịch yêu cầu đầu hàng của Hoàng Đế, Xi Vưu bưng vò rượu vừa uống vừa đọc, đọc đến đoạn kiệt kê tội trạng của mình, gương mặt hắn đầy vẻ cười cợt, chẳng buồn để tâm, nhưng khi đọc tới tội trạng của Du Võng, hắn sa sầm mặt xuống, bóp vỡ cả vò rượu bằng đồng trong tay. Du Võng là kẻ trung hậu nhân từ nhất mà Xi Vưu từng thấy: khi Chúc Dung truy sát hắn, là Du Võng chẳng nề nửa đêm tới khẩn cầu Viêm Đế thu hồi mệnh lệnh tru diệt Xi Vưu; khi tất cả mọi người trên Thần Nông sơn đều chửi rủa hắn là cầm thú, là Du Võng đứng ra bênh vực hắn, la rầy bọn họ; khi Xi Vưu hắn nổi giận đánh bị thương tất cả mọi người, trốn khỏi Thần Nông sơn, là Du Võng suốt đêm đuổi theo, ở bên hắn mấy ngày mấy đêm; khi Xi Vưu cô độc phẫn nộ ở cấm địa Thảo Ao lĩnh, là Du Võng trộm rượu đem lên núi cho hắn. Suốt mấy trăm năm, Du Võng tự hồ một vị huynh trưởng ôn hòa nhẫn nãi, đã khiến ột kẻ hung hăng tàn bạo như Xi Vưu cảm nhận được thế nào là tình người. Sau khi Viêm Đế qua đời, vô số người từng tấu trình lên Du Võng, ngay cả Vân Tang cũng e ngại Xi Vưu một tay nắm giữ bình quyền, sợ rằng sau này sẽ soán ngôi đoạt vị, chỉ mình Du Võng chưa hề nghi ngờ mảy may. Tuy ngoài miệng chưa từng thừa nhận, nhưng trong lòng Xi Vưu, Du Võng chính là huynh trưởng của hắn, là người duy nhất khiến hắn tin rằng trên đời này thật sự còn có thiện lương. Vậy mà giờ đây, vị quân vương thiện lương nhân hậu, một lòng lo lắng cho bách tính Thần Nông lại bị Hoàng Đế đảo lộn đen trắng, thả sức vu khống như vậy. Phong Bá lẩm bẩm: “Sao đọc bài hịch này, ta lại thấy mình đúng là tội nặng như núi thế nhỉ? Cứ như là gian thần tặc tử soán vị đổi ngôi ấy.” Vũ Sư giải thích: “Đó là nguyên nhân vì sao bậc đế vương thông minh dù hùng mạnh đến đâu cũng không thể dựa vào vũ lực mà lập quốc được. Vũ khí chỉ chinh phục được thân thể, văn tự và ngôn ngữ mới chinh phục được con người. “Chúng ta tính sao đây? Lẽ nào định đầu hàng Hoàng Đế?” Vũ Sư xuất thân thế gia, đương nhiên hiểu rõ mấy chuyện tranh quyền đoạt lợi, bèn nói: “Đám chư hầu quý tộc Thần Nông vừa hận vừa sợ chúng ta, hiện giờ dù chúng ta từ bỏ binh quyền, chúng cũng suy bụng ta ra bụng người, đời nào chịu tin tưởng, sớm muộn ắt sẽ giết sạch chúng ta mà thôi. Huống hồ, nếu quy hàng Hoàng Đế, ông ta nhất định sẽ chém đầu Xi Vưu để lấy lòng đám quý tộc Thần Nông. Chúng ta đã lâm vào đường cùng rồi, chỉ còn cách duy nhất là đánh bại Hoàng Đế mà thôi. Đến khi giành được thắng lợi, chúng ta có thể muốn gì nói đó, kẻ thất bại chẳng có tư cách lên tiếng, những gì được lưu truyền cho hậu thế, đều là tiếng nói của người thắng cuộc.” Phong Bá lại hỏi: “Lỡ như thất bại thì sao?” “Thì chúng ta sẽ vĩnh viễn là quân gian thần tặc tử theo lời Hoàng Đế.” Vũ Sư nhìn Xi Vưu, lòng đầy thấp thỏm, chẳng rõ hắn đang nghĩ gì. Phong Bá chợt vỗ đùi đánh đét: “Mẹ nó, không thể để tiếng thơm ngàn đời thì lưu tiếng thối muôn thuở cũng hay, dù gì ông đây cũng sảng khoái mà sống, mặc xác kẻ khác nói gì!” Bọn Si Mỵ Võng Lượng đua nhau hùa theo: “Phải rồi, phải rồi.” Phong Bá trịnh trọng bảo Xi Vưu: “Xưa nay ta hành sự không thẹn với lương tâm, mà đầu hàng chính là nhận sai, dù có giết ta, ta cũng nhất định không đầu hàng Hoàng Đế. Ta đã theo huynh mấy trăm năm, Du Võng đối với chúng ta ra sao, ta đều ghi nhớ trong lòng, chúng ta quyết không thể để Hoàng Đế nhục mạ huynh đệ mình như vậy được. Xi Vưu, huynh hạ lệnh đi!” Xi Vưu đưa mắt nhìn tất cả huynh đệ đi theo mình, bọn họ đang lũ lượt quỳ xuống, chăm chú đổ dồn ánh mắt về phía hắn. Đối mặt với tám mươi mốt cặp mắt rừng rực nhiệt huyết, cam nguyện vì mình mà hiến dâng tính mạng, Xi Vưu bật cười lớn, tiếng cười phảng phất vẻ bất lực và chua xót. Hắn dõi mắt nhìn về hướng Hiên Viên quốc, một lúc lâu sau mới cao giọng ra lệnh: “Chuẩn bị toàn lực tấn công Hiên Viên quốc, chừng nào Hoàng Đế chịu đầu hàng, tạ tội với Du Võng, bấy giờ mới ngừng tấn công.” Quân đội của Hiên Viên liên tiếp thất bại trước đại quân của Xi Vưu. Chẳng những Hiên Viên và Thần Nông chiến hỏa liên miên mà Cao Tân cũng chẳng được thái bình. Trung Dung bị giam trên đảo hoang bỗng nhiên biến mất, mấy tháng sau, đã thấy y tự xưng vương ở mé Tây Cao Tân, tuyên bố thảo phạt Thiếu Hạo. Binh lực Thần tộc của Cao Tân có tổng cộng bốn bộ, Thanh Long bộ là đích hệ của Thiếu Hạo, Hy Hòa bộ đã quy thuận Thiếu Hạo từ lâu, còn hai bộ Thường Hy và Bạch Hổ do hai anh em Trung Dung nắm giữ, sau khi Tuấn Đế đời trước qua đời, Thiếu Hạo sợ hai bộ này dấy binh nổi dậy nên ra sức thanh trừng bọn họ. Nhưng quan hệ mắc míu phức tạp mấy vạn năm, nào phải một sớm một chiều mà cắt đứt được ngay, lúc này dưới sự hiệu triệu của Trung Dung và mấy vương tử khác, lấy cái chết đáng ngờ của Tuấn Đế làm cớ dấy binh, hai bộ này liền tuyên bố chỉ thừa nhận Trung Dung, không thừa nhận Thiếu Hạo. Thiếu Hạo đụng phải nội loạn, đành kết minh với Hiên Viên Hoàng Đế, hứa hẹn sẽ chi viện binh sĩ Thần tộc cho Hiên Viên khi cần, cùng nhau thảo phạt Xi Vưu, tiếc rằng Hiên Viên vẫn thất bại liên tiếp, không cách nào cứu vãn được. Xi Vưu thế như chẻ tre, một đường đánh thẳng đến Hắc thủy. Trong Hiên Viên thành, khắp nơi đều là bách tính chạy nạn, lòng dân hoang mang, râm ran đồn đại rằng đại quân Xi Vưu chẳng mấy chốc sẽ đánh đến Hiên Viên thành. Trong Thượng Viên cung, Tri Mạt, Ly Chu, Tượng Võng, mấy cận thần bên cạnh Hoàng Đế, cùng Hiên Viên Hưu, Hiên Viên Thương Lâm, mấy viên đại tướng đang bàn bạc kế sách đối phó với Xi Vưu, Hoàng Đế ngả người trên sập, Chuyên Húc đứng bên cạnh, đều đang bình thản lắng nghe. Hiên Viên Hưu và Hiên Viên Thương Lâm đều không dám hỏi thẳng Hoàng Đế, cứ liên tục ra hiệu cho Ly Chu, Ly Chu đành tâu: “Chúng thần nhiều lời như vậy, nhưng quyền quyết định cuối cùng vẫn phải trông vào bệ hạ.” Bấy giờ Hoàng Đế mới chậm rãi nói: “Từ sau trận Phản Tuyền, chúng ta thất bại liên tiếp là lẽ thường, bởi binh bại như núi đổ, thủ đoạn của Xi Vưu lại nham hiểm độc ác. Chẳng những binh sĩ sợ hắn, mà ngay cả các ngươi từ sâu thẳm đáy lòng cũng sợ hắn, trong các ngươi kẻ nào dám nói mình không sợ Xi Vưu?” Ánh mắt Hoàng Đế quét qua khắp lượt những kẻ có mặt trong điện, Tượng Võng đỏ bừng mặt, bọn Hiên Viên Hưu nhất loạt cúi gầm đầu, Hoàng Đế lại nói: “Hiện giờ cách duy nhất để xoay chuyển cục thế là phải đánh thắng một trận, có vậy mới chấn hưng được sĩ khí, giải trừ được nỗi sợ hãi trong lòng các ngươi.” Mọi người nghe nói đều gật đầu hưởng ứng, Tri Mạt tâu: “Nhưng muốn thắng được, cần có một viên đại tướng không sợ Xi Vưu.” Mọi người trong điện lại nhìn nhau, ai nấy đều ngẩn người ra, các đại tướng có thể cầm quân trong Hiên Viên tộc đều ở đây cả rồi. Quen biết đã lâu, Hoàng Đế hiểu Tri Mạt trầm mặc kiệm lời nhưng lời nói ra luôn có ẩn ý, bèn xua tay ra hiệu, “Các ngươi lui xuống trước đi.” Trong đại điện chỉ còn lại Tượng Võng, Ly Chu và Tri Mạt. Hoàng Đế lại quay sang bảo Ly Chu: “Nói cho Tri Mạt biết chuyện của Trung Dung đi.” Thấy Ly Chu đưa mắt nhìn Chuyên Húc, Hoàng Đế lại phán: “Không cần kiêng kỵ nó.” Ly Chu bắt đầu thuật lại: “Nhiều năm trước, Tuấn Đế qua đời, Thiếu Hạo hạ lệnh giam cầm Trung Dung, Hoàng Đế liền sai ta bí mật liên hệ với Trung Dung, dốc sức giúp hắn truyền tin ra ngoài. Sau khi Hoàng Đế bị Xi Vưu đánh trọng thương, việc đầu tiên ngài giao phó cho ta, chính là bằng mọi giá giúp Trung Dung vượt ngục. Chúng ta đã hy sinh hơn một trăm cao thủ tuyệt đỉnh được huấn luyện từ nhỏ mới có thề giúp y trốn thoát. Sự việc về sau các ngươi đều đã biết, Trung Dung dấy binh tự lập làm vương. Có lẽ Thiếu Hạo cũng đoán được chúng ta âm thầm giúp đỡ Trung Dung, nên cực chẳng đã mới phải từ bỏ thế trung lập, kết minh với chúng ta, hứa sẽ ượn binh sĩ Thần tộc, cùng đối phó Xi Vưu.” Tượng Võng và Tri Mạt biết Hoàng Đế đa mưu túc trí nên tuy bất ngờ nhưng không đến nổi kinh ngạc, chỉ riêng Chuyên Húc rúng động nhìn ông nội, thì ra đi một nước cờ lại phải tính toán nhiều năm như vậy, con cờ kẻ khác vứt bỏ vẫn có thể trở thành tuyệt chiêu của mình. Hoàng Đế bình thản nói: “Hiện giờ nhìn bề ngoài Hiên Viên có vẻ rất gay go, nhưng thực ra cũng chưa có gì đáng ngại. Xi Vưu cương mãnh thật đấy, nhưng cương quá thì dễ gãy, mãnh quá lại dễ tổn thương. Tốc chiến tốc thắng thì ăn thua nhau ở chỗ quân đội dũng mãnh, nhưng kháng chiến trường kỳ phải trông vào quốc lực tài phú. Dù sao Thần Nông cũng đã mất nước, bách tính ly tán, tiền tài tập trung cả trong tay đám quý tộc, mà bọn này đa phần đều quy thuận chúng ta, chỉ còn lại mấy tên cứng đầu cứng cổ chủ trương tự lập, cũng chẳng chịu hợp tác với Xi Vưu, bởi vậy Xi Vưu không lấy đâu ra được nguồn tài lực lâu dài. Hắn am tường binh pháp, hắn cũng hiểu việc này nên luôn dùng thủ đoạn đẫm máu để đẩy nhanh tiến độ, trận nào trận nấy đều muốn đánh nhanh thắng nhanh là vì vậy.” Bấy giờ người trong đại điện mới phần nào hiểu được Xi Vưu, thì ra sự hung tàn hiếu sát của hắn là có nguyên nhân, đồng thời cũng là một cách dùng binh. Hoàng Đế lại nói: “Xi Vưu nhờ hung tàn mà đánh bại Hiên Viên, nhưng cũng khiến thiên hạ kinh hãi, quân đội và bách tính Hiên Viên đều căm hận hắn, chúng ta chỉ cần đánh thắng một trận, vãn hồi lại nhân tâm đang rối loạn, tức thì có thể xoay chuyển tình thế, biến thù hận thành sĩ khí. Chỉ một trận thắng thôi!” Mấy người trong đại điện vốn đã tuyệt vọng, nghe những lời này lại thấy hy vọng le lói, kích động dồn mắt về phía Hoàng Đế. Hoàng Đế nhìn Chuyên Húc, mỉm cười nói: “Số mệnh con người nói đến cùng, đều do tự mình quyết định cả. Lần trước ta thua, thật ra không phải thua Xi Vưu, mà là thua trước tính cách của mình. Lần này nếu Xi Vưu thua, cũng không phải là thua ta, mà là thua trước tính cách của hắn đó thôi.” Chuyên Húc thầm kinh sợ, hiểu rằng Hoàng Đế đang dạy bảo mình, cậu nhóc bèn nhẩm đi nhẩm lại, nghiền ngẫm lời dạy của ông. Tượng Võng ồm ồm cất tiếng: “Vừa rồi ông định ám chỉ viên đại tướng nào không sợ Xi Vưu?” Tri Mạt đáp: “Ứng Long, xin bệ hạ phái người mời Ứng Long về.” Ly Chu chen vào: “Đã phái rất nhiều người đi rồi, nhưng y đều từ chối.” Tri Mạt giải thích: “Các ông không phái đúng người, Yêu tộc trọng nghĩa khí, Ứng Long cũng vì thế mà rời bỏ Hiên Viên, muốn mời y quay lại, tự nhiên cũng phải bắt đầu từ đây, ông nên nhờ vương cơ đi mời Ứng Long về mới được.” Nói rồi, Tri Mạt thầm kinh ngạc, nói về thu phục nhân tâm, trong thiên hạ không ai hơn được Hoàng Đế, chuyện ông ta nhìn thấu được, lẽ nào Hoàng Đế lại nhìn không ra? Tại sao Hiên Viên liên tiếp thất bại, lũ lụt khắp nơi mà Hoàng Đế không vời Ứng Long? Bắt gặp ánh mắt hờ hững của Hoàng Đế, Tri Mạt lập tức cúi đầu, chỉ nghe Hoàng Đế nói: “Ứng Long đúng là mãnh tướng, nhưng thân phận của y không hợp làm chủ soái, không thể khiến ba quân cúi đầu tuân theo. Chúng ta nhất định phải tìm một người vừa danh chính ngôn thuận, lại vừa có thể khiến Ứng Long kính phục để làm chủ soái.” Tượng Võng nôn nóng hỏi: “Phải tìm ai đây? Xem ra chỉ mình Thanh Dương điện hạ là phù hợp, nhưng điện hạ đang bị trọng thương.” “Con gái ta, Hiên Viên vương cơ – Hiên Viên Bạt.” Ly Chu và Tượng Võng đưa mắt nhìn nhau, đều nghĩ tới Luy Tổ. Mấy người con của Luy Tổ tuy tính tình khác biệt, nhưng đều được hưởng thiên phú từ cha mẹ, rất giỏi cầm quân đánh trận, ngay đến Xương Ý tính tình hòa nhã cũng là tướng tài thiên bẩm. Hoàng Đế lại nói: “Con nhỏ A Hành có phần giống ta và A Luy thời trẻ, tiếc rằng chẳng có được hùng tâm tráng chí như cha mẹ khi xưa. Nếu chẳng phải lần này ta bất ngờ bị thương, phải nhờ vào y thuật của nó mới kéo dài mạng sống, e rằng nó đã rời khỏi Hiên Viên từ lâu rồi. Trong mắt nó, ta không phải người cha tốt, nếu ta hạ lênh cho nó cầm quân ra trận, nhất định nó sẽ cự tuyệt. Nếu bức bách quá, có lẽ nó sẽ trực tiếp chiếu cáo thiên hạ, đoạn tuyệt tình cha con với ta, như trước đây từng làm với Thiếu Hạo không chừng.” Nghĩ đến ân oán mấy ngàn năm giữa Luy Tổ và Đông Ngư thị, Ly Chu và Tượng Võng không nén được tiếng thở dài: “Vậy phải làm sao mới thuyết phục được vương cơ đây?” Hoàng Đế đưa mắt nhìn Tri Mạt: “Ông có thể thuyết phục nó.” Tri Mạt làm thinh không đáp. Hoàng Đế lại nói: “Không phải ta muốn ép buộc con gái mình, nhưng giữa ta và Xi Vưu, giữa Hiên Viên và Thần Nông chỉ có một bên được sống mà thôi. Cái họa vong quốc diệt tộc đã rành rành trước mắt, chúng ta còn đường nào để đi đây? Tri Mạt, lẽ nào ngươi quên nỗi đau như cắt mình từng trải qua rồi ư? Lẽ nào ngươi muốn con dân Hiên Viên cũng phải chịu đọa đầy đau đớn như vậy ư? Lẽ nào ngươi quên chúng ta vì cái gì mà lập nên Hiên Viên quốc rồi ư? Tri Mạt ngẩng phắt lên, chằm chằm nhìn thẳng vào mắt Hoàng Đế, đêu bên đều nhận ra đối phương đã đi guốc vào bụng mình. Hoàng Đế hiểu Tri Mạt đã phát giác ra mưu kế của mình, Tri Mạt cũng hiểu Hoàng Đế đã nhận ra ông ta phát giác. Nhưng Hoàng Đế chẳng hề lo lắng, bởi ông đã dùng Tri Mạt đến đường cùng, thuật chế ngự lòng người của Hoàng Đế, quả là vô địch thiên hạ. Một hồi lâu, Tri Mạt quỳ sụp xuống, “Thần sẽ đi thuyết phục vương cơ.” Một phong thư lạ hoắc được đưa lên Triêu Vân phong, nói là gửi cho vương cơ, nhưng trên thẻ trúc lại chẳng ghi gì ngoài một dòng địa chỉ, quay sang hỏi A Hành: “Vương cơ có bạn bè gì ở đó chăng?” A Hành lắc đầu: “Không có.” Chu Du nghe nói liền quăng tấm thẻ trúc lên án thư, nào ngờ bên trong lại rơi ra một mảnh vải rách: “Ồ, cái gì đây? Hình như là thư tuyệt mệnh dùng máu viết thành đó.” A Hành vội cầm lên xem. Vết máu đã ngả nâu, nhưng sức mạnh sụt sôi giữa từng nét chữ vẫn phả vào rát mặt. Bao nhiêu năm đã trôi qua, nhưng cảnh tượng bi tráng ngày ấy vẫn rõ mồn một trong trí nàng như mới hôm qua. Một trăm chiến sĩ Hiên Viên tộc xé quần áo trên người lấy vải, dùng máu mình viết thư vĩnh biệt gửi người thân, rồi xông thẳng vào Tuân Sơn, sau cùng, kẻ bị giết, người chôn thân trong biển lửa. Chính bọn họ đã dùng tuổi xuân của mình đổi lấy tính mạng cho Xương Phó và bốn ngàn dũng sĩ Nhược Thủy tộc. A Hành định thần xem lại, thấy phong thư này ký tên Nhạc Uyên. Nàng còn nhớ gã thiếu niên đó, kẻ đầu tiên đứng ra khẳng khái tâu trình, ổn định lòng quân; kẻ đầu tiên xông vào Tuân Sơn, bình thản đón nhận cái chết; sau cùng còn can đảm buông tay không kháng cự, dốc toàn bộ linh lực hóa thành tín hiệu cảnh báo với nàng, chỉ rõ phương hướng của Chúc Dung, bằng không, e rằng cả nàng và Xi Vưu cũng không tránh khỏi cái chết. Một thiếu niên như thế lại hy sinh âm thầm lặng lẽ nhường kia, vĩnh viễn chẳng thể được người đời ghi nhớ và ca tụng như Chúc Dung, nhưng chính những thiếu niên dũng mãnh vô danh ấy, mới chèo chống được quốc gia này. A Hành vội gọi A Tệ hạ sơn, theo địa chỉ ghi trên thư mà tìm đến. Quân đội của Xi Vưu đã tiến đến Hắc thủy. Để tránh chiến hỏa, dân chúng đua nhau đổ dồn về phía Tây, ngoài Hiên Viên thành đầy những dân chạy loạn, họ không có tiền ở khách điếm, cũng không có bạn bè người thân để nương nhờ, đành phải sống cảnh màn trời chiếu đất. Ban ngày trời ấm áp, kể cũng không tới nỗi nào, nhưng ban đêm trời lạnh thấu xương, những người này ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, lại lặn lội đường xa tới đây, đa phần đều không gắn gượng nổi mà bỏ mạng. Không có nghĩa địa, xác họ được vùi ngay tại chỗ. Đám nhỏ còn chưa biết thế nào, đau khổ, vẫn ôm bụng đói nô đùa ầm ĩ, chạy nhãy giỡn hớt giữa những nấm mồ, nhưng tiếng cười rộn rã chẳng bợn ưu sầu của chúng chỉ càng làm nổi bật cái gọi là nhân thế vô tình. A Hành trông thấy một bé gài cao xấp xỉ Tiểu Yêu đang thẫn thờ đứng trước một nấm mồ, bèn tiến lại. Cô bé ngẩng lên trông thấy A Hành, lẩm bẩm nói: “Đói quá.” “Cha cháu đâu?” “Đi đánh trận rồi.” “Thế còn mẹ?” Bé trỏ nắm đất trước mặt, ngây thơ đáp: “Mẹ đang ngủ bên dưới.” A Hành xót xa ẵm đứa nhỏ lên, nhìn khắp sườn đồi đều là những kẻ rách rưới bần hàn, nàng chợt thấy choáng váng không sao chịu nổi, lẽ nào đây là Hiên Viên mỹ lệ nơi nàng sinh ra và lớn lên ư? Tri Mạt bước lại gần, đưa cho bé gái một tấm bánh. “Cám ơn ông.” Bé cẩn thận bẻ tấm bánh thành hai phần, nhét một nửa vào ngực áo, còn mình chỉ ăn một nửa. Tri Mạt thắc mắc: “Sao cháu chỉ ăn một nửa?” “Một nửa đề dành ẹ cháu, mẹ cũng đói lắm.” Tri Mạt cười gượng: “Ngoan quá, cháu cứ ăn đi, khi nào mẹ cháu tỉnh dậy, ông lại mua cho hai mẹ con cái khác.” “Thật không?” “Thật mà.” Bấy giờ cô bé mới hớn hở lấy nửa tấm bánh kia ra ăn ngấu nghiến. A Hành đã làm mẹ, trông thấy cô bé như vậy, lòng lại càng đau xót khôn tả. Trên ngọn núi này còn bao nhiêu đứa nhỏ thế này? Trên toàn Hiên Viên còn bao nhiêu đứa nhỏ thế này nữa? Nhìn đám người trên sườn núi, vẻ mặt Tri Mạt đầy đau xót: “Vương cơ chưa từng trải qua cảnh nghèo hèn loạn lạc, nhưng thần từ nhỏ đã lênh đênh lưu lạc, nếm đủ đắng cay, mới hiểu thế nào là: thà làm chó thời bình, hơn làm người thời loạn.”
|
A Hành nhìn quanh, “Dù khi trước chưa hiểu, thì giờ cũng hiểu rồi.” “Thần dùng bức thư kia dẫn dụ vương cơ tới đây, vốn đã chuẩn bị rất nhiều lời để thuyết phục, nhưng giờ lại chẳng thốt nổi ra miệng. Xưa nay thần vẫn không ủng hộ bệ hạ tấn công Thần Nông, hay nói khác đi là không ủng hộ khát vọng thống nhất Trung Nguyên của bệ hạ, bởi vậy trước trận Phản Tuyền lần thứ nhất, thần đã rời khỏi Hiên Viên thành, ẩn cư tại Đồng Nhĩ sơn. Nhưng sau trận Phản Tuyền lần thứ hai, Hoàng Đế lâm nguy, thần lại quay về Hiên Viên thành, giúp bệ hạ chèo chống Hiên Viên, không phải vì nể tình cũ giữa đôi bên, mà vì những người dân đang sống trên mảnh đất Hiên Viên này. Vương hậu đã dốc hết tâm sức, giúp bệ hạ lập nên Hiên Viên quốc này, không phải chỉ vỉ bệ hạ, mà bởi vương hậu cũng giống như thần, đều muốn xây dựng một nơi mà dân đen, dân lưu lạc và Yêu tộc bị kỳ thị hắt hủi đều có thể sống bình đẳng cùng nhau. Dưới sự mỗ lực của mọi người, cuối cùng Hiên Viên quốc đã thật sự trở thành một nơi như thế. Có lẽ vương hậu hối hận vì đã yêu bệ hạ, nhưng thần tin rằng, xưa nay bà chưa hề hối hận vì tất cả những gì đã bỏ ra cho Hiên Viên quốc.” A Hành rút bức huyết thư trong ngực áo ra: “Sao bá bá lại có thứ này? Năm đó, con vốn định đích thân đem những bức thư này tới tay người nhà bọn họ, nhưng Tứ tẩu đột ngột qua đời, rồi mẫu hậu lại ngã bệnh, con đành phải phái thị vệ đi đưa giùm.” Tri Mạt cười bình thản, nhưng nét mặt lại thê lương khôn xiết: “Đó là thư con trai thần gửi lại, lúc đó thần đang ẩn cư tại Đồng Nhĩ sơn, nên địa chỉ nó ghi cũng là Đồng Nhĩ sơn.” A Hành sững người, mắt long lanh nước: “Bá bá.” Tri Mạt vỗ vai nàng, “A Hành, khắp Hiên Viên quốc đâu đâu cũng có những chiến sĩ giống như con trai ta. Có lẽ cha của đứa nhỏ kia cũng vậy, có điều y còn bất hạnh hơn, chẳng có cơ hội để lại cho người thân một phong thư vĩnh biệt nữa. Ít ra, ta còn biết được con trai mình chết tại Tuân sơn, có thể đi Tuân sơn bái tế, nhưng đứa nhỏ này ngay cả cha mình hy sinh ở chốn nào cũng không biết. Nếu cuộc chiến này cứ thế kéo dài, sẽ còn bao nhiêu người cha phải hy sinh? Còn bao nhiêu người mẹ phải ôm hận chết đi? Còn bao nhiêu đứa nhỏ phải chết đói? Con đã là mẹ, hẳn cũng hiểu được nỗi lòng người mẹ, không thể bảo vệ cho con mình, không thể trông thấy con mình lớn lên bình an, đồi với người làm mẹ, là điều tàn khốc đến độ nào.” “Phải làm sao mới có thể chấm dứt chiến tranh?” “Đã đi đến bước này, chỉ còn cách lấy chiến tranh để chấm dứt chiến tranh thôi. Bá bá biết con chất chứa rất nhiều nỗi khổ trong lòng, càng biết con không muốn cầm quân đánh trận, nhưng ta tin nếu vương hậu còn tại thế, chứng kiến thảm cảnh hiện giờ, cũng sẽ nói rằng: con là vương cơ của Hiên Viên, những đứa trẻ này, những người mẹ này đều là con dân của con, con có trách nhiệm phải bảo vệ họ.” A Hành nhìn cô bé trong lòng mình, lặng thinh không đáp. Trước mắt nàng lại hiện lên dáng hình cùng gương mặt khẳng khái quyết tử của Nhạc Uyên, rồi bóng dáng ấy dần dần tan nhòa ra, hòa lẫn với bóng dáng một nam tử không rõ mặt mày, đó là cha của cô bé, y đang nhìn nàng đầy cầu khẩn. Tri Mạt giơ tay ẵm lấy cô bé đang thiêm thiếp trong lòng A Hành: “Chuyện này cứ để thần lo, vương cơ nên đi làm những việc mình không thể không làm đi.” A Hành lặng lẽ nhìn đám người bần hàn khốn khổ nhan nhãn khắp sườn núi, ánh mắt toát lên vẻ bi thương khôn tả xen lẫn tuyệt vọng cực cùng. Tri Mạt cũng chẳng giục giã nàng. Một hồi lâu sau, A Hành rảo bước chảy thẳng xuống núi, mới nghe tiếng Tri Mạt gọi với đằng sau: “Ứng Long đang ở Hà thủy.” A Hành bước vào Triêu Vân điện đúng lúc Hoàng Đế đang dạy Chuyên Húc học, bài hịch chính là một đoạn hịch ông viết gửi Xi Vưu cũng như toàn thiên hạ. Mặt trời đang chính ngọ mà không phơi phóng, chính là để lỡ thời cơ, cầm dao mà không cắt, chính là để lỡ thời điểm thuận lợi, cầm búa mà không công phạt, kẻ xấu sẽ tràn đến. Mạch nước nhỏ mà không ngăn chặn, sẽ hội tụ thành sông suối, đốm lửa nhỏ mà không dập, sẽ bùng lên thành ngọn lửa ngút trời, cái mầm mới nhú mà không trừ, ngày sau sẽ trở thành cây đại thụ. Chuyên Húc hỏi: “Vậy vẫn phải động võ ư? Hôm qua ông dạy cháu rằng: lấy đức thu phục thiên hạ mới là thượng sách, không nên tùy tiện động võ kia mà?” Hoàng Đế đưa mắt nhìn A Hành, đáp: “Có lúc chiến tranh đã nổ ra thì chẳng còn đúng sai phải trái gì nữa, cách duy nhất để chấm dứt chính là dùng vũ lực để kiềm chế vũ lực, dùng chiến tranh để chấm dứt chiến tranh.” A Hành bước đến trước mặt Hoàng Đế, “Phụ vương ủy thác cho Tri Mạt bá bá tới thuyết phục con ư?” “Phải.” “Con bằng lòng cầm quân ra trận không phải vì phụ vương, phụ vương có ngày hôm nay đều là tự làm tự chịu! Nếu Hiên Viên chỉ là của riêng phụ vương thì dù nó có bị hủy diệt cũng chẳng liên quan gì đến con hết. Tiếc rằng Hiên Viên quốc không chỉ thuộc về một mình phụ vương, mà còn là tâm huyết cả đời của mẹ, cùng những người như Tri Mạt bá bá, còn là của vô số chiến sĩ Hiên Viên đã hy sinh, hơn nữa, còn là của toàn thể trăm họ Hiên Viên.” Hoàng Đế đáp: “Ta hiểu.” “Khi Tứ ca bị vây ở Tuân sơn, con van nài Thiếu Hạo ượn binh, ngỡ rằng y sẽ nể mặt Đại ca mà chấp thuận, nào ngờ y vẫn cự tuyệt. Sau đó… hẳn phụ vương cũng biết rồi, Xi Vưu đã đến, tuy hắn có lòng muốn giúp con, nhưng chỉ có thể cho con một nửa sức mạnh của hắn mà thôi. Cuối cùng quân sĩ Hiên Viên tộc để cứu những huynh đệ khác đã dốc hết tâm sức, chẳng nề hy sinh bản thân. Lúc bấy giờ con mới hiểu được ý nghĩa thật sự của huyết mạch thân tộc, của gia quốc tử dân: chính là dù ta không biết ngươi, nhưng ta nguyện chết để bảo hộ cho ngươi! Mới đây, con vừa biết được Nhạc Uyên, con trai duy nhất của Tri Mạt bá bá cũng hy sinh ở Tuân sơn. Khắp Hiên Viên quốc, đâu đâu cũng có những binh sĩ như Nhạc Uyên vậy, nếu Hiên Viên quốc bị diệt, người nhà của họ sẽ phải lầm than khổ sở, người già không ai phụng dưỡng, trẻ nhỏ chẳng chốn nương nhờ. Trước đây, con không hiểu được tại sao Tứ ca lại cam tâm chịu chết, chẳng phải Tứ ca rất yêu Tứ tẩu đấy sao? Lẽ nào huynh ấy nhẫn tâm bỏ lại Chuyên Húc vẫn còn trứng nước? Nhưng hiện giờ con đã hiểu tâm trạng Tứ ca rồi, Nhạc Uyên cùng các huynh đệ bọn họ không phụ con, con cũng không thể phụ lòng bọn họ!” Nói đoạn, nàng quỳ xuống trước mặt Hoàng Đế, “Phụ vương, con sẽ bảo hộ Hiên Viên cho Người, đổi lại, Người có thể bảo vệ Chuyên Húc không?” Hoàng Đế nghiêm trang đáp: “Ta xin thề trước giang sơn xã tắc, không để bất cứ ai làm hại Chuyên Húc, ta sẽ dốc lòng dạy dỗ nó, những gì con bảo vệ, ngày sau đều thuộc về Chuyên Húc tất cả.” Được lời này của Hoàng Đế, A Hành chẳng còn gì vướng bận, nàng kính cẩn dập đầu ba cái rồi dắt Chuyên Húc đi thẳng ra ngoài. Tiểu Yêu đang chán nản ngồi đánh đu một mình, trông thấy mẹ và Chuyên Húc tiến lại, liền sáng mắt lên, nhảy ngay xuống chạy về phía hai người. A Hành hai tay dắt hai đứa nhỏ, “Chúng ta đi thăm bà và bác đi.” Dọc đường đi, mặc cho Tiểu Yêu ríu ra ríu rít, Chuyên Húc chỉ cắn môi làm thinh. Đến trước mộ, Chuyên Húc và Tiểu Yêu đều quỳ xuống dập đầu hành lễ. A Hành ôm lấy Chuyên Húc, dặn dò: “Bà không muốn chôn ở Hiên Viên, trước lúc chết có trăn trối, muốn được đưa về chôn ở Thanh Long Chi Thủ, quê cũ của bà. Nhưng bà là vương hậu, ông nội con không chấp thuận đưa về an táng ở quê nhà. Có lẽ cô cô cũng không kịp thực hiện tâm nguyện này của bà, con giúp cô cô được không? Sau này, nếu con có thể làm chủ, nhớ đưa bà nội về chôn tại Thanh Long Chi Thủ, bất kể kẻ khác ngăn cản thế nào, cũng không được hợp táng ông nội và bà nội[1].” [1] Lăng mộ của Hoàng Đế nằm ở vùng Trung Nguyên xưa, căn cứ theo ghi chép “Luy Tổ thánh địa bỉ” thời đường, Luy Tổ được chôn ở Thanh Long Chi Thủ, nằm trong địa giới nước Thục xưa, theo lời trăn trối trước lúc lâm chung, mộ phần của Hoàng Đế và vương hậu cách nhau ngàn dặm. Sau này, cháu là Chuyên Húc sửa lại hành cung của Hoàng Đế thành Luy Hiên cung, ngàn đời cúng tế, để Luy Tổ được hưởng mọi thứ tôn quý nhất. Chuyên Húc nghiêm trang gật đầu: “Vâng, con nhất định sẽ thực hiện tâm nguyện của bà nội, quyết không để ông nội và bà nội hợp táng.” A Hành lại ôm Tiểu Yêu vào lòng: “Tiểu Yêu, mai mẹ sẽ dẫn con đến một chỗ này.” “Đến đâu cơ?” “Nơi mẹ từng sống. Ở đó có rất nhiều đào, đẹp lắm, bốn mùa đều nở hoa rực rỡ.” “Ca ca đi cùng chứ?” “Ca ca có việc của ca ca không thể đi cùng con được.” “Vậy mình đi bao lâu hả mẹ?” A Hành không đáp, chỉ mỉm cười nói: “Các con đi chơi đi, mẹ muốn ngồi lại với bà và bác một lát.” Tiểu Yêu làm mặt quỷ với Chuyên Húc rồi tung tăng chạy đi hái hoa. Chuyên Húc vẫn ngồi yên tại chỗ, “Cô cô phải cầm quân ra trận thật ư?” “Ừm.” “Nguy hiểm lắm phải không ạ?” “Ta không biết nữa.” “Không đi không được ư?” Thấy A Hành lắc đầu, Chuyên Húc rớm rớm nước mắt, “Sao cô cô phải đưa Tiểu Yêu đi? Không để muội muội ở lại đây được ư? Con sẽ chăm sóc uội ấy mà.” A Hành đặt hai tay lên vai Chuyên Húc: “Ta biết con là một vị ca ca tốt! Nhưng con còn nhỏ, nhiệm vụ bây giờ của con là học tập, ông nội đã thề trước giang sơn xã tắc rằng sẽ chăm sóc cho con, ta không phải lo cho an nguy của con nữa. Thân thế Tiểu Yêu khác với con, sau này có thể sẽ có rất nhiều người muốn giết nó, e rằng còn liên lụy cả đến con, nên ta phải đưa nó đến một nơi tuyệt đối an toàn.” “Con không sợ liên lụy đâu.” A Hành cười, dỗ dành Chuyên Húc: “Nhưng hiện giờ ngay cả năng lực bảo vệ mình con cũng chưa có, làm sao bảo vệ Tiểu Yêu cho được. Chỉ can đảm thôi thì không đủ đâu con.” Chuyên Húc siết chặt nắm tay, lồng ngực nhỏ bé phập phồng mãnh liệt, hồi lâu mới nghẹn giọng hỏi: “Vậy bao giờ muội muội có thể trở về?” “Chắc là nhanh thôi.” A Hành trầm ngâm giây lát rồi gượng cười: “Khi nào con có đủ năng lực bảo vệ nó.” Chuyên Húc cúi đầu, buồn buồn, “Con hiểu rồi.” Dứt lời, cậu nhóc nhanh chóng quẹt tay lau khô nước mắt, quay ngoắt người chạy đi. Tiểu Yêu đứng giữa đồng hoa vẫy tay với Chuyên Húc, “Ca ca, ở đây này.” Chuyên Húc chạy đến bên cô bé: “Muội thích hái hoa gì? Để ta hái cho.” Tiểu Yêu nghiêng đầu, ngạc nhiên nhìn cậu nhóc. Xưa nay, Chuyên Húc rất khắc khổ, không mấy khi chịu chơi cùng bé, vậy mà hôm nay lại đòi hái hoa cho bé là sao? Chuyên Húc bực dọc hỏi: “Rốt cuộc có thích hái hay không nào?” “Có, có!” Tiểu Yêu nắm lấy tay Chuyên Húc, “Muội thích loại hoa hồng thế này này, muội muốn tết một miện hoa.” Chuyên Húc hái được rất nhiều hoa, tết cho Tiểu Yêu một chiếc miện hoa, còn giúp cô bé đội lên nữa. Tiểu Yêu cười hì hì hỏi, “Huynh không nỡ để muội đi chứ gì?” Chuyên Húc lườm cô bé: “Ta chỉ mong muội đi sớm cho khuất mắt!” Tiểu Yêu gỡ món trang sức lông hồ ly vẫn đeo ở lưng ra, đây là đuôi hồ ly do tên xấu xa Xi Vưu chặt, mẹ thấy bé cả ngày cứ cầm vung vẩy, bèn tìm một miếng ngọc hoàn, làm thành trang sức cho bé đeo. “Cái này tặng huynh đấy.” Chuyên Húc lặng lẽ nhận lấy, giơ tay vuốt vuốt lớp lông hồ ly mềm mại. Cậu biết Tiểu Yêu rất thích vật này, nên định trả lại cho bé. Tiểu Yêu nghĩ đi nghĩ lại, vẫn tiếc rẻ không nỡ cho, cuối cùng đành dặn: “Đợi khi nào muội về, huynh phải trả lại uội nhé. Muội chỉ cho huynh mượn chơi thôi, huynh nhớ không được làm hỏng đâu đấy.” Chuyên Húc phì cười, cũng chẳng định trả lại cho Tiểu Yêu nữa, bèn đeo luôn vào thắt lưng, chạy lại tìm cô cô. Tiểu Yêu chạy theo sau, luôn miệng liếng thoắng: “Huynh đừng làm hỏng, đừng làm mất đấy nhé, phụ vương muội nói đây là cái đuôi Cửu vĩ hồ, hiếm lắm đấy.” Chuyên Húc đang chạy chợt khựng lại, Tiểu Yêu liền hỏi: “Sao huynh lại dừng?” Đoạn cô bé nhìn theo ánh mắt Chuyên Húc, thấy mẹ mình đang ngồi lặng trước mấy nấm mộ. Trên mộ nở đầy hoa dại đủ màu, đẹp tươi rực rỡ, nhưng lại toát lên vẻ thê lương vô hạn. Trong khung cảnh ấy, bóng dáng mẹ bé càng đơn độc xót xa. Tiểu Yêu bỗng thấy lòng mình nghẹn ứ những xúc cảm chẳng thể gọi thành tên. Bé toan gọi Chuyên Húc, nhưng chạm phải ánh mắt cậu, cảm giác nghẹn ứ trong lòng ngực bé càng thêm mãnh liệt, không dám cất tiếng nói nữa, tựa hồ chỉ cần lên tiếng, nước mắt sẽ lập tức tràn ra. Bé đành khẽ khàng nắm lấy tay áo Chuyên Húc. Hồi lâu Chuyên Húc cắn môi nói: “Không có gì, chúng ta qua đó đi.” Dứt lời cậu nhóc kéo Tiểu Yêu chạy về phía cô cô, Tiểu Yêu đặt miện hoa lên đầu A Hành, thỏ thẻ: “Cái này con và ca ca cùng làm, tặng ẹ đấy.” A Hành mỉm cười, vòng tay ôm cả hai vào lòng. Quay về Triêu Vân điện, sau khi thu xếp xong cho Chuyên Húc và Tiểu Yêu, A Hành liền tới gặp Vân Tang. Luy Tổ dùng uy quyền của vương hậu nghiêm cấm thế lực của Hoàng Đế đặt chân vào Triêu Vân điện, nên từ khi Vân Tang gả tới Hiên Viên, cũng được Luy Tổ coi như con gái trong nhà, đối đãi không khác gì A Hành. Nhưng sau khi Luy Tổ qua đời, không còn sự bảo hộ của bà, Hoàng Đế lại thảm bại tại Phản Tuyền, Hiên Viên tộc đang từ vị thế của người chiến thắng vẻ vang thoắt đã đổi sang thành kẻ chiến bại, sắp lâm vào cảnh nước mất nhà tan, thái độ đối với Vân Tang cũng chuyển từ thương hại thành đề phòng. Hiện giờ, mỗi lúc ra vào Vân Tang đều bị thị nữ giám thị, cả ngày nàng chỉ nhốt mình trong đại điện, gảy đàn, nuôi tằm, dệt lụa, vẽ tranh. A Hành đến tìm đúng lúc Vân tang đang đùa giỡn với bầy bướm, từng đôi bướm rực rỡ đủ màu phấp phới bay giữa rừng dâu, lượn vòng quanh thiếu nữ áo trắng như mây, tựa hồ trăm hoa tụ lại vờn múa quanh nàng, vô cùng mỹ lệ. A Hành lặng ngắm hồi lâu mới lên tiếng: “Muội chẳng học được thuật điều khiển côn trùng của mẫu hậu, nhưng tỷ lại học được toàn bộ thế này, nhất định mẫu hậu sẽ vui lắm đó.” Vân Tang chạnh nhớ thời thiếu nữ, khi còn sống trên Triêu Vân phong, bấy giờ A Hành còn là đứa bé lẫm chẫm tập đi, cả ngày luôn miệng bập bẹ gọi tỷ tỷ tỷ tỷ, nàng cũng hết lòng thương yêu A Hành như em ruột, có điều bây giờ chẳng thể nào trở lại như năm xưa được nữa. Vân Tang không nén được tiếng thở dài, “Hai ta vốn là đôi tỷ muội thân thiết, tiếc rằng muội lại là vương cơ Hiên Viên, ta lại là vương cơ Thần Nông.” “Có một việc muội vẫn chưa cho tỷ hay. Thực ra tỷ không thể trở thành Đại tẩu của muội được, bởi Đại ca muội đã chết trong trận Phản Tuyền lần thứ nhất.” Vân Tang kinh ngạc trừng mắt nhìn A Hành, như không dám tin. Trái lại, A Hành thở vào nhẹ nhõm, như vừa trút được gánh nặng, “Cuối cùng muội cũng nói ra được bí mật bao năm nay chôn giấu trong lòng rồi.” Một lúc lâu thật lâu, Vân Tang mới chấp nhận được sự thật này: “Mẫu hậu có biết không?” “Biết. Trước lúc lâm chung, mẫu hậu còn dặn đi dặn lại, bảo muội lựa lúc thích hợp nói cho tỷ biết. Mẫu hậu nói tỷ mãi mãi là con gái của người, người và Viêm Đế đều mong tỷ được hạnh phúc.” Vân Tang thẫn thờ nhìn từng đôi bướm bay qua bay lại, trầm ngâm không nói. A Hành lại nói: “Đại ca muội đã không còn, tỷ không thể nào trở thành vương hậu tương lai của Hiên Viên, tiến tới can dự vào triều chính được. Chi bằng tỷ đi đi, đừng gắng gượng chịu khổ ở lại Hiên Viên nữa, nhân lúc còn có thể chạy được, tỷ hãy cao chạy xa bay, càng xa càng tốt.” Nước mắt Vân Tang lăn dài trên má, “Muội không hiểu đâu, có những chuyện đã định sẵn từ khi chúng ta sinh ra rồi, dù có chạy tới đâu, cũng không thể giũ bỏ được dòng máu trong người mình.” Nỗi tê tái trong lòng A Hành từ từ dâng lên từng chút một, dần dà lan khắp toàn thân, giá buốt đến tận xương tủy. Một hồi lâu, nàng nới lên tiếng: “Muội hiểu lắm chứ, nên muội mới nhận lời phụ vương cầm quân ra trận.” Vân Tang chợt quay phắt lại trừng trừng nhìn A Hành, ánh mắt đầy kinh hoàng, phẫn nộ và khinh miệt, sau cùng, tất cả đều biến thành bi ai khôn xiết. A Hành né tránh ánh mắt Vân Tang, đứng dậy: “Chúng ta từ biệt ở đây, tỷ nhớ bảo trọng.” “Đợi đã.” Vân Tang đưa mắt nhìn bầy bướm bay qua bay lại từng đôi từng đôi, song song chắp cánh, thong thả nói: “Ta luôn bị giám thị, khi trước còn có thể nhờ Hậu Thổ truyền đạt tin tức, nhưng sau khi phụ vương muội bị thương, liền phái Hậu Thổ tới tận Thụ Sa quốc, mấy tháng nay rồi ta chắng có tin gì về gã cả. Ta có chút chuyện muốn nói với Xi Vưu, muội đưa giùm ta một phong thư cho hắn được không?” A Hành nhẹ nhàng đáp: “Tỷ vừa nói rồi đấy thôi, muội là Hiên Viên vương cơ, tỷ lại là Thần Nông vương cơ.” Vân Tang cười buồn, “Muội xem qua nội dung đi, rồi hẵng quyết định.” Nói rồi nàng rút ra một mảnh khăn lụa, chấm phấn trên cánh bướm viết: “Nếu hắn làm loạn, cứ…” Bàn tay nàng run bắn lên, hồi lâu không cách nào viết tiếp. A Hành ngạc nhiên nhìn Vân Tang, một lúc thật lâu sau, Vân Tang mới dụng lực mắm môi viết tiếp: “Cứ giết hắn đi!” chữ “giết” trong rối loạn vô cùng. Vân Tang đưa mảnh khăn lụa cho A Hành, “Có tám chữ thôi, muội xem có thể đưa giùm không?” Ta không hề tiết lộ cơ mật gì của Hiên Viên, chỉ là chút chuyện trong nội bộ Thần Nông tộc, có một viên tướng có chút vướng mắc với ta, ta sợ Xi Vưu nể tình ta mà không thể hạ sát thủ.” A Hành thẳng thắn: “Được, muội sẽ kêu Chu Du đưa thư này đến tận tay Xi Vưu.” Chưa nói dứt câu, A Hành đã thấy Chu Du từ trong rừng dâu liêu xiêu bước ra, chân đi loạng choạng, tựa hồ sắp ngã tới nơi, nhưng cặp mắt vẫn trừng trừng nhìn xoáy vào nàng. A Hành than thầm trong bụng, nàng cứ nghĩ có bầy bướm của Vân Tang bảo hộ, chẳng còn sợ bất cứ kẻ nào rình mò nghe lén, ngờ đâu lại quên khuấy mấy trăm năm trước, Chu Du từng vâng lệnh Đại ca bày thảo mộc trận trên Triêu Vân phong để bảo vệ ẫu hậu. “Đại ca mà vương cơ nói là ai? Nếu Thanh Dương điện hạ biết vương cơ nhận xằng Đại ca, nhất định sẽ nổi giận. Chừng nào về, điện hạ quyết không bỏ qua cho vương cơ đâu.” A Hành nghẹn ứ trong cổ họng, hồi lâu không thốt nổi nên lời, Vân Tang định đáp thay nhưng A Hành đã giơ tay ngăn lại, tỏ ý để mình chính miệng nói ra. Nàng nhìn Chu Du, chậm rãi nói: “Thanh Dương đại ca ta, đã chết rồi.” Chu Du đờ người ra, một hồi lâu sau mới lẩm bẩm như tự nói một mình: “Thanh Dương điện hạ chết rồi ư? Điện hả bảo nô tỳ trông nom Triêu Vân điện, chờ ngày quay về kia mà, nô tỳ vẫn đang đợi, sao điện hạ có thể không về được? Không, không phải, vương cơ nói dối!” Chu Du vừa lẩm nhẩm nói, vừa run bắn lên, cả người đổ sập xuống, A Hành và Vân Tang phải đỡ lấy ả, “Chu Du, Chu Du…” “Nô tỳ làm sao thế này? Sao đột nhiên lại mất hết khí lực, không đứng vững được?” Chu Du đặt tay lên ngực, “Sao lồng ngực đau như cắt thế này? Bị thương rồi ư? Nhưng nô tỳ đâu có giao đấu với ai…” A Hành đặt tay lên cổ tay Chu Du, lòng chợt rung động, sững sờ nhìn ả. Vân Tang thấy Chu Du đau đến nỗi run lên bần bật, còn A Hành cứ sững ra hồi lâu chẳng nói năng gì, cuống quýt giục: “Rốt cuộc Chu Du làm sao thế? Sinh bệnh phải không?” “Chu Du không sinh bệnh, cũng không bị thương, chỉ là…” A Hành nghẹn giọng ánh mắt đầy xót xa. “Chỉ là sao?” Vân Tang gặng. “Chỉ là đau lòng… thương tâm mà thôi.” “Đau lòng ư? Thương tâm ư? Nô tỳ… Nô tỳ chỉ là khúc gỗ, làm sao có thể đau lòng, thương tâm được? Thiếu Hạo và Điện hạ đều nói nô tỳ không biết thế nào là thương tâm, có lần nô tỳ tò mò bèn năn nỉ điện hạ dùng pháp thuật để nô tỳ cảm nhận được thương tâm, nhưng điện hạ nói mình không thể. Điện hạ còn bảo không biết thương tâm là tốt, cả đời khỏi phải thương tâm… các người đều nhầm cả rồi!” Chu Du đẩy A Hành và Vân Tang ra, lảo đảo đứng dậy, giật lấy mảnh lụa của Vân Tang từ tay A Hành, “Muốn nô tỳ đưa thứ này đến cho Xi Vưu hả? Nô tỳ đi ngay đây.” Ả vừa nói vừa liêu xiêu quay đi. “Chu Du, đại ca không thể quay về được nữa đâu, từ nay ngươi được tự do, nếu ngươi muốn rời khỏi Triêu Vân phong…” “Suỵt!” Chu Du quay phắt lại, đặt ngón trỏ trên môi, ra hiệu cho A Hành im lặng, “Nô tỳ không tin vương cơ đâu, Thanh Dương điện hạ nhất định sẽ về! Tuy vương cơ là muội muội của điện hạ, nhưng vương cơ đâu hiểu được điện hạ. Vương cơ có biết, lúc Vân Trạch điện hạ chết đi, Đại điện hạ đã phẫn nộ thế náo không? Vương cơ có biết, lúc vương cơ thành hôn, điện hạ đã đau khổ thế nào không? Vương cơ có biết, khi vương hậu tức giận thành bệnh, điện hạ đã tự trách ra sao không?” Thấy A Hành nghẹn lời, Chu Du càng nói càng hậm hực: “Vương cơ chẳng biết gì hết! Vương cơ chẳng hiểu gì về Thanh Dương điện hả cả, dựa vào cái gì mà dám nói điện hạ sẽ không quay về? Mấy ngàn năm nay, nô tì đã bầu bạn bên điện hạ. Từ khi còn là một khúc gỗ nằm trong ngực áo điện hạ, nô tỳ đã theo người đi khắp trời Nam đất Bắc, về sau tu thành hình người, lại luôn luôn kề cận bên ngài, tất cả hành động cử chỉ, mừng giận buồn vui của điện hạ nô tỳ đều hiểu. Xưa nay Thanh Dương điện hạ đã nói là làm, chưa từng thất tín, chỉ có kẻ khác không phải với điện hạ, chứ điện hạ chưa từng có lỗi với ai, điện hạ bảo nô tỳ đợi thì nhất định sẽ về.” Nói rồi, Chu Du giận dữ ngoảy đầu đi thẳng. “Chu Du!” A Hành gọi với theo. “Gì cơ?” Chu Du hằm hằm ngoảnh lại, sắc mặt trắng bệch, đôi mày nhíu chặt, hiển nhiên vẫn chưa nguôi đau đớn trong lòng. A Hành trầm mặc một hồi, khẽ lắc đầu, “Không có gì, Ngươi nhớ chăm lo cho Chuyên Húc, chừng nào đại ca về, nhất định sẽ khen ngươi!” Chu Du nhoẻn cười tươi tắn, “Nô tỳ biết rồi!” Nói đoạn gật đầu lia lịa, loạng choạng đi thẳng. Vân Tang đăm đắm trông theo bóng lưng Chu Du, cảm thán: “Nha đầu ngốc, thì ra cô ấy đối với Thanh Dương… Chúng ta không nhận ra đã đành, ngay bản thân cô ấy cũng không ý thức được. Muội nói xem, hiện giờ cô ấy có hiểu được tình cảm của mình dành cho Đại ca muội không?” “Đại ca đã không còn, hiểu hay không hiểu có ý nghĩa gì nữa đâu.” Nói là nói vậy, nhưng A Hành vẫn lã chã hai hàng nước mắt. Có lẽ, Đại ca đã hiểu cả, nhưng lại mặc cho Chu Du mơ mơ hồ hồ, cũng bởi trách nhiệm trên vai Đại ca quá nặng nề. Có lẽ Đại ca cũng mong đến một ngày nào đó, mình có thể đặt gánh nặng trên vai xuống, dắt Chu Du ngao du khắp trời Nam đất Bắc, giống như khi bọn họ mới gặp nhau vậy. Nếu không thể có một ngày như thế, Đại ca thà rằng Chu Du vĩnh viễn chẳng bao giờ nhận ra, vĩnh viễn không hiểu thế nào là thương tâm, nhưng Đại ca không biết rằng, cuối cùng Chu Du cũng chẳng tránh khỏi thương tâm. “Chu Du cứ đợi mãi như thế ư? Mộc yêu bọn họ hình như cũng sống lâu như Thần tộc vậy.” “Muội không biết, muội chỉ biết rằng Chu Du rất vâng lời Đại ca. Năm xưa, ở ngoài Ngu uyên, cô ấy suýt nữa đã bị Ngu uyên nuốt chửng, nhưng đại ca bảo cô ấy đợi nên cô ấy cứ đợi như thế, không di không dịch một bước chân.” Chờ đợi suốt ngàn vạn năm, tự mua dây buộc mình, thời gian đằng đẵng như ngưng kết lại trong khoảnh khắc chia tay, mãi mãi dừng ở phút giây người đó chuẩn bị cất bước ra đi, còn đương đinh ninh dặn dò, thiết tha nhắn gửi, nhìn bề ngoài cứ ngỡ là si ngốc, nhưng đó chẳng phải một dạng thông minh đấy ư? Vân Tang khẽ thở dài, lặng lẽ đi thẳng vào rừng dâu, bầy bướm vẫn lượn quanh mình nàng, như một đóa hoa nở rộ, từ từ khuất bóng trong rừng dâu xanh mướt. Sáng hôm sau, A Hành dẫn Tiểu Yêu lên Ngọc sơn. Mấy trăm năm trước khi vội vã cùng Thiếu Hạo rời khỏi Ngọc sơn, nàng chẳng hề nghĩ sẽ có ngày mình quay lại nơi này, hơn nữa còn dắt theo con gái của nàng và Xi Vưu. Được quay lại Ngọc sơn, A Tệ có vẻ rất cao hứng, vừa nhảy nhót vừa kêu líu ríu. Cung nữ ra đón nồng nhiệt hoan nghênh A Tệ, nhưng lại ngăn Liệt Dương lại, “Tiểu công tử, xin hãy dừng bước.” Thấy Liệt Dương ngẩn người, A Hành mím môi cười, “Tỷ tỷ không nhận ra ư? Đây là Liệt Dương đó.” Cung nữ trợn tròn mắt nhìn Liệt Dương, lắp bắp hỏi: “Liệt Dương, sao mày lại tu thành người lùn thế này?” A Hành nghe nói phá lên cười, A Tệ cũng lăn ra cười ngặt nghẽo, Liệt Dương tức tối liền biến lại nguyên hình, bay vút lên cành cây. Cung nữ hạ giọng thì thào với A Hành: “Vẫn nóng nảy như xưa nhỉ.” Tiểu Yêu nhìn Đông ngó Tây, thỏ thẻ hỏi: “Mẹ bảo ở đây khắp nơi đều có hoa đào kia mà? Sao con không thấy?” A Hành cũng không ngờ, lần này trở lại Ngọc sơn, mọi thứ đã hoàn toàn thay đổi. Ngọc sơn mấy trăm năm trước bốn mùa nở rợp hoa đào, đình đài lầu các thấp thoáng dưới bóng hoa, cỏ non ngút mắt, hoa rơi lả tả, đi giữa khung cảnh đó, chẳng khác nào lọt vào tranh vẽ. Còn Ngọc sơn hiện giờ chẳng có lấy một bông hoa đào, chỉ có những cây đào rậm rì xanh um. Nếu chỉ vậy còn đỡ, dù gì A Hành cũng nghe nói, lúc Viêm Đế qua đời, Ngọc sơn đổ tuyết lớn, núi xanh chưa già, vì tuyết rơi mà bạc trắng mái đầu. Nhưng dung mạo của Vương mẫu… Vương Mẫu năm xưa tóc xanh tha thướt, hoa dung nguyệt mạo, cặp mắt trong veo lạnh lùng như nước, đứng dưới cội hoa đào ngoảnh đầu trông lại, quả là đẹp hơn đào lý, lạnh tựa băng sương, vậy mà giờ đây chỉ còn là một bà lão tóc trắng như bông, dung nhan tiều tụy, ánh mắt tịch liêu. A Hành sững sờ nhìn Vương Mẫu trong khi Tiểu Yêu cười hì hì chạy lại bên cạnh bà, như quen thuộc từ lâu, níu áo bà ríu rít hỏi: “Bà ơi, hoa đào đâu rồi? Mẹ cháu bảo ở đây có rất nhiều hoa đào.” Vương Mẫu đáp: “Hoa đào tàn cả rồi.” Tiểu Yêu hành lễ với Vương mẫu theo lời A Hành, rồi cùng các cung nữ đi chơi, để lại A Hành cùng Vương Mẫu tản bộ trong vườn đào. A Hành lên tiếng: “Lần này con lên Ngọc sơn có hai việc.” Vương Mẫu làm thinh không đáp. Đột nhiên, A Hành đổi giọng gọi, “Dì Mi.” Vương Mẫu lạnh nhạt cười, “Trước lúc lâm chung, mẫu hậu ngươi mới chịu nhắc đến chuyện năm xưa hả?” “Thực ra con đã biết từ lâu, hồi đó nán lại trên Tiểu Nguyệt đỉnh mấy ngày, bá bá đã kể hết cho con chuyện của các vị rồi.” Vương Mẫu nghe đến đó chợt run bắn lên, dừng sững lại. A Hành gắng lấy can đảm nói tiếp: “Bá bá nói, ông vẫn luôn hoài niệm những tháng ngày ba người ở bên nhau, đó là quãng thời gian vui vẻ nhất, thoải mái nhất trong đời bá bá.” Sắc mặt Vương Mẫu trầm xuống, bà thong thả đi tiếp, chẳng tỏ vẻ gì. A Hành lại nói: “Trước lúc lâm chung, con hỏi mẫu hậu có muốn đi Ngọc sơn một chuyến không, nhưng mẫu hậu chỉ lặng thinh, sau đó dặn con giao thứ này lại cho dì.” A Hành mở gói lấy ra một chiếc áo tơ vàng nhạt trao cho Vương Mẫu, bên trên còn đặt một người gỗ nho nhỏ đẽo bằng gỗ dâu. Vương Mẫu chẳng buồn đón lấy, chỉ lạnh lùng đưa mắt nhìn, năm xưa Luy Tổ quyết dứt áo ra đi, mấy ngàn năm nay chưa từng ngoảnh lại, giờ có muốn ngoảnh lại cũng muộn rồi! Vương Mẫu không tiếp nhận, A Hành cũng chẳng biết làm sao, đành đặt người gỗ xuống đất. Người gỗ vừa tiếp được hơi đất, lập tức lớn bổng lên, biến thành một thiếu nữ xinh đẹp, dung mạo giống hệt Vương Mẫu mấy ngàn năm trước, nhưng thần thái khí độ lại khác hẳn. Cặp mắt thiếu nữ đen láy linh hoạt, nét cười rạng rỡ trên môi, mái tóc dài búi thành hai búi trên đầu, dùng tơ vàng quấn quanh, từng sợi từng sợi tơ vàng lòa xòa rủ xuống, vô cùng hoạt bát xinh đẹp. A Hành khe khẽ hát lên khúc ca dao xưa cũ mẹ nàng truyền dạy. Thiếu nữ nhẹ nhàng xoay một vòng, bắt đầu nhảy múa, tay áo dài phấp phới, tà áo bay bay, tư thế hết sức uyển chuyển. Vương Mẫu sững người nhìn cảnh tượng trước mắt. Chiếc áo tơ vàng của thiếu nữ còn mới tinh, vậy mà ống tay đã bị toạc một mảng, mỗi lúc khiêu vũ, cánh tay giơ lên, ống tay áo lại rẽ làm đôi, để lộ cánh tay trắng nuột như tuyết. Vương Mẫu còn nhớ, sáng hôm ấy tay áo mình bị cành cây cào rách, bà vụng đường kim chỉ nhưng A Luy lại rất thạo khâu vá, đã hứa sẽ vá giùm bà. Tiếc rằng điệu múa ấy bà vĩnh viễn không bao giờ múa xong, buổi hoàng hôn ấy, cũng vĩnh viễn không bao giờ trở lại. Khúc ca dứt, thiếu nữ cũng múa xong, lập tức biến thành tro bụi, tan đi theo gió, tự như lớp lớp chuyện xưa đều bị cuồng phong vô tình cuốn đi, chẳng còn tăm tích. Cả cánh rừng chợt lặng phắc, nghe rõ mồn một tiếng gió thổi qua tàng cây. Vương Mẫu bỗng phá lên cười ngặt nghẽo, cười đến chảy cả nước mắt, “Thế này là gì đây?” A Hành đáp: “Xin lỗi! Mẹ con bảo con nói lại với người một câu ‘xin lỗi’!” Vương Mẫu tắt hẳn tiếng cười. A Luy là nữ tử kiêu ngạo nhất mà bà từng gặp, xưa nay chưa hề biết cúi đầu, dù đánh gãy răng cũng cười mà nuốt cả răng lẫn máu, nàng Tây Lăng Luy kiêu ngạo đến cơ hồ độc đoán ấy, bây giờ ở đâu? Vương Mẫu trầm mặc hồi lâu, lại hỏi: “Sao mẹ ngươi không tự đến mà nói?” A Hành đáp: “Con không biết, có hỏi, mẹ con cũng chỉ làm thinh. Khi đã ngã bệnh, bà vẫn chính tay xe tơ dệt lụa, may chiếc áo này, bảo con giao lại cho dì.” Vương Mẫu đứng lặng, ánh mắt dán chặt vào A Hành, nhưng dường như lại đang xuyên thấu qua nàng, quay ngược về mấy ngàn năm trước. A Luy đã hứa vá lại áo cho bà, nhưng không làm được, mấy ngàn năm sau, lại đưa đến một chiếc áo tự tay dệt nên. Nỗi canh cánh trong lòng bà cả ngàn năm nay, há chẳng phải là nỗi canh cánh trong lòng A Luy ư? Vương Mẫu chợt mỉm cười, nụ cười đã không còn vẻ sắc sảo, thay vào đó, lại thêm phần bình thản. “Trông bộ dạng ta bây giờ xem, bà ấy khăng khăng không lên Ngọc sơn là phải.” Nói rồi Vương Mẫu nhận lấy chiếc áo, rảo bước ra khỏi rừng đào. A Luy khăng khăng không chịu gặp, Vương Mẫu lại kiên trì giữ gìn dung mạo, mong mỏi có thể gặp lại một lần, hai người khác tình mà chung một dạ, đều vì một chữ “si”. Đây có lẽ là hồi ức đẹp đẽ cuối cùng của họ, nên bà không những muốn ghi khắc mãi mãi, mà A Luy cũng không nỡ nào phá hỏng. Vương Mẫu đứng trước vách núi, ngắm ráng chiều như khói tỏa, tịch dương tựa gấm thêu. Ba huynh muội nắm tay nhau ngao du năm ấy, có hai người đã lìa trần. Để giờ đây, dưới bóng tà dương đỏ sẫm, chỉ còn trơ lại mình Vương Mẫu. A Hành bước đến cạnh Vương Mẫu. Có lẽ vì gút mắc trong lòng đã được cởi bỏ, nét mặt Vương Mẫu cũng hòa dịu đi nhiều, chỉ còn nét buồn phảng phất giữa đôi mày là không sao xua tan được, “Ngươi còn chuyện gì nữa?” “Con định giao con gái cho dì. Nhờ dì bảo hộ cho nó.” “Cha nó là quốc vương Cao Tân, mẹ lại là vương cơ Hiên Viên, kẻ nào dám đụng đến nó?” “Tên cháu là Tiểu Yêu.” A Hành viết hai chữ đó lên bàn, “Nó vốn không phải là vương cơ Cao Tân.” Vương Mẫu ngạc nhiên hỏi: “Là con của Xi Vưu ư?” A Hành gật đầu. Vương Mẫu cười nhìn A Hành, ánh mắt đượm vẻ cảm thông, “Ngươi biết không? Năm xưa ta biết rõ Xi Vưu mới là kẻ xông vào địa cung Ngọc sơn, đánh cắp Bàn Cổ cung, nhưng ta cứ thuận nước đẩy thuyền, giữ ngươi trên Ngọc sơn sáu mươi năm, thực ra là cố ý phá hỏng hôn ước giữa ngươi và Thiếu Hạo, tác thành cho ngươi với Xi Vưu.” “Sau này con cũng đoán vậy.” “Nếu không có ta nhúng tay vào, chắc ngươi và Thiếu Hạo sẽ đến được với nhau, cũng chẳng dẫn tới tình cảnh hôm nay.” “Xưa nay con chưa từng hối hận vì đã yêu Xi Vưu. Đời này có thể gặp được chàng là may mắn của con.” “Ta sẽ chăm sóc cho Tiểu Yêu, có điều, ta rất mong ngươi sẽ cùng Xi Vưu tới đây đón nó.” A Hành vội hành lễ cảm tạ Vương Mẫu. Nàng gọi Tiểu Yêu lại, đinh ninh dặn dò bé phải nghe lời Vương Mẫu, chăm chỉ luyện tập, không được ham chơi. Tiểu Yêu từ nhỏ đã bạo dạn không sợ người lạ, được đi chơi thế này, bé mừng còn không hết, nghe mẹ dặn dò, bé vừa gật đầu lia lịa, vừa náo nức chực nhảy chân sáo đi chơi. A Hành ôm bé vào lòng, khẽ gọi: “Tiểu Yêu…” rồi nghẹn lời, chẳng biết nói thêm gì nữa, nhưng ánh mắt vẫn bịn rịn không nỡ rời Tiểu Yêu. Tiểu Yêu ngạc nhiên hỏi, “Mẹ?” A Hành sửa lại quần áo cho bé, đoạn nắm lấy ngọc đồng đeo trên cổ bé, “Con nhớ lời ta dặn rồi chứ?” “Nhớ rồi, phải luôn đeo bên mình, bên trong có một thứ rất quan trọng.” A Hành ôm choàng lấy Tiểu Yêu, siết mạnh. Tiểu Yêu vừa kêu khẽ, “Mẹ, đau con” vừa ngọ ngoạy vùng vẫy, A Hành liền buông bé ra, “Đi chơi đi.” Tiểu Yêu tung tăng chạy theo Vương Mẫu, được vài bước, chợt bé ngoảnh lại dặn, “Mẹ mau mau tới đón con nhé, ca ca còn đang cầm đuôi hồ ly của con.” “Ừm.” A Hành nói chẳng nên lời, đành gật đầu. Liệt Dương từ trên cành đáp xuống, biến thành hình người, “Đi được chưa?” A Hành bảo Liệt Dương: “Ngươi ở lại đây đi, trông nom Tiểu Yêu giùm ta, nếu ta không về nữa, ngươi đợi chừng nào thiên hạ thái bình hẵng cho nó hạ sơn.” Liệt Dương cười lạnh, “Đừng mơ! Nếu sống thì cùng sống, chết thì cùng chết!” “Trải qua bấy nhiêu chuyện, ta mới phát hiện chết thực ra rất dễ dàng, sống mới là khó khăn. Có thể sống đến cuối cùng mới là khó nhất.” A Hành quỳ xuống trước mặt Liệt Dương, “Ta buộc phải giao việc khó khăn nhất lại cho ngươi đây, lẽ nào ngươi đành lòng để A Tệ thay ngươi gánh vác ư?” Liệt Dương không đáp, chỉ chăm chú nhìn A Hành, vẻ mặt lạnh lùng nhưng trong đôi mắt xanh biếc lại lấp loáng ánh lệ. A Hành ầng ậng nước mắt, đứng dậy bảo A Tệ: “Chúng ta đi thôi.” A Tệ rưng rưng nhìn Liệt Dương, từ từ bay lên, để lại một mình Liệt Dương lẻ loi đứng đó bất động. Liệt Dương không hề ngẩng lên nhìn bọn họ, chỉ một mực cúi gằm mặt xuống, dán mắt vào mũi chân. Chúng cứ ngỡ suốt đời suốt kiếp này sẽ là người một nhà, sống chết có nhau, dẫu chết cũng chẳng có gì đáng sợ, nào ngờ đâu, lại còn có lúc buộc phải sống.
|
Q.2 - Chương 18: Vì Chưng Nạn Nước, Mang Khôi Giáp[1] Giữa ngợp trời hoa bay, Xi Vưu một thân áo đỏ như máu đang đứng giữa rừng đào bên dưới tế đài, lặng lẽ đợi nàng, tựa hồ một ngọn núi sừng sững, mãi mãi không bao giờ thay đổi, trước kia là thế, bây giờ cũng thế, sau này vẫn như thế. [1] Trích trong bài Thoái tướng thi của Tào Hàn. (ND) Xi Vưu dẫn quân Tây tiến, liên tiếp phá châu kì, vượt qua Hắc hà, đánh thẳng đến Đôn Vật sơn. Đôn Vật sơn là bức bình phong cuối cùng của Hiên Viên, mắt thấy Hiên Viên mất nước chỉ còn là sớm muộn, bách tính trong Hiên Viên thành lại bắt đầu khăn gói chuẩn bị chạy nạn, tướng sĩ cũng nháo nhác cả lên. Hiên Viên Bạt lâm nguy thụ mệnh, lĩnh binh xuất chinh khiến tướng sĩ xôn xao bàn luận, quần thần nhao nhao phản đối, ngay cả Tượng Võng và Ly Chu cũng vì thế mà toát mồ hôi hột, chẳng hiểu sao Hoàng Đế và Tri Mạt lại khăng khăng ủng hộ Hiên Viên Bạt. Hoàng Đế chuẩn bị cho Hiên Viên Bạt một bộ áo giáp tốt nhất, được cải tạo từ hai bộ giáp của ông và Luy Tổ, ánh vàng ánh bạc hòa lẫn vào nhau, “Con mặc áo giáp lên đi, dùng uy nghiêm của mình mà chấn nhiếp tướng sĩ và kẻ địch!” Tang tảng sáng, tướng sĩ đã đứng đông nghịt bên dưới Hiên Viên thành, trật tự đợi lệnh chủ tướng. Nhìn Hiên Viên Bạt vận khôi giáp bước lên đài, Tri Mạt vẫn thấy thấp thỏm không yên, liệu cô gái này có làm được như cha mẹ mình chăng? Cô có thể cứu vãn nổi Hiên Viên quốc mà cha mẹ mình gây dựng nên không? Theo lời Hoàng Đế, Hiên Viên Bạt vung kiếm lên, lập tức tướng sĩ bên dưới cao giọng hô vang, nhưng tiếng hô ấy chỉ mang tính nghi thức, chẳng có nhiệt tình hay khí thế gì cả. Hiên Viên Bạt lại vung kiếm, tiếng hô bên dưới có to hơn, nhưng vẫn chẳng có chút khí thế hay nhiệt tình nào hết. Tượng Võng và Ly Chu lo lắng nhìn Hoàng Đế, hiện giờ đổi chủ soái hẵng còn kịp, nói cho cùng đâu cứ phải mặc khôi giáp của Hoàng Đế và Luy Tổ là có được lòng can đảm của Hoàng Đế và cơ linh của Luy Tổ. Hiên Viên Bạt trầm mặc nhìn xuống dưới đài, từng gương mặt dưới kia hoặc non nớt, hoặc căng thẳng, hoặc ngỡ ngàng, hoặc lo sợ, nhưng dù có sợ đến đâu chăng nữa, họ vẫn cầm vũ khí lên, chiến đấu bảo vệ quê hương mình. Lần đầu tiên, nàng thật sự hiểu được nguyên nhân vì sao mẹ mình ân đoạn nghĩa tuyệt với cha, nhưng chưa bao giờ hối hận về việc hi sinh tất cả, cùng Hoàng Đế sáng lập nên Hiên Viên quốc. Đột nhiên Hiên Viên Bạt giơ tay gỡ mũ giáp ra, mái tóc đen dài lập tức xõa tung, phất phơ giữa ánh nắng mai nhàn nhạt. “Ta là nữ nhân, dù giấu mặt dưới chiếc mũ này, các người vẫn biết ta là nữ, là một người phụ nữ giống như mẹ, như vợ, như muội muội, như con gái các người vậy, đáng ra phải đứng phía sau để các người bảo vệ, chứ đâu lại đứng trước mặt các người, chỉ huy các người tấn công một đội quân toàn những nam nhân còn hung mãnh tàn nhẫn hơn cả các người.” Tướng sĩ dưới thành đều im phăng phắc, tỏ vẻ tán thành. Tượng Võng giậm chân giận dữ, “Con bé này điên thật rồi…” lão chỉ hận không thể xông ngay lên đài, cứu vãn cục diện. Trí Mạt níu Tượng Võng lại, “Đừng nóng.” Hiên Viên Bạt bắt đầu cởi khôi giáp, vừa cởi vừa ném cả xuống đất, vàng đá va nhau, phát ra tiếng lanh canh chói tai, phá vỡ bầu không khí tĩnh lặng. Thoắt chốc, dưới ánh nắng mai vàng nhạt, chỉ còn một nữ tử vận tấm áo chẽn xanh ngắt, đứng trên đài đôi diện với mấy vạn tướng sĩ. “Các người tưởng ta muốn đánh trận lắm ư? Không hề! Nhưng phụ thân ta đã thua Xi Vưu, huynh trưởng của ta cũng thua Xi Vưu, chính là vì nam nhi các người liên tiếp thua hết trận này sang trận khác, nên ta mới buộc phải đứng ở đây. Ta không muốn ra trận, nhưng ta sợ quân Thần Nông đánh thốc đến tận Hiên Viên thành, Hiên Viên thành là nhà của ta, ta không muốn mất nhà! Ta không muốn con gái ta bị người ta khinh khi lăng nhục, không muốn cháu trai ta phải quỳ gối trước kẻ thù, không muốn phần mộ của mẹ ta bị kẻ khác giày xéo. Hôm nay các người cười nhạo ta, nhưng ta nói cho các người hay, kẻ địch đã đánh đến cửa rồi, nếu các người còn thua thêm trận nữa, thì mẹ các người, vợ các người, muội muội các người sẽ phải bước lên đây giống như ta vậy! Nam nhân các người đã không thể bảo hộ nữ nhân chúng ta, dù chúng ta có phải cần kim thêu lên, cũng quyết bảo vệ quê hương và con cái mình!” Hiên Viên Bạt bi thương nhìn xuống tướng sĩ bên dưới, tất cả tướng sĩ đều thẹn đỏ cả mặt, lồng ngực phập phồng dữ dội. Hiên Viên Bạt lại phóng mắt nhìn trăm họ đang xúm đông xúm đỏ quanh cửa thành, vận linh lực sang sảng nói: “Đồng Nhĩ quan thất thủ, các người chạy về Tỏa Vân quan, Tỏa Vân quan thất thủ, các người lại rút về Hắc hà… Các người chạy mãi, chạy đến tận Hiên Viên thành, giờ còn chưa đánh mà các người đã định chạy, các người định chạy đi đâu nữa đây? Tiếp tục chạy sang phía Tây là đến hoang mạc Qua Bích, các người cùng đường rồi! Hiên Viên, Thần Nông, Cao Tân đều có chiến loạn, trong thiên hạ chẳng còn nơi đâu yên bình cả, nếu Hiên Viên thành bị phá, các người sẽ trở thành những kẻ lưu vong, nước mất nhà tan, dù chạy đến đâu cũng không tìm được chốn dung thân, vĩnh viễn bị người ta kỳ thị và lăng nhục.” Đám dân đen khoác tay nải đều đều lộ vẻ buồn rầu, hoang mang. Hiên Viên Bạt lại chỉ những chiến sĩ Hiên Viên đã xếp thành đội hình, “Hiện giờ bọn họ sắp lên đường, lao ra trước đầu đao mũi kiếm, chính là để giữ cho các người một mảnh đất yên bình, không phải trốn chạy nữa, nhưng các ngươi lại không hề tin tưởng họ. Ngay cả các người còn không tin họ, vậy họ chiến đấu vì cái gì? Họ dựa vào cái gì để khiến kẻ thù sợ hãi đây?” Hiên Viên Bạt lại quay ra cao giọng chất vấn các tướng sĩ, lệ nóng nhòa mi: “Các người đánh trận này chính là đứng ngay trước cửa bảo vệ ẹ già, vợ dại, tỷ muội, con cái của các người, nếu các người thua trận, kẻ địch phá cửa xông vào, các người có quyết tử chiến đến cùng, thề không lùi bước chăng?” “Có!” Nỗi hổ thẹn, giận dữ, bi ai, phẫn nộ, tất thảy đều hòa thành dũng khí, các tướng sĩ đồng thanh hô vang, chấn động cả đất trời. Hiên Viên Bạt chăm chú nhìn dân chúng tụ tập đông nghẹt hai bên cửa thành một lượt, đoạn phi thân lên ngựa, “Xuất phát!” Nói rồi nàng ra roi phi lên trước, tất cả các tướng sĩ lũ lượt theo sau, vó ngựa rầm rập, bụi tung mù mịt, tiến thẳng về phía mặt trời lên, khiến buổi bình minh xán lạn rực rỡ cũng nhuốm phần bi tráng. Dân chúng hai bên đường đăm đăm nhìn theo đại quân xa dần, rồi lần lượt từng người bắt đầu trở vào thành, kẻ đang gói ghém cũng dỡ đồ đạc xuống khỏi lưng ngựa, đặt trở vào chỗ cũ, bác thợ rèn quát đồ đệ lắp lại bếp lò, đoạn vừa vung búa lên vừa cao giọng rao: “Mọi người phải tự bảo vệ lấy gia đình mình, ai có thể cầm gươm cầm kiếm cứ đến đây lấy binh khí đi, không mất tiền, không mất tiền đâu!” Tri Mạt rưng rưng lệ, gật gật đầu cười, quay sang bảo Ly Chu và Tượng Võng, “Con nhỏ A Hành chẳng cần mượn oai danh Hoàng Đế và Luy Tổ làm gì, nó chính là tiểu vương cơ của Hiên Viên chúng ta, là con gái, là tiểu muội của mỗi nhà, tất cả tướng sĩ sẽ tử chiến để bảo vệ nó! Bảo vệ nó cũng chính là họ đang bảo vệ cho tiểu muội, con gái của mình đó!” Hoàng Đế bước lên đài, cúi xuống nhặt bộ khôi giáp A Hành vứt lăn lóc dưới đất, phóng mắt trông ra đám bụi hồng mờ mịt cuối trời, lòng ngổn ngang trăm mối, vừa kiêu ngạo, vừa xót xa, lại vừa hổ thẹn, nhưng chỉ trong nháy mắt, hết thảy những tình cảm yếu đuối đó đều bị khát vọng chinh phục Trung Nguyên quét sạch. Ông ngoảnh sang lệnh cho Ly Chu: “Chúng ta chuẩn bị xuất phát thôi.” “Vâng!” Ly Chu quỳ xuống nhận lệnh, Tri Mạt kinh ngạc ra mặt, còn Tượng Võng ngỡ ngàng nhìn Hoàng Đế và Ly Chu. Xuất phát? Xuất phát đi đâu? Tin Hiên Viên Bạt cầm quân truyền tới Thần Nông tộc. Si Mỵ Võng Lượng đều cười ngặt nghẽo, bỉ bai Hiên Viên quốc đã hết người, sắp sửa mất nước tới nơi, phải để một người đàn bà lĩnh binh ra trận. Vũ Sư cũng thắc mắc không hiểu, Hiên Viên vẫn còn mấy vị lão tướng khai quốc đó, sao họ lại để Hiên Viên Bạt cầm quân? Phong Bá góp lời: “Đừng có coi thường Hiên Viên Bạt, Hoàng Đế xưa nay tinh minh mưu trí, ông ta chọn Hiên Viên Bạt, nhất định là có cái lý của ông ta. Chẳng phải bấy nhiêu người tới vời Ứng Long đều không được, nhưng ả ta chỉ nói một tiếng, Ứng Long đã nhận lời đấy sao? Vũ Sư lộ vẻ đắc ý, “Vậy chúng ta quyết chiến ở Đôn Vật sơn, để xem ta và Ứng Long ai tài ngự thủy hơn?” Đôn Vật sơn nhiều sông hồ, có Hà thủy, Hắc thủy, cùng mười mấy dòng sông lớn nhỏ khác, Ứng Long là vua của Thủy tộc, có bản lĩnh ngự thủy trời sinh, nhưng trong trận chiến lần trước, vì chủ soái nên y không phát huy được hết năng lực của mình. Lần này Hiên Viên Bạt và Ứng Long quan hệ không tầm thường, nhất định sẽ trọng dụng y. Mọi người đều đổ dồn mắt về phía Xi Vưu, đợi hắn định đoạt. Một hồi lâu Xi Vưu ra lệnh: “Lui!” “Gì cơ?” Ai nấy đều nhốn nháo bất mãn, vất vả bấy nhiêu năm, bao nhiêu huynh đệ phải đổ máu, đã đánh đến tận cửa nhà Hoàng Đế, chỉ cần vượt qua Đôn Vật sơn là có thể đánh thẳng vào Hiên Viên thành, sao lại có thể lui được? Dù bọn họ có bằng lòng thì những chiến sĩ đổ máu chiến đấu phía sau họ cũng nhất định không chấp nhận. Xi Vưu lạnh lùng lừ mắt nhìn khắp lượt, bấy giờ các tướng mới khôi phục được trật tự. Xi Vưu giải thích: “Tướng sĩ Hiên Viên hiện giờ như bầy sói bị dồn đến đường cùng, Đôn Vật sơn là bức bình phong cuối cùng của Hiên Viên, một khi thất thủ, cũng đồng nghĩa với quê hương bản quán của chúng sẽ bị chúng ta giày xéo, người thân bị chúng ta giết hại, vì cha mẹ vợ con mình, bọn chúng không được phép thất bại.” Vũ Sư phản bác, “Thì chúng ta ra lệnh không được làm hại thường dân, đồng thời tuyên bố nếu tướng sĩ Hiên Viên nào đầu hàng nhất định sẽ đối đãi thật hậu, dần dà làm tiêu giảm ý chí của Hiên Viên tộc, khiến chúng không thể tử chiến.” Phong Bá im lặng nghĩ thầm, Xi Vưu vốn chấn nhiếp được đám binh lính Hiên Viên kiêu dũng thiện chiến, là nhờ vào thủ đoạn tàn nhẫn hung mãnh, nhưng cũng chính vì thế mà khiến tướng sĩ Hiên Viên hận hắn thấu xương, cừu hận đã nổi lên, lẽ nào mấy mệnh lệnh giả nhân giả nghĩa kia có thể hóa giải được sao? Xi Vưu trỏ những căn lều trại đằng sau, nói tiếp: “Ngươi cho rằng họ dựa vào cái gì mà liều chết viễn chinh? Đừng đem mấy thứ nhân nghĩa trung hiếu ra đây, đối với bọn họ, bất luận Hoàng Đế hay Viêm Đế, miễn có thể cho họ cơm no áo ấm thì tức là minh quân. Bọn họ chiến đấu không phải vì Viêm Đế, cũng không phải vì chúng ta, mà là vì mối thù với Hiên Viên, Hiên Viên đã giày xéo quê hương họ, giết hại người thân họ, nên họ phải báo thù! Họ dốc lòng phò tá ta, chính là vì ta có thể báo thù cho họ!” Vũ Sư cũng là người sáng dạ, thoạt nghe đã hiểu nỗi khổ của Xi Vưu. Nếu Xi Vưu lệnh cho quân lính không được làm hại người Hiên Viên tộc, e rằng đám người lòng đầy oán hận này sẽ lập tức quay sang nương nhờ kẻ cho phép họ báo thù. Xi Vưu lại nói: “Những giống chim nhỏ, để bảo vệ tổ và chim non, có thể đánh lui được cả diều hâu, cớ gì chúng ta cứ nhất định phải giao chiến với Hiên Viên ngay trước cửa ngõ nhà chúng. Chi bằng lùi lại xa xa một chút, đợi chiến ý của chúng suy giảm, bấy giờ tấn công càng dễ.” Phong Bá và Vũ Sư sực hiểu ý Xi Vưu. Hiện giờ Hiên Viên giống như một kẻ bừng bừng lửa giận, dốc hết sức bình sinh tung ra một cú đấm, bọn họ lắc người tránh né, để đối phương đánh hụt, chính là đã phong tỏa nhuệ khí của đối phương. Trận đầu tiên, Hiên Viên Bạt lệnh cho Ứng Long xuất chiến. Không phụ sự kỳ vọng của mọi người, Ứng Long ra trận đã đẩy lui được được quân đội của Xi Vưu, khiến Xi Vưu phải rút lui ba lần, lui đến tận Ký Châu. Tướng sĩ Hiên Viên hừng hực khí thế, hân hoan cổ vũ, nhưng Ứng Long quan sát địa hình Ký Châu lại tỏ vẻ lo lắng vô cùng. Y tấu lên Hiên Viên Bạt: “Thần cảm thấy Xi Vưu lui quân không phải vì sợ giao chiến với ta ở Đôn Vật sơn, mà là muốn quyết chiến với chúng ta tại nơi này, đây mới là nơi quân Thần Nông có thể phát huy uy lực cao nhất.” Hiên Viên Bạt tán thành, “Địa hình này quả là bất lợi cho ta.” Ứng Long đề xuất: “Chúng ta có thể rút lui theo hướng Tây Nam hơn hai trăm dặm.” Y trỏ địa đồ, “Nơi đây lợi cho chúng ta hơn.” “Nếu hạ lệnh lui quân là trúng kế của Xi Vưu, tướng sĩ vì nước mất nhà tan mới bùng lên khí thế chống giặc, lỡ sĩ khí ấy tan tác cả, Xi Vưu sẽ nhất định thừa cơ truy sát. Ngươi quên lời thề của chúng ta trước toàn thể tướng sĩ khi xuất phát rồi ư? Chúng ta chỉ có một con đường là liều chết xông lên, quyết không lùi bước, đánh bại Xi Vưu thôi.” Sĩ khí dẽ tan mà khó tụ, nghĩ đến điểm này, Ứng Long giật thót người, gật đầu, “Thần hiểu.” Chợt nghe bên ngoài thùng thùng tiếng trống trận, một tên lính truyền tin hớt hải chạy vào: “Thần Nông sắp tấn công rồi.” Hiên Viên Bạt đưa mắt nhìn khắp lượt tướng sĩ xung quanh, bình thản đáp: “Thì đánh đuổi chúng về.” Ứng Long sai người rúc kèn xung trận. Từ trận Phản Tuyền lần thứ nhất đến nay, Hiên Viên và Thần Nông đã giao chiến suốt mười năm, chết mấy chục vạn người, tướng sĩ hai bên đều mang nặng thù nhà nợ nước, chỉ hận không thể lập tức ăn tươi nuốt sống đối phương. Si Mỵ Võng Lượng giăng mây mù khắp chốn, trắng xóa cả vùng Ký Châu hoang dã, chẳng ai nhìn rõ được lối đi. Tướng sĩ Thần Nông đều đã được huấn luyện, lấy tiếng chiêng trống của Xi Vưu làm hiệu, tiến lui công thủ đều đâu vào đấy, trong khi đại quân Hiên Viên lạc giữa đám sương mù, chẳng biết đâu là phương hướng nữa, tức thời bị tướng sĩ Thần Nông đuổi tận giết tuyệt. Ứng Long liền lênh cho Ly Oán, kẻ chuyên gọi gió, nổi gió lên xua tan mây mù. Nhưng trận gió của Ly Oán đụng phải Phong Bá, chẳng khác nào làn gió xuân Giang Nam hây hẩy đụng độ với cơn gió bắc cuồng nộ ngoài Mạc Bắc, Ly Oán chẳng xua tan được mây mù đã đành, còn bị thương dưới tay Phong Bá. Ứng Long không quan sát được chiến trường, chỉ lên tục nghe thấy tiếng rú thảm thiết của tướng sĩ Hiên Viên, cuống quá toan đánh chiêng thu quân. Các tướng sĩ chưa hề qua huấn luyện, không thể dựa vào tiếng chiêng mà phán đoán được phương hướng rút lui, thậm chí còn có thể đụng độ với quân mình, tử thương vô số, nhưng ít nhất cũng tránh khỏi cảnh toàn quân bị diệt. Thấy y chuẩn bị đánh chiêng, hiên Viên Bạt chợt ngăn lại: “Đợi đã, ngươi giúp ta làm một trận mưa phùn lâm thâm đi.” “Hơi mưa sẽ khiến mây mù thêm dày đặc, tướng sĩ phe ta càng khó tác chiến.” Hiên Viên Bạt liền đưa cho y một gói phấn, “Hòa phấn này vào nước mưa, Phong Bá sẽ phải nổi gió lên, đến chừng đó, mây mù tự khắc tiêu tan.” “Nhưng tướng sĩ của chúng ta trúng độc thì sao?” “Ta đã cho giải dược vào cơm nước của họ từ trước rồi.” Ứng Long theo lời Hiên Viên Bạt, chuẩn bị làm mưa, Vũ Sư ngửi ngửi, phát hiện thấy thủy linh trong không khí có vẻ khác thường vội thốt, “Lạ thật, mây mù giăng kín thế này, quân Hiên Viên đã khốn đốn lắm rồi, sao chúng còn định làm mưa?” Xi Vưu phóng mắt về phía Tây Nam thấy A Hành vận áo xanh ung dung đứng trên lưng A Tệ, vội hạ lệnh: “Trong mưa có độc, Phong Bá, mau nổi gió lên.” Phong Bá vâng lệnh nổi gió, xua tan hết mưa phùn cùng sương mù. Thoạt trông thấy đường, A Hành lập tức cầm tù và, vừa thổi vừa xông lên phía trước, tướng sĩ Hiên Viên trông thấy một nữ tử yếu đuối xông xáo dẫn đầu, nỗi hổ thẹn át hẳn niềm hoang mang do sương mù đem lại, họ nhất loạt xông lên theo nàng. Thế trận của Thần Nông lập tức bị sĩ khí vô tiền khoáng hậu xé tan, Xi Vưu đành đánh chiêng thu binh. Tướng sĩ Hiên Viên đuổi theo truy kích, nhưng đến gần bãi cỏ, chợt A Hành ra lệnh ngừng lại, thu quân quay về. Si Mỵ Võng Lượng chửi với theo: “Ả đàn bà thối tha, sao không đuổi nữa đi?” A Hành quay lại, nửa cười nửa không đáp: “Ta chưa ngu đến mức đưa chân giẫm lên lưỡi đao đâu.” Tất cả cây cỏ nơi này đều nằm trong phạm vi khống chế của Xi Vưu, chỉ cần hắn thúc động linh lực, toàn bộ sẽ biến thành đao kiếm. Giữa màn sương mù, Xi Vưu thắng, đem quân truy kích, A Hành thắng. Mỗi bên tử thương hơn ngàn người, xem như hòa. Võng hậm hực nhìn theo bóng A Hành, gãi đầu lầm bầm: “Sao ả biết Đại ca thi thuật với đám cỏ này nhỉ?” Chợt gã vỗ đùi đánh đét, quay sang hỏi Xi Vưu, “Sao huynh biết ả hạ độc vào nước mưa? Trên đời được mấy ai tinh thông dược tính đến thế.” Phong Bá trước đây từng gặp A Hành, biết nàng từng là tình nhân của Xi Vưu, vừa rồi khi mây mù tan đi, trông thấy người dẫn đầu tướng sĩ Hiên Viên truy sát bọn họ chính là nàng, gã tức thời ngây ra, bây giờ mới hay nàng là Hiên Viên vương cơ, cũng là Cao Tân vương phi, bất giác gã đưa mắt nhìn về phía Xi Vưu, thấy rõ mồn một vẻ đau đớn lóe lên trong mắt hắn. Xi Vưu chẳng buồn đáp lời Võng, đứng phắt dậy bỏ đi. Mỵ thì thào nhỏ như tiếng muỗi kêu: “Ta nghe đồn Xi Vưu và Hiên Viên Bạt có tư tình thật đó.” Phong Bá lần đầu tiên nổi giận, hầm hầm cảnh cáo: “Sau này kẻ nào còn dám nói bậy, ta sẽ chém đầu kẻ đó.” Phong Bá ra ngoài tìm Xi Vưu, thấy hắn đang ngồi một mình trên cao, lặng lẽ trông về phía doanh trại Hiên Viên. Trời đã ngả tối, mưa tuyết bắt đầu trút xuống, nhưng hắn chẳng hề có ý định tránh đi, cứ ngồi thẫn thờ ngóng nhìn căn lều trại đằng xa, mặc cho tuyết đổ đầy người. Trong đêm tối, gió sắt se, tuyết lả tả, ánh đèn trước doanh trại leo lét phản chiếu sơn hà tan tác, bóng lưng Xi Vưu cũng toát lên vẻ tĩnh mịch thê lương vô hạn, khiến Phong Bá không khỏi cảm khái trước nỗi bất lực của kẻ kiêu hùng. Gã bước đến sau lưng Xi Vưu, cười cười rút ra một vò rượu, “Sao huynh lại ngồi đó? Đến đây, đến đây, uống rượu nào! Ai gục trước kẻ đó là rùa đen!” Nam nhân thường nói ít làm nhiều, thà đổ máu chứ không rơi lệ, Phong Bá không phải là kẻ biết an ủi, Xi Vưu cũng chẳng phải người dễ dàng thổ lộ tâm can, gã chỉ có thể cùng Xi Vưu say túy lúy một trận mà thôi. Cả hai nốc rượu như nước lã, chẳng mấy chốc Phong Bá đã say đến bảy tám phần, đùa cợt hỏi: “Nghe nói các cô nương Cửu Lê đều xinh đẹp đa tình, đợi chiến tranh kết thúc, đệ phải tới kiếm cô vợ mới được.” Xi Vưu lắc đầu, lại hớp một ngụm rượu, “Đệ thì không được, con gái Cửu Lê không thích người đẹp, chỉ ham người biết hát thôi.” “Ai bảo huynh đệ không biết hát?” Phong Bá hắng giọng rống lên loạn xạ, làm Xi Vưu bò lăn ra cười. Xi Vưu thẫn thờ nhìn vào màn đêm, thoáng trầm mặc, đoạn cất giọng hát. “A ối à ối a Mắt ta mình cứ khoét ra Để áu thấm đầy tà áo xanh Ví bằng lọt được mắt mình Máu như hoa rải đầy cành cũng cam. A ối a ối à Tim ta mình cứ móc ra Để đồng hoang thắm máu ta chan hòa Ví lòng mình có bóng ta Cam lòng tưới máu như hoa khắp đồi. Các anh em Một mai ta chết đi rồi Đường nàng đi đó, xin vùi xác ta Dù nàng đi khắp gần xa Đều ngang qua nấm mộ ta bên đường.” Tiếng ca thê lương vô hạn văng vẳng lan xa, giữa cảnh sông núi tiêu điều, quốc gia nghiêng ngả này lại càng khiến người ta rung động. Phong Bá tỉnh hẳn rượu, sững sờ nhìn Xi Vưu, hồi lâu mới hỏi: “Khúc tình ca tuyệt như vậy, phải hát đáp lại thế nào?” Xi Vưu hờ hững đáp: “Có hai cách hồi đáp, một cách là: “Nếu ta không quên được bóng ngươi, ta sẽ tự móc mắt mình ra; nếu ta không quên được dáng ngươi, ta sẽ tự khoét tim mình ném đi”; cách thứ hai là…” Xi Vưu ngập ngừng không nói, chỉ đăm đăm ngóng về phía ngàn ánh đèn sáng rực đằng xa. Mưa hắt hiu, gió hắt hiu, trời đất ủ ê, non sông quạnh quẽ, Phong Bá chợt cảm thấy anh hùng khí đoản, nhi nữ tình trường, giáo vàng ngựa sắt mấy trăm năm cũng mệt mỏi quá rồi. Đợi cuộc chiến này kết thúc, bất kể là thua hay thắng, gã cũng phải kiếm ình một cô gái, cùng sống vui vẻ một đời thôi. Giữa cảnh mưa gió tiêu điều, chợt một giọng ca lanh lảnh từ đâu đó cất lên: “Cây cao ngất ngưởng giữa non xanh Vấn vít dây mây quấn quýt cành Cây níu chặt mây, mây quấn quýt Khăng khăng khít khít giữ vẹn tình. Vào sinh ra tử bạn cùng nhau Sống chết bên nhau đến bạc đầu Cây chết mây còn còn quấn quýt Cây còn mây chết chẳng rời nhau.” Phong Bá dỏng tai nghe hồi lâu, chỉ toàn nghe thấy cái gì sống sống chết chết, cảm giác không lành, nhưng Xi Vưu lại tươi cười rạng rỡ, vỗ vai Phong Bá, “Về kêu các huynh đệ lại cùng uống đi.” Có vẻ tâm trạng đã khá lên nhiều. Phong Bá chẳng hiểu mô tê gì, nhưng đã biết, Xi Vưu đã đợi được câu trả lời mà hắn muốn. Phong Bá vừa đi vừa ngoảnh lại trông, chỉ thấy non sông tiêu điều, mưa gió hắt hiu, khói lam mờ mịt, đèn lửa lập lòe. Giữa thời loạn lạc này, tìm đâu ra chốn bình yên? Nhưng sống giữa thời loạn này, có được một người thấu hiểu lòng mình, cùng sống cùng chết thì dẫu phải da ngựa bọc thây, say khướt sa trường, cũng coi như không uổng một đời. Thần Nông và Hiên Viên đã giao chiến mấy bận, đôi bên đều có thương vong, mà vẫn chưa phân thắng bại. Xi Vưu quỷ kế đa đoan, bày đủ mưu mẹo thật giả mạnh yếu để dụ địch giết địch. Trong mắt kẻ khác, những kế sách ấy đều được coi là tuyệt diệu, nhưng A Hành chỉ thoáng nhìn là phát hiện ra ngay. Có điều, A Hành cũng chẳng làm sao chế ngự được Xi Vưu, bất kể nàng làm gì, hắn thoạt trông là đoán được ngọn nguồn, lập tức phản ứng lại.
|