Từng Thề Ước
|
|
Q.1 - Chương 8: Cây Cao Mây Quấn Mãi Chẳng Rời Chẳng hiểu sao hình bóng Xi Vưu lại hiện ra trước mắt nàng, hắn đã lớn lên giữa một vùng non nước thế này ư? Liệu hắn có biết đánh cá không? Hắn cũng biết hát những khúc sơn ca lanh lảnh mà tình tứ như vậy sao? Hắn đã từng hát cho ai nghe chưa nhỉ… Suốt đêm A Hành không sao chợp mắt, mãi đến gần sáng mới mệt quá ngủ thiếp đi, khi tỉnh dậy, nàng thấy mặt trời ngả về Tây, A Tệ đã đỗ xuống một sơn cốc tự lúc nào. Nàng trở mình ngồi dậy, giơ tay chạm vào Xi Vưu bên cạnh, thấy người hắn nóng hầm hập, vết thương đã trở nên nặng thêm. Nhìn quanh bốn bề đều là núi đồi trùng trùng điệp điệp xanh mướt một màu, A Hành ngỡ ngàng hỏi Liệt Dương đang đậu trên cành: “Xi Vưu có nói với mày là đi đâu không? Hay là mày lạc đường?” Bị A Hành vặn hỏi, Liệt Dương vô cùng bực bội, bèn giơ một cánh lên hùng hổ ra hiệu với nàng rồi quay ngoắt đi. A Hành lòng như lửa đốt, nàng không biết y thuật nên nhất định phải tìm một người hiểu y thuật để chẩn trị cho Xi Vưu, đột nhiên nghe loáng thoáng đằng xa có tiếng động, nàng bèn lại đó xem sao. A Hành đi trước, A Tệ cõng Xi Vưu theo sau, còn Liệt Dương nghênh ngang đậu trên đầu A Tệ. Vòng qua một khe núi, đột nhiên trước mắt nàng bừng sáng. Một dòng sông rộng từ sơn cốc uốn mình chảy ra, đôi dải núi xanh bên bờ trải dài bất tận, ráng chiều rơi rớt chênh chếch rọi lại từ sườn núi thấp bên kia, nhuộm đỏ ối ngọn núi đối diện. Gió thổi xào xạc lá cây, cả ngọn núi đều lấp lánh ánh vàng. Mặt nước mênh mông ngập đầy ráng chiều lấp loáng, mấy người dân chài đang chống thuyền giữa dòng đánh cá, vung mạnh tay tung tấm lưới lấp lánh ánh bạc lên cao, tấm lưới từ từ buông xuống dòng sông, rõ ràng chỉ là tấm lưới gai thông thường, vậy mà lúc này lung linh ánh bạc hòa cùng ráng vàng lấp loáng trên mặt sông, khiến người khác trông vào mà hoa cả mắt, còn đẹp hơn cả tơ Nguyệt Quang mà mẹ nàng dệt nữa. Đám dân chài hô vang một tiếng, vừa hò dô vừa chung tay kéo lưới lên, cá trong lưới đua nhau búng khỏi mặt nước, quẫy đuôi uốn mình trên không làm nước bắn tung tóe, ráng chiều phản chiếu khiến cả mặt sông lung linh bảy sắc cầu vồng. Vất vả bận bịu đến thế, mà cũng tràn đầy sức sống, sôi động nhường kia. A Hành dừng sững lại, ngây người ra nhìn. Nhìn bầy cá nhảy tanh tách, đám dân chài thảy đều mừng rỡ, một gã thanh niên vừa ra sức kéo lưới vừa cao giọng hát vang, tiếng ca ồm ồm mà phóng khoáng lan đi thật xa trong sơn cốc. “Ơ… Trời ngả bóng, cá đầy khoang, Ca vang ướm ý cô nàng xem sao? Non cao nước đổ rì rào, Cây cao tán rộng lao xao ong về. Này cô em hái dâu kia, Đeo gùi hái khắp bốn bề núi non, Em yêu ơi có biết không, Nhớ em ta những héo hon dạ này…” Gã đánh cá còn chưa dứt lời đã nghe một giọng nữ lanh lảnh từ trên núi đưa sang. “Chàng là cây lớn đỉnh non, Em dây mây vấn vít sườn núi xanh, Chàng cao em thấp vẫn tình, Níu chân quấn quýt quanh mình chàng ơi, Chừng nào chàng mệt rã rời, Thời em đây mới buông lơi cho chàng…” Núi rừng cách trở nên không trông thấy cô gái đâu cả, nhưng tình cảm nồng nàn như lửa mà cô giấu trong giọng hát đã lan theo tiếng ca trên núi đưa xuống, làm rạo rực cả mặt sông. Đám dân chài cười rộ lên, gã trai vừa cất tiếng đắc ý khoái trá ra mặt. “Chàng cao em thấp vẫn tình, níu chân quấn quýt quanh mình chàng ơi, chừng nào chàng mệt rã rời, thời em đây mới buông lơi cho chàng…” A Hành nghĩ một lát mới hiểu ra ẩn ý trong lời ca, liền đỏ mặt tía tai vì ngượng, đây là lần đầu tiên nàng thấy người ta ngang nhiên bày tỏ chuyện nam nữ thế này. Thấy dân tình nguyên sơ thuần phác lại nhiệt tình thẳng thắn như vậy, nàng đã lờ mờ đoán ra mình đang ở đâu. Nghe đồn có một dải man hoang không theo giáo hóa, người trên đại hoang vẫn gọi là Cửu Lê, núi non ở đó rất cao, sông nước rất đẹp, thanh niên nơi đó đều cường tráng như non cao, thiếu nữ lại mỹ lệ như nước mát. A Hành quay sang dặn A Tệ mấy câu để nó cõng Xi Vưu lánh đi, còn nàng men theo con đường mòn lên núi trong tiếng ca lảnh lót. Trên sườn núi lúp xúp những nếp nhà sàn, lưng tựa vào núi, mặt quay ra sông, tầng trệt để lùa gia súc vào trú mưa tránh gió, còn tầng hai làm chỗ ở, có cả sân thượng nhô ra để trồng hoa cỏ hay phơi lưới. Bây giờ đang là lúc mọi người về nhà sau một ngày làm việc, khói bếp bắt đầu lững lờ bốc lên trên những nếp nhà. Thấy A Hành ăn vận khác hẳn mọi người, ông lão dắt trâu nheo mắt cười quan sát nàng, chú nhỏ lấy rau lợn cũng cười hì hì liếc trộm nàng. Ông lão râu bạc vai vác cuốc, tay dắt trâu còn cười cười hỏi nàng: “Cô nương là người nơi khác đến phải không?” A Hành cũng gật đầu cười hỏi: “Nơi đây là Cửu Lê ư?” Ông lão cười ha hả, “Đây là nơi ông bà tổ tiên ta đã sống hết đời này sang đời khác, bản này tên gọi Đứa Ngõa, có điều nghe nói người ngoài gọi chung cả trăm ngọn núi ở đây là Cửu Di hay Cửu Lê gì đó, cô nương tới đây là để…” “Cháu nghe nói trong vùng rừng núi Cửu Lê có rất nhiều loại thảo dược nên tới đây tìm hái vài thứ đấy thôi.” Vùng man hoang này rất hiếm dấu chân người lai vãng, A Hành không muốn gây chú ý, đành giả làm người hái thuốc, thân phận tốt nhất dành cho những kẻ lãng du đây đó. Ông lão nhiệt tình nói, “Cô nương chưa tìm được chỗ nghỉ ư? Con trai cùng cháu nội lão vào núi đi săn rồi, trong nhà có phòng trống, nếu cần cô cứ ghé nhà lão nghỉ chân.” A Hành cười đáp lễ: “Tốt quá rồi, cảm ơn… cụ ạ.” Ông lão nào hay A Hành đã sống mấy trăm năm, nghe nàng lễ phép xưng hô liền tươi cười lộ vẻ hài lòng, dắt nàng về nhà. “Đây là Mễ Đóa, cháu gái lão, năm nay mới mười mấy tuổi thôi, không biết hai người ai nhiều tuổi hơn ai?” Ông lão ngồi xổm bên bếp lửa, vừa đun nước vừa cười cười quan sát nàng cùng Mễ Đóa. A Hành vội đáp: “Cháu lớn hơn, cháu lớn hơn.” Mễ Đóa đã nấu cơm xong lại thấy có khách đến nhà, liền vội vã đi ra ngoài, chỉ lát sau đã xách một chú cá tươi rói trở về. A Hành cười cười, lựa lời hỏi thăm ông lão: “Chẳng hay ai quản lý việc trong cả bản? Có ai biết chữa bệnh không cụ?” “Các bản đều chọn ra trưởng bản, muốn chữa bệnh thì đi cầu Vu sư, cả trăm sơn bản chúng ta ở đây mà các người gọi là Cửu Lê đó, đều mời Vu sư đến xem bệnh, thường thường muốn biết khi nào nên gieo hạt, lúc nào nên đi săn, chừng nào phải tế trời, trưởng bản đều đi hỏi Vu sư.” “Thế ai chữa bệnh mát tay nhất?” “Dĩ nhiên là Vu vương tinh thông bách nghệ chứ còn ai.” Ông lão vừa nói vừa đặt tay lên ngực, cúi đầu thật thấp, vô cùng cung kính và thành khẩn. “Cháu muốn gặp Vu vương có được không?” Nghe nàng hỏi, ông lão lộ vẻ áy náy: “E rằng không được đâu, nhưng lão có thể đi hỏi giùm cô.” “Cụ biết Vu vương ở đâu ư?” “Thường ngày Vu vương sống ở một bản khác, gọi là bản Xi Vưu, trong bản Xi Vưu có Tế Thiên đài, Vu vương phải bảo vệ thánh địa của chúng ta.” “Bản Xi Vưu ư?” Ông lão bật cười, vẻ mặt đầy kiêu hãnh: “Xi Vưu là đại anh hùng của tộc ta, nghe nói mấy trăm năm trước ngài đã cứu tất cả người trong tộc, thế nên bản vốn mang tên khác đã đổi thành bản Xi Vưu để tưởng niệm ngài.” A Hành lại hỏi tiếp: “Bản Xi Vưu ở đâu thế ạ?” Nghe nàng hỏi, ông lão liền cầm que cời lò vừa vẽ lên mặt đất vừa miêu tả bản Xi Vưu nằm trên ngọn núi nào. A Hành nghe xong bèn tươi cười đứng dậy từ biệt ông lão. Như đoán được ý định của nàng, ông lão bèn khuyên giải: “Lão nói cô nghe, bản Xi Vưu ở xa lắm, phải băng qua mấy ngọn núi nữa kia, cô cứ ăn uống rồi ngủ một giấc, sáng mai chúng ta dậy sớm chuẩn bị lương khô, lão sẽ dẫn cô đi.” Mễ Đóa đứng ở cửa bếp vừa chùi tay vào áo vừa nhìn A Hành, có thể thấp thoáng thấy đồ ăn thịnh soạn bày đầy trong bếp, đối với một gia đình miền núi, thế này đã là dốc cả nhà cả cửa ra thết đãi rồi. A Hành vội phân trần: “Thật không dám giấu, cháu có việc gấp phải đi một lát, mọi người cứ ăn trước đi, để phần cơm cho cháu là được, tối nay nhất định cháu sẽ về ăn cơm Mễ Đóa muội muội làm.” Ông lão cười nói: “Vậy được, lão sẽ hâm mấy vò Ca tửu[1] đợi cô về.” [1] Người Miêu tôn tộc Cửu Di của Xi Vưu là tổ tiên. Mỗi năm vào tháng Bảy Âm lịch, các phụ nữ trong bản người Miêu đều hái bảy loại thảo dược mà tổ tiên truyền lại đem ủ trong những chiếc cối giã gạo đặc biệt cho lên men, đến khoảng mùng chín tháng Chín lại dùng nếp trắng và nếp đen cất thành rượu, tiếng Miêu gọi là Ca tửu. A Hành gật đầu tỏ ý cảm tạ. Vừa ra khỏi nhà ông lão, nàng đã thấy Liệt Dương bay vù đến như chớp, luôn miệng kêu quang quác. A Hành cả kinh, nếu không có chuyện gì, Liệt Dương ắt chẳng thể cuống cuồng như thế, nghĩ vậy, nàng vội theo Liệt Dương bay đi. Thoạt trông thấy nàng, A Tệ cũng cuống quýt chạy lại. A Hành đỡ Xi Vưu dậy, thấy mặt hắn tím tái, cả người lạnh ngắt, trong không khí thoang thoảng mùi hương kỳ dị. Nàng bèn vạch áo hắn ra, thấy vết thương đã đen bầm lại, mùi hương càng nồng nặc hơn. Dẫu mù mờ về y thuật thế nào, A Hành cũng biết vết thương không thể bám đen, càng không thể tỏa hương nức mũi như vậy. Triệu chứng này chỉ có thể là trúng độc. Vận linh lực thăm dò mạch tượng của Xi Vưu, A Hành lại phát hiện linh thể của hắn cũng đã bị ảnh hưởng, nàng hốt hoảng đến nỗi ngã sụp xuống đất. Không thể là Đại ca hạ độc, tuy Đại ca tàn nhẫn nhưng tính rất kiêu ngạo, không đời nào thèm dùng tới cách này. Kẻ có thể hạ độc Xi Vưu chỉ có thể là người bên cạnh hắn. Nghe Vân Tang nói mấy chục năm nay, Viêm Đế rất coi trọng Xi Vưu, chuyện lớn chuyện nhỏ gì cũng cho hắn tham dự, lần này lên Ngọc sơn cũng vậy, rõ ràng Vân Tang ở đó nhưng lại để Xi Vưu xử lý chính sự, đương nhiên hắn sẽ bị rơi vào thế một vai gánh lấy sơn hà. Tuy A Hành tâm tính đơn thuần nhưng từ nhỏ lớn lên trong vương tộc, nàng thừa hiểu nếu cứ tiếp diễn như vậy, tính tình quật cường của Xi Vưu nhất định sẽ đe dọa tới quyền thế lợi ích của kẻ khác, vì xung đột quyền lợi dẫn tới hãm hại ám sát là chuyện thường. Kẻ nào muốn diệt trừ Xi Vưu nhỉ? Là Chúc Dung ư? Hay Du Võng? Cộng Công… Hay tất cả bọn họ đều góp phần? A Hành chẳng dám nghĩ tiếp nữa, lời cảnh cáo của Đại ca vẫn còn văng vẳng bên tai, phụ vương luôn muốn xưng bá Trung nguyên, nàng tuyệt đối không thể bị cuốn vào cuộc đấu tranh nội bộ của Thần Nông tộc. Nghĩ vậy, nàng đành ôm lấy Xi Vưu ngồi lên lưng A Tệ, “Chúng ta đi thôi.” Nhá nhem tối, nàng tới bản Xi Vưu. Vừa bước vào bản, nàng đã hiểu tại sao nơi đây được chọn để đặt Tế Thiên đài, nếu coi hơn trăm ngọn núi của tộc Cửu Lê như những đốt sống của một con rồng thì chỗ này chính là đầu rồng, nơi hội tụ linh khí. Chẳng cần phí công hỏi thăm chỗ ở của Vu vương, A Hành đã thấy một căn nhà xây toàn bằng đá trắng nổi bật giữa tất cả nhà sàn bằng tre nứa trong bản, hệt như một thành trì trấn giữ đỉnh núi dồi dào linh khí bậc nhất này. Nàng bèn đi thẳng tới trước cửa căn nhà bằng đá trắng. Mấy thiếu niên đang tíu tít trong sân đều để trần cánh tay, bên dưới mặc quần ống rộng, đi chân đất. Trông thấy A Hành, họ tò mò dán mắt vào nàng, chẳng hề e ngại bản thân ăn mặc lôi thôi. Một gã thanh niên chừng hơn hai mươi tuổi bước ra, “Cô hỏi ai?” A Hành hành lễ với hắn, “Ta tới xin gặp Vu vương.” Gã thanh niên nhìn nàng, thầm cảnh giác, “Vu vương không gặp người ngoài đâu.” “Ta tới xin chữa bệnh.” Gã trai bật cười, “Những kẻ từ nơi khác đến như các người, hễ nhắc tới chúng ta chỉ gọi là dã nhân, còn chẳng buồn kêu cái tên Cửu Di hàm ý khinh miệt kia nữa, đám dã nhân chúng ta ở đây làm sao biết y thuật gì được? Mời cô về đi thôi!” A Hành biết các Vu sư ở đây khác hẳn những người dân cả đời quẩn quanh trong bản, rất có thể họ đã từng đi ra ngoài nên hiểu chuyện, chính vì hiểu lại càng đề phòng hơn. Nàng bất đắc dĩ nói, “Ta nhất định phải gặp Vu vương, đành mạo phạm vậy!” Nói rồi, A Hành lướt qua gã thanh niên kia hệt như một con chạch, xông thẳng vào sân, chẳng đợi bọn họ kịp phản ứng, nàng đã cắm đầu chạy dọc theo con đường lát đá trắng. “Bắt cô ta, mau bắt cô ta lại.” Mặc cho cả đám người đuổi sau lưng, lại thêm bao nhiêu kẻ từ trong nhà ùn ùn xông ra chặn đường, A Hành vẫn nhanh nhẹn như một chú hươu non, né được hết mọi sự truy bắt, chạy thẳng tới hậu sơn, tại đây nàng trông thấy một đài tế trắng toát đứng sừng sững mộc mạc mà trang nghiêm. A Hành chạy thẳng một mạch lên đài tế rồi nhoẻn cười ngoảnh lại nhìn, thấy tất cả Vu sư đều dừng lại không dám bước lên đài. Đây là thánh địa để tế trời đất, ngay đến Vu sư cũng chưa chắc đủ tư cách tiến vào. Mặc bọn họ giận dữ trừng mắt nhìn mình, A Hành chỉ khoanh tay tủm tỉm hỏi: “Liệu bây giờ Vu vương có chịu gặp ta không đây?” Một lão già râu tóc bạc phơ chống gậy bước tới, ánh mắt toát lên vẻ kiên định mà thông tuệ, “Cô nương, chúng ta kính sợ trời đất không phải vì ngu muội dốt nát, mà bởi chúng ta tin rằng con người phải có lòng biết ơn và kính sợ thì mới có thể hòa hợp với đất trời vạn vật được.” A Hành đáp: “Vu vương, ta tới đây để tìm gặp ngài, chứ không phải để lăng nhục các người. Giờ thì ta yên tâm rồi, có chuyện này ta muốn cậy nhờ ngài, ngài bảo những người khác lui ra được không?” “Đây đều là người trong tộc của ta, cô có chuyện gì cứ nói thẳng ra, đừng ngại.” Nghe lão nói vậy, A Hành đành thở dài, ngoảnh mặt về phía núi huýt gọi một tiếng. Theo tiếng huýt của nàng, một bóng trắng bỗng xẹt ngang bầu trời như sao, rồi đỗ xuống đài tế. Đó là một con chim toàn thân trắng muốt, cao hơn một thước, cặp mắt ngạo nghễ màu lục bích lướt qua cả đám Vu sư như đánh giá. Đám Vu sư thấy thế càng thêm tức giận, mấy Đại vu sư được quyền bước lên đài tế chỉ muốn xông tới bắt lấy A Hành, nhưng Vu vương lại giơ tay ngăn cản, tỏ ý bảo bọn họ hãy nghe kỹ đã. Chẳng biết gió từ đâu bỗng nổi lên khiến những chiếc chuông gió bằng xương thú treo trên đài tế kêu leng keng, ban đầu chỉ là ngân nga khe khẽ, dần dà, tiếng chuông càng lúc càng to hơn, hòa cùng thế gió mỗi lúc một mạnh. Trong tiếng lanh canh điên cuồng của chuông gió, giữa không trung bỗng hiện ra một bóng đen khổng lồ, là một con hồ ly to lớn, diễm lệ lạ thường, không ngừng bay vòng vòng xung quanh, cuốn theo cuồng phong cuồn cuộn thốc lên, bao bọc cả đài tế. Giữa lúc đám Vu sư đang há hốc miệng kinh ngạc nhìn hồ ly bay, con chim trắng kia còn sợ họ chưa chịu đủ chấn động, liền há mỏ khạc ra lửa, lửa đỏ, lửa lam, lửa vàng… Từng cuộn lửa bảy sắc bùng lên giữa trời đêm như những đóa hoa tuyệt đẹp, tỏa ánh sáng rực khiến cả đài tế toát lên vẻ mỹ lệ trang nghiêm như cung điện của thần tiên, mà thiếu nữ áo xanh lại đứng ngay giữa khung cảnh kỳ ảo ấy. Thấy vậy Vu vương bèn căn dặn mấy câu, lập tức đám người vây quanh đài tế tản cả ra, chỉ còn lại mấy Vu sư lớn tuổi. Vu vương nghiêm trang hỏi: “Cô nương đến từ Thần tộc ư? Chẳng hay cô tới đây có chuyện gì vậy?” A Tệ đỗ xuống bên cạnh A Hành, nàng liền đỡ Xi Vưu trên lưng nó xuống, hỏi ngược lại: “Không biết Vu vương có nhận ra hắn hay không?” Trông rõ diện mạo Xi Vưu, Vu vương biến hẳn sắc mặt, lập tức quỳ sụp xuống đất, cả người run lên vì kích động, “Sao lão có thể không nhận ra kia chứ, Vu sư các đời mỗi khi bái sư, trước tiên phải quỳ lạy tượng gỗ của ngài, lập lời thề sẽ bảo vệ bình yên và tự do cho dải nước non này, có điều, có điều… lão thật sự chẳng dám mơ kiếp này mình lại được gặp Xi Vưu đại nhân.” A Hành nói tiếp: “Hắn bị thương rồi.” Vu vương vội lê bằng đầu gối tới cạnh Xi Vưu thăm khám vết thương, thận trọng rút một đoạn kiếm gãy ra khỏi người hắn, lại kiểm tra kỹ lưỡng tình trạng trúng độc, vẻ mặt càng lúc càng khó coi. A Hành nghiêng mình ngồi lên lưng A Tệ định rời đi. Nhận ra nàng lai lịch không tầm thường, Vu vương vội giữ nàng lại, khẩn thiết vật nài: “Cầu xin cô nương ra tay cứu giúp Xi Vưu đại nhân, vết thương của đại nhân nặng lắm, kiếm khí ngưng tụ trên kiếm này lại rất đặc biệt. Lão chưa từng thấy kiếm khí lợi hại như vậy bao giờ, còn tẩm cả độc nữa…” A Hành cầm đoạn kiếm gãy lên xem, thấy trên rìa kiếm chạm nổi hoa văn Huyền điểu, chính là biểu tượng của vương thất Cao Tân, sực nhớ tới thân phận mình, nàng lạnh buốt cả cõi lòng, đưa mắt nhìn Vu vương: “Lão muốn ta giúp hắn ư? Lần đầu tiên giúp hắn, ta bị giam cầm sáu mươi năm, lần thứ hai, ta phải phản bội Đại ca mình.” Nói rồi nàng giơ đoạn kiếm gãy lên, “Thanh kiếm này do vị hôn phu của ta rèn ra, tay nghề rèn kiếm của y rất cao, hẳn vết thương của Xi Vưu khó mà lành được, đây cũng là bội kiếm bên mình Đại ca ta, chính Đại ca đã tự tay đâm kiếm vào ngực Xi Vưu đấy.” Thấy Vu vương tái mặt, sững sờ nhìn mình, A Hành hỏi tiếp: “Giờ lão còn muốn ta cứu hắn nữa không?” Vu vương lắc đầu quầy quậy, nàng buông một câu: “Tốt lắm,” rồi vỗ vỗ lên mình A Tệ, A Tệ liền cất cánh cõng nàng bay lên, khiến những chiếc chuông gió quanh đài tế lại được dịp rung lên leng keng một tràng. Nghe tiếng chuông gió leng keng, A Hành thoáng ngẩn người, thuở còn ở Ngọc sơn, nàng cũng treo dưới hiên nhà một chiếc chuông gió như thế này, giờ đây hồi tưởng lại, dường như những bức thư của Xi Vưu chính là sắc màu duy nhất suốt sáu mươi năm đằng đẵng ấy. Nhớ tới chuyện cũ, nàng vừa vuốt đầu A Tệ, vừa hỏi: “Ta không hiểu y thuật, ở lại cũng chẳng giúp được gì nhỉ. Người trên đại hoang vẫn lén gọi Vu vương của Cửu Lê tộc là Độc vương, nhất định lão sẽ cứu được Xi Vưu, mày bảo có phải không, A Tệ?” Chẳng một ai đáp lời nàng, có điều, nàng cũng chỉ muốn thuyết phục bản thân mình mà thôi. Lúc nàng về tới bản Đức Ngõa, ông lão Đức Ngõa và Mễ Đóa mới ăn xong cơm chưa lâu. A Hành lên tiếng chào hỏi: “Cháu về ăn cơm rồi đây.” Thấy nàng trở về, Mễ Đóa vui vẻ đi hâm lại thức ăn, trong khi ông lão cười khà bảo: “Sáng mai lão nói với trưởng bản một tiếng rồi sẽ đưa cô tới bản Xi Vưu.” “Không cần đâu, cháu đã giải quyết xong việc rồi, khỏi cần tới bản Xi Vưu nữa.” “À, thế thì hay quá.” Người Cửu Lê nấu rượu rất ngon, Ca tửu của họ nồng nàn ngọt lịm khiến A Hành vừa uống đã mê, thấy nàng thích thú, ông lão càng thêm vui vẻ, cười đến rung cả râu. Trước sự thết đãi nhiệt tình của ông lão và Mễ Đóa, A Hành đã được ăn một bữa tối cực kỳ thịnh soạn. Trong lúc chuyện trò, A Hành biết được Mễ Đóa tuổi đã lớn, đáng lẽ phải lấy chồng từ lâu nhưng con dâu của ông lão ốm nặng, nằm liệt giường, quanh năm mọi chuyện lớn nhỏ ở nhà đều trông vào Mễ Đóa, bởi thế mà cô lần lữa chưa chịu gả đi. Phòng của Mễ Đóa là gian phòng đẹp nhất trong nhà, cô nhường lại cho A Hành. Người Cửu Lê luôn dành cho khách những gì tốt đẹp nhất, đây là đạo đãi khách của họ, cảm nhận được điều đó, A Hành chẳng còn cách nào khác hơn là tiếp nhận. Rửa mặt xong xuôi, nàng bèn ra ngồi trước bàn trúc hong tóc. Vành trăng non nhạt nhòa treo giữa nền trời đen thẫm, gió đêm từ trên núi đưa xuống mang theo hương thơm cây cỏ, khe suối gần đó róc rách chảy như đang ngân nga một khúc nhạc đồng quê. Một người đàn ông từ dưới núi đi lên, ngồi xuống tảng đá lớn bên bờ suối thổi sáo. Bỗng cửa nhà cót két hé ra, Mễ Đóa nhanh như sóc chạy về phía con suối, thoáng chốc, A Hành trông thấy hai bóng người ôm chầm lấy nhau. Loáng thoáng nghe thấy tiếng chuyện trò. “Khách ăn cá ta bắt có thích không?” “Thích lắm, luôn miệng khen ngon.” “Đó là tại muội nấu ăn ngon.” Hai người cứ thế dìu nhau mà lên núi. A Hành chợt nhoẻn cười, đưa mắt trông về phía núi xa, thầm nghĩ, chàng như cây lớn, thiếp tựa dây mây, cây lớn che chở cho dây mây, dây mây quấn quýt quanh cây lớn, gió táp mưa sa vẫn chẳng rời, mãi mãi bên nhau hoài khăng khít. Phòng bên chợt vang lên tiếng ho sù sụ, cùng tiếng uống nước ừng ực. Ông lão đã tỉnh rồi, liệu lão có biết cháu gái mình lén lút hẹn hò với bạn tình không nhỉ? A Hành thấy hơi thắc mắc, nhưng cũng chẳng lấy thế làm lo lắng. Nam hoan nữ ái vốn là chuyện tự nhiên trong trời đất, chỉ là ở vùng này, nó vẫn giữ nguyên những nét ban sơ thuần phác mà thôi.
|
Chẳng hiểu sao hình bóng Xi Vưu lại hiện ra trước mắt nàng, hắn đã lớn lên giữa một vùng non nước thế này ư? Liệu hắn có biết đánh cá không? Hắn cũng biết hát những khúc sơn ca lanh lảnh mà tình tứ như vậy sao? Hắn đã từng hát cho ai nghe chưa nhỉ… Đêm đó A Hành gối đầu lên những gió mát trăng trong giữa núi rừng, chìm vào giấc mộng thơm ngây ngất. Sáng hôm sau, tiếng gà trống gáy le te đánh thức nàng dậy. Bình minh ở đây chẳng hề đượm vẻ tịch mịch chết chóc như trên Ngọc sơn, cũng không có loan kêu phượng hót líu lo êm tai như tại Triêu Vân phong. Sáng sớm ra mọi người gặp nhau đều niềm nở hỏi chào, tiếng mấy cô thiếu nữ lao xao hẹn nhau đi hái dâu, tiếng đám đàn ông lấy công cụ loảng xoảng, tiếng các bà mẹ cao giọng mắng con, tiếng đám trẻ khóc lóc ầm ĩ hòa cùng tiếng bò rống ò ò, dê kêu be be và gà mái cục ta cục tác… Rất ồn ào! Nhưng… A Hành mỉm cười, nhưng cũng đầy sức sống! Nàng còn gặp cả mẹ của Mễ Đóa, bà đau ốm quanh năm, bị bệnh tật giày vò đến nỗi chỉ còn da bọc xương, chẳng nói nổi một câu hoàn chỉnh. A Hành cũng biết người yêu của Mễ Đóa tên là Kim Đan, hai hôm nay không ở trong bản, theo lời Mễ Đóa thì y sang bản khác tìm vợ. Nghe vậy A Hành kinh ngạc, “Chẳng phải hai người là… Cô không giận sao?” Mễ Đóa cười khổ lắc đầu, “Mẹ tôi nằm liệt giường, em trai còn nhỏ dại, giờ đây tôi là người phụ nữ duy nhất trong gia đình, cả nhà không thể không có tôi được, y đã đợi tôi bốn năm rồi, chẳng thể đợi thêm nữa đâu.” “Vậy hai người phải chia tay sao?” “Ừm, sau này y phải đối tốt với người con gái khác thôi.” Mễ Đóa lộ vẻ buồn rầu nhưng vẫn gượng cười đáp. “Cô biết hai người phải chia tay mà đêm đến vẫn… vẫn lén lút hẹn gặp y ư?” A Hành thắc mắc. Mễ Đóa vô cùng kinh ngạc, cô ta cũng không sao hiểu nổi A Hành, “Chính vì chúng tôi phải chia tay nên mới nắm lấy mọi cơ hội được ở bên nhau, gắng hết sức mà gặp gỡ.” A Hành không nói rõ được quan điểm của Mễ Đóa đúng ở chỗ nào, nhưng cũng không biết là sai ở đâu cả. Có lẽ, tại vùng rừng núi cách xa thế tục này thì quan điểm đó đúng, còn ở chốn phồn hoa đầy những phép tắc lễ nghi thì quan điểm đó lại sai. Nàng không muốn Kim Đan rời xa Mễ Đóa nhưng cách duy nhất để Mễ Đóa có thể lấy Kim Đan là trong nhà phải có thêm một người phụ nữ cáng đáng gia đình. Nàng đề nghị Mễ Đóa tìm Vu sư đến xem bệnh cho bà mẹ nhưng Mễ Đóa nói năm ngoái Kim Đan cùng mấy gã trai trong bản đã khiêng mẹ mình tới bản Xi Vưu, tiếc rằng Đại vu sư nói bệnh này sức người chẳng thể chữa nổi, đành phó mặc cho ý trời. Nàng biết trên đời này có những căn bệnh không cách nào trị nổi, ngay cả Viêm Đế y thuật đứng đầu thiên hạ cũng đâu cứu được con gái Dao Cơ của mình. Lòng đầy bực bội, nàng bèn chạy thẳng tới đỉnh núi vắng vẻ thăm A Tệ cùng Liệt Dương, trông thấy hai bọn chúng đang vờn nghịch chiếc tay nải lộn xộn cả lên, hại nàng phải sắp xếp lại. Đột nhiên giữa đống đồ đạc linh tinh, A Hành nhìn thấy một túi đào khô. Đây là đào tiên mà nàng hái trên Ngọc sơn, đem phơi khô để A Tệ và Liệt Dương ăn vặt, nhưng chúng ăn suốt mấy chục năm đã chán ngấy, chẳng buồn đụng đến nữa. A Hành liền cầm một miếng lên, tiện tay bỏ vào miệng nhai rồi nhảy dựng lên chạy xuống núi. Nàng định dùng đào tiên để cứu mẹ Mễ Đóa nhưng đã có tiền lệ của A Tệ, nàng không dám trực tiếp cho bà ta ăn mà ngâm một miếng vào nước rồi cho bà uống thứ nước đó. Ngày đầu tiên, A Hành vừa chữa vừa nơm nớp lo sợ, may sao mẹ Mễ Đóa chẳng xảy ra chuyện gì, đến ngày thứ hai, bà bắt đầu thấy đói muốn ăn cơm khiến Mễ Đóa kinh ngạc, nửa mừng nửa tủi bởi đã bốn năm nay, mẹ cô chưa hề chủ động đòi ăn cơm bao giờ. Thấy có vẻ hiệu quả, A Hành lại tiếp tục ngâm đào khô với nước. Sau ba ngày uống nước đào khô, mẹ Mễ Đóa dần ăn uống được, tuy vẫn chưa thể ngồi dậy nhưng rõ ràng bệnh tình đã có chuyển biến tốt, chỉ cần từ từ điều dưỡng, sớm muộn sẽ xuống đất đi lại được. Trở về bản, nghe nói bệnh tình mẹ Mễ Đóa đã đỡ, Kim Đan liền khiêng ngay con dê béo nhất trong nhà hăm hở sải bước tới nhà Mễ Đóa, ngắc ngứ nói không nên lời, chỉ biết ấn con dê béo múp vào lòng A Hành. A Hành hoảng hốt vội nhảy tót lên bàn gọi Mễ Đóa kêu cứu, nàng vừa trợn mắt vừa nhìn con dê vừa hú vía nhủ thầm: may mà không phải một con trâu. Mễ Đóa từ trong phòng mẹ mình chạy ra, trông thấy Kim Đan, cô sững người rồi bưng mặt ngồi thụp xuống đất khóc òa lên, ông nội cô ngồi bên bếp lửa cũng phải quay đi, lấy tay che mặt lén lau nước mắt. A Hành thấy vậy liền tụt xuống bàn, vỗ vỗ lưng Mễ Đóa an ủi, “Đừng khóc, đừng khóc mà, sao lúc Kim Đan ca ca của cô đi cô không khóc mà giờ y quay về lại khóc lóc thế này?” Tin A Hành trị khỏi bệnh ẹ Mễ Đóa đã lan khắp bản, người bệnh trong bản bắt đầu lũ lượt kéo tới nhờ xem bệnh khiến nàng kinh hồn bạt vía, nhưng đã lỡ ăn cơm và uống Ca tửu khắp các nhà trong bản nên chẳng thể từ chối được, đành sao y bản chính, tiếp tục dùng nước ngâm đào khô mà chữa bệnh thôi. Vừa ngâm đào vào nước, nàng vừa thầm khấn Vương Mẫu, chỉ mong rằng mấy trái đào ngàn năm nở hoa, ngàn năm nữa mới ra quả này của bà thật sự lợi hại như người đại hoang vẫn đồn đại. Trong lúc A Hành nơm nớp lo sợ, những người dùng nước của nàng dẫu bệnh chẳng lui thì cũng đỡ hẳn đau đớn, ít nhất có thể bình tĩnh thản nhiên mà chờ chết. Mọi người mừng rỡ bèn mượn lời ca tiếng hát để tỏ lòng cảm kích đối với nàng, theo tiếng ca lanh lảnh, tiếng thơm về y thuật của A Hành cũng từ từ lan ra khắp trăm thôn bản lớn nhỏ của Cửu Lê tộc. Người mang bệnh nặng đều ấp ủ một tia hy vọng, tới cầu khẩn A Hành. Bọn họ trèo đèo lội suối, băng rừng vượt sông mà tới, dắt theo những con trâu đầu cơ nghiệp, những con gà mái mắn đẻ nhất trong nhà, thành khẩn quỳ xuống trước A Hành, gương mặt sạm đen vì sương gió đầy vẻ mong mỏi và van xin. A Hành không sao cự tuyệt nổi, đành phải nhận lấy. Thực lòng nàng vẫn luôn muốn ra đi, nhưng chẳng rõ vì sao, hễ tới lúc định đi nàng lại lần lữa, nhủ lòng nấn ná thêm một ngày. Nàng cũng không rõ rốt cuộc thứ gì đã níu chân mình lại nữa, có lẽ là cảnh nước non hùng vĩ mỹ lệ của Cửu Lê, có lẽ là những gương mặt chất phác nhiệt tình của người dân bản Đức Ngõa, có lẽ là khúc ca phóng khoáng mà nồng nàn hay vò Ca tửu đậm đà sóng sánh, có lẽ là những quả dại ngọt lành mà các cô gái âm thầm để lại trước cửa nhà, có lẽ là những bàn tay trẻ nít nhỏ bé đen sạm nắm lấy chéo áo nàng, cũng có lẽ chỉ là tiếng hò trâu kéo cày ngoài ruộng cũng nên. Bởi vô vàn lý do không sao nói rõ ấy, nàng cứ thế ở lại nơi này hết ngày này sang ngày khác. Sáng sớm ra, A Hành vừa mở mắt đã bắt đầu đấu tranh tư tưởng, không biết hôm nay có nên đi hay không? Nàng cứ một lát nghĩ lý do nên đi lại một lát nghĩ lý do nên ở, cuối cùng quên hết sạch mọi lý do, chỉ băn khoăn không biết bệnh tình Xi Vưu rốt cuộc ra sao, chẳng hiểu Vu vương đã giải được độc cho hắn hay chưa nữa? Liệu có phải hắn đã quay về Thần Nông sơn rồi không nhỉ? Trằn trọc mãi, đột nhiên nàng cảm thấy buổi sáng hôm nay rất lạ, chẳng nghe thấy tiếng đàn ông gọi nhau đi làm, cũng không nghe thấy tiếng phụ nữ mắng con, tiếng trẻ nhỏ khóc lóc… cả bản đều im phăng phắc như tờ. Nàng vội vã chạy xuống thang, liền trông thấy Vu vương đang quỳ trước cửa nhà, dập đầu sát đất, lưng cong tựa cánh cung, hệt như một bức tượng người thành tâm cầu khẩn. Cả bản lặng phắc, mọi người đều lấp ló đằng xa, hoang mang nghi hoặc nhìn lại bên này, không hiểu sao vị Vu vương vĩ đại của họ lại quỳ sụp trước mặt A Hành. A Hành vội cúi xuống đỡ lão dậy, hoảng hốt hỏi: “Xi Vưu vẫn chưa giải được độc ư?” Thấy Vu vương lắc đầu, nàng nói ngay: “Chúng ta tới bản Xi Vưu đi.” Đại vu sư dắt A Hành lên đài tế, trông thấy Xi Vưu đang nằm giữa đài, nàng bèn quỳ xuống xem xét vết thương của hắn. Vu vương nói: “Tuy vết kiếm thương lợi hại thật, nhưng được linh khí núi sông Cửu Lê bảo hộ, vết thương của Xi Vưu đại nhân có thể từ từ lành lại.” A Hành vội hỏi: “Vậy vấn đề trí mạng là chất độc kia ư?” Vu vương gật đầu, “Tộc Cửu Lê rất giỏi sai sử độc vật, nổi tiếng khắp đại hoang về dùng độc, nhưng chúng ta thiên về trùng độc, còn đây lại là độc dược, lão nghĩ nát óc cũng không giải nổi.” “Lão biết Xi Vưu bị Đại ca ta đả thương mà còn dám xin ta cứu hắn ư? Lão không sợ độc này là do chúng ta hạ à?” “Lão sống trên đời đã chín mươi hai năm, chuyện khác có lẽ chẳng biết được bao nhiêu, nhưng lòng người thì đã thấy nhiều rồi,” Vu vương vuốt đoạn kiếm gãy trong tay, trầm giọng nói: “Kiếm là do thợ rèn dốc hết tâm huyết tạo nên, nếu lòng kẻ rèn kiếm không coi trời đất vào đâu thì chẳng thể rèn nổi thanh kiếm có khí thế nuốt trời diệt đất, kẻ rèn ra được thanh kiếm thế này nhất định sẽ không trao nó cho người tùy tiện dùng độc, xem thường kiếm hồn đâu.” A Hành ngước mắt nhìn Vu vương, im lặng. Vu vương lại nói tiếp: “Kẻ hạ độc này vô cùng tàn nhẫn, chất độc đã tiềm phục trong người Xi Vưu đại nhân từ lâu, ít ra cũng phải mấy chục năm rồi, hàng ngày chẳng có gì khác lạ, chỉ tới khi ngài bị thương nặng, phải vận linh lực trị thương thì mới phát tác. Độc tính sẽ theo linh lực vận hành mà lan đi khắp cơ thể, khiến đại nhân chẳng những không thể dùng linh lực trị thương mà còn chẳng thể vận linh lực bức độc nữa, chỉ đành bó tay chờ chết. Linh thể của Xi Vưu đại nhân đã không chống chọi nổi nữa rồi…” Sắc mặt Vu vương vô cùng buồn bã. “Các Đại vu sư đề nghị lão tới Thần Nông sơn cầu cứu, nhưng lão đã khước từ.” “Tại sao thế?” “Nghe sư phụ nói Xi Vưu đại nhân lớn lên ở nơi hoang dã, nắm rõ mọi thứ độc trùng độc thảo, tuy lão được tôn làm Vu vương của Cửu Lê, lại nhờ giỏi dùng độc mà được người đại hoang gọi là Độc vương, ngay cao thủ Thần tộc cũng phải nhường nhịn ba phần, nhưng lão chẳng cách nào hạ độc dược đại nhân, vậy kẻ có bản lĩnh hạ độc làm hại Xi Vưu đại nhân chỉ có thể là cao thủ Thần tộc am hiểu dược tính mà thôi. Trên đời này, Thần Nông vương tộc thông thạo y thuật nhất, kẻ hạ độc này có lẽ cũng xuất thân từ đó, làm sao lão dám đi cầu cứu bọn họ đây? Nếu Xi Vưu đại nhân phải chết, lão mong rằng ngài có thể yên nghỉ ở dải non nước Cửu Lê này.” Nghe lão nói vậy, A Hành càng thêm phần kính trọng lão nhân cơ trí trước mặt. Nhưng giờ phải làm sao đây? Không thể cầu cứu Thần Nông, không thể cầu cứu Cao Tân, càng không thể cầu cứu Hiên Viên được. Nghĩ đi nghĩ lại, A Hành cảm thấy mình đã cùng đường, chẳng có ai để trông chờ cả. Thấy A Hành lộ vẻ lo lắng, Vu vương có phần bứt rứt, “Tây Lăng cô nương đừng quá tự trách mình. Tộc Cửu Lê chúng ta sùng bái trời đất, xem trọng hiện tại trước mắt, chỉ theo đuổi lạc thú tức thời, chuyện sống chết giao cả cho trời đất quyết định. Dù phải chết như thế này, lão nghĩ Xi Vưu đại nhân cũng chẳng có gì ân hận đâu.” A Hành sầm mặt: “Xi Vưu nhất định không muốn chết tức tưởi thế này, dù có chết hắn cũng phải khiến tất cả những kẻ căm hận mình khốn đốn mới cam.” Nói rồi A Hành thoáng lộ nụ cười. Vu vương không kìm được cũng cười theo, “Yêu bằng cả sinh mệnh, lại dùng cái chết mà trả hận, đó mới chính là người Cửu Lê, kẻ khác thấy chúng ta man rợ hung ác, thực ra chỉ chúng ta mới hiểu rõ sự trân quý của mạng sống, chúng ta sợ chết nhưng không khiếp nhược trước cái chết, bởi thế lão có thể dốc hết sức chữa trị cho Xi Vưu đại nhân, nhưng cũng có thể bình thản nhìn ngài ra đi.” A Hành nói: “Cảm ơn lão đã giảng giải, có điều Xi Vưu còn nợ ơn cứu mạng của ta hai lần, ta chưa đòi lại, hắn đừng mơ quỵt nợ dễ dàng như vậy!” A Hành ngẩng đầu huýt dài một tiếng, theo tiếng huýt, Liệt Dương và A Tệ từ trời bay xuống, đậu trên đài tế. Nàng xoa đầu A Tệ dỗ dành, “Xi Vưu bị bệnh, ta muốn xin ít máu của mày được không?” A Tệ lớn lên ở Ngọc sơn, ăn đào tiên uống ngọc tủy nên cơ thể cũng ngưng tụ linh khí đất trời của Ngọc sơn. A Tệ nghe nói liền cúi đầu dịu dàng cọ cọ vào người A Hành như an ủi. A Hành lại quay sang bảo Vu vương: “Làm phiền ngài rồi.” Vu vương cầm bát ngọc cùng dao bạc vẫn dùng khi cúng tế bước tới bên A Tệ, A Tệ hiểu ý liền giơ chân trước lên để lão kề dao cắt một nhát, máu tươi trào ra, mùi hương lạ lùng cũng bốc lên sực nức. A Hành quay lưng lại phía bọn họ, tự cắt cổ tay mình và Xi Vưu, đưa tay nắm lấy tay hắn để máu độc trong người Xi Vưu chảy sang cơ thể mình. Thấy Vu vương bưng bát máu sóng sánh lại gần, A Hành liền bảo lão cho Xi Vưu uống, “Máu này không giải được độc nhưng cũng có thể trì hoãn độc tính khỏi lan ra, hàng ngày lão cắt một bát máu trên người A Tệ cho hắn uống, ta phải đi một thời gian, mấy ngày nữa sẽ cho Liệt Dương mang thuốc giải về.” Dứt lời A Hành quay gót bỏ đi nhưng vừa đi được mấy bước, nàng bỗng thấy gấu váy bị thứ gì đó níu lại, không đi được, bèn ngoảnh lại nhìn, phát hiện Xi Vưu đang nắm chặt lấy gấu váy mình. Vu vương nói: “Xi Vưu đại nhân không muốn để cô nương đi.” A Hành đành dùng linh lực gỡ tay hắn ra rồi ghé tai nói nhỏ: “Ta không để ngươi chết đâu.” Nói rồi nàng rảo chân bước xuống đài tế. Không có A Tệ để cưỡi, A Hành không đi nhanh được, lại thêm Liệt Dương cứ lởn vởn bay lòng vòng trên đầu nàng, chẳng hề có vẻ sốt ruột như hôm qua. A Hành dốc hết sức vận linh lực, vừa để đi lại cho nhanh, vừa để độc tính lan khắp toàn thân. Một người một chim đi suốt một ngày đường, xa khỏi Cửu Lê tộc. Đến chập tối, khi mặt trời đã nhuốm sắc hoàng hôn lên khắp đất trời, sắc mặt A Hành bắt đầu tái dần, tim đập chậm lại, từ từ cảm thấy nghẹt thở. Nàng đành ngồi xuống dưới gốc cây nghỉ chân. Liệt Dương đậu xuống trước mặt, lo lắng nhìn nàng rồi kêu lên quang quác khiến tất cả chim chóc trong rừng đều rớt cả xuống đất. A Hành xé một mảnh tay áo buộc vào chân Liệt Dương, ra lệnh, “Tới Thần Nông sơn, tìm Vân Tang đi.” Nàng thở hổn hển, không sao nói tiếp được nữa, đành dựa vào thân cây, đưa tay chỉ lên trời. Liệt Dương lại ngẩng đầu kêu quác quác, gọi tất cả chim chóc xung quanh run rẩy bay đến, con trước con sau tự động vây quanh A Hành. Nhanh như chớp, Liệt Dương dang cánh bay vút lên, thoáng chốc đã mất hút. Nơi này đã nằm trong địa phận Thần Nông, với đà bay của Liệt Dương, ắt chẳng bao lâu sẽ đến nơi. Dẫu kẻ khác có trông thấy mảnh tay áo đó cũng chẳng hiểu là ý gì, càng không thể phát hiện tính mạng Xi Vưu chỉ còn trong sớm tối, nhưng Vân Tang đã theo mẹ nàng học nghệ mười năm, rất dễ nhận ra vải vóc do bà dệt thành, hễ nhìn qua là biết nàng đang cầu cứu, chắc hẳn sẽ đến ngay. A Hành không gắng gượng nổi nữa, từ từ nhắm mắt lại. Dưới bóng chiều tà, giữa nơi rừng vắng, bầy chim bị Liệt Dương uy hiếp từng con từng con lần lượt nằm xuống thành một tấm bình phong sặc sỡ đủ màu, bao bọc A Hành ở giữa. A Hành lờ mờ thấy ánh vàng lấp lánh trước mắt mình, hình ảnh Xi Vưu hết lần này sang lần khác cứ hiện lên trong lòng, lại thêm cả những bức thư trao đi gửi lại suốt sáu mươi năm, thì ra, trí nhớ của nàng tốt đến mức chính nàng cũng kinh ngạc, bao nhiêu thư từ như thế mà vẫn nhớ rõ mồn một. “Ngang qua Khâu Thương, hoa đào nở đỏ rực hai bên bờ, thấy cô gái giặt lụa bên suối, ta lại nhớ cô.” A Hành chợt nhoẻn miệng cười, mùa hoa năm nay đã qua rồi, để sang năm đi, sang năm nàng muốn ngắm hoa đào ở nhân gian, ắt hẳn còn đẹp hơn hoa đào trên Ngọc sơn nhiều. Thật ra nàng vẫn luôn muốn hỏi Xi Vưu tại sao là “lại nhớ”, lẽ nào ngươi thường nhớ tới ta ư? A Hành từ từ mất đi ý thức nhưng khóe miệng vẫn giữ nụ cười, trong lòng còn đọng lại cảnh tượng bình yên mà tươi đẹp sau cùng: dải nước biếc Khâu Thương uốn lượn như một chiếc đai bích ngọc, Xi Vưu vận tấm áo đỏ rực đứng trước mũi thuyền thả trôi theo dòng, khắp vài dặm ven bờ hoa đào nở rộ, ngào ngạt hương đưa, đẹp tươi rạng rỡ. A Hành tha thiết mong Vân Tang đến nhưng nàng không biết rằng bấy giờ Vân Tang không ở Thần Nông. Sau khi từ biệt Thiếu Hạo và A Hành tại hẻm núi hoang, Vân Tang liền cải trang đi thẳng tới Cao Tân. Trước nay nàng chỉ trăn trở với những âu lo của mình mà chẳng hề để tâm tới cảm nhận của Nặc Nại, y là thần tử, cũng là bạn của Thiếu Hạo nhưng đêm hôm mưa gió lại ôm ấp thê tử Thiếu Hạo suốt đêm, Cao Tân lễ giáo nghiêm ngặt, Nặc Nại tính tình thanh cao, sau đêm đó, y đã bất lực, hoảng hốt, nhục nhã, hổ thẹn đến nhường nào? Bất lực vì mình không kiềm chế nổi tình cảm, hoảng hốt sợ chuốc lấy đại họa cho gia tộc vì dám giành vợ của vương tử, nhục nhã vì sự đê hèn bỉ ổi của bản thân, hổ thẹn vì đã phản bội bạn bè. Có lẽ chỉ vùi đầu vào sa đọa suốt ngày, tự chà đạp bản thân, y mới có thể đối mặt với Thiếu Hạo, nhưng Thiếu Hạo lại chẳng hay chẳng biết, còn lo lắng quan tâm, khuyên nhủ y giữ mình trong sạch, hẳn mỗi sự quan tâm chân thành đó cũng chính là một lần lăng trì giày vò y, khiến y càng thêm căm ghét khinh bỉ bản thân mình. Khi gặp gỡ trên Ngọc sơn, Vân Tang chỉ nhất thời xúc động mà thăm dò, nào ngờ có ngày sự vô tâm của nàng lại bị bè lũ Yến Long lợi dụng, đẩy Nặc Nại cùng cả gia tộc, thậm chí cả ngôi vị tương lai của Thiếu Hạo vào vòng nguy hiểm. Vân Tang vô cùng căm hận bản thân, sống trong vương tộc, từ nhỏ tới lớn nàng chưa từng làm sai điều gì, vậy mà hôm đó giữa chốn núi cao sông sâu tình cờ gặp gỡ, nước như gương soi, lòng vừa xao xuyến, chợt giận chợt mừng khiến nàng quên bẵng thân phận của mình, ngỡ rằng có thể như một thiếu nữ bình thường, có rung động mãnh liệt, có thấp thỏm không yên, tự cho phép mình thăm dò, tiếp cận. Một thân một mình đến Cao Tân thế này, nàng cũng không biết liệu mình có gặp được Nặc Nại đang bị giam trong thiên lao hay không, càng không biết nếu nói rõ thân phận với y, y sẽ đối xử với mình ra sao nữa, chắc hẳn, y không đời nào chịu tha thứ cho nàng. Nhưng nàng nhất định phải gặp được y. Giữa màn đêm thăm thẳm, muôn ngàn vì sao sáng như bảo thạch giăng khắp bầu trời, lấp lánh mỹ lệ khôn xiết, dù nơi đồng không mông quạnh hay chốn cung điện nguy nga, dù ở Thần Nông, Cao Tân hay nơi nào đi nữa cũng là một màn đêm như thế, một bầu trời sao như thế. Đồng hoang tĩnh lặng, sao sáng đầy trời, A Hành thiêm thiếp ngủ giữa vòng vây bảo hộ của muôn chim, khóe môi còn ẩn hiện nụ cười, sinh mệnh của nàng cũng cứ thế vùn vụt trôi qua trong cơn mê ngủ. Giữa phủ đệ nguy nga rường chạm cột khắc, Thiếu Hạo uể oải đặt văn thư trong tay xuống, bước tới bên song, cầm vò rượu lên thong thả uống, đột nhiên như sực nhớ điều gì, y bèn rút một mảnh khăn lụa trong ngực ra, bên trên là bí quyết nấu rượu mà A Hành chép lại ình. Y cúi đầu xem một lượt rồi ngẩng lên nhìn trời, thấy muôn sao lấp lánh tựa ngàn vạn ngọn đèn trong các gia đình ở nhân gian, chẳng rõ giờ này A Hành đang ngồi nghe chuyện dưới ngọn đèn nào, bất giác khóe môi Thiếu Hạo thấp thoáng nụ cười. Kiếm vàng thương bạc, canh giữ nghiêm ngặt, bên ngoài thiên lao, Vân Tang đeo mặt nạ lên, cải trang thành một thiếu nữ dung mạo rất bình thường, mặt nạ này dùng tơ Nhân Diện dệt thành, mỏng như cánh ve, vì không dùng linh lực để thay đổi gương mặt nên dù đụng phải thần tiên linh lực cao hơn hẳn mình, nàng cũng không sợ bị lộ thân phận. Vân Tang ngẩng đầu nhìn trời vừa lúc một vì sao băng xẹt ngang qua, nàng lặng lẽ trông theo vệt sao khuất cuối chân trời, âm thầm cầu khấn. Vân Tang định thần lại, tay trái xách một bình Triển Ti Ngọc Liên đựng đầy nước, tay phải cầm trường kiếm. Nàng đã bỏ viên thuốc mà Viêm Đế ình để chạy thoát phòng khi gặp nguy vào bình nước, từng làn khói xanh có công dụng mê hoặc tâm thần phơ phất bốc lên từ chiếc bình Ngọc Liên nơi tay trái, vấn vít quanh mình nàng, Vân Tang xách bình cầm kiếm bay vút vào thiên lao. Núi cao sừng sững, gió mát hây hẩy, những chiếc chuông gió bằng xương thú treo quanh đài tế cũng ngân lên leng keng không dứt, dịu dàng như một khúc ca dao ru người vào giấc ngủ. Xi Vưu nằm giữa đài tế say ngủ, còn Vu vương và A Tệ ngồi canh bên dưới. Vu vương tựa lưng vào tường ngủ gà ngủ gật, A Tệ dường như cũng đang ngủ, có điều đôi tai hồ ly nhòn nhọn vẫn dỏng lên nghe ngóng, đầy cảnh giác. Rất lâu rất lâu sau, Xi Vưu bỗng từ từ mở mắt, chăm chú nhìn bầu trời sao trên đầu rồi chầm chậm đưa tay lên, nhìn vết dao cắt nơi tay, hắn dần dần hiểu ra ngọn nguồn mọi chuyện, bèn hít vào một hơi, trở mình ngồi dậy. Ngay lập tức, A Tệ cũng đứng lên. “A Tệ, chúng ta đi Thần Nông sơn.” Xi Vưu cưỡi lên lưng A Tệ, Vu vương bấy giờ mới sực tỉnh, vội nắm lấy vạt áo hắn. “Chất độc của ngài còn chưa giải, không thể cưỡi tọa kỵ bay đi thế này được.” “Ngươi là Vu vương đời thứ mấy hả? Ngươi dám dạy ta phải làm thế nào sao?” Trước ánh mắt tàn nhẫn vô tình như dã thú, tựa hồ chẳng còn chút nhân tính của Xi Vưu, Vu vương đành sợ sệt quỳ xuống, không dám ngẩng đầu lên. Xi Vưu vỗ vỗ lên mình A Tệ, lập tức A Tệ vỗ cánh bay lên, một người một thú biến mất giữa bầu trời đêm thăm thẳm.
|
Q.1 - Chương 9: Chữa Vạn Người, Riêng Mình Khó Chữa A Hành đứng dậy ngoảnh đầu lại, trông thấy Xi Vưu đang đứng bên lề con đường mòn ngẩng đầu nhìn mình, ánh mắt hiền hòa mà kiên định, tựa hồ nàng có nấn ná lại đó bao lâu, hắn cũng sẵn lòng chờ đợi. Dường như hắn là điểm sáng duy nhất giữa một vùng dào dạt những bi thương biêng biếc. Thần Nông sơn nằm giữa Trung Nguyên, phong cảnh đẹp đẽ, khí thế hào hùng, cả thảy gồm chín núi hai sông hai mươi tám đỉnh, phía Bắc thông với đầu mối giao thông Trạch Châu, phía Nam trông ra bình nguyên Yên Xuyên phì nhiêu, Đông có tấm bình phong thiên nhiên Nguyệt Hà che chắn, Tây là Chỉ Ấp, đô thành phồn hoa nhất thiên hạ. Trông thấy Thần Nông sơn, người ta mới hiểu thế nào là khí thế vương giả, thế nào là Trung Nguyên trù phú, cũng như biết nguyên nhân vì sao Thần Nông tộc lại đông đúc nhất trong Tam đại Thần tộc. Lúc A Hành mơ màng tỉnh lại, nàng đã thấy mình ở dưới Thần Nông sơn. A Hành nhìn Xi Vưu rồi lại nhìn sang Liệt Dương và A Tệ, ngỡ ngàng, “Ngươi, ngươi… ta, sao ta lại ở đây? Vân Tang tỷ tỷ đâu rồi?” Xi Vưu sáp lại bên nàng cợt nhả: “Vợ yêu, thì ra cô lấy mạng đổi mạng để cứu ta à?” “Nói bậy! Thứ chuyên rước vạ vào thân như ngươi, ta chỉ mong chết sớm đi cho đỡ chật đất!” Nghe thấy vậy Xi Vưu liền vạch tay nàng ra chỉ vết thương còn chưa khép miệng, “Chỉ cần được Vân Tang đưa lên núi, nhất định Viêm Đế sẽ cứu cô, nhưng thuốc giải chỉ có một, nếu cô lén đổi thuốc để Liệt Dương mang tới cho ta thì bản thân cô phải tính sao? Bị vạch trần mọi toan tính, A Hành thẹn quá hóa giận bèn vùng khỏi tay Xi Vưu, “Ngươi đừng tưởng bở, dù có mười Xi Vưu chết đi ta vẫn sống phây phây!” Xi Vưu cười tít mắt tiếp: “Vậy mới phải! Về sau cô tuyệt đối đừng ngốc như thế nữa, chỉ cần lúc ta còn sống, cô đối tốt với ta là được. Một khi ta chết rồi, cứ việc quăng xác ta vào núi cho dã thú tới chén sạch, như thể ta chưa từng tồn tại trên đời, cô cũng nên quên luôn đi mà vui vẻ sống tiếp cuộc đời mình.” Tuy Xi Vưu tỏ vẻ cợt nhả nhưng lời nói ra lại rất nghiêm túc, thật chẳng hiểu rốt cuộc hắn đã phải trải qua những gì, mới có thể nhìn thấy sinh tử như vậy nữa. Nghe hắn nói, A Hành tái mặt, “Đừng nói vớ vẩn, tuy chúng ta được uống máu A Tệ nhưng cũng chẳng cầm cự được lâu đâu, không hiểu trấn giữ Thần Nông sơn là kẻ nào nữa, chúng ta phải mau nghĩ cách gặp Viêm Đế đi.” Xi Vưu đáp: “Chúc Dung, Cộng Công, Hậu Thổ.” Chúc Dung được tôn xưng là đệ nhất cao thủ Thần Nông tộc, Cộng Công được gọi là Thủy thần, Hậu Thổ là anh tài mới nổi mấy năm gần đây, thanh danh trong thần tộc chẳng kém gì Xi Vưu. A Hành sầm mặt, “Vậy đâu phải là trấn giữ Thần Nông sơn? Rõ ràng là có mưu đồ khác mà. Rốt cuộc kẻ nào đã hạ độc hại người? Có bạn bè nào tin cậy được để tìm cách đưa tin cho Viêm Đế không?” Ánh mắt Xi Vưu lóe lên vẻ tàn độc, lạnh lùng đáp: “Lòng người khó lường, đến lúc sống chết trước mắt, trừ bản thân ra chẳng thể tin ai cả!” Bộ dạng đa nghi thận trọng hiện giờ của Xi Vưu khác hẳn giáng vẻ cười cợt nói năng xem nhẹ sống chết vừa nãy, đột nhiên A Hành nảy dạ tò mò về quá khứ của hắn, chẳng rõ hắn đã trải qua những chuyện gì mới tạo nên tính cách phức tạp thế này? Thấy Xi Vưu trầm tư nhìn về phía Thần Nông sơn như thể nghĩ cách đối phó, A Hành lòng dạ ngổn ngang, bất chấp hậu quả bị phụ vương cùng Đại ca hay biết, nhanh nhảu lên tiếng, “Ta sẽ lấy danh nghĩa vương cơ Hiên Viên xin gặp Viêm Đế.” Xi Vưu vội giữ nàng lại, “Ta không đồng ý! Tây Lăng Hành!” Hắn giơ tay vuốt ve Trụ Nhan hoa trên tóc nàng, “Đào là tinh hoa của năm loài cây, ngọc là linh hồn của đá, Trụ Nhan hoa là kỳ bảo do mộc linh của cây đào cùng ngọc linh trên Ngọc sơn hội tụ mười mấy vạn năm mới ngưng tụ thành, ý nghĩa thật sự của hai chữ “trụ nhan” chính là giữ lại cho cô bất kỳ dung mạo nào mà cô muốn, chứ không chỉ đơn giản là trẻ mãi không già đâu. Nghĩ xem mình thích biến thành hình dạng thế nào, một lúc sau, cô sẽ biến thành thế ấy, tới chừng đó, cô chẳng thể nhận mình là Hiên Viên Bạt được nữa rồi.” Chẳng để A Hành kịp hiểu ý mình, hắn đã cười hì hì quay sang bảo Liệt Dương: “Mày ở Ngọc Sơn bao nhiêu năm như thế hẳn linh lực đã tăng cao, này, nhìn thấy tòa thành kia không? Mau qua đó luyện tập Phượng Hoàng huyền hỏa của mày đi, thấy thứ gì gai mắt cứ việc cho nó một mồi lửa.” Liệt Dương trước giờ chỉ sợ thiên hạ không loạn, vừa nghe nói liền phấn chấn tinh thần dang cánh bay đi ngay, A Hành không sao ngăn lại được, bèn hoảng hốt quay sang túm lấy Xi Vưu: “Đó là thủ phủ của Thần Nông tộc mà! Ngươi điên rồi sao, sao lại sai Liệt Dương phóng hỏa đốt thành?” Xi Vưu ngỡ ngàng đáp: “Ta đâu có phóng hỏa đốt thủ phủ Hiên Viên tộc, cô lo cái gì?” “Ta lo cái gì ư? Đó là kinh đô một nước đấy! Nếu người ta biết được ta là chủ của Liệt Dương, Thần Nông tộc sẽ lập tức phát binh đánh dẹp Hiên Viên tộc ngay!” Nói đến đây A Hành đã thấy cửa Đông thành Chỉ Ấp cháy phừng phừng, nàng chỉ biết ôm mặt lẩm bẩm: “Đáng lẽ ta không nên dây dưa với kẻ điên rồ như ngươi, sao ta lại mau quên thế nhỉ?” Xi Vưu lạnh lùng nhìn Chỉ Ấp từ từ biến thành biển lửa rồi ngẩng lên trời, thấy Chúc Dung cưỡi tọa kỵ Tất Phương điểu đang vội vã bay về phía Chỉ Ấp. Tuy Chúc Dung được xưng tụng là Hỏa thần nắm giữ tất cả lửa trong thiên hạ nhưng Xi Vưu biết hắn còn thiếu Phượng Hoàng huyền hỏa, tiếc rằng Phượng Hoàng là giống chim lành, lại là vua của muôn chim nên Chúc Dung không dám nảy lòng tham, nào ngờ hôm nay lại có Phượng Hoàng huyền hỏa từ trên trời rơi xuống, nhất định hắn sẽ rời khỏi Thần Nông sơn đuổi theo. Xi Vưu vỗ về A Tệ ra ý bảo nó chở hai người lên đỉnh Tử Kim cao nhất Thần Nông sơn. Thấy vậy A Hành chẳng buồn nổi giận nữa, chỉ xoa xoa má căng thẳng hỏi: “Lỡ như gặp phải thần tiên linh lực cao cường hơn mình nhiều, liệu ta có bị phát hiện không?” “Cô đâu có dựa vào linh lực để biến hình, dù tu vi bọn họ có cao thế nào đi nữa cũng không bì nổi với thiên địa tạo hóa đâu, chỉ cần cô cẩn thận thì chẳng ai nhận ra được cả.” A Hành nghe vậy liên thở phào nhẹ nhõm, rồi lại hồi hộp hỏi tiếp: “Xung quanh đều có binh lính canh gác, rốt cuộc ngươi định làm gì đây?” Xi Vưu danh tay cười đáp: “Sợ rồi à? Vợ yêu, ta lúc nào cũng dang rộng vòng tay che chở cho cô mà.” A Hành hít một hơi thật sâu, cố nhịn không cho hắn một đá. Thị vệ từ hai bên sườn núi ló ra, cao giọng: “Viêm Đế đang bế quan luyện thuốc, xin quý khách về cho!” Xi Vưu lệnh cho A Tệ đỗ xuống sơn cốc, trong khi A Hành cẩn thận đề phòng, hắn ngồi xổm xuống bên A Tệ, khẽ hỏi: “Mày thích A Hành lắm ư?” A Tệ nghe hỏi liền vẫy đuôi thật lực, nhếch mép cười hớn hở rồi ngả đầu vào người A Hành. Đang lúc căng thẳng, A Hành chẳng để ý gì đến nó, chỉ thì thào với Xi Vưu: “Chúng ta bị bao vây rồi.” Xi Vưu phớt lờ nàng, cứ vuốt ve A Tệ hỏi, “Nhưng sau này A Hành sẽ lấy chồng, chồng nàng chưa chắc đã thích mày, nói không chừng còn ghét mày nữa đấy.” A Tệ nghe xong bèn đờ cả mặt ra, cặp mắt tròn xoe trợn trừng, đuôi dựng đứng, hai bên mép đang nhếch từ từ hạ xuống. Xi Vưu lại bồi thêm: “A Hành lấy chồng rồi sẽ sinh con, đến lúc đó nàng ta yêu thương con mình, nhất định sẽ bỏ rơi mày. Mày còn nhớ chuyện cha dượng mà ta kể dọc đường lên Hiên Viên sơn không? Mấy gã cha dượng đó đều sẽ tìm trăm phương ngàn kế tống khứ đứa nhỏ trước mặt mình đi!” A Tệ run lên bần bật, cụp ngay đuôi lại, hai bên mép bắt đầu trễ xuống, nước mắt ngân ngấn. A Hành đang căng thẳng nghe thấy vậy liền nối giận, “Ngươi kể cho nó chuyện cha dượng bạc đãi trẻ con làm gì?” Nói rồi nàng vội vỗ về A Tệ, “Mày đừng nghe tên vô lại ấy nói bậy, hắn cố ý dọa mày đó.” Xi Vưu vẫn chăm chú nhìn A Tệ, nghiêm túc nói tiếp: “Mày nghĩ mà xem, đến lúc đó A Hành có con của mình, không cần mày nữa, Liệt Dương cũng không cần mày nữa, tội nghiệp quá!” Nghe Xi Vưu nói, A Tệ òa lên khóc nức nở. Từ lúc sinh ra nó đã coi A Hành như mẹ, cho rằng mình sẽ mãi mãi ở bên nàng nên hết sức yên tâm, về sau có thêm Liệt Dương ngày ngày vui đùa cùng nhau, lại càng vô tư vô lự, mãi đến giờ nó mới nhận ra tất cả mọi thứ mình có đều có thể biến mất trong nháy mắt, lần đầu tiên, A Tệ hiểu thế nào là “mất mát”. A Hành lấy làm lạ trừng mắt nhìn Xi Vưu, “Bây giờ là lúc nào rồi hả? Ngươi còn rảnh rỗi đi bắt nạt trẻ con nữa, đúng là điên!” Nàng dịu giọng dỗ dành A Tệ, nhưng cứ nghĩ tới có ngày mất đi một A Hành yêu thương mình nhường này, A Tệ lại càng thêm buồn bã, càng lúc càng khóc lóc thảm thiết hơn, hệt như cái ngày đau khổ đó đã đến vậy. Sơn cốc mà Xi Vưu quyết định đỗ lại được gọi là Hồi Âm cốc, nằm trên con đường bắt buộc phải đi qua để lên đỉnh Tử Kim, thị vệ canh giữ nơi này đều được tuyển chọn kỹ càng trong đám anh tài tinh nhuệ của Thần tộc. Hồi Âm cốc có địa thế đặc thù, chỉ cầm một thanh âm nhỏ cũng có thể bị khuếch đại lên thành tiếng vọng lan đi, Viêm Đế đời đó đã lợi dụng địa thế thiên nhiên này, bố trí thị vệ ở các nơi đặc biệt của vách âm, hễ có người nào lẻn vào, đám thị vệ sẽ chú ý ngay, bởi vậy hơn vạn năm nay chưa một ai dám liều mạng đi qua Hồi Âm cốc. Nhờ hiệu ứng tiếng vọng ở đây, tiếng nức nở của A Tệ được khuếch đại lên như thể có cả trăm A Tệ đang than khóc, tiếng khóc bi ai ầm ầm lan đi như sấm động ngày xuân. Tiếng kêu của hồ ly có thể mê hoặc lòng người, tệ tệ lại là loài có tiếng kêu êm tai nhất trong Hồ tộc, A Tệ ăn đào tiên, uống ngọc tủy, linh khí dồi dào, lúc này tiếng khóc than cất lên từ đáy lòng nó quả khiên nước non ảm đạm, cây cối ủ ê, cả đất trời cũng phải đổi sắc. Đám thị vệ đang bao vây hai người không kiềm chế nổi trước tiếng khóc của A Tệ, thoạt đầu họ còn vận linh lực chống lại, nhưng ai chẳng có nỗi đau mất mát trong quá khứ, tiếng than khóc của A Tệ khơi gợi lại những nỗi niềm chôn sâu nơi đáy lòng họ, chuyện xưa dồn dập hiện ra, bao nhiêu ly biệt trong đời đan kết lại, đau khổ chất chứa thành sông thành biển, bi thương trào ra không sao nén nổi, cả đám thị vệ đều khóc òa lên. Khắp Hồi Âm cốc bỗng chốc vang lên khúc ly ca khiến đất trời cũng phải rầu lòng, ngay Hậu Thổ cùng Cộng Công thần lực cao cường cũng không dám manh động, đành chia nhau ra mỗi người giữ lấy một đỉnh núi, trừng mắt nhìn Xi Vưu. Xi Vưu ngồi trên tảng đá vẫy tay với Cộng Công và Hậu Thổ, hai người kia chần chừ một thoáng rồi cưỡi tọa kỵ bay xuống trước mặt hắn. Xi Vưu đưa mắt nhìn đám thị vệ đang nức nở xung quanh, cười nói: “Hồi Âm cốc hệt như một trận đồ âm thanh thiên nhiên, các thị vệ lại vô tình vận linh lực khởi động trận pháp, họ càng đau buồn thì càng khóc lóc, càng khóc lóc sẽ càng đau buồn, cứ thế đến khi cạn kiệt tinh huyết mà chết.” Cộng Công và Hậu Thổ tái mặt, hơn trăm thị vệ này là lực lượng tinh nhuệ bảo vệ Thần Nông sơn, nếu mất bọn họ thì hậu quả thật khó lường. Cộng Công đành thi lễ với Xi Vưu, “Chức trách của chúng ta là phụng mệnh canh giữ Thần Nông sơn, mong ngươi nể tình nhẹ tay cho.” Xi Vưu nói, “Ta muốn gặp Viêm Đế.” Cộng Công bối rối đáp, “Chuyện này ta phải xin ý kiến Chúc Dung đại nhân đã.” Xi Vưu cười, “Đáng lẽ Chúc Dung phải giao cho ngươi toàn quyền phụ trách mọi chuyện trên Thần Nông sơn rồi chứ, nếu ngươi muốn xin ý kiến thì cứ đi đi, dù sao ta cũng chẳng hề hấn gì, muốn đợi bao lâu thì đợi, nhưng những thị vệ này liệu có đợi nổi không? Lẽ nào ngươi định trơ mắt nhìn bọn họ khóc đến chết ư?” Cộng Công phân vân không sao quyết định, bèn nhìn sang Hậu Thổ, Hậu Thổ trông thanh tú như nữ tử, lời lẽ cũng vô cùng nhã nhặn, “Mọi việc xin nghe theo Cộng Công sắp xếp.” Ngừng một lát, gã lại nói thêm, “Viêm Đế đã dặn không gặp ai cả, nhưng Xi Vưu là đồ đệ duy nhất của ngài kia mà.” Nhìn đám thị vệ đang khóc than tuyệt vọng xung quanh, Cộng Công đành thở dài bảo Xi Vưu, “Ta chỉ có thể đưa ngươi lên đỉnh Tử Kim xin gặp Viêm Đế, còn hôm nay Viêm Đế có gặp ngươi hay không, ta không đảm bảo được đâu.” Xi Vưu vội chắp tay cảm tạ, “Một lời của Cộng Công đáng giá ngàn vàng!” Nói rồi hắn nắm tai A Tệ thì thào mấy câu, lập tức hai mắt A Tệ sáng lên, tiếng khóc nín bặt. Thấy A Tệ nghiêng đầu nhìn mình, Xi Vưu trang trọng bồi thêm: “Ta bảo đảm đấy!” Nghe vậy A Tệ liền nhếch mép lên thành một nụ cười vui vẻ, cong cong tựa vành trăng non. A Hành nắm lấy tai kia của A Tệ buồn bã nói: “Sao mày ngốc thế? Hắn bảo gì mày cũng tin à?” A Tệ khẽ gừ gừ, dụi đầu vào người A Hành, cái đuôi xù vẫy qua vẫy lại, phẩy cả vào mặt A Hành, hai mắt như cũng cười tít lên thành hai vành trăng nhỏ cong cong. A Hành chỉ biết lắc đầu ngao ngán. A Tệ ngưng khóc, mắt xích của trận pháp cũng mất đi, Cộng Công vận linh lực gầm lên mấy tiếng khí thế nuốt chửng sơn hà, âm vang lan đi khắp Hồi Âm cốc, tất cả thị vệ nghe thấy đều giật nảy mình, nín bặt. Nghe tiếng gầm của Cộng Công, A Hành ngấm ngầm kinh sợ, bắt đầu quan sát viên tướng được đặt ngang với Chúc Dung nhưng lại luôn đứng khuất sau cái bóng của Chúc Dung này, giờ đây nàng mới hiểu nguồn cơn câu nói của Xi Vưu, “Một lời của Cộng Công đáng giá ngàn vàng.” Cộng Công cùng Hậu Thổ đưa Xi Vưu và A Hành lên tới đỉnh Tử Kim, đang định vào cầu kiến thì ông lão râu bạc quét tước trước điện đã ngẩng lên lạnh lùng bảo, “Viêm Đế lệnh cho Cộng Công và Hậu Thổ ở lại, còn Xi Vưu tới đỉnh Tiểu Nguyệt gặp ngài.” Mặc cho hai người Cộng Công, Hậu Thổ tái mặt, Xi Vưu vội chắp tay từ biệt bọn họ. Nguồn ebook: .luv-ebook A Hành thấy đã cách xa khỏi bọn họ mới khẽ lên tiếng hỏi: “Đỉnh Tiểu Nguyệt có gì khác lạ ư?” Ánh mắt Xi Vưu đầy vẻ trầm tư, “Điểm đặc biệt duy nhất của đỉnh Tiểu Nguyệt…” Đang nói đột nhiên hắn ho lên mấy tiếng, đoạn phun ra một búng máu, tuy nãy giờ chẳng dùng tới chút sức lực nào nhưng để giữ được khí thế trước mặt Cộng Công và Hậu Thổ, hắn đã phải gắng gượng lắm rồi, “Chính là chúng ta chưa một ai đặt chân lên đó.” A Hành khẽ nói: “Ngươi nghỉ một lát đi đã.” Xi Vưu cười mệt mỏi, ngả đầu vào vai A Hành, nàng giơ tay định đẩy hắn ra nhưng rồi lại rút tay về, chỉ lặng lẽ ngồi yên cho hắn dựa. Chẳng bao lâu, hai người đã tới Tiểu Nguyệt đỉnh. Đó là một ngọn núi bất thường, không có cung điện, không có thị vệ, chẳng có gì hết, duy chỉ có cây cối um tùm. Một chú hươu sao đứng dưới gốc tùng đầu núi nhìn ra, vừa trông thấy hai người, nó liền tác lên mấy tiếng để đón khách. A Tệ cũng cao hứng hú lên hòa với tiếng tác của hươu sao, trong thoáng chốc dường như cả vùng núi sông đều tươi tắn hẳn. Chú hươu sao ngẩng cao đầu, tác lên một tiếng thật dài rồi nhảy nhót dẫn đường, như muốn nói: “Các vị, mời theo tôi!” Hai người bám gót hươu sao men theo con đường nhỏ trong núi, xuyên hoa rẽ liễu mà đi, băng qua khe núi, họ tiến vào một sơn cốc. Bỗng chốc, ánh lam dập dờn rọi vào mắt khiến ai nấy đều ngỡ như vừa đặt chân lên nền trời xanh biếc. Cả sơn cốc phủ đầy các loài hoa xanh lam như đỗ quyên, bách hợp, mộc lan, phù dung, tường vi… chẳng hề lẫn chút tạp sắc. Sắc xanh biêng biếc hòa cùng màn sương mịt mù khiến cả sơn cốc toát lên vẻ mờ mờ ảo ảo như một nỗi tương tư đằng đẵng khôn nguôi, tựa hồ Giang Nam mỗi độ đầu xuân, thời tiết chợt ấm chợt lạnh, mưa bụi lất phất bay nhưng bầu trời vẫn xanh thăm thẳm, thậm chí còn điểm xuyết vài tia nằng nhạt, có điều hơi lạnh se se vẫn giăng mắc khắp cảnh vật cũng như trong lòng người. Phóng tầm mắt ra xa chỉ thấy ba ngôi mộ trên sườn núi, bình lặng an nghỉ giữa biển xanh hoa biếc. A Hành không bám theo hươu sao nữa mà trèo lên sườn núi tới trước mấy ngôi mộ, rẽ những nhành hoa sơn trà xanh biếc cao tới thắt lưng ra, thấy trên bia mộ lần lượt đề: Mộ ái thê Thần Nông Thính Yêu, chồng là Thần Nông Thạch Niên đau buồn lập nên. Mộ con gái Thần Nông Nữ Oa, cha là Thần Nông Thạch Niên đau buồn lập nên. Mộ con gái Thần Nông Dao Cơ, cha là Thần Nông Thạch Niên đau buồn lập nên.[1] [1] Theo Sơn Hải kinh và Thái Bình Ngự Lãm chép lại, Viêm Đế có ba con gái, một người là Dao Cơ, từ nhỏ đã yếu đuối bệnh tật, qua đời giữa lúc đang trẻ tuổi, sau khi chết hóa thành giọt sương trên cỏ. Một người nữa là Nữ Oa, không may chết đuối hóa thành chim Tinh Vệ, ngày ngày lấp biển. Thần Nông thị nếm trăm loài cây cỏ để cứu thiên hạ nhưng lại không cứu nổi con gái mình. Đây là lần đầu A Hành biết được Viêm Đế Thần Nông nếm cả trăm loài cây cỏ tên thật là Thạch Niên. Chạm vào những con chữ trên bia, nàng nhận ra chúng không phải được khắc lên mà được trực tiếp dùng tinh huyết trong tim viết thành, mỗi tấm bia là vô số giọt tinh huyết quý giá kết tụ, người viết đã dùng cả mạng sống của mình để tưởng nhớ kẻ nằm dưới mộ. Viêm Đế chỉ cưới duy nhất một người vợ. Hơn ngàn năm trước, Viêm Hậu qua đời. Từ đó đến nay, vì đủ thứ mục đích, các tộc dâng lên không biết bao nữ tử xinh đẹp hiền đức nhưng đều bị Viêm Đế từ chối. Người đời đồn đoán rất nhiều lý do, trong đó đáng tin nhất là nếu Viêm Hậu khác được lập lên, ắt một tộc nào đó sẽ tha hồ bành trướng, mà Viêm Đế không muốn phá vỡ thế cân bằng hiện nay giữa các tộc nên đành bỏ trống ngôi Viêm Hậu. Nhưng lúc này đây, nhìn dòng chữ trên bia mộ, A Hành lại nghĩ thầm: Có lẽ mọi người đều đoán sai cả, Viêm Đế bỏ trống ngôi Viêm Hậu chỉ vì một nguyên nhân rất đơn giản mà thôi. Không thấy hai người theo sau, hươu sao nghi hoặc tác lên như giục giã. A Hành đứng dậy ngoảnh đầu lại, trông thấy Xi Vưu đang đứng bên lề con đường mòn ngẩng đầu nhìn mình, ánh mắt hiền hòa mà kiên định, tựa hồ nàng có nấn ná lại đó bao lâu, hắn cũng sẵn lòng chờ đợi. Dường như hắn là điểm sáng duy nhất giữa một vùng dào dạt những bi thương biêng biếc. Tim A Hành bỗng nhiên đập mạnh, nàng chăm chú nhìn Xi Vưu rồi tung người nhảy xuống khỏi sườn núi. Thấy vậy Xi Vưu chỉ nhoẻn cười, dịu dàng nhắc nhở: “Cô từ từ thôi kẻo ngã.” Hươu sao dắt bọn họ băng qua sơn cốc tới một khu đất rộng được phủ kín muôn hồng nghìn tía, mỗi thửa đất ở đây đều trông đủ các loại dược thảo khác nhau. Một ông lão mặc quần vải thô xắn gấu đang miệt mài cuốc đất, nghe tiếng chân hươu sao, lão mới đứng thẳng dậy, dừng tay, ngoảnh lại cười với họ. Nhìn ông lão trước mắt dung mạo bình thường, ăn vận giản dị nhưng để ý kỹ lại thấy toát lên khí thế như non xanh nước biếc, thiên địa tự nhiên, A Hành ngấm ngầm kinh hãi, liền hiểu ngay đây chính là Viêm Đế, người đứng đầu Tam Đế. Viêm Đế lên tiếng, “Thật không ngờ Xi Vưu lại đưa cả khách tới.” Xi Vưu vào thẳng vấn đề: “Cần thuốc giải, hai liều!” Chưa nói hết câu hắn đã kiệt sức tàn hơi, ngã phịch xuống bờ ruộng, miệng ứa máu đen. Viêm Đế đưa cho Xi Vưu một viên thuốc giải, “Thứ độc này chỉ có một liều nên cũng chỉ chuẩn bị một liều thuốc giải thôi.” Nói rồi ông quay sang bảo A Hành: “Tiểu cô nương, để ta khám cho cô nào.” A Hành đưa tay ra, Viêm Đế vừa xem mạch đã cười hỏi: “Sao cô lại dẫn chất độc vào người mình?” A Hành trừng mắt nhìn Xi Vưu, trả lời: “Không phải nguyên nhân như ngài nghĩ đâu, chỉ vì hắn còn nợ tôi thôi.” Thấy Xi Vưu bẻ đôi viên thuốc trong tay, nuốt một nửa còn một nửa đưa cho A Hành, Viêm Đế nói: “Dù ngươi có dị bẩm trời sinh nhưng gắng gượng được đến giờ đã là cực hạn rồi, mau uống hết thuốc giải của mình đi.” Xi Vưu không đếm xỉa gì tới Viêm Đế, chỉ chăm chú nhìn A Hành. Thấy vậy mắt Viêm Đế thoáng vẻ ngạc nhiên, bèn quay sang nhìn kỹ A Hành, “Chất độc trong người tiểu cô nương tạm thời không sao, ta sẽ phối chế thuốc giải cho cô ngay.” Xi Vưu nghĩ đi nghĩ lại rồi bỏ nốt nửa viên thuốc giải kia vào miệng. Một chú chim đỏ rực đầu xuống vai Viêm Đế, Viêm Đế gỡ tấm thẻ ngọc khỏi chân nó, đọc xong ông gượng cười hỏi: “Ngươi phóng hỏa đốt Chỉ Ấp ư?” Xi Vưu nhắm mắt không đáp, hai tay sục sâu vào lòng đất, sắc mặt hắn từ từ khá lên, trong khi đó, mặt đất cùng hết thảy kì hoa dị thảo trông trên núi đều nhợt nhạt hẳn đi, như thể Xi Vưu đã hấp thụ hết sức sống của cả vùng đất này. Thấy A Hành tròn mắt nhìn đầy kinh hãi, Viêm Đế giải thích: “Hắn tự ngộ được đạo trời, công pháp đi theo một con đường riêng, chúng ta không hiểu được đâu.” A Hành lúng túng hỏi thêm: “Con lang điểu đó bị bắt rồi ư?” Viêm Đế vuốt ve con chim đỏ rực trên vai, nó liền sải cánh bay đi, “Ta đã truyền lệnh sai Du Võng trông nom nó rồi, không để Chúc Dung động tới nó đâu.” Nghe vậy A Hành mới nhẹ lòng, “Đa tạ ngài.”
|
Viêm Đế thở dài: “Chúc Dung ghét cay ghét đắng Xi Vưu, nếu hắn có mặt, nhất định Xi Vưu không thể lên núi thuận lợi như vậy, có điều hắn vừa nảy lòng tham đã bị Xi Vưu lợi dụng ngay.” A Hành càng lúc càng bối rối, lẽ nào không phải kẻ hạ độc cố ngăn trở Xi Vưu gặp Viêm Đế ư? Sao nghe như thể Viêm Đế cố ý sai người trấn giữ Thần Nông sơn thế nhỉ? “Khi nào ông mới chịu chế thuốc giải cho A Hành đây?” Xi Vưu đứng trước mặt hai người, ánh mắt sáng rực, hiển nhiên vết thương đã bắt đầu lành. Viêm Đế quay lưng đi về phía căn nhà trúc, “Mai mới chế được thuốc giải, hôm nay hai ngươi ở lại đây đi.” A Hành cùng Xi Vưu nối gót Viêm Đế bước vào căn nhà trúc, Xi Vưu bó gối ngồi xuống bên cửa sổ, Viêm Đế lấy bộ đồ trà ra pha, nhưng A Hành không nỡ để ông làm, bèn giành lấy, “Để tôi, lúc ở nhà tôi thường pha trà cho mẹ.” Viêm Đế gật đầu cười, đưa cây quạt hương bồ cho A Hành rồi ngồi xuống đối diện với Xi Vưu, trầm ngâm không nói. Đột nhiên Xi Vưu lên tiếng: “Ta nghi ngờ Chúc Dung, Cộng Công, Hậu Thổ, thậm chí nghi ngờ cả Du Võng và Vân Tang nhưng vẫn một mực tin rằng ông không biết gì cả. Mãi đến khi tới Thần Nông sơn ta mới phát hiện ra, kẻ có khả năng hạ độc nhất chính là ông, chỉ Thần Nông thị nến trăm loại thảo dược, am hiểu dược tính mới có thể chế được độc chất lợi hại thế này. Tại sao vậy? Sư phụ!” Tiếng “sư phụ” của Xi Vưu gọi nghe lạnh buốt, khiến cả căn phòng tựa hồ đông cứng lại. A Hành nín thở lén liếc Xi Vưu nhưng hắn đã ngoảnh ra cửa sổ, không sao thấy được sắc mặt. Viêm Đế im lặng nhìn Xi Vưu, nhất thời không khí trong phòng yên tĩnh đến nghẹt thở. Tiếng nước sôi sùng sục phá vỡ bầu không khí nặng nề, A Hành lóng ngóng pha trà rồi hấp tấp bưng lên bàn, đoạn kiếm cớ tránh đi, “Tôi ra ngoài xem hươu sao và A Tệ đang làm gì.” Nào ngờ Xi Vưu bỗng ấn nàng ngồi xuống bên cạnh, “Cô có quyền được biết nguyên nhân mình trúng độc.” Cặp mắt hắn vẫn nhìn chằm chằm Viêm Đế đầy khiêu khích, “Sư phụ, ông đã muốn giết ta, sao còn thu nhận ta?” Viêm Đế mỉm cười quay sang hỏi A Hành: “Cô có biết Xi Vưu trở thành đồ đệ duy nhất của ta thế nào không?” A Hành lắc đầu. Viêm Đế bưng tách trà lên, ngoảnh nhỉn ra cửa sổ, “Mấy trăm năm trước, trong một buổi chầu, quan viên quản lý sự vụ Tây Nam tấu rằng đám tiện dân Cửu Di đã làm phản, còn giết hại mấy trăm quan viên Nhân tộc cùng một quan viên Thần tộc, lúc đó ta đang rối bời vì bệnh tình của Dao Cơ, bèn sai Du Võng lo liệu việc này. Hơn trăm năm sau, Chúc Dung dâng sớ vạch tội Du Võng, thì ra mối họa Cửu Di bắt nguồn từ một con yêu thú không rõ lai lịch, tự ngộ được đạo trời, có khả năng hiệu lệnh muông thú nên được tộc Cửu Di tôn xưng làm Thú vương, nhưng thực ra, nó còn hung tàn ác độc hơn hổ báo. Du Võng thương xót đám tiện dân Cửu Di, không nỡ xuống tay giết hại nó, có điều con yêu thú ấy ngu xuẩn hồ đồ, đã đả thương mười mấy đại tướng của ta. Vì chuyện này mà Du Võng cùng Chúc Dung xung đột liên miên, không sao dàn xếp nổi, ta tra rõ sát nghiệp yêu thú phạm phải rồi khiển trách Du Võng, đồng thời chấp nhận cho Chúc Dung đi tiêu diệt Thú vương của Cửu Di.” A Hành sớm đã đoán ra con dã thú ấy chính là Xi Vưu, tuy chuyện đã qua lâu nhưng tưởng tượng vẫn thấy kinh hồn bạt vía, Xi Vưu từng bị đám cao thủ Thần tộc truy sát cả trăm năm nay, hèn chi lúc hắn lẩn trốn, đến Đại ca thần lực cao cường cũng tìm không nổi. Viêm Đế nhấp ngụm trà, ngừng một lát mới kể tiếp: “Ta cứ ngỡ rằng thế là xong, nào ngờ một đêm Du Võng đột ngột cầu kiến, nói Cửu Di tộc đã đầu hàng, cam nguyện đời đời kiếp kiếp làm tiện dân, chỉ đưa ra một điều kiện duy nhất là xin tha cho Thú vương của họ. Du Võng vật nài ta triệu Chúc Dung về khiến ta không khỏi nảy dạ tò mò với con dã thú ấy, ngay đêm đó bèn tới Cửu Di. Lúc ta tìm thấy họ trong đầm lầy, tình cảnh bấy giờ vừa nguy hiểm vừa tức cười, dã thú tự đem thân làm mồi, nhử gã Chúc Dung kiêu căng nôn nóng vào vùng đầm lầy thi độc, độc trùng trong đó muôn hình vạn trạng, mấy thần tướng thảy đều trúng độc, còn Chúc Dung rõ ràng có thể phóng một mồi lửa thiêu chết con yêu thú đó, nhưng một khi phát hỏa sẽ làm nổ tung khí ứ tích tụ trong đầm lầy mấy vạn năm nay, dù hắn có hỏa linh hộ thể, quá lắm cũng chỉ bị thương nhẹ nhưng các thần tướng kia thì chết chắc. Bấy giờ Chúc Dung chửi bới ầm ĩ, quyết lột da xẻ thịt dã thú, dã thú cũng chưa sõi tiếng người, chỉ nghiến răng nghiến lợi gầm gừ đồng thời vỗ ngực liên tục, như thế nói, tới đây, tới đây đốt chết ông mày đi!” Viêm Đế thuật lại rồi bật cười nhìn Xi Vưu, đoạn quay sang bảo A Hành, “Lúc đó ta vô cùng kinh ngạc, dã thú sinh trưởng nơi rừng núi biết cách lợi dụng trùng độc chướng khí cũng chẳng lấy gì làm lạ, chính cái địa điểm nó chọn để cùng chết với kẻ thù hết sức thông minh, đầm lầy vốn là một chỗ kỳ lạ, lẫn lộn cả đất và nước, cả hai đều có thể khắc chế hỏa linh, thêm vào đó nơi này nồng đặc khí ứ, chỉ cần một đốm lửa là nổ tung, Chúc Dung rơi vào đây chắc chắn sẽ mất hết khả năng khống chế mọi thứ. Xem ra con dã thú nói không sõi tiếng người này còn nắm vững cách vận dụng thiên thời địa lời hơn nhiều cao thủ Thần tộc.” Nghĩ tới trận pháp tiếng vọng khi nãy, A Hành cũng gật đầu tán đồng, Viêm Đế lại kể tiếp: “Ta nhận ra con dã thú đó vốn không phải thú mà là một kẻ không cha không mẹ được muông thú nuôi lớn, bèn lệnh cho Chúc Dung im miệng rồi từ từ bắt quen với nó, mặc cho nó đối với ta đầy thù địch, vừa ra vẻ lắng nghe ta nói lại vừa xảo trá điều khiển độc trùng độc thú đánh lén ta, thăm dò nhược điểm của ta, tiếc rằng nó không biết ta thông thạo dược tính, mấy thứ độc đó vốn không thể làm hại ta được. Càng quan sát ta càng kinh ngạc trước thiên tư của nó, đồng thời cũng càng thêm sợ hãi, thiên tư cao như thế, lại hung tàn hiếu sát như thế, phút chốc ta vừa mừng rỡ vì tìm ra một kẻ có tư chất trời sinh, vừa cảm thấy nên giết hắn ngay lập tức.” Rõ ràng đây cũng là lần đầu Xi Vưu biết được sự sống chết của mình chỉ phụ thuộc vào một ý nghĩ của Viêm Đế, hắn ngoảnh lại nhìn Viêm Đế vẻ thờ ơ, chẳng biết trong lòng đang nghĩ gì. “Giữa lúc đương phân vân chưa quyết, bỗng một đóa hoa rụng từ đâu bay lại, con khỉ hung tàn xảo trá đó liền bắt ngay lấy ngắm nghía thật kỹ, bốn bề xung quanh đều bẩn thỉu hôi hám, dường như nó sợ làm bẩn đóa hoa nên đã cẩn thận cài luôn lên đầu. Trông đầu nó lông tóc bù xù lại cài một đóa hoa dại, bộ dạng rất tức cười, còn trợn trừng hai mắt nhìn ta, ta nhịn không được cười phá lên, cũng chẳng định giết nó nữa, bèn lệnh cho bọn Chúc Dung lui cả ra, để lại mình ta với nó trong đầm lầy suốt mười ngày mười đêm, cuối cùng cũng giành được lòng tin của nó, đưa nó rời khỏi đó. Ban đầu ta ra điều kiện rằng sẽ chữa khỏi vết thương và cái chân cho nó, đổi lại nó phải theo ta về Thần Nông sơn, nhưng bị nó từ chối. Dần dà ta nhận ra tuy nó bạo ngược nhưng cũng rất ngây thơ, cách duy nhất để kết bạn với nó là phải thật lòng đối đãi, bèn nói thẳng ra rằng ta thấy nó thông minh đĩnh ngộ, đánh bầy cũng muông thú thì thật đáng tiếc nên muốn nó trở thành một người như ta đây, nghe vậy, nó liền đồng ý tới Thần Nông sơn.” Xi Vưu chăm chú nhìn A Hành, ánh mắt trong trẻo sáng rõ tựa vầng trăng trong vắt đêm xuân, lại như đóa hoa dại đơn sơ bên khe núi, khiến A Hành vừa hoang mang vừa bối rối, vội ngoảnh đi tránh ánh nhìn của hắn, “Con dã thú đó sau này đã trở thành đồ đệ của ngài, mang tên ‘Xi Vưu’?” Viêm Đế gượng cười: “Sau khi về Thần Nông sơn, ta cũng mất bao công sức mới thuyết phục được hắn chịu làm đồ đệ đấy. Thoạt đầu phải giải thích mãi cho hắn hiểu sư phụ và đồ đệ nghĩa là gì, hiểu được rồi hắn liền lắc đầu quầy quậy, cho rằng mình bị thiệt, ta đành hứa sẽ xóa bỏ tiện danh Cửu Di, ban tên mới là Cửu Lê, lại đem trứng cá côn ở Bắc Minh ra trao đổi, nói với hắn chỉ cần ấp cho trứng nở thì tương lai có thể bay lên trời, hắn mới chịu miễn cưỡng nhận lời.” A Hành rất hiểu nụ cười gượng gạo của Viêm Đế, e rằng tất cả thiếu niên trong thiên hạ đều mơ được làm đồ đệ Viêm Đế, vậy mà để thu nhận gã Xi Vưu này, Viêm Đế lại phải vừa lừa vừa nhử. Viêm Đế nhìn tên đồ đệ của mình, ánh mắt vô cùng phức tạp, “Thiên tư của ngươi vượt xa người thường, ngày tiến ngàn dặm khiến ta vừa mừng vừa sợ. Từ khi quyết định nhận ngươi làm đồ đệ, trong lòng ta đã coi ngươi là người thân nhất, cũng giống như Vân Tang, Du Võng, Mộc Cận vậy, ta vui mừng theo từng bước tiến bộ của ngươi, nhưng ta vẫn là vua một nước, thân làm Viêm Đế, ta không thể không e sợ ngươi. Ta sợ rằng một ngày nào đó, Chúc Dung hay ai đó kích động khiến cuồng tính của ngươi phát tác, ngươi sẽ đem hết sở học của mình ra đối phó với trăm họ Thần Nông nên đành phải hạ độc ngươi.” Dẫu Chúc Dung nóng nảy tham lam thế nào, Hậu Thổ ẩn nhẫn âm trầm ra sao cũng vẫn còn nhược điểm và ràng buộc, chỉ có Xi Vưu không cha không mẹ, không gì níu kéo, tính tình lại cuồng vọng bất kham, trời không ràng đất không buộc nổi mà thôi. Xi Vưu sốt ruột cất tiếng, “Thôi được rồi, ta không muốn nghe ông dông dài, cũng chẳng buồn tính sổ chuyện ông hạ độc đâu, ông mau giải độc cho A Hành đi, ta mãi mãi không quay lại nữa là xong chứ gì.” Viêm Đế cười nhìn Xi Vưu, nét mặt thoáng vẻ hiền hòa, “Một trăm tám mươi năm trước ngươi nổi giận rời khỏi Thần Nông sơn, ta đã ngỡ rằng ngươi chẳng bao giờ hồi tâm chuyển ý nữa, vậy mà nửa đêm Du Võng lại đuổi theo kéo ngươi về. Khi đó ta biết mình đã nhìn lầm ngươi, nhưng chần chừ trong phút chốc, cuối cùng vẫn không giải độc cho ngươi. Ta vốn định đợi ngươi dự tiệc Bàn Đào trở về. Lệnh cho bọn Chúc Dung trấn giữ Thần Nông sơn, cấm tất cả mọi người lên núi, không phải là để ngăn trở ngươi mà bởi ta đã bị trúng độc, sắp chết tới nơi rồi.” Câu nói sau cùng của Viêm Đế quá kỳ quái, khiến người ta còn tưởng mình nghe lầm, nhưng Viêm Đế lại lặp lại rành rọt, “Xi Vưu, ta đã trúng độc, chẳng sống được bao lâu nữa đâu.” Xi Vưu vội nắm lấy cổ tay Viêm Đế, Viêm Đế không hề phòng bị, mặc cho hắn khống chế mệnh môn, “Hiên Viên có Thanh Dương, Cao Tân có Thiếu Hạo, còn Thần Nông lại chẳng có kẻ kế nhiệm nào đủ sức đảm đương cả, Du Võng tâm địa thiện lương nhưng năng lực tầm thường, Chúc Dung quá tham lam tàn nhẫn, dã tâm còn cao hơn năng lực, Cộng Công lại cứng nhắc câu nệ hết sức, không biết biến báo, Hậu Thổ tuy có tài, có thể bồi dưỡng được nhưng bề ngoài hiền hòa khiêm tốn mà tâm địa gian trá, nhẫn nhục dè dặt quá mức, đám vô lại không có tiền đồ đó chẳng ai chịu ai, e rằng ta vừa nằm xuống chúng đã đấu đá tranh đoạt lẫn nhau đến long trời lở đất, Du Võng chẳng trấn áp nổi đâu.” Viêm Đế không nguôi trăn trở, “Hiên Viên Hoàng Đế đã sẵn sàng gươm giáo, nhẫn nhịn cả ngàn năm rồi, giờ đây tin ta chết sẽ thay ông ta rúc hồi kèn giục đại quân Đông tiến. Cao Tân và Thần Nông lại đấu đá suốt mấy vạn năm nay, giữa lúc then chốt để Tuấn Đế hiện thời kế vị, phụ vương ta đã phái mười vạn đại quân áp sát, nếu không có Thiếu Hạo ra sức ngăn cản e rằng Tuấn Đế đã thành đống xương khô từ lâu, thù này há có thể bỏ qua sao?” Giữa đôi mày Viêm Đế trùng trùng những lo âu, hệt như từng trái từng trái núi sắp đổ sụp xuống khiến A Hành trông mà lạnh toát cả người, tim đập thình thịnh, tựa hồ đã thấy thiên quân vạn mã đang sầm sập kéo đến, vậy mà Xi Vưu dường như chẳng để những lời đó vào tai, chỉ chăm chú dùng linh lực tra xét thân thể Viêm Đế. Giọng Viêm Đế đượm vẻ bất lực mà thê lương, “Sự yên ổn hòa bình mấy vạn năm nay trên đại hoang kết thúc tới nơi rồi, chúng sinh thiên hạ lại sắp rơi vào vòng chiến loạn liên miên không dứt.” Thấy Xi Vưu lặng lẽ buông tay ra, Viêm Đế liền chăm chú nhìn hắn, “Nể tình ta chẳng còn sống được bao lâu, ngươi tha thứ cho lão già này được không?” Xi Vưu lạnh lùng đáp: “Ông đâu đã chết.” Tuy giọng điệu vẫn đầy vẻ vô tình nhưng hắn không nhắc tới chuyện ra đi nữa. Viêm Đế cười nói: “Ta định trước khi chết sẽ phong ngươi làm Đốc Quân Đại tướng quân, không chỉ thống lĩnh toàn bộ quân đội Thần Nông quốc mà còn có quyền bác bỏ những quyết định của Viêm Đế. Có điều quân đội Thần Nông chia làm sáu, một phần là tùy tùng của Viêm Đế, chỉ Viêm Đế mới có quyền điều động, còn năm phần kia…” Viêm Đế thở dài, “Trên thực tế, ngươi có điều động nổi toàn bộ quân đội hay không, thì phải trông vào bản lĩnh của ngươi thôi.” Nói rồi Viêm Đế đứng dậy, “Ta đi chế thuốc giải cho A Hành.” Viêm Đế vừa ra ngoài, A Hành đã tóm chặt lấy tay Xi Vưu lắp bắp hỏi: “Viêm Đế… Viêm Đế nói có… có thật không? Viêm Đế là Thần Nông thị y thuật đứng đầu thiên hạ, sao có thể không chữa được ình chứ?” Xi Vưu thản nhiên nói: “Để trị bệnh cứu người, ông ta phải nghiên cứu dược tính, nếm qua quá nhiều chất độc, nhiều loại thuốc hỗn tạp tích tụ trong cơ thể ông ta, cứ thế bào mòn sức khỏe, hai năm nay, hẳn ông ta lại nếm những loài cây cỏ độc không tên, tuy đã giải trừ chất độc vốn có của chúng, nhưng cỏ độc lại khơi dậy độc tố tích tụ trong người suốt mấy ngàn năm, giờ đây vạn độc cùng phát, chẳng thuốc nào trị nổi.” “Vậy cũng phải có cách gì chứ?” Xi Vưu cúi đầu nhìn A Hành, khẽ vuốt tóc nàng rồi lặng lẽ lắc đầu. A Hành đột ngột buông tay Xi Vưu, chạy ra khỏi phòng, nàng ngẩng đầu nhìn trời, ra sức hít vào thật sâu nhưng vẫn thấy tức thở. Bao năm nay ba nước kết thành thế chân vạc , trăm họ được thái bình yên ổn là nhờ Viêm Đế đức cao vọng trọng, quy tụ được lòng người thiên hạ, dù hùng tài đại lược như phụ vương cũng không dám làm trái ý trời, nhưng nếu Viêm Đế chết đi rồi… A Hành chẳng dám nghĩ tiếp nữa. Trên sườn núi xa xa, ánh tịch dương đã nhuộm vàng những cánh rừng trùng điệp, A Tệ đang nô đùa với hươu sao, một bên rượt một bên chạy, một bên trốn một bên nấp, tiếng kêu vui vẻ vang khắp núi rừng. A Hành ngơ ngẩn lần theo dấu chân chúng tới sơn cốc xanh biếc thì mất dấu, chẳng rõ A Tệ và hươu sao đã đi đâu. Nàng ngồi trên triền núi, dõi mắt nhìn về phía trời Tây đỏ rực ráng chiều. Ánh tịch dương đang từ từ lịm tắt, bây giờ là thời khắc bình yên đẹp đẽ sau cùng. Nàng tiện tay ngắt hai chiếc lá đặt lên môi làm kèn thổi, tiếng kèn réo rắt truyền đi trong sơn cốc. Có người lần theo tiếng kèn tới ngồi cách đó không xa, nhưng A Hành chẳng hề để ý, chỉ mê mải thổi kèn. Thổi hết một khúc, nàng mới ngoảnh lại, nhận ra Viêm Đế đang lặng lẽ ngồi bên mấy nấm mộ. Gió chiều lồng lộng, cả biển hoa xanh biêng biếc dập dờn lay động như những ngọn sóng nhấp nhô, bóng dáng Viêm Đế cũng lúc mờ lúc tỏ. A Hành bước tới ngồi xuống bên cạnh Viêm Đế. Viêm Đế dõi mắt ngắm tà dương, mỉm cười: “Cô hơi giống một người bạn của ta, không phải giống ở dung mạo, mà giống ở một vài cử chỉ.” A Hành im lặng, mê mải ngắm hoàng hôn. “Bà ta tên Tây Lăng Luy, tuy bây giờ rất ít người biết cái tên đó, nhưng hơn ba ngàn năm trước, bà ta là nữ tử nổi tiếng nhất đại hoang, được xưng tụng là Tây Lăng kỳ nữ, phụ vương ta từng sai huynh trưởng ta tới cầu hôn.” A Hành hỏi: “Bà ấy có nhận lời không?” Viêm Đế lắc đầu: “Không, nếu bà ta nhận lời thì có lẽ huynh trưởng ta đã trở thành Viêm Đế.” A Hành lại hỏi: “Vậy vợ ngài là người như thế nào?” Nghe nàng hỏi, Viêm Đế chỉ cười buồn: “Cô thật rất giống bà ta. Rất nhiều năm về trước, A Luy cũng từng hỏi ta câu này, trước bà ấy chưa ai quan tâm tới chuyện đó, sau bà ấy lại chẳng ai dám hỏi chuyện đó nữa, cô là người thứ hai hỏi ta câu này đấy.” Viêm Đế dịu dàng đặt tay lên mộ vợ, vẻ mặt chan chứa tương tư đằng đẵng, “Ta từ nhỏ linh lực thấp kém, pháp thuật không cao, tướng mạo lại chẳng lấy gì làm xuất chúng nên không được phụ vương xem trọng, các anh em không mấy khi chơi cùng, ta cũng chỉ thích loay hoay trồng hoa trồng cỏ một mình. Ngoài thành Chỉ Ấp có một dòng sông tên Tể Hà, hai bên bờ sông là nơi ở của những người linh lực thấp kém trong Thần tộc, bọn họ không có khả năng làm quan, cũng chẳng hề tòng quân, đành trông vào chút linh lực đó mà buôn bán nhì nhằng để kiếm sống thôi, trong số những người ấy có một cô gái bán hoa rất thích dùng linh lực trồng ra các loài hoa xanh biếc, có mẫu đơn xanh, phù dung xanh, phong tín tử xanh…” Viêm Đế khẽ vuốt ve đóa sơn trà xanh bên cạnh, “Lần đầu tiên ta gặp nàng là vào một buổi mai ẩm thấp, ta ra bờ sông hái thảo dược còn nàng đi múc nước, trên mình còn vận một chiếc váy dài nền trắng hoa xanh, bên tóc mai còn cài một đóa hoa sơn trà biêng biếc. Lúc đó ngoài bờ sông rất vắng người, hai ta mỗi người đứng ở một bên bờ trông sang nhau, đột nhiên nàng hé miệng cười khiến ta hoảng hốt chẳng dám nhìn lâu, hấp tấp cầm cuốc lên cuốc đất, kết quả cuốc phải chân mình, làm nàng bật cười khúc khích. Ta phải nằm trên giường tĩnh dưỡng suốt một tháng, cũng chẳng hiểu sao vết thương vừa khỏi, ta liền tính toán lựa đúng lúc nàng đi múc nước để ta bờ sông, thoạt đầu mấy tháng một lần, sau dần dà mấy ngày lại ra một lần, sau nữa thì ngày ngày ta đều ra hái thảo dược, nhưng chẳng dám bắt chuyện với nàng. Hồi còn niên thiếu ta vốn rất nhút nhát hướng nội, hễ trông thấy nàng là tim đập chân run, đến nhìn cũng chẳng dám nhìn nhiều, chúng ta cứ thể ở hai bên bờ trông sang nhau mà chẳng trao đổi câu nào cả. Ba năm sau phụ vương lệnh cho ta theo anh trai tới Tây Lăng gia cầu hôn, vì A Luy rất giỏi nuôi tằm, mà ta lại trồng được một gốc dâu bích ngọc, phụ vương cho rằng ta có thể giúp anh lấy lòng A Luy, bèn sai ta đi cùng. Lần cầu hôn đó thất bại thảm hại, anh trai ta bị A Luy xoay cho khóc dở mếu dở, nhưng ta với bà ấy lại thành bạn thân, A Luy còn rủ ta cùng tới đại hoang chơi, đương nhiên ta liền nhận lời ngay, sau này chúng ta quen thêm cả A Mi hát hay múa dẻo, ba người kết thành huynh muội. Trong ba người ta lớn tuổi nhất, nhưng A Luy lại táo tợn nhất, luôn đầu têu nhưng việc ta chẳng bao giờ dám nghĩ đến.” Viêm Đế lắc đầu cười, vẻ phóng khoáng lồng lộng trên vầng trán rộng, phấn chấn kể tiếp, “Đó là những tháng năm sôi nổi nhất đời ta, đến ta cũng chẳng dám tin mình có thể rượu say gây sự, ẩu đả đánh nhau như thế nữa. Ba người chúng ta còn hẹn ‘sẽ mãi mãi ở bên nhau, mãi mãi vui vẻ như hiện thời’. A Luy cao giọng nói nếu ai vi phạm bà ấy sẽ phạt người đó. Nhưng khi bà ấy gặp gã thiếu niên rạng rỡ như mặt trời đó, chính bà ấy lại vi phạm đầu tiên. Hôm bà ấy đi, chúng ta cùng ngồi trên triền núi ngắm tà dương như thế này, ta thổi một khúc, A Luy hát còn A Mi múa. Ta chưa thổi hết bài, A Mi cũng chưa múa hết điệu thì A Luy đột ngột nói và ấy phải đi, phải đi tìm gã thiếu niên rạng rỡ như mặt trời đó. A Mi vô cùng giận dữ, đùng đùng bỏ đi. Ta tiễn A Luy, bà ta hỏi ta đã phải lòng cô nương nào chưa, đã có người mà mình muốn ở bên suốt đời hay chưa, khiến ta sực nhớ tới nữ tử áo xanh bên bờ Tề Hà kia. A Luy nói với ta, ‘Nếu huynh thích nàng thì nên bày tỏ lòng mình ngay đi, lẽ nào huynh không sợ nàng sẽ lấy người khác ư?’ Nghe bà ta nói, ta đột nhiên phát hoảng lên, lập tức quay về, chẳng kịp từ biệt A Mi nữa.” Tuy biết sau cùng hai người kết thành chồng vợ nhưng A Hành vẫn hồi hộp hỏi, “Ngài có tìm được bà ấy không? Bà ấy vẫn ở bên bờ Tể Hà chứ?” “Nửa đêm ta về tới bờ sông, chờ mãi đến bình minh mà chẳng gặp được nàng. Đóa hoa xanh biếc bên bờ vẫn bừng nở trong gió nhưng nữ tử cài hoa chẳng biết đã đi đâu. Ta vừa thất vọng vừa buồn bã, ngơ ngẩn ngồi bên sông suốt từ sáng đến tối như kẻ mất hồn, mãi tới khi đêm buông tối mịt, ta ngoảnh lại mới nhận ra nàng đang đứng phía sau, đóa hoa tang xanh biếc cài bên mái tóc, rưng rưng nước mắt nhìn ta. Thấy vậy, ta ngỡ người nhà nàng qua đời, lòng như lửa đốt, quên khuấy mất chúng ta chẳng quen biết gì nhau, thế nên câu đầu tiên ta nói với nàng là ‘cô đừng quá đau buồn, sau này ta sẽ chăm sóc cho cô.’ Nàng nhoẻn cười gỡ đóa hoa tang ném xuống sông, ‘hai mươi năm nay chẳng thấy ngươi xuất hiện, ta cứ tưởng ngươi đã xảy ra chuyện rồi.’ Bấy giờ ta mới hiểu thì ra nàng cài hoa để tang ta.” “Sau đó thì sao?” “Sau đó dĩ nhiên chúng ta còn phải trải qua rất nhiều sóng gió, phụ vương ta nhất quyết không đồng ý, viện cớ thân phận nàng quá thấp hèn, may có Xích Thủy thị giúp đỡ, ghi tên Thính Yêu vào tộc phả, nhờ đó nàng mới được gả cho ta dưới thân phận Xích Thủy thị.” Viếm Đế mìm cười vuốt ve tấm bia mộ. “Thính Yêu giống như những đóa hoa dại trên triền núi này vậy, thoạt nhìn yếu ớt mong manh nhưng mưa to gió lớn đến mấy cũng chẳng vùi dập nổi, tiếc rằng chính ta lại hại chết nàng. Thể trạng Thính Yêu không tiện mang thai sinh nở nhưng ta thân làm Viêm Đế, nhất định phải có con nối dõi, thế nên nàng vì ta mà mang thai hết lần này sang lần khác, lúc sinh được Du Võng thì thân thể không chống chọi nổi nữa.” Viêm Đế ngả đầu vào bia mộ vợ, khẽ thì thầm: “Người người đều ca tụng ta y thuật quán tuyệt thiên hạ nhưng ta không cứu nổi nàng, chẳng cứu sống được Nữ Oa, cũng chẳng chữa khỏi cho Dao Cơ, một thầy thuốc vô dụng như ta chỉ có thể trơ mắt nhìn bọn họ từng người từng người chế đi trước mắt mình, A Luy, muội nói xem liệu Thính Yêu có oán trách ta không?” A Hành biết tinh thần Viêm Đế đang rối loạn nên mới lầm lẫn giữa mình và mẹ, nàng đành nín thinh không dám lên tiếng, sợ Viêm Đế bị kích động. Chỉ nghe Viêm Đế lẩm bẩm nói: “A Luy, ta là kẻ ích kỷ vô cùng! Đã biết sau khi ta chết sẽ có rất nhiều người đau khổ nhưng lại thầm mong mình chết au, lúc Dao Cơ chết đi, ta chỉ muốn theo con bé quách cho rồi, có vậy ta mới được đoàn tụ cùng Thính Yêu. Người trong thiên hạ cứ ngỡ Viêm Đế đau buồn thành bệnh chỉ là nói phóng đại, có ai biết từ sau khi Thính Yêu ra đi, ta đã đổ bệnh, bệnh hơn ngàn năm nay rồi.” Viêm Đế nắm lấy tay A Hành, “Từ khi ta lên làm Viêm Đế, chúng ta chẳng còn thư từ qua lại gì, nhưng lúc Dao Cơ ra đi muội lại gửi thư khuyên ta đừng đau buồn quá độ, phải biết rằng ta không chỉ là chồng của một người phụ nữ, cha của ba đứa con gái mà còn là Viêm Đế của toàn thiên hạ! Điều này sao ta không hiểu chứ? Nếu không hiểu, năm xưa ta sẽ không phản lại lời thề với Thính Yêu trong đêm tân hôn mà lên ngôi kế vị trở thành Viêm Đế, cũng sẽ không thể gắng gượng hết năm này sang năm khác tới tận hôm nay. Nhưng ta mệt lắm rồi, A Luy ạ! Lần này độc phát, ta đã nghĩ: vậy là muội không thể lấy đạo lý ra khuyên nhủ ta được nữa, ta nhất định phải chết rồi! A Luy, ta với muội tình như anh em, nhưng vì ta là Viêm Đế nên muốn gửi một bức thư cũng phải tránh tránh né né, Thính Yêu cũng vì ta là Viêm Đế mà mất sớm. Đời ta từ khi đăng cơ tới nay, tính kỹ lại những ngày vui vẻ chẳng được bao năm, sinh mệnh dài đằng đẵng mà niềm vui lại hiếm hoi, ta mệt lắm rồi, chỉ muốn nghỉ ngơi mà thôi, ta ích kỷ nên chỉ muốn nghỉ ngơi thôi…” A Hành ròng ròng nước mắt, khẽ an ủi: “Ngài đừng ngại, cứ nghỉ ngơi đi, ngài đã gắng gượng vì muôn dân Thần Nông bao nhiêu năm nay rồi, chẳng ai nỡ trách ngài ích kỷ đâu.” Đột nhiên nàng trông thấy Xi Vưu đang chạy như bay tới, người chưa đến mà linh lực đã đến trước, vây quanh bảo vệ cho Viêm Đế, vô số đóa hoa trắng li ti bỗng xuất hiện bao phủ lấy người đứng đầu Thần Nông quốc, linh thức của Viêm Đế cũng theo đó mà từ từ bình ổn, ông ngủ thiếp đi. Xi Vưu vặn hỏi nàng: “Cô nói gì với ông ta thế? Bây giờ ông ta không chịu được kích động mạnh đâu.” A Hành buồn rầu đáp: “Ta không nên tò mò hỏi những chuyện liên quan tới Viêm Hậu mới phải.” Xi Vưu chăm chú nhìn nàng: “Sao cô lại để lộ dung mạo thật ra rồi?” A Hành nghe nói mới sờ lên mặt, “Vừa nãy Viêm Đế nhắc tới mẹ ta khiến ta bất giác nghĩ tới hình ảnh mẹ mình lúc trẻ, chắc bởi thế nên Trụ Nhan hoa mới biến gương mặt ta trở lại như cũ.” Hèn chi tâm trạng Viêm Đế kích động như vậy, hóa ra đã lầm A Hành là mẹ của nàng.
|
Q.1 - Chương 10: Dưới Cội Hoa Đào Cùng Thề Hứa “Tháng tư hàng năm, khi hoa đào nở đầy trên sườn núi là tết Khiêu Hoa của Cửu Lê tộc, mọi người đều tụ tập dưới gốc đào hát tình ca tìm người thương. Từ sang năm trở đi, cứ đến tháng Tư, ta sẽ chờ cô dưới cội hoa đào ở Cửu Lê, không gặp không về.” A Hành trằn trọc suốt đêm không chợp mắt. Trời vừa hửng sáng nàng đã trở dậy, thấy người mệt mỏi vô cùng, nhưng tinh thần lại rất tỉnh táo, không hề buồn ngủ chút nào. Thấy Viêm Đế đang ngồi dưới hành lang đẽo tượng gỗ, nàng bèn bước lại ngồi đối diện với ông, nhìn ông lão hiền từ trước mặt, nàng không sao chấp nhận nổi việc con người đang gìn giữ sự yên bình cho địa hoang này lại sắp từ giã cõi đời. Viêm Đế lên tiếng: “Tối qua ra thất thố trước mặt tiểu cô nương, khiến cô phải chê cười rồi.” A Hành gỡ Trụ Nhan hoa trên tóc xuống, phân trần, “Bá bá, con là con gái của Tây Lăng Luy, tên thật là Hành, mẹ con gọi con là Hành nhi.” Viêm Đế chăm chú nhìn A Hành hồi lâu rồi từ từ dời mắt nhìn sang Trụ Nhan hoa trong tay nàng, A Hành nhoẻn miệng cười, gài lại đóa hoa lên búi tóc, “Cái này con thắng được bên chỗ dì Mi đó.” Viêm Đế phì cười, “Nghe nói Tây Vương Mẫu giam con suốt sáu mươi năm, thật không ngờ A Mi về già lại đâm ra khó tính, động tí là cáu kỉnh.” Nói rồi Viêm Đế ngẩn người ra, tắt hẳn nụ cười, “Lần cuối ta gặp A Mi là hôm ta thành hôn, nào ngờ một lần chia tay đã hơn hai ngàn năm rồi, bà ấy có khỏe không?” A Hành nghĩ ngợi giây lát rồi đáp: “Khỏe lắm ạ, bà ấy thường đứng một mình bên vách núi ngắm hoàng hôn, a, phải rồi, bà ấy rất thích làm người gỗ, tạo ra rất nhiều cung nữ gỗ.” Viêm Đế chăm chú đẽo một con chim gỗ, “Là ta và mẹ con dạy A Mi làm người gỗ đó, bà ấy thích một con chim gỗ biết hót líu lo nhưng lúc ấy không đủ linh lực để tạo ra nó, cứ năn nỉ đòi ta và A Luy làm hộ mình.” Sợ khơi lại chuyện xưa, A Hành chẳng dám hỏi tiếp, vội chuyển chủ đề: “Xi Vưu đâu rồi ạ?” Viêm Đế đáp: “Hắn vẫn đang lăng xăng trên mấy chóp núi bày bố trận pháp gì đó,ta đoán hắn định dựa vào khí đất thế trời để kéo dài mạng sống cho ta. Tuy Xi Vưu chẳng học gì về trận pháp nhưng trời sinh hắn đã nhạy cảm với ngũ hành linh khí, tự có cách bày binh bố trận riêng của mình.” Đang nói chuyên thì Xi Vưu trở về, thấy thứ Viêm Đế cầm trong tay, hắn cau mày: “Định làm người gỗ à? Ông còn có linh lực hao phí vào những trò này nữa sao? Để ta giúp ông một tay.” Viêm Đế khước từ: “Ta muốn tự tay làm lấy.” Xi Vưu lại nói: “Trên đỉnh Tử Kim dồi dào linh khí hơn đỉnh Tiểu Nguyệt, ông nên chuyển lên đó ở thì hơn.” “Ta muốn ở lại đây.” Xi Vưu cười phá lên, “Lão già này đến lúc sắp chết mới khá được một chút, trước đây chưa bao giờ nghe ông nói mình muốn cái gì, lúc nào cũng lải nhải là muôn dân nào là trăm họ! Ông xem, nói ra điều mình muốn có gì khó khăn đâu, có phải là thoải mái hơn suốt ngày cứ canh cánh lo cho thiên hạ không?” Viêm Đế cũng bật cười vỗ đầu Xi Vưu: “Con khỉ nhà ngươi! Thuốc của A Hành để trong nhà kìa, đi sắc đi.” “Ta nói bao nhiêu lần rồi? Đừng có vỗ đầu!” Xi Vưu vừa cau nhàu vừa vào phòng lấy thuốc ra, ngồi chồm hỗm bên khe suối sắc thuốc. Các vị thuốc phải được bỏ vào sắc theo phân lượng và trình tự nghiêm ngặt, Xi Vưu thường ngày vẫn qua loa đại khái, ấy vậy mà giờ đây lại hết sức chăm chú cẩn thận. A Hành nhìn hắn loay hoay, lòng vừa cảm động vừa e sợ. Viêm Đế cười hỏi nàng: “Con đang nghĩ gì đó?” “Có gì đâu ạ.” A Hành cúi đầu đáp. Viêm Đế lại nói: “Xi Vưu thích con, con thấy sao?” A Hành hốt hoảng ngẩng lên, chối bay chối biến: “Xi Vưu đùa đấy mà, hắn nhất thời ham vui thích lạ thôi.” Viêm Đế nhìn Xi Vưu, vẻ hiền từ mà lo lắng hệt như cha già nhìn đứa con trai, “Con nhầm rồi, hắn là kẻ thành thật nhất trên đời này đấy, tình cảm của hắn xuất phát từ đáy lòng, không bợn chút tạp niệm, đó là tình cảm chân thành tha thiết không gì sánh nổi đâu.” Vừa khéo một đôi chim én bay ngang đầu họ, Viêm Đế chỉ tay nói tiếp: “Nhìn đôi én kia có vẻ rất hời hợt, chỉ ngày ngày nô giỡn, chưa từng hứa hẹn suốt đời suốt kiếp bên nhau nhưng chúng vẫn khăng khít cả đời không chia lìa, còn cha con tổ chức đám cưới linh đình đón mẹ con về, thề thốt trọn đời kết tóc, nhưng bao năm nay ông ta đối với bà ấy ra sao?” A Hành ngây người nhìn đôi én bay xa dần, hồi lâu mới nói nhỏ: “Con sống ở Cửu Lê tộc một thời gian, phát hiện tín điều của họ là ‘con người chỉ sống ở hiện tại’, họ quan niệm chỉ cần vui vẻ trước mắt là được, dù mai này có chết ngay cũng chẳng sao, nhưng từ nhỏ tới lớn, cha lại dạy chúng con phải suy nghĩ kỹ rồi mới hành động, làm bất kỳ việc gì đều phải tính đến lợi ích lâu dài, không được ham vui cái trước mắt, vậy rốt cuộc thế nào mới là đúng đây?” Viêm Đế nghĩ ngợi một hồi đoạn đáp: “Cha con nói cũng không sai, ở vào vị trí của mình, ông ấy buộc phải như vậy. Có điều bao năm nay ta vẫn luôn hối hận vì mình không gần gũi Thính Yêu nhiều hơn nữa, ta luôn cho rằng sau này còn rất nhiều thời gian để bù đắp cho nàng, nhưng chuyện trên đời ai mà lường nổi chứ, chúng ta chỉ có thể nắm giữ được hiện tại mà thôi, dù là thần tiên cũng chẳng biết sau này sẽ xảy ra chuyện gì đâu.” A Hành trầm ngâm suy nghĩ. “Cô uống thuốc đi.” Xi Vưu bưng thuốc lại cho nàng. A Hành uống hết thuốc liền nhoẻn miệng cười ngọt lịm: “Cảm ơn ngươi.” Hiếm hoi lắm mới thấy A Hành dịu dàng vui vẻ với mình, Xi Vưu kinh ngạc đến đờ cả người ra. Một con chim đỏ rực bay tới đậu lên vui Viêm Đế, Viêm Đế nói: “Du Võng và Mộc Cận đang lên núi, Xi Vưu, ngươi đưa A Hành vào trong núi đi, bọn chúng chưa biết bệnh tình của ta, ta muốn ngồi đợi chúng một mình.” A Hành hỏi nhỏ: “Mộc Cận là ai thế?” Đối với những chuyện này Xi Vưu rất hờ hững, chỉ trả lời ngắn gọn: “Con gái nuôi của Viêm Đế.” “A, vậy cũng là vương cơ của Thần Nông, hèn chi nghe nói Thần Nông có bốn vị vương cơ, ta còn tưởng là lời đồn nhảm.” Xi Vưu dắt A Hành lên đỉnh Bạch Tùng. Đỉnh Bạch Tùng rất đẹp, thông trắng mọc đầy trên vách núi, hình dáng đủ vẻ, trong lúc rong chơi, cứ đi một bước lại thấy một khung cảnh khác nhau, đẹp không bút nào tả xiết. Nhưng như vậy cũng chẳng có gì là lạ, điều khiến người ta kinh ngạc nhất chính là Xi Vưu, dường như hắn được trời ban cho khả năng thông thuộc núi rừng, chỗ nào có suối nước để uống, chỗ nào có quả dại để ăn, chỗ nào có thể gặp phải gấu… hắn đều biết hết, tựa như hắn là hóa thân của ngọn núi này vậy. Đi mãi, hai người khát khô cả cổ, Xi Vưu bèn dắt nàng tới bên suối. A Hành cúi xuống uống mấy ngụm nước, rửa qua mặt mũi rồi quay lại nhìn Xi Vưu, ánh mặt trời chính ngọ xuyên qua tán lá rừng rọi xuống khiến thảm rêu biếc bên bờ suối rực lên xanh ngời. Xi Vưu ngồi chồm hỗm trên tảng đá, tư thế vô cùng bất nhã nhưng lại toát lên vẻ thoải mái và uy nghiêm rất riêng của mãnh thú. Hắn nhoẻn miệng cười với A Hành, ánh mắt sáng rỡ khiến tim nàng bất giác đập rộn lên, không dám nhìn thẳng vào hắn, đành ngoảnh đầu đi, tiện tay cởi giày nhúng chân xuống suối, hai chân vung qua vẩy lại nghịch nước. Xi Vưu nhảy đến ngồi bên cạnh, cùng vung vẩy chân nghịch nước với nàng. Ánh mặt trời xuyên qua kẽ lá chiếu xuống dòng suối thành những vệt nắng lung linh, Xi Vưu mải mê vung chân đá những đốm nắng trên mặt nước hệt như một đứa trẻ, mỗi lần đá trúng lại phá lên cười sung sướng, tựa hồ những buồn lo về việc Viêm Đế bệnh nặng sắp qua đời chẳng hề ảnh hưởng gì tới hắn. Nỗi mệt mỏi và sợ hãi trào lên từ tận đáy lòng A Hành, nàng vô tình ngả người dựa vào vai Xi Vưu. Xi Vưu khẽ hỏi: “Sao thế?” A Hành hỏi lại hắn: “Viêm Đế còn được bao lâu nữa?” “Bệnh của ông ấy càng về cuối sẽ càng đau đớn, vạn độc xâu xé bên trong, nhức nhối đến tận xương tủy, khó mà chịu đựng được, càng đi sớm thì càng đỡ chịu khổ, nhưng nhìn bề ngoài ông ta có vẻ thấu triệt tất cả, thật ra lại chẳng bỏ được gì cả, nhất định sẽ vì con dân của mình mà gượng sống đến khi nào không gắng nổi nữa mới thôi.” “Vậy rốt cuộc có thể gắng gượng bao lâu?” “Chẳng biết nữa, có lẽ là ba năm, có lẽ là năm năm, nhưng dù chúng ta dùng linh lực kéo dài mạng sống cho ông ấy thì cũng không được quá mười năm đâu.” “Xi Vưu, ta thấy mệt mỏi lắm, ta rất sợ.” Có lẽ non nước nơi này quá đỗi hữu tình, cũng có thể bờ vai Xi Vưu quá vững chãi nên lần đầu tiên, A Hành mới thổ lộ tâm tư của mình. Một khi chiến tranh bắt đầu, những kẻ đầu tiên bị cuốn vào chính là đám con cháu vương tộc như họ. Xi Vưu áp mặt vào tóc nàng: “Nếu có mệt thì cứ tựa vào vai ta mà nghỉ ngơi, nếu cô sợ thì cứ núp vào lòng ta, để ta bảo vệ cho cô.” Cảm nhận được hơi thở ấm áp của Xi Vưu, nàng chợt thấy lòng bình yên lạ, “Nếu ta dựa lâu quá, liệu ngươi có mệt không, có bực mình không?” Dường như bờ môi Xi Vưu lướt nhẹ trên tóc nàng rồi kề sát vào tai nàng nói nhỏ, “Không đâu, A Hành, lẽ nào đến giờ cô vẫn không hiểu ư? Ta cam lòng làm bất cứ chuyện gì vì cô.” Như được vầng dương rạng ngời ấm áp rọi vào tận đáy lòng, cả người A Hành nóng bừng lên, bao nhiêu năm mệt mỏi lo âu đều tan biến cả. Suốt đêm thao thức, cơn buồn ngủ bây giờ mới dâng lên, nàng như con mèo nhỏ, ngáp một cái thật dài, “Buồn ngủ quá.” Nói rồi nàng ngả người nằm xuống phiến đá, Xi Vưu cũng nằm xuống theo. Hai người nằm cách nhau một quãng, giữ khoảng cách thân thiết mà không thân mật. A Hành nghe lòng bình yên lạ lùng, dường như mọi hiểm nguy gian khổ đều đã có Xi Vưu che chắn, lúc này đây, dù trời long đất lở, cũng có một người ở bên bảo vệ cho nàng. Gió núi hây hẩy, tiếng suối reo róc rách theo gió đưa lại, càng làm nổi rõ sự yên ắng của núi rừng, ánh nắng được lọc qua tán lá, rạng rỡ mà không hề lóa mắt, đem hơi ấm gieo sâu vào đáy lòng bọn họ. Tựa hồ chỉ cần khép mi mắt lại, có thể nghe thấy cả tiếng năm tháng chuyển vần, Xi Vưu cùng A Hành đều nhắm mắt nằm nghỉ như thể cùng cảm nhận cái tĩnh lặng của thời gian cùng sự bình yên của hiện tại. Khi mặt trời đã khuất hẳn về Tây, A Hành mới chậm rãi mở mắt ra, chỉ thấy trước mặt một dải non xanh nước biếc, rừng rậm um tùm, khói mây đỏ rực bảng lảng khắp nơi tạo thành những hoa văn thiên nhiên, cả bầu trời như biến thành một tấm gấm bảy màu tinh xảo, cánh én chao nghiêng bay lượn giữa tầng mây rực rỡ. A Hành nhìn ngắm đến ngây người hoa mắt. Trong lúc mơ mơ màng màng, nàng nghiêng đầu, vừa khéo bắt gặp một cặp mắt ranh mãnh đen thăm thẳm như trời đêm, mênh mông hun hút, long lanh mà nguy hiểm, A Hành chỉ biết ngẩn ngơ nhìn vào đôi mắt đó, quên hết thảy mình đang ở đâu, đêm nay là đêm nao. Xi Vưu lặng lẽ sáp lại gần A Hành, bờ môi vừa chạm đến nàng, đột nhiên trong rừng vang lên tiếng quạ kêu quang quác. A Hành sực tỉnh ngồi phắt dậy, đỏ mặt tía tai, tim đập thình thịch nhưng vẫn cố lấy vẻ bình tĩnh nói: “Chúng ta về thôi.” Xi Vưu thoáng sững ra rồi giận dữ ngửa cổ nhìn trời, gầm lên như dã thú, chỉ giây lát sau, đám chim thú trong rừng đều cuống cuồng bỏ chạy trối chết, chẳng bao lâu đã không còn bóng dáng, cả khu rừng lặng phắc như tờ, đến tiếng dế kêu cũng nín bặt. Xi Vưu ngồi dậy đăm đăm nhìn A Hành, A Hành cũng vội né tránh ánh mắt hắn, rảo bước quay về Tiểu Nguyệt đỉnh, “Đi nào!” Xi Vưu lặng lẽ theo sau nàng, đi một lúc lâu, thình lình hắn lên tiếng hỏi: “Bộ đồ đang mặc trên người ta là cô tự tay may đúng không?” A Hành thoáng khựng lại, nàng không phủ định cũng không khẳng định, chỉ càng rảo bước nhanh hơn. Xi Vưu cười toe toét, rảo chân đuổi kịp nàng rồi đắc ý nói: “Cô vừa chăm tằm vừa dệt lụa, vất vả hơn hai mươi năm, trên Ngọc sơn bao nhiêu cung nữ, ai mà chẳng biết. Ta đã hỏi rõ ràng từ lâu rồi.” A Hành thẹn quá hóa giận, bực bội đáp: “Có gì to tát đâu? Chỉ là một chiếc áo thôi mà?” Dứt lời nàng chạy vụt đi, chảng thèm ngó đến Xi Vưu nữa. Xi Vưu vội đuổi theo sau nàng, vừa đuổi vừa nói: “Ta sẽ mặc nó mãi mãi.” Nghe vậy A Hành không nhịn nổi nhoẻn miệng cười, lại càng không dám nhìn mặt hắn, càng lúc càng chạy nhanh hơn. A Hành thoăn thoắt băng qua cánh rừng như một chú hươu nhanh nhẹn, xông thẳng lên đỉnh Tiểu Nguyệt hệt một ngọn gió, vì chạy giữa đám cây cối um tùm, nàng sơ ý va phải một người, lập tức loạng choạng trượt ngã, suýt nữa thì trẹo chân, may sao đối phương kịp thời đỡ lấy. A Hành ngẩng lên cười, “Cảm…” Thấy người đứng trước mặt là Thiếu Hạo, tim nàng bỗng đập thình thịch, cả người nhũn ra, đỏ mặt tía tai ngây người tại chỗ. Thiếu Hạo áy náy hỏi: “Cô nương không bị thương chứ?” Nói rồi y nhìn ra sau lưng nàng, mỉm cười gật đầu. Nụ cười của Xi Vưu lập tức tắt lịm. Xi Vưu rảo bước tiến lại, một tay đỡ lấy A Hành, tay kia đẩy Thiếu Hạo ra, “Sao vương tử điện hạ lại tới Thần Nông sơn vậy?” Thiếu Hạo chưa kịp đáp thì Du Võng cùng một thiếu nữ áo đỏ đã sánh vai nhau bước đến, A Hành đoán cô nương kia chính là Mộc Cận[1], con gái nuôi của Viêm Đế, quả là rực rỡ đẹp tươi như đóa hoa dâm bụt, hèn chi lấy tên là Mộc Cận. [1] Mộc Cận có nghĩ là hoa dâm bụt. (ND) Mộc Cận cười với Xi Vưu: “Vân Tang tỷ tỷ bị thương, may sao gặp được Thiếu Hạo điện hạ, điện hạ liền hộ tống Vân Tang tỷ tỷ về.” Chợt thấy Xi Vưu đang đỡ A Hành, nàng ta tắt hẳn nụ cười. A Hành nhất thời sốt ruột, vội hỏi ngay: “Vân Tang thế nào rồi?” Mộc Cận chòng chọc nhìn nàng, ánh mắt thấp thoáng địch ý: “Tên của vương cơ để cho ngươi gọi thẳng ra ư?” Xi Vưu lạnh lùng xen ngang: “Tên vốn dùng để gọi.” Mộc Cận bị bất ngờ liền nhìn chằm chằm Xi Vưu, rõ ràng rất ngạc nhiên vì gã Xi Vưu luôn thờ ơ trước mọi chuyện lại lên tiếng bênh vực A Hành, lệ từ từ dâng lên trong mắt nhưng vẫn bướng bỉnh cắn môi không khóc. Du Võng chăm chú quan sát A Hành rồi từ tốn trả lời nàng: “Dọc đường gặp phải mấy tên Yêu tộc làm càn, vết thương cũng không có gì đáng ngại, chỉ cần nghỉ ngơi mấy tháng là khỏi thôi. Cô nương quen tỷ tỷ ta sao?” A Hành gật đầu, lòng thầm thắc mắc, sao Vân Tang lại tới Cao Tân nhỉ? Mà sao lại vừa khéo gặp được Thiếu Hạo? Một con chim đỏ rực bay tới đậu lên vai Du Võng, y bèn quay sang cười bảo mọi người: “Bữa tối đã chuẩn bị xong, phụ vương kêu chúng ta về.” Trong phòng bày một bàn thức ăn đơn giản, Viêm Đế ngồi ghế đầu, bọn họ lần lượt thi lễ với Viêm Đế, Viêm Đế cũng chăm chú nhìn bọn họ, tâm tình có phần phức tạp. Hôm nay khéo sao bọn hậu sinh vãn bối nắm giữ cục thế thiên hạ tương lại lại tập họp trong căn nhà tranh vách nứa đơn sơ này, chẳng biết liệu mấy trăm năm nữa họ còn nhớ được ngày này hay không? A Hành hỏi ngay: “Viêm Đế, con không đói, con muốn đi thăm Đại vương cơ được không ạ?” Viêm Đế liếc Thiếu Hạo rồi đáp: “Con đi đi. Con nha đầu đó lớn rồi, rất nhiều chuyện nó không chịu nói với ta nữa. Con đi chuyện trò hỏi han nó cũng hay.” Rõ ràng ông đã nhận ra chuyện Vân Tang bị yêu quái đả thương chỉ là bịa đặt. A Hành thi lễ rồi lui ra. Đợi nàng ra khỏi cửa, Mộc Cận không dằn lòng được vội hỏi: “Phụ vương, cô ấy là ai thế ạ?” Viêm Đế nhìn Xi Vưu rồi lại nhìn sang Thiếu Hạo, đoạn giải thích với Du Võng và Mộc Cận: “Là con gái em kết nghĩa của ta, từ khi muội ấy lấy chồng, vì thân phận của mình, ta phải giữ giới hạn, chúng ta rất ít khi qua lại nên các con chưa từng gặp cô ấy.” Vẻ mặt Viêm Đế vô cùng cảm khái, hiển nhiên là lời thật lòng, ngay cả Thiếu Hạo suy nghĩ kín kẽ cũng phải tin tưởng, không hoài nghi thân phận A Hành nữa. A Hành khẽ khàng bước vào phòng, trông thấy Vân Tang đang ngồi ủ rũ, ngơ ngẩn nhìn ra cửa sổ. “Tỷ tỷ.” A Hành gỡ Trụ Nhan hoa ra, ngồi xuống bên cạnh Vân Tang. Vân Tang bị bất ngờ tròn xoe mắt nhìn nàng, thoạt đầu còn bực bội không hiểu sao A Hành lại ở đây, nhưng thấy đóa hoa đào đẹp đẽ tươi mởn trong tay nàng, Vân Tang liền cầm lấy ngắm nghía một hồi, đoạn thở dài than: “Thì ra Xi Vưu đoạt lấy nó là để tặng muội.” Dứt lời lại gài hoa lên mái tóc nàng, “Thiếu Hạo đang ở trên núi, muội phải cẩn thận, đừng để lộ chân tướng.” “Muội cũng vừa gặp y rồi.” Cả Trụ Nhan hoa cùng A Hành đều biến hình đổi dạng, “Tỷ tỷ, Thiếu Hạo cứu tỷ thế nào?” “Ta gặp Nặc Nại rồi.” “Chẳng phải y ở trong thiên lao ư?” A Hành kinh ngạc rồi sực hiểu ra, “Tỷ lên vào thiên lao của Cao Tân à?” “Ừ.” “Vậy tỷ gặp y rồi chứ?” Vân Tang gật đầu. “Tỷ nói cho y biết tỷ là ai chưa?” Vân Tang gật đầu. “Y nói sao?” Vân Tang ngân ngấn nước mắt, chỉ chực òa lên, “Lúc mới trông thấy ta, y tỏ vẻ thờ ơ, luôn miệng giục ta mau trở ra, nhưng ta thấy rõ ràng y vừa ngạc nhiên lại vừa mừng rỡ. Ta bèn cố lấy can đảm nói thật với y rằng mình không phải Hiên Viên vương cơ Hiên Viên Bạt mà là Vân Tang, Thần Nông vương cơ. Vẻ mặt y…” Vân Tang ròng ròng nước mắt, “Y không nói một lời, nhưng vẻ mặt y, vẻ mặt y… chuyển từ ngỡ ngàng đến kinh ngạc, từ kinh ngạc sang giận dữ, rồi từ giận dữ dần dần trở thành bi thương. Y trừng trừng nhìn ta, ánh mắt bi thương trống rỗng đó như nói lên rằng trái tim y đang chết dần chết mòn, lúc y nổi giận, ta vô cùng kinh hoàng sợ hãi, nhưng khi y bi ai nhìn ta như thế, ta lại thấy thà rằng y giận dữ, thà rằng ý cứ đánh ta chửi ta đi…” A Hành hỏi: “Sau đó y nói sao?” Vân Tang nức nở lắc đầu, “Chẳng nói sao cả, y từ đầu đến cuối không hé răng nửa lời, sau đó đám lính trong thiên lao đuổi kịp bao vây ta, giữa lúc sống chết cách nhau gang tấc, ta van xin y dù ghét ta hận ta thì cũng nói với ta một lời nhưng y dứt khoát ngoảnh đi quay mặt vào tường, như đang nhập định vậy. Ta vừa đánh nhau với binh lính vừa khẩn cầu y: ‘Nếu hôm nay ngươi không lên tiếng thì ra cứ ở lì tại đây’, về sau, về sau… y cuối cùng cũng nói một câu…” A Hành nhẹ cả người, “Y nói gì?” “Cút! Y bảo ta cút!”
|