Từng Thề Ước
|
|
Q.2 - Chương 4: Đường Trắc Trở, Tự Mình Tìm Lối[1] Thiên Hạo đứng bên ngoài điện, đôi mắt nhìn theo đoàn người khuất bóng cuối chân trời. Y ngoảnh đầu, bắt gặp A Hành đang đứng lặng dưới gốc đào, hoa hồng mặt ngọc chiếu rọi lẫn nhau, nhưng ánh mắt nàng lạnh buốt như băng giá. [1] Trích trong bài Cửu ca – Sơn quỹ của Khuất Nguyên. (ND) Xi Vưu đưa A Hành về đến tận Triêu Vân phong. Nàng lưu luyến nhìn theo bóng hắn mãi tới khi khuất dạng mới ngoảnh lại, liền trông thấy Đại ca và Tứ ca đang đứng ngay sau lưng mình. Xương Ý hỏi thẳng: “Muội nhớ ra Xi Vưu rồi ư?” A Hành đỏ mặt lúng túng, nói không nên lời. Đến lượt Thanh Dương hỏi: “Tìm muội khắp nơi không thấy, Thiếu Hạo sợ xảy ra chuyện gì bất trắc nên đã quay về Cao Tân rồi, muội vẫn định về Cao Tân đấy chứ?” A Hành vội đáp: “Phải về chứ, mai muội về luôn.” Thanh Dương thở phào nhẹ nhõm, định nói thêm gì đó nhưng lại thôi, Xương Ý liền chen vào hỏi: “Vậy muội và Xi Vưu…” A Hành cúi đầu: “Tứ ca, muội tự biết chuyện của mình mà.” Xương Ý nghe nói gật đầu, ôn tồn bảo: “Muội đến dập đầu từ biệt mẹ đi.” Sau khi từ biệt Luy Tổ, A Hành đem theo Liệt Dương rời khỏi Triêu Vân phong. Nàng vẫn chưa vội về Ngũ Thần sơn ngay, mà đi thẳng đến Ngu uyên trước. Hơn hai trăm năm trước, tuy chẳng cây cối chim thú nào sinh sôi được ở Ngu uyên, nhưng ngoại vi Ngu uyên vẫn có sông ngòi hồ ao, cây cối rậm rì, vậy mà từ khi một con yêu quái vừa giống hổ vừa giống cáo tới đây tu hành, cả miền này đã biến thành vùng đất chết, không nhú nổi cọng cỏ. Chẳng rõ ai trồng, chỉ biết ngoại vi Ngu uyên có một rừng đào, quanh năm xanh tươi mơn mởn, không bao giờ héo khô, còn xua tan nắng hạn cho cả vùng. Mỗi khi đến mùa hoa đào nở, con yêu quái đó đều hú lên thê thiết suốt đêm, khiến trăm họ Thụ Sa quốc phải dựng tế đàn trong rừng đào tôn nó làm Tệ Quân, cầu xin nó đừng gieo hạn hán cho Thụ Sa quốc. Tệ Quốc ở Ngu uyên ngày ngày tu luyện, sớm đã nhập Ma đạo từ lâu. Nhưng vì đủ thứ nguyên nhân, những người biết chuyện đều không hẹn mà cùng giấu giếm việc ở gần Ngu uyên có một con yêu quái đã thành ma. Một con chim trắng khổng lồ lướt qua bầu trời đêm, xông qua màn khói đen vần vũ phía trên Ngu uyên, lượn quanh mấy vòng rồi đậu xuống vách đá tối thui. A Hành từ trên lưng bạch điểu chậm rãi bước xuống, cười nói: “Cảm ơn Liệt Dương.” Chỉ trong nháy mắt, bạch điểu đã biến thành một cậu nhỏ áo trắng chừng mười một mười hai tuổi, dung mạo đẹp như ngọc, hai mắt xanh biếc, mái tóc dài chấm eo, trắng toát. Vạn vật đều coi Ngu uyên là nỗi kinh hoàng nhưng A Hành và Liệt Dương lại chẳng hề sợ hãi, chỉ mải lắng nghe từng tràng tiếng hú thê thiết từ xa vẳng lại. Khói đen mờ mịt tràn lan khắp Ngu uyên, mênh mông chẳng thấy bến bờ, không một sinh vật nào sống nổi trong làn khói độc ấy, nhưng Tệ Quân vẫn sống ở đó suốt bao năm nay. A Hành rơm rớm nước mắt, quay sang bảo đứa nhỏ: “Liệt Dương, gọi nó về đi.” Liệt Dương liền rít lên một tiếng the thé chói tai, ngược hẳn với vẻ ngoài thanh tú xinh xẻo. Tệ Quân đang bay lòng vòng giữa màn khói đen mịt mù, nghe thấy Liệt Dương gọi liền bối rối ngưng bặt tiếng kêu. Lần theo tiếng rít của Liệt Dương, nó bay thẳng về phía Đông, một hồi lâu mới thấy hai bóng người giữa làn khói đen đặc, tỏa ra khí thức vừa quen vừa lạ. Tệ Quân chần chừ giảm bớt tốc độ, khụt khịt mũi đánh hơi như để xác định thật giả, thình lình nó hú lên mừng rỡ, toan nhào tới, nhưng rồi lại phân vân. Sống giữa Ngu uyên bao năm nay, nó chẳng còn là chú hồ ly đẹp đẽ đáng yêu thuở xưa nữa, giờ đây cả người nó đều hôi rình tanh tưởi, nanh chìa ra lởm chởm, gương mặt trở nên méo mó đáng sợ vô cùng. Thấy A Tệ định lẩn đi, Liệt Dương liền nhào tới, biến nguyên hình rồi đậu xuống vai nó, vừa quang quác mắng mỏ vừa dang cánh đập lia lịa vào đầu nó. A Tệ bị đánh đến choáng váng đầu óc, quên khuấy ý định lẩn tránh, bèn ngoan ngoãn bay đến trước mặt A Hành. Chợt nó ngượng ngùng co rúm người lại, như sợ máu mủ tanh hôi trên người mình dây sang A Hành, gương mặt hung ác đầy vẻ bồn chồn hồi hộp. A Hành liền ngồi thụp xuống, ôm chầm lấy nó. “Bất kể mày là tiểu yêu tinh A Tệ hay là ma thú Tệ Quân, dù biến thành thứ gì, mày vẫn là tiểu hồ ly biết bay của ta.” Bao đau khổ và cô quạnh suốt hai trăm năm đợi chờ đằng đẵng đều tan biến theo một lời này. A Tệ dụi đầu vào lòng A Hành, nước mắt lã chã. “Sao mày lại đợi ở Ngu uyên? Ai cũng bảo Hồ tộc thông minh, thế mà mày chẳng thừa hưởng được tí gì cả? Ngốc ạ!” A Hành vuốt ve những vết thương chi chít trên mình A Tệ, khóc nức lên. Tuy A Tệ đã nhập ma, dáng vẻ hung ác nhưng tâm tư vẫn rất đơn thuần, thấy A Hành đau lòng, nó liền nghiêng đầu nhìn nàng, híp mắt lại thành hai vành trăng nhỏ cong cong, ve vẩy cái đuôi xù, định chọc nàng cười. A Hành vẫn rầu rầu, A Tệ cau mày nghĩ ngợi giây lát rồi ngẩng đầu gầm lên với Liệt Dương, bày ra ma tướng cực kỳ đáng sợ. Liệt Dương bị bất ngờ, sợ đến nhảy dựng cả lên, mặt mày tái mét. A Tệ lấy làm đắc ý, tựa vào người A Hành vênh mặt cười hăng hắc, ha ha ha, Liệt Dương cũng biết sợ nó rồi! Bị A Tệ hù dọa, Liệt Dương nổi giận rít lên một tiếng rồi xông tới, khạc ra cả chuỗi cầu lửa tấn công A Tệ, A Tệ lập tức co giò bỏ chạy, Liệt Dương đuổi sát sau lưng, cả hai lại chí chóe nhau, hệt như mấy trăm năm trước. Thấy cảnh tượng ấy, A Hành nín khóc phá ra cười, đợi chúng nó giỡn chán chê, nàng bèn gọi: “Lại đây, mình về Cao Tân đi.” Liệt Dương trợn mắt, nó vốn chẳng có thiện cảm với Thiếu Hạo, cũng chán ghét Cao Tân. Chỉ riêng A Tệ mừng rỡ chạy lại với A Hành, miễn là được sống cùng với A Hành và Liệt Dương thì ở đâu cũng thế cả. Cuối tháng Bảy, chính đương độ nắng chiếu sen hồng thấm vị riêng[1]. Cao Tân nhiều hồ nhiều sen, dân chúng rất chuộng hoa sen, đi đến đâu cũng thấy bát ngát lá xanh, hương thơm ngan ngát. Đã hai trăm năm không tiếp xúc với thế nhân, A Hành bèn dắt theo A Tệ và Liệt Dương thong thả tản bộ giữa đêm thanh, vừa thưởng thức phong cảnh nhân gian vừa tìm hiểu tình hình Cao Tân hiện tại. [1] Câu thơ trích trong bài Sáng sớm rời chùa Tịnh Từ tiễn Lâm Tử Phương của Dương Vạn Lý (1127 – 1206). (ND) Nàng về gần đến Ngũ Thần sơn, Thiếu Hạo nhận được tin báo liền tự mình ra đón, y cũng chẳng nhắc tới chuyện Xi Vưu, chỉ hỏi thăm nàng đi đường có được bình an. A Hành ôm A Tệ hỏi thẳng: “Chàng có thể tìm cách giúp bọn thiếp vào Thang cốc được không? Thiếp muốn trị những vết loét vì ma khí xâm thực trên người nó, mấy hôm nay đã tìm hái được vài loại thảo dược trong núi rồi, chỉ cần thêm nước của Thang cốc nữa thôi.” Thang cốc là thánh địa của Cao Tân, không dễ vào được, hơn nữa hiện giờ A Tệ lại bị coi là ma vật. Thiếu Hạo mau mắn đáp: “Không vấn đề gì, vừa khéo bây giờ ta đang phụ mệnh phụ vương canh giữ Thang cốc.” A Hành kinh ngạc vô cùng, Thang cốc là nơi hoang vắng ở cùng trời cuối đất, canh giữ Thang cốc có khác nào lưu đày? Nhưng thấy Thiếu Hạo không định giải thích, nàng cũng chẳng vặn hỏi nguyên do. Giữa đêm khuya thanh vắng, A Hành dẫn A Tệ tới thẳng Thang cốc. Thang cốc là chốn mặt trời lên, nguồn nước ở đây có thể nói là tinh khiết nhất trong thiên hạ. A Tệ vừa bị nhúng xuống nước đã run lẩy bẩy vì đau, A Hành và Liệt Dương phải mỗi người một bên ôm chặt lấy nó, A Hành vừa dịu dàng hát cho nó nghe như như dỗ trẻ nít vừa nhỏ nhẹ: “A Tệ ngoan nào, gắng chịu một chút, một chút nữa thôi là được mà.” Mãi đến hết một tuần trà, nàng mới cho phép A Tệ lên bờ. A Tệ đau đến lả cả ra, Liệt Dương nhìn nhỏ người nhưng rất khỏe, liền vác A Tệ lên “hòn đảo” do chín gốc phù tang chụm lại. Thấy A Tệ run cầm cập vì đau, Thiếu Hạo bèn đặt tay lên trán nó, cơn đau trên mình A Tệ được năng lượng thủy linh nhu hòa xoa dịu, nó ngủ thiếp đi. Liệt Dương thấy A Tệ đã ổn bèn biến lại nguyên hình, rúc vào giữa đám lá gà gật ngủ. A Hành xách một xô tướng ăm ắp thuốc vừa sắc lại, bắt đầu bôi thuốc cho A Tệ. Thiếu Hạo ngồi dưới bóng trăng, lặng lẽ gảy đàn. Tiếng đàn dịu dàng như ru, dẫn dắt linh lực trong mình A Tệ hấp thụ dược tính. Bôi xong thuốc, A Hành rửa sạch tay rồi ngồi xuống bên Thiếu Hạo. Thiếu Hạo mỉm cười, tiếp tục gảy đàn. Hoa phù tang đỏ rực như từng ngọn đèn lồng lung linh đầy cành, Thiếu Hạo vận bạch y ngồi dưới gốc cây, toát lên khí chất tao nhã vô song, đến nỗi ánh trăng lạnh lẽo rọi xuống người y cũng trở nên ấm áp. Vậy mà con người tài hoa xuất chúng, ý chí cao vời đó lại bị biếm đi tận cùng trời cuối đất canh giữ Thang cốc. A Hành khẽ hỏi: “Thiếp nhớ hai trăm năm trước quan hệ giữa chàng và phụ vương đã có phần dịu lại, sao giờ thành ra thế này? Chàng làm gì mà phụ vương căm ghét chàng đến thế?” Thiếu Hạo dừng tay gảy đàn: “Sau khi nàng rớt xuống Ngu uyên, Hậu Thổ đánh Chúc Dung trọng thương, Chúc Dung phải trốn vào cổ trận của Thần Nông. Dẹp được chướng ngại vật lớn nhất, Xi Vưu bắt đầu thả sức làm theo ý mình. Chắc nàng cũng nghe nói, hai trăm năm nay đã có mấy mươi gia tộc bị hắn diệt môn chứ? Dưới chính sách tàn khốc của hắn, chế độ cũ ở Thần Nông đã bị đánh đổ hoàn toàn. Thần Nông hiện giờ vô cùng thịnh vượng, ai ai cũng phát huy được sở trường. Nhìn Thần Nông biến đổi từng ngày, ta nhất thời nôn nóng, định dựa vào quân đội trong tay, cưỡng chế thúc đẩy Cao Tân cải cách. Nào ngờ bọn Yến Long lại gièm pha đơm đặt, khiến phụ vương đùng đùng nổi giận, cho rằng ta có lòng soán vị, cấm ta can dự vào việc triều chính, còn sai đi trấn giữ Thang cốc.” “Chẳng phải Yến Long đã mất một cánh tay rồi sao?” “Hắn mất một cánh tay, công lực suy giảm dần, nếu là người khác, hẳn cũng chẳng coi trọng kẻ tàn phế quá nửa như vậy nữa, nhưng phụ vương ta xưa nay nặng tình, lại càng thương Yến Long hơn cả khi xưa. Mấy năm gần đây, phụ vương thường nói với chúng thần, ‘Trong tất cả các con, Yến Long giống ta hồi trẻ nhất’, bọn họ hết thảy đều hiểu ý phụ vương.” Thiếu Hạo thở dài, mặt buồn hiu hắt, “Tính tình phụ vương dịu dàng đa cảm, thích xem mỹ nhân ca vũ, ham đọc thơ văn tài tử, quả thật ta không giống với phụ vương, khiến ngài rất thất vọng. Thêm nữa, hẳn phụ vương cũng biết Hiên Viên Bạt trong Thừa Hoa điện là giả nên chẳng coi ta ra gì.” “Chàng cam lòng trấn giữ Thang cốc hoang vu này mãi mãi, đợi Yến Long đăng cơ ư?” Thiếu Hạo khẽ cười, “Đương nhiên không rồi, ngày Yến Long đăng cơ chẳng những là ngày chết của ta, mà còn là ngày chết của cả Cao Tân tộc. Ta chết chỉ là việc nhỏ, nhưng quyết không thể để Cao Tân diệt tộc được!” “Vậy chàng tính…” Nụ cười của Thiếu Hạo thoáng vẻ lạnh lùng, “Ta định nhờ nàng giúp một việc.” “Giúp việc gì cơ?” “Cao Tân tộc đã có lịch sử mấy vạn năm, trải qua Bàn Cổ đại đế đến giờ, chuyện tranh đấu trong cung đình tiếp diễn liên miên nên thần khí nghiệm độc bao giờ cũng sẵn, chẳng chất độc nào lọt lưới được. Có lẽ chỉ có Thần Nông Thị nếm mọi loại cây cỏ, lấy thân thử độc mới có cách mà thôi. Bởi vậy ta muốn nhờ nàng phối chế giùm ta một loại thuốc có thể lọt qua mọi thần khí thẩm tra, không cần lấy mạng đối phương, chỉ cần khiến hắn dần dần mệt mỏi ốm yếu, phải nằm liệt giường là được.” Hiểu ý Thiếu Hạo muốn ép Tuấn Đế thoái vị, A Hành làm thinh không nói. Thiếu Hạo nói tiếp: “Ngũ Thần quân của phụ vương suốt ngàn năm nhàn hạ quen thân, chỉ còn cái vỏ bề ngoài, kỳ thực bên trong đã mục ruỗng từ lâu, chẳng có gì đáng ngại. Tuy Yến Long nắm hai bộ Thường Hy và Bạch Hổ, nhưng Thanh Long bộ huyết mạch của ta mới là bộ tộc thiện chiến nhất trong bốn bộ, nhờ Nặc Nại giúp sức, Hy Hòa bộ cũng hoàn toàn quy thuận ta rồi. Nếu muốn phát động binh biến không phải là không được, có điều ta chẳng muốn động vũ lực, bởi một khi binh biến xảy ra, đôi bên sẽ phải trở mặt sống mái với nhau cho tới khi một trong hai phe chết sạch mới thôi, như vậy dù ta có chấp nhận, những tướng quân theo ta mưu phản há yên lòng được ư? A Hành, ta không muốn làm hại phụ vương, đây chính là phương pháp vẹn cả đôi đàng đấy!” Thiếu Hạo khẽ gảy mấy dây đàn, ánh mắt thăm thẳm bi thương: “Hơn hai ngàn năm nay, lúc nào phụ vương cũng nơm nớp đề phòng ta soán vị. Thật ra ta chưa hề nghĩ tới chuyện đó, chỉ một lòng một dạ muốn phò tá phụ vương, muốn làm một đứa con ngoan ngoãn, nào ngờ cuối cùng lại đến ngày này, tất cả trở thành sự thật! Có lẽ các sử quan đời sau sẽ ghi chép rằng ta là kẻ lòng lang dạ sói, nuôi chí làm phản, ủ mưu bao năm mới hành sự. Nếu sau này ta có con trai cũng chẳng biết phải giải thích thế nào với nó, có lẽ nó cũng vĩnh viễn không thể thông cảm cho ta. A Hành, thật lòng ta không muốn đi đến bước này, nhưng ta đã bị ép vào đường cùng rồi! Bọn Yên Long đẩy ta đến Thang cốc rồi vẫn chưa chịu buông tha, mấy năm nay chúng ngày đêm nghĩ cách làm tan rã Thanh Long bộ, nếu ta còn khoanh tay ngồi nhìn, những người một lòng một dạ đi theo ta sẽ bị Yến Long hại chết hết, sau cùng cả ta cũng không tránh khỏi cái chết!” Nếu Thanh Long bộ tan rã thì dù Nặc Nại muốn giúp Thiếu Hạo, Hy Hòa bộ chắc chắn sẽ không ủng hộ một tên vương tử cầm chắc thất bại, để tự bảo vệ mình, bọn họ ắt sẽ quy thuận Yến Long. A Hành ngẫm nghĩ hồi lâu rồi dịu giọng: “Thiếp hiểu tình cảm của chàng mà, thôi, để thiếp giúp chàng!” Dù cả thiên hạ không dung thứ, chỉ cần một người hiểu ình thôi cũng đủ. Nghe được câu nói này, nỗi đau thương trong lòng Thiếu Hạo cũng vơi đi nhiều, y bất giác nắm chặt tay nàng, “A Hành, đa tạ nàng! Ta thật lòng nghĩ…” A Hành khẽ rút tay ra: “Chàng cần gì phải khách khí? Lẽ nào chàng quên giao ước giữa chúng ta lúc mới kết hôn rồi ư? Chúng ta là đồng minh, hôm nay thiếp giúp chàng, ngày sau chàng cũng phải giữ lời hứa của mình đấy.” Thiếu Hạo vô cùng thông minh, vừa nghe liền phát hiện A Hành đã nhớ ra mọi chuyện, cũng hiểu ngay ý nàng, lòng cảm thấy vô cùng khó tả, nhưng y vẫn gắng giữ vẻ thản nhiên, thu tay vào trong áo, hờ hững hỏi: “Nàng nhớ ra tất cả rồi sao?” “Ừm.” A Hành đỏ bừng mặt, áy náy do dự hồi lâu, như thể nghĩ ngợi gì đó, “Thiếp…” Thấy A Hành lúng túng, Thiếu Hạo liền mỉm cười, ôn tồn cắt lời nàng: “Ta sẽ giữ lời. Trời sáng đến nơi rồi, nàng ở đây lâu không tiện đâu, mau về nghĩ đi, để ta đi xem A Tệ thế nào.” A Hành đi được một quãng, chợt quay lại nhìn, dưới ánh trăng, Thiếu Hạo ngồi xuống xếp bằng giữa rợp bóng hoa phù tang đỏ rực, đối mặt với bao la sóng biếc, bạch y phất phơ trong gió, tiếng đàn mạnh mẽ như đẽo vàng cắt ngọc, đầy hùng tâm tráng chí của kẻ sắp bước lên ngôi trị vì thiên hạ, nhưng cũng dằng dặc cô đơn lạc lõng. Theo lời Thiếu Hạo, vương thất Cao Tân trải qua mấy vạn năm đấu đá lẫn nhau trong cung đình đã tích lũy được không ít kinh nghiệm, quy trình kiểm soát dược tính vô cùng chặt chẽ hoàn chỉnh, muốn chế ra một loại độc dược có thể lọt qua cửa thẩm tra lại chỉ vừa đủ khiến cho người ta ốm liệt thật chẳng dễ chút nào. A Hành lôi Thần Nông Bản Thảo Kinh ra đọc từ đầu đến cuối, từ cuối lên đầu, cuối cùng chỉ chế ra được một loại thuốc tương đối phù hợp với yêu cầu của Thiếu Hạo. Nàng giao thuốc cho y, căn dặn: “Thuốc này chỉ có thể tạm coi là phù hợp với yêu cầu của chàng thôi, thành phần chủ yếu lấy từ máu A Tệ, nó sẽ hủy hoại linh lực của người trong Thần tộc từng chút một, giống như Ngu uyên vậy, khiến người ta dần dần bải hoải toàn thân, hành động bất tiện.” Thiếu Hạo hỏi: “Có thuốc giải không?” “Nó không phải là thuốc độc nên cũng không có giải dược. Chỉ cần ngừng hạ độc, dần dần thân thể sẽ tự hồi phục, người khỏe khoắn trở lại. Ta chế ra hai lọ, theo ý chàng.” Thiếu Hạo cẩn thận cất thuốc đi: “Cảm ơn nàng.” “Chúng ta là đồng minh, chỉ cần chàng nhớ giữ lời thề của mình là được.” “Ta nhất định sẽ nhớ!” Dưới sự sắp xếp của Thiếu Hạo, “bệnh tình” của A Hành bắt đầu thuyên giảm, mỗi lần thầy thuốc trong cung tới thăm mạch đều có lời chúc mừng hai người, theo đó, tin Đại vương tử phi đang khá dần lên cũng lan truyền khắp trong ngoài cung. Tuy Thiếu Hạo thất thế nhưng A Hành vẫn là vương cơ duy nhất của Hiên Viên tộc, từ sau khi nàng khỏe lại, thiếp mời dự đủ các tiệc bắt đầu tới tấp theo nhau bay đến. Nghĩ tới việc “Hiên Viên Bạt” trước đây đã nằm liệt giường hai trăm năm, A Hành cũng không dám ra vẻ khỏe như vâm ngay, hầu hết tiệc tùng nàng đều lấy cớ thân thể còn yếu để từ chối, nhưng có những buổi tiệc không thể không đi, bởi nàng nhất định phải chứng minh mình là Hiên Viên Bạt thật sự. Thấy Tuấn Hậu tuyên triệu mình vào cung gặp mặt, A Hành hiểu ngay mình sắp bị kiểm chứng thân phận. Nàng bèn trang điểm lộng lẫy, lên xe đi bái kiến Tuấn Hậu. Xe đến cửa điện thì dừng lại, tên tùy tùng bên cạnh cười giải thích: “Vương tử phi vừa khỏi bệnh, vốn dĩ nên cho xe thẳng tiến thẳng vào trong điện để vương tử phi đỡ mệt, nhưng đây là quy củ, bề tôi đến cửa điện phải xuống xe đi bộ, hiện giờ Tuấn Đế chỉ ban ình Nhị điện hạ được ngồi xe vào tấn kiến thôi.” Đám người hầu hạ trong cung luôn là những kẻ giỏi xét mặt đón ý, mềm nắn rắn buông nhất trên đời, A Hành lẽ nào không hiểu ý bọn chúng. Xem ra Tuấn Đế rất căm ghét Thiếu Hạo, đến nỗi ghét lây sang cả con dâu. Nàng bèn cười nhạt bước xuống xe: “Bao năm nay ta không đến thỉnh an mẫu hậu được, quả thật chưa tròn đạo hiếu, xuống xe đi bộ vào là phải lẽ thôi.” Cả tòa cung điện rộng mênh mông, choán gần hết ngọn núi, A Hành lại muốn chóng xong nên rảo bước đi thật mau. Đến vườn Y Thanh, vẫn chưa thấy Tuấn Hậu ở đó, chỉ nghe đám thị nữ bẩm: “Tuấn Hậu đang rửa mặt chải đầu, xin vương tử phi đợi một lát.” Cao Tân nằm về phía Đông Nam, khí hậu ôn hòa, mùa đông ấm áp chẳng kém tiết xuân ở những nước phương Bắc, còn mùa hạ lại nóng nực oi nồng. Tuy nhiên Ngũ Thần sơn nằm giữa biển, gió biển thổi vào xua tan phần nào cái nóng nên không tới nỗi nóng nực lắm, thêm vào đó, cung điện ở đây cũng được thiết kế theo phong cách kiến trúc Cao Tân để tránh nóng. Phỏng theo lối thiết kế đó, khắp nơi trong vườn Y Thanh đều xum xuê cây cối, nhan nhản ao hồ, hoặc thác nước, hoặc khe suối, quanh co uốn lượn, lăn tăn dập dềnh, nhỏ thì không tới một thước, lớn thì đủ để chèo thuyền. A Hành đợi đến phát chán, trong thấy trong vườn không có ai, bèn men theo dòng suối lững thững đi vào. Càng đi sâu vào trong, phong cảnh càng thêm đẹp, hai bên là suối chảy róc rách, thế núi uốn lượn, trúc xanh tùng biếc, cây cối um tùm, dăm ba cánh hạc tiên lội dưới suối kiếm ăn, dáng dấp tiêu sái, nhìn thấy A Hành cũng chẳng hề hoảng hốt. Sâu trong bờ nước là một rừng trúc xanh biêng biếc, trùng trùng điệp điệp, thấp thoáng bóng nam tử bạch y nửa nằm nửa ngồi tựa lưng vào tảng đá say sưa ngủ, cuốn sách lụa phủ trên mặt. Dưới con suối cách đó không xa, hai cặp uyên ương đang bơi qua bơi lại giỡn nước, quấn quýt sánh đôi, nhởn nhơ thoải mái. A Hành toan trở gót quay lui nhưng chẳng kịp, nam tử kia đã tỉnh giấc nhỏm người dậy, cuốn sách trên mặt rơi xuống để lộ dung mạo thanh nhã, khí độ xuất trần, dưới bóng trúc mờ mờ, quang âm dào dạt, chẳng khác nào ẩn giả trong núi. Nhận ra Thiếu Hạo, A Hành tươi cười tiến lại. Nam tử kia lơ mơ hé mắt nhìn, vẻ mặt bực bội ra mặt vì mất giấc mộng đẹp. Nhìn nghiêng người này giống Thiếu Hạo như đúc, nhưng A Hành lập tức nhận ra ông ta không phải Thiếu Hạo! Thiếu Hạo chưa bao giờ giận ra mặt, nhất định cũng chẳng bao giờ bực bội vì những chuyện nhỏ thế này. Nghe tiếng bước chân, nam tử kia liền quay lại, tuy dung mạo người đó rất giống Thiếu Hạo nhưng khí chất đôi bên khác hẳn nhau, nam tử này chỉ có vẻ dịu dàng tình tứ như nước, thiếu nét cứng rắn trầm ổn tựa như núi của Thiếu Hạo. A Hành vội quỳ xuống thỉnh an, “Phụ vương.” Tuấn Đế nhìn nàng, trầm ngâm một thoáng mới nhận ra, “Sao con lại đến đây?” A Hành không biết Tuấn Hậu triệu mình vào cung có việc gì nên chẳng dám nói bừa: “Nhi thần tiến cung bái kiến mẫu hậu nhưng người đang bận việc, thấy phong cảnh bên suối đẹp quá, nhi thần bèn tản bộ ngắm cảnh, nào ngờ lại kinh động phụ vương, xin phụ vương xá tội.” Tuấn Đế hỏi: “Cảnh đẹp ư? Đẹp thế nào? Nếu con trả lời được thì miễn tội, bằng không ta cũng trị luôn Thiếu Hạo tội bất kính, cùng với con.” A Hành cười đáp: “Tâu phụ vương, vườn này tên Y Thanh, chỉ riêng cái tên đã lột tả hết vẻ đẹp của cảnh sắc nơi đây rồi. Quả là ‘gió nhẹ mưa phùn nào rát mặt, ấm mềm vạt áo lúc oi nồng.’” Tuấn Đế điềm đạm nói: “Tên vườn này do ta đặt, con đã thích nơi này, ta sẽ dẫn con đi dạo một vòng. Bốn chữ ‘gió nhẹ mưa phùn’ thoạt nghe rất đơn giản nhưng người thật sự hiểu được chẳng có mấy ai, con người ta có khi nào chịu bình thản tĩnh tâm mà thưởng thức cảnh sắc đâu.” A Hành theo Tuấn Đế cùng tản bộ ngắm cảnh, vừa đi Tuấn Đế vừa chỉ cảnh trí, giảng giải cho nàng nghe hết lai lịch từng hòn đá khóm hoa nơi đây. Từ nhỏ, nàng lớn lên cùng vị Tứ ca thông hiểu thơ từ ca múa, chim cá lá hoa, nên mấy thú chơi đó nàng cũng chẳng kém ai, về sau lại học được Thần Nông Bản Thảo Kinh, cực kỳ tinh thông các loại hoa thơm cỏ lạ, đôi bên càng thảo luận, nàng càng hợp chuyện với Tuấn Đế, khiến ông mừng như bắt được tri âm. Đột nhiên Tuấn Đế bất ngờ hỏi: “Sao con bệnh suốt hai trăm năm thế?” Vấn đề này Thiếu Hạo đã dặn nàng kỹ cách trả lời, nhưng giờ đây, đối diện với con người ôn tồn hòa nhã, chẳng hề giống một vị đế vương, A Hành lại không sao nói nên câu được. Im lặng càng lâu, nàng càng lúng túng chẳng biết phải trả lời như thế nào cho phải, lý do mà Thiếu Hạo sắp sẵn cũng không thể áp dụng được nữa, A Hành cứ bồn chồn bứt rứt nghĩ cách đến nỗi lòng bàn tay ướt đẫm mồ hôi. Thấy nàng không trả lời, Tuấn Đế chẳng những không bắt lỗi mà ngược lại còn tỏ ra vui mừng, mỉm cười nói: “Cũng nực cười thật, vương thất Cao Tân xưa nay xem trọng lễ nghi, ưa thích những thứ đẹp đẽ thanh tao, ta lại là nhân tài kiệt xuất trong số đó, từ nhỏ đã lấy làm tự phụ về dung mạo tài hoa của mình, bất luận một khóm hoa hay một người con gái đều yêu cầu phải thật hoàn mỹ, thậm chí còn xem mặt đặt tên quần thần, ưu ái những kẻ bề ngoài xuất chúng, lời nói lịch thiệp. Trong tất cả các con trai, ngoại hình Thiếu Hạo giống ta nhất, vừa ra đời lại mất mẹ nên ta luôn yêu thương nó, giữ nó bên mình, gần như cầm tay chỉ dạy cho nó mọi thứ, tiếc rằng càng lớn nó càng trở nên xa lạ. Con với nó…” Tuấn Đế lắc đầu, “không hợp nhau chút nào.” A Hành vừa kinh ngạc vừa sợ hãi đến cứng đờ cả người, mồ hôi lạnh toát ra đầm đìa. Tuấn Đế khẽ thở dài, vẻ mặt chất chứa sầu muộn, “Nhưng trong vương thất có được mấy cặp vợ chồng hòa hợp với nhau đâu? Hầu hết đều là người lừa ta, ta gạt người, lấy hạnh phúc giả tạo che mắt người đời vậy thôi.” Bấy giờ A Hành mới dám thở phào nhẹ nhõm, khôi phục tri giác. Tuấn Đế ngồi xuống phiến đá bên bờ suối, “Gần đây chẳng hiểu sao ta hay bị mệt đột ngột, người ngợm bải hoải, chẳng có sức lực gì cả.” Đoạn ông chỉ phiến đá đối diện, “Con cũng ngồi xuống đi!” Hai ả thị nữ từ đâu hớt hải chạy đến, vẻ mặt hoảng hốt quỳ xuống thỉnh tội với Tuấn Đế: “Tuấn Hậu đang đợi vương tử phi, nô tỳ đi tìm mấy vòng mà chẳng thấy, không ngờ vương tử phi lại đi cùng bệ hạ.” A Hành vội hành lễ với Tuấn Đế xin cáo lui, Tuấn Đế gật gật đầu, tỏ ý cho phép. Đi một quãng xa, A Hành mới dám len lén ngoảnh lại, thấy Tuấn Đế vẫn ngồi lặng bên dòng suối, ngơ ngẩn đối diện với bóng mình dưới nước. Tuấn Hậu vừa trong thấy A Hành đã vồn vã thân mật, một mực giữ nàng lại đến tối để dự tiệc. Tiệc tối có đông đủ tất cả vương tử phi và vương cơ, ai nấy đều mượn lối đùa cợt nô giỡn giữa đám phụ nữ khuê phòng để thăm dò xem Hiên Viên Bạt là thật hay giả. Hiên Viên Bạt vốn là vàng thật, đương nhiên không sợ lửa, hễ binh đến tướng ngăn, nước lên đất chặn. Yến tiệc còn huyên náo đến nửa đêm, tới giờ đóng cửa cung mới giải tán. Hiên Viên Bạt vừa ra khỏi cửa điện, thị vệ đã tươi cười đánh xe đến. Nàng thoáng ngạc nhiên bèn vén rèm lên nhìn, thấy Thiếu Hạo ngồi bên trong bèn nhảy lên xe, “Sao chàng lại đến đây?” Y đáp: “Nàng đi suốt cả ngày, ta không yên tâm.” “Mẫu hậu thăm dò cả ngày nay, hẳn đã tin thiếp chính là Hiên Viên Bạt rồi. À phải, hôm nay thiếp gặp phụ vương.” “Phụ vương khỏe không?” “Phụ vương dắt thiếp đi ngắm hoa lan ngài trồng, thiếp nức nở khen ngài mát tay trồng lan, thoạt đầu ngài còn tưởng thiếp nịnh hót, về sau nghe thiếp phân tích rành rọt nguyên do, ngài có vẻ vui lắm. Thiếp cùng phụ vương đi tản bộ một quãng, ngài bắt đầu thấm mệt, thiếp…” A Hành ngập ngừng, vẻ mặt buồn bã, “Thiếp thấy rất áy náy, phụ vương không phải người xấu, thậm chí ngài ấy còn tốt hơn rất nhiều, rất nhiều người…” Thiếu Hạo thuyết phục nàng: “Phụ vương là công tử phong lưu nhàn tản, chỉ thích thưởng thức thư họa ca múa, bình phẩm chim cá lá hoa, cuộc sống của ngài sau này vẫn sẽ được giữ nguyên như bây giờ mà.” Sẽ giữ nguyên được thật ư? Mong là thế! A Hành làm thinh không nói nữa, Thiếu Hạo cũng nín lặng ngồi yên. Xe về đến cổng Thừa Hoa điện, A Hành tưởng Thiếu Hạo sẽ âm thầm trở về Thang cốc, nào ngờ y đột nhiên nói: “Tối nay nàng có khách quý tới thăm, ta không tiện vào cùng. Nàng cứ đi vào bình thường, đến hoa phòng đợi ta. Ta sẽ lặng lẽ lẻn vào phủ rồi tới hoa phòng gặp nàng.” Nhớ khi xưa, vì A Hành thích trồng hoa tỉa lá nên Thiếu Hạo đã xây dựng hoa phòng này cho riêng nàng, kẻ không biết chỉ cho là hành vi xa hoa vung tiền lấy lòng vợ đẹp, kỳ thực bên trong được Nặc Nại thiết kế đủ mọi loại cơ quan, có thể nói, đây chính là mật thất để Thiếu Hạo bàn bạc những việc quan trọng, tránh tai mắt người đời. A Hành cười khổ não, Thiếu Hạo quả thật đã bị Yến Long và Tuấn Đế ép tới đường cùng, đến nỗi phủ đệ của chính mình mà cũng chẳng được đàng hoàng bước vào, phải lén lén lút lút như kẻ trộm. Nàng rầu rĩ hỏi: “Ở Cao Tân, thiếp có thể có khách quý gì đây?” Thiếu Hạo cười bí ẩn, “Đợi đến lúc nàng sẽ biết.” A Hành trở về phòng thay y phục tắm rửa rồi thong thả ăn chút đồ lót dạ, xong xuôi mới xách lẵng hoa và kéo, lấy cớ muốn cắt vài đóa hoa tươi đặt bên giường cho dễ ngủ, lững thững đi tới hoa phòng. Một cô gái lạ mặt, dung mạo thanh tú, dịu dàng diễm lệ đang đứng trong bóng tối hoa phòng, thấy nàng bước vào liền tiến lại hành lễ: “Nô tỳ tên gọi Khấp Nữ, là thị nữ của Nặc Nại tướng quân. Nặc Nại tướng quân đang đợi Vương tử phi.” Té ra là y! A Hành gật đầu. Khấp Nữ liền xăng xái đi trước dẫn đường, trông có vẻ thông thuộc các cơ quan ở đây hơn cả vị chủ nhân này, xem ra Nặc Nại rất tin tưởng ả. Thấy A Hành âm thầm quan sát mình, Khấp Nữ ngoảnh lại cười: “Nghe tên nô tỳ vương tử phi thấy lạ phải không? Cha nô tỳ một lòng muốn có con trai, nhưng trong nhà lại sinh tất cả chín chị em gái, đến nô tỳ là đứa thứ mười, cha suýt nữa định vứt nô tỳ đi, ngay đến cái tên cũng không buồn đặt. Nô tỳ chẳng được ăn no, ngày đêm cứ khóc lóc nhèo nhẹo, mọi người đều gọi nô tỳ là Khấp Nữ. Hai trăm năm trước, không chịu nổi ngược đãi, nô tì bèn bỏ trốn khỏi nhà, may sao lúc bệnh nặng sắp chết thì gặp được Nặc Nại tướng quân, mới có chỗ nương nhờ. Bởi nô tỳ là nữ tử, không gây chú ý nên lâu nay nô tỳ thường xuyên yểm trợ cho tướng quân tới đây gặp Đại điện hạ.” A Hành khen ngợi: “Nặc Nại tướng quân là nhân tài xuất chúng, nay thị nữ của y cũng là vạn người chọn một.” Khấp Nữ dịu dàng cười, mở cửa cho A Hành: “Tướng quân đang đợi bên trong, mời vương tử phi vào, nô tỳ sẽ đứng ngoài.” Hai người ngồi trong phòng nghe tiếng động đều đứng cả dậy, một kẻ chính là Nặc Nại dung mạo tuấn tú, phong thái phiêu dật, người kia chính là một nữ tử dung mạo bình thường, trông thấy A Hành, nàng liền gỡ mặt nạ bằng nhân diện tằm xuống.
|
“Vân Tang tỷ tỷ!” Nhận ra Vân Tang, A Hành reo lên mừng rỡ, nhào tới ôm chặt lấy nàng. Vân Tang rưng rưng nước mắt, xem ra còn kích động hơn cả A Hành, “Muội không biết bao năm qua ta khổ sở chừng nào đâu.” “Hiện giờ muội đã bình an vô sự rồi mà.” Vân Tang nắm chặt lấy tay nàng, chăm chú nhìn A Hành từ đầu đến chân, cười nói: “Đúng là muội rồi, ta phải viết thư ngay cho Hậu Thổ để hắn khỏi áy náy buồn rầu nữa, bao năm nay tên ngốc đó cứ dằn vặt mình không thôi.” A Hành ngẩn người một thoáng mới hiểu ra: “Tỷ uội gửi lời hỏi thăm hắn nhé,” đoạn cười hỏi tiếp: “Sao tỷ tỷ lại đến đây?” Vân Tang đỏ bừng mặt khẽ thì thào: “Ta đã ở Cao Tân một thời gian rồi.” A Hành nghe nói liền nhìn sang Nặc Nại, mím môi nén cười. Vân Tang gắng lấy lại bình tĩnh nói tiếp: “Trên Tử Kim đỉnh, tên khốn Xi Vưu bắt ta thề không can dự vào triều chính nữa, bằng không sẽ chết chẳng toàn thây! Ta ở lại Thần Nông cũng chẳng có việc gì làm, tới Cao Tân thăm thú thì có vấn đề gì chứ?” A Hành xua tay, “Không có gì, không có gì.” Nặc Nại bước lên hành lễ với nàng, “Hôm nay tôi đưa Vân Tang tới đây một là để nàng tận mắt thấy vương tử phi, từ rày yên lòng khỏi lo lắng, hai là muốn cầu xin vương tử phi một việc.” Vân Tang liền nói: “Ta đi xem sao mãi Thiếu Hạo chưa tới.” Nói rồi nàng vội vã đeo mặt nạ lên, rời khỏi mật thất. Nặc Nại mời nàng ngồi xuống, thong thả nói: “Vương tử phi chớ thấy Vân Tang chửi rủa Xi Vưu mà lầm, thật ra trong lòng nàng biết rõ, Xi Vưu là muốn tốt cho nàng. Chúc Dung bất ngờ bế quan, Xi Vưu không còn trở ngại gì, lập tức thực hiện cải cách. Nhờ phương pháp cứng rắn của hắn, mấy chục năm trước Thần Nông đã ổn định cục thế. Có điều Vân Tang giờ đây chỉ còn lại Viêm Đế là ruột rà máu mủ, vương tử phi biết tính nàng rồi đó, nàng làm đại tỷ đã quen, chuyện gì cũng không yên tâm, chuyện gì cũng lo lắng, chỉ mãi nghĩ cho người khác mà quên cả bản thân mình, dù tôi có khuyên thế nào nàng cùng không đành lòng bỏ rơi Viêm Đế, lại thêm Cộng Công và Hậu Thổ cứ tới tìm Vân Tang nhờ giúp đỡ. Hết cách, ta đành tới nhờ Xi Vưu, nói rõ tình cảm của ta dành cho Vân Tang, hy vọng Vân Tang có thể yên lòng mà sống. Xi Vưu thật không hổ là đại trượng phu! Hắn chẳng nể nang tiếng vong ân phụ nghĩa, buộc Vân Tang phải thề độc không được tham gia triều chính. Nhìn bề ngoài làm vậy có vẻ tàn nhẫn vô tình, nhưng thực ra đó là vì muốn tốt cho Vân Tang, vừa buộc nàng dứt ra, vừa khiến bọn Hậu Thổ thấy Vân Tang không còn giá trị lợi dụng, để chúng khỏi kéo nàng vào vòng tranh đấu quyền lực nữa.” Nặc Nại thở phào cười: “Bây giờ tôi liền ép Vân Tang tới Cao Tân.” A Hành hỏi lại: “Ép ư? Ta thấy Vân Tang tỷ tỷ rất vui, e rằng đã vui quên đường về rồi!” Nặc Nại tràn trề hạnh phúc, hành lễ với nàng, “Vân Tang đã đồng ý gả cho tôi, phiền vương tử phi tác thành.” “Ta dĩ nhiên bằng lòng, nhưng việc này chẳng phải tướng quân nên đi nhờ Thiếu Hạo hơn ư?” Thiếu Hạo cùng Vân Tang một trước một sau tiến vào, nghe nàng nói, y bật cười đáp: “Chuyện này nàng giúp được nhiều hơn ta đấy.” Nặc Nại đỡ lời: “Hiện giờ điện hạ đang phải trấn giữ Thang cốc, cả năm cũng khó mà giáp mặt Tuấn Đế một lần. Nếu điện hạ có ý bái kiến Tuấn Đế xin ban hôn, lại thêm thân phận đặc biệt của Vân Tang, e rằng sẽ khiến Tuấn Đế sinh lòng nghi kỵ. Nhưng vương tử phi lại khác, lúc nào vương tử phi cũng có thể vào cung. Tuấn Đế thích thơ từ ca phú, ham nuôi trồng các loại kỳ hoa dị thảo, mà luận về thơ từ ca phú trong thiên hạ không ai hơn được Xương Ý, hiểu biết về kỳ hoa dị thảo, trên đời cũng chẳng ai bì được Viêm Đế đời trước. Vương tử phi là kẻ duy nhất trong thiên hạ kế thừa được sở trường cả của hai người, hơn hai trăm năm trước, Tuấn Đế đã có thiện cảm với vương tử phi, thậm chí vì thế mà tử tế hơn với điện hạ. Chỉ cần vương tử phi lựa lúc thích hợp, nói giùm tôi và Vân Tang mấy lời trước mặt Tuấn Đế, với bản tính đa tình của ngài, hẳn sẽ lập tức phê chuẩn.” “Hóa ra là thế.” A Hành nghĩ ngợi một lát rồi cười: “Dạo trước, trên đường từ Hiên Viên về Cao Tân, ta tìm được mấy giỏ lan hiếm có, cũng vừa mới vun xới cho ra dáng, ngày kia ta sẽ vào cung dâng phụ vương.” Nặc Nại mừng rỡ, cảm ơn luôn miệng, “Đa tạ, đa tạ vương tử phi.” Thiếu Hạo cười bảo: “Đều là người nhà cả, cần gì giữ lễ như thế? Đợi hai người thành hôn, cả hai kính A Hành mấy chung rượu là được mà.” Vân Tang cúi đầu ngồi im trong góc phòng, mặt đỏ bừng vì thẹn. A Hành cười nắc nẻ, chợt liếc qua cánh cửa khép hờ, trông thấy Khấp Nữ đứng giữa bóng tối bên ngoài đang chòng chọc nhìn Vân Tang, ánh mắt vừa ghen tỵ vừa buồn bã, vô cùng phức tạp. Phát hiện ra A Hành đang nhìn mình, ả liền gượng cười hành lễ rồi khép cửa lại. Như Nặc Nại dự liệu, A Hành vốn tinh thông thơ từ ca phú, trồng cỏ chăm hoa, rất tương đắc với Tuấn Đế. Thêm vào đó nàng lại cố ý lấy lòng nên chưa đầy một tháng, đã được Tuấn Đế cưng chiều yêu quý hơn cả con gái. Một hôm, A Hành mượn cớ tán thưởng bức họa uyên ương hồ điệp rồi khéo léo liên hệ sang mối tình của Nặc Nại và Vân Tang, vì thân phận khác biệt mà phải chịu bao đau khổ, cầu xin Tuấn Đế thành toàn cho hai người. Nghe nói chàng có tình, thiếp có ý, Tuấn Đế chẳng những không coi là ngỗ nghịch mà còn tươi cười cho phép bọn họ thành hôn. A hành vui mừng, vội quỳ xuống lạy tạ. Tuấn Đế chỉ cười bảo: “Trời cao luôn muốn tác thành cho uyên ương chắp cánh, hồ điệp cùng bay, tuy ta không dám bì với trời nhưng cũng rất mong người có tình trong thiên hạ đều được thành đôi lứa. Nếu ai ai cũng hạnh phúc, hẳn thế gian sẽ bớt được ít nhiều phân tranh.” Đột nhiên A Hành thấy bứt rứt khôn tả, chẳng rõ mình giúp Thiếu Hạo hạ độc con người ôn hòa đa tình này liệu có đúng chăng? Nhưng nếu không giúp, Thiếu Hạo nay đã bị dồn vào chân tường, hẳn sẽ phát động binh biến, e rằng giang sơn lại một phen máu chảy thành sông, thây phơi đầy nội. Nàng đành tự nhủ rằng Thiếu Hạo ắt sẽ không hại chết Tuấn Đế, nhằm nén nỗi day dứt trong lòng xuống. Sau khi về phủ, A Hành lập tức viết thư báo tin mừng với Nặc Nại và Vân Tang. Theo “kế hoạch tuyệt mật” của Thiếu Hạo, Nặc Nại đã bị phái đến biên cương, trấn thủ Hy Hòa bộ, một là để kiềm chế Bạch Hổ bộ, hai là phòng khi trong nước có biến, các nước láng giềng thừa nước đục thả câu, dẫn quân xâm phạm. Bởi thế Nặc Nại và Vân Tang đều không ở kinh đô. Cuối thư, A Hành phân vân giây lát rồi viết thêm một đoạn. Khấp Nữ sớm chiều hầu hạ bên Nặc Nại suốt hai trăm năm, e rằng đã sớm nảy sinh tình cảm với y, tuy chẳng ngại ả gây bất lợi gì cho Vân Tang, nhưng nảy sinh tình thế hiện giờ đối với cả hai người đều không ổn, hy vọng Nặc Nại lưu ý xử lý chuyện này cho thỏa đáng. Thư phúc đáp của Nặc Nại khiến A Hành rất yên tâm. Vì Vân Tang, cũng là để báo đáp lòng trung thành của Khấp Nữ hai trăm năm nay, y sẽ sắp xếp ổn thỏa cho Khấp Nữ trước khi thành hôn. Y định nhận Khấp Nữ làm muội muội, chọn cho ả một người chồng ưu tú. Nếu tạm thời ả chưa muốn lấy chồng, y sẽ đưa Khấp Nữ về bầu bạn với mẹ mình, chờ ả tìm được người vừa ý. Hôn sự của Nặc Nại và Vân Tang đã chính thức công bố. Tuy Vân Tang hạ giá lấy Nặc Nại hết sức sức đột ngột, nhưng được sự đồng ý của hai vị đế vương Tuấn Đế và Viêm Đế, mọi chuyện đều trở nên danh chính ngôn thuận. Nặc Nại tự mình tới Thần Nông sơn định ngày thành hôn với Viêm Đế. Theo kế hoạch, vào mùa xuân sang năm, khi muôn hoa đua sắc, y sẽ tới rước dâu. Cuối năm, Tuấn Đế trở nên bệnh nặng, không gánh vác nỗi việc triều chính, bèn ủy thác mọi việc cho Yến Long xử lý thay, thấy vậy cả triều đình đều cho rằng đã tìm được nơi gửi gắm lòng trung. Nhưng trong tiệc tiên năm cũ mừng năm mới, Tuấn Đế lại than nhớ con, truyền triệu Thiếu Hạo bị biếm đi trấn thủ Thang cốc trở về. Thiếu Hạo vừa về đến Ngũ Thần sơn, Tuấn Đế liền cho tuyên triệu ngay lập tức, ân cần dặn dò đủ điều, hai cha con trò chuyện suốt cả buổi chiều. Thấy vậy, các triều thần lại càng hồ đồ, không sao đoán nổi ý Tuấn Đế. Thật ra, mọi chuyện đều bắt nguồn từ lòng nghi kỵ của đế vương mà thôi. Tuấn Đế rất yêu thương Yến Long, định sau khi qua đời sẽ truyền ngôi cho hắn. Có điều giờ đây ông mới mang bệnh chứ chưa qua đời, tạm thời phải giao việc triều chính lại cho Yến Long, nhưng lại lo Yến Long thừa cơ tước đoạt quyền lực của mình, bèn cho triệu kẻ đối đầu với Yến Long là Thiếu Hạo về kinh, để y kiềm chế Yến Long. Tiếc rằng hai đứa con của Tuấn Đế đều đã trưởng thành, đâu còn là đứa con nhỏ bi bô học nói, đương nhiên không chịu làm quân cờ cho cha sắp xếp. Dưới sự hỗ trợ của Tuấn Hậu, Yến Long bèn nhân cơ hội này dốc toàn lực khuếch trương thế lực bản thân, ra sức thay đổi quan lại trong triều. Thiếu Hạo rời xa Ngũ Thần sơn đã quá lâu nên chẳng có mấy quan hệ với quan viên trong triều, không biết phải làm sao, đành án binh bất động. Hơn ba tháng sau, khi ngọn gió xuân hây hẩy dạo khắp Giang Nam, chính là mùa đẹp nhất trong năm của Cao Tân, nơi nơi mịt mù mưa bụi, hoa thơm đua sắc, oanh hót én bay. Tuấn Đế được tiến cống một chậu mỹ nhân đào, hết sức vui mừng thích thú, hệt như trẻ nhỏ được quà, chỉ lăm le muốn đem khoe với bạn, lập tức sai người tới truyền A Hành vào cung, khoe với nàng cây đào trong đình viện. A Hành nghi hoặc hỏi: “Đây là loại hoa đào cánh kép nhưng sắc hoa lại màu phấn hồng, có phải bích đào không ạ?” Tuấn Đế cười thành tiếng, tựa mình vào chiếc gối nền trắng hoa xanh, rủ rỉ giảng: “Con vừa thấy hoa cánh khép hiếm gặp, lại có màu phấn hồng đã đoán ngay là bích đào, không phải đâu. Tuy hoa đào cánh kép rất hiếm nhưng còn chia ra làm mười loại, có loại màu hồng, màu trắng, màu phấn hồng, hồng trắng đan xen, nên trắng đốm đỗ, bông lớn bông bé khác nhau, dựa theo màu sắc và hình dáng mà đặt tên, có uyên ương đào, thọ tinh đào, nhật nguyệt đào, thụy tiên đào, mỹ nhân đào…” Tuấn Đế đang hào hứng giảng giải, thấy Thiếu Hạo lững thững lại gần, ngạc nhiên cười hỏi: “Sao chẳng nghe tùy tùng thông báo là con tới? Đến rồi thì lại đây cùng ngắm gốc đào quý này với ta.” Thiếu Hạo quỳ xuống dập đầu, dâng lên Tuấn Đế một bản tấu chương liệt kê mọi hành vi của Yến Long trong thời gian gần đây, nghiêm trọng nhất là hắn dám thay đổi cả thị vệ canh giữ cung đình, điều mà các đế vương xưa nay vẫn kiêng kỵ nhất. Sắc mặt Tuấn Đế càng lúc càng khó coi, ông giận dữ thét gọi nô tài, toan sai bọn chúng lập tức tuyên triệu Yến Long, nhưng gọi mãi chẳng thấy tên nào chạy vào. Cảm thấy không ổn, Tuấn Đế trừng mắt nhìn Thiếu Hạo, “Thị vệ đâu cả rồi? Ngươi định làm gì đây?” Thiếu Hạo liền tâu: “Nhi thần đã theo lời căn dặn của phụ vương, nghĩ giùm Người một đạo ý chỉ. Yến Long câu kết với Tuấn Hậu, ý đồ làm loạn, cộng tất cả tội chứng lên tới một trăm mười mấy tội, chứng cứ như núi. Phụ vương đã quyết định giam cầm Yến Long, phế bỏ Tuấn Hậu.” Tuấn Đế tái mặt, ánh mặt sắc lạnh như dao: “Quyết định của ta ư?” “Vâng, là quyết định của phụ vương!” Thiếu Hạo bình tĩnh đáp, vẻ kiên định. Ánh mắt sắc như dao của Tuấn Đế gặp phải khí thế cứng rắn trầm ổn của y, lập tức tiêu tan. Tuấn Đế uất ức gầm lên, nhưng dù thét lớn đến đâu cũng chẳng tên thị vệ nào tiến vào. Ông sực hiểu Thiếu Hạo đã khống chế cả cung điện rồi. Tuấn Đế trợn trừng mắt nhìn Thiếu Hạo, y cũng lặng lẽ nhìn ông. Bầu không khí trong phòng yên ắng tới nỗi có thể nghe thấy tiếng thở dốc của ba con người với bao giằng xé nội tâm. Một hồi lâu, ánh mắt Tuấn Đế từ từ chuyển sang A Hành, nàng vội cúi đầu, không dám nhìn thẳng vào mắt ông. Tuấn Đế khẽ hỏi: “Con có biết không?” A Hành không sao trả lời được, Thiếu Hạo đành phải đáp thay: “Nàng không biết.” Tuấn Đế gật đầu cười: “Vậy thì tốt, coi như không phụ gốc đào này.” Thiếu Hạo trải một vuông lụa trắng tinh ra trước mặt Tuấn Đế: “Xin phụ vương hạ chỉ.” Tuấn Đế vung bút một lượt, tuyên bố phế bỏ Tuấn Hậu, giam cầm Yến Long, đoạn cầm cả bút lẫn lụa ném vào mặt Thiếu Hạo: “Đem đi ngay!” Ngọn bút chưa khô vẩy đầy mực lấm lem lên mặt lên người Thiếu Hạo, y lặng lẽ lau sạch mực trên mặt mình, âm thầm nhặt mảnh lụa lên, trao cho viên tướng đứng hầu ngoài rèm. Một đội thị vệ bước vào, đều là những gương mặt lạ hoắc. Thiếu Hạo bẩm: “Mời phụ vương dời đến Kỳ viên để tiện tĩnh dưỡng.” Tuấn Đế giận đến run bắn người lên: “Ngươi nôn nóng đến thế ư?” Thiếu Hạo mặt lạnh tanh, khom lưng đáp: “Nhi thần kính mời phụ vương dời giá.” Bi ai và phẫn nộ đồng loạt cuộn lên trong lòng Tuấn Đế. Biết cục thế đã không sao cứu vãn nỗi, ông hít sâu mấy hơi, bất lực ra lệnh: “Đi thôi!” Đám thị vệ lập tức tiến lại vực Tuấn Đế ngồi lên ngai. Tuấn Đế nhắm nghiền mắt, chẳng nói chẳng rằng. Dưới sự “hộ tống” của hơn trăm tên thị vệ, cả đám người rầm rộ bay về phía Tiệm Châu phong, ngọn núi nằm về cực Đông của Ngũ Thần sơn. Từ đây muốn liên lạc với đất liền phải vượt qua bốn đỉnh núi khác trong Ngũ Thần sơn, nên các đời đế vương đều thu xếp cho huynh đệ hoặc thái hậu bất hòa với mình tới đây ở, cũng là một hình thức giam cầm biến tướng. Thiếu Hạo đứng bên ngoài điện, dõi mắt nhìn theo đoàn người khuất bóng cuối chân trời. Y ngoảnh đầu, bắt gặp A Hành đang đứng lặng dưới gốc đào, hoa hồng mặt ngọc chiếu rọi lẫn nhau, nhưng ánh mắt nàng lại lạnh buốt như băng giá. A Hành hỏi: “Gốc đào này là chàng sai người dâng lên phụ vương phải không? Chàng thừa biết phụ vương có được trân phẩm, nhất định sẽ cùng thiếp thưởng thức mà.” Nàng biết sớm muộn gì Thiếu Hạo cũng sẽ ra tay, nhưng chẳng ngờ lại là hôm nay, càng không nghĩ y lại lợi dụng mình để phân tán sự chú ý của Tuấn Đế. Thiếu Hạo lặng người ngắm gốc đào nở hoa rực rỡ. Tiếng phụ nữ khóc than văng vẳng vọng lại, xem ra các vị tướng sĩ đang di dời hậu cung của phụ vương. Tuấn Đế vốn ưa đàn sáo sênh ca nên các nữ tử trong hậu cung đều hát hay đàn giỏi, bất cứ khi nào đi ngang đều nghe văng vẳng tiếng trúc tơ hòa cùng giọng ca cao vút. Khắp điện nhan nhản kỳ hoa dị thảo được vun trồng kỹ lưỡng, mỗi khi có gió, hương hoa thơm ngát cả điện, dẫu lặng gió, trong điện vẫn phảng phất một mùi hương thầm lặng. Ai ai bước vào tòa cung điện nguy nga lộng lẫy này đều hoa mắt mê mẩn, đến nỗi vương tử Thần Nông quốc năm đó đến Thừa Ân cung một lần mà không sao quên nổi, bèn giật dây Viêm Đế đời thứ bảy tấn công Cao Tân quốc. Suốt từ sáng sớm, các cung nhân cũ, kẻ bị giết người bị giam, mười phần đã giảm bớt đến bảy tám. Còn một nhóm cận thần cung phi cuối cùng, hoặc bị xử tử, hoặc bị giam lỏng. Cả cung điện vắng hoe không một bóng người, trừ đám binh sĩ xách dao xách kiếm. Cung điện mênh mông đột nhiên trở nên quạnh quẽ yên ắng, khác hẳn khi trước. An Tấn và An Dung bước vào, hai huynh đệ họ xuất thân từ Thanh Long bộ, cùng tộc với mẹ đẻ Thiếu Hạo, có quan hệ bà con với y, đồng thời cũng là tâm phúc của y. An Tấn tướng quân bước đi như rồng như hổ, toát lên vẻ mạnh mẽ ngang tàn của quân nhân, sang sảng tâu: “Điện hạ, tất cả phi tần trong hậu cung, hễ chưa sinh con cái đều bị trục xuất khỏi Thừa Ân cung, đưa đến Tích Hương cư dưới Ngũ Thần sơn.” An Dung tướng mạo tuấn tú, vóc dáng cao to thong thả lên tiếng: “Các cung nhân được giữ lại đều là người đáng tin cậy, thần đã tuyển lựa kỹ càng rồi. Trước khi điện hạ vào ở Thừa Ân cung, có cần tuyển thêm một đợt mới không?” Thiếu Hạo liền đáp: “Khỏi đi, chỉ có ta và vương tử phi thôi mà, các cung nhân còn lại, cộng thêm người của Thừa Hoa điện là đủ rồi.” An Tấn xoa tay nói: “Đúng thế! Trước đây một người phụ nữ cần đến mười mấy kẻ hầu hạ, hiện giờ đã đuổi hết đám nữ nhân đó ra khỏi cung, đương nhiên chẳng cần nhiều nô tỳ như thế nữa. Thời gian tuyển nô tì, chi bằng nghĩ kế đánh giặc còn hơn.” An Dung kéo tay ca ca rồi nhỏ nhẹ góp ý với Thiếu Hạo: “Quả thật hiện giờ chỉ có điện hạ và vương tử phi, nhưng sau khi đăng cơ, điện hạ sẽ phải lập thêm phi tần, cần có tỳ nữ hầu hạ các vị vương phi chứ.” An Tấn trừng mắt, “Tuyển phi tần cái gì? Ta cảnh cáo tên tiểu tử đệ, chớ xúi bậy điện hạ mải mê nữ sắc, học mấy trò nhảm nhí!” An Dung dở khóc dở cười, “Tuấn Đế các đời trước đều chọn nữ tử trong tứ bộ phong làm phi tần, Đại ca huynh tưởng rằng bọn họ xinh đẹp hơn người thật ư? Sau khi điện hạ đăng cơ, phải tiêu diệt kẻ địch, còn phải luận công ban thưởng cho quần thần nữa, Thanh Long bộ của chúng ta không nói làm gì, nhưng lòng trung của của Hy Hòa bộ đối với điện hạ, chẳng lẽ không cần báo đáp sao? Cách báo đáp tốt nhất là gì? Chẳng phải là tuyển nữ tử của Hy Hòa bộ vào cung, để hoàng tử tương lai mang huyết mạch Hy Hòa bộ sao? Thường Hy bộ e khó mà lôi kéo được, Bạch Hổ bộ lại kết bè với bọn Yến Long, Trung Dung, nếu điện hạ chọn phi tử trong Bạch Hổ bộ, chỉ sợ một nữ tử vào cung liền kéo theo vô số âm mưu.” An Tấn nghe đến váng cả óc, bèn xua tay, hành lễ cáo từ Thiên Hạo, “Hai người cứ từ từ bàn bạc đi, hễ có đánh nhau nhớ đừng quên ta đấy.” Thấy An Tấn đã lui ra, An Dung lại cười hỏi: “Điện hạ có cần thần để mắt chọn lọc nữ tử trong tứ bộ không? Tuy thân phận huyết thống là quan trọng nhất, nhưng dung mạo tính tình nhất định không làm ngài khó chịu đâu.” Thiếu Hạo thẫn thờ nhìn theo hướng A Hành khuất bóng, chẳng nói chẳng rằng, hồi lâu mới buột miệng: “Khỏi cần.” An Dung tái mặt, “Điện hạ, tuy chúng ta thành công tạm thời nhưng không thể xem thường thế lực bọn Yến Long và Trung Dung được. Nếu muốn củng cố đế vị, nhất định phải…” “Ta đã bảo không cần cơ mà!” An Dung rùng mình, sực nhận ra kẻ trước mặt đây không còn là Thiếu Hạo nữa, mà đã trở thành đế vương của Cao Tân, vội quỳ sụp xuống: “Thần hiểu.” Thiếu Hạo cúi người giơ tay nâng hắn dậy, “Biểu đệ, ta biết ngươi một lòng muốn tốt cho ta, nhưng… chuyện này để sau hãy nói đi, ta không tin Thiếu Hạo ta phải dựa vào nữ nhân mới thu phục được giang sơn này!” Nghe cách xưng hô của y, An Dung mới yên lòng, liền hành lễ cáo từ, “Bên Kỳ viên điện hạ còn dặn dò gì không?” Thiếu Hạo trầm ngâm hồi lâu rồi trỏ gốc đào: “Sai người đào gốc cây này lên cẩn thận, đưa đến Kỳ viên.” An Dung vâng dạ, hắn chần chừ toan nói gì đó, nhưng rồi lại nén xuống. Đêm đó, Thanh Dương cưỡi Trùng Minh điểu, nhân lúc khuya khoắt bay thẳng đến Thang cốc hoang vu nằm ở cực Đông của đại hoang. Dưới gốc phù tang la liệt những vò rượu rỗng, Thiếu Hạo đã say bí tỉ. Thanh Dương lặng lẽ ngồi xuống dựa lưng vào gốc cây, đập vỡ niêm phong một vò rượu, ngửa cổ uống ừng ực. Thiếu Hạo cười hỏi: “Sao ngươi không chúc mừng ta? Hôm nay ai gặp ta cũng chúc mừng ta hết đó!” Thanh Dương lạnh nhạt hỏi: “Chúc mừng cái gì? Chúc mừng ngươi hại cha giết em ư?” Thiếu hạo phá lên cười ngặt nghẽo, hồi lâu mới vừa cười vừa lè nhè nói: “Ta khống chế được tình thế mà, không đến nỗi làm nghiêng trời lệch đất, cạn tàu ráo máng đâu.” Thanh Dương làm thinh không đáp. Có những con đường một khi đã đặt chân lên thì chẳng thể quay đầu lại nữa, chỉ có thể đi mãi đi mãi về phía bóng đêm thăm thẳm, dù bản thân có muốn cũng khó mà khống chế. Thấy Thiếu hạo ném ình một lọ thuốc, Thanh Dương liền hỏi: “Gì thế?” Thiếu Hạo say khướt, trông càng tuấn tú phong lưu hơn hẳn khi tỉnh táo, y cười đáp: “Thứ này sẽ khiến phụ vương ngươi lâm bệnh, không thể xử lý chính sự.” Thấy Thanh Dương biến hẳn sắc mặt, Thiếu hạo cười cười bồi thêm: “Không ai tra ra được đâu!” Thanh Dương thất thanh hỏi: “Lẽ nào phụ vương ngươi thật sự không sinh bệnh? Ta tưởng ngươi chỉ nắm lấy cơ hội trời ban thôi chứ?” Thiếu Hạo phá lên cười, “Thanh Dương tiểu đệ, ta tưởng lòng dạ ngươi đã sắt đá rồi, nào ngờ vẫn khờ khạo thế kia à! Lấy đâu ra cơ hội trời ban? Chỉ có cơ hội do mình tạo ra mà thôi! Hơn hai ngàn năm, ta đợi hơn hai ngàn năm để được cái gì? Tính tình Hoàng Đế ra sao ngươi cũng biết rồi, ngươi muốn đợi cái gì hả? Ngươi tưởng ngươi có thể đợi được cái gì? Đồng Ngư thị trong Chỉ Nguyệt điện sẽ bỏ qua cho ngươi, bỏ qua ẹ ngươi sao?” Thanh Dương nắm chặt lấy lọ thuốc, gân xanh nổi đầy tay. Thiếu Hạo nói tiếp: “Có mỗi lọ thuốc này thôi đấy, phải dùng thật đúng chỗ.” “Ở đâu ngươi có thuốc này? Ngươi không sợ bị bại lộ ư?” “Suỵt!” Thiếu Hạo đặt ngón trỏ lên môi ra hiệu, cười ngất ngư, “Không cho ngươi biết đâu! Ta nói với kẻ chế thuốc là một lọ để cho phụ vương, một lọ cho Yến Long, nàng ta cứ ngỡ lọ thuốc này dành cho Yến Long, chẳng biết gì cả.” Thấy Thanh Dương nhận lấy lọ thuốc, Thiếu Hạo liền tươi cười giơ vò rượu lên, “Nào! Chúc mừng hai ta sánh vai tác chiến, vật lộn với sinh tử!” Thanh Dương cũng nâng vò rượu cụng đánh cốp với Thiếu Hạo, hai vò rượu lập tức vỡ nát, vẩy đầy người cả hai. “Rượu ngon!” Thiếu Hạo phá lên cười, cả người lảo đảo rồi ngả ngửa ra giữa những vò rượu ngổn ngang. Thanh Dương đứng dậy gọi Trùng Minh điểu lại, chuẩn bị quay về. Thiếu Hạo lẩm bẩm trong cơn say: “Đợi ngươi đăng cơ trở thành Hoàng Đế, chúng ta sẽ cùng nhau tranh đoạt thiên hạ. Thanh Dương, nếu ta chết trong tay ngươi, ngươi cứ táng ta trong vò rượu. Còn nếu ngươi chết trong tay ta, ta sẽ…” Y mơ màng nghĩ ngợi, “Ta sẽ đem đầu lâu ngươi làm thành vương tọa, hàng ngày lên triều đều ngồi, ngày ngày ngồi, tháng tháng ngồi, ngồi đến khi ta chết mới thôi.” Thanh Dương vốn lạnh lùng cũng phải bật cười hỏi: “Sao lại thế? Ngươi hận ta tranh đoạt thiên hạ với ngươi ư?” Thiếu Hạo cười hì hì, xua tay, “Đâu có, ta báo thù cho ngươi đó chứ! Khiến kẻ ngồi trên vương tọa đó ngày ngày đều phải nhớ đến ngươi, suốt ngày đều bồn chồn lo lắng còn gì!” Thanh Dương đang cười ha ha chợt ngẩn ra rồi tắt hẳn nụ cười, lòng trào lên bao nỗi muộn phiền hiu quạnh, không sao nén xuống được. Y huýt một tiếng lanh lảnh, lập tức Trùng Minh điểu vỗ cánh bay vút lên trời, biến mất giữa biển mây. Tuấn Đế hạ chỉ bố cáo thiên hạ, nói mình lâm bệnh nặng, không thể tiếp tục trị vì nên nhường ngôi cho Đại vương tử Thiếu Hạo tài đức kiêm toàn, nhân hiếu cung khiêm đủ cả. Thiếu Hạo khước từ mấy bận rồi cũng chính thức đăng cơ, chuyển vào ở trong Thừa Ân cung Ngũ Thần Sơn, trở thành Tuấn Đế đời thứ tám, phong Hiên Viên Bạt làm vương phi. Mọi người đoán già đoán non rằng hai người bọn họ phu thê ân ái, vậy mà Thiếu Hạo lại không phong Hiên Viên Bạt làm Tuấn Hậu, hẳn là vì thân thể nàng quá yếu đuối, mấy trăm năm vẫn chưa sinh con. Đại tiệc chúc mừng Thiếu hạo đăng cơ được ở tiền điện Thừa Ân cung, có mặt đông đủ bá quan văn võ. Hiên Viên Bạt ngồi dự một lát rồi cáo mệt xin về nghỉ. Biết nàng đã bệnh liệt giường hai trăm năm, mọi người cũng chẳng lấy thế làm lạ. Về đến tẩm cung, Hiên Viên bạt mới cảm thấy thư thái tinh thần, bèn cho tất cả thị nữ lui ra. Đang thay y phục, chợt thấy kẻ nào đó vươn tay toan siết chặt lấy eo lưng, nàng lập tức nghiêng mình tránh né, lật tay trả đòn rất nặng. “Là ta!” Lực đánh của nàng lập tức tiêu tan, thân thể bị Xi Vưu kéo vào lòng, chưa kịp nói năng gì, một nụ hôn dài mà mãnh liệt đã áp lên môi. Xi Vưu cười hỏi: “Sao ra tay tàn độc thế?” A Hành tựa vào lòng hắn, uể oải đáp: “Tuy Yến Long đã bị giam nhưng bọn Trung Dung vẫn nhởn nhơ bên ngoài. Dạo này nghe đồn định hành thích Thiếu Hạo nên tinh thần lúc nào cũng căng như dây đàn.” Xi Vưu thẳng thắn: “Nếu là Thiếu Hạo, ta sẽ giam quách hai mươi mấy huynh đệ đó lại, kẻ nào giữ lại được thì giữ, kẻ nào không giữ lại được thì giết, việc gì phải tạo thêm phiền toái ình như thế?” A Hành mỉm cười đáp: “Bởi vì người thiên hạ có gọi chàng là ma đầu hay không, chàng cũng chẳng để tâm, nhưng Thiếu hạo thì khác, y muốn làm một đế vương tốt. Dùng bạo lực có thể đoạt được thiên hạ, nhưng để trị vì thiên hạ lại phải dựa vào nhân hiếu lễ nghi, hơn nữa, sát nghiệp quá nặng cũng chẳng hay ho gì. Phải rồi, sao tự dưng chàng tới đây?” Xi Vưu áp đầu A Hành vào ngực, để nàng nghe được tiếng tim mình đập: “Nàng nghe thấy tiếng của nó không? Nó đang nói nhớ nàng đấy, thế còn nàng? Có nhớ ta không?” A Hành không đáp, chỉ níu lấy cổ Xi Vưu, ghì đâu hắn xuống hôn lên má. Xi Vưu hớn hở kéo A Hành lại phía cửa sổ: “Ta đưa nàng đi chỗ này.” Hai người vừa nhảy ra ngoài cửa sổ, đột nhiên Thiếu Hạo tươi cười bước vào tươi cười gọi: “A Hành, A Hành.” A Hành vội đẩy Xi Vưu một cái, hắn nhanh như chớp dán sát người vào bức tường bên song. Từ trong nhà nhìn ra, chỉ thấy mình A Hành đứng ngoài cửa sổ. “Sao chàng lại đến đây? Tiệc tan rồi à?” Nụ cười trong mắt Thiếu Hạo lan xuống khóe môi, “Chưa, ta lấy cớ đi tiểu lén chuồn ra đó.” “Có chuyện gì ư?” “Không có gì, chỉ tiện thể tới xem nàng thôi. Nàng mới chuyển vào ở đây có quen không?” “Còn thoải mái hơn ở Thừa Hoa điện ấy chứ. Trước đây đi đến đâu cũng bị cả đám cung nữ thị vệ lẳng nhẳng đi theo, giờ thì dễ chịu hơn nhiều rồi, cảm ơn chàng.” Thiếu Hạo cười nói: “Đám đại thần đó còn sợ chúng ta thiếu người hầu hạ, nào biết chúng ta đã được ‘hầu hạ’ đến phát khiếp lên rồi, người bên cạnh càng ít càng mừng!” Thấy Xi Vưu sốt ruột giật giật tay áo mình giục giã, nàng liền hỏi: “Chàng còn chuyện gì nữa không?” “Hết rồi, nàng nghỉ ngơi đi.” Thiếu Hạo quay gót trở lui. Ra khỏi cửa điện, đi được một quãng, y chợt dừng bước ngẩng đầu nhìn trời, nhưng bầu trời đêm thăm thẳm, nào thấy bóng ai? Trong tay áo rộng còn giấu vò rượu, vốn là cống phẩm từ một đảo nhỏ phía Nam dành riêng cho bữa tiệc hôm nay, được ủ từ trái dừa, cả thảy chỉ có hai vò, y uống một ngụm, cảm thấy mùi vị rất đặc biệt, khác hẳn những thứ rượu từng uống khi trước, bèn nhân lúc mọi người không để ý, lén trộm lấy một vò định mang tặng cho A Hành. Y trở gót quay lại, thấy đám thị nữ đang gà gật bên hành lang. Thiếu Hạo khẽ khàng bước vào tẩm điện, nhưng chỉ còn phòng trống, người đã đi rồi. Cửa sổ mở toang, gió lùa vào phòng, thổi phần phật cánh màn. Y lặng lẽ đặt vò rượu dừa lên đầu giường nàng, khép cửa sổ lại rồi bước ra khỏi điện. Tiêu Dao bay khoảng hai canh giờ thì đỗ lại Thần Nông sơn, Xi Vưu nắm tay A Hành nhảy xuống. A Hành thảng thốt nhìn về phía đỉnh Tiểu Nguyệt, bao chuyện cũ vẫn như đang sờ sờ trước mắt, tựa hồ nàng mới từ biệt Viêm Đế hôm qua. Thực tế thì hài cốt Viên Đế chắc đã mục dưới mồ. “Sao lại đưa ta đến đây?” Xi Vưu trỏ sơn cốc đối diện, A Hành căng mắt nhìn kỹ mới lờ mờ trong thấy một đoàn người. “Đêm nay Chúc Dung xuất quan, mấy kẻ nàng thấy kia là tùy tùng của hắn. Chắc người của Hậu Thổ và Cộng Công cũng nấp đâu đó, âm thầm bảo vệ hắn.” “Chàng định làm gì?” “Không phải là định làm gì, mà là nàng muốn làm gì?” “Hả?” Xi Vưu quàng tay ôm lấy nàng từ phía sau, tì cằm lên vai A Hành, “Nàng có muốn lấy mạng Chúc Dung không?” “Khỏi đi.” A Hành quay lại, nắm lấy tay hắn, “Đừng bức bách đám danh gia vọng tộc đó quá đáng. Tuy hiện giờ chúng sa sút nhưng chúng có nền tảng mấy vạn năm ở Thần Nông, chàng chỉ thấy cành là héo khô trên mặt đất, chứ không biết được cội rễ dưới đất sâu đến chừng nào.” “Một là không làm, hai là làm đến cùng, diệt cỏ phải diệt tận gốc!” A Hành toan khuyên nữa, nhưng nghĩ đi nghĩ lại vẫn còn Du Võng ở đó, nàng không cần phải quá lo. Viêm Đế năm xưa hẳn đã lường trước sự hung tàn của Xi Vưu nên mới cố ý dùng tính tình ôn hòa của Du Võng để trung hòa bớt. Xi Vưu lại kéo A Hành lên lưng Tiêu Dao, bay về phía Cửu Lê, “Nàng đã không muốn giết Chúc Dung thì chúng ta về Cửu Lê, đào một vò Ca tửu của Mê Đóa ủ lên uống.” Đột nhiên ánh sáng từ đâu bùng lên rực rỡ, từng đoạn hồng quang tỏa khắp đất trời. A Hành và Xi Vưu chẳng hẹn mà cùng ngoảnh lại, thấy cả dãy Thần Nông sơn chạy dài ngàn dặm phủ kín bởi hồng quang, như thể hai mươi tám ngọn núi đều biến thành lò lửa. A Hành ngẩn người nhìn, lẩm bẩm: “Có lẽ giờ đây Chúc Dung mới xứng được gọi là Hỏa Thần.” Cũng như A Hành, Xi Vưu rất kinh ngạc trước thần lực của Chúc Dung. Có điều xưa nay hắn chẳng biết lo nghĩ là gì, cứ phởn phơ cười, kéo gương mặt nàng lại gần: “Này, đêm xuân ngắn ngủi, từ giờ trở đi, trong mắt nàng, trong lòng nàng chỉ được có mình ta thôi đó.” A Hành đăm đăm nhìn hắn, không khỏi bật cười. Có lẽ ngay từ đầu nàng đã yêu tính tình ngông cuồng ngạo ngược này của hắn, dẫu trời long đất lở cũng chẳng buồn quan tâm. Hồng quang rợp trời, chấn động cả đại hoang, nhưng trong mắt hắn chỉ có nàng, trong mắt nàng cũng chỉ có hắn.
|
Q.2 - Chương 5: Gió Đông Bắc, Hoan Tình Nhạt Nhẽo (1) A Hành thoáng vẻ ngượng ngùng, nhưng giọng nói vẫn rất kiên quyết, “Thiếp đã hứa với Xi Vưu rằng sẽ ở bên hắn, hắn đi đâu thì thiếp đi đó.” Câu nói hằng ấp ủ trong lòng cuối cùng cũng có thể đường đường chính chính nói ra, nàng thấy người nhẹ nhõm hẳn, như vừa trút bỏ được một tảng đá, cảm giác hết sức thản nhiên tự tại, bất kế kết quả ra sao. [1] Trích trong bài từ Thoa đầu phượng của Lục Du (1125-1209). (ND) Ở Thần Nông, Chúc Dung vừa xuất quan đã hiển lộ thần lực khiến cả thiên hạ kinh hoàng. Hơn hai trăm năm nay, dưới bàn tay sắt của Xi Vưu, các danh gia vọng tộc dần dần sa sút, bơ vơ vất vưởng, mãi đến giờ, nhờ có Chúc Dung như cứu tinh, chẳng mấy chốc đã tạo nên một lực lượng không thể coi thường, chống đối lại Xi Vưu. Tại Cao Tân, sau khi đăng cơ, Thiếu Hạo hết sức nôn nóng muốn cải tổ mọi thứ, nhưng y biết mình không thể đi theo con đường của Xi Vưu, bởi y và hắn xuất thân khác nhau. Lực lượng chủ yếu ủng hộ y là đám quý tộc trẻ nắm giữ binh quyền, bọn họ nhận ra nguy cơ Cao Tân, mong mỏi Cao Tân giàu mạnh hơn, nhưng không thể chấp nhận công cuộc cải cách mạnh mẽ, hủy diệt lợi ích gia tộc của họ. Bởi thế, Thiếu Hạo đành lựa chọn phương pháp thay đổi từ từ. Về phía Hiên Viên, Hoàng Đế ẩn nhẫn mấy ngàn năm, cuối cùng cũng cất lên tiếng kèn đưa quân Đông tiến, chính thức tấn công Thần Nông tộc, giành được thắng lợi liên tiếp, chẳng những thu lại được đất đai bị xâm chiếm hai trăm năm trước, mà còn hạ liền một lúc sáu tòa thành của Thần Nông. Tin Hiên Viên chiến thắng liên tiếp báo về khiến Du Võng đứng ngồi không yên, thậm chí Thiếu Hạo cũng thấp thỏm lo lắng. Y biết Hiên viên vẫn luôn che giấu thực lực nhưng chẳng ngờ thực lực ấy lại hùng mạnh đến vậy, ít ra thì Cao Tân cũng không thể liên tiếp hạ sáu thành của Thần Nông như thế. Thêm vào đó, còn một việc mà y vắt óc nghĩ mãi không ra, tại sao Hoàng Đế lại ồ ạt động binh đúng vào thời điểm này? Rõ ràng ông ta có thể khoanh tay đứng ngoài để Chúc Dung và Xi Vưu đấu đá lẫn nhau cho tới khi đôi bên đều tổn thất thì ra tay làm một mẻ cơ mà. Hiên Viên Hoàng Đế đã nhẫn nhịn mấy ngàn năm nay, sao bây giờ lại vội động binh? Vì đế vị thay đổi, lại thêm chiến tranh giữa Hiên Viên và Thần Nông đột ngột bùng nổ, Nặc Nại bèn chủ động dâng thư hỏi ý Thiếu Hạo xem có phải lùi ngày cưới của mình và Vân Tang không. Thiếu Hạo cân nhắc kỹ lưỡng, suy nghĩ rất lâu rồi hạ chỉ: Hôn lễ vẫn cử hành đúng hạn. Lòng A Hành ngổn ngang muôn mối, lần trước Xi Vưu tới gặp nàng đã thẳng thắn đề nghị nàng rời xa Thiếu Hạo, có điều hiện giờ Hiên Viên vừa tuyên chiến với Thần Nông, tuy Đại ca và Xi Vưu chưa trực diện giao phong nhưng nếu phụ vương muốn Đông tiến, sớm muộn gì bọn họ cũng gặp nhau trên chiến trường. Nàng xin Thiếu Hạo cho phép mình đi vắng ít ngày, y cũng chấp thuận. Bây giờ tình thế đã khác xưa, chẳng ai giám sát nhất cử nhất động của họ nữa, về phần nghi lễ cung đình, Thiếu Hạo chỉ cần làm một con rối đặt lên giường là xong, dù sao cả thiên hạ cũng biết vương phi ốm yếu lắm bệnh. A Hành đem theo A Tệ và Liệt Dương bay đến Nhược Thủy. Đây là lần đầu tiên nàng đến thăm đất phong của Tứ ca. Tuy nơi này trập trùng núi biếc, nhưng thế núi không được nguy nga như phương Bắc, lại thêm bao nhiêu ao hồ sông suối lượn quanh khiến phong cảnh đượm phần tú lệ. Đến phủ của Xương Ý, nàng đã cố ý tránh bọn lính canh, định để cho Tứ ca bất ngờ. Trong khoảng sân nho nhỏ trồng hai gốc nhược mộc đang kết nụ, từng nụ hoa đỏ hồng chúm chím trên cành chẳng khác nào gọn đèn lồng lộng lẫy. Xương Ý khoác tấm áo thiên thanh nghiêng mình ngồi trước song cửa lục lăng, dung mạo ôn hòa, nụ cười còn động trên môi. Xương Phó vận chiếc váy hoa đỏ rực, tựa vào người Xương Ý tập thổi tiêu, thổi chưa được mấy câu đã vấp. Xương Ý chỉ cười cầm lấy cây tiêu, biểu diễn lại một lần rồi nhẹ nhàng hướng dẫn thê tử. Tập đi tập lại mấy lần, cuối cùng Xương Phó cũng thổi mạch lạc được một khúc, bèn nhảy cẫng lên cười vang: “Thiếp biết thổi tiêu rồi nhé!” Chiếc váy hoa đỏ rực soi vào đôi mắt tràn đầy hạnh phúc của Xương Ý. Xương Phó xoay tròn quanh y, khẽ hôn lên môi y, tươi cười rạng rỡ, trong khi y đỏ mặt vì thẹn, đưa mắt liếc cửa sổ theo phản xạ. Xương Phó dịu dàng an ủi: “Không sao đâu, hôn nhiều nhiều mới tình cảm chứ, hôn mãi thành quen, sau này dù đứng trước mặt toàn tộc chàng cũng chẳng ngại nữa đâu!” Nàng an ủi như thế còn tệ hơn không an ủi, Xương Ý đỏ mặt tía tai, cau mày mắng: “Chẳng đứng đắn gì cả!” A Hành chứng kiến từ đầu đến cuối, không nhịn được phì lên cười. Xương Phó biến sắc, chỉ thấy hàn quang lóe lên, nàng nhanh như chớp, bước đến trước mặt A Hành. “Tứ tẩu, là muội, là muội đây mà.” A Hành la lên. Xương Phó vội xoay người, thu chủy thủ lại, “Sao muội lại đến đây?” A Hành nháy mắt: “Muội đến nghe hai người thổi tiêu.” Xương Phó mặt dày mày dạn, chẳng hề lấy làm thẹn thùng, chỉ có Xương Ý đỏ mặt mắng: “Đến chẳng gọi người thông báo, lại nấp bên ngoài rình lén, càng ngày càng không ra sao cả!” A Hành le lưỡi với Xương Phó, cả hai cùng cười. Xương Ý bó tay, đành giận dỗi cầm sách lên đọc, mặc kệ cả hai. Xương Phó gọi thị nữ lại, sai lo liệu bữa tối, còn căn dặn nhất định phải chuẩn bị thật nhiều rượu. Đợi rượu và đồ nhắm bưng lên, ba người quây quần bên bàn, vừa uống rượu vừa trò chuyện. Xương Ý hỏi A Hành: “Giờ muội là vương phi của Cao Tân rồi, sao nói đi là đi ngay thế?” “Thiếu Hạo bao che uội mà, y nói được, ai dám nói không chứ?” Xương Phó cười: “Thiếu Hạo đối tốt với muội ghê.” Xương Ý lạnh lùng: “Hạng người đó có ưu điểm là kỹ lưỡng tỉ mỉ, chăm sóc chu đáo, nhưng chỉ trong mấy việc lặt vặt thôi, hễ động tới lợi ích bản thân, chúng còn tuyệt tình hơn ai hết.” Xương Phó lại hỏi: “Tiểu muội, muội và Xi Vưu rốt cuộc là sao thế?” Mặt A Hành đỏ dừ, “Lần này muội đến chính là muốn bàn bạc với Tứ ca Tứ tẩu. Muội và Xi Vưu… đã cùng nhau từ lâu rồi.” Dứt lời, nàng hồi hộp nhìn Tứ ca Tứ tẩu, đợi phản ứng của bọn họ. Xương Ý nghe xong vẫn bình thản như thường, chẳng hề lộ vẻ ngạc nhiên, còn Xương Phó lại bật cười khì, “Ta biết ngay mà! Tiểu muội ngoài lạnh trong nóng, phải có một ngọn lửa phừng phừng thiêu hủy lớp vỏ ngoài của muội để muội lộ nguyên hình, cả hai cùng cháy lên hết mình mới được. Gã Xi Vưu đó còn đáng sợ hơn lửa, đúng là hợp với tiểu muội! Thiếu Hạo chính ra lại không ổn, nhìn bề ngoài có vẻ ôn hòa, thực tế còn lạnh lùng hơn Đại ca.” A Hành nóng bừng hai má, lí nhí: “Xi Vưu bảo muội đi theo hắn, Thiếu Hạo cũng đã hứa với muội, muội có tư cách thoát thân, nhưng xem ra tình thế hiện giờ, chỉ e sớm muộn gì Đại ca và Xi Vưu cũng phải giao chiến, muội thật chẳng biết tính sao nữa cả. Xương Ý cau mày trầm tư còn Xương Phó thở dài, khuyên: “Nam nhân bọn họ muốn đánh đánh giết giết thì cứ mặc cho bọn họ đánh đánh giết giết, dù thắng dù thua, bọn họ cũng mãn nguyện. Bản thân họ không oán không hối, muội tội gì phải nghĩ ngợi nhiều? Có nghĩ nát óc cũng không cởi được gút mắc này đâu.” “Tứ tẩu, nếu là tẩu, tẩu sẽ làm sao?” “Kiếp người ngắn ngủi, ta sẽ lập tức đi tìm Xi Vưu! Nếu muội thật lòng yêu hắn, hẳn có thể vì hắn mà vứ bỏ tất cả mọi thứ. Nếu hắn thật lòng yêu muội, đương nhiên cũng sẽ nghĩ uội, không đến nỗi ép muội vào đường cùng đâu!” Xương Ý gượng cười nhìn thê tử: “Xi Vưu mua chuộc nàng từ bao giờ thế?” “Không phải mua chuộc, là thiếp ngửi ra được thôi, trên người hắn có mùi giống như bọn thiếp.” Xương Phó đưa tay chỉ dãy núi xanh biếc trập trùng ngoài song cửa, “Hắn cũng sinh ra từ núi rừng mà.” Xương Ý nói: “Sự tình đâu có đơn giản như thế.” Xương Phó gượng cười, thở dài nói với A Hành và Xương Ý, “Đó chính là điểm khác biệt giữa bọn ta với các vị, đối với bọn ta, mọi thứ đều hết sức đơn giản, nếu không biết phải làm sao thì chỉ cần nghe theo trái tim mình là đủ.” Nàng chỉ vào lồng ngực mình, “Người già trong tộc từng nói, tiếng tim đập chính là âm thanh chân thực nhất trên đời. Xương Ý, hẳn chàng cho rằng em gái mình yêu Xi Vưu thật là đáng thương, nhưng kỳ thực Xi Vưu yêu tiểu muội còn đáng thương hơn! Hắn phải ra sức kiềm chế dục vọng của mình, học cách thông cảm và thấu hiểu cho sự do dự và đắn đo của tiểu muội, đồng thời cũng chiều theo cách hành xử của muội ấy.” Xương Ý liếc Xương Phó, như cười mà chẳng phải cười, “Cái gì mà chàng thế này ta thế khác? Thế nàng có đáng thương không?” Xương Phó chợt đỏ bừng hai má, hạ giọng nói thật nhanh: “Thiếp rất vui… Thiếp rất hạnh phúc mà…” A Hành thấy thế che miệng cười thầm, đúng là vỏ quýt dày có móng tay nhọn. Xương Ý lại quay sang hỏi nàng: “Muội đã có tính toán gì chưa?” A Hành đáp: “Muội muốn hỏi ý kiến huynh.” “Trước đây ta từng nói đấy thôi, muội là muội muội duy nhất của ta, dù muội có làm gì đi nữa, ta cũng hết lòng ủng hộ, nếu phụ vương và Đại ca không chúc phúc uội thì còn có ta và mẹ kia mà.” Thấy A Hành rơm rớm nước mắt, Xương Ý mỉm cười dỗ dành: “Muội đừng lo, ta không ra trận, cũng chẳng hứng thú với việc giao tranh. Tuy ta không thể khuyên can phụ vương đừng tranh đoạt thiên hạ nhưng ít ra ta cũng không để các dũng sĩ Nhược Thủy trở thành xương trắng lót đường cho phụ vương bước lên vương tọa đâu. Bọn họ phải được sống bên người mình thương mến, cùng nhau sinh con đẻ cái đến đầu bạc răng long.” Thấy A Hành gật gật đầu, Xương Phó cười trêu nàng, “Được rồi, tiểu nha đầu muội trốn theo tình lang thì mau thu dọn hành lý đi, không cần lo chúng ta đối đầu với tình lang muội trên chiến trường đâu.” A Hành tươi cười đứng dậy, “Vậy muội đi đây.” “Muội không muốn nán lại một đêm ư?” “Thôi, mười ngày tới là hôn lễ của Nặc Nại và Vân Tang rồi, Thiếu Hạo giao uội phụ trách chuẩn bị, chắc đây là công việc cuối cùng của muội tại Cao Tân. Vì Vân Tang, muội không thể để sơ sẩy điều gì được.” Tiễn nàng ra cửa, Xương Ý còn cười nói: “Năm xưa khi Vân Tang còn ở Triêu Vân phong, ta từng lén bảo mẹ xui Đại ca cưới Vân Tang tỷ tỷ làm Đại tẩu. Mẹ cũng xiêu xiêu, nói rằng cứ mặc cho hai người bọn họ ở bên nhau, thuận theo tự nhiên. Tiếc rằng sau đó Tinh Vệ chết đuối ở dưới Đông Hải, Vân Tang chỉ ở Triêu Vân phong mười năm đã phải vội quay về Thần Nông sơn. Mà trong mười năm đó, Đại ca chẳng về Triêu Vân phong lần nào, hai người bọn họ còn chưa có dịp gặp mặt. Nếu họ gặp nhau một lần, không chừng hỷ sự này lại rơi vào nhà ta ấy chứ.” A Hành bật cười theo: “Tiếc thật tiếc thật.” Vừa nói tới đó đã thấy A Tệ và Liệt Dương đỗ xuống sân đón nàng. Từ sau khi “sống lại”, Liệt Dương đối với ai cũng tỏ vẻ lạnh lùng, thù địch, chỉ riêng với Xương Ý là khác, thậm chí còn hành lễ với Xương Ý. Xương Ý dặn nó: “Ta đã tra cứu điển tịch, theo lý thì chỉ Yêu tộc một khi có thể biến hình, sẽ có khả năng hóa thành người trưởng thành, nhưng mày thì khác, mày hấp thụ sức mạnh của Ngu uyên, linh khí biến đổi, sinh ra biến hình sớm nên chỉ có thể hóa thành trẻ con. Mày đừng nôn nóng, cứ yên tâm tu hành, từ từ thân hình sẽ cao lên.” A Hành phì cười xoa đầu Liệt Dương, “Ai da, thì ra Liệt Dương công tử của chúng ta sợ rằng sẽ phải làm đứa nhỏ cả đời.” Liệt Dương hậm hực gạt tay nàng ra, “Đừng coi ta như trẻ con chứ!” A Hành chẳng thèm để tâm đến thái thái độ của nó, trái lại còn thừa cơ véo đôi má trắng nõn: “Mày đúng là một chú nhóc mà!” Nói rồi trước khi Liệt Dương kịp phát khùng, nàng liền ôm cổ A Tệ bay vút đi, “Tứ ca, Tứ tẩu, muội đi đây.” Liệt Dương giận dữ giậm chân một cái, biến lại nguyên hình rồi vừa quang quác chửi rủa vừa vỗ cánh đuổi theo. Xương Ý nhìn theo bóng A Hành xa dần, giơ tay vẫy vẫy. Xương Phó nép người bên khung cửa tươi cười nhìn phu quân, ánh mắt chan chứa tình nồng. Sau khi lên ngôi, Thiếu Hạo đã lấy lại nửa mảnh Hà Đồ Lạc Thư từ chỗ Tuấn Đế, chuyên tâm nghĩ cách phá giải, nhưng bất kể thử thế nào cũng vô dụng. Hà Đồ Lạc Thư chỉ có nửa mảnh thì chẳng khác nào phế vật. Rốt cuộc trong Hà Đồ Lạc Thư ẩn giấu bí mật kinh thiên động địa gì? Tại sao các Thần tộc từ thời thượng cổ đều truyền tụng nhau về nó, coi trọng nó đến vậy? Thiếu Hạo bất lực thở dài, thu dọn mọi thứ lại, đoạn ra khỏi mật thất. A Hành chẳng biết về tự khi nào, đang đợi y trong đại điện. Nhìn nàng gục đầu xuống án thư thiêm thiếp ngủ, hẳn đã phải đợi khá lâu. Thiếu Hạo mỉm cười, lấy áo mình khoác lên vai nàng rồi dẹp hết văn thư tấu chương qua một bên, ngồi lui vào góc phòng, bắt đầu giở ra xem. Xem xét mãi đến nửa đêm, nghe chừng thấm mệt, y bèn đặt tấu chương xuống, nhắm mắt dưỡng thần. Thừa Ân điện hiện nay rất vắng người, bởi thế tuy ban ngày tĩnh mịch trang nghiêm nhưng đêm xuống lại im lìm như chết. Giữa đêm khuya thanh vắng, tiếng tí ta tí tách của đồng hồ nước nghe vang vang như thể khắp nơi trong tòa cung điện mênh mông này đều có hồi âm vọng lại. Thảng hoặc y cũng nghĩ, có khi nào phụ vương sợ nghe tiếng vọng quạnh quẽ của chiếc đồng hồ nước, nên mới cho tấu đàn thổi sáo suốt ngày hay không? Vậy mà đêm nay, y chẳng hề nghe thấy âm thanh lạnh lẽo đó. A Hành đi đường xa đã mệt, lại phải nằm sấp mà ngủ nên cả người dâm dấp mồ hôi, hơi thở dồn dập, càng tăng thêm vẻ thơ ngây đáng yêu của nàng. Thiếu Hạo chống cằm say sưa ngắm nàng, khóe miệng hé lộ nụ cười. A Hành chợt động cựa rồi mơ màng mở mắt, trông thấy Thiếu Hạo, nàng thoáng bối rối, vội cau mày cố nhớ xem mình đang ở đâu, dáng vẻ hệt như một chú mèo lười biếng. “Thiếp ngủ quên mất, sao chàng không gọi dậy?” Thiếu Hạo cười, “Có sao đâu, ta cũng phải xem tấu chương mà.” A Hành đưa chiếc áo khoác trên người lại cho y, “Thiếp có chuyện muốn nói với chàng.” “Nàng cứ nói đi.” “Chàng còn nhớ giao ước giữa hai chúng ta hồi mới cưới không? Chàng đã thực hiện được ba điều, chỉ còn một điều nữa thôi.” Thiếu Hạo rúng động cả cõi lòng, khẽ gật đầu, “Ta nhớ chứ, nàng giúp ta đăng cơ, ta để nàng được tự do lựa chọn, đi hay ở là tùy nàng.” “Giờ chàng đã đăng cơ, thiếp được tự do lựa chọn rồi chứ?” Bàn tay Thiếu Hạo giấu trong tay áo khẽ siết lại thành quyền, “Nàng nói đi.” “Thiếp muốn đi.” “Nàng định đi đâu?” A Hành thoáng vẻ ngượng ngùng, nhưng giọng nói vẫn rất kiên quyết, “Thiếp đã hứa với Xi Vưu rằng sẽ ở bên hắn, hắn đi đâu thì thiếp đi đó.” Câu nói hằng ấp ủ trong lòng cuối cùng cũng có thể đường đường chính chính nói ra, nàng thấy người nhẹ nhõm hẳn, như vừa trút bỏ được một tảng đá, cảm giác hết sức thản nhiên tự tại, bất kế kết quả ra sao. Thấy Thiếu Hạo cau mày trầm tư, A Hành nôn nóng bồi thêm, “Đây là giao ước giữa chúng ta đó! Giờ chàng đã thành vua một nước, tuy yêu cầu này có phần hoang đường, nhưng chẳng gây thiệt hại gì cho dân chúng Cao Tân, cũng không ảnh hưởng gì đến an nguy của chàng cả, dựa vào cơ trí và tài năng của mình, chàng hoàn toàn có thể sắp xếp ổn thỏa kia mà.” Thiếu Hạo mỉm cười: “Nàng đừng nóng, ta đã hứa thì nhất định sẽ thực hiện. Chỉ là ta đang nghĩ nên làm thế nào thôi.” A Hành nghe vậy mới thở phào. Thiếu Hạo nói tiếp: “Cuộc hôn nhân của chúng ta thực chất là đại diện ối liên minh giữa hai bộ tộc. Hiện giờ Hoàng Đế đang tiến hành đánh Thần Nông, chắc chắn không muốn phá vỡ liên minh, còn ta vừa mới đăng cơ, đế vị chưa vững, cũng chẳng thể hủy bỏ liên minh này.” “Thiếp hiểu, mẹ và đại ca thiếp cũng không muốn phá vỡ mối liên minh này.” Thiếu Hạo ngẫm nghĩ, “Ta định nhận Xương Phó, Tứ tẩu của nàng làm muội muội, dùng đại điển long trọng nhất sách phong nàng ta làm vương cơ Cao Tân, như vậy có nghĩa là, qua Xương Phó và Xương Ý, ta và Hoàng Đế vẫn giữ mối thông gia với nhau, đồng thời làm tăng thêm giá trị của Xương Phó và Xương Ý trong lòng Hoàng Đế, dù sau này Hoàng Đế có giận nàng, cũng không đến nỗi trút giận lên Tứ ca và mẫu hậu nàng.” Thiếu Hạo quả là nhân tài xuất chúng, thoáng chốc đã nghĩ ra giải pháp vẹn cả đôi đàng thế này. A Hành mừng khôn tả xiết, luôn miệng cảm ơn y rối rít. Thật ra, trong lòng Thiếu Hạo còn ấp ủ một kế hoạch quan trọng hơn, nếu Thanh Dương có thể thuận lợi đăng cơ thì dù A Hành có muốn đi hay ở đều có thể giải quyết ổn thỏa, chỉ là hiện giờ y không thể tiết lộ với nàng, nhất định phải vỗ yên A Hành, tranh thủ thời gian giúp Thanh Dương giành được đế vị. Thiếu Hạo đề nghị: “Cho ta chút thời gian để sắp xếp, được không? Kỳ thực Thanh Dương thương nàng hơn ai hết, hai người bọn ta chắc chắn sẽ trả lại tự do cho nàng.” A Hành đang mừng rỡ, liền đồng ý ngay: “Một lời đã định chứ?” “Một lời đã định!” Thiếu Hạo phóng mắt ra ngoài cửa sổ, nhìn lên bầu trời đêm thăm thẳm không một ánh sao. Giờ đây Thanh Dương đang làm gì? Hoàng Đế đã bắt đầu “sinh bệnh” hay chưa? Chỉ cần Thanh Dương đăng cơ thì việc trả tự do cho A Hành dễ như trở bàn tay.
|
Y còn dặn thêm: “Trong thời gian chuẩn bị rời khỏi Cao Tân này, nàng có thể tự do ra vào Ngũ Thần sơn nhưng đừng để Xi Vưu lên đây nữa, đám thị vệ đã đổi trận pháp mới rồi.” A Hành đỏ mặt thẹn thùng, khẽ đáp: “Vâng, thiếp về nghĩ đây.” Tiếng vạt áo loạt xoạt xa dần rồi mất hẳn. Thiếu Hạo vẫn ngồi lặng bên bàn, hồi lâu chẳng hề cử động. Trong đêm tối, tấm màn xanh biếc như nước tỏa ra lam quang lành lạnh, đồng hồ nước vẫn tí tách đều đều, âm vang, văng vẳng giữa đại điện mênh mông. Tí tách, tí tách, tí tách… Được Thiếu Hạo dốc sức ủng hộ, lại có A Hành dày công bố trí, hôn lễ đã được chuẩn bị đâu ra đó, chỉ đợi đến giờ lành ngày mai, Nặc Nại sẽ dẫn đội rước dâu đích thân tới biên giới giữa Cao Tân và Thần Nông đón Vân Tang. Tối hôm đó, Nặc Nại bị An Dung, An Tấn cùng cả đám bạn bè quây lấy trêu chọc, ồn ào đến nửa đêm, khó khăn lắm mới giản tán được bọn họ. Có điều lòng cứ rộn rã hân hoan, y không sao ngủ nổi, bèn trở dậy kiểm tra lại hành trang thật kỹ, nhất định phải dành cho Vân Tang một hôn lễ hoàn mỹ nhất. Trời còn chưa sáng, A Hành đã dậy rửa mặt chải đầu, vận cung trang rồi cùng Thiếu Hạo tới tiễn Nặc Nại. Vừa đến nơi, Nặc Nại đã mũ áo chỉnh tề, phấn chấn đứng đợi, dường như chỉ nôn nóng muốn lên đường lập tức. Thấy vậy, Thiếu Hạo bèn chọc ghẹo y vài câu, khiến cả đám huynh đệ đứng đó cười rộ lên. Đoàn người rầm rộ tiến thẳng ra ngoại thành, bọn An Tấn còn xoa tay bàn mưu náo loạn động phòng một trận ra trò. Đột nhiên một tiếng thét thất thanh vang lên, dàn nhạc hỷ đang véo von chợt ngưng bặt. Nhóm đi đầu đứng lại, nhưng mọi người ở phía sau vẫn tiến lên, khiến cả đội ngũ nhất thời rối loạn. Chưa cần biết phía trước có chuyện gì, An Dung lập tức quát gọi người bảo vệ Tuấn Đế, sợ trong lúc hỗn loạn lại xảy ra biến cố. Tức thì, đám thị vệ đang ẩn náu xung quanh rào rào rút binh khí, bóng đao ánh kiếm lạnh ngắt xói vào mắt A Hành, khiến nàng hoảng hốt đưa mắt tìm Thiếu Hạo. Thiếu Hạo nắm chặt lấy tay nàng, cao giọng lệnh cho tất cả mọi người đứng yên đợi lệnh. Giọng nói uy nghiêm trầm tĩnh của y đã trấn áp được cả đoàn, mọi người dần ổn định trật tự. Thiếu Hạo nắm lấy tay A Hành bước lên trước, đoàn người tự động giãn ra, nhường đường cho họ. Dần dần, bọn họ trông thấy thành lâu. Cổng thành mở toang, trước cổng giăng đèn kết hoa, chính giữa cổng treo lủng lẳng một thi thể phụ nữ. Nàng ta ăn vận theo lối phục sức của tân nương cung đình Cao Tân, mình khoác áo cưới đỏ rực, đầu đội mũ phượng lộng lẫy, quay mặt về phía đội rước dâu. Gió sớm khiến thi thể nàng lắc lư lay động, hệt như người sống, đang đợi tân lang của mình tới đón đi. Nhận ra thi thể này chính là Khấp Nữ, A Hành thét lên kinh hãi, suýt nữa ngất xỉu, Thiếu Hạo phải giơ tay đỡ lấy nàng. Nặc Nại đứng phía sau mặt mày tái nhợt, trừng ngừng nhìn thi thể Khấp Nữ. An Tấn luôn miệng phỉ phui, sai binh lính hạ thi thể xuống rồi quay sang khuyên giải an ủi Nặc Nại: “Chỉ là một tỳ nữ, đừng vì chuyện này mà buồn rầu, làm ảnh hưởng đến hôn lễ”, đoạn sa sả chửi rủa: “Con tiện tỳ khốn kiếp, dám làm ra chuyện động trời, hỏng mất cả ngày vui.” Thường Hy bộ xưa nay đều dùng phượng làm dấu ấn, hỷ phục của Khấp Nữ lại thêu chim phượng, mũ đội đầu cũng là mũ phượng, đều mang dấu ấn của Thường Hy bộ, đủ thấy thân phận của ả chẳng tầm thường chút nào. An Dung vội giật giật áo An Tấn, ra ý ngăn hắn đừng rủa sả Khấp Nữ nữa. Nặc Nại bước tới trước mặt Thiếu Hạo, chỉ vào thi thể Khấp Nữ dưới đất, vặn hỏi: “Rốt cuộc nàng ta là ai?” Thiếu Hạo thoáng trầm ngâm, “Ta tưởng nàng là thị nữ ngươi nhặt về.” Nghe hai người một hỏi một đáp, A Hành cảm giác hình như bọn họ đều đã biết thân phận của Khấp Nữ, nhưng vẻ mặt cả hai khiến nàng lạnh toát người, chẳng còn lòng dạ nào tìm hiểu lai lịch ả nữa. Nàng muốn la lên bảo Nặc Nại, mặc kệ chuyện đó, mau đi rước dâu đi, Vân Tang đang đợi ngươi! Nhưng Khấp Nữ nằm kia vẫn đang mở to mắt lặng lẽ nhìn nàng, khiến nàng không sao cất nên lời. Nặc Nại khàn khàn hỏi lớn: “Có ai từng gặp cô gái này chưa? Ai biết thân phận của cô ấy là gì không?” Hồi lâu mới thấy một phụ nữ trang điểm lộng lẫy run rẩy bước ra hành lễ với Thiếu Hạo và Nặc Nại, “Thiếp thân học đòi kim chỉ, cũng có chút danh tiếng, từng tới Thường Hy bộ dạy mấy vị tiểu thư may vá thêu thùa, vị này chính là Băng Nguyệt tiểu thư của Thường Hy bộ, phụ thân cô ấy chính là cậu ruột của Nhị điện hạ.” Gương mặt Nặc Nại thoát trắng bệch, y từ từ ngồi thụp xuống, hồn xiêu phách lạc nhìn Băng Nguyệt vận y phục đỏ rực, ánh mắt đầy hổ thẹn và áy náy. Thường Hy bộ, Yến Long? A Hành dần hiểu được lại lịch của Khấp Nữ, thì ra đó chính là cô gái từng có hôn ước với Nặc Nại, cái tên Khấp Nữ hẳn là vì bị Nặc Nại ruồng rẫy mà khóc khô nước mắt. Có điều trước đây Nặc Nại và cô ta chưa từng gặp nhau, dù ngưỡng mộ dung mạo và tài hoa của y rồi bị y phũ phàng từ hôn, cũng đâu đến nỗi phải lao tâm ẩn náu bên y suốt hai trăm năm, để cuối cùng yêu y tha thiết, đành dùng cái chết phản đổi hôn sự này. Thấy đôi môi anh đào của Bạch Nguyệt hơi he hé như đang ngậm vật gì đó, Nạc Nại liền nhẹ nhàng vạch miệng cô, lập tức một miếng bạch ngọc rơi xuống tay y, cặp mắt cô cũng theo đó mà khép lại, tựa hồ đã nói hết điều cần nói, từ nay yên lòng ra đi. Nặc Nại run lẩy bẩy, nắm chặt lấy miếng ngọc, trừng trừng nhìn Thiếu Hạo, thét lên: “Năm xưa rốt cuộc ngươi đã làm gì để ép Thường Hy bộ hủy bỏ hôn ước hả?” An Dung vội túm lấy chặt tay Nặc Nại, đẩy cho An Tấn giữ, rồi quỳ xuống dập đầu thỉnh tội với Thiếu Hạo, “Nặc Nại bi thương nôn nóng quá độ, nói năng không biết giữ gìn, xin bệ hạ niệm tình tha cho tội bất kính.” Đột nhiên từ đằng xa vang lên tiếng la thét và khóc than, xem ra Thường Hy bộ đã nghe ngóng được tin, đang dẫn người đuổi tới. Kẻ nào đó còn cao giọng la lớn: “Giết chết Nặc Nại! Bắt hắn đền mạng cho tiểu thư!” An Dung vội tâu: “Băng Nguyệt là biểu muội của Yến Long và Trung Dung, lại bị Nặc Nại từ hôn, e rằng chuyện này đã bị Trung Dung lợi dụng, gây ra đại loạn. Để bảo đảm an toàn, xin mời bệ hạ và vương phi lập tức về cung.” Thiếu Hạo gật đầu, “Để bảo đảm an toàn cho Nặc Nại, đưa cả hắn về Thừa Ân cung cùng chúng ta.” Cả đoàn người vội vã trở về Thừa Ân cung. Thiếu Hạo cho tất cả thị vệ lui ra, chỉ để lại mình, A Hành và Nặc Nại, rồi lẳng lặng nhìn y chờ đợi. Nặc Nại cầm mảnh bạch ngọc đặt xuống trước mặt Thiếu Hạo, chất vấn: “Bệ hạ học thức uyên bác, hẳn biết rõ thứ này là gì? Vì sao Băng Nguyệt tiểu thư phải ngậm nó mà tự vẫn chứ?” A Hành trân trân nhìn miếng ngọc trắng tinh thuần khiết trên bàn, sực nhớ tới một câu chuyện lưu truyền trong đám khuê các ở Cao Tân. Chuyện kể rằng có cô gái đã có hôn ước nhưng cha mẹ cô thèm muốn quyền thế, ép con gái cải giá. Trước ngày đại hôn, cô gái tiết liệt đó tự ví mình như bạch ngọc, trong trắng tinh khiết, quyết không thể làm hoen ố, bèn nắm lấy miếng ngọc trắng mà hôn phu khi trước tặng, nhảy xuống sông mà chết. Từ đó, khi nữ tử Cao Tân xuất giá, thường nắm một miếng bạch ngọc trong tay, tượng trưng cho phẩm chất của mình, kiên trinh thanh bạch như ngọc trắng. Thiếu Hạo thẫn thờ nhìn miếng ngọc trên bàn, vẻ mặt phức tạp, hồi lâu mới lên tiếng: “Năm xưa, ngươi say rượu rồi ngang nhiên hẹn ước chuyện hôn nhân trước mặt mấy vị vương tử, phụ vương hết sức coi trọng lễ nghi, hậu cung lại bị tỷ muội Thường Hy thị thao túng hoàn toàn, hôn sự này coi như đã được xác định, không cách nào thoái thác được. Ta đã vắt óc tìm trăm phương nghìn cách, nhưng tất cả đều vô dụng. Có điều bất kể vì ngươi hay vì chính bản thân ta, ngươi cũng không thể cưới một nữ tử Thường Hy thị được. Cuối cùng ta đành dùng hạ sách, sai người gài bẫy Băng Nguyệt, chứng minh cô ta đã thất thân với kẻ khác, mới bức được Thường Hy bộ hủy bỏ hôn ước.” “Ngươi…” Nặc Nại tím mặt lại, khàn giọng hỏi: “Ngươi có biết danh tiết của nữ tử Cao Tân quan trọng nhường nào không?” “Dĩ nhiên ta biết, nhưng nếu ta không làm vậy, ngươi có biết hậu quả sẽ ra sao không? Băng Nguyệt bị người nhà làm công cụ, gả cho kẻ đã có ý trung nhân là ngươi, chẳng nhẽ ngươi sẽ tìm được hạnh phúc ư? Hy Hòa bộ quy thuận Yến Long, ngươi đành lòng giương mắt nhìn Yến Long giết chết ta, An Dung, An Tấn sao?” Nặc Nại bỗng sụp xuống ủ rũ, nói cho cùng, tất cả đều tại y hồ đồ tự chuốc vạ vào thân. Thiếu Hạo chỉ giúp y thu dọn cục diện mà thôi. “Thực ra, ta vốn định đền bù cho Băng Nguyệt.” Nặc Nại giễu cợt: “Đền bù ư? Ngươi dùng thủ đoạn hạ lưu đó đối phó với một nữ tử yếu đuối bơ vơ, định lấy gì để đền bù đây? Dù ngươi có dùng uy quyền ép buộc kẻ nào đó kết hôn với nàng, thì phu quân của nàng cũng sẽ khinh miệt nàng suốt đời!” “Nhất định không có chuyện đó! Bởi vì ta định sẽ cưới nàng, đương nhiên ta biết nàng còn thanh bạch!” Nặc Nại sững người, Thiếu Hạo cay đắng nói tiếp: “Lúc đó ta định sau khi đăng cơ sẽ cưới nàng vào cung, long trọng sách phong nàng, vừa để đền bù, cũng vừa là bảo toàn nàng, đồng thời có thể giúp ta chia rẽ, lôi kéo Thường Hy bộ, nhưng…” Thiếu Hạo liếc nhìn A Hành, “Nhưng gần đây nhiều việc bộn bề, nhất thời chưa nghĩ tới chuyện lập thêm phi tần, nào ngờ lại chậm một bước.” Nặc Nại thẫn thờ hồi lâu rồi phá lên cười thê thiết, dập đầu binh binh lạy Thiếu Hạo, “Thuở nhỏ ngươi thường chê ta hành sự quá cảm tính, còn ta lại cười ngươi làm việc quá lý trí kín kẽ, cái chết của Băng Nguyệt nói cho cùng đều là lỗi của ta, ngươi chẳng làm gì sai cả, khi nãy ta nóng giận trách lầm ngươi là bởi ta sợ sẽ mất đi tất cả, không dám thừa nhận chính mình đã hại chết Khấp Nữ… Băng Nguyệt.” Dứt lời, y đứng dậy, liêu xiêu bước ra khỏi điện. “Nặc Nại.” A Hành cuống quýt gọi giật y lại, ngập ngừng hỏi, “Vân Tang… tỷ ấp làm sao đây?” Nặc Nại ngoảnh lại nhìn nàng, vẻ mặt đau đớn in hằn trên mặt, ánh mắt chất chứa tuyệt vọng: “Vương phi nghĩ nàng có thể hân hoan bước qua cổng thành từng lủng lẳng thi thể Băng Nguyệt mà gả cho ta không? Ta đã hại chết Băng Nguyệt, chẳng lẽ còn muốn Vân Tang phải gánh lấy lời sỉ vả của người trong thiên hạ hay sao?” Đột nhiên trước mặt A Hành hiện lên cảnh tượng Băng Nguyệt thân mang áo cưới, đầu đội mũ phượng, treo lủng lẳng trước cổng thành, cặp mắt tròn xoe trong vắt vẫn chăm chăm nhìn Nặc Nại. Nàng chợt thấy hơi lạnh từ đáy lòng lan đến đầu lưỡi, khiến lưỡi nàng đông cứng chẳng thốt nên lời, đành giương mắt nhìn Nặc Nại lảo đảo đi khỏi. Suốt mấy ngày, bên ngoài cung náo động hỗn loạn, không sao dẹp yên được, nhưng trong cung lại yên lặng như tờ. Thiếu Hạo sợ bọn Trung Dung lấy cớ giết chết Nặc Nại, bèn ra lệnh giám sát Nặc Nại thật chặt, không cho phép y rời Thừa Ân cung nữa bước. Nhờ Thiếu Hạo ra sức át đi, việc Băng Nguyệt tự vẫn cũng dần dần lắng xuống, chẳng ai dám nhắc đến cái chết của cô, càng không ai dám đả động đến hôn sự của Vân Tang và Nặc Nại nữa, như thể chuyện đó chưa hề tồn tại. Nặc Nại đều ngày ngày uống say bí tỉ, không một ai tới tìm y, y cũng chẳng hề hé răng nói năng gì, chỉ ôm lấy hũ rượu ngủ vùi. A Hành không biết làm sao, đành đi hỏi Thiếu Hạo. Y đáp: “Băng Nguyệt ở bên Nặc Nại suốt hai trăm năm, đã trở thành thân tín của Nặc Nại. Rõ ràng nàng ta có vô số cơ hội báo thù y, vậy mà lại chọn lấy cách tuyệt vọng nhất. Nàng ta vận đồ tân nương, trang điểm lộng lẫy rồi treo cổ tự vẫn ngay trước cổng thành chính là muốn phá tan hôn lễ của Vân Tang và Nặc Nại. Trung Dung lại nhân cơ hội làm toáng chuyện này lên, khiến toàn thành đều biết Nặc Nại hủy hôn để lấy người khác, tham vọng trèo cao, vì muốn kết hôn với Trưởng vương cơ Thần Nông địa vị cao quý mà bức một nữ tử thanh bạch kiên trinh vào đường cùng, phải lấy cái chết tỏ lòng. Hiện giờ cả Cao Tân đều đang chửi rủa Nặc Nại, căm ghét Vân Tang. Ta có thể áp chế bọn Trung Dung nhưng không thể bịt được miệng dân chúng, đừng nói là hôn sự của hai người họ, ngay chức tước của Nặc Nại cũng khó mà giữ được, mấy hôm nay ngày nào cũng có quan viên dâng sớ vạch tội y.” Thiếu Hạo đẩy một chồng tấu sớ tới trước mặt A Hành. A Hành buồn bã: “Hết cách thật rồi sao?” Thiếu Hạo trầm ngâm đáp: “Đành chờ thời gian đưa ra kết quả cuối cùng chứ biết sao. Vết thương Băng Nguyệt gây ra cho Nặc Nại cũng cần thời gian bình phục, dân chúng mãi rồi sẽ quên lãng chuyện này thôi.” A Hành đành viết thư an ủi Vân Tang. Vân Tang gửi thư phúc đáp, giọng điệu vẫn vô cùng bình thản, hệt như tính tình Vân Tang vậy, càng ở vào thời khắc bi thương lại càng trấn tĩnh. Vân Tang còn tha thiết khuyên nàng: đời người biến ảo khó lường, họa phúc chỉ cách nhau gang tấc, quan trọng nhất là biết trân quý cái mình đang nắm giữ, đừng để Xi Vưu mòn mỏi đợi chờ thêm nữa! A Hành nắm chặt phong thư, ngẩng đầu nhìn ra ngoài cửa sổ, chớp mắt đã sắp mùng tám tháng Tư, lại đến tết Khiêu Hoa ở Cửu Lê rồi. Nàng chợt thấy mình không sao chịu nỗi bầu không khí nặng nề u ám ở Thừa Ân cung nữa, nàng muốn gặp Xi Vưu, nàng muốn gặp hắn ngay lập tức. Sắp xếp xong mọi chuyện trong cung, A Hành liến bay thẳng tới Cửu Lê. Hoa đào trên núi Cửu Lê nở rộ như lửa như tranh, thấp thoáng giữa rừng đào là căn nhà sàn khép cửa, lặng lẽ đợi người về. Có lẽ vì tự do đang ở ngay trước mắt, nên khi mở cửa ra, A Hành chợt có một cảm giác là lạ, khác hẳn trước đây. Nàng bước ra sân phơi, đưa mắt ngắm núi non quanh đó, càng ngắm càng nghe lòng rộn rã, bèn quanh sang hỏi A Tệ: “Sau này chúng ta sẽ ở lại đây, được không?” A Tệ nhoẻn cười, lăn tròn trên mặt đất, huơ huơ bốn chân, tỏ vẻ thích thú. “Mày thấy thế nào, Liệt Dương?” Liệt Dương ngồi vắt vẻo trên cành đào, hờ hững đáp: “Cô thấy thích là được.” A Hành vỗ tay đánh đét: “Hay lắm, vậy từ mai chúng ta bắt đầu bày biện nhà của bọn mình!” Sáng hôm sau tỉnh dậy, A Hành ra chợ dạo quanh một vòng mua cả đống đồ đạc, về tới nhà đã thấy Liệt Dương và A Tệ quét dọn sạch sẽ phòng ốc từ trong ra ngoài, khiến ngôi nhà sàn được thay áo mới. A Hành sắp xếp phòng ở ình và Xi Vưu xong, lại bố trí riêng cho Liệt Dương một căn phòng, đồng thời làm luôn cho nó một cái tổ trên cây, rồi quay sang hỏi A Tệ: “Hàng ngày mày ngủ dưới gốc đào, bầu bạn cùng Liệt Dương, khi nào mưa thì lên nhà sàn, được không?” A Tệ hớn hở chạy vòng vòng quanh gốc đào. Xong xuôi mọi việc, A Hành đứng trước nhà quan sát từng thứ một, rèm bích loa, sa thiên thanh, trúc phượng vĩ, rừng hoa đào… hình như còn thiếu gì đó? Nàng chạy vút vào nhà, lục rương cũ lấy ra chiếc chuông gió bằng răng thú vẫn treo trên Ngọc sơn năm xưa, tuy chuông gió đã úa màu thời gian nhưng lại đượm một niềm ngậm ngùi xưa cũ. Treo dưới hiên nhà, gió vừa lướt qua, từng chuỗi tinh tinh tang tang, tang tang tinh tinh lại cất lên êm đềm hệt như ba trăm năm về trước. Xi Vưu cưỡi Tiêu Dao đến Cửu Lê, đã thấy A Hành đợi dưới cội đào tự khi nào. Hắn vội nhảy xuống ôm chầm lấy A Hành, cười hỏi: “Nàng đến lâu chưa? Đi nghe sơn ca không?” A Hành lắc đầu cười rồi kéo tay hắn: “Mình về nhà đi.” Hoa đào nở đỏ rực rỡ trên núi, căn nhà sàn biếc xanh sắc trúc thấp thoáng giữa rừng hoa, chưa lại gần đã nghe thấy tiếng chuông gió tinh tang, như không như có, êm đềm rất mực. Xi Vưu bất giác rảo bước thật mau, đến khi tới trước cửa nhà, hắn bỗng sáng cả mắt lên. Xung quanh nhà là một hàng giậu trúc, bên giậu trồng đủ tường vi, thạch cúc, khiên ngưu, đỗ quyên… vàng, đỏ, trắng, lam… các loại hoa đủ màu sắc nở rực trước giậu. Sau nhà còn một mảnh vườn mới cuốc, Liệt Dương đang chỉ huy hơn mười mấy chú chim bay qua bay lại gieo hạt, tíu tít cả lên, trong khi A Tệ uể oải nằm dài dưới gốc đào, thoạt nhìn hệt như một con chó canh cửa. Xi Vưu đứng ngây ra, sững sờ. Từ bé hắn lớn lên nơi rừng hoang núi vắng, ngạo nghễ tự tại giữa sơn lâm, thả sức rong ruổi cùng mây nước, cả đất trời đều thuộc về hắn, nhưng hắn chưa từng có một mái nhà. Thuở nhỏ hắn từng trông thấy mỗi khi khói bếp lững lờ bốc lên, đám trẻ đều hớn hở chạy về nhà trong tiếng ời ời của mẹ, hồi đó hắn còn chưa hiểu tại sao mình thà bị đánh đuổi cũng vẫn quanh quẩn gần làng mạc, không chịu bỏ đi, về sau mới vỡ lẽ ra, hắn mới thật sự hiểu ra, đứa trẻ hoang dã, sống cuộc sống như muông thú năm xưa cứ quanh quẩn ngoài bản, nấp trong rừng lén rình rập từng nhà, bởi nó cũng khao khát được bước vào một ngôi nhà thuộc về mình. Xi Vưu cố nén bao niềm cảm khái đang cuộn trào trong lòng, lên tiếng: “Nếu mở cửa ra lại thấy một mâm cơm sẵn sàng nữa, mới đúng là về nhà.” A Hành liền vén rèm lên: “Chúng mình về nhà thôi.” Đồ ăn trên bàn đang bốc hơi nghi ngút, mùi thơm nức mũi. Xi Vưu lặng lẽ tiến lại, ngồi xuống ăn hết sức ngon lành. A Hành cũng ngồi xuống cạnh hắn nhưng vừa nếm một miếng đã cau mày, nàng chỉ quen trồng hoa tỉa lá chứ chẳng giỏi nấu ăn, mấy món này quả là miễn cưỡng lắm mới nuốt được. Xi Vưu cười bảo: “Từ sau cứ để ta làm cơm.” Vừa nghe thấy câu “từ sau”, A Hành đã mừng rơn, gật đầu lia lịa, “Nói lời phải giữ lấy lời nhé, ai không giữ lời thì là…” Nàng chợt khựng lại, chửi người khác là súc sinh tức là xúc phạm người ta, nhưng nói Xi Vưu là súc sinh chẳng khác nào đang khen hắn, làm hắn cao hứng! A Hành cau mày nặn ra một câu khác, “Ai không giữ lời thì là người!” Xi Vưu vừa hớp một ngụm Ca tửu, nghe nói liền phun ra. A Hành nhìn hắn cười khúc khích, trên đời này có niền hạnh phúc nào bằng được trông thấy người mình yêu thương tươi cười chứ? Dùng cơm xong, hai người lại ra trước cửa ngồi uống trà hóng mát. Xi Vưu hỏi nhỏ: “Căn nhà này là nàng dành cho ta thật ư?” “Cũng là chàng dành cho ta đó.” “Thế còn căn nhà của Thiếu Hạo dành cho nàng?” A Hành cười khúc khích, nhân tiện thừa nước đục thả câu, cố ý trêu Xi Vưu, “Nếu biểu hiện của chàng tốt, ta sẽ rời xa Thiếu Hạo.” Bấy giờ Xi Vưu mới hởi lòng hởi dạ, liền mặt dày nâng cằm A Hành lên, nửa cười nửa không, hỏi: “Nàng nói về phương diện nào thế? Trên giường hả?” A Hành thẹn thùng vung tay đấm hắn, Xi Vưu bèn ôm nàng đặt lên đùi, vòng tay siết chặt lấy A Hành để nàng khỏi vùng vẫy làm loạn. A Hành tựa đầu vào vai hắn hỏi: “Lần này chàng nán lại được mấy ngày?” “Nàng ở bao lâu, ta cũng ở bấy lâu.” “Trong cung đã có con rối thay chân ta, lại được Thiếu Hạo che chở, khó mà phân biệt được thật giả, hơn nữa mọi người đều biết ta yếu đuối lắm bệnh, không thể gặp khách khứa, ta có nán lại vài ngày cũng chẳng ai phát hiện ra đâu, nhưng chàng là Đốc Quốc Đại tướng quân kia mà.” “Chúc Dung vừa xuất quan đã tất bật bắt tay vào xử lý công việc, mấy trăm năm nay tuy Du Võng không nói ra, nhưng trong lòng hắn cũng thấy ta quá mức tàn bạo, lần này hắn định dựa vào Chúc Dung để xoa dịu nỗi oán giận của đám chư hầu quý tộc kia, nên hiện giờ ta rất nhàn nhã.” A Hành hỏi đầy hàm ý: “Chàng nhàn nhã như thế, có thể lui về ở ẩn được chăng? Chúng ta có thể định cư ở Cửu Lê, chàng trồng đào, ta chăn tằm.” Xi Vưu cười cười không đáp, hồi lâu mới nói: “Nhất định sẽ có ngày như thế! Nhưng trồng đào ta thấy suốt ruột lắm. Ta muốn đưa nàng và Tiêu Dao đi làm vài việc mà người đời chưa từng làm qua. Mọi người đều nói Thang cốc là cực Đông của đại hoang, Ngu uyên là cực Tây, Nam minh là cực Nam, Bắc minh là cực Bắc. Nhưng cực Đông của Thang cốc, cực Tây của Ngu uyên, cực Nam của Nam minh, cực Bắc của Bắc minh là gì? Lẽ nào Thang cốc Ngu uyên, Nam minh Bắc minh là chốn mênh mông bát ngát không có bến bờ ư? Tới chừng đó, hai ta sẽ cưỡi Tiêu Dao đi tới nơi mà người đời chưa từng đặt chân tới.” “Còn cả Liệt Dương và A Tệ nữa chứ.” “Ừ, cả Liệt Dương và A Tệ!” A Hành nhoẻn cười, chìa ngón út ra, “Ngoéo tay treo cổ!” Xi Vưu cũng bật cười, ngoắc tay với nàng, “Nhất định giữ lời!” Ngón út của cả hai ngoắc lấy nhau, kéo qua kéo lại mấy lần, còn hai ngón cái lại áo vào nhau, như hai kẻ đang hôn nhau say đắm, bọn họ chăm chú nhìn ngón tay mình rồi phá lên cười, chẳng hẹn mà cùng xòe cả năm ngón tay ra, đan vào tay đối phương. Xi Vưu dùng tay kia bế thốc A Hành vào phòng, đặt lên giường, cởi bỏ y phục của nàng rồi áp tay lên bụng nàng, từ bụng lần lên ngực, từ ngực lại men xuống cánh tay, đan tay mình vào tay nàng, khăng khăng khít khít. Chiếc chuông gió dưới hiên nhà lại reo lên rộn rả như trước làn gió xuân hây hẩy. Ngày tháng giữa núi rừng trôi qua rất mau, thoáng chốc Xi Vưu và A Hành đã ở lại Cửu Lê hơn một tháng. Có lúc A Hành cảm giác những tháng ngày này sẽ dài ra vô tận, miễn là bọn họ ở ẩn nơi đây, dù bên ngoài xảy ra chuyện gì cũng không liên quan tới họ. Nhưng dù có lãng quên thế giới ngoài kia thì thế giới ngoài kia cũng không chịu bỏ qua cho họ. Xích điểu mang theo thẻ ngọc bay đến Cửu Lê. Xi Vưu đọc xong mấy dòng ghi trên thẻ ngọc, ngẩng lên bảo A Hành: “Ta phải về đây. Hoàng Đế ngự giá thân chinh, đã đánh bại Cộng Công, khiến quân sĩ Thần Nông hoang mang bối rối. Du Võng bị Chúc Dung xúi giục cũng chuẩn bị ngự giá thân chinh, dẫn quân giao chiến với Hoàng Đế.” “Gì cơ?” A Hành kinh hoàng, không dám tin vào tai mình nữa. “Thần tộc đến giờ vẫn còn truyền tụng mãi chuyện ba ngàn năm trước Hiên Viên Hoàng Đế chỉ trong một đêm hạ mười tám ngọn núi Yên Bắc. Vừa nghe nói Hoàng Đế ngự giá thân chinh, tướng lĩnh Thần Nông quốc sợ kinh hồn bạt vía cả. Du Võng liền cử Cộng Cộng ra ứng chiến, nhưng Cộng Công thảm bại khiến trên dưới Thần Nông đều khiếp hãi, kích động sĩ khí, lại được thêm Chúc Dung xúi bẩy, Du Võng cũng quyết định ngự giá thân chinh, đại quân đã xuất phát rồi.” Hoàng Đế và Viêm Đế đích thân giao chiến với nhau ư? A Hành choáng váng, vội vịn vào song cửa rồi từ từ ngồi phệt xuống đất. Mới lưu lại nơi đây một tháng mà thế gian đã mây vần gió giục, đất trời biến sắc nhanh thế kia ư? Xi Vưu xưa nay quen thói hành sự dứt khoát, hắn vòng tay siết chặt lấy A Hành lần cuối rồi nhảy lên lưng Tiêu Dao, “Sau khi dẹp yên mọi chuyện, ta sẽ về tìm nàng.” A Hành lẳng lặng gật đầu mà lòng nặng trĩu, đột nhiên, nàng níu chặt lấy hắn: “Chàng đừng đi có được không?” Xi Vưu nhướng mày cười, “Nàng hiểu tính người đàn ông của mình mà, A Hành. Lúc ta bị Chúc Dung truy sát, Du Võng nửa đêm tới quỳ xin Viêm Đế thu hồi lệnh giết ta; sau khi ta đến Thần Nông, mọi người đều khinh bỉ ta, sợ hãi ta, chỉ có Du Võng đối xử tử tế với ta, mang rượu tới uống cùng ta; khi ta nổi cơn thịnh nộ đánh bị thương mọi người, trốn khỏi Thần Nông sơn, ngay đến Viêm Đế cũng quyết định vứt bỏ ta, Du Võng lại đuổi theo ta suốt đêm, bầu bạn cùng ta mấy ngày. Nếu không có tên Du Võng hiền từ đôn hậu, nhu nhược, cả nể đó thì cũng chẳng có Xi Vưu ta ngày hôm nay, chúng ta cũng chẳng thể gặp lại nhau.” Xi Vưu nói chẳng sai, ngay cả Viêm Đế cũng mưu mô tính toán với hắn vì Thần Nông tộc, chỉ có mình Du Võng từ trước đến nay luôn chân thành đối đãi, tuy hắn đối với kẻ địch hết sức hung tàn nhưng đối với ân nhân lại dốc hết sức hết lòng báo đáp, A Hành còn biết nói gì nữa đây. Xi Vưu rướn người qua cửa sổ, nồng nàn đặt lên môi nàng một nụ hôn, “Ta đi đây!” A Hành vẫn bịn rịn nắm chặt tay hắn không buông! Tiêu Dao từ từ bay lên cao, tay hắn cũng dần rời khỏi tay nàng. Dường như cũng hiểu được nỗi lòng của A Hành, Tiêu Dao không bay vút đi ngay, mà chỉ từ từ bay xa dần. Xi Vưu ngoảnh lại quyến luyến nhìn nàng. Triền núi bạt ngàn những gốc đào, bấy giờ đã bào độ hồng phai lục thắm. Gió Đông tiễn xuân đi, cuốn theo ngàn ngàn vạn vạn hoa tàn nhị héo lả tả đầy trời. Trong căn nhà sàn xinh xắn lẻ loi giữa rừng đào, A Hành thẫn thờ bên cửa sổ, nhìn theo dáng Xi Vưu đi khỏi, bóng áo xanh quạnh quẽ càng thêm phần cô độc giữa một trời thắm đỏ mưa hoa. Biết Xi Vưu cũng rầu rĩ chẳng nỡ xa mình, A Hành ra sức vẫy tay, cố lấy giọng vui vẻ nói vọng theo: “Lần sau chàng về, chúng mình có thể ăn rau tự trồng lấy rồi!” Nghe thấy câu nói của nàng, Xi Vưu chợt thấy lòng bối rối khôn xiết, khóe mắt cay cay, bao hào tráng chí căng tràn lồng ngực dường như đều hóa thành niềm ôn nhu mềm mại vấn vít giữa ngón tay. Ai bảo anh hùng không xúc động, chẳng qua chỉ là chưa tới lúc rơi lệ mà thôi. Thấy bóng A Hành xa mờ dần cuối chân trời, Xi Vưu bèn quay ngoắt đi, vừa sai Tiêu Dao tăng tốc, vừa cao giọng ca vang, dốc hết nhiệt tình căng tràn lồng ngực vào khúc tình ca nồng nàn say đắm, thổ lộ tình cảm trong lòng mình cho cả trời đất cùng hay.
|
Q.2 - Chương 6 Lần đầu tiên A Hành nghe thấy Tiêu Dao rít lên thê thảm nhường ấy, tuy nàng bay về phía Đại ca, nhưng bên tai cứ văng vẳng tiếng kêu bi thiết của Tiêu Dao, một tiếng rít như một câu hỏi xoáy vào lòng nàng, Xi Vưu đang bị trọng thương, vì sao cô có y thuật cao siêu lại không ra tay cứu hắn? Vì sao cô nhẫn tâm nhìn Xi Vưu mất mạng? Vì sao? Vì sao hả? A Hành dọn dẹp nhà cửa gọn gàng rồi lên đường quay về Cao Tân. Cuộc đối đầu chính diện giữa hai vị đế vương đã làm chấn động cả đại hoang, điều này dọc đường đi nàng có thể cảm nhận rất rõ. Phố phường phồn hoa giờ vắng hoe vắng hoắt, con đường lớn ngoài thành lúc nào cũng rầm rập xe ngựa lao như bay về phía Cao Tân, trên xe lúc nhúc những người xách nách mang đủ thứ, có lẽ bởi Cao Tân không tham gia vào cuộc chiến nên đã trở thành chốn bình yên cuối cùng tại đại hoang, dân chúng đều đổ xô về đó. Mặt mày ai nấy đều đăm chiêu rầu rĩ, kẻ có người nhà ra trận lo lắng cho an nguy của thân nhân đã đành, người chẳng có cũng thấp thỏm không yên, bởi chồng con họ bất cứ lúc nào cũng có thể bị gọi nhập ngũ. Trong khi Thần Nông quốc vần vũ mây đen thì Cao Tân quốc lại nhộn nhịp khác thường, trà lầu tửu quán càng lúc càng ăn nên làm ra, sau một ngày bận rộn, mọi người đều thích tụ về đây để nghe đám dân chạy nạn từ Thần Nông quốc đến kể chuyện về cuộc chiến cách họ xa lắc xa lơ. Chiến tranh chỉ đớn đau nếu nó trực tiếp tác động đến bản thân, còn đối với kẻ vô can, đó là một cuộc vui bất tận. Dân chúng Cao Tân chỉ mãi hả hê thưởng thức câu chuyện truyền miệng hấp dẫn của đám dân tị nạn chứ nào hiểu nỗi lo lắng ưu tư của Thiếu Hạo cùng mọi điều mà y đã, đang và sắp phải làm để bảo vệ bình yên cho họ. Về đến Ngũ Thần sơn, A Hành lập tức tới tìm Thiếu Hạo, nàng nóng lòng muốn biết mọi thông tin về cuộc chiến. Thiếu Hạo đang ngồi lặng nơi thềm điện, giữa ánh tà dương. Cả cung điện nguy nga lộng lẫy vắng tanh, giường như chỉ còn mình y đơn độc. Chốc chốc lại thấy một cánh Huyền điểu chấp chới bay tới, sà xuống tay y, báo cáo tin tức. Trông thấy A Hành, y bình thản cười: “Nàng về rồi.” A Hành ngồi xuống thềm điện, bên cạnh y: “Chàng bảo, rồi sẽ ra sao?” “Chỉ có hai khả năng, hoặc là Hiên Viên thắng, hoặc là Thần Nông thắng, thế thôi. Ta cũng chẳng biết rốt cuộc ai sẽ thắng nữa.” “Chàng muốn bên nào thắng?” “Nàng muốn ta nói thật ư?” “Chàng nói đi.” “Hai phe cùng bị diệt chắc rằng không thể, ta chỉ hy vọng đôi bên đều thương tổn thôi.” A Hành gượng cười: “Thật chẳng hiểu sao Đại ca thiếp lại chịu nổi chàng?” Thiếu Hạo cũng bật cười theo, nhưng ánh mắt vẫn đầy tư lự, Thanh Dương, rốt cuộc ngươi đang làm gì? Sao không gửi thư trả lời ta? “Tình hình hiện giờ ra sao rồi?” A Hành hỏi. “Tin tình báo mới nhất cho biết song phương đang dàn quân hai bên bờ Phản Tuyền[1], tình hình rất căng thẳng.” [1] Theo truyền thuyết, đây là nơi Hoàng Đế giao chiến với Viêm Đế. (ND) Một cánh Huyền điểu xuyên qua bóng chiều đậu xuống ngón tay Thiếu Hạo, y lặng lẽ đọc những dòng ghi trên thẻ ngọc rồi nhấc tay, Huyền điểu lại vỗ cánh bay đi. “Ứng Long đã dẫn theo hai lộ quân Yêu tộc từ cánh Nam bắt đầu tấn công. Yêu tộc nhanh nhẹn hơn hẳn Thần tộc và Nhân tộc, ắt hẳn Hoàng Đế muốn tận dụng lợi thế này để vượt Tề thủy[2].” [2] Tên con sông thời xưa, bắt nguồn từ Hà Nam, chạy qua tỉnh Sơn Đông vào Bột Hải, Trung Quốc. (ND) “Đại ca từng khen Ứng Long là viên tướng tài hiếm có, trí dũng song toàn, xem ra phụ vương định ra tay trước đây mà, đối thủ bên kia là ai?” “Hậu Thổ.” Nếu là Hậu Thổ, e Ứng Long khó nắm chắc phần thắng. A Hành trầm tư nghĩ ngợi, Thiếu Hạo cũng đăm chiêu suy tính. Chẳng bao lâu, Huyền điểu lại bay về. “Di Bành lại dẫn hai đạo quân xuất phát từ cánh Tây, bọn họ sẽ đụng độ Chúc Dung.” A Hành khẽ buột miệng: “Di Bành tính tình kiên nhẫn, hành xử thận trọng, nhưng Thần lực của Chúc Dung bây giờ đã hơn hẳn năm xưa, Di Bành không đấu lại hắn đâu.” “Nàng chớ quên Hoàng Đế là người mưu lược tính toán giỏi nhất trên đời, Hiên Viên Huy, anh cùng cha khác mẹ của Di Bành từng bị Chúc Dung thiêu sống, Di Bành đợi cơ hội phục thù mấy trăm năm nay, ắt hẳn sẽ liều chết chiến đấu, hơn nữa Hoàng Đế ban cho y toàn quân tinh nhuệ, dù Chúc Dung có Thần lực cao tới đâu chăng nữa, cũng phải sợ chết, vậy ít ra Di Bành còn chắc thắng bốn phần.” Thiếu Hạo thở dài, có phần giễu cợt, “Hoàng Đế nắm rất rõ con cờ nào nên đặt xuống vị trí nào, đến cả mối hận của con mình, ông ta cũng sẵn sàng lợi dụng để đạt mục đích.” A Hành chỉ biết làm thinh không nói, người người đều tôn sùng Hoàng Đế, nhưng nỗi lòng những kẻ làm con Hoàng Đế, có mấy ai hiểu được đâu. Hoàng hôn lụi dần, sắc trời đã chuyển sang tối sầm. Bình minh dần ló dạng, sắc trời cũng hửng lên. Từng cánh từng cánh Huyền điểu cứ bay đi rồi lại bay về. Trải qua một ngày một đêm, Ứng Long và Hậu Thổ vẫn đang quyết chiến, Di Bành và Chúc Dung cũng ở vào thế giằng co ác liệt. Một cánh Huyền điểu lại bay tới, Thiếu Hạo lên tiếng: “Phụ vương nàng dẫn theo bốn lộ quân xuất phát, đụng độ với đại quân của Xi Vưu.” A Hành mặt mày tái mét còn Thiếu Hạo lại cau mày trầm tư, Thanh Dương đâu rồi? Thanh Dương đang ở đâu? Chiến dịch này quan trọng nhường ấy, Hoàng Đế sao có thể không dùng y cơ chứ? Y khoát tay, lập tức một bức địa đổ do thủy linh ngưng tụ hiện lên trước mặt, địa hình quanh Phản tuyền cũng theo đó mà bày ra rành rành, nào là Phản sơn cao chót vót, Phản tuyền gồm bảy nguồn suối thông nhau, Phản tuyền thành hiểm yếu, Tề thủy nước xiết… Thiếu Hạo vừa quan sát vừa lẩm bẩm: “Tề thủy chỉ có khúc này là hẹp nhất, rất tiện qua sông, bởi thế Hoàng Đế mới lệnh cho Yêu tộc thông thạo thủy tính, linh hoạt nhanh nhẹn tiến công vào đây, quả là sách lược tấn công sáng suốt. Viêm Đế hẳn cũng đoán ra chuyện đó nên sai kẻ thận trọng chín chắn như Hậu Thổ trấn giữ ở đây, sách lược phòng thủ này không tồi.” Y lại lấy tay chỉ quanh Phản sơn, “Di Bành xuất phát từ chỗ này, quân Chúc Dung đóng ở đây, tinh nhuệ đụng độ với tinh nhuệ, Hoàng Đế tiến quân từ đây, quân Xi Vưu đóng chỗ này, Hoàng Đế lấy uy thế của mình chóng chọi với sự hùng mạnh của Xi Vưu.” Thoạt nhìn, kế hoạch của Hoàng Đế hết sức kín kẽ, ông đang dốc toàn lực để đánh chiếm Phản thành, nhưng… rốt cuộc là không bình thường ở đâu? Không bình thường ở đâu nhỉ? Thiếu Hạo cau mày ngẫm ngợi hồi lâu, dưới ánh trăng, bức địa đồ do thủy linh tụ thành cũng xanh ngời lóng lánh, hắt lên mặt y, khiến gương mặt đượm vẻ thâm sầu khó lường. A Hành góp lời: “Từ nhỏ phụ vương đã dạy bọn thiếp phải biết bảo toàn thực lực, tính kỹ hẵng làm, một đòn tất trúng, thiếp thật chẳng ngờ lần này phụ vương lại huy động binh lực cả nước tấn công Thần Nông, ép Viêm Đế phải dốc toàn lực ứng phó, song phương quyết chiến nhanh như vậy.” Thiếu Hạo vừa nghe nói liền đứng phắt dậy, biến sắc mặt. Toàn lực đấu toàn lực! Tính tình Hoàng Đế vốn không phải như vậy! Đây chính là chỗ bất bình thường! Mấy ngàn năm trước, Hiên Viên tộc chỉ là một Thần tộc nhược tiểu nên Hoàng Đế buộc phải quý binh lực như vàng, bởi ông ta không thể lãng phí được! Lấy cái nhỏ yếu nuốt dần cái hùng mạnh, tránh không giao đấu chính diện, ra sức bảo toàn lực lượng quân ta mới là phong cách xưa nay của Hoàng Đế. Giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời, Hoàng Đế sao có thể đột ngột như vậy được? Vả lại, ông ta thừa biết Cao Tân như hổ đói đang rình bên cạnh, chỉ mong sao hai bên đều bại vong, vậy điều này càng không thể nào! A Hành vọt miệng hỏi: “Sao thế?” Thiếu Hạo định thần lại, trân trân nhìn địa đồ nói: “Cả đại hoang đều bị Hoàng Đế gạt hết rồi, tuy ca dao xưa vẫn có câu ‘Mất Phản thành, mất Trung nguyên, được Phản thành, được Trung nguyên’, nhưng mục tiêu của Hoàng Đế không phải là thành trì quan trọng nhất Thần Nông quốc đó đâu.” “Vậy phụ vương thiếp huy động binh lực toàn quốc làm gì?” “Ông ta muốn lấy mạng Viêm Đế!” A Hành đứng phắt dậy, vẻ mặt kinh hãi. Thiếu Hạo giải thích: “Chiến tranh không chỉ cần vũ lực, mà còn cần cả quốc lực, hiện nay dưới sự trị vì của hai người Du Võng và Xi Vưu, một cương một nhu, Thần Nông ngày càng giàu mạnh, dân chúng no đủ, Hiên Viên nghèo đói sao có thể đối chọi Thần Nông trù phú đây? Hai trăm năm nay, phụ vương nàng đã dùng mọi cách để chia rẽ Du Võng và Xi Vưu, nhưng Xi Vưu giảo hoạt như hồ ly, trước sau chẳng hề mắc bẫy, còn Du Võng lại là kẻ bảo thủ, một khi nhận định điều gì là đúng thì chẳng buồn để ý người khác khuyên ngăn. Trước sự phồn thịnh của Thần Nông, nguyện vọng Đông tiến của Hoàng Đế cơ hồ bất khả, nhưng chỉ cần Du Võng chết đi, tình thế sẽ thay đổi lập tức. Xi Vưu hành xử quá cương liệt, cứng quá thì gãy, hơn hai trăm năm nay, mâu thuẫn giữa các phương với Xi Vưu đều phải dựa vào Du Võng mềm mỏng hóa giải, dù đám chư hầu kia có bất mãn đến mấy chăng nữa, hễ Du Võng còn sống, chúng cũng chỉ dám hy vọng làm suy yếu quyền lực của Xi Vưu chứ không nghĩ tới chuyện làm phản, nhưng một khi Du Võng nằm xuống, bọn chúng nhất định không quỳ gối trước kẻ bất đồng về xuất thân, xung đột về lợi ích với chúng như Xi Vưu đâu…” A Hành tái mặt, lẩm bẩm: “Nếu Thần Nông quốc chia năm xẻ bảy, phụ vương có thể phân ra tấn công đánh chiếm từng phần rồi.” Thiếu Hạo trầm ngâm quan sát địa đồ, rồi kính phục buông lời cảm thán: “Thần Nông Viêm Đế! Hiên Viên Hoàng Đế!” Nếu Viêm Đế đời trước đã khéo léo lợi dụng xuất thân và tính tình đặc biệt của Xi Vưu để đi một nước cờ tuyệt diệu chưa từng thấy, thì Hoàng Đế hiện giờ cũng lợi dụng chính những đặc điểm đó phá giải thành công cục thế mà Viêm Đế bày ra, hơn nữa còn ăn lại một quân cờ của Viêm Đế. Hai bậc đế vương, kẻ còn người mất, cùng chơi một cuộc cờ suốt mấy trăm năm đến giờ, kẻ đứng ngoài quan sát cục diện là Thiếu Hạo mới sực tỉnh, thì ra mấy người bọn họ so với hai lão hồ ly kia còn khờ khạo lắm. Bất giác y cảm thấy vừa sợ hãi vừa nôn nóng, chỉ muốn biết nếu Viêm Đế còn tại thế, sẽ đối phó nước cờ này của Hoàng Đế ra sao. Tiếc rằng Viêm Đế đã qua đời, bởi thế, ông chẳng thể đánh cờ được nữa. Hoàng Đế coi như nắm chắc phần thắng! Người như Hoàng Đế, Thiếu Hạo y sao có thể đối phó bằng mấy mẹo vặt như đối phó với phụ vương mình được? Nghĩ vậy, y chợt thấy sởn cả gai ốc, Thanh Dương chỉ cần nổi sát tâm, ắt khó giữ được mạng! Thiếu Hạo lập tức huýt gọi Huyền điểu. Bên tai A Hành cứ lùng bùng mấy câu: Hoàng Đế muốn lấy mạng Du Võng, Hoàng Đế muốn lấy mạng Du Võng, Hoàng Đế muốn lấy mạng Du Võng… Có thể quyền lực, địa vị, danh dự, thậm chí sinh tử đối với Xi Vưu chỉ là cuộc ngao du giữa hồng trần, vốn chẳng có gì đáng trọng, nhưng Du Võng thì khác. A Hành vội gọi A Tệ tức tốc bay về phía Tây Bắc, chẳng kịp cả chào Thiếu Hạo, nào ngờ, Thiếu Hạo cũng thúc Huyền điểu dốc toàn lực bay về phía Tây Bắc. Hai người đều làm thinh không nói, thần sắc căng thẳng, chỉ chăm chăm vận linh lực thúc tọa kỵ bay thật mau, lòng thầm gào thét. Nhanh lên, nhanh nữa lên! Nếu chậm một bước, e rằng thứ mà mình muốn gìn giữ cả đời này sẽ vĩnh viễn tuột khỏi tay. Nhưng dù linh lực bọn họ có cao đến chừng nào, A Tệ và Huyền điểu có bay nhanh tới đâu chăng nữa, cũng chẳng thể nháy mắt băng qua mấy vạn dặm trường, đến quan ải tức thì được. Vùng hoang dã quanh Phản Tuyền đương độ hoàng hôn. Tịch dương đỏ như máu nhuốm thắm núi sông, biển cả dải nước non thành một bức tranh thủy mặc họa bằng máu. Phản sơn hùng vĩ sừng sững giữa đồng hoang tựa bậc anh hùng đã đến tuổi xế chiều, chỉ còn lại thê lương bàng bạc. A Hành cùng Thiếu Hạo cưỡi tọa kỵ bay thẳng đến Phản sơn, quân lính xông ra cản đường chưa kịp nhìn rõ mặt hai người đã bị đánh bật khỏi tọa kỵ. Giữa Phản sơn và Phản hà là một khe suối còn sót lại sau khi Phản hà đổi dòng, bây giờ Hoàng Đế và Xi Vưu đang suất lĩnh binh mã ác đấu ngay trên bờ khe, vì Thần tộc giao chiến với Thần tộc, lại không vận dụng trận pháp nên các chủng loại linh lực cứ đan chéo vào nhau, tỏa ra ánh sáng rực rỡ muôn màu, thật chẳng khác cầu vồng, nhìn mà hoa cả mắt. Thiếu Hạo trông thấy “Hoàng Đế”, A Hành trông thấy Xi Vưu, đều nhất loạt thở phào nhẹ nhõm, may quá, người đó vẫn còn sống! Đột nhiên, cả đất trời chợt vang lên một tiếng thét lồng lộng, “Du Võng chết rồi!” Du Võng chết rồi! Binh lính đôi bên đều ngẩng phắt lên theo phản xạ. Giữa không trung bỗng hiện ra một vị Hoàng Đế khác, mình vận giáp vàng, uy phong lẫm liệt, đứng trên lưng Trùng Minh điểu, một tay cầm thương vàng, tay kia xách một chiếc đầu lâu. Đầu lâu mới bị chặt xuống, vẫn còn ròng ròng máu tươi, linh lực cũng trút ra theo dòng máu, biến những vết máu thành từng vệt sáng xanh lét như vô số cánh đom đóm dập dờn bay lượn. Dưới ánh sáng xanh lét, ai nấy đều trông rõ chiếc đầu lâu mang vương quan gỗ chạm, dung mạo vẫn sinh động như người sống, cặp mắt kinh ngạc mở trừng trừng, khóe môi còn hằn vẻ áy náy như đang tạ lỗi với muôn dân của mình, xin lỗi, ta không thể bảo vệ cho các người được nữa; lại tựa hồ đang thỉnh tội với phụ vương, cha, con xin lỗi, con chưa hoàn thành được lời hứa với cha; còn như thể xin lỗi Xi Vưu, xin lỗi, hảo huynh đệ, ta không thể sánh vai chiến đấu bên ngươi nữa rồi! Trước cơn kịch biến bất ngờ, hết thảy binh lính Thần Nông đều lần lượt quỳ xuống, quân tướng Hiên Viên cũng ngớ người ra. A Hành gục xuống trên lưng A Tệ, qua màn nước mắt, nàng trông thấy Xi Vưu và Tiêu Dao nhanh như chớp xông thẳng về phía Hoàng Đế đang cưỡi Trùng Minh điểu. Nàng vội thét lên thê thiết, “Đừng!” nhưng chẳng cản nổi tốc độ của Tiêu Dao. Hoàng Đế đã tính toán kỹ, đứng xa như vậy dù có là tọa kỵ nào cũng chẳng thể thoắt chốc bay vọt tới được ngay, một khi có biến, thị vệ tùy thân của ông ta có thể lập tức ứng phó. Tiếc rằng Hoàng Đế chẳng ngờ tọa kỵ của Xi Vưu vốn không phải là đại bàng thường, mà là giống đại bàng do cá côn Bắc Minh hóa thành, mỗi lần đập cánh có thể bay xa chín vạn dặm, bởi thế hắn vọt tới trước mặt, Hoàng Đế hết sức ngỡ ngàng. Xi Vưu vồ lấy thủ cấp trong tay Hoàng Đế rồi bi phẫn gào lên với Du Võng: “Du Võng, ngươi mở to mắt mà xem ta báo thù cho ngươi đây!” Nói rồi hắn cắn vào búi tóc Du Võng, đầu Du Võng lủng lẳng dưới cằm Xi Vưu, hai mắt trừng trừng nhìn về phía trước, đối diện với Hoàng Đế. Xi Vưu buông thõng hai tay, lòng bàn tay chợt đỏ rực lên, linh lực khắp núi cao sông dài rừng thẳm đều tụ về hai bàn tay hắn. Hoàng Đế kinh hoàng giương mắt nhìn Xi Vưu, mọi tin tức tình báo đều nói Xi Vưu tu luyện mộc linh, nhưng giờ đây ông mới bàng hoàng nhận ra, Xi Vưu kiêm hết thảy ngũ linh! Trong cơn cuồng nộ cùng bi ai, hắn đã bất chấp tính mạng, tập hợp toàn bộ ngũ linh quanh Phản Tuyền, tuy ngũ linh tương khắc nhưng đồng thời tương sinh, một khi Xi Vưu mở trận, ngũ linh kim mộc thủy hỏa thôt sẽ tác động lên nhau, đổ dồn về phía hắn như gió lốc. Hoàng Đế chợt thấy tất cả linh lực quanh mình đều bị hút cạn, chỉ biết trơ mắt nhìn linh lực của Xi Vưu như thần long cuồn cuộn bổ về phía mình. Hàng ngày, ông thường vẫn nhắc nhở Thanh Dương, phạm sai lầm tức là chết! Vậy mà hôm nay, ông lại dùng mạng sống của mình để kiểm chứng đạo lý này. Uỳnh! Một tiếng nổ tung trời chuyển đất vang lên. Bụi đất bay mù mịt, bầu trời tối sầm lại, trăng sao đều biến mất. Giữa bóng tối như bưng, cả đất trời dường như đã diệt vong. Thoắt chốc, mọi người dụi mắt, trông thấy Xi Vưu đang sừng sững giữa không trung, chân đạp trên lưng đại bàng, hai mắt bừng bừng lửa giận, mái tóc xõa tung, tà áo đỏ như máu phần phật bay trước gió, sắc mặt tái rợn cả người, thất khiếu ứa máu, đầu lâu Du Võng vẫn lủng lẳng trên miệng, dáng vẻ vô cùng khủng khiếp, hệt như ma vương trỗi dậy từ ma vực. Tất cả mọi người đều kinh hồn táng đởm, thậm chí binh lính Hiên Viên còn nhất loạt lui xuống, sợ bị Xi Vưu xé xác. Đột nhiên Xi Vưu lảo đảo rồi ngất lịm, thân mình rớt khỏi lưng Tiêu Dao rơi xuống đất, Tiêu Dao rít lên một tiếng, vội lao xuống chụp hắn lại. Ứng Long chớp thời cơ hạ lệnh: “Bắn!”, lập tức có vô số mũi tên bay rào rào lên không. A Hành lòng như lửa đốt vừa tung tay gạt tên nhào xuống cứu Xi Vưu, chỉ sợ chậm một bước, linh thể hắn sẽ tan thành mây khói. Bỗng Thiếu Hạo thất thanh gọi: “A Hành!” A Hành ngoảnh lại, liền trông thấy một “Hoàng Đế” khác chắn trước mặt Hoàng Đế, thất khiếu ứa máu, đang gục xuống. Thiếu Hạo vội đỡ lấy “Hoàng Đế”, dần dà linh lực tan đi, dung mạo y cũng từ từ biến đổi, lại hiện nguyên hình là Thanh Dương. Vốn dĩ Hoàng Đế giao chiến với Xi Vưu khi nãy là hóa thân của Thanh Dương, y biến thành Hoàng Đế dẫn dụ kẻ địch để Hoàng Đế thực sự đem quân đi ám sát Du Võng. Khi Xi Vưu cưỡi đại bàng lao thẳng vào Hoàng Đế, Thanh Dương ứng biến mau lẹ, lập tức túm lấy chân Tiêu Dao, cùng lao đến theo Xi Vưu. Trong nháy mắt Xi Vưu đoạt lại đầu lâu Du Võng rồi dốc toàn lực tấn công Hoàng Đế, Thanh Dương đã xông ra nhận lấy đòn chí mạng thay cho ông. A Hành trợn mắt kinh hoàng nhìn Thanh Dương, không sao tin được rằng Đại ca linh lực cao cường của nàng cũng có ngày gục ngã. Một bên là Xi Vưu sống chết chưa rõ, một bên là đại ca chưa rõ tử sinh, A Hành bỗng thấy tim mình như bị xẻ làm hai nửa, mà nửa nào cũng đau đớn đến nghẹt thở, nàng bối rối không biết nên lao theo cứu ai mới phải. Thiếu Hạo ngưng tụ toàn bộ linh lực, ra sức ngăn không để linh thể Thanh Dương tiêu tán, nhưng linh thể đã tan nát thành muôn vàn hạt bụi li ti, còn nhỏ hơn cả thủy linh, dù y có làm gì cũng vô dụng. Thiếu Hạo toát mồ hôi lạnh, cuống quýt réo gọi A Hành, chỉ mong y thuật Thần Nông Thị có thể cứu mạng Thanh Dương. A Hành như bị bắt mất hồn, đờ đẫn bay về phía Đại ca theo tiếng gọi của Thiếu Hạo. Trong lúc hoảng loạn, nàng trông thấy Tiêu Dao quắp lấy Xi Vưu, rít lên từng hồi, tiếng rít sắc nhọn như dao, đâm vào tai nàng đau nhói. Thấy bọn Ứng Long định đuổi theo, Tiêu Dao vội dang cánh bay vút lên chín tầng mây rồi biến mất. Lần đầu tiên A Hành nghe thấy Tiêu Dao rít lên thê thảm nhường ấy, tuy nàng bay về phía Đại ca, nhưng bên tai cứ văng vẳng tiếng kêu bi thiết của Tiêu Dao, một tiếng rít như một câu hỏi xoáy vào lòng nàng, Xi Vưu đang bị trọng thương, vì sao cô có y thuật cao siêu lại không ra tay cứu hắn? Vì sao cô nhẫn tâm nhìn Xi Vưu mất mạng? Vì sao? Vì sao hả? Lòng nàng như băng ướp lửa thiêu, trái tim bị vô số lưỡi dao cào xé, cả người bỗng run lên bần bật. Đằng kia, Thiếu Hạo đang cuống quýt gọi nàng, gần như van nài: “Nàng nhất định phải cứu Thanh Dương!” A Hành đành nghiến răng, nén lòng chạy tới kiểm tra thương thế Đại ca. Thấy linh thể y sắp tiêu tan, tiếng rít thê thiết bên tai nàng chợt biến mất, tất cả âm thanh đều biến mất, đất trời vắng lặng, lòng chẳng thấy đau, thân mình cũng ngừng run rẩy, tựa như kẻ đang bị đẩy tới mép vực vậy, thoạt đầu rất đau khổ, nhưng một khi rơi xuống tan xương nát thịt, vạn kiếp bất phục thì chẳng còn đau đớn nữa, thay vào đó là tuyệt vọng vô bờ. Thiếu Hạo cuống cuồng vặn hỏi nàng, “Không hề gì, phải không? Nhất định không sao chứ hả? Nàng nhất định cứu được y mà!” A Hành sắc mặt xám như tro tàn, cắn môi đến ứa máu cũng chẳng thấy đau, chỉ thẩn thờ dùng kim châm vào huyệt vị Đại ca. Trái lại, Thanh Dương mỉm cười nhìn cả hai: “Hay lắm, cả hai người đều ở đây, tiếc rằng không có Xương Ý. Vậy cũng tốt, đừng để nó thấy ta thê thảm thế này, ta là Đại ca toàn năng kia mà.” Thiếu Hạo run bắn người lên, nhưng vẫn không cam tâm, tiếp tục thúc đẩy thủy linh trị thương cho Thanh Dương, “Đừng nói nhảm, chúng ta lập tức tới Quy khư ngay, nhất định sẽ có cách! Ta nhất định cứu được ngươi mà!” Thanh Dương cười, “Ta có chuyện muốn nói với ngươi.” Thiếu Hạo vẫn trút thủy linh cuồn cuộn vào người Thanh Dương, “Đợi ngươi khỏe lại rồi nói.” “Hai ta đánh nhau bao nhiêu năm rồi?” “Hơn hai ngàn năm rồi.” “Hơn hai ngàn tám trăm năm rồi.” Thanh Dương nhoẻn miệng cười rạng rỡ, “Ta chợt thấy nhẹ cả người, sau này khỏi phải phân thắng bại với ngươi nữa.” Sau hơn hai ngàn năm, cuối cùng Thiếu Hạo lại trông thấy gã thiếu niên lưng đeo thanh kiếm gãy, miệng ngậm ngọn cỏ, nhoẻn cười tươi tắn bước vào lò rèn, khiến y không khỏi ghen thầm. Cơn cuồng nộ bỗng trào lên trong lòng, y quát vào mặt Thanh Dương: “Chúng ta đã nói sẽ sánh vai chiến đấu rồi sau đó mới quyết một trận sống mái kia mà, sao ngươi dám thất hẹn hả?” Thanh Dương không đáp, chỉ từ từ dời mắt nhìn sang Hoàng Đế, “Phụ vương, Người đã biết con muốn hại Người, phải không?” Hoàng Đế lại gần, ngạo nghễ lạnh lùng nhìn xuống Thanh Dương nằm đó, giễu cợt: “Chúc mừng chúc mừng, ngươi đã cứu ta trước mặt bao nhiêu thiên quân vạn mã, sau này soán vị đăng cơ nhất định sẽ càng thuận lợi.” Thanh Dương buồn bã nói nhỏ: “Phụ vương, con thừa nhận mình từng có ý hãm hại người. Vì không muốn Xương Ý và A Hành trở thành Vân Trạch thứ hai nên con đã bỏ độc vào vò nước của Người, nhưng cùng con lại không nỡ ra tay, giữa đêm con đột nhập vào cung, tráo vò nước khác, đổ chỗ nước có độc đi rồi.” Hoàng Đế giật thót mình, liếc nhìn Di Bành đằng xa rồi lại nhìn Thanh Dương, ánh mắt đã dịu đi nhiều, vẻ lạnh lùng tan biến, thay vào đó là vô số ưu tư phức tạp rối ren, người ngoài không sao nhìn ra được. Ông hờ hững đáp: “Thật ra, vò nước mà con đánh tráo cũng không có độc từ lâu rồi.” Thanh Dương mỉm cười, “Con hiểu rồi. Thì ra chính con đã uống phải chỗ nước độc đó, phụ vương để con nhận lấy quả báo, tự quyết định sống chết của mình.” A Hành nghe hai người đối đáp chỉ hiểu lơ mơ nhưng Thiếu Hạo thì hiểu cả, Thanh Dương đã uống phải độc dược mà A Hành phối chế, đúng lúc độc phát nên y không sao chống nổi đòn chí mạng của Xi Vưu. Chợt Di Bành cao giọng thỉnh thị Hoàng Đế: “Phụ vương, hiện giờ lòng quân Thần Nông đang rối loạn, chúng ta có nên chớp thời cơ tấn công không?” Hoàng Đế đưa mắt nhìn giang sơn như họa dưới chân, đây là cơ hội mấy ngàn năm mới có, là mộng tưởng ông ta theo đuổi cả đời. Nhưng còn Thanh Dương… Nhìn vẻ mặt Hoàng Đế, Thanh Dương liền lên tiếng: “Cha, con không sao đâu, chất độc này đâu có chí mạng.” Từ khi y hiểu chuyện, Hoàng Đế đã đặt y ngồi trên đầu gối, kể cho y nghe về thời niên thiếu gian truân cùng hùng tâm tráng chí của mình. Trên đời này, e rằng chẳng ai hiểu mộng tưởng của Hoàng Đế hơn y, đó là ước mơ mà người đàn ông vĩ đại này dốc cả đời theo đuổi. Tiếng “cha” của Thanh Dương khiến Hoàng Đế nhói buốt cả lòng, bao hình ảnh mơ hồ xa xăm bỗng vụt qua trước mắt, trong đám con cái, chỉ có Thanh Dương và Vân Trạch gọi ông là “cha”, nhưng tiếng “cha” ngọng nghịu non nớt đó chứa chan tình phụ tử nguyên sơ nhất trong đời ông. Chợt thấy thái dương mình giật giật, Hoàng Đế trầm giọng dặn dò: “Con trai, con phải sống nhé!” Thanh Dương cười mà nước mắt rưng rưng, một tiếng “con trai” đã xóa tan bao hiềm khích giữa hai cha con, dường như, y đang được quay về thuở ấu thơ. Đoạn Hoàng Đế quay sang bảo A Hành: “Con chăm sóc Đại ca.” Dứt lời, ông hú lên lanh lảnh, thúc Trùng Minh điểu xông vào trận, phát lệnh: “Tấn công!” “Tấn công!” “Tấn công!” “Phụ vương!” A Hành ròng ròng nước mắt gọi với theo hy vọng Hoàng Đế nán lại chốc lát nhưng chỉ thấy bóng lưng ông lao vụt đi. Di Bành ném lại cho nàng một nụ cười khinh khỉnh rồi bám theo Hoàng Đế, xông vào trận. Trong tiếng kèn xung trận chói tai, đại quân Hiên Viên đổ xô về phía binh lính Thần Nông. Vì đất đai cằn cỗi, dân chúng khổ sở nên binh lính Hiên Viên vô cùng kiêu dũng thiện chiến, thêm vào đó, thấy Hoàng Đế hạ sát Viêm Đế, sĩ khí ba quân cũng được khích lệ rất nhiều, dưới sự chỉ huy của Hoàng Đế, quân đội Hiên Viên trở nên dũng mãnh như hổ sói, trong khi quân Thần Nông vừa mất đế vương, lòng quân rối loạn, không thể nào chống lại được Hiên Viên, chẳng mấy chốc, chiến trường đã biến thành lò sát sinh, binh lính Hiên Viên ai nấy đều hung hăng khát máu hệ như ma thú, đi tới đâu là giết chóc tới đó. Tiếng gào khóc bi thương chìm trong tiếng giáo vàng ngựa sắt rầm rập quét qua, khắp nơi chỉ nghe thấy những tiếng hô “giết”, “giết”, “giết”. Thiếu Hạo vận linh lực bảo vệ tâm mạch Thanh Dương rồi bế xốc y lên, tức tốc trở về Quy khư. Thanh Dương ngẩn ngơ cười, “Ta biết ngươi giận ta làm việc thiếu quyết đoán, nếu ta có thể nhẫn tâm như ngươi thì chẳng có ngày nay. Nhưng ta cứ lẩn thẩn nhớ mãi những chuyện ngày nhỏ, hồi đó mẹ không cho ta lại gần Trùng Minh điểu, sợ nó quá hung mãnh, cha liền ôm ta vào lòng, lén dạy ta điều khiển Trùng Minh điểu, hai cha con cùng cưỡi Trùng Minh điểu bay lên, vừa bay vừa cười khanh khách. Thanh kiếm đầu tiên của ta cũng là cha tự tay làm cho, lần đó cha ngồi ngoài hiên đẽo kiếm cho ta, đẽo xong còn sợ ta bị dằm đâm vào tay, bèn dùng vải gai mài nhẵn nhụi, ta ngồi bên cạnh chờ sốt ruột, bèn nhào lên giành lấy thanh kiếm, cha bèn giơ kiếm lên cao, vừa mài vừa cười, ‘Tới đây tới đây lấy đi, nhảy cao nữa lên, khi nào con cao bằng ta, hai cha con có thể cùng ra trận rồi’. Lần đầu ra trận ta căng thẳng đến nhũn cả chân, cha bèn lôi ta đi uống rượu, hễ gặp bá bá thúc thúc nào chào hỏi, cha đều hãnh diện giới thiệu, ‘Con trai ta đây, sau này nhất định nó sẽ dũng mãnh hơn cả ta’…” Nói tới đây, Thanh Dương đuối sức không kể tiếp được nữa, chỉ thều thào, “Ông ấy là cha ta, ta không thể giết cha mình được!” Thiếu Hạo vội cắt ngang: “Đừng nói nữa! Đợi ngươi khỏe rồi, chúng ta sẽ lại tới quán rượu nát đó uống ba ngày ba đêm, nói chuyện ba ngày ba đêm.” Thanh Dương cười, “Ngươi nói thứ đó không phải độc dược, cũng chẳng lấy mạng người ta, nhưng con đường đi tới quyền lực tột đỉnh chính là tuyệt lộ, một khi đặt chân lên, sẽ phải đi mãi về phía bóng tối, ta không muốn có một ngày mình trở thành kẻ không cha không mẹ không huynh muội.” Đôi tay Thiếu Hạo run bắn lên, y cứ ngỡ gã thiếu niên nhiệt tình thiện lương, rạng rỡ hồ hởi khi xưa đã biến mấy từ lâu, nào ngờ, gã vẫn luôn luôn tồn tại! Ánh mắt Thanh Dương ảm đạm dần, sinh mệnh cũng theo đó mà tàn lụi. Thấy vậy, A Hành cuống quýt lấy kim châm vào tất cả huyệt vị trên người y, khóc òa lên, “Đại ca, đừng bỏ muội mà, sau này muội nhất định sẽ nghe lời huynh, chăm chỉ tu luyện, không mải chơi nữa, huynh bảo gì muội cũng nghe theo hết!” Thanh Dương đặt tay lên đầu A Hành, vò tóc nàng rối như quạ rồi phì cười ranh mãnh, “Ài, bao năm nay, mỗi lần muội ở sau lưng vung tay vung chân định đánh ta đá ta, ta chỉ muốn quay lại vò cho tóc muội rối tung lên như thế này…” Giọng y càng lúc càng nhỏ lại, cơ hồ chỉ như tiếng thầm thì, “A Hành, chuyển lời ẹ và Xương Ý, nói hai người đừng đau buồn.” A Hành nước mắt lã chã, nghẹn ngào gật đầu. Tròng mắt Thanh Dương đã đờ ra, y không nói nổi nên lời nữa, nhưng đôi mắt vẫn chằm chằm nhìn Thiếu Hạo, như còn có điều chưa yên lòng. Thiếu Hạo nuốt lệ nói: “ Ngươi còn nhớ ngàn năm trước, lúc đại quân Thần Nông áp sát, ngươi nửa đêm lặn lội tới Cao Tân, nói với ta ‘Ta chính là Thiếu Hạo’ không? Từ nay trở đi, ta cũng chính là Thanh Dương, ta sẽ coi Luy Tổ như mẹ mình, coi Xương Ý và A Hành như đệ đệ muội muội của ta vậy!” Được lời này của Thiếu Hạo, Thanh Dương mới yên lòng, y từ từ nhắm nghiền mắt lại, tay trượt khỏi mái tóc A Hành, trên môi vẫn còn vương nụ cười rạng rỡ hệt như ánh mặt trời mùa hạ. “Đại ca!” A Hành thét lên xé ruột, “Đại ca, Đại ca, Đại ca…” Nàng gào khản cả cổ, tựa hồ cứ gọi như thế, Thanh Dương sẽ nghe thấy, sẽ tỉnh dậy, sẽ lại lạnh lùng lên giọng mắng mỏ nàng. Lần này nàng nhất định sẽ không cãi lại, không oán trách, nhất định sẽ ngoan ngoãn nghe lời Đại ca, nhất định sẽ thành tâm thành ý cảm ơn Đại ca. Thiếu Hạo điên cuồng trút tất cả linh lực bản thân vào người Thanh Dương, không ngừng nài nỉ, “Thanh Dương, Thanh Dương, chúng ta còn chưa phân thắng bại, ngươi không được đánh bài chuồn. Đồ chết nhát nhà ngươi, chúng ta còn chưa phân thắng bại kia mà…” Linh lực của Thiếu Hạo thừa sức dời non lấp biển, nhưng chẳng làm sao níu được sinh mệnh cho Thanh Dương. A Hành khóc đến lịm cả người đi, Thiếu Hạo cũng sức tàn lực kiệt, thân mình lảo đảo, nhưng vẫn liên tục đẩy linh lực vào người Thanh Dương, trước mắt chỉ toàn thấy bóng dáng Thanh Dương. Y xỏ đôi giày rách, lưng đeo thanh kiếm gãy, miệng ngậm cọng cỏ, đi lắc la lắc lư, tiếng cười giòn tan, hồ hởi rạng rỡ, ấm áp hơn cả ánh nắng mai. Nhưng thi thể trong lòng Thiếu Hạo lại lạnh ngăn ngắt. Cái lạnh từ đáy lòng Thiếu Hạo lan ra khắp người, khiến thân hình y run lên bần bật, chỉ biết đau thương nhắm nghiền mắt lại. Hơn ai hết, Thiếu Hạo hiểu rõ tham vọng bản thân, thế nên y luôn tâm tâm niệm niệm sẽ có một ngày Cao Tân Thiếu Hạo đụng độ với Hiên Viên Thanh Dương trên chiến trường, cả hai sẽ phải dốc hết toàn lực, Cao Tân không vong thì Hiên Viên diệt. Nhưng y đâu có ngờ, trong lòng y, Thanh Dương vẫn mãi là Thanh Dương, chỉ là Thanh Dương mà thôi. Từ nay trở đi, trên dải đất lạnh lẽo đầy gió tuyết miền cực Bắc, sẽ chẳng ai đốt lửa gọi y vào uống rượu nữa. Từ nay trở đi, đối mặt với thiên quân vạn mã, sẽ chẳng còn ai lặn lội suốt đêm chạy tới, vì y mà máu đẫm bạch bào nữa. Từ nay trở đi, lúc hân hoan mừng rỡ, sẽ chẳng còn ai nói cười chung vui cùng y nữa. Từ nay trở đi, thiên hạ rộng lớn này sẽ chẳng còn ai khiến y mỗi khi nhớ đến lại thấy họng nồng vị rượu, lòng ấm tình người, dù vương tọa lạnh lẽo tới đâu, kẻ địch đông đúc nhường nào, đều có một người sánh vai cùng y đối diện… Từ nay trở đi, thế gian này vĩnh viễn chẳng còn Thanh Dương nữa!
|