Từng Thề Ước
|
|
Từng Thề Ước
Tác Giả : Đồng Hoa
Thể loại : Ngôn Tình, Huyền Huyễn
Số Trang : 38
Trạng Thái : FULL
Đã không giữ lời, sao còn thề hẹn? Nếu có một người đàn ông, yêu nàng bất chấp luân thường, gia môn, bộ tộc, tín ngưỡng. Nếu có một người đàn ông, sẵn sàng băng qua núi cao biển sâu, lửa thiêu sông giá, miễn là nàng cần tới. Nếu có một người đàn ông, bất kể nàng gặp rắc rối đến đâu cũng giải quyết chóng vánh, chẳng nề nguy hiểm tử sinh Thì nàng hạnh phúc biết nhường nào. Ở cùng người ấy, nàng không phải băn khoăn điều gì, do dự hay sợ hãi điều chi. Nàng sẽ chỉ có tự do, yêu thương tha thiết, nao nức và yên lòng. Ở vào lứa tuổi tươi đẹp nhất của đời người, nếu gặp được người đàn ông như thế, nhận được lời thề ước sẽ yêu mình đời đời kiếp kiếp của y, nàng sẽ hạnh phúc vô song. Nhưng có ý nghĩa gì, nếu mọi lời thề ước, chỉ đơn thuần là thề ước…
|
Q.1 - Chương 1: Trời Sinh Ta Vốn Kẻ Ngông Cuồng Đã không giữ lời, sao còn thề hẹn? Nếu có một người đàn ông, yêu nàng bất chấp luân thường, gia môn, bộ tộc, tín ngưỡng. Nếu có một người đàn ông, sẵn sàng băng qua núi cao biển sâu, lửa thiêu sông giá, miễn là nàng cần tới. Nếu có một người đàn ông, bất kể nàng gặp rắc rối đến đâu cũng giải quyết chóng vánh, chẳng nề nguy hiểm tử sinh Thì nàng hạnh phúc biết nhường nào. Ở cùng người ấy, nàng không phải băn khoăn điều gì, do dự hay sợ hãi điều chi. Nàng sẽ chỉ có tự do, yêu thương tha thiết, nao nức và yên lòng. Ở vào lứa tuổi tươi đẹp nhất của đời người, nếu gặp được người đàn ông như thế, nhận được lời thề ước sẽ yêu mình đời đời kiếp kiếp của y, nàng sẽ hạnh phúc vô song. Nhưng có ý nghĩa gì, nếu mọi lời thề ước, chỉ đơn thuần là thề ước… Mang trong mình dòng máu dã thú, bản chất Xi Vưu vừa tàn nhẫn vừa chân thành, vừa giảo quyệt vừa thuần khiết. Hắn không bận tâm bất kỳ thanh quy giới luật nào, chỉ nuôi thù hận, và nuôi lý tưởng duy nhất là chinh phạt vạn vật trong trời đất, thống nhất giang hà. Số mệnh trớ trêu, trên hành trình đánh dẹp thiên hạ, hắn đã gặp A Hành vương cơ của bộ tộc Hiên Viên. Hai người thoạt tiên là hiểu lầm, rồi mau chóng đem lòng yêu thương say đắm. Dưới bóng hoa đào, Xi Vưu đã ngỏ lời thề ước với nàng, quyết định buông bỏ tất thảy dã tâm và tham vọng để ở bên nàng đến trọn đời. Hắn yêu rất chân thành, hận chân thành, đố kỵ cũng chân thành. Đúng như một dã thú, hắn không biết cách tin tưởng ai, cũng không dễ dàng khiến ai tin tưởng. Hắn ngỡ mình đối với A Hành đã đủ tốt rồi, nhưng không biết rằng điều nàng cần nhất là sự nương tựa và niềm tin. Hắn tưởng tình yêu có thể vượt lên sống chết và vĩnh cửu, nhưng không biết rằng tình yêu như thế, thật ra đã tan nhòa trong khói bụi hỗn mang của thời viễn cổ. Tóm tắt tác phẩm Thời thượng cổ, ba đại Thần tộc: Thần Nông ở Trung Nguyên, Cao Tân ở Đông Nam và Hiên Viên ở Tây Bắc tạo thành thế chân vạc, chia ba thiên hạ. Giữa thời loạn thế, từ nam nhi kiêu dũng đến thiếu nữ yêu kiều, từ kẻ thất phu nơi thảo dã đến bậc vương tử lầu vàng điện ngọc, đều có những khát vọng của riêng mình. Kẻ chỉ cầu hạnh phúc một đời bên người mình thương mến, người hằng mong ngao du khắp chốn, tự tại vô ưu, người lại ôm mộng bá đồ, muốn nhất thống thiên hạ. Trong thiên hạ nổi lên hai vị anh hùng là Xi Vưu, Chiến thần của Thần Nông và Thiếu Hạo, vương tử của Cao Tân. Xi Vưu vốn là thú vương, mấy trăm năm trước bị Thần Nông Viêm Đế thu phục, tính tình vừa tàn nhẫn lại vừa chân tình, vừa xảo trá lại vừa đơn thuần, vũ lực siêu quần, bách chiến bách thắng. Trong lòng hắn không có thanh quy giới luật, mục tiêu duy nhất chính là dùng vũ lực chinh phục thiên địa vạn vật. Thiếu Hạo là vương tử Cao Tân, dung mạo tuấn tú, phong thái ung dung, vừa lạnh lùng hờ hững lại vừa dịu dàng ôn hòa. Trong lòng y không có tình thân, chỉ có tham vọng bá đồ, sẵn sàng bất chấp thủ đoạn để có thể giành được ngôi vương, đưa Cao Tân trở thành quốcgia hùng mạnh nhất. Nói Xi Vưu như lửa đỏ thì Thiếu Hạo như nước biếc. Mệnh vận trêu đùa, trên con đường bình định giang sơn, Xi Vưu đã gặp A Hành, công chúa của Hiên Viên, hai người thoạt đầu là hiểu lầm, sau đó lại nảy nở tình cảm. Dưới gốc hoa đào, Xi Vưu đã thề với nàng, quyết định buông bỏ tất cả, ở bên nàng suốt đời. Nào ngờ thời thế xoay chuyển, thiên hạ đại loạn, A Hành thân là công chúa Hiên Viên, vì sự sinh tồn của người nhà và dân chúng Hiên Viên, buộc phải kết hôn cùng Thiếu Hạo. Xi Vưu không hiểu nội tình, cho rằng A Hành phản bội mình, vô cùng căm giận. Thù nhà nợ nước, ân oán giữa các chủng tộc đan cài giăng mắc, cuối cùng Xi Vưu cũng hiểu, thì ra hận còn khó hơn cả yêu. Xi Vưu và A Hành, A Hành và Thiếu Hạo, quan hệ giữa họ không chỉ là yêu hận cá nhân, mà còn liên quan đến an nguy của gia tộc, hưng suy của đất nước cùng hạnh phúc của muôn dân toàn thiên hạ. Tình yêu của Xi Vưu và A Hành những tưởng có thể vượt lên cả sống chết, đến cuối cùng vẫn bị cuốn phăng đi, bị vùi dập trong vòng xoáy thời cuộc. Đến cuối cùng, liệu người trong cuộc có còn nhớ, nguyện vọng ban sơ nhất là gì? Liệu người còn nhớ, mình từng thề ước cùng ai? Lời thề năm ấy, đã thành hiện thực hay đã vĩnh viễn tuột khỏi tay? Lấy bối cảnh thần thoại rộng dài cả về không gian và thời gian, Từng thề ước từng bước mở ra một thế giới với đủ thần, ma, yêu cùng vô vàn loài linh thú hiếm lạ. Để rồi, khi bước vào, ta lại nghe vang vọng khúc tráng ca về cuộc đối đầu đơn độc mà quyết liệt với vận mệnh của con người. Tác giả Đồng Hoa Đồng Hoa hiện là một trong các tác giả nữ nổi tiếng nhất Trung Quốc. Trước khi xuất bản sách, cô từng sử dụng bút danh Trương Tiểu Tam để đăng tải tác phẩm của mình lên hai website văn học nổi tiếng của Trung Quốc là: Mạng văn học Tấn Giang và Mạng văn học Tứ Nguyệt Thiên. Đồng Hoa tốt nghiệp đại học Bắc Kinh, từng làm chuyên viên phân tích tài chính ở ngân hàng Trung Quốc, sau đó học Thạc sĩ ngành kinh tế tài chính tại Philadelphia. Hiện nay, cô đang định cư cùng chồng tại New York. Cùng với Đằng Bình, Phỉ Ngã Tư Tồn và Tịch Ngữ Giả, Đồng Hoa được độc giả bình chọn là một trong Tứ Tiểu Thiên Hậu của văn học ngôn tình Trung Quốc, với lời khen tặng: “Ngòi bút nhẹ nhàng từ từ đi đâm sâu xuống khiến cõi lòng người ta đau đớn, tình yêu của cô luôn bùng cháy.” Năm 2011, Đồng Hoa đứng thứ 14 trong danh sách các nhà văn có thu nhập cao nhất Trung Quốc, với thu nhập khoảng 3 triệu nhân dân tệ/ năm. Các tác phẩm đã xuất bản: Bộ Bộ Kinh Tâm, Đại Mạc Dao, Vân Trung Ca, Bí mật bị thời gian vùi lấp, Thời niên thiếu không thể quay về, Từng thề ước. Đồng Hoa là một trong những cái tên “nóng” nhất trên các diễn đàn văn học mạng Trung Quốc nhiều năm gần đây. Gây ấn tượng mạnh với Bộ bộ kinh tâm, qua thời gian, văn phong của nữ tác giả này ngày càng được xưng tụng là “hành văn bình thản, nhập bút trục tầng, xâm nhập trạc nhân đau lòng”, không phải loại hoa lệ sáo rỗng, mà trong cái ”mỹ” luôn có chút chân chất, bình dị, từng bước làm quen rồi thấm sâu vào hồn người đọc. Trong các tác phẩm của mình, Đồng Hoa không thiên vị cho bất kỳ nhân vật nào, không vì điểm tô cho nhân vật này mà hạ thấp nhân vật khác. Tất cả đều sống, đều suy nghĩ, hành động khác nhau, đều có cái bất đắc dĩ của riêng mỗi người, có mục tiêu mà họ đeo đuổi, vì nó họ có thể bỗng chốc trở thành người khác, phải đánh đổi, hy sinh và nhận lấy những mất mát… giống hệt trong đời thực. Với Từng thề ước, Đồng Hoa tiếp tục xây dựng một câu chuyện tình yêu diễm lệ với bối cảnh thần tiên cùng những không gian mầu nhiệm, kỳ ảo. Tuy chất liệu câu chuyện mang đậm màu sắc hoang đường nhưng những gì mà các nhân vật của Đồng Hoa thể hiện lại rất thực tế, rất người. Rốt cuộc, tình yêu là gì? Đã không giữ lời, sao còn thề hẹn? Đã không có ý đến cùng sao cứ gieo vào lòng nhau những mơ tưởng hạnh phúc lâu dài?… Một trong “Tứ tiểu thiên hậu” ngôn tình của Trung Quốc, hiện đang sống và làm việc tại Mỹ. Tâm hồn phong phú, văn bút điêu luyện, giỏi khám phá và cảm nhận những vẻ đẹp của cuộc sống. Cô luôn cho rằng, trên đời này, dù mưa hay nắng, dù buồn hay vui, đều có những khía cạnh đáng cho ta rung động. Những tác phẩm của Đồng Hoa được Nhã Nam xuất bản: - Bộ bộ kinh tâm - Bí mật bị thời gian vùi lấp - Từng thề ước - Đại mạc dao Nhận định “Yêu một người phải như thế nào? Đọc Từng thề ước mới biết, yêu là phải như Xi Vưu, yêu thì tha thiết, sẵn sàng làm bụi đất dưới chân tình nương. Đến khi hận tột cùng, hận vào tim gan xương tủy vẫn không cách nào làm tổn thương người yêu cho được…” Tạp chí Đọc sách Trung Hoa “Đến cuối cùng chỉ còn lại mình ta, ôm ấp lời hẹn ước, ôm ấp tình yêu, ôm ấp những quá vãng không ai hay biết… Một câu chuyện khiến lòng người tê dại.” Mạng văn hóa Sina “Đọc Từng thề ước để thấy, bi kịch cũng có nhiều khuôn mặt.” Nhà văn Kim Tử, tác giả của Mộng hồi Đại Thanh. Thuở vũ trụ còn hỗn độn, hồng hoang sơ khai, trong thiên hạ chỉ có một vị vua, chính là Bàn Cổ đại đế đã mở ra trời đất, sáng tạo nên cả thế giới. Lúc bấy giờ trời và đất còn chưa cách nhau vời vợi, con người sống trên mặt đất, thần linh ngụ đỉnh non tiên, thông qua thang trời là có thể gặp được. Thần tộc, Nhân tộc và Yêu tộc cùng sống dưới một vòm trời. Bàn Cổ đại đế có ba thuộc hạ tình như anh em, trong đó người có thần lực cao nhất là một nữ tử, thời gian đã quá lâu, chẳng thể tra được tên tuổi nữa, chỉ biết sau này bà lập nên Hoa Tư quốc[1], được đời sau tôn xưng là Hoa Tư Thị. Còn hai vị kia là nam nhân, một là Thần Nông Thị, đóng ở Trung nguyên, giữ yên bốn cõi, một là Cao Tân Thị, đóng ở phía Đông, trấn giữ Thang cốc nơi mặt trời ló rạng và Quy khư[2], chốn ngàn vạn dòng nước trên thế gian đổ về. [1] Theo sách Liệt Tử, phần Hoàng Đế: “Hoàng Đế ngủ ngày, mộng du đến nước Hoa Tư, không biết nước này xa mấy nghìn vạn dặm, đại khái thuyền xe không thể tới được.” Từ đây trở về sau, nếu chú thích nào có ghi (ND) thì là của người dịch, còn lại là của tác giả. [2] Theo sách Liệt Tử, phần Thang Vấn: “Không biết về phía Đông Bột Hải mấy ức vạn dặm, có một vụng nước thăm thẳm không đáy, tên gọi Quy khư. Nước từ tám phương trời chín phương đất, nước từ dòng Thiên Hán (Ngân Hà) không ngừng đổ về đây mà mực nước vẫn không tăng không giảm. Sau khi Bàn Cổ đại đế quy tiên, lửa chiến tranh bùng lên khắp thiên hạ. Hoa Tư Thị chán ghét cảnh chinh chiến liên miên bèn bỏ đi lánh đời, sáng lập ra Hoa Tư quốc tươi đẹp hòa bình, nhưng bà được đời sau tưởng nhớ lại chẳng bởi Hoa Tư, mà nhờ con trai Phục Hy và con gái Nữ Oa[3] của mình. [3] Theo Xuân Thu thế phổ, “Con trai Hoa Tư tên gọi Phục Hy, con gái tên gọi Nữ Oa.” Phục Hy – Nữ Oa cai trị đặt nặng cả ân uy, khiến anh hùng thiên hạ đều kính phục, sau cùng chấm dứt can qua, được tôn xưng là Phục Hy đại đế và Nữ Oa đại đế. Cả một vùng đại hoang chồng chất tang thương lại được đón cảnh thái bình, khôi phục dần sức sống. Mấy ngàn năm sau, Phục Hy đại đế qua đời, Nữ Oa đại đế đau xót khôn nguôi, ẩn cư Hoa Tư quốc, từ đó chẳng một ai gặp bà nữa, còn sống hay đã chết cũng không ai hay biết, tộc Phục Hy Nữ Oa dần dà suy tàn. Trải bấy thăng trầm, cùng với sự xuống dốc của tộc Phục Hy, hai tộc Thần Nông ở Trung Nguyên và Cao Tân ở Đông Nam đã trở thành hai đại bá chủ, tuy ngoài mặt vẫn giữ đúng giao ước năm xưa cắt máu ăn thề trước mặt Phục Hy Nữ Oa đại đế, các bên không xâm phạm lẫn nhau, nhưng bên trong đã ngùn ngụt dã tâm muốn thôn tính đối phương. Phía Tây Bắc đại hoang có ngọn núi không danh tiếng, gọi là Hiên Viên sơn, dưới chân núi là nơi cư trú của Hiên Viên tộc, một Thần tộc nhỏ yếu chẳng mấy ai biết tới. Sau nghi thức cúng tế long trọng, đại trưởng lão của bộ tộc cực lực gạt bỏ mọi dị nghị của tộc nhân, chọn vị anh hùng trẻ tuổi nhất trong tộc làm thủ lĩnh, chính đại trưởng lão cũng chẳng thể ngờ thiếu niên đó sẽ hoàn thành được sự nghiệp vĩ đại nhường nào. Trải qua mấy ngàn năm, vị thiếu niên thống lĩnh Hiên Viên tộc không tên tuổi kia đã vùn vụt trưởng thành, tới khi Thần Nông và Cao Tân nhận thức được sự nguy hiểm của y thì đã bỏ lỡ thời cơ tiêu diệt, đành bất lực nhìn Hiên Viên tộc nhảy vọt lên thành đại Thần tộc thứ ba, thế lực sánh ngang với Thần Nông, Cao Tân, hai Thần tộc từ thời thượng cổ. Thần Nông tộc đứng đầu ba đại Thần tộc cũng chính là hậu duệ của Thần Nông Thị năm xưa vâng mệnh Bàn Cổ đóng tại Trung nguyên, thủ lĩnh được tôn là Viêm Đế, lấy nhân trị nước; Cao Tân tộc, hậu duệ của Cao Tân Thị trấn giữ Đông Nam thuở trước, thủ lĩnh được tôn là Tuấn Đế[4], lấy lễ trị nước; cuối cùng là Hiên Viên tộc mới quật khởi, thống trị Tây Bắc, thủ lĩnh được tôn là Hoàng Đế, lấy pháp trị nước. [4] Trong Sơn Hải Kinh có ba đại Thần hệ, Viêm Đế hệ ở Trung nguyên, Tuấn Đế hệ ở phương Đông và Hoàng Đế hệ mới nổi sau này. Cũng từ đó Thần Nông ở Trung nguyên, Cao Tân ở Đông Nam và Hiên Viên ở Tây Bắc chia ba thiên hạ, tạo thành thế chân vạc. Thấy bốn gã sầm mặt lại, Vu vương nói tiếp: “Các ngươi đừng si tâm vọng tưởng nữa, lần này Hỏa thần Chúc Dung đích thân tới tiêu diệt Thú vương, trong thiên hạ còn ai dám đối đầu với hắn chứ? Lẽ nào các ngươi thực sự muốn Thú vương của Cửu Di ta phải chết sao?” Thần Nông quốc nằm ở miệt Trung nguyên phì nhiêu nhất đại hoang, cũng là quốc gia đông dân và dồi dào sản vật nhất. Phía Tây Nam núi non trùng điệp, khe rãnh dọc ngang, đầy rẫy độc trùng chướng khí, hung cầm ác thú hoành hành, đường sá hiểm trở, lại ngăn cách với bên ngoài, bị xem là chốn man di mọi rợ. Nơi này có bộ tộc Cửu Di cư trú, phong tục tập quán vô cùng lạc hậu, khác một trời một vực với những bộ tộc ngoài kia, bị Thần tộc liệt vào hạng tiện dân thấp kém, trai sinh ra thì làm nô bộc, gái sinh ra thì là tỳ nữ. Hơn trăm năm trước, Cửu Di tộc không chịu nổi ách nô dịch tàn khốc của Nhân tộc bèn liên kết hơn trăm sơn trại chống lại, nhờ có yêu thú hung mãnh yểm trợ đã đánh ười mấy đại tướng Thần tộc đi dẹp loạn phải thất bại quay về, sau cùng kinh động đến cả Viêm Đế. Đệ nhất cao thủ Thần tộc là Chúc Dung bèn tình nguyện xin đi hàng phục con yêu thú nổi loạn. Giữa biển mây, một hàng chừng mười tọa kỵ do các thần tướng điều khiển lướt băng băng. Phóng mắt nhìn ra xa, Cửu Di sơn trải dài ngàn dặm trong màn mây mù vướng vất, trùng trùng điệp điệp, chót vót cheo leo, từng ngọn từng ngọn xanh um, thưa thưa nhặt nhặt, gần gần xa xa, nông sâu bồng bềnh giữa khói mây mờ mịt, gió đến thì hiện, gió hết lại khuất, hệt một bức tranh thủy mặc. Một thần tướng nhỏ thó mặc áo đen cười nói: “Chẳng ngờ dải đất man rợ Cửu Di lại đẹp thế này, hèn chi đám nô tỳ Cửu Di đều xinh đẹp, các nhà hào môn quyền quý Nhân tộc rất ưa chuộng. Xưa kia năm nào cũng có nô tỳ mới tiến cống, vậy mà từ khi đồ súc sinh kia gây loạn, hơn trăm năm nay Cửu Di không cống nạp nô tỳ, nghe nói bây giờ một nô tỳ Cửu Di thứ thiệt có thể đổi được một cây san hô lam dưới đáy biển Quy khư đó.” San hô dưới đáy Quy khư đối với Nhân tộc chỉ là vật để khoe giàu nhưng đối với Thần tộc lại là thành phần trị thương, y nói mà đôi mắt lóe sáng, rõ ràng đã có tính toán riêng. Nam tử mặc áo lam bên cạnh nhắc nhở: “Đừng bị phong cảnh trước mắt mê hoặc, núi rừng Cửu Di hung hiểm lắm, Thần tộc chúng ta chẳng sợ chim dữ thú hoang, nhưng độc chướng có thể xâm nhập vào linh thể, không thể chủ quan được, thuộc hạ của vương tử Du Võng là Đào Nhạc bị trúng chướng khí do súc sinh đó giăng ra, đến giờ linh lực còn chưa hồi phục hẳn đấy thôi…” Nam tử dẫn đầu lạnh lùng cười khẩy, kẻ áo lam biết mình đã lỡ lời, vội im như thóc. Vị thần tướng cười nhạt trông khá anh tuấn, có điều trong mắt thấp thoáng vẻ tàn nhẫn khiến người ta chẳng dám nhìn lâu. Hắn giẫm trên lưng Tất Phương điểu[1], loài chim được xưng là “đại hoang ác cầm”, mình khoác chiến bào đen tuyền, trước ngực còn thêu ngọn lửa ngũ sắc thếp vàng rất lớn, thoạt nhìn dấu ấn đó người ta đã nhận ra hắn chính là cao thủ đệ nhất của Thần Nông quốc, Chúc Dung. Tuy Du Võng là vương tử nhưng Chúc Dung thần lực cao cường, nắm giữ binh quyền, xưa nay chưa từng coi Du Võng vào đâu cả. [1] Loài quái điểu trong thần thoại, mỗi khi xuất hiện thường kéo theo hỏa hoạn. Phần Tây Sơn kinh trong Sơn Hải kinh viết: “Hình dáng giống hạc, mỏ trắng, mình đen vằn đỏ, tên gọi Tất Phương. Tiếng kêu cũng như tên gọi, trông thấy ở đâu ắt xảy ra hỏa hoạn ở đó.” Thần tướng áo đen gầy đét tên gọi Hắc Vũ, rất giỏi lấy lòng, y biết được tâm tư Chúc Dung, liền cười nhạt nói đón: “Đâu phải chướng khí độc vật lợi hại, là thuộc hạ của vương tử vô dụng quá thôi! Hơn trăm năm không giết nổi một con súc sinh chưa thông linh trí, lại hao tổn mất mấy viên đại tướng, lần này Chúc Dung tướng quân đã thân chinh ra tay, con súc sinh đó đừng hòng trông thấy mặt trời ngày mai. Sáng mai trên điện Tử Kim, tướng quân sẽ quăng đầu con súc sinh đó ra trước mặt tất cả đại thần, cho Du Võng mất mặt!” Ánh mắt Chúc Dung lộ vẻ đắc ý, nhưng vẫn lạnh lùng nạt: “Bớt nói nhảm! Ta phụng mệnh Viêm Đế làm việc, các ngươi đều phải toàn lực ứng phó, chừng nào giết được nó thì muốn gì ta thưởng cho cái đó, mấy mẩu san hô Quy khư đáng gì?” Các thần đều tươi cười hớn hở, cao giọng tạ ơn. Nam tử áo lam lên tiếng lúc đầu tên Lam Điền, có tiếng hành sự cẩn trọng, nói: “Cửu Di sơn núi cao rừng sâu, địa hình phức tạp, con súc sinh kia thông thuộc địa hình lại giỏi ẩn núp, dẫu dùng linh thức của Thần tộc cũng chẳng lần ra được, chả thế mà các thần tướng trước đây truy sát suốt trăm năm vẫn không giết nổi, nếu nó cứ lẩn trốn quanh vùng rừng núi này không ra mặt, e rằng nhất thời chúng ta chẳng tìm thấy đâu.” Các vị thần tướng len lén liếc nhau, đều dồn ánh mắt về phía Hắc Vũ khiến y hoảng hốt, chỉ sợ bị Chúc Dung hỏi kế sách. Nào ngờ Chúc Dung lại cười nhạt: “Ta sớm nghĩ ra cách xử lý nó rồi, muốn đối phó với dã thú, đương nhiên phải đặt mồi giăng bẫy, chúng ta cứ việc canh bẫy đợi nó tự đến nộp mạng là xong. Các người đi bắt hết đàn ông tráng niên tộc Cửu Di lại, hạn cho nó trước khi mặt trời xuống núi phải xuất hiện, bằng không sau khi mặt trời lặn, cứ tàn một nén nhang là giết mười người, chừng nào nó ra mặt thì thôi.” Lam Điền lộ rõ vẻ kinh hoàng, các thần tướng khác cũng biến sắc, chỉ mình Hắc Vũ cười nịnh tâu: “Tướng quân anh minh! Con súc sinh này do đám tiện dân Cửu Di thả ra thì hãy dùng chính đám tiện dân ở đó bắt về. Thuộc hạ nghe nói hôm nay là tết Khiêu Hoa[2] ở Cửu Di, đám tiện dân đó không cử hành hôn lễ nhưng nam nữ đều tụ cả về Khiêu Hoa cốc, giao phối với nhau như thú vật, giờ chúng ta cứ tới thẳng đó, đỡ phải bắt bớ. [2] Một ngày tết cổ truyền của dân tộc Miêu Trung Quốc, vẫn còn lưu truyền đến ngày nay. Vào ngày này, nam nữ thanh niên người Miêu thường ăn vận thật đẹp, thổi khèn ca múa dưới gốc cây để chọn bạn trăm năm. Địa điểm tổ chức thường là trên những sườn núi đã được lựa chọn từ trước, gọi là Khiêu Hoa cốc. (ND) Lam Điền lập bập lên tiếng: “Thần tộc không được lạm sát Nhân tộc, lỡ… lỡ Viêm Đế biết được thì hỏng bét…” “Viêm Đế biết sao được? Ngươi định đi tố giác?” Chúc Dung lạnh lùng nhìn y. Lam Điền lập tức quỳ xuống, “Thuộc hạ một lòng trung thành với tướng quân.” Chúc Dung hừ mũi, hạ lệnh: “Chúng ta đi xem thử tết Khiêu Hoa của đám tiện dân đó.” “Tuân lệnh!” Các thần đồng thanh hưởng ứng. Sâu trong Cửu Di sơn. Cây quá cao, rừng quá rậm nên dù mặt trời ngoài kia rạng rỡ tới đâu, trong khe núi này cũng chỉ nhập nhoạng như lúc chiều tà. Vu vương[3] tộc Cửu Di quỳ trên thảm lá mục, đầu hướng về phía núi, vẻ mặt cung kính. [3] Vua phù thủy. (ND) Lão dập đầu bái lạy mấy lần rồi cao giọng hô vang: “Xin vua của muông thú lắng nghe lời chúng con khẩn cầu!” Gió rừng lồng lộng núi non trùng trùng, chẳng nghe tiếng đáp. Vu vương cũng đã quen, xưa nay chưa ai tận mắt trông thấy Thú vương bao giờ, chẳng ai biết ngài là hổ hay gấu, bọn họ chỉ đời đời tin tưởng vào sự tồn tại của ngài mà thôi. Vu vương ủ rũ nói tiếp: “Thú vương, xin ngài mau trốn đi! Viêm Đế đã phái Hỏa thần Chúc Dung dẫn thần tướng tới giết ngài, Chúc Dung là đệ nhất cao thủ tộc Thần Nông, nghe nói hắn thao túng lửa trong thiên hạ, chỉ một đốm lửa có thể thiêu trụi cả tòa thành, từ thần đến yêu chẳng ai dám mạo phạm, ngài cũng khó mà chống nổi, xin hãy mau trốn đi thôi!” Rào rào, rào rào. Một đống dẻ dại đổ ập lên người Vu vương khiến lão tóe máu đầu. “Chi chi, chi chi…” Mấy con khỉ treo mình chuyền qua chuyền lại giữa các ngọn cây, vừa hung hăng nghiến răng nghiến lợi vừa tới tấp ném quả dại vào Vu vương, rõ ràng muốn đuổi lão đi. Vu vương chẳng những không tránh né, mà còn lê gối tiến tới, ra sức dập đầu khóc lóc: “Tâu Thú vương, ngài vốn ở trong núi sâu tự đến tự đi, không ràng không buộc, Cửu Di tộc chúng con là tiện dân, đáng ra nam phải làm nô, nữ phải là tỳ. Trăm năm trước, tại chúng con si tâm vọng tưởng, kéo ngài vào mối họa tày trời này, để đến giờ Thần tộc nổi giận, phái Hỏa thần Chúc Dung tới tiêu diệt ngài. Chúc Dung thần lực vô biên, có thể khiến trời nghiêng đất lệch, nghe đồn chín trăm năm trước có một con yêu long ở núi Phù Ngọc ngoài biển Đông dẫn theo hơn một ngàn tiểu yêu quái làm loạn, Viêm Đế phái hơn trăm đại tướng Thần tộc đi cũng không hàng phục nổi, Chúc Dung bấy giờ vừa mới trưởng thành liền xin xuất chinh, chỉ bày một trận địa hỏa đã thiêu tất cả yêu quái thành tro bụi.” Sợ Thú vương nghe không hiểu, Vu vương đánh liều mạo phạm khuyên nhủ: “Ngài sinh ra trong núi, lớn lên trong núi, sao hiểu được sự lợi hại của cao thủ Thần tộc chính tông. Nếu ví ngài với loài hổ báo hung mãnh nhất trên núi thì kẻ lần này tới chính là thợ săn giỏi nhất trên đời, hổ báo hung mãnh chừng nào cũng không chống nổi thợ săn bản lĩnh cao cường đâu. Thú vương ơi, van cầu ngài rời khỏi Cửu Di đi, chúng con cam lòng làm nô làm tỳ để người ta sai khiến…” Lão kêu khóc cầu xin hết nước hết cái nhưng đám khỉ trên cây vẫn hi hi hô hô, trơ trơ bỡn cợt. Vu vương dập đầu thêm mấy cái rồi loạng choạng ra khỏi rừng, bốn gã tráng niên vội chạy tới đỡ lão: “Vu vương, Thú vương đi rồi ư?” Vu vương đáp: “Ta đã nói rõ rằng chúng ta không cần ngài phù trợ nữa, xin ngài hãy đi thôi.” Thấy bốn gã sầm mặt lại, Vu vương nói tiếp: “Các ngươi đừng si tâm vọng tưởng nữa, lần này Hỏa thần Chúc Dung đích thân tới tiêu diệt Thú vương, trong thiên hạ còn ai dám đối đầu với hắn chứ? Lẽ nào các ngươi thực sự muốn Thú vương của Cửu Di ta phải chết sao?” Bốn gã đồng thanh đáp: “Dù chúng ta có chết cũng không để Thần tộc giết hại Thú vương.” Vu vương gật đầu, “Hôm qua ta đã phái Vu sư dẫn một trăm thanh niên cùng một trăm thiếu nữ tới dâng cho đám quý tộc ngoài kia làm nô bộc rồi, nghe nói Viêm Đế rất nhân hậu, chỉ cần chúng ta không làm loạn, nhất định ngài sẽ khoan thứ tội nghiệt, bãi bỏ lệnh tiêu diệt Thú vương.” Lão gắng gượng lấy lại tinh thần, vỗ vai bốn gã tráng niên cười nói: “Hôm nay là tết Khiêu Hoa, các ngươi đều là dũng sĩ Cửu Di, cô nương các bản đều đang đợi các ngươi đó, mau tới Khiêu Hoa cốc tìm cô gái mình yêu, sinh thêm mấy tiểu dũng sĩ đi!” Bốn gã tráng niên tuy dũng mãnh nhưng chưa từng bước chân ra khỏi núi, người tộc Cửu Di lại sẵn tính đơn thuần chất phác, nghe Vu vương nói xong đều gạt tâm sự ra khỏi đầu, kẻ xô người đẩy, vui vẻ đi tới Khiêu Hoa cốc. Tết Khiêu Hoa rơi vào mồng tám tháng Tư, chính là lúc xuân sắc ngập trời, hoa thơm khắp núi. Trong Khiêu Hoa cốc, khắp núi khắp đèo phủ đầy hoa tươi rực rỡ, các cô gái trang điểm lộng lẫy nấp dưới tàng cây hát sơn ca, tìm người yêu, đám trai tráng hoặc túm năm tụm ba đứng trên mỏm núi hát đối với mấy cô ả lanh mồm lanh miệng, hoặc một thân một mình đứng dưới bóng cây thổi khèn, những đôi nam nữ đã phải lòng nhau thì tay nắm tay lẩn vào bụi hoa thủ thỉ chuyện trò.
|
Bóng chiều tà đổ xuống sơn cốc tươi đẹp, gió xuân dịu dàng thoảng đưa hương hoa ngan ngát hòa cùng hương rượu nồng nàn, cô gái xinh đẹp cùng gã trai cường tráng trên sườn núi cao giọng hát khúc sơn ca say đắm, thổi điệu khèn rộn rã… Sơn cốc ngập tràn niềm vui, tựa hồ đến chú chim nhỏ trên cành cũng đang nhảy nhót, chẳng ai ngờ được chỉ lát nữa thôi, nơi đây sẽ biến thành một lò mổ tanh ngòm mùi máu. Đột nhiên lửa từ bốn phương tám hướng bùng lên, mọi người đang vui vẻ bị bất ngờ, chỉ biết kinh hoàng cuống quýt tránh lửa, dần dà cả đám bị dồn vào một chỗ, ngọn lửa vây thành một vòng tròn, ánh lửa phụt lên hệt như một hàng rào đỏ rực, giam tất cả vào hỏa ngục. Mấy dũng sĩ liều mình lao qua đám lửa nhưng ngọn lửa như một vật thể sống, quấn lấy người họ thiêu đốt, khiến họ kêu gào thảm thiết, ngã vật xuống đất, lăn lộn mãi không sao dập được lửa, cuối cùng bị thiêu đến chết. Cảnh tượng trước mặt khiến mọi người kinh hồn bạt vía, ngơ ngác không hiểu rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì. Bấy giờ, Chúc Dung mới cưỡi tọa kỵ từ trời đáp xuống, khinh khỉnh nhìn đám người trong vòng lửa. Hắn cao giọng nói vọng vào núi: “Súc sinh, hạn cho ngươi trước khi mặt trời lặn phải ra gặp ta, bằng không cứ cháy hết một nén nhang giết mười tên tiện dân, tới khi nào Cửu Di diệt tộc thì thôi.” Giọng hắn lan đi âm âm như sấm động khiến chim chóc giật mình, muông thú bỏ chạy, đám người trong vòng lửa vật vã bưng tai ngồi xổm trên mặt đất, thân thể nhũn ra bải hoải. Một dũng sĩ Cửu Di gắng gượng bò dậy hét lớn: “Thú vương ngài đã đi rồi, ngươi đừng hòng đem bọn ta ra uy hiếp ngài!” Chúc Dung cười nhạt: “Ta cứ giết bọn tiện dân làm loạn các ngươi đã, nếu nó chạy đến chân trời ta sẽ theo đến chân trời lấy đầu nó.” Bốn gã dũng sĩ Cửu Di can đảm nhất cũng run lên vì kinh hãi, hai mắt đỏ ngầu hết nhìn đám tộc nhân trong vòng lửa lại ngóng về phía dãy núi mênh mông, chẳng hiểu nổi mình đang mong Thú vương xuất hiện hay mong ngài đừng xuất hiện nữa. Vầng dương từ từ ngả về Tây, mỗi lúc một thêm nhỏ lại, giờ này hôm qua, trong bản vẫn nhà nhà đỏ lửa, nói cười xôn xao, vậy mà hôm nay chỉ còn tiếng thở khò khè nặng nhọc. Dần dà tiếng thở cũng nhỏ dần, mọi người đều nín thở, tựa hồ như vậy có thể khiến mặt trời chậm lặn, giành thêm chút cơ hội sống sót cho người trong tộc. Chờ cho tia nắng cuối cùng tan biến, Chúc Dung cười nhạt: “Quả là đồ súc sinh hèn nhát!” Hắn vẫy tay ra lệnh giết mười người. Hắc Vũ bước lên trước, Chúc Dung cùng các thần tướng đều âm thầm đề phòng, nếu súc sinh đúng là thần linh mà người Cửu Di cung phụng thì đây là cơ hội cuối cùng để hắn cứu người. Hắc Vũ từ từ vung dao lên. Thần linh ngoài vòng lửa, con người trong vòng lửa đều nín thở chờ đợi, cả sơn cốc bỗng chốc lặng như tờ. Soạt! Mười chiếc đầu lâu rào rào rớt theo ánh dao bổ xuống. “Ngươi mà cũng là thần sao? Ác ma còn không hung tàn như ngươi!” Bị máu tươi kích động, đám người quên bẵng nỗi sợ sệt trước thần linh, nhất loạt thét lên, vừa khóc lóc vừa chửi rủa. Chúc Dung thất vọng nhìn núi non trùng điệp xung quanh, bắt đầu nới lỏng phòng bị, xem ra súc sinh vẫn cứ là súc sinh, vô tình vô nghĩa, đời nào chịu liều chết cứu người chứ. Qua một tuần nhang nữa, Chúc Dung gật đầu với Hắc Vũ, Hắc Vũ lại bước tới vòng lửa, ánh đao nhoáng lên, thêm mười chiếc đầu rào rào rơi xuống đất. “Liều mạng với chúng đi!” “Lạy ngài, ngài là thần linh tôn quý kia mà!” Tiếng chửi rủa phẫn nộ của đàn ông, tiếng khóc than thảm thiết của đàn bà náo động cả núi rừng. Lại thêm một tuần nhang nữa, Chúc Dung cũng chẳng buồn quan sát, chỉ chăm chăm tính toán xem đồ súc sinh kia trốn đi đâu. Thấy Hắc Vũ lại bước đến gần vòng lửa, mấy gã trai tráng liền lao tới đẩy đám phụ nữ ở ngoài rìa ra sau lưng mình, tự động dàn thành một vòng tròn chẵn mười người, nét mặt điềm nhiên nhưng ánh mắt ngùn ngụt căm hờn, trừng trừng nhìn Hắc Vũ đầy vẻ quật cường. Hắc Vũ thầm rúng động, vội nghiến răng vung dao toan chém xuống, bỗng ầm một tiếng, y đột ngột biến mất tăm, chỉ để lại trên mặt đất một miệng hang đen ngòm sâu hoắm. Lam Điền cùng mấy thần tướng tiến lại xem xét, thấy hang động đó vừa hẹp vừa sâu, ánh lửa khó mà rọi thấu, mấy con tê tê bên trong ló ra ngó nghiêng rồi lại rụt đầu vào. “Hắc Vũ?” “Chết… chết rồi!” Một giọng lơ lớ vang lên tựa như không quen nói chuyện, chỉ phát ra hai tiếng cụt ngủn cũng ngọng nghịu rất khó nghe. Có điều đám người trong vòng lửa chợt ào lên hoan hô vang dậy: “Là Thú vương!” “Thú vương ngài đến rồi!” Chúc Dung nổi giận tung ngay ra một chưởng, quẳng lửa đỏ rực rít lên bay thẳng vào hang. “Á!” Bên trong vang lên tiếng gào thảm thiết, nghe rất quen. Nhờ ánh lửa, Lam Điền nhác thấy hình như có người nằm úp sấp trong hang, liền duỗi cây roi thần Như Ý ra vô hạn, kéo người ấy lên. Là một cái xác đã bị lửa của Chúc Dung đốt cháy đen. “Là, là… Hắc Vũ.” Các thần tướng len lén nhìn nhau, bấy giờ Chúc Dung mới nhận ra mình vừa trúng quỷ kế của súc sinh, giết nhầm Hắc Vũ, còn con súc sinh bên dưới hẳn đã chuồn mất từ lâu. Chúc Dung nổi cơn thịnh nộ, toan giết sạch cả đám tiện dân còn lại trong vòng lửa, đột nhiên một cô gái hét lên: “Ngài nói chỉ cần Thú vương xuất hiện sẽ tha cho chúng tôi, giờ Thú vương đã xuất hiện rồi đấy thôi!” Tuy Chúc Dung tính tình nóng nảy, tàn nhẫn hiếu sát nhưng xưa nay luôn cao ngạo, chưa từng nuốt lời. Không tìm được nơi trút giận, hắn đành căm uất ngửa mặt nhìn trời thét vang: “Súc sinh, nhất định ta phải tự tay cắt đầu moi tim gan ngươi ra mới hả dạ!” Dứt lời hắn điên cuồng biến chưởng, tạt lửa vào hang, rầm một tiếng, cả hang động sụp xuống. Lam Điền cúi mặt nhìn xuống đất, thầm phân tích tình cảnh vừa rồi. E rằng khi họ vừa tới Cửu Di, súc sinh kia đã ở trong tối âm thầm quan sát, đợi tới lúc hai mươi người Cửu Di bị giết, tiện dân vừa khóc lóc vừa chửi, ồn ào nhốn nháo, bọn họ ngỡ rằng kế sách thất bại, bắt đầu lơi lỏng phòng bị, nó liền chớp thời cơ sai đám tê tê đào thông hang động. Hắc Vũ rớt xuống hang, lâm vào thế địch trong tối ta ngoài sáng lại không dám la lên sợ bị ám toán, súc sinh nhân đó bèn cố ý cất tiếng chọc giận Chúc Dung, mượn đao giết người. Nếu thần lực của Chúc Dung yếu hơn một chút có lẽ Hắc Vũ còn kịp giải thích, tiếc rằng thần lực của hắn quá mạnh, chỉ chớp mắt đã đoạt lấy mạng Hắc Vũ. Con súc sinh này quả nhiên nham hiểm độc ác, nếu hôm nay để nó trốn mất thì ngày sau đừng hòng dùng con tin mà uy hiếp nữa, một dải Cửu Di núi non trùng điệp chính là nhà của nó, dù thần lực bọn họ cao cường đến đâu cũng chỉ như mò kim đáy bể mà thôi. Các vị thần tướng đều mặt mày ủ ê, sợ Chúc Dung trách mắng, nhưng hắn chỉ nhắm mắt giây lát rồi trỏ về phía Tây Nam ra lệnh: “Súc sinh chạy về bên đó, chúng ta mau đuổi theo! Lúc lẩn vào động, thân mình nó đã dính phải hỏa linh, không chạy khỏi lòng bàn tay ta được đâu!” Đám thần tướng nghe nói lập tức phấn chấn tinh thần, tu vi của súc sinh so với Chúc Dung cách nhau trời vực, lợi thế duy nhất chỉ là thông thuộc địa hình, giỏi ẩn núp, giờ đây chẳng thể lẩn trốn được nữa cũng có nghĩa là đã mất đi mọi sự bảo vệ rồi. Chúc Dung lệnh cho chúng thần tướng: “Các người cứ vờ như không biết, truy đuổi bốn phía để nó trốn tiếp. Ta sẽ tới trước đón lõng, để xem nó rốt cuộc là giống gì, bất kể là yêu hay ma cũng phải cho nó nếm mùi bị lửa giày vò từng chút một, đợi khi nào nó kêu khóc xin tha thì cắt luôn thủ cấp.” Chúc Dung nắm giữa binh quyền, đến vương tử cũng phải nhường nhịn ba phần, vậy mà hôm nay lại bị một con dã thú đùa giỡn, không đích thân giết nó, hắn làm sao hả giận được. “Tuân lệnh!” Chúng thần tướng đồng thanh hưởng ứng. Chúc Dung thu lại khí tức, cưỡi Tất Phương điểu lẳng lặng bay lên trước chặn đầu súc sinh. Sau khi đáp xuống, Chúc Dung bắt đầu đưa mắt quan sát địa thế. Hai bên là vách đá dựng đứng chót vót tận mây xanh, nếu không nhờ tọa kỵ thì Thần tộc cũng khó vượt qua nổi, trước sau chỉ có hai con đường mòn đã tiêu điều, chẳng còn lối mà đi, đám dây leo chằng chịt sợi dài sợi ngắn trên vách núi trông như một tấm mành châu xanh lục buông rủ so le. Chúc Dung chăm chú nhìn đám dây leo cười nhạt, đoạn múa tít song chưởng, khẽ bật ngón tay, vô số điểm hỏa tĩnh bắn ra như đom đóm, bay lòng vòng giữa đám dây leo rồi tan dần vào đó. Bố trí xong xuôi, hắn liền lẩn vào rừng rậm, lặng lẽ đợi con súc sinh tới nộp mạng. Súc sinh kia hành động rất nhanh, chưa hết một tuần trà đã nghe thấy âm thanh khe khẽ truyền tới. Chúc Dung chăm chú nhìn kỹ, chỉ thấy một con vật vóc dáng cao ráo, tựa như vượn mà không phải vượn, toàn thân phủ một lớp lông dài, từ trong rừng chạy đến. Chúc Dung định đợi nó đến gần thêm chút nữa mới bất ngờ ra tay, nhưng con súc sinh kia chợt khựng lại, thận trọng nhìn về phía hắn đang náu mình. Chúc Dung vốn có thần lực cao cường, một khi thu lại khí tức, dù là cao thủ Thần tộc cũng khó mà phát hiện được nhưng dường như con súc sinh này chỉ hít hít mấy cái đã đánh hơi thấy hiểm nguy. Thấy súc sinh phát hiện ra mình, Chúc Dung chẳng buồn ẩn nấp nữa, cứ thế bước ra ngoài. Vừa trông thấy Chúc Dung, súc sinh liền nghiến răng trợn mắt gầm lên một tiếng rồi nhe nhanh múa vuốt xông đến, sức mạnh vô cùng, uy thế khủng khiếp đến hổ báo cũng phải đờ ra vì sợ, có điều, lần này kẻ đụng độ với nó lại là Hỏa thần Chúc Dung. Hắn ung dung bật nhẹ ngón giữa, bắn ra mấy cuộn lửa, súc sinh kia chẳng dè cũng có linh lực, liền biến ra dăm chiếc lá cản đám lửa lại. Nhân lúc ngọn lửa đang bị ngăn trở, súc sinh bèn nhảy phốc tới trước, túm lấy một sợi dây leo đu mình lên, rồi thoáng cái lại túm được một sợi khác cao hơn, chỉ cần đu thêm mấy lượt nữa nó sẽ băng qua dãy núi chạy mất, trong khi Chúc Dung vẫn phải gọi tọa kỵ, mà nơi này gai góc dây nhợ chằng chịt, e rằng Tất Phương điểu khổng lồ đến đập cánh cũng khó. “À… uồm… uồm…” Súc sinh đứng trên cao nhe răng trợn mắt với Chúc Dung, chẳng hiểu đang làm mặt quỷ hay đang giễu cợt. Chúc Dung cười nhạt mắng: “Súc sinh rốt cuộc vẫn là súc sinh!” Vừa dứt lời, mấy đốm lửa chợt bay ra từ đám dây leo, biến thành rằn lửa quấn chặt lấy súc sinh, bén vào bộ lông dài thượt trên mình nó. Đám dây leo buông rủ trên vách núi nhất loạt biến thành dây lửa cháy phừng phừng, khiến súc sinh chẳng dám nắm lấy, đành tuột xuống đất, lao vụt đi như gió, nhanh hơn cả báo săn, có lẽ đến thần cũng khó mà đuổi kịp. Nhưng trong rừng tối tăm, ánh lửa trên mình nó lại sáng rực chói mắt như mặt trời, còn trốn vào đâu được? Chúc Dung cười ha hả thong dong đuổi theo sau: “Ngươi dùng kế bỡn cợt ta thì ta cũng cho ngươi nếm mùi bị bỡn cợt.” Súc sinh vừa điên cuồng tháo chạy vừa biến ra vô số phiến lá, toan dùng linh lực dập lửa nhưng Chúc Dung được tôn là Hỏa thần, lửa của hắn nào có dễ dập? Da thịt bị thiêu đốt, súc sinh đau đến nỗi cào lông xé bờm, ngửa đầu gào rú, tiếng kêu gào cứ âm âm lan đi giữa rừng sâu núi thẳm, muôn loài đều nghe thấy. Lập tức mấy con sài lang linh cẩu trong rừng xông ra định chặn Chúc Dung lại, nhưng chưa chạm được đến hắn đã bị thiêu cháy đen thui. Giờ đây Chúc Dung mới hiểu danh xưng Thú vương chẳng phải gọi suông, con súc sinh này quả có thể sai khiến muông thú, mỗi cánh chim con thú trong rừng đều là thám tử của nó, hèn chi nó ẩn nấp giỏi đến thế. Khắp người súc sinh phừng phừng lửa đỏ, không trốn vào đâu được, thêm vào đó, tốc độ chạy càng lúc càng chậm lại vì đau đớn, dần dà nó bị Chúc Dung bắt kịp. Hắn tung pháp khí Hóa Linh Hỏa Võng[4] của mình ra chụp xuống súc sinh, đắc ý thúc động liệt hỏa khiến nó rú lên thảm thiết, nhưng súc sinh dã tính khó thuần, mặc cơn đau thiêu xương đốt thịt vẫn cố vùng vẫy thò vuốt ra ngoài toan tấn công Chúc Dung. Xưa nay chưa từng có thần thánh yêu ma nào bị chụp trong Hóa Linh Hỏa Võng mà còn dám phản kháng nên Chúc Dung có phần sơ ý, liền bị móng vuốt của nó cào phải, để lại năm vệt máu chạy dài trên cánh tay. Hắn nổi giận lật tay chặt đứt cánh tay súc sinh, rồi vung chân đá vào chân nó, mấy đốm lửa trắng từ ngón chân hắn tức thời lặn vào da thịt con súc sinh, tuy nhìn bề ngoài chẳng thấy thương tích, nhưng ngọn lửa đã lặn vào trong, từ từ thiêu cháy gân chân. [4] Lưới lửa Hỏa Linh. (ND) Chúc Dung hung tợn gằn giọng: “Ta sẽ từ từ thiêu cháy hết gân tay gân chân, rồi thiêu đến đầu lâu ngươi, để ngươi hóa thành tro bụi cũng phải ghi nhớ sự lợi hại của Chúc Dung ta.” Súc sinh trừng mắt nhìn Chúc Dung, chẳng hề lộ vẻ sợ sệt. Thiêu cháy hết gần một bên chân, Chúc Dung lại đá vào cổ tay súc sinh, đúng lúc đó, súc sinh đột nhiên vận toàn lực, lấy đầu làm vũ khí húc vào hạ bộ hắn. Khắp người Chúc Dung đều là lửa, chỉ riêng chỗ đó còn mang sứ mệnh quan trọng khác nên không thể luyện cho bốc lửa lên được, đành nghiêng mình né vội, súc sinh lập tức chớp thời cơ lộn nhào trên không vùng khỏi lưới lửa, tiếc rằng nó đã kiệt sức tàn hơi, vừa tung mình vọt đi chưa được bao xa đã rơi bịch xuống bụi cỏ gần đó. Chúc Dung vội đuổi theo sát gót, “Để xem ngươi chạy đường nào…” đang nói dở chừng, súc sinh đã kéo theo cả bụi cỏ rơi tọt xuống hố, đợi khi Chúc Dung chạy tới nơi thì chẳng thấy tăm tích nó đâu nữa. Đây là một cái bẫy gấu của thợ săn, bên trong chỉ có một con hươu nhỏ sa bẫy, mấy ngày nay thôn bản bận chuẩn bị cống nô lệ nên thợ săn chưa rảnh tới thu thập chiến lợi phẩm. Có điều mùi máu hươu đã dẫn dụ bầy chó sói, chúng không dám từ trên xông xuống, cũng chẳng dám lại gần bẫy, bèn đào hố từ bên rìa vào ăn vụng. Con súc sinh kia đã lợi dụng ngay cái hố mà sói và người vô tình cùng đào để trốn thoát. “Xem ngươi làm sao thoát khỏi tay ta!” Chúc Dung dùng thần thức truy tìm hoài không thấy, bấy giờ mới thực sự hiểu tại sao xác con hươu trong bẫy lại bị xé thành mấy mảnh, thì ra con súc sinh giảo hoạt khá am hiểu chuyện đấu trí đấu dũng giữa thợ săn và dã thú, nó đoán Chúc Dung có thể lần tới tận đây mai phục đón lõng, hẳn trên mình nó phải có thứ gì đó dẫn dụ, nên đã xé xác con hươu, vừa chạy vừa bôi máu lên mình để giấu mùi, giống như những thợ săn sày dạn kinh nghiệm thường vẩy nước tiểu động vật vào mình để làm nhạt mùi người. Hỏa linh của Chúc Dung luyện ngàn năm mới thành, gió thổi không tan, nước rửa không hết, máu hươu càng không che giấu được, nhưng trời sinh vạn vật tương sinh tương khắc, kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, ngũ hành vừa tương sinh và tương khắc. Súc sinh máu vàng nhuốm máu tươi vừa khéo lại khắc chế được hỏa linh của Chúc Dung. Chẳng biết đồ súc sinh ấy hiểu được thuyết ngũ hành tương khắc hay là chó ngáp phải ruồi, dù sao Chúc Dung cũng đã để mất dấu nó. Chúc Dung nổi giận vung tay quạt ra một chưởng, lửa hồng lập tức bùng lên thiêu rụi tất cả cây cỏ xung quanh. Lam Điền dẫn theo chúng thần đuổi tới, nghe tiếng Chúc Dung điên cuồng chửi rủa đòi phanh thây súc sinh thành trăm mảnh liền biết rằng hắn đã thua, chẳng ai dám nhiều lời. Đợi Chúc Dung bớt giận, Lam Điền hỏi rõ đầu đuôi rồi nói: “Súc sinh đã bị thương một tay, lại bị đốt cháy một bên gân chân, chẳng chạy nhanh được nữa, chúng ta cứ tìm kỹ nhất định sẽ bắt được thôi.” Chúc Dung lập tức hạ lệnh phải tìm kỹ từng tấc đất, không được bỏ qua bất kỳ thứ gì khác thường. Đúng như Lam Điền phân tích, súc sinh đi lại khó khăn, trong lúc chạy trốn, lo được chỗ này thì bỏ mất chỗ khác, không khỏi để lại dấu vết, tuy có địa hình phức tạp yểm trợ nhưng đám thần tiên đuổi theo đều là thần tướng linh lực cao cường chứ chẳng phải tiểu thần tiểu yêu, dẫu dùng cách nào cũng không cắt đuôi hoàn toàn được. Chạy trốn không ngừng nghỉ suốt bảy ngày, súc sinh cũng đã sức cùng lực kiệt. Không có lúc nào nghỉ ngơi nên vết thương trên người nó mỗi lúc một thêm trầm trọng, chân trái bị thiêu đứt gân càng lúc càng đau buốt, hễ nhúc nhích là đau thấu xương như lửa đốt bên trong. Súc sinh ngửa mặt nhìn vách đá sừng sững ngàn trượng trước mặt, băng qua ngọn núi này là ra khỏi Cửu Di. Rất nhiều năm trước nó đã từng qua bên kia núi, có lẽ giờ đây để thoát được đám thần tướng đang lằng nhằng đuổi theo sau, nó lại phải làm vậy. Súc sinh hít vào một hơi, nó bấu vào một mẩu đá gồ ra trên vách núi nhưng lập tức run rẩy tuột tay rớt xuống, may nhờ đám cành cây đâm ngang chĩa dọc cản bớt mới hãm được đà rơi. Nhìn xuống dưới thấy mấy tảng đá rơi xuống đất vỡ nát, súc sinh thầm hú vía, nếu nó rớt xuống ắt cũng cùng chung kết cục. Chẳng rõ vì bị thương hay mệt mỏi, nó bỗng thấy choáng váng, uất ức hộc ra một búng máu rồi lại liêu xiêu trèo tiếp. Dựa vào một chân một tay, trèo lên tới đỉnh nó đã mệt nhoài không ngóc nổi đầu dậy nữa, cả người rời rã nằm vật bên sườn núi thở hổn hển, chỉ muốn lăn ra ngủ. Trong rừng vẳng lên tiếng cú rúc sói tru báo hiệu có người ngoài xâm nhập, hẳn bọn Chúc Dung lại đuổi tới rồi. Súc sinh gắng gượng ngẩng đầu nhìn sang vách núi đối diện, nếu tay chẳng bị thương, gân chân không bị đốt, nó thừa sức nhảy qua khe núi này, nhưng giờ đây khắp mình thương tích, đến nhích thêm một bước nó cũng chẳng còn đủ sức. Bấy giờ, rốt cuộc nó cũng hiểu ra: mình không trốn nổi nữa rồi. Suốt mấy trăm năm nó đã theo bầy thú trốn chạy vô số lần, vô số lần chứng kiến cảnh đồng bọn mình bị thợ săn giết hại, qua mỗi cuộc vật lộn sinh tử, nó lại học thêm được đủ loại kỹ năng để sinh tồn, nhưng hổ dữ dù dũng mãnh đến đâu cũng phải có lúc bị thương, cũng có thể bị thợ săn bắt được. Hít sâu một hơi, súc sinh gắng nén đau gượng dậy, tứ chi chạm đất nhưng chỉ còn nhúc nhắc được một tay một chân, nó rạp người bò tới bên vách đá hệt như con sói bị thương. Nhìn từ trên cao, súc sinh thầm nghĩ thà nhảy xuống vách núi này tan xương nát thịt, để sói mẹ tha xương thịt mình đi làm mồi cho sói con còn hơn bị lột da làm nệm, cắt đầu làm đồ trang trí trong nhà lũ thợ săn. Súc sinh ngước đầu ngắm nền trời xanh thẳm, vầng trăng tròn sáng tỏ lơ lửng giữa tầng không dịu dàng soi rọi khắp nhân gian. Suốt mấy trăm năm, nó từng có biết bao đồng bọn, cũng từng mất đi hết đám này tới đám khác, trong rừng già, sáng sống chiều chết là chuyện thường, từ chỗ tranh không nổi miếng ăn đến hôm nay thống lĩnh núi rừng, nó đã chẳng còn gì tiếc nuối, nhưng giờ đang giữa mùa xuân, mùa xuân khiến nó bồn chồn nghi hoặc… Tiếng cú rúc càng lúc càng chói tai, nó liền nhắm nghiền mắt nhảy xuống. Gió thổi ù ù bên tai theo đà rơi tựa một khúc ai điếu đầy chết chóc. Có lẽ vì không dùng thị giác, khứu giác của nó bỗng trở nên tinh mẫn lạ thường, cũng có lẽ vẫn còn lưu luyến cuộc đời này, nó đột nhiên cảm nhận được hết sức rõ rệt từng mùi vị trong không khí: hương hoa đang nở rộ thơm ngào ngạt, mùi máu tanh ngòn ngọt của con mồi bị dã thú tha về hang nuôi con, mùi sữa thoang thoảng của con non mới chào đời, thêm cả mùi gì đó là lạ vừa man mát, vừa ấm áp, rất khó tả theo gió thoảng qua, không sao nhận biết khiến người nó chợt nóng bừng. Đương lúc hoang mang vì thứ mùi lạ trong rừng mà mình mãi không nhận ra nổi, một tràng cười lanh lảnh như chuông bạc ngân nga trong gió xuân vẳng tới khiến nó giật thót mình, liền vươn tay ra theo phản xạ, bất ngờ nắm được một cành cây, theo bản năng hình thành từ mấy trăm năm, thân thể nó tự động cuộn tròn lại, lộn một cái là đã đu mình lên cây. Giữa khe núi lởm chởm đá là một dòng suối róc rách trôi xuôi, tùy theo thế núi hai bên khi hẹp khi rộng, dòng suối cũng có khúc chảy xiết có đoạn êm đềm. Thiếu nữ áo xanh khoan thai dạo bước, một tay xách giày tay kia vén váy, nhón chân nhảy thoăn thoắt từ hòn đá này sang hòn đá kia giữa lòng suối, vừa nhảy vừa cười, ánh trăng lấp loáng trên bàn chân trắng nõn của nàng, uyển chuyển như thủy linh, kỳ ảo tựa hoa yêu. Đương mùa hoa đào nở rộ, hoa nở đỏ rực hai bên vách núi, trải ra bát ngát dưới ánh trăng, huy hoàng tựa ráng chiều, rực rỡ ngang gấm lụa, mỹ lệ như mộng như mơ. Thiếu nữ áo xanh cũng mê mẩn trước cảnh sắc nơi này bèn ngồi xuống tảng đá bên khe vọc nước. Đột nhiên nàng đứng dậy, gỡ trâm, xõa tóc, tháo dây lưng, cởi y phục rồi khỏa thân nhảy ùm xuống suối như một chú cá tung tăng bơi lội, thoắt lặn ngụp, thoắt ngoi lên, có lúc còn thả mình bồng bềnh trên mặt nước, ngâm nga một khúc ca dao, mặc những cánh hoa đào lả rả rụng xuống, dịu dàng hôn lên thân thể. Mùi lạ trong gió càng lúc càng thê lương, Chúc Dung sắp đuổi tới nhưng súc sinh vẫn đang mơ màng quên hết mọi thứ, bức tranh hoa đào nở đầy khe núi trong đêm trăng tròn mà thiên nhiên tạo nên thật trọn vẹn, tựa như đóa hoa dại đầu tiên trên mảnh đất hoang, như tiếng sấm xuân đầu tiên giữa ngày đại hạn, khiến một thứ gì đó lạ lẫm mà thân quen trong lòng nó đột ngột vỡ òa. Hơn trăm năm nay, mỗi độ xuân về, đám dã thú đều bỗng dưng thay đổi tính nết, đi đến đâu nó cũng thấy từng đôi từng cặp dã thú quấn quýt lấy nhau, vào lúc đó, dù là đồng bọn thân thiết nhất cũng nhe răng gầm gừ cảnh cáo nó tránh xa, rời bỏ nó chẳng chút do dự. Nó từng thắc mắc, nghi hoặc, lủi thủi chạy tới chạy lui, tra xét khắp nơi, nhưng càng thấy càng hồ đồ, nó chẳng hiểu sao chú chim nhỏ xinh xẻo kia lại đứng trước chiếc tổ mà mình dày công dựng nên, xòe đuôi lộng lẫy rù rỉ rù rì hót mời một cô chim khác vào ở, cũng không hiểu sao con cáo nâu bủn xỉn gian manh lại đem con gà liều mạng trộm được trong thôn dâng ột ả cáo khác, vừa kêu vừa nhảy đầy nịnh nọt đẩy con gà tới trước mặt, nài nỉ ả ăn cho, càng không hiểu sao lão hổ trắng vốn độc lai độc vãng lại dám quyết đấu cùng mấy con hổ lớn để bảo vệ một con hổ cái, dù mình đầy thương tích cũng không chùn bước. Trong cô đơn và mê muội, nó luôn cảm thấy có thứ gì ở đâu đó phía trước, chỉ cần nắm bắt được thứ ấy, nó sẽ hiểu vì sao bọn chim thú kia vui sướng nhường ấy, hiểu bản thân nó là ai, hiểu ý nghĩa của mùa xuân, hiểu tại sao nó lại lẻ loi một mình, nhưng bất luận nó giương vuốt vỗ bắt ra sao cũng không tài nào bắt nổi. Giờ đây, giữa mùa xuân tràn trề nhựa sống, vạn vật sinh sôi nảy nở này, cũng như vô số dã thú trong rừng khi trông thấy con thú cái, nó đã đột nhiên hiểu ra. Nàng thiếu nữ trong khe núi đã đánh thức điều gì đó đang say ngủ trong tâm khảm nó. Nó những muốn bế xốc nàng đem về tổ của mình trên cây, về hang của mình trong núi, học theo chú chim đó thủ thỉ với nàng rằng tổ nó dựng khiến cô an toàn xiết bao, có thể ngăn được diều hâu, bảo vệ được những quả trứng mà nàng sinh ra; nó muốn đi bắt con thú ngon nhất về dâng trước mặt nàng, xé phần bụng mỡ màng nhất ra cầu khẩn nàng ăn như con cáo nâu kia; nó muốn đái khắp xung quanh khe núi để mỗi gốc cây hòn đá đều lưu lại mùi của mình, tuyên cáo với tất cả dã thú và thợ săn rằng đây là lãnh địa của nó, để nàng có thể tự do săn mồi ở đây, không cho bất cứ ai làm tổn thương nàng, nếu kẻ nào to gan dám xông vào lãnh địa của nó mà uy hiếp nàng, nó thề sẽ quyết đấu với chúng đến chết, như lão hổ kia vậy. Suy nghĩ sục sôi đó chẳng khác nào ánh chớp rạch ngang nền trời đen kịp, khiến cõi lòng mờ mịt hoang vu của nó chợt sáng bừng lên. Mùa xuân, hóa ra đây chính là mùa xuân! Nó ngửa cổ tru lên dưới ánh trăng, tiếng hú ngân dài lảnh lót phá vỡ sự tĩnh lặng yêu bình bên khe núi khiến hết thảy dã thú trong rừng đều sợ sệt nằm rạp xuống, núi rừng phút chốc lặng phắc như chết. Nàng thiếu nữ dưới suối cũng ngước lên nhìn, nhưng từ xa chỉ thấy bóng một con dã thú vừa giống hổ vừa giống sói đang đứng trên vách đá, sau lưng là vầng trăng khổng lồ tròn vành vạnh, dã thú ngửa đầu tru lên thê thiết như đang đắm mình giữa vũng trăng, từng sợi lông đều toát lên vẻ uy phong lẫm liệt. Cõ lẽ vì ở tít dưới khe suối nên nàng thiếu nữ chẳng hề thấy sợ, trái lại còn cười lên lảnh lót, dang hai tay đập nước làm bắn tung những hạt nước lấp lánh đủ màu cùng những cánh hoa đào rực rỡ, nàng tung tăng nô giỡn giữa muôn ngàn bọt nước và cánh hoa, khi đứng khi nằm, khi xoay tròn khi đáp xuống hòa cùng tiếng tru của con dã thú, hệt như đang múa một điệu hoa đào dưới trăng trong vì nó vậy. Súc sinh bi thương chiêm ngưỡng nàng trong phút chốc rồi kiên quyết quay mình tuột xuống vách đá, kéo lê cái chân gẫy khấp khiểng rời khỏi khe núi. Dọc đường, nó chẳng những không lo che giấu hành tung mà thỉnh thoảng còn dừng bước nghiêng tai nghe ngóng, xác nhận bọn Chúc Dung đã đi xa khỏi khe núi, đang bám theo dấu vết của mình. Giữa tiết xuân muôn hoa rực rỡ, bướm lượn oanh bay này, nỗi cô đơn nghi hoặc suốt mấy trăm năm đã tiêu tan, nhưng khi vừa kịp hiểu ra mình nên làm gì trong ngày xuân đẹp đẽ thì nó đã chẳng thể sống thêm một mùa xuân nào nữa. Điều duy nhất nó có thể làm, chỉ là giữ gìn cho nàng ấy không bị tổn hại mà thôi.
|
Q.1 - Chương 2: Lỡ Vướng Phải Lưới Trần Giăng Mắc Mặc gió thổi tung mái tóc, nàng đưa mắt nhìn khắp bốn bể, chợt trông thấy hắn, nàng liền nhoẻn miệng cười, thời khắc ấy, hoàng hôn lung linh, ráng chiều sóng sánh, con đường ngập trong cát bụi như có ngàn vạn gốc đào theo nhau nở rộ, muôn sắc rạng ngời, hoa bay phấp phới. Hai trăm năm sau, trên Thần Nông sơn. Thần Nông sơn là trung tâm của vương quốc Thần Nông, tổng cộng có bốn sông chín núi hai mươi tám đỉnh, ngọn Tử Kim cao nhất chính là nơi ở và nghị sự của Viêm Đế. Những năm gần đây Viêm Đế say mê y dược, mấy chuyện công văn giấy tờ đều do vương tử Du Võng thay mặt xử lý, Du Võng là con trai độc nhất của Viêm Đế nhưng thần lực kém cỏi, còn chẳng lọt nổi vào số một trăm người lợi hại nhất tộc Thần Nông, có điều y lòng dạ nhân từ, hành sự độ lượng nên bề tôi trong triều cùng chư hầu các nước rất ủng hộ. Hôm nay sau khi tan triều, Du Võng không xuống núi mà tách khỏi đám tùy tùng, cưỡi tọa kỵ đến cấm địa Thảo Ao lĩnh. Hai trăm năm trước, Thảo Ao lĩnh đã bị Viêm Đế liệt vào hàng cấm địa, vậy mà Du Võng có vẻ vô cùng thông thuộc đường lối vào đây. Y đáp tọa kỵ xuống một gò đất khuất nẻo rồi vạch lùm cây bụi cỏ, níu lấy mấu đá trèo lên vách núi. Trên vách đá cheo leo có một căn nhà tranh dựa lưng vào núi, bên trong vắng ngắt, xung quanh chỉ có sương mù bảng lảng phủ mờ tầm mắt, cách đấy chưa tới một trượng là vách đá dựng đứng xanh rì những cây tùng cây bách mọc nghiêng so le nhau, mấy con khỉ tai trắng đang rau ráu ăn quả dại, hai cánh diều hâu một trước một sau bay tới đậu lên cành cây kêu quang quác. Du Võng đứng bên vách núi ngắm bể mây bát ngát, lặng lẽ đợi, hồi lâu mới nói với đám khỉ và diều hâu: “E rằng lúc ta đang ở lưng chừng trời các ngươi đã mật báo cho Xi Vưu rồi, sao còn chưa thấy hắn?” Khỉ mải mê gặm quả nhí nhách, diều hâu thì bận rỉa lông kêu quang quác, rõ ràng không hiểu tiếng người, cũng chẳng thể trả lời Du Võng, nhưng dưới vách núi đã nghe có giọng nói vọng lên: “Ta chưa ngửi thấy mùi rượu, đương nhiên chẳng đi nhanh được rồi.” Một cơn gió chợt ào đến mang theo hơi ấm khiến biển mây cuộn sóng như lớp màn the che phủ khắp nơi, tùng bách dập dờn, vách núi ẩn hiện, bỗng chốc cả đất trời vụt trở nên mịt mờ. Đột nhiên một vệt bóng đỏ rực như máu rẽ biển mây ló ra tựa vầng thái dương sáng chói, phấp phới bay về phía Du Võng, nhìn có vẻ ung dung, kỳ thực lại đang tới cực nhanh. Đợi khi bóng người kia đáp xuống, mây mù tan hết mới thấy đó là một nam tử vóc dáng cao lớn, dáng đứng uể oải, áo quần nhếch nhác, đầu tóc bù xù, dáng vẻ thờ ơ nhưng cặp mắt lại sắc sảo lạ thường, để tỏ ý tôn trọng, hắn hơi cúi đầu với Du Võng, né tránh ánh mắt y. Nam tử áo đỏ chính là Xi Vưu mà Du Võng đang đợi, thấy y tới tay không, hắn lẩm bẩm: “Không mang rượu tới thì tới cấm địa tìm ta làm gì?” Du Võng cười nói: “Nếu giúp ra tra rõ một chuyện, ta sẽ lẻn vào địa cung của phụ vương trộm rượu cống phẩm tuyệt ngon ra cho ngươi.” “Ngươi có cả đống tay chân mẫn cán kia mà, còn nhờ ta giúp gì nữa chứ?” “Nghe nói Chúc Dung đang thèm muốn địa hỏa ở Bác Phụ sơn, y đã biến cả ngọn núi thành lò luyện công khiến mấy trăm dặm xung quanh cây cỏ không mọc nổi, dân chúng Bác Phụ quốc khổ sở lầm than nhưng chẳng quan viên nào dám tấu trình lên phụ vương. Ta muốn phái một vị thần đi tra xét chuyện này, nếu là sự thật thì sẽ lập tức tâu lên phụ vương, lệnh cho Chúc Dung dẹp ngay lò luyện. Chuyện cũng không có gì to tát nhưng ngươi biết rồi đấy, tính Chúc Dung nóng như lửa, chẳng có mấy thần tiên dám đắc tội với y, nghĩ đi nghĩ lại chỉ mình ngươi không sợ y thôi.” Xi Vưu huýt mấy tiếng, một con khỉ tai trắng liền nhảy ngay lên vách núi cung kính dâng mấy quả dại đỏ thắm tới trước mặt hắn. Xi Vưu vừa đưa quả dại lên miệng cắn, vừa nói mập mờ: “Ta không sợ y không có nghĩa là ta sẽ đi kiếm chuyện với y. Oán hận chất chồng giữa ta và y đã quá nặng rồi, ngươi nên biết rằng sư phụ biến nơi này thành cấm địa chính là để cấm ta và Chúc Dung tiếp xúc với nhau, sợ y nhất thời nóng giận sẽ giết ta.” Biết Xi Vưu ưa mềm không ưa cứng, Du Võng bèn rầu rĩ khom lưng chắp tay, giở giọng nài nỉ: “Hảo huynh đệ, ngươi giúp ta đi mà.” Xi Vưu lắc đầu cười: “Thôi, thôi! Ta đi Bác Phụ sơn giúp ngươi một chuyến là được chứ gì.” Thấy Xi Vưu nhận lời, Du Võng vẫn chưa yên tâm: “Mọi chuyện ngươi đều phải cẩn thận, chỉ cần ngấm ngầm tra xét xem lời đồn có thực hay không là được, những việc khác cứ để ta xử lý, nhất thiết đừng giao đấu trực tiếp với Chúc Dung nhé. Còn nữa, ngươi chải lại đầu tóc sửa sang quần áo đi, bên ngoài là nơi con người sinh sống, không phải như trên núi đâu, đừng có hù chết người ta…” Xi Vưu cau mày, búng ngay một quả dại vào miệng Du Võng rồi tung người nhảy khỏi vách núi, nháy mắt đã biến mất giữa biển mây. Du Võng há hốc miệng, thoáng ngớ người rồi cười cười nhai quả dại, thong thả xuống núi. Đứng giữa đồng hoang bên ngoài Bác Phụ, Xi Vưu chân đạp đất mắt nhìn trời, cảm thấy hỏa linh quá mãnh liệt, vạn vật quằn quại rên la, quả nhiên Chúc Dung đang luyện công ở đây. Hắn chẳng thấy Chúc Dung có gì sai, vạn vật trong trời đất vốn là mạnh được yếu thua kia mà, chẳng qua Du Võng lòng dạ quá thiện lương, cứ thích lo chuyện bao đồng đấy thôi. Có điều nếu y chẳng hay lo chuyện bao đồng, nửa đêm đuổi theo thuyết phục hắn quay về Thần Nông sơn thì cũng không có Xi Vưu ngày hôm nay. Hắn thu lại linh lực, lơ đãng ngoảnh đầu, nhưng chợt trông thấy: bên lối mòn, trước gió Tây, một nàng thiếu nữ mặc bộ đồ xanh hơi rung rúc đang thong dong từ phía ráng chiều tiến lại. Bốn bề hoang vu, đất trời ảm đạm, nhưng nàng vẫn căng tràn nhựa sống tựa một đóa hoa dại bừng nở nơi đỉnh dốc cheo leo đầu gió. Mặc gió đông thổi tung mái tóc, nàng đưa mắt nhìn khắp bốn bề, chợt trông thấy hắn, nàng liền nhoẻn miệng cười, thời khắc ấy, hoàng hôn lung linh, ráng chiều sóng sánh, con đường ngập trong cát bụi bỗng như có ngàn vạn gốc đào theo nhau nở rộ, muôn sắc rạng ngời, hoa bay phấp phới. Cõi lòng Xi Vưu chan chứa xuân tình nhưng vẻ mặt vẫn hoang hoải thờ ơ như mặt đất dưới chân, hắn đưa mắt liếc nữ tử áo xanh rồi đi lướt qua nàng, chuẩn bị quay về Thần Nông. Hai trăm năm nay, từ một con dã thú, hắn đã tập làm người, điều đầu tiên hiểu ra là cái ác thường ẩn náu sau nụ cười, điều đầu tiên học được là dùng nụ cười che giấu ác ý, thế nên hắn chẳng muốn tìm hiểu thứ gì nấp sau nụ cười tươi rói của nàng. Nhưng thiếu nữ áo xanh lại đi về phía hắn, nhoẻn miệng cười lên tiếng trước: “Xin hỏi công tử đường tới Bác Phụ quốc đi thế nào?” Hắn dừng bước, cười trừ không đáp, chẳng ngoảnh lại mà cũng không đi tiếp, chỉ lặng lẽ ngước nhìn ráng mây đỏ cuối trời, gương mặt lạnh lùng nhưng ánh mắt lộ vẻ tránh né. Thiếu nữ ngơ ngác không hiểu, bèn khẽ nắm lấy chéo áo hắn: “Công tử? Công tử thấy khó chịu à?” Nàng đâu biết rằng có lẽ mình đã níu lấy một khối họa sát thân. Được thôi, để xem bộ mặt thật của nàng ta. Trong lúc ngoảnh lại, Xi Vưu đã đổi ý, cũng đổi luôn nét mặt, cười nói: “Ta là người Bác Phụ quốc đây, cô nương… à, tiểu thư nếu không ngại thì hai ta cùng đi.” “Hay quá, ta tên Tây Lăng Hành, là người quê mùa thô kệch, công từ đừng đa lễ, cứ gọi ta là A Hành đi.” Xi Vưu chăm chú nhìn nàng một lát rồi thong thả nói: “Ta tên Xi Vưu.” A Hành và Xi Vưu cùng đi, qua hôm sau thì tới thành Bác Phụ, cả hai bèn tìm một quán trọ nghỉ chân. Xa xa Bác Phụ sơn đang bốc cháy phừng phừng, ngày cũng như đêm, rọi sáng cả bầu trời. Trời nóng như thiêu khiến tiểu nhị trong quán cũng ỉu xìu ngồi ì ra, thấy một nam một nữ sánh vai bước vào, nam tử bộ dạng nhếch nhác, vạt áo đỏ nhuốm bụi đường, y chẳng buồn nhấc mình đứng dậy, bèn vờ như không thấy. Xi Vưu hô lớn: “Mau mang nước ra đây, khát cháy cổ rồi.” Tiểu nhị lườm hắn rồi xòe năm ngón tay ra: “Một bình nước sạch năm ngọc tệ[1]!” Tỏ ý rằng ngươi có uống nổi không? [1] Người thời xưa dùng ngọc làm vật trung gian để trao đổi lưu thông hàng hóa (tương tự như tiền ngày nay), gọi là ngọc tệ. (ND) Xi Vưu cũng lườm lại y, đúng là không uống nổi! Nhưng hắn vẫn tí tởn nhìn sang Tây Lăng Hành. Suốt dọc đường hắn vẫn ăn chực uống nhờ nàng. Tây Lăng Hành cũng đã quen, bèn móc hầu bao ra đếm, vừa đúng năm ngọc tệ. “Uống nước mà nhịn ăn thì đâu có dược.” Xi Vưu lo lắng nói. “Vậy ngươi có tiền…” Tây Lăng Hành còn chưa nói hết đã thấy Xi Vưu một tay xòe ra, tay kia chỉ đôi khuyên ngọc thạch trên tai mình, “Gán thêm đôi hoa tai kia đi, tuy chất ngọc không tốt lắm nhưng chắc cũng đổi được bữa cơm đó.” Tây Lăng Hành cười khổ, tháo hoa tai ra đặt vào tay Xi Vưu. Tiểu nhị vội vàng vơ lấy hoa tai và ngọc tệ, trước khi đi vào trong còn lườm Xi Vưu thêm cái nữa, y đã gặp khối kẻ vô lại nhưng chưa thấy ai vô lại đến thế này! Tiểu nhị bưng nước và đồ ăn ra, Xi Vưu liền rót ngay ình một chén, mặc Tây Lăng Hành cau mày nhìn về phía “Hỏa Diệm sơn” đằng xa. Vừa thong thả nhấp từng ngụm nước, Xi Vưu vừa nheo mắt ngắm Tây Lăng Hành, ánh mắt sâu xa tựa như một con báo vừa tỉnh ngủ đang uể oải quan sát con mồi. Dường như Tây Lăng Hành cũng cảm nhận được cái nhìn của Xi Vưu liền ngoảnh phắt lại, nhưng chỉ thấy Xi Vưu đang lén lút rót thêm chén nữa. Bị nàng phát giác, hắn đành cười hì hì: “Cô uống không?” Rồi đưa chén nước tới trước mặt nàng. Tây Lăng Hành dịu dàng lắc đầu: “Ngươi uống thêm chút đi!” Nàng gọi tiểu nhị lại hỏi: “Nghe nói Bác Phụ quốc mưa thuận gió hòa, muôn dân an cư lạc nghiệp, sao lại thành ra thế này?” “Mấy chục năm trước quả đúng là mưa thuận gió hòa, lúa gạo bội thu nhưng chẳng biết tự lúc nào Bác Phụ sơn bắt đầu bốc cháy, khí hậu càng lúc càng khô hạn, nước càng ngày càng khan hiếm, dân chúng vì giành nhau giọt nước mà xung đột, ở nơi này mạng người còn không bằng bát nước đó!” Tiểu nhị nhìn quầng lửa phía cuối trời than thở: “Người già đều nói lửa trên Bác Phụ sơn là do thần tiên nhen lên để trừng phạt chúng ta, nhưng rốt cuộc chúng ta đã làm sai điều gì cơ chứ?” Chợt một lão già tuổi chừng lục tuần, để râu dê, đeo cây tam huyền cầm bước vào quán, sắc mặt lão đỏ tía, mồ hôi đẫm cả trán, run rẩy nói với tiểu nhị: “Xin tiểu ca cho lão ngụm nước.” Tiểu nhị đã quen với cảnh này nên chỉ xị mặt đứng im. Lão già liền khom lưng van vỉ mấy vị khách lác đác trong quán: “Vị khách quan nào ban cho lão ngụm nước đi?” Mọi người đều ngoảnh mặt làm ngơ. “Lão lại đây ngồi đi!” Lão già vội chạy lại, Tây Lăng Hành định rót nước cho lão, Xi Vưu vội giữ chặt lấy bình, liên tục đưa mắt ám chỉ nàng đã hết tiền. Tây Lăng hành giật lấy bình nước, hắn lại giằng lại, bình nước cứ chạy qua trái rồi qua phải, ánh mắt lão già cũng đảo lia lịa, hết sang trái rồi sang phải. Trái phải, trái phải… Sau mấy vòng, lão đã thấy đầu váng mắt hoa, suýt té xỉu. Tây Lăng Hành đập cho Xi Vưu một cái khiến hắn phải hậm hực buông tay ra, lão già kia cũng thở phào nhẹ nhõm, run run ngồi xuống. Hớp được miếng nước, sắc mặt lão khá dần lên, bèn quay sang cảm tạ Tây Lăng Hành: “Đa tạ ơn cứu mạng của tiểu thư, lão đây chẳng có gì báo đáp, đành đàn tặng nàng một khúc, kể một chuyện lạ, coi như để tạ ơn vậy.” Lão so dây hắng giọng cất lời: “Vừa nãy nghe tiểu thư hỏi về lửa trên Bác Phụ sơn, lão đành đánh liều nói thật. Thật ra lửa trên Bác Phụ sơn nào phải lửa trời trừng phạt phàm nhân, mà là ngọn lửa vô danh do Hỏa thần Chúc Dung nhen lên đấy thôi. Vì Bác Phụ sơn thông với địa hỏa, hỏa linh dồi dào, Chúc Dung muốn luyện hỏa linh của mình nên đã dẫn địa hỏa lên, biến cả ngọn núi thành lò luyện công của hắn, các thôn xóm xung quanh vốn chung sống thuận hòa vậy mà nay ngày ngày đâm chém nhau tranh giành giọt nước, trai tráng không chết dưới đao thì què chân cụt tay, những kẻ có cơ thoát đều bỏ đi tha hương, còn lại toàn cô nhi quả phụ, chỉ tội cho cây cỏ vùng này, không tay không chân, muốn chạy cũng chẳng chạy nổi…” Xi Vưu ngắt lời lão, vẻ hoảng hốt, “Im ngay, dám chỉ trích thần tộc, lão không cần mạng nhưng chúng ta còn cần đó!” Lão già chăm chú nhìn Tây Lăng Hành không đáp, như đang mong đợi điều gì, hồi lâu mới ôm cây tam huyền cầm lên lẳng lặng bỏ đi. Tây Lăng Hành dõi mắt nhìn về phía “Hỏa Diệm sơn” trầm ngâm. Dập lửa không khó, nhưng Chúc Dung nào dễ đối phó! Hắn là một trong mười cao thủ đứng đầu Thần tộc, nghe nói tâm địa rất hẹp hòi, chỉ cần sơ ý trừng mắt một cái cũng bị hắn ghi hận, nếu hủy lò luyện công của hắn e rằng phải đền mạng thật. Xi Vưu bỗng ghé tai Tây Lăng Hành thì thầm: “Ta thấy lão già đó có vấn đề, nói là khát chết nhưng trán lại đầy mồ hôi, chẳng giống người thiếu nước chút nào, không hiểu định giở quỷ kế gì nữa.” Tây Lăng Hành gật đầu, “Ta cũng thấy thế, lão không phải là người… không phải một ông lão bình thường.” Lão già vốn thuộc Yêu tộc, linh lực không tệ, tiếc rằng Mộc yêu bản tính sợ lửa, lão cũng vì cứu đám cây cỏ quanh đây mà tới, định dò xem nàng có linh lực hay không, tuy dụng tâm riêng nhưng chẳng có ác ý. Nhân lúc Xi Vưu đang nghỉ ngơi, Tây Lăng Hành lén bỏ đi, tới Bác Phụ sơn. Vì địa nhiệt nên quanh Bác Phụ sơn đầy rẫy hiểm nguy, các kẽ nứt trên mặt đất chốc chốc lại phụt khí nóng rực, ở một vài nơi, bề mặt trông có vẻ bằng phẳng nhưng bên dưới có lẽ đã tan chảy cả. Tây Lăng Hành thận trọng vòng tránh luồng khí nóng phụt lên, chật vật đi về phía Bác Phụ sơn. Nàng vừa nhấc chân phải dợm một bước, chợt một tiếng la thảm vang lên, nàng ngoái lại thấy Xi Vưu đụng phải luồng khí, bị bỏng ngã lăn ra đất, bèn chạy tới đỡ hắn dậy, “Sao ngươi lại đến đây?” Bỗng nghe sau lưng nổ uỳnh một tiếng, khí nóng ập tới, Tây Lăng Hành lập tức lấy thân mình chắn cho Xi Vưu, xốc hắn nhảy ra ngoài. Chỗ nàng suýt giẫm xuống khi nãy đã biến thành một cái lỗ sâu hoắm không thấy đáy, hơi nước bốc lên nghi ngút tựa một con rồng lớn xông thẳng lên trời, đến đá tảng cũng nát thành bột mịn. Tây Lăng Hành toát mồ hôi lạnh, chẳng dám tưởng tượng nếu vừa nãy mình đặt chân xuống thì sẽ ra sao. Xi Vưu ôm chặt lấy nàng ngượng nghịu nói: “Tây Lăng cô nương, ta chưa kết hôn đâu, nếu cô muốn làm vợ ta, ta phải về hỏi ý mẹ trước đã.” “Hả?” Đang hoảng hốt, Tây Lăng Hành chẳng hiểu lời hắn nói gì, nhưng thấy mình đè lên người hắn, hai tay còn ôm lấy hắn, nàng liền đỏ mặt đứng dậy, “Ta không phải… Ta cũng vì cứu ngươi thôi. Phải rồi, sao ngươi lại tới đây?” “Sao cô lại tới đây?” Xi Vưu vặn lại. “Ta định hủy…” Tây Lăng Hành bực bội, “Ta đang hỏi ngươi mà!” “Ta cũng đang hỏi cô đó! Cô nói trước đi rồi ta nói!” Biết tỏng tính ngang ngược của hắn, Tây Lăng Hành liền quay mình bỏ đi, “Ngươi thấy rồi đấy, nơi này nguy hiểm lắm, mau về đi!” Thận trọng lần từng bước, Tây Lăng Hành cũng đi được một quãng đường, trông thấy một khoảnh đất bùn lỗ chỗ, thăm dò thấy không có gì nguy hiểm, nàng đang định tiến vào lại nghe tiếng la thảm phía sau. Xi Vưu ôm lấy một bên chân bị phỏng dung nham, vừa đau đớn nhảy dựng lên vừa nghiến răng nghiến lợi vẫy tay với nàng. “Sao ngươi còn đi theo ta, không sợ chết à?” “Ai thấy nấy có phần, ta cũng không lấy nhiều đâu, bốn phần là đủ rồi!” “Thấy cái gì, ngươi muốn chia cái gì chứ?” “Thì bảo bối đó! Cô lén lén lút lút, thậm thà thậm thụt, còn chẳng phải đi đào của báu sao?” “Ta đâu có đi đào của báu!” Xi Vưu lắc đầu đáp, “Chim chết vì mồi người chết vì tiền, ta thông minh lắm, cô đừng hòng lừa!” Đã tới tận đây rồi, muốn quay về cũng khó, Tây Lăng Hành chẳng biết làm sao, đành đi tiếp, “Ngươi phải bám theo ta, đừng chạy lung tung đấy.” Xi Vưu gật đầu lia lịa, nắm chặt lấy chéo áo nàng, vẻ mặt căng thẳng. Vì vướng Xi Vưu lằng nhằng quấy rối nên phải lát sau Tây Lăng Hành mới quay lại khoảnh đất bùn khi nãy được. Nhìn rừng bọt nước vàng nổi lên từ đám đất bùn, Xi Vưu liền hăm hở chạy đến, “Đẹp quá!” Tây Lăng Hành kéo hắn lại, “Đó là khí độc dưới lòng đất đó!” Nàng thầm hú vía, nếu chẳng phải tên lưu manh kia quấy nhiễu, nàng đã bước vào đó rồi. Tây Lăng Hành dẫn Xi Vưu đi đường vòng, hết một ngày, cuối cùng cũng tới chân Bác Phụ sơn an toàn. Hơi nóng bốc lên hừng hực như muốn thiêu chín người. Xi Vưu rên la không ngớt, còn A Hành chỉ nắm chặt tay hắn, ra sức dùng linh lực bao quanh thân thể hắn, mặc bản thân càng lúc càng đuối sức, may sao quần áo khoác trên mình nàng do mẫu thân pha lẫn tơ Băng Tằm vào dệt thành nên mới khắc chế được địa hỏa. Đi thêm một đoạn, Xi Vưu mặt đã đỏ bừng, khò khè nói, “Ta không đi nổi nữa rồi, cô tự lên núi đào của báu đi, cứ mặc ta, ta đợi cô ở đây.” “Đã bảo không phải đi đào của báu à!” Để hắn lại đây e rằng chưa tới một tuần trà đã bị hỏa linh ăn mòn, tan thành mây khói. Tây Lăng Hành nghĩ ngợi rồi cởi áo ngoài ra. Mặc Xi Vưu vùng vằng không chịu mặc đồ con gái, Tây Lăng Hành cứ khoác lên người hắn, vừa choàng vào, hắn đã cảm thấy mát rượi, “Cái gì thế?” “Ngươi cứ khoác vào đi!” Tây Lăng Hành, gượng cười, linh lực của nàng vốn đã không cao, giờ chẳng còn áo choàng, lại phải lo cho hắn, quả rất nhọc sức. Xi Vưu vừa đi vừa nhìn Tây Lăng Hành, thấy mặt nàng đỏ bừng, rõ ràng sau khi đưa áo cho hắn nàng càng mệt mỏi hơn. Đang đi, Xi Vưu chợt mỉm cười ranh mãnh, vừa nhoẻn miệng chân hắn đã bước hụt, ngã khuỵu xuống đất, Tây Lăng Hành định đỡ hắn dậy nhưng chỉ hơi nhúc nhích, hắn đã la toáng lên. Tây Lăng Hành rờ chân hỏi xem hắn đau chỗ nào nhưng Xi Vưu chỉ rên rỉ, mặt trắng bệch, rõ ràng là không đi nổi nữa. “Để ta cõng ngươi!” Tây Lăng Hành khom người nói. Xi Vưu liền chẳng chút khách khí, cười hì hì bám lấy nàng, “Vất vả cho cô rồi!” Tây Lăng Hành hì hục leo núi, chẳng biết do ảo giác hay do tiêu tốn quá nhiều linh lực mà Xi Vưu trên lưng càng lúc càng nặng thêm, về sau nàng cảm thấy như mình không phải đang cõng người mà là cõng một quả núi nhỏ, xém nữa thì lăn ra. “Sao ngươi nặng thế?” Tấm lưng Xi Vưu đã hóa đá, khiến tất cả trọng lượng của núi non quanh đó tụ lại đè lên mình Tây Lăng Hành, nhưng ngoài miệng hắn vẫn càu nhàu: “Cô có ý gì? Nếu không thích cõng thì cứ bỏ xuống đi! Ta liều mạng lên núi đào của với cô, thế mà thừa dịp ta bị thương, cô lại định bỏ mặc ta!” “Ta đâu có ý ấy, chỉ là thấy ngươi nặng quá thôi mà…” “Cô thấy ta nặng quá à? Lẽ ra ta không được để cô cõng, đúng không? Nhưng tại cô mà ta bị thương đó! Giờ cô thấy ta phiền phức, chỉ mong cho ta chết quách đi chứ gì! Thế thì cô cứ vứt ta xuống, mặc ta chết luôn ở đây đi! Ôi, thật tội nghiệp cho bà mẹ già tám mươi vẫn đợi ta ở nhà…” Xi Vưu nức nở khóc nói. “Thôi thôi được rồi, coi như ta sai!” “Cái gì là “coi như” cô sai?” Xi Vưu vẫn chưa chịu thôi, vùng vẫy muốn tuột xuống. Tây Lăng Hành đành nuốt giận nói cho qua chuyện: “Là ta không đúng.” Vừa hì hục cõng Xi Vưu, nàng vừa phải tránh các cạm bẫy dưới chân, lại phải luôn đề phòng những quả cầu lửa bay xuống suốt dọc đường vô cùng nguy hiểm, mấy lần suýt nữa táng mạng, thế mà hắn còn càu nhàu chê nàng cõng không vững. Tây Lăng Hành giận đến nghiến răng nghiến lợi nhưng chẳng thể bỏ mặc chuyện sống chết của hắn, đành vừa rủa thầm vừa thề rằng qua đận này nhất định sẽ tuyệt giao với gã vô lại này! Chật vật mãi mới leo được lên sườn dốc gần đỉnh núi, Tây Lăng Hành bèn đặt Xi Vưu xuống, mồ hôi đầm đìa, khắp người lấm lem đất cát, chỉ mình hắn là khoan khoái nhẹ nhàng, sạch sẽ tinh tươm vì chẳng phải đi đường cũng không cần phí sức. Đang lau mồ hôi trán, Tây Lăng Hành chợt thấy có gì đó không ổn, nhận ra tên Xi Vưu đã nín lặng hồi lâu, nàng lo lắng ngoảnh lại mới thấy hắn đang nhìn mình chăm chú khác thường, bộ dạng vô cùng ngang ngược lếu láo, chẳng coi thiên hạ ra gì. Tây Lăng Hành giật thót mình, cảm thấy như Xi Vưu đã trở thành một con người khác, “Ngươi… làm sao thế?” Xi Vưu nhoẻn miệng cười, trơ trẽn túm lấy tay nàng nói: “Hay là cô làm vợ ta đi, cô khỏe thế này làm ruộng chắc giỏi lắm.” Đúng là đồ lưu manh mặt dày! Tây Lăng Hành chẳng buồn đáp, chỉ giật tay hắn ra, ngẩng đầu nhìn ngọn lửa bừng bừng bốc lên trời, thầm cảm thán: Chúc Dung không hổ là Hỏa thần, một lò luyện công mà cũng uy thế nhường này, dù nàng có dập được lửa, e rằng cũng khó thoát nổi sự truy sát của hắn, đành tới đâu hay tới đó thôi. Tây Lăng Hành rút ra một chiếc “tráp ngọc” cho hắn, dặn, “Đứng sau lưng ta nhé.” Dứt lời nàng vận linh lực xua hai con Băng Tằm vương bay lên, nhả tơ dệt thành một tấm lưới dày đặc bao quanh ngọn lửa, lưới càng kết càng dày, sắc mặt nàng càng lúc càng đỏ bừng, mồ hôi ròng ròng đầy trán. Sau cùng tấm lưới Băng Tằm khổng lồ cũng giăng xong, Tây Lăng Hành thúc động linh lực chụp lưới xuống, dập lửa từ từ từng chút một, nhưng khi đến gần miệng núi, địa hỏa chợt bùng lên rừng rực như muốn phá lưới xông ra khiến nàng bị chấn động phải lùi liền ba bước, suýt nữa ngã xuống dốc, may mà Xi Vưu đỡ kịp. Tây Lăng Hành chẳng buồn lên tiếng, chỉ gật đầu tỏ vẻ cảm ơn rồi gắng vận lực tiếp tục khép lưới lại, nhưng ngọn lửa chẳng hề bị áp chế mà còn bốc cao hơn, sắc mặt nàng cũng từ đỏ đổi sang trắng, càng lúc càng trắng bệch, thân hình lảo đảo muốn ngã. Bỗng nàng thấy cổ họng ngòn ngọt bèn hộc ra một ngụm máu, bắn tóe lên mặt lưới, uỳnh một tiếng, tấm lưới tỏa ra bạch quang chói lọi, nhưng hồng quang cũng bùng lên, nuốt trọn lấy bạch quang. Ngọn lửa bên trong đã chọc thủng lưới, tạt về phía Tây Lăng Hành. Bị hơi nóng táp vào mặt, Tây Lăng Hành thấy trước mắt tối sầm, ngã lăn ra ngất xỉu. Bấy giờ hết thảy người qua lại trên đường đều trợn tròn mắt nhìn về phía Bác Phụ sơn. Hồng quang đang rực rỡ ngập trời đã bị vầng sáng như một tấm lưới bạc dồn ép nhỏ dần lại, cả bầu không cũng dịu hẳn đi, đột nhiên ánh lửa sắp lụi tàn thình lình bùng lên, tấm lưới bạc biến mất, ngọn lửa lại chiếu đỏ rực một góc trời. Giữa lúc thế lửa đang bừng bừng dữ dội, đột nhiên một đạo bạch quang chói lòa vút lên khiến ai nấy đều phải nhắm mắt quay đi. Khi mọi người mở được mắt ra thì đã chẳng thấy bạch quang lẫn hồng quang đâu nữa, trời đất xung quanh cũng tối sầm cả lại. Trên nền trời thăm thẳm âm u tựa như một mảnh thủy tinh đen nguyên chất, muôn ngàn ánh sao lấp lánh, làn gió hây hây mang theo hơi sương đêm mát lạnh cứ thế ùa vào mặt. Đêm hôm đó cũng như bao đêm khác giữa đất trời này, nhưng mấy chục năm nay, Bác Phụ quốc chưa từng có buổi đêm nào như thế. Mọi người đều ngơ ngác đừng nhìn lên bầu trời, như thể cả Bác Phụ quốc đã trúng phải định thân chú. Một lúc lâu sau, từ những kẽ đất nứt nẻ bỗng phun ra bao nhiêu cột nước, cột thấp cột cao tạo nên những đóa hoa nước tuyệt đẹp, từng đóa nở xòe trong màn đêm, tuy không rực rỡ chói lọi nhưng dưới mắt những kẻ đã chịu hạn hán lâu ngày, đó vẫn là loài hoa đẹp nhất. Vừa trông thấy nước, tất cả người trên phố đều nhảy cẫng lên reo hò, bất kể quen hay lạ cũng ôm chầm lấy nhau, người già thì mừng mừng tủi tủi vốc nước vào miệng, trẻ nít thì chạy nhảy nô đùa giữa những cột nước. Trẻ con Cự Nhân[2] tộc cầm máng đá, trẻ con người phàm xách thùng gỗ, hứng nước té vào nhau, vừa té vừa cười. [2] Người khổng lồ. (ND) Tây Lăng Hành mở mắt bừng tỉnh, liền trông thấy cả bầu trời đầy sao lấp lánh, tĩnh lặng mà mỹ lệ. Nàng ngẩn người một thoáng mới nhận ra mình đang ở đâu, “Lửa tắt rồi, lửa tắt rồi!” Nàng xúc động lay lay Xi Vưu đang hôn mê, hắn mơ mơ màng màng mở mắt, rồi trợn trừng mắt kinh ngạc, lắp bắp một hồi: “Hết, hết lửa rồi kìa! Là cô dập tắt đám cháy rừng hả?” Tây Lăng Hành nghi hoặc nhìn hắn, “Ta cũng chẳng biết là ai dập nữa, có khi là ngươi đấy.” Trước lúc hôn mê, rõ ràng nàng thấy ngọn lửa ngút trời đang ập xuống mình, còn ngỡ rằng phen này không chết ắt cũng trọng thương. Xi Vưu liền nhảy dựng lên, hào khí xông mày vỗ ngực cất tiếng: “Là ta chứ còn ai nữa! Ta thấy con hai tằm béo sắp bị lửa nuốt liền tập trung linh lực toàn thân nén cái tráp, hừm, linh lực của ta mạnh lắm, lửa tắt ngúm ngay!” Vẻ mặt hắn dương dương đắc ý, dường như đang tưởng tượng ra lát nữa xuống núi sẽ được vạn dân dập đầu cảm tạ. Thái độ tranh công của hắn không ngờ lại giải tỏa được nghi vấn trong lòng Tây Lăng Hành, nàng cười phá lên, xem ra đúng là mèo mù vớ cá rán, một kẻ đến Băng Tằm vương cũng không biết, địa hỏa thì nói là cháy rừng, học mót ở đâu được chút phép thuật giang hồ tạp nham lại tưởng là mình có linh lực cao cường. Xi Vưu hậm hực hỏi: “Cô cười gì đó?” Tây Lăng Hành cười khúc khích đáp: “Ngươi quên ngọn lửa đó do ai tạo ra à? Là Chúc Dung nhen lên đó, tính tình hắn còn hung hãn hơn lửa của hắn nữa, hắn chỉ cần búng tay một cái…” Nàng nhìn Xi Vưu, “… có thể đốt ngươi thành tro bụi!” Xi Vưu rùng mình, mặt lộ vẻ thấp thỏm lo lắng, bắt đầu lầm bầm đùn đẩy trách nhiệm, “Thật ra lúc đó ta sợ cuống cả lên, thấy ngọn lửa đột nhiên bốc cao bèn quăng tráp ngọc bỏ chạy, rồi ngã bịch một cái, không biết gì nữa.” Thấy gã lưu manh này cuối cùng cũng biết nhún nhường, Tây Lăng Hành liền cười khanh khách đẩy hắn xuống núi, vừa đi vừa hô lớn: “Người hùng dập lửa đến đây!” Xi Vưu nắm chặt tay Tây Lăng Hành, mặt tái mét, “Đừng nói linh tinh, ta đâu có dập lửa.” Tây Lăng Hành cười ngặt nghẽo, vẫn không ngừng la lớn, “Người hùng dập lửa ở đây này!” Tất cả mọi người đều xúm lại quỳ trước mặt họ. Tây Lăng Hành đẩy Xi Vưu vào giữa đám đông rồi bước tới trước mặt mọi người hùng hồn nói: “Lửa do ta dập!” Nàng trừng mắt nhìn Xi Vưu, thầm rủa: hừ, dồ chết nhát, ta đùa ngươi thôi! Mọi người đều té nước vào Tây Lăng Hành, nàng vừa tránh vừa cười vang vui sướng, “Các người nhớ nhé, tên ta là Tây Lăng Hành, nếu có người hỏi ai dập lửa, cứ nói là Tây Lăng Hành.” Đám đông đang chìm trong hân hoan vừa té nước vừa cười đáp: “Tây Lăng, Tây Lăng, Tây Lăng cô nương cứu chúng tôi.” Chen chúc giữa đám đông, Xi Vưu lặng lẽ nhìn Tây Lăng Hành miệng cười người né, ánh mắt thăm thẳm lạ thường, nụ cười uể oải trên môi thoáng vẻ dịu dàng. Sáng hôm sau, lúc hắn tỉnh dậy, Tây Lăng Hành đã bỏ đi đâu không biết. Tiểu nhị cười hì hì rồi đưa cho hắn một bình nước, “Tây Lăng cô nương đi trước rồi, hôm nay chẳng ai mua nước cho ngươi đâu, có điều bây giờ Bác Phụ miễn phí nước!” Xi Vưu đón lấy bình nước, hững hờ cảm tạ. Tên tiểu nhị sững sờ, chỉ thấy người trước mặt hình như khác hẳn hôm qua. Bỗng trên trời vang lên mấy tiếng chim kêu nhưng chẳng ai để ý, chỉ mình Xi Vưu đứng bật dậy mở cửa sổ. Trên nền trời xanh biếc, mắt người thường chỉ trông thấy một chấm đen nho nhỏ, phải chú ý mới nhận ra, nhưng hắn lại thấy đó là một con Tất Phương điểu khổng lồ, trên lưng còn có Hỏa thần Chúc Dung, kẻ nắm giữ toàn bộ lửa trong thiên hạ. Xi Vưu hết sức kinh ngạc, hắn biết Chúc Dung sẽ nổi giận nhưng chẳng ngờ hắn lại giận đến nỗi bất chấp thân phận, đích thân ra tay truy sát Tây Lăng Hành, kẻ hủy lò luyện công của mình. Nếu bị hắn bắt được, hẳn nàng không còn đất sống. Xi Vưu đặt vội chén xuống bước ra ngoài, thoạt nhìn có vẻ thong thả nhưng chỉ nháy mắt, bóng hắn đã biến mất giữa đồng hoang.
|
Q.1 - Chương 3: Hẳn Duyên Xưa Trúc Trắc Chi Đây Vừa đi vừa thấp thỏm, sau cùng Tây Lăng Hành dừng bước, ngoảnh sang phải rồi ngoảnh sang trái, thấy chẳng có ai cả, nàng vừa thở phào nhẹ nhõm, tươi cười quay đầu lại, lập tức trợn tròn mắt lên. Xi Vưu đang đứng ngay đằng trước, vẻ mặt bực bội, nghển đầu nhìn về phía sau nàng, dường như không hiểu sao nàng lại lén lén lút lút thế này. Hắn ghé tai Tây Lăng Hành căng thẳng hỏi: “Sao thế? Có tên vô lại nào bám đuôi chúng ta ư?” Một tháng sau, bên bến sông Mân. Cỏ biếc lưa thưa, hạnh hoa đọng tuyết, vầng tịch dương đỏ ối chênh chếch rọi mặt sông, ráng hồng chiếu xuống khiến nửa dòng sông đỏ rực, nửa kia lại biếc xanh. Giữa dòng tấp nập thuyền bè qua lại, một chiếc thuyền đậu bên bến sông. Nhà thuyền hô lớn, chống sào chuẩn bị rời bến. “Đợi đã! Nhà thuyền đợi đã! Cứu mạng cứu mạng!” Thiếu nữ áo xanh vừa chạy vừa thét. Nhà thuyền đang chần chừ chẳng biết nên dừng hay không thì lại thấy một nam tử áo đỏ đuổi sát sau lưng thiếu nữ, hung hăng quát: “Đứng lại, cô đứng lại đó cho ta!” Nhà thuyền lắc đầu than thở, đúng là phong hóa suy đồi, thói đời hiểm ác mà! Y chậm tay chèo chốc lát đợi thiếu nữ áo xanh nhảy lên rồi lập tức ra sức khua chèo, đẩy thuyền lướt đi băng băng. Nào ngờ nam tử kia đã đuổi kịp vào phút chót, vừa hay nhảy được xuống thuyền. Thiếu nữ áo xanh hốt hoảng, vội cố sức trốn vào giữa đám người. Nam tử áo đỏ túm chặt lấy cô, “Ta xem cô còn trốn đi đâu?” Nhà thuyền lặng lẽ nắm lấy con dao chặt củi giấu dưới sàn thuyền. “Tây Lăng cô nương, ơn cứu mạng thật không có gì đền đáp, để ta lấy thân trả ân đi mà.” Nam tử áo đỏ có vẻ rất thành khẩn, trong khi thiếu nữ kia mặt ủ mày chau, con dao của nhà thuyền cũng khựng lại giữa chừng. Nam tử áo đỏ ngoảnh lại trừng mắt nhìn nhà thuyền, “Ngươi cầm dao làm gì đó, có phải chúng ta định quỵt tiền đâu?” Nói đoạn hắn quăng một nắm tiền vỏ sò vào lòng y. Thiếu nữ áo xanh đang định lẩn đi thì bị hắn kéo lại, “Xuống thuyền chúng ta sẽ tìm một quán trọ nghỉ ngơi rồi bàn tính chuyện chung thân đại sự.” Thiếu nữ áo xanh dường như chán chẳng buồn phản đối nữa, chỉ ôm lấy tay nải ngồi phịch xuống. Gã trai vẫn ngồi chồm hỗm bên cạnh nàng thao thao bất tuyệt: “Cô xem, ta dung mạo anh tuấn, gia tư giàu có, linh lực cao cường, đúng là ngàn người chọn một đó nha…” Người trên thuyền đều đổ dồn mắt vào hắn, nhìn từ trên xuống dưới rồi từ dưới lên trên, nhưng vẫn không sao kết nối được kẻ đang ngồi trước mặt mình với hình ảnh hoa mỹ kia. “Hơn nữa chúng ta ôm ấp cũng ôm ấp rồi, ở ngoài đồng hoang cô còn tựa lưng vào lòng ta, thân thể dán sát lấy nhau…” Người trên thuyền lại dồn mắt về phía thiếu nữ áo xanh tỏ vẻ khinh miệt, hèn chi tên lưu manh kia tìm đến nàng, hóa ra nàng ta cũng thuộc phường sa đọa. “Là ngươi áp ngực vào lưng ta, đâu phải ta tựa lưng vào lòng ngươi!” Thiếu nữ tái mặt quát. Có khác gì nhau đâu? Người trên thuyền càng khinh bỉ nàng hơn. “Là hắn bị thương nên tôi mới cõng…” Trước ánh mắt kỳ thị của mọi người, thiếu nữ áo xanh lí nhí phân bua, nghe như tiếng muỗi vo ve, rồi chẳng dám nhìn mặt đám người kia nữa, nàng đành ngẩng lên lặng lẽ hỏi trời xanh. Thuyền đi chặng nào, nam tử áo đỏ kia lại thao thao chặng nấy, còn chưa cập bến thiếu nữ áo xanh đã nhảy tót lên bờ chạy mất. Nam tử áo đỏ ngoảnh đầu nhìn về phía cuối trời như muốn xác định gì đó, chỉ trong nháy mắt, hắn cũng nhảy lên bờ đuổi theo thiếu nữ áo xanh, “Đứng lại! Đứng lại! Cô đứng lại cho ta!” Nhà thuyền lắc đầu than thở, đúng là phong hóa suy đồi, phong hóa suy đồi mà! Thiếu nữ thở hổn hển chạy vào quán trọ, vừa ngồi xuống đã thấy hắn chạy ào vào theo, ngồi đối diện với nàng. Nàng liền hung hăng gọi đầy một bàn đồ ăn rồi chỉ nam tử áo đỏ bảo tiểu nhị: “Ta không có tiền đâu, cứ để hắn trả.” Lại ấn cốc nước vào tay hắn, “Ngươi nói suốt ngày chắc cũng khô cổ rồi, uống nước đi.” Thiếu nữ áo xanh là Tây Lăng Hành, nam tử áo đỏ đương nhiên là gã lưu manh Xi Vưu mà nàng đụng phải gần Bác Phụ quốc. Tây Lăng Hành dập tắt lửa cho Bác Phụ quốc rồi nhân nửa đêm chuồn thẳng, nào ngờ sẩm tối hôm sau lại gặp Xi Vưu, hắn cảm tạ ân đức của nàng, rồi nàng đã cứu hắn, cứu ca ca hắn, cứu đệ đệ hắn, cứu cháu hắn, cứu con chó của cháu hắn, cứu luôn cả chú chuột mà con chó đó chưa kịp vồ… Tóm lại là đã cứu cả nhà hắn, cứu cả Bác Phụ quốc, bởi vậy kẻ làm nam nhi như hắn phải báo ơn, vừa khéo đôi bên đã đụng chạm da thịt với nhau, lại vô cùng ăn ý, hắn đành hy sinh bản thân, lấy thân báo đáp thôi. Thoạt đầu Tây Lăng Hành chỉ coi chuyện đó như trò cười, nhưng bị hắn đuổi riết suốt một tháng trời, nàng mới hiểu ra đây chẳng phải trò đùa mà là quyết định cố chấp của kẻ điên. Nốc cạn một cốc nước đầy, Xi Vưu đang định cất tiếng thì Tây Lăng Hành đã nhanh tay nhét luôn cái đùi gà vào miệng hắn, “Oa! Chúng ta ăn cơm trước rồi bàn bạc chuyện ngươi lấy thân báo đáp sau nhé!” Cả quán trọ nhốn nháo chợt lặng phắc như tờ, mọi ánh mắt dồn về phía hai người, tìm kẻ thốt ra câu đó. Tây Lăng Hành cũng bắt chước mọi người nhìn ngang ngó dọc, vờ như không phải mình nói ra. Mọi người liếc qua hai bọn họ rồi lại quay sang tiếp tục nói về chuyện hạn hán. Bỗng hai chữ “Thiếu Hạo” lọt vào tai Tây Lăng Hành, nàng liền dỏng tai lắng nghe. Năm nay trời làm đại hạn, thiệt hại nặng nhất là vùng giáp ranh giữa Thần Nông và Cao Tân, đám nạn dân cùng đường họp nhau dậy loạn, dám giết hại cả Thần tộc khiến Tuấn Đế nổi giân, Đại vương tử Thiếu Hạo bèn chủ động xin đi trấn áp loạn dân. Thiếu Hạo vốn đã vang danh thiên hạ từ một ngàn tám trăm năm trước. Nghe nói năm đó y một thân bạch y, một thanh trường kiếm, bức mười vạn quân Thần Nông quốc dưới chân thành phải thoái lui, phong thái hào hoa khiến anh hùng thiên hạ đều nghiêng mình kính nể, nhưng y tựa như vệt sao băng lướt qua trời, vừa thành danh đã tuyệt tích, hơn ngàn năm nay chưa từng xuất hiện giữa nhân gian. Suốt ngàn năm nay, Thiếu Hạo đã trở thành một truyền thuyết. Nghe nói y thích ủ rượu gảy đàn, rượu y ủ có thể khiến kẻ sống quên sầu, người chết ngậm cười, đàn y gảy có thể khiến xuân về khắp chốn, muôn hoa đua nở. Thiếu Hạo còn thích nghề rèn, Cao Tân tộc vốn là Thần tộc chuyên chế tạo binh khí, phần lớn binh khí trên đời đều do thợ rèn trong tộc làm ra, mà thợ rèn giỏi nhất Cao Tân tộc chính là Thiếu Hạo, y thần lực cao cường, mỗi binh khí tạo ra đều là tuyệt thế thần binh, nhưng chẳng hiểu sao hễ thứ gì vừa ra lò, y liền tiêu hủy ngay lập tức, bởi vậy đến giờ cũng chưa ai được thấy binh khí do Thiếu Hạo chế ra, có điều Thần tộc vẫn tin chắc rằng Thiếu Hạo chính là tay thợ rèn ưu tú nhất. Nhìn phục sức có lẽ kẻ đang nói là người Cao Tân, giọng điệu đầy vẻ sùng kính Thiếu Hạo, y hào hứng kể lể mà quên rằng nơi này dù sao cũng nằm trong biên giới Thần Nông quốc, khó tránh nhiều người Thần Nông thấy chướng tai, buông lời chế giễu: “Toàn nói láo!” Như hòn sỏi ném xuống mặt hồ làm gợn lên ngàn đợt sóng, đám dân Thần Nông trong quán nhao nhao cả lên, mồm năm miệng mười gièm pha Thiếu Hạo, lúc thì nói chưa từng nghe Thần Nông phải đại quân tiến đánh Cao Tân, một mình Thiếu Hạo đời nào bức lui được mười vạn quân chúng ta, rõ ràng là người Cao Tân thổi phồng, lúc lại nói Thiếu Hạo sao bì nổi Chúc Dung, e rằng gặp phải Hỏa thần lại rối rít xin tha. “Bọn Cao Tân rõ nực cười! Nếu Thiếu Hạo lợi hại thế, sao chẳng thấy y đến dự tiệc Bàn Đào của Vương Mẫu? Trừ cuộc chiến không biết là thật hay giả kia, y đã thắng được vị anh hùng nổi danh nào trên đại hoang đâu? Hỏa thần của chúng ta đã thắng liền cả trăm bữa tiệc Bàn Đào, đánh bại vô số cao thủ rồi đó!” “Ta thấy Thiếu Hạo chắc chắn không dám gặp Chúc Dung. Còn xưng anh hùng gì chứ, chẳng qua là đồ cẩu hùng gan bé như chuột!” “Chính thế, chính thế! Thợ rèn giỏi nhất cái nỗi gì, e rằng nhác thấy Chúc Dung đã quỳ gối xin tha mạng rồi!” Thấy mọi người càng nói càng chướng tai, tay Lây Lăng Hành chợt run bắn lên làm rơi chiếc bát xuống đất vỡ choang, bấy giờ ai nấy mới nín lặng ngoảnh lại nhìn. Tay Tây Lăng Hành vừa luống cuống lau vết bẩn bắn lên quần, vừa cười hỏi một thiếu niên Thần Nông tộc lên tiếng khi nãy: “Ngươi đã thấy binh khí Thiếu Hạo rèn chưa?” “Dĩ nhiên chưa rồi!” “Chưa nhìn thấy sao biết được y không phải thợ rèn giỏi nhất? Sao lại nói y gan bé như chuột, không phải đối thủ của Chúc Dung?” Thiếu niên khinh khỉnh hỏi lại: “Thế cô thấy rồi à?” Tây Lăng Hành vênh mặt: “Ta dĩ nhiên…” Bỗng nàng khựng lại một thoáng rồi hạ giọng, “Dĩ nhiên cũng chưa rồi!” Thiếu niên thoáng cười nhạt, “Cô cũng chưa thấy thì dựa vào cái gì mà nói y là thợ rèn giỏi nhất? Làm sao biết y không phải gan bé như chuột, khiếp sợ Chúc Dung?” Đám người trong quán đều cười rộ lên phụ họa. Tây Lăng Hành cắn môi làm thinh. Đột nhiên, một giọng già nua cất lên: “Truyền thuyết có lẽ không hoàn toàn là thực, nhưng dân chúng đại hoang này cũng chưa đến nỗi nói không thành có để tán dương Thiếu Hạo đâu.” Mọi người nghe tiếng đều nhìn về góc quán, liền thấy một lão già để râu dê, lưng đeo cây tam huyền cầm, nét mặt khắc khổ, lão đứng dậy khom lưng với Tây Lăng Hành cùng Xi Vưu. Té ra là lão già từng gặp trong Bác Phụ thành, Tây Lăng Hành bèn gật đầu đáp lễ còn Xi Vưu chỉ khoanh tay cười. Thiếu niên quát lớn: “Lão già kia, mau qua đây nói cho rõ ràng, nếu có nửa lời mập mờ thì đừng trách chúng ta vô lễ!” Lão già bước ra giữa sảnh thản nhiên ngồi xuống rồi vừa gảy đàn vừa nói: “Tuy vùng đại hoang vẫn có câu: ‘một núi, hai bước, ba vương tộc, bốn thế gia’ nhưng giờ đây thiên hạ chia ba. Thần Nông, Cao Tân, Hiên Viên thành thế chân vạc, bởi thế những kẻ rỗi hơi đi phân chia ngôi thứ cao thủ Thần tộc cũng chỉ nhắc tới con cháu của ba vương tộc mà thôi…” Đám người trong quán đều chăm chú lắng nghe, chỉ mình Xi Vưu vừa ngấu nghiến gặm đùi gà vừa giơ bàn tay bóng nhẫy mỡ túm lấy Tây Lăng Hành hỏi: “Cái gì mà một hai ba bốn, lão nói lung tung gì thế?” Mọi người đều trừng mắt nhìn hắn, lão già cười đáp: “Câu đó đề cập tới mấy thế lực lớn trong Thần tộc, ai nấy đều biết ba vương tộc là Thần Nông, Cao Tân, Hiên Viên; một núi ý chỉ Ngọc sơn còn hai nước là Hoa Tư và Lương Chử; bốn thế gia là Xích Thủy, Tây Lăng, Quỷ Phương, Đồ Sơn. Luận về lai lịch, một núi, hai nước, bốn thế gia còn lâu đời hơn cả ba vương tộc, có điều Ngọc sơn đã xuất thế, Hoa Tư và Lương Chử tuyệt mù tăm tích, các thế gia thì đều chỉ chăm chăm lo giữ thân nên đám phàm phu tục tử chúng ta dần quên lãng đó thôi.” Xi Vưu gật đầu, đang định hỏi tiếp thì Tây Lăng Hành đã giữ lấy tay gã, ghé tai nói nhỏ: “Mấy chuyện này muốn kể rõ phải mất mấy ngày đêm, cứ nghe xem lão nói gì đã.” Xi Vưu liền chơi ác, miết tay lên tay Tây Lăng Hành khiến tay nàng dính đầy mỡ, Tây Lăng Hành hậm hực cau mày bĩu môi trừng mắt nhìn thủ phạm, đột nhiên nàng nhoẻn cười tinh quái, bôi luôn bàn tay bóng nhẫy vào tay áo hắn. Lòng bỗng xao động, hắn hạ giọng hỏi: “Vợ yêu, hình như cô có nhiều bí mật lắm thì phải, cô họ Tây Lăng, có quan hệ gì với Tây Lăng thế gia không thế?” “Coi như có chút đi, ta có quan hệ huyết thống với họ nhưng không phải chi chính nên mới bị ngươi ức hiếp phải bỏ chạy đấy thôi!” A Hành cốc đầu hắn rồi ra dấu im lặng, tỏ ý bảo hắn đừng làm ồn, nghe xem lão kia nói gì. “… Thời trẻ Thiếu Hạo rất mê rèn sắt, thường trà trộn vào những lò rèn dân gian học lén tay nghề của người ta. Nhưng nghề rèn không phải cứ quan sát là học được, mà phải trải qua trăm tu ngàn luyện mới thành. Thiếu Hạo liền lui về quê mở một lò rèn, chuyên làm cày cuốc cho nông dân, nồi niêu xoong chảo cho phụ nữ, vì sản phẩm rất tốt nên dân chúng bảy thôn tám xã xung quanh đều kéo tới lò của y. Suốt mấy năm làm thợ rèn, những người tới nhờ y sửa sang lại nông cụ chẳng ai biết y là Thiếu Hạo, mãi tới khi Tuấn Đế đời thứ sáu lâm bệnh nặng, Thần Nông thừa dịp dấy binh áp sát, Cao Tân nháo nhào đi tìm kiếm một lò rèn thì bà con quanh đó mới hay. Thần tộc Cao Tân hay kể chuyện Thiếu Hạo cởi áo ngắn, quăng thiết chùy, khoác vương bào, cầm trường kiếm một mình bức lui mười vạn đại quân Thần Nông, nhưng trăm họ Cao Tân lại thích thuật chuyện Thiếu Hạo rèn sắt hơn. Lão già râu dê hớp một ngụm nước rồi hắng giọng kể tiếp: “Có lẽ vì thân phận đã lộ nên Thiếu Hạo không quay lại vùng quê đó nữa, nhưng nơi ấy sau cũng đổi tên thành Thiết Tượng Phô[1], một là để tưởng nhớ chàng thợ rèn Thiếu Hạo, hai là bởi lúc còn ở đó, mỗi khi có người tới xin học nghề rèn, y đều tận tâm chỉ dạy, khiến trong vùng nổi lên rất nhiều thợ rèn kỹ nghệ phi phàm, lò rèn mọc lên san sát, đám quý tộc Nhân tộc hay tới đó sắm vũ khí tùy thân để thể hiện địa vị, nhìn binh khí mấy vị tiểu ca ngồi đây mang theo người có vẻ bất phàm, e rằng cũng từ Thiết Tượng Phô mà ra.” [1] Lò rèn. (ND) Mấy gã thiếu niên sững người, bất giác đặt tay lên bội kiếm mà mình vẫn lấy làm tự hào. Lão già mỉm cười: “Cao Tân quốc trọng lễ nghĩa, phân chia đẳng cấp giàu nghèo rất rạch ròi, vậy mà Thiếu Hạo thân là vương tử tôn quý lại đi rèn nông cụ cho dân, còn tận tâm chỉ bảo những kẻ ham học hỏi. Hơn ngàn năm nay có vẻ như y lánh đời ở ẩn nhưng khắp Cao Tân nơi nào cũng có những truyền thuyết về việc y diệt ác trừ yêu, cứu khổ giúp yếu. Lần này việc trấn áp bạo dân rất tốn sức, lại chẳng được lợi lộc gì, các thần tiên khác tránh còn không kịp, vậy mà Thiếu Hạo chủ động xin đi, đủ thấy y nhất định không phải kẻ hèn nhát sợ sệt. Lão đây thấy mấy vị tiểu ca ăn mặc như sắp đi xa, những lời vừa nãy nói trên lãnh thổ Thần Nông thì chẳng sao, nhưng ngàn vạn lần đừng tức giận mà nói càn ở Cao Tân, muôn dân ở đó vô cùng kính trọng Thiếu Hạo, e rằng sẽ kích động dân chúng đó.” Thấy mấy gã thiếu niên Thần Nông sa sầm mặt, lão già lại chuyển chủ đề: “Nói đến hạn hán chẳng thể không ca ngợi Đại vương cơ[2] Vân Tang của Thần Nông. Thần Nông và Cao Tân đều bị hạn hán nghiêm trọng nhưng vương cơ luôn thương xót muôn dân, dốc sức vì bách tính nên đến giờ Thần Nông chỉ phải chịu thiên tai chứ chẳng có nhân họa. Còn Cao Tân và Trung Dung vương tử không gánh vác nổi, dân chúng nổi loạn khiến các quan lại Thần tộc địa phương bị đánh chết, may giờ có Thiếu Hạo chủ động xin đi dẹp loạn, bằng không e rằng nhân họa còn dữ dội hơn thiên tai nữa kìa.” [2] Vương cơ: Trước thời nhà Chu, con gái của đế vương và chư hầu đều gọi là vương cơ, từ thời nhà Chu trở đi, con gái thiên tử dần dần đổi sang gọi là công chúa, con gái của chư hầu hoặc thân vương gọi là quận chúa. (ND) Bấy giờ vẻ mặt đám thiếu niên Thần Nông mới giãn ra, họ tránh không nhắc tới Thiếu Hạo nữa, chỉ nhao nhao tán dương Vân Tang lên tận mây xanh. Tây Lăng Hành cúi đầu, chẳng hiểu đang nghĩ gì, vẻ mặt nửa mừng nửa lo. Xi Vưu cũng có vẻ ngẩn ngơ, đột nhiên cau mày đứng dậy bước ra ngoài, đứng giữa đồng hoang nghiêng tai nghe ngóng. Để trốn tránh Xi Vưu, Tây Lăng Hành đã phải thay đổi hành trình hết lần này sang lần khác, cũng hết lần này sang lần khác vô tình tránh khỏi Chúc Dung, nhưng lần này, dường như Chúc Dung đã nhận ra điều gì đó nên tìm thấy hành tung bọn họ rất nhanh, chắc hẳn không thể đánh bài chuồn được nữa, phải tính cách khác thôi. Thấy Xi Vưu quay lại, Tây Lăng Hành liền hỏi: “Ngươi ra ngoài làm gì đó?” Xi Vưu cợt nhả cười đáp: “Ta sực nhớ ra chuyện chung thân đại sự còn phải hỏi ý kiến cha mẹ nên vừa nãy đi nhờ người đưa tin về nhà, mời cha mẹ tới gặp cô.” Tây Lăng Hành vừa hớp một ngụm canh nóng, nghe hắn nói liền mắc nghẹn, suýt nữa chết sặc. Nàng yếu ớt chỉ mặt Xi Vưu, giận đến nỗi không thốt nên lời. Ăn xong bữa, hai người bèn chọn hai gian phòng sát vách nghỉ tạm. Đêm xuống, Tây Lăng Hành nằm trên giường trằn trọc hoài không ngủ nổi, trong đầu cứ lởn vởn câu chuyện Cao Tân Thiếu Hạo xin đi dẹp loạn vừa nghe kể. Lại nghĩ tới gã khùng Xi Vưu, nàng rùng cả mình, quyết định bỏ đi ngay lập tức, lần này nàng muốn đi về hướng Đông, xem xem Cao Tân Thiếu Hạo mà mình đã nghe danh từ nhỏ đến lớn rốt cuộc ra sao. Nàng quyết định khởi hành ngay giữa đêm để cắt đuôi Xi Vưu. Lựa lúc đêm khuya người vắng, Tây Lăng Hành bèn khoác tay nải rón rén rời khỏi quán trọ. Vừa đi vừa thấp thỏm, sau cùng Tây Lăng Hành dừng bước, ngoảnh sang phải rồi ngoảnh sang trái, thấy chẳng có ai cả, nàng vừa thở phào nhẹ nhõm, tươi cười quay đầu lại lập tức trợn tròn mắt lên. Xi Vưu đang đứng ngay trước mắt, vẻ mặt bực bội, nghển đầu nhìn về phía sau nàng, dường như không hiểu sao nàng lại lén lén lút lút như thế. Hắn ghé tai Tây Lăng Hành căng thẳng hỏi: “Sao thế? Có tên vô lại nào bám đuôi chúng ta ư?” Tây Lăng Hành hít sâu một hơi, lấy tay che mặt rồi cắm cúi cất bước, chẳng buồn liếc Xi Vưu, chỉ sợ mình không nhịn được sẽ giết luôn tên vô lại này. Xi Vưu lẵng nhẵng bám theo sau thở vắn than dài: “Có một chuyện thực hổ thẹn, vừa nãy ta nhận được tin bề trên trong nhà sai đi làm chút việc, e rằng phải xa cô mấy ngày rồi.” Tây Lăng Hành lập tức bỏ ngay tay xuống, cười tươi rói: “Không sao không sao, nam tử hán đại trượng phu chí ở tứ hải, lòng theo ngũ hổ, công truyền thiên thu, đức lưu vạn tuế, chết để tiếng thơm, xả thân vì nghĩa… khụ… nói tóm lại là phải đặt đại sự làm trọng!” Nét cười thoảng qua mắt Xi Vưu nhưng hắn vẫn làm bộ nhăn nhó: “Có điều ta nghĩ đi nghĩ lại thấy đi lo việc cũng quan trọng, mà báo ơn cũng rất quan trọng…” Tây Lăng Hành liền tỏ vẻ buồn bã vỗ vai hắn: “Thật ra ta cũng chẳng nỡ xa ngươi, có điều phải đặt đại sự làm trọng!” Xi Vưu rưng rưng cảm động, bèn nắm chặt tay nàng, “A Hành, thấy cô quyến luyến thế này, có lẽ ta sẽ ở lại!” Khóe mắt bờ môi Tây Lăng Hành cùng lúc giật giật, “Ngươi sẽ ở lại thật chứ?” “Sẽ ở lại thật đó!” “Thật chứ?” “Thật mà! Vì Tây Lăng Hành cô nương, ta tình nguyện…” Tây Lăng Hành thình lình vung tay đấm bộp vào mặt Xi Vưu khiễn gã ngã lăn ra ngất xỉu. Nàng ngồi xuống đắc ý vỗ vỗ má hắn, cười nhạt: “Tiểu tử thối! Chúng ta không hẹn ngày gặp lại!” Khoác tay nải lên, nàng thấy cả người lâng lâng phơi phới, nhưng vừa tung tăng đi được một đoạn, nàng càng nghĩ càng thêm sợ, lỡ có kẻ xấu đi ngang qua thì sao? Lỡ thú dữ chạy tới thì thế nào? Lỡ… Cuối cùng Tây Lăng Hành đành cuống cuồng chạy trở lại, nhưng gã Xi Vưu hôn mê nằm đó đã biến mất. Nàng hoảng hốt dáo dác nhìn quanh tìm kiếm, nhưng vừa ngẩng đầu lên đã trông thấy một hàng chữ viết trên cây. “Vợ yêu, chúng ta sắp gặp nhau rồi!” Cạnh đó còn vẽ một tên tiểu nhân áo đỏ đang cười toe toét. Tây Lăng Hành nổi giận vung chân đá tên tiểu nhân kia một cái, lập tức kêu thét “ai da”, đau đến nỗi nghiến răng nghiến lợi, ôm chân nhảy lò cò. Hai ngày sau, nàng bước vào địa giới Cao Tân quốc. Sông ngòi cạn khô, đất đai cằn cỗi, xác chết đầy đồng, cảnh tượng nhuốm màu âm u. Tây Lăng Hành buồn bã ủ ê nhưng chẳng làm sao được bởi đây không phải nhân họa mà là thiên kiếp, dù là thần tiên cũng chẳng thể trái ý trời. Không muốn nhìn cảnh tượng thê thảm đó thêm nữa, nàng bèn tránh những con đường lớn đông người tụ tập, cứ lựa rừng sâu núi thẳm mà đi. Đi suốt một ngày, đang định kiếm nơi nghỉ chân, bỗng nàng nghe thấy tiếng trống thình thình đầy phấn khích. Lần theo tiếng trống mà đi, nàng lại nghe thấy giọng ca thánh thót cùng tiếng hoan hô của đám đông. Tây Lăng Hành không khỏi mỉm cười rảo bước thật nhanh, nhưng khi bước vào ngôi làng cổ kính đó, nàng chẳng thấy cảnh tượng gì vui vẻ mà trái lại là sự tàn nhẫn khiến người ta kinh sợ. Hai thiếu nữ trang điểm lộng lẫy nằm dài trên đàn tế, một cô bị mổ phanh bụng, đã tắt thở, thầy tế mang mặt nạ tay cầm chủy thủ đầm đìa máu, tay bưng trái tim còn phập phồng, vừa hát vừa múa, thiếu nữ kia nhắm nghiền hai mắt, khóe môi mấp máy liên tục, chẳng hiểu đang ca hát hay cầu nguyện. Tây Lăng Hành từng nghe kể về những bộ tộc hiến tế cả người để cầu trời đất phù hộ. Đó là phong tục địa phương, nàng không sao thay đổi được, nhưng nàng cũng chẳng thể trơ mắt nhìn một thiếu nữ tươi tắn như hoa chết thảm ngay trước mặt mình. Tây Lăng Hành vận linh lực nhổ bật vô số gốc cây khiến đám người quanh đài tế nháo nhác lo tránh né, rồi thừa cơ xông tới cứu luôn thiếu nữ trên đài bỏ chạy. Nàng thiếu nữ đó tên Sách Mã, là cô gái thông minh nhất trong tộc nên bị chọn làm vật tế trước trận chiến để cầu thắng lợi. Tây Lăng Hành hỏi: “Các người muốn chống lại quân đội do Thiếu Hạo thống lĩnh sao?” Sách Mã đáp: “Tôi đâu biết mấy gã Thần tộc đó, tôi chỉ biết chúng giúp bọn quý tộc hà hiếp chúng tôi, chặn đứng mạch sông khiến chúng tôi mất nguồn nước uống, đều là đồ vô lại.” Tây Lăng Hành gắng bênh vực Thiếu Hạo: “Vị thần đến đây lần này không giống bọn trước kia, y nhất định sẽ nghĩ cách giúp các người điều hòa lại nguồn nước chứ chẳng thiên vị đám quý tộc đâu, các người khỏi phải liều mạng kháng cự.” Sách Mã trầm ngâm hồi lâu, đoạn cười nói: “Cô là thần tiên tốt, tôi tin cô! Đợi trời tối tôi sẽ lén về nhà nói với cha. Hảo tỷ tỷ, tôi thấy cô có thể sai khiến cây cô, cô tu luyện mộc linh ư?” Tây Lăng Hành gật đầu. Thấy trời sắp tối, Sách Mã liền vào rừng nhặt cành khô, rau dại về làm bữa tối cho Tây Lăng Hành. Nàng bảo cô ta đừng bày vẽ, nhưng Sách Mã đáp: “Cô cứu tôi mà tôi chẳng có gì báo đáp, đây là cách duy nhất tôi có thể làm để tạ ơn cô, bất kể cô ăn hay không tôi cũng phải làm.” Sách Mã dùng mảnh đá lõm làm nồi, nấu một nồi canh rau rừng lạ miệng rồi đong đầy canh vào hai ống trúc, tự uống trước nửa ống, sau đó mới ngẩng lên nhìn Tây Lăng Hành, có vẻ nài nỉ. Tây Lăng Hành chẳng nỡ từ chối, bèn cùng uống với cô. Uống hết canh, nàng bỗng thấy đầu váng mắt hoa, linh lực ngưng trệ, vội hỏi, “Cô cho tôi ăn cái gì đó?” Sách Mã lạnh lùng đáp: “Là một loại nấm hiếm trong núi, sinh trưởng giữa đám tro tàn sau trận sấm sét, nó vô hại với Nhân tộc chúng tôi nhưng những kẻ tu luyện mộc linh của Thần tộc nếu ăn vào sẽ mất hết sức lực, trở thành người phàm như chúng tôi vậy.” Lần đầu tiên Tây Lăng Hành hiểu được tại sao Thần tộc vừa xem thường lại vừa kiêng dè Nhân tộc, không chỉ bởi Nhân tộc đông đúc mà còn vì trời đất vạn vật tương sinh tương khắc, ông trời từ lâu đã ban cho họ những bảo bối để khắc chế Thần tộc, chỉ cần vận dụng khéo léo thì con người cũng có thể đánh bại Thần linh, giống như con đê có thể ngăn dòng nước ào ào chảy xiết nhưng một tổ mối nhỏ cũng có thể phá hủy cả dải đê kiên cố vậy. Tay Lăng Hành lặng lẽ nhìn Sách Mã, cô ta chẳng dám đối diện với ánh mắt nàng, bèn cầm một khúc cây, đập cho nàng ngất xỉu. Sáng hôm sau, khi tỉnh lại, Tây Lăng Hành nhận ra mình đang bị trói trên đài tế mà Sách Mã nằm hôm qua, linh lực vẫn chưa hồi phục chút nào. Tiếng trống thùng thùng rung trời chuyển đất, đám thầy tế đeo mặt nạ vây quanh nàng vừa hát hò vừa nhảy múa, ánh chủy thủ loang loáng khiến nàng hoa cả mắt. Sách Mã nói với nàng: “Đem cô làm vật tế tốt hơn tôi, máu tươi của cô không những có thể tế trời đất, mà còn khiến cho tất cả chiến sĩ Nhân tộc thấy rằng Thần tộc chẳng có gì đáng sợ.” Đám thầy tế ca vang một bài ca xưa cũ, vừa nhảy múa vừa tiến lại gần nàng. Theo nghi lễ, các thầy tế sẽ cắt đứt kinh mạch tứ chi của Tây Lăng Hành, để máu nàng chảy theo rãnh trên đài tế xuống đất, gọi là Úy địa, sau cùng móc tim nàng ra dâng cho trời, gọi là Tế thiên, thông qua Tế thiên Úy địa mà đổi lấy nguyện vọng của mình. Cổ tay cổ chân nàng bị dao cắt, nhưng vì cắt rất nhanh nên chẳng hề thấy đau. Linh lực cũng cuồn cuộn chảy ra theo dòng máu. Tây Lăng Hành cảm nhận rõ ràng cái chết đang đến rất gần, nàng vừa gắng gượng vùng vẫy lần cuối trong kinh hoàng, vừa nảy sinh cảm giác hoang đường, lẽ nào nàng lại chết trong tay mấy thầy tế tầm thường này của Nhân tộc? Máu tươi nhuốm đỏ đài tế, Tây Lăng Hành cũng chẳng còn sức vùng vẫy nữa, đành buông xuôi, dùng chút sinh lực cuối cùng quyến luyến ngước nhìn bầy không xanh biếc trên đầu, cha, mẹ, ca ca… gã vô lại mặc áo đỏ Xi Vưu cũng hiện ra trước mặt, nàng không khỏi cười khổ, tiểu tử thối, ta đã nói không hẹn lần sau kia mà! Thầy tế cắm chủy thủ vào ngực Tây Lăng Hành khiến toàn thân nàng co rút lại, ánh mắt mệt mỏi ngước nhìn trời, đồng tử giãn ra trong đau khổ, bầu trời xanh biếc tan trong mắt nàng, biến thành vô số ánh sao băng muôn màu sắc, ý thức của nàng cũng tan tác theo những vì sao băng đó, bay về phía màn đêm. Nhưng đúng lúc nàng sắp bị cuốn vào màn đêm vĩnh cửu, một đôi tay rắn rỏi ấm áp chợt bế bổng thân thể nàng lên. Hơi thở như sương mai buổi sớm, tiếng nói như phượng gáy ngọc khua, “A Hành, xin lỗi nàng, ta tới trễ!” Lại nghe chiến sĩ Thần tộc cao giọng xin lệnh, “Điện hạ, giết hết đám loạn dân này ư?” “Bọn họ chỉ vì sự sinh tồn của tộc nhân, vốn không có tội, thả họ về làng đi.” Giọng điệu nam tử hàm chứa nỗi xót thương. Y vừa dùng linh lực phong bế linh thức của nàng lại, vừa ghé tai nói nhỏ: “A Hành, ta là Cao Tân Thiếu Hạo.” Thiếu Hạo, là Thiếu Hạo mà nàng tâm tâm niệm niệm mong gặp mặt… Tây Lăng Hành muốn gắng gượng mở mắt nhìn, nhưng ý thức đã tan vào bóng tối. Chạng vạng tối, Xi Vưu một thân hồng y giẫm trên lưng đại bàng từ trời đáp xuống. Dưới bóng tịch dương đỏ như máu, đài tế cổ kính từng thấm đẫm biết bao máu tươi càng đượm vẻ trang nghiêm. Linh lực mạnh mẽ tản mạn trong không khí như tuyên cáo tin dữ của kẻ sở hữu linh lực này. Xi Vưu lại gần đài tế, thoải mái nằm phục xuống vũng máu còn tươi, nhắm mắt lại, cố thu thập khí tức của Tây Lăng Hành vương trên vũng máu rồi khuếch đại linh lực bản thân thông qua cây cỏ và mặt đất, để tìm kiếm dấu tích về sinh mạng nàng. Từ lúc chạng vạng tới khi tối om, gắn dốc hết toàn bộ linh lực, rà qua quét lại rất nhiều lần cũng chẳng thấy chút khí tức nào của nàng. Nàng chết thật rồi! Thật chẳng ngờ đùa mà hóa thật, hai người bọn họ đã không còn ngày gặp lại! Hắn dịu dàng vỗ nhẹ lên đài tế như vỗ về tình nhân, mặc áu nhuộm đỏ ngón tay, gò má, lạnh lùng giễu cợt: “Sớm biết thế này, thà cứ để cô chết dưới tay Chúc Dung còn hơn.” Xi Vưu quay mình nhìn vầng trăng tròn vành vạnh treo trên đầu ngọn cây, nhớ lại lần đầu gặp Tây Lăng Hành cũng là một đêm trăng tròn thế này. Đột nhiên hắn thấy mỏi mệt vô chừng, mấy trăm năm nay, hắn chưa từng mỏi mệt đến nhường này, thậm chí còn có phần chán ghét thế nhân. Hắn nhắm mắt lại thiếp đi giữa vũng máu của nàng. Nửa đêm, Xi Vưu bỗng tỉnh dậy, mũi đầy mùi máu tanh tanh ngòn ngọt. Hắn đan hai tay vào nhau gối đầu lên, nằm ngửa giữa đài tế ngắm nhìn vầng trăng hiu quạnh mà sáng tỏ, bỗng thấy lẻ loi vô hạn, tại sao ông trời còn để hắn gặp lại nàng ở ngoại vi Bác Phụ quốc chứ? Hắn nhắm mắt thì thầm: “Tây Lăng Hành, sớm biết thế này thà không gặp lại!” Linh lực theo máu nàng chạy ra cuồn cuộn thấm vào lòng đất, khiến cây cối trong làng tăng trưởng vùn vụt, trùm lên đường cái, vây lấy tường nhà, phong kín cửa sổ. Tới khi thức giấc, đám dân làng kinh hoàng nhận ra nhà nào nhà nấy đều xanh mướt một màu cây cỏ, hơn nữa chúng vẫn không ngừng sinh sôi, nhìn thì mềm mại mà chèn vỡ tủ, vặn gãy ghế, quấn lấy bất kể nam phụ lão ấu. Tiếng kêu thảm thiết từ trong núi liên tục vẳng ra, vô số chim muông cảm nhận được nỗi kinh hoàng liền xao xác bay đi cả, thôn làng tĩnh mịch dường như đã biến thành một vùng đất chết. Riêng mình Xi Vưu vẫn gối đầu lên chỗ Tây Lăng Hành từng gối, uể oải cười ngước mặt nhìn trời. Tiếng kêu thảm từ từ tắt lịm, sơn cốc khôi phục lại vẻ tĩnh lặng, cả thôn làng đều đã biến mất, chỉ còn đám cây cối xanh um ken dày rậm rạp. Hắn nhảy lên lưng đại bàng, đại bàng vỗ cánh bay lên, thoáng chốc đã biến mất giữa bầu không. Dưới ánh trăng, đàn tế cũng như bốn bề quanh đó đều bị đám cây cối bao phủ dày đặc, nhìn từ trên xuống trông như một nấm mồ vĩ đại xanh mướt.
|