Hoa Tư Dẫn
|
|
Ngoại truyện 1: Khúc chia ly
“Suốt nửa đời ta mải mê tìm kiếm, ngu muội vô tình làm mất báu vật trong tay. Nguyệt nương hỡi, ta nguyện dùng nửa đời còn lại, phổ khúc này mãi mãi nhớ về em”.
Chàng lại nghe thấy tiếng cô, dịu nhẹ nhưng quyết liệt vang bên tai: “Giết tôi đi, Dung Tầm, giết tôi đi, tôi sẽ được tự do”. Sau đó là tiếng thở dài, giống như ngọn lửa âm ỉ dưới lớp băng, ngấm ngầm thiêu đốt tâm can. Chàng ôm ngực, đau đớn. Cùng một giấc mơ, mơ mãi bao lần, lần nào cũng đau.
Có những người đã chỉ cho chàng cách tránh cơn ác mộng, nhưng chàng không làm theo, bởi đây là cách duy nhất có thể lại được nhìn thấy cô. Trong suốt ba năm tưởng là cô đã chết, chưa bao giờ chàng chiêm bao thấy cô, còn hôm nay, cô vận hỉ bào đỏ chói biệt tăm ba tháng, khi chàng tin cô vẫn còn sống trên đời, thì đêm đêm cô lại đi vào giấc mơ của chàng.
Kỳ thực, chàng đã nghĩ đến khả năng đó, nhưng không muốn tin. Nếu cô quả thực không còn trên đời, hồn phách cô đêm đêm sẽ quay về, cho dù giày vò chàng, chàng cũng được nhìn thấy cô, chứ không phải chỉ có những âm thanh hư vô bé nhỏ.
Mỗi mộng cảnh về cô, đều không nhìn thấy bóng cô, đó là lý do chàng dùng để thuyết phục bản thân cô vẫn còn sống. Thuyết phục bản thân tin rằng, những giấc mơ không lành đó chỉ là do chàng quá nhớ nhung, chứ không phải là có chuyện gì chẳng lành xảy ra.
Nhưng đêm nay lại khác.
Trong giấc chiêm bao khiến chàng nghẹt thở đêm nay, chàng lại nghe thấy âm thanh đó, vốn tưởng vẫn như bao đêm trước, nỗi đau đớn sẽ khiến chàng sực tỉnh, nhưng lần này không hiểu sao chàng không thể nào tỉnh lại.
Chàng nhìn bàn tay mình, một vết đao dài, đường sinh mệnh bị cắt ngang, đường nhân duyên mờ mờ hiện ra một vết sâu. Một đóa hoa không biết từ đâu bay đến rơi trên lòng bàn tay, sau đám mây mù vẳng ra tiếng hát: “Tuyết trắng rơi trên núi, trăng thanh treo giữa trời, hay tin chàng đã thay lòng, thiếp ôm sầu gạt lệ ra đi…”.
Chàng ngẩng đầu, nhìn thấy vô vàn đóa hoa trắng từ trên trời rơi xuống như mưa. Trong màn mưa hoa đó, một bóng áo tím từ từ đi đến, cánh tay khoác một dải sa hồng, bờ vai mảnh, đôi mắt huyền như nhung, môi đỏ thắm. Phía xa xa hoa vẫn rơi không ngớt, từng cánh, từng cánh đẹp như hạt chu sa, chớp mắt cô đã ở bên chàng.
Chàng biết đó là mộng, nhưng không kìm được giơ tay định ôm cô vào lòng, nhưng cô lại như không nhìn thấy, chàng kinh ngạc nhìn quanh, cô đã biến mất.
Hoa dưới chân như tấm thảm đỏ, phía xa màn đêm đen thẫm, cô đi đến đâu, trên không lóe sáng đến đó. Cuối cùng chàng nhìn thấy điểm cuối con đường, ba chữ vàng Điện Chiêu Ninh lóng lánh dưới ánh đèn mờ trong đêm, hai cây anh đào trước cửa điện hoa nở đầy cành, sắc đỏ như lửa, cánh cửa lớn đỏ thẫm từ từ mở ra, bên trong rực rỡ ánh đèn lồng và những chữ hỉ đỏ chói.
Chàng nghĩ có lẽ đó là cảnh hôn lễ của cô và Dung Viên. Lúc đó chàng không biết cô quan trọng thế nào đối với chàng, cúi đầu trao cô vào tay người đàn ông khác, cảm giác day dứt dằn vặt tựa như đau khổ đó, chàng tưởng chỉ là do mình chưa quen.
Tình với Oanh Ca thật khó nói, cô là thanh đao do chính tay chàng đúc ra, là người thân thiết nhất của chàng. Không có ai có thể như cô, tất cả đều do chàng chỉ dẫn, dìu dắt từng bước, từng bước, lớn lên trở thành người như chàng mong muốn.
Nhìn vẻ ngây thơ và những nét con gái của cô mất dần từng ngày, từng ngày trở thành sát thủ máu lạnh vô tình, có lúc chàng cũng luyến tiếc vẻ nhút nhát đơn thuần của cô ngày trước, nhưng nếu phải lựa chọn, chàng vẫn muốn cô trở thành thanh đao tốt nhất của Dung gia, là tác phẩm hài lòng nhất của mình.
Tình của cô chàng không phải không biết, nhưng chàng không thể yêu cô, người chăn gối có thể rất nhiều, nhưng thanh đao tốt nhất của Dung gia chỉ có một, thanh đao này không dễ đúc, chàng không thể tùy tiện ném đi.
Chàng tự nhủ, lần sau, nếu lần sau cô lao vào lòng chàng, chàng nhất định sẽ đẩy cô ra. Chàng không nghĩ mình là người thiếu ý chí, nhưng khi cô giang tay ôm cổ chàng, mùi hương ngọt ngào trinh trắng dưới trăng khiến chàng không thể chối từ, chàng lại nhủ, lần sau, lần sau…
Cẩm Tước xuất hiện đúng lúc đó. Một khuôn mặt giống hệt cô, mỗi khi cười trông thơ ngây vô hại, giống như cô trước năm mười sáu tuổi, khi chưa trở thành sát thủ, cũng đôi mắt tròn to khi nhìn chàng.
Lần đầu tiên nhìn thấy Cẩm Tước, chàng thở phào trước những dằn vặt bấy lâu trong lòng. Có những thứ con người ta có thể yêu, có những thứ không thể yêu, chàng nhìn Cẩm Tước cau mày đứng bên khóm hoa tử dương, tự bảo mình đây là một cô gái ngây thơ an toàn, có thể yêu. Lúc đó chàng không nghĩ, chàng đã quen nhìn bao nhiêu cô gái ngây thơ an toàn, tại sao chỉ có Cẩm Tước chàng thấy có thể yêu.
Oanh Ca không hiểu, tưởng là chàng thật lòng yêu Cẩm Tước, ngay bản thân chàng cũng tưởng thế. Đây là một cuộc chuyển dời triệt để nhất, mọi tình cảm với Oanh Ca chàng dồn cho Cẩm Tước, sau đó hết lần này đến lần khác tự nói với mình, cô gái này mới là người mình thật lòng yêu.
Nhưng nhìn thấy nụ cười nửa thật nửa giả của Oanh Ca, lòng chàng ngày càng bấn loạn. Chàng luôn bắt gặp nỗi bi thương thoáng trong mắt cô, ánh mắt đó cứa vào tim chàng, ám ảnh giấc ngủ đêm đêm của chàng, gạt hình ảnh một người ra khỏi thế giới của mình khó khăn vậy sao?
Trước giờ chàng vẫn tin mình có trái tim cứng rắn. Người chàng yêu, người chàng muốn cưới là Cẩm Tước, đó là cô gái khác hẳn Oanh Ca. Nụ cười của Oanh Ca quá giả, tính khí quá quật cường, lòng dạ quá độc ác, thủ đoạn quá tàn nhẫn, chàng ép mình ngày ngày chỉ nhìn thấy những cái xấu của cô, sự ám thị ngày này qua ngày khác khiến chàng ngày càng ghét dáng vẻ cầm đao của cô.
Mãi đến một ngày, chính tay chàng đưa cô vào cung, đưa vào tay người đàn ông khác. Trước đây chàng kìm nén tình cảm của mình như vậy là do chàng coi trọng giá trị của cô với tư cách là thanh đao tốt nhất của Dung gia, nhưng thời gian lâu dần, sau bao nhiêu sự biến, chàng đã hoàn toàn quên, thanh đao tốt nhất của Dung gia không phải sinh ra để vào cung.
Chàng tưởng mình sẽ càng trân trọng Cẩm Tước, nhưng không nhớ buổi đầu tiên vì sao chàng để Cẩm Tước lọt vào mắt xanh.
Ngày chàng tỉnh ngộ là trước hôm hôn lễ với Cẩm Tước.
Hôm đó chàng đến Thanh Trì cư thăm Cẩm Tước, thấy cô đang ngắm những mảnh gốm vỡ, sáng bóng trên tay. Nghe tiếng chân chàng, cô chầm chậm ngẩng đầu, khuôn mặt giống hệt Oanh Ca trắng như tờ giấy, khóe mắt đỏ hoe.
Chàng đi đến gần, những ngón tay Cẩm Tước có vài vết rách do mảnh gốm cứa vào. Chàng hốt hoảng định lên tiếng, cô lại cười đau khổ, đưa cho chàng mảnh gốm dày nhất, có lẽ vốn là đế cốc: “Đây là quà sinh nhật chị tặng chàng”.
Nói xong đẩy cửa đi ra. Chàng sững người, cúi đầu, mắt nhìn vào đế cốc, là một hình tròn vẫn nhìn rõ những chữ khắc trên đó.
Tên chàng và ngày sinh. Bàn tay chàng run run giơ ra, chạm vào hàng chữ đó. Sinh nhật lần thứ hai mươi tư của chàng, chàng vẫn nhớ hôm đó cô vượt đường trường ngàn dặm từ nước Triệu trở về, đến trước thư phòng lại nhìn thấy chàng đang ôm Cẩm Tước, lúc đó cô dừng lại, chiếc bọc nhỏ màu đen trên tay rơi xuống đất… mỗi chi tiết chàng đều nhớ rõ. Những chuyện trước đây không nghĩ, cũng không muốn nghĩ lại hiện lên trong đầu. Ký ức về cô bất luận đã cố phủ nhận chàng đều nhớ rõ, rõ đến giằng xé tâm can, cho nên chàng mới không muốn nhớ.
Nhưng ngước mắt nhìn Thanh Trì cư, nơi ngày trước cô ở, chiếc bàn chân thú bên cạnh giá nến là chỗ cô để đao, chiếc ghế bằng gỗ hoa lê trước bàn là chỗ cô thường ngồi đọc sách, chiếc giường sau bức bình phong quý phi là chỗ cô nằm, đâu đâu cũng có bóng hình cô.
Nhưng hôm nay, cô không còn nữa.
Chàng chưa bao giờ nghĩ, đối với chàng cô rốt cuộc là gì, trong một khắc đột nhiên bàng hoàng vỡ lẽ. Có lẽ từ khi chàng nhặt được cô, nuôi cô đến năm mười sáu tuổi, cô đã trở thành một phần của cơ thể chàng, giống như chân, tay chàng, khi cô ở bên, chàng không cảm thấy gì, khi cô rời đi, chàng, mới bỗng nhiên cảm thấy như bị chặt mất cánh tay. Chàng nắm chặt những mảnh gốm vỡ, cạnh sắc của chúng cứa rách tay chàng, lòng bàn tay nhòe nhoẹt máu, tựa như điểm những bông mai đỏ. Chàng gục lên tay ghế ngày trước cô vẫn ngồi, như không còn sức lực. Nơi đây sẽ không còn bóng dáng cô, tiếng cười hơi lạnh dễ thương của cô, và cả ánh mắt cô đăm đắm nhìn chàng. Tất cả đều không còn.
Bây giờ trong giấc chiêm bao hoang đường, cô lướt trên thảm hoa đỏ, đi về phía điện Chiêu Ninh, không thèm ban cho chàng dù chỉ một ánh mắt, chàng muốn mở miệng, muốn gọi cô, thậm chỉ muốn đuổi theo cô, nhưng cổ họng như bị chẹn cứng, không thể nào cất tiếng.
Bóng Dung Viên vận thường y đứng trước cửa điện, chàng nhìn thấy cô hai tay nâng váy chạy vút về phía Dung Viên, chiếc khăn sa màu tím tuột khỏi cánh tay, bị gió cuốn đi, đèn trong cung tắt dần từng ngọn, hai người ôm chặt nhau trong sắc anh đào đỏ chói. Màu đỏ của đèn lồng, của những chữ hỉ như chích vào mắt chàng, chàng nhắm mắt thật chặt, bên tai có tiếng ai khẽ gọi: “Bệ hạ, bệ hạ!”.
Chàng tỉnh mộng, bên ngoài cung điện, một vầng trăng lạnh, cung nữ thắp thêm nến, một ngọn nến đơn độc trước long sàng in bóng chàng lên bức bình phong. Trong tòa điện vắng, bên dưới là long sàng Dung Viên từng nằm, chàng dựa chồng gối cao, ý nghĩ vừa thoáng qua cứ bám riết trong đầu, chiếc giường này có phải là nơi họ từng ôm nhau như chàng nhìn thấy trong mơ.
Nỗi đau quen thuộc và cơn hận xoáy vào tim, suốt năm năm qua chúng không ngừng vò xé tâm can chàng, nhưng tất cả đều do chàng gây ra, hối hận ngàn vạn lần cũng không lấy lại được, sự quyết liệt của cô chàng hiểu nhất.
Không còn lý do gì để tự lừa dối mình hơn nữa, ba tháng trước, khi chàng đến tế đàn mang Oanh Ca đi, cô gái đeo mặt nạ đó nói với chàng, nếu Oanh Ca tỉnh lại, việc đầu tiên cô ấy làm là chết theo Cảnh hầu vương. Hai tay ôm đầu, chàng khẽ cười một tiếng: “Nguyệt nương, quả thực nàng không còn nữa”. Nước mắt chàng thấm ướt một mảng chăn.
Canh tư, có tiếng đàn âm thầm vọng ra từ cung điện vắng, ngày hôm sau, Bình hầu vương chuyển khỏi điện Thanh Lương, một chiếc khóa lớn khóa chặt cửa điện. Suốt những năm Bình hầu vương tại thế, điện Thanh Lương nơi ngự của các đời Trịnh vương cũng không bao giờ mở cửa, nghe đồn Bình hầu vương lưu lại chỗ ở cho cố nhân, nếu hồn phách cố nhân ban đêm có về không đến nỗi không tìm thấy nơi nương náu.
|
Tập 2 Ta mong nàng sống, có thể cười với ta, khóc với ta, giận dữ với ta, ta chỉ có một nguyện vọng như thế này mà thôi – Tô Dự Phần 3: Tuyết ở Bối Trung Bấy lâu, bấy lâu nay, tôi vẫn nghĩ, nếu tôi có một người trong lòng, tôi sẽ đem tất cả mọi sung sướng khổ đau của mình phổ thành khúc nhạc gảy cho chàng nghe, người của lòng tôi, lúc này, đang ở đây.
Chương 1 Vẫn không nhận được thư hồi âm của Quân Vỹ khiến tôi lo lắng. Mộ Ngôn cho rằng có Tiểu Hoàng bảo vệ, không có gì phải lo, thấy chàng lạc quan như vậy, tôi cũng không tiện nói ra, Tiểu Hoàng đã bị đem cầm cho vườn thú đến giờ cũng không biết đã chuộc về chưa. Theo hiểu biết của tôi về Quân Vỹ, chuyện này khó có hy vọng gì, rồi lại nghĩ tại sao trên đời có nhiều đàn ông thích nhau đến thế, tại sao Quân Vỹ có hình thể đẹp như vậy để lắm kẻ mê, tâm trạng cứ ngổn ngang bấn loạn. Xem ra nhà họ Quân có cơ tuyện hậu thật rồi. Năm trước anh ta còn hứa hẹn, nếu không có ai lấy tôi, anh ta sẽ lấy, số phận đã an bài như thế, thật ngao ngán. Nhưng biết làm sao, rút cục nước xa không cứu được lửa gần, hơn nữa bây giờ chúng tôi cũng không biết anh ta đang ở đâu, đành chờ xem sao. Ý Mộ Ngôn là Quân Vỹ mãi không có hồi âm, vậy nhân chuyến đến Tiều đô, tiện thể chàng sẽ đưa tôi về núi Quân Vu. Mộ Ngôn phải đi một chuyến đến kinh đô của Thiên tử ở phía bắc Trung Châu(1), một việc dự định từ lâu cuối cùng mới có cơ hội thực hiện. Trước giờ tôi vẫn nghĩ, Mộ Ngôn không rỗi việc đến mức đưa tôi đi du sơn ngoạn thủy, tìm hiểu phong tục nơi này nơi kia, tôi vẫn đợi chàng nói lời từ biệt, cuối cùng ngày đó đã tới, lòng vừa buồn vừa thở phào nhẹ nhõm. Đi qua vùng rừng núi hoang vu, qua bình nguyên rậm rạp, qua những con sông nước xiết, qua những làng bản hiu quạnh, tôi cảm nhận rất rõ thời gian trôi qua, mỗi khi mặt trời lặn tôi lại đếm đốt ngón tay, tính thời gian chia tay với chàng, nhưng lại không thể chần chừ trì hoãn cuộc hành trình như lần trước. Mộ Ngôn cảm thấy buồn cười, hỏi: “Sao cô cứ luôn nhìn tôi như vậy, trên mặt tôi có vết gì chăng?”. Tôi mạnh dạn ghé lại gần: “Đúng, có vết, nào, lại đây tôi chỉ cho xem”. Chàng hơi ghé lại, ánh mắt cười cười: “Vậy nhìn kỹ đi”. Tôi nghĩ chàng đang giễu tôi, nhưng không sao, đằng nào cũng chia tay, mặt dày một chút cũng chẳng hề chi. Tôi gật đầu: “Huynh nhắm mắt lại”. Chàng lại ngoan ngoãn làm theo. Củi trám trong lò đang cháy đượm, bốc lên ngọn lửa xanh, bên ngoài tiếng côn trùng nhặt thưa từng hồi, chàng ung dung ngồi đó, dáng vẻ như muốn nói thích làm gì tôi thì làm, khiến tôi bất giác muốn vuốt ve khuôn mặt gần trong gang tấc, đôi mắt gần trong gang tấc đó nhưng lại không dám. Lòng bàn tay toát mồ hôi, từ từ giơ ngón tay đến gần đuôi mắt chàng, lấy hết can đảm chạm vào vầng trán trắng xanh, cảm giác và độ ấm truyền đến ngón tay lúc đó tôi sẽ nhớ mãi. Tất cả chỉ do không thể tự rời xa chàng, bất luận thế nào, cũng không thể. Đôi mắt, hàng lông mày, sống mũi, bờ môi, khuôn mặt đẹp, biểu cảm trên mặt, tất cả đều khắc vào lòng tôi, dù chia ly nhưng tôi sẽ nhớ suốt đời. Chàng hơi nghiêng đầu, Thái Dương áp sát ngón tay tôi, lặng lẽ mở mắt, “A Phất?”. Tay tôi hơi run, vội rụt về, củi cháy lép bép trong lò, lát sau, tôi chìa tay trước mặt chàng: “Nhìn này, trên trán có vật gì, lấy xuống cho huynh rồi”. Ánh mắt chàng nhìn bàn tay trống không của tôi: “Đâu?”. Tôi giả bộ ngạc nhiên, “Sao, không nhìn thấy à?”. Mắt chàng như cười, vẫn nhìn tôi, tay chống cằm không nói gì. Rất nhiều lúc, tôi không biết chàng nghĩ gì, lòng thấy hoang mang nhưng cũng chẳng sao, chỉ cần tôi biết mình nghĩ gì là được. Quân Vỹ nói thích một người là sẽ trở nên ưu tư, bởi vì luôn phải suy tính được mất. Anh ta nói có lý, ở bên Mộ Ngôn, tôi luôn suy tính được mất, nhưng mất Mộ Ngôn thực ra tôi cũng chẳng có gì gọi là được, là mất, cái còn lại chỉ là bóng dáng phong nhã tuyệt vời của chàng trong ký ức, lòng như nở một đóa hoa lớn quý báu, quý báu nhất. Chim yến không về, hoa tử vi tắm ánh trăng, phía bắc hoa nở, phía nam hoa tàn. Suốt dọc đường đi gấp, đến biên giới Khương – Trần lại xảy ra một chuyện vốn tưởng sẽ xảy ra ngay từ khi câu chuyện bắt đầu, nhưng mãi chẳng thấy gì, đã tưởng tất cả đều suôn sẻ, cuối cùng lại bất ngờ xảy ra. Một chuyện lớn. Tôi bị bắt cóc. Khi xuống núi, Quân sư phụ đã dặn dò Quân Vỹ bảo vệ tôi cẩn thận, ông lo nhất là chuyện đó. Sự huyền diệu của Hoa Tư dẫn tuy thiên hạ không mấy người biết, nhưng không phải hoàn toàn không ai biết, nó được lưu truyền một cách ly kỳ, rằng đó là phép thuật có thể làm người chết sống lại, đàn ông, đàn bà, người già, người trẻ nên tu luyện như thế nào để đạt được công năng huyền diệu đó khiến ai được nghe đều không khỏi xiêu lòng . Khi một thứ được nhiều người ngưỡng mộ, người sở hữu thứ đó đương nhiên dễ gặp nguy hiểm. Ghi chép thật sự về Hoa Tư dẫn lại vô cùng ít ỏi, do vậy mặc dù tồn tại mấy trăm năm nhưng đến nay vẫn huyền bí khôn lường. Vốn tưởng nó chỉ tồn tại mơ hồ trong dân gian, chưa chắc có ai tin, nên lúc đầu khi Quân sư phụ cho Quân Vỹ đi theo bảo vệ tôi, thâm tâm tôi ngấm ngầm phản đối, giờ mới thấy sự chu đáo của sư phụ quả không thừa. Trời tối dần, do bị bắt cóc, chân tay đương nhiên bị trói, nhưng tôi vốn có tài cởi trói, nhanh chóng cởi nút dây thừng thoát ra, nhìn rõ ràng mình bị quấn trong một tấm chăn, ngẩng đầu, thấy ánh vàng lóng lánh trên đỉnh trướng, trước mắt, là bức bình phong sáu cánh. Bức bình phong chắn trước giường có sáu cánh, trên mỗi cánh là một bức tranh kỳ lạ, có sông có núi và một cặp uyên ương, lúc sánh vai du ngoạn, lúc họa thơ đối ẩm dưới trăng, còn hai bức vẽ một chàng công tử ung dung ôm đàn bên cạnh bộ đồ uống trà, nhìn rất quen. Trong đầu thoáng nghĩ tới một chuyện nhưng lại lập tức gạt đi, bởi vì cảm thấy bút pháp của người đó không thể kém đến vậy. Tôi nghĩ mặc dù kẻ bắt cóc tôi ra tay nhân lúc Mộ Ngôn đi ra ngoài, nhưng như trên đã nói, chắc chắn kẻ đó không biết cái gọi là bí thuật thượng cổ thần kỳ đó thực ra được phong ấn vào một hạt giao châu, đưa vào cơ thể tôi, hơn nữa nhất định không biết tôi là một người chết, cho dù tìm ra bí mật này, thiết nghĩ họ cũng không thể tin, dùng thân thể người chết tu luyện Hoa Tư dẫn, từ thời khai sơn lập địa, trên đất Cửu châu này chỉ có tôi là duy nhất. Tôi còn chưa kịp suy nghĩ kỹ hơn về tình hình trước mắt, bức bình phong đóng chặt “xoạch” một tiếng bị đẩy ra. Tôi vội vàng thu người vào trong chăn, hé mắt nhìn ra, thấy một ngọn đèn yếu ớt phía xa. Người đẩy bức bình phong là một cô hầu, sau khi bước vào, cô cuốn cao bức rèm trướng rồi đứng sang một bên, cả người như lẫn vào màn đêm. Nhìn tương đối rõ là cô gái đối diện, không phải là dung mạo mà là hai ống tay áo rộng thùng của cô ta chiếm nhiều không gian như vậy, đập ngay vào mắt. Ánh nến nhỏ như hạt đậu chỉ chiếu sáng một khoảng nhỏ, quả thật không thể nhìn rõ mặt cô ta, chỉ cảm thấy ánh mắt lạnh lẽo của cô ta như xuyên thấu tận xương. Ánh nến sáng dần, tôi nhìn thấy trên bàn trà có một chung rượu bằng đồng đen trong đựng đầy rượu màu ngọc bích. Cuối cùng nhìn rõ thân hình cô gái có ánh mắt tỏa ra hơi lạnh đó, một nửa khuôn mặt lộ ra dưới ánh nến, một nửa bị bóng cột nhà che khuất, khí chất lạnh lùng nhưng lại là một mỹ nhân hiếm thấy. Miệng bị nhét khăn mùi xoa, không nói được. Tôi làm bộ vùng vẫy, cô gái hơi nhấc tay ra hiệu cho cô hầu, vừa giơ lên lại đột nhiên buông xuống, cười khẩy một mình: “Đúng là hồ đồ, cởi trói cho cô làm gì, hôm nay cô chỉ cần có hai cái tai là được”. Nói đoạn, cầm chung rượu trên bàn uống cạn, loạng choạng bước tới trước giường, né tránh bàn tay đỡ của cô hầu, một tay tóm lấy cằm tôi, sau khi lột chiếc mặt nạ của tôi, cô ta ngẩng phắt đầu, tôi không biết phản ứng thế nào, thầm nghĩ, chắc cô ta không đến nỗi cho là tôi giấu Hoa Tư dẫn trong mặt nạ này chứ? Lúc sau, ngón tay thanh mảnh trắng ngần của cô ta lần trên vết sẹo ngoằn ngoèo trên trán tôi, ánh mắt lạnh lùng sa sầm, “Thì ra là một mỹ nhân, lẽ nào cô không biết, không được tự tiện động vào đồ của người khác?”. Trong phòng rất yên tĩnh, tôi ngẩng đầu nhìn vào mắt cô ta, không biết cô ta nói gì, nhưng không thể tỏ ra yếu thế, nhìn nhau rất lâu, cô ta cười khẩy một tiếng, giọng lạnh lùng: “Lại còn giả bộ thờ ơ, việc mới làm đã nhanh quên thế sao?”. Tôi vẫn không hiểu cô ta nói gì, nhưng có cảm giác cô ta không phải bắt cóc tôi để đòi Hoa Tư dẫn, chẳng lẽ bắt nhầm người? Nhưng tôi vẫn ưỡn thẳng lưng, lúc này đầu cô ta đang ghé sát mặt tôi, mấy sợi tóc mai chạm vào trán tôi, hơi thở phả bên tai, giọng rất nhẹ: “Cô thích chàng, nhân lúc không có tôi, mon men đến bên chàng, cố tình gặp mặt, cố tình để chàng chú ý, múa may như một con rối. Thật nực cười, lẽ nào cô không biết chàng đã có ý trung nhân, đã có hẹn ước?”. Tôi sững ra một lát, như có một tia sáng lóe lên, đầu như vỡ tung, không thể tin nổi. Một cách bản năng, tôi lục tìm trong trí nhớ hình ảnh cô gái hành thích Mộ Ngôn ở Bích sơn, nhưng chỉ nhớ ra một biển hoa tường vi, đó là dịp cuối xuân tháng tư. Cô gái nghiêng đầu nhìn bộ dạng ngây ngô của tôi, những ngón tay thanh mảnh của cô ta đặt lên tóc tôi. Lúc này tôi mới chú ý, giữa mái tóc đen mướt của cô ta cài một bông hoa tường vi kết bằng dải lụa tối màu. Nếu cô ta chính là Tử Yên, nhất định cô ta chưa quên Mộ Ngôn. Nhưng cô ta đã hành thích Mộ Ngôn. Tôi không biết nên tỏ thái độ thế nào, cũng không biết tâm trạng mình bây giờ ra sao. Chỉ nghĩ nếu mình có thể sớm tìm thấy Mộ Ngôn, tìm thấy chàng trước khi chàng gặp cô ta, hôm nay sẽ thế nào? Nhưng ba năm, bao nhiêu ngày, bao nhiêu đêm tôi không tìm thấy chàng, lúc sắp chết cũng không được gặp chàng một lần, ý trời là vậy. Cô ta ngồi gần lại, ngón tay rê trên trán, cau mày, có lẽ đã chếnh choáng, khuôn mặt say rượu dưới ánh nến hồng toát ra một vẻ đẹp tuy hơi lạnh lùng nhưng thực sự say lòng, như nhìn tôi, lại như nhìn vào một điểm hư không nào đó, thoáng mím môi, lại tiếp: “Lúc đó tôi là nhạc sư trong Triệu cung, gặp chàng trong một đại yến, chiến công lừng lẫy của chàng ai không biết, cả Triệu vương cung, bao gồm mấy vị công chúa, không ai không ngưỡng mộ chàng”. Ánh mắt cô ta dừng trên mặt tôi, miệng lại hơi nhếch: “Nhưng chàng chỉ đưa mình tôi về nước”. Ngừng một lát, mắt vẫn hướng vào tôi như cười, “Cô chỉ nhìn thấy tư phong nho nhã, trác việt của chàng, nhưng đã bao giờ nhìn thấy chàng nhẫn nại, ôn tồn dịu dàng âu yếm chưa?”. Tôi lắc đầu. Cô khẽ cười: “Những gì chúng tôi có với nhau, cô không thể tưởng tượng được đâu”. Lòng tôi nổi từng cơn sóng, lớp lớp dềnh lên, ép tới, nặng như đá tảng, nhưng lại không thể tỏ ra yếu thế, giống như gặp chó sói trên đồng hoang, dù sợ hãi đến mấy cũng phải ngẩng đầu nhìn nó, kẻ cúi đầu xuống trước là thua. Cả cuộc đời, phụ vương không dạy được tôi điều gì hữu ích, ngoài một điều khi lòng càng hoảng loạn càng phải tỏ ra bình tĩnh. Thực ra tôi muốn hỏi cô ta, đã thích chàng như vậy, sao nỡ hại chàng, làm chàng bị thương nặng như thế, cũng không ngoái nhìn một lần. Chung quy chỉ tại tôi không hiểu, làm tổn thương người yêu cũng là một cách thể hiện tình yêu. Ở đời người ta thường hay suy nghĩ không thông, trong tình cảm lại càng như thế, tất cả những suy nghĩ của tôi đều chỉ dựa vào kinh nghiệm cá nhân mà về mặt này rõ ràng tôi chưa từng trải. Bên ngoài có tiếng bước chân, mặt cô ta biến sắc, đứng bật dậy, kéo xoạch bức bình phong, ánh sáng trước mắt lập tức mờ hẳn, chỉ lưu lại một ám ảnh nặng nề lan dần trong đầu mà trước đó tôi còn chưa biết là gì, bây giờ xem ra chính là những tưởng tượng mơ hồ về cảnh cô ta và Mộ Ngôn âu yếm bên nhau, lại thêm chiếc khăn mùi xoa nhét trong miệng, khiến tôi không thể cất lời. Vẫn còn ôm một hy vọng mong manh, cố nhướn lưng, mong được thấy cảnh tượng khác, có thể an ủi bản thân, lại nghe thấy ba tiếng gõ cửa quen thuộc, cánh cửa phòng từ từ mở ra. Một giọng nói vang lên, nhẹ mềm như một nhành tơ liễu ngày xuân, cùng với tiếng cười: “Tôi tìm em đã lâu, Tử Yên”. Đó là Mộ Ngôn. Cô gái nghẹn ngào: “Em vẫn đợi chàng, vẫn luôn đợi chàng đến tìm em”. Vai và lưng đột nhiên như rũ xuống, không thể chịu đựng hơn nữa, bải hoải tựa vào tường, cái lạnh như khi sắp chết từ sống lưng lan ra, chỗ viên giao châu trong lồng ngực đột nhiên thấy đau. Quả rất kỳ lạ. Đúng lúc đó, ván giường như bị lật nghiêng, khi trấn tĩnh được đã thấy bị ném vào chỗ nào đó, một tia sáng lờ mờ không biết từ đâu lọt ra, tôi đoán đây là một cái hang núi dài. May trước đó tôi đã cởi được dây trói, dù bị ném xuống hố sâu cũng không bị thương. Ngồi tựa vách hang nhìn lên, không biết lúc này cảnh tượng trong phòng thế nào. Có thể hình dung bên ngoài nhất định là một bầu trời sao sáng, chàng giẫm lên ánh trăng đẩy cửa đi vào, vẫn phong nhã du nhàn như vốn dĩ. Có câu nói thế nào nhỉ, hình như là, “Bóng trăng lay động đầu cành, tường hoa in bóng văn nhân lại gần”. Nhưng không phải đến vì tôi. Logic của tôi rất đơn giản, cho rằng Tử Yên đã đâm chàng, nhất định không còn là người của chàng, chàng sẽ không thích cô ta, tôi là một người chết, thực ra không có tư cách gì, nhưng mong chàng có thể tìm được người tốt hơn. Thực ra, tôi đang nói dối, tôi không hề mong chàng tìm được cô gái tốt hơn. Nói trắng ra tôi ích kỷ, nhưng nếu nhất định phải lựa chọn, tôi thà thấy chàng yêu cô gái khác, nhất định không thể là Tử Yên, giống như suy nghĩ của Dung Viên. Nhưng họ vẫn gặp nhau, xem ra cả hai vẫn còn nhiều lưu luyến. Tử Yên nói rất phải, tôi giống một con rối nực cười. Nhưng nếu đó chính là tình yêu của tuổi trưởng thành thì quả thực tôi không hiểu. Nhìn bàn tay mình, bàn tay phải đã mất đường sinh mệnh, càng nghĩ càng không hiểu, lòng buồn thấm thía nhưng không biết tự an ủi ra sao.
|
Tôi cầm lên chiếc mặt nạ dưới đất, lấy tay áo lau sạch, đeo vào mặt, còn có thể như thế nào nữa, vậy là chia tay. Tôi nhớ chàng, nghĩ tới sau này không bao giờ gặp lại, cuộc đời tôi kết thúc quá sớm, gặp chàng lúc còn nhỏ, không biết yêu là gì, khi hiểu được, chàng đã yêu người khác. Trong hang dài tịch mịch như vô tận, tôi từ từ khụy xuống, gục mặt vào hai đầu gối, bật khóc. Khóc một lúc cũng thấy dễ chịu hơn, thực tế cho thấy, nỗi buồn có thể giải tỏa bằng nước mắt đều không phải là nỗi buồn. Những tiếng nức nở vang lên trong động, đập vào vách hang, vọng lại như có người đứng bên an ủi, lại cảm thấy có một chút can đảm. Bám vách hang đứng lên, men theo vách đá tập tễnh đi ra, trên đường đụng phải rất nhiều xương khô, tôi bỗng thấy sợ hãi, trước kia không nhận ra, bây giờ rời xa Mộ Ngôn tôi mới hiểu chàng bảo vệ tôi quá kỹ, khiến tôi có cảm giác mình là cô gái bình thường, quên đi mình là người chết. Suy cho cùng không nên sợ hãi, bởi họ thực ra cũng như tôi, chỉ là bộ xương mục đen sì trong hang núi. Vất vả lần ra đến cửa hang, bên ngoài là đêm đen, không phải bầu trời sao như tưởng tượng, một trận mưa lớn trút xuống đầu. Tôi đội mưa đi trong đêm. Lúc Tử Yên nhốt tôi trong hang núi, chắc không ngờ tôi có thể thoát ra, nhưng Mộ Ngôn thích cô ta, chàng không biết chính cô ta bắt cóc tôi, nghĩ đến những bộ xương vừa vấp phải trong hang, cô ta chủ tâm vứt tôi vào đó nghĩ là tôi sẽ chết vì trúng độc chướng khí, đâu có biết tôi vốn là một người chết. Ngọn núi như con thú nằm ngang trước mặt, há cái mồm khổng lồ đầy máu, bóng cây cao vút nhảy múa trong đêm tối, trong màn mưa tạo ra những hình thù kỳ dị. Gió réo bên tai, thổi bạt những sợi mưa, quất vào người, cái lạnh từng lớp thấm qua da thịt, thấm vào lòng, lạnh như băng. Trời vẫn mưa như trút nước. Phía xa đình viện thấp thoáng lọt ra ánh sáng nhưng lại chính là nơi nguy hiểm nhất với tôi. Tôi không biết đường đến núi Quân Vu, chỉ biết chạy thục mạng ngược hướng ánh sáng nguy hiểm đó. Đường núi trơn, dù đã quen nhìn trong bóng tối, cũng có lúc không nhìn kỹ, tôi vấp ngã liên tục, người lấm đất. Cảm thấy đã chạy được khá xa, không sợ bị đuổi kịp tôi mới yên tâm, nhìn thấy một bụi cây thấp ven đường, tôi chạy vào định tránh mưa. Viên giao châu khiến tôi lạnh hơn người thường, không cần phải vội, tôi trấn tĩnh tinh thần, cảm thấy nước mưa và đất nhão bám vào từng tấc cơ thể, lạnh rúm người. Mưa tạnh thì sẽ ổn thôi, tôi nghiến răng, ôm gối tự an ủi. Mưa tạnh sẽ ổn thôi. Trận mưa lớn nơi núi sâu đủ dài để xảy ra mọi chuyện, tôi đã nghĩ đến rất nhiều nguy hiểm, chỉ duy nhất quên một điều, có những loài mãnh thú quen tìm mồi trong mưa. Khi phát hiện ra, con báo đó đã đứng cách tôi mười trượng, hình như nó chưa trưởng thành, đôi mắt xanh lét như hai đốm lửa quái dị trong đêm, ánh lên lớp lông ướt đẫm nước mưa, lộ những đường vằn hoa. Con báo hình như vừa thôi bú chưa lâu, dè dặt nhìn tôi, có lẽ đang suy nghĩ cái thân hình lấm đất trong bụi cây là vật gì, liệu có thể cho vào bụng. Còn tôi trong người chỉ có một vật duy nhất có thể tự vệ là con dao găm nhặt được trong hang núi. Lúc này không nghĩ gì hết, cũng không ngây thơ tưởng tượng Quân Vỹ, Tiểu Hoàng từ trên trời rơi xuống, hoặc thần kỳ hơn, Mộ Ngôn từ trên trời rơi xuống. Nếu nghĩ vậy thì chết chắc. Nhìn nhau một lát, con báo cuối cùng nhún hai chi sau lấy đà lao đến, còn tôi không biết lấy đâu ra can đảm, không né tránh, tay nắm chặt chuôi dao găm nhằm cổ con báo đón đợi. Đương nhiên là không đâm trúng. Cho dù móng vuốt con báo cào lên người tôi cũng không đau, không hề gì. Không thể giương mắt nhìn nó ngoạm mình từng miếng, vẫn kiên trì dùng dao đâm vào cổ họng nó, dốc sức toàn thân, chỉ nghe thấy tiếng gầm đau đớn của con thú, lòng thấp thỏm ý nghĩ phải giết nó thật nhanh, không để tiếng gầm của nó lôi kéo mãnh thú khác đến. Khi dao găm đâm trúng họng con báo như ý muốn, máu đỏ vọt ra như mưa, phun vào ngực tôi, nhanh chóng lan ra, đỏ ngầu một mảng. Bầu trời cao, mưa đêm vô tận, con dao trong tay cầm không chắc, suýt rơi, máu con báo lẫn nước mưa và đất nhão. Chỉ thấy tiếng gió mưa, không có tiếng thở của tôi, xung quanh không một vật sống. Nỗi sợ cuối cùng cũng xâm chiếm từ chân lên đầu. Quân Vỹ luôn cho là tôi bạo gan, chẳng sợ gì, đó là lúc còn nhỏ, sau này lớn lên cảm thấy rất nhiều thứ không thể bị mất, càng ngày gan càng bé đi, thái độ gan góc không sợ hãi chỉ là giả bộ trước mặt Quân Vỹ mà thôi. Lấy tay che mắt, nghĩ đến cảnh tượng một tháng trước, trong đêm trăng gặp con sói, đêm đó ánh sao mênh mông như dát bạc lên triền núi, có một người đứng trước mặt tôi mỉm cười: “Không nhận ra con sói đi theo hay sao?”, rồi vỗ lưng tôi an ủi: “Đừng sợ, con sói bị giết rồi, còn sợ gì nữa?”. Rõ ràng biết nước mắt cũng chẳng ích gì, nhưng lại không kìm được, trong màn mưa lạnh cô đơn, một lần nữa tôi bật khóc, nước mắt chảy dài theo kẽ ngón tay, tôi nhớ chàng: “Mộ Ngôn, chàng ở đâu, em sợ lắm”. Em sợ lắm. Không biết thời gian đã trôi qua bao lâu, mưa vẫn không có dấu hiệu ngớt, vẫn ầm ầm trút nước. Thấp thoáng nghe thấy tiếng gầm gào, hình như là tiếng hổ gầm. Tôi khó nhọc đứng lên, thầm nghĩ, dùng đá ném liệu có được, kết quả là không được. Sức lực yếu ớt đâm chết một con báo chưa trưởng thành là do ông trời ngủ gật, lại còn muốn giết một con hổ trưởng thành có lẽ phải chờ ông trời ngủ mãi không tỉnh. Tôi không hy vọng lại gặp may lần nữa. Không biết viên giao châu bị con hổ nuốt chửng sẽ thế nào. Quân sư phụ nói viên giao châu được phong ấn Hoa Tư dẫn huyền bí, với công lực tự thân đã có thể làm cho người chết sống lại trong ba năm. Tôi không biết nó sẽ khiến cho con hổ sống thêm bao nhiêu năm. Tình huống xấu nhất sẽ là sau tối nay trên đời sẽ xuất hiện một con hổ trường sinh bất lão, lại không phải là Tiểu Hoàng, không biết sẽ tác động thế nào đến cân bằng sinh thái. Tôi chạy thục mạng ngược hướng con hổ, thực ra thế nào cũng được, tôi chẳng có tài cán gì, có lẽ không thể sống qua đêm nay, nhưng dù không thể sống mà ra khỏi khu rừng này cũng không thể gây hại cho người khác. Mặc dù hơi sợ, tôi vẫn nắm chặt con dao găm đã bị nước mưa xối rửa sạch sẽ, run run thử ướm vào ngực mình. Nếu bị con hổ phát hiện, phải đâm dao vào ngực, nhất định phải hủy viên giao châu. Tôi căng thẳng chờ đợi, không nghe thấy tiếng hổ gầm nữa, chỉ có tiếng bước chân loạng choạng vang lên sau lưng. Trời mưa to như vậy nhưng tôi vẫn nghe thấy hơi thở gấp gáp của người đó. “A Phất”. Tiếng gọi khàn đến mức không giống giọng của chàng. Tôi đang ngây người đứng đó, chờ đợi cả nghìn vạn năm nhưng không có can đảm ngoái đầu. Khóe mắt liếc thấy thanh kiếm trong tay chàng, miếng thạch ngọc khảm trên chuôi kiếm phát ra ánh sáng màu lam lóng lánh, ánh lên một góc tay áo đỏ như đóa yên chi, trông tuyệt vời nho nhã. Đó chính là chàng. Có thể cảm thấy bàn tay chàng chầm chậm đặt lên vai tôi, hơi ngừng lại rồi kéo tôi vào lòng. Mưa trút xối xả nhưng tôi không nghe thấy bất kỳ âm thanh nào, chỉ cảm thấy thiên hoang địa lão, bể dâu cũng hóa thành tro bụi. Môi chàng áp sát vành tai tôi, tôi nghe thấy hơi thở dần bình ổn của chàng, một lúc lâu sau chàng khẽ nói: “Cô làm tôi sợ chết đi được”. Đó chính là chàng, rõ ràng không ngửi được nhưng tôi lại cảm thấy hương hoa mai thoang thoảng quanh mình, hai tay run run ôm lấy cánh tay chàng tựa như nhìn thấy một vạn bông mai nở trên núi tuyết. Đó chính là chàng, tôi nghe thấy giọng mình run rẩy: “Tôi tưởng không bao giờ được gặp huynh nữa”. Chàng ôm chặt hơn nhưng vẫn thận trọng né tránh vết thương ở bả vai do vuốt con báo gây ra, ngón tay lạnh lẽo vuốt ve mắt tôi. Một khắc trước còn cảm thấy không thể sống qua đêm nay, còn lúc này Mộ Ngôn đã ở đây, tất cả mọi bất an đã hóa thành tro bụi bay đi, nhưng nỗi buồn lại ứ dâng, vốn định tỏ vẻ bất cần, không muốn để chàng nhìn thấy sự yếu đuối bi lụy của mình nhưng không thể, nước mắt đã trào ra, tôi khóc nức nở, càng khóc càng không kìm được, Mộ Ngôn lặng lẽ ôm tôi, ngón tay dán vào mặt nạ, lau nước mưa và nước mắt. Nhưng chỉ uổng công, lát sau chàng áp má vào trán tôi, thở dài. Bấy lâu nay, tôi luôn nghĩ nếu tôi có một người trong lòng, nhất định sẽ đem mọi sung sướng khổ đau của mình phổ thành khúc nhạc gảy cho chàng nghe. Người của lòng tôi, lúc này, đang ở đây. Không nhìn rõ bóng chàng, chỉ cảm thấy người mình từ từ quay lại. Những ngón tay lành lạnh lướt qua mái tóc, dừng lại trên đuôi mắt tôi: “Có tự đi được không?”. Tôi gật đầu, ngừng một lát, lại lắc. Người bị nhấc bổng lên, giọng ai sát bên tai: “Không biết bị đau chỗ nào, nếu đau thì nói”. Tôi lắc đầu, ngừng một lát, lại gật. Nhất định chàng thấy tôi rất đáng thương, sự xót thương một con chim sẻ bị bắn gẫy cánh, rất hy vọng sẽ là tình yêu, ước gì được như thế. Tôi biết mình mù quáng, nhưng cho dù mù quáng, tôi cũng muốn mù quáng thêm lát nữa. Tôi được Mộ Ngôn bế về quán trọ, suốt chặng đường không ai nói gì, mưa vẫn không ngớt. Trước cửa quán trọ, Chấp Túc xa cách đã lâu tay cầm chiếc ô đứng đợi. Không biết tại sao cô ấy đột nhiên xuất hiện, có lẽ hộ vệ của Mộ Ngôn vẫn bí mật bám theo suốt dọc đường, tuy không lộ diện nhưng vẫn theo dõi hành tung của chủ, khi chủ gặp nguy hiểm lập tức ra tay. Chấp Túc thu cái ô lại, định đón tôi từ tay Mộ Ngôn, tôi đang do dự không biết có nên đứng xuống, lại cảm thấy bàn tay ôm khoeo chân và eo mình xiết chặt. Nhờ ánh sáng của ngọn đèn lồng, tôi ngẩng đầu nhìn rõ bờ môi mím chặt, mái tóc ngấm mưa ướt đẫm, sắc mặt trắng xanh của Mộ Ngôn. Chưa bao giờ thấy chàng tỏ ra lạnh lùng như vậy, như lớp lớp băng đóng trên mặt sông mùa đông. Tôi giơ tay định bám vai chàng, tay vừa chạm vào cổ áo, bàn chân chàng trên sàn nhà trọ đã dừng lại: “Đau à?”. Nước mưa nhỏ từ tóc xuống, từng trận gió lớn làm ngọn đèn lồng trong tay Chấp Túc chao đảo, cuối cùng tắt phụt. Trong bóng tối, tôi len lén ôm cổ chàng, không thấy có phản kháng, khẽ trả lời: “Không đau”, nghĩ một lát, lại hỏi chàng: “Tôi nặng lắm phải không, huynh vất vả quá!”. Tôi biết chàng sẽ trả lời thế nào, nhất định là nửa cười nửa không châm biếm tôi: “Cũng nghĩ đến sự vất vả của tôi cơ đấy?”. Nhưng lần này chàng không nói như vậy. Có vật gì khẽ chạm vào đầu, phả hơi âm ấm. Tôi nghĩ ra đó là gì, mặt chợt nóng bừng. Hành lang ván gỗ của quán trọ kêu cót két dưới chân. Cửa phòng mở ra, tôi thấy sau bức bình phong vẽ khóm hoa tử oanh thấp thoáng cái chậu gỗ to nước bốc hơi nghi ngút, khiến ba chiếc đèn lồng treo trên giá đồng đen loang loáng nhập nhòe. Mộ Ngôn để tôi xuống, kiểm tra vết thương trên người tôi, phát hiện chỉ có mấy vết xước trên vai do vuốt con báo cào rách, gọi Chấp Túc lại dặn dò. Sau đó như muốn đi ra, tôi vội túm ống tay áo: “Huynh định đi đâu?”. Mặt chàng cuối cùng lộ ra nụ cười: “Đi thay quần áo, cô tắm đi, lát nữa tôi quay lại”. Mặc dù nghe nói Chấp Túc rất giỏi băng bó vết thương cũng phải uyển chuyển từ chối, đành bịa ra một lý do, cô ấy bán tín bán nghi, nhưng có lẽ cảm thấy con người tôi đầy bí hiểm, nên vẫn đi ra để mặc tôi tự lo liệu. May vẫn còn giữ được một lọ thuốc trị thương Quân sư phụ đưa cho lúc lên đường, tuy bị ngấm chút nước mưa nhưng vẫn dùng tốt. Bôi thuốc lên vết thương, thay quần áo sạch xong, tiếng gõ cửa của Mộ Ngôn vang lên, vẫn là kiểu gõ thong thả ba tiếng. Cửa mở, Mộ Ngôn hiện ra trước ngưỡng cửa, toàn thân áo chùng đen, tay và cổ áo nổi những hoa văn thêu chỉ bạc, tay bê bát nước gừng kháng hàn. Tôi chờ chàng đến, lúc tắm đã nghĩ chàng đến làm gì, nghĩ mãi rồi cảm thấy chàng đến làm gì không quan trọng, chỉ cần được ở bên chàng thêm một khắc, cho dù chàng đến chỉ để đưa bát nước gừng uống cho ấm bụng. Kết quả chàng quả nhiên đến đưa bát nước gừng, ý nghĩ đầu tiên của tôi là mình thật ngốc, sao vừa rồi không giả thiết chàng đến thổ lộ tình yêu với mình. Sì sụp uống hết bát nước gừng vẫn không thấy chàng có ý đi ra, ngồi bên giường ngây ngây nhìn tôi uống cạn giọt nước gừng cuối cùng, lát sau nói: “Khi tôi mười hai tuổi lần đầu tiên theo phụ thân xuất chinh”. Đây là câu chuyện kể tuyệt vời trước khi ngủ, tôi để cái bát không lên chiếc bàn nhỏ cạnh đầu giường, kéo cao chăn, tựa đầu giường nghe chàng kể. “Lúc đó tuổi nhỏ khí hăng, trúng kế dụ binh của địch, bị kẹt ở giữa vùng núi sâu vắng vẻ. Cũng là một đêm mưa, một trăm tinh binh dưới tay bị thiệt mạng, xác ngổn ngang trên núi, khó khăn lắm họ mới bảo vệ được tôi, giấu vào một hang núi, trong hang tôi nghe thấy phía xa có tiếng mãnh thú gầm gừ tranh mồi, biết là chúng đang tranh nhau xác chết của binh sỹ mình. Lúc đó tôi cũng bị trúng tên, dù im lặng nằm một góc, mùi máu tanh cũng sẽ dụ chúng đến, biến thành bữa tiệc cho chúng. Nhưng nếu đốt đuốc đuổi thú dữ, sẽ bị địch phát hiện, cả hai đều là đường chết. Chàng chống tay lên trán, tựa như suy nghĩ, dáng tư lự khác hẳn bộ dạng tôi thường thấy. Xem ra chàng cũng không thường xuyên kể chuyện cho em gái nghe, bởi vì câu chuyện kể trước khi ngủ nên là những chuyện tình cảm nhẹ nhàng, không nên hồi hộp thót tim như vậy, tôi nắm chặt ống tay áo chàng, sốt ruột giục: “Sau đó thế nào?”. Mộ Ngôn ngước nhìn tôi, dưới ánh đèn, mắt chàng đen thẳm như biển sâu: “Tôi sống đến bây giờ, tình huống gay go nhất đã gặp chỉ có lần đó, nhưng lúc đó tôi không hề thấy sợ”. Tôi gật đầu: “Ờ, huynh rất dũng cảm, nhưng, nhưng, về sau thế nào, huynh làm sao thoát ra được?”.
|
Chàng cầm cốc trà lên, không trả lời câu hỏi của tôi, xoay xoay trong tay: “Vốn đã tưởng ngay tình huống đó cũng không thấy sợ, có lẽ trong cuộc đời này sẽ chẳng sợ gì nữa”. Ngừng một lát, chàng ngước mắt nói: “Bao gồm cả lần tôi bị Tử Yên đâm trúng mà cô nhìn thấy”. Thấy tôi ngạc nhiên, chàng cười rất nhẹ, vẫn xoay cốc trà bằng gốm thô trong tay: “Tôi đã tính rồi, dùng tư thế đó, cô ấy sẽ đâm trúng chỗ nào trên người tôi, tôi sẽ bị thương như thế nào, cần dưỡng thương bao lâu, có bao nhiêu thời gian để cho tiểu đệ của tôi thừa cơ phản loạn”. Chiếc cốc trong tay chàng đã xoay một vòng, “Chuyện này rất nguy hiểm, chỉ cần sai sót một chút là có thể mất mạng, nhưng đến khi con dao đâm xuống theo dự đoán, tôi điều chỉnh tư thế cho dễ chịu hơn, cũng không cảm thấy sợ hãi bao nhiêu”. Chiếc cốc gốm chuyển sang tay trái, chàng thản nhiên nói: “Hình như tôi sinh ra đã không biết sợ, bẩm sinh đã thiếu cảm giác đó”. Tôi kinh ngạc không nói ra lời, một lát sau chỉ có thể nói một câu: “Ngộ nhỡ bị đâm chết thì sao?”. Nghĩ đến Tử Yên cô nương, nghĩ đến chàng, đến kế hoạch chu toàn đó của chàng, quan hệ giữa chàng và Tử Yên cô nương là thật hay giả, nhưng cũng không mấy bận tâm, điều bận tâm nhất vẫn là ngộ nhỡ thì sao? Ngộ nhỡ lúc đó chàng bị Tử Yên cô nương đâm chết, chết trước mặt tôi, tôi tìm chàng cả đời, cuối cùng chứng kiến chàng thân mình đẫm máu nằm trước mặt, lại không biết chàng là ai. Tôi thở phào, may ông trời không để chuyện đó xảy ra. Cốc trà được để lên bàn, ánh nến chao đảo, chàng khe khẽ lặp lại “ngộ nhỡ” nhưng lại khẽ cười: “Sẽ không có ngộ nhỡ nào hết. Giống như giải một đề toán, có một vạn bước, mỗi bước đều chính xác, nghĩa là một vạn trên một vạn. Sẽ không xảy ra sai sót một phần vạn nào hết, nếu có, chỉ là do khi giải, tính toán không cẩn thận…”. Tôi ngắt lời chàng: “Nhưng sự đời không phải mọi chuyện đều như giải đề toán, con người có tình sẽ thấy sợ hãi, khi sợ hãi nhất định lo lắng đến tình huống ngộ nhỡ”. Chàng chống tay lên trán: “Sao? Vậy cô nói xem, A Phất, tại sao người ta sợ?”. Vấn đề này hoàn toàn không cần suy nghĩ, “Bởi vì có những thứ muốn giữ gìn bảo vệ”. Chàng nhìn tôi rất lâu, chậm rãi nói: “Cô nói đúng, đó là nguyên nhân tối nay lần đầu tiên tôi đã thấy sợ”. Không biết thế nào, câu chuyện lại đột nhiên chuyển hướng như vậy, đầu óc phản ứng không kịp, lúc sau, tôi ngây ngây nhìn chàng: “Nhưng huynh nói chưa bao giờ huynh sợ…”. Chàng giơ tay nắm tay tôi: “Tối nay tôi rất sợ”. Tôi sững người, khi hiểu được chàng đang nói gì, toàn thân bỗng cứng đờ, tay hơi rụt lại một cách bản năng lại bị chàng nắm chặt: “Là tôi đã sai, không nên để em một mình trong quán trọ”. Tôi bối rối: “Cũng không thể trách huynh…”. Chàng bổ sung: “Biết rõ em ngốc như vậy, thân thủ không tốt, lại dễ tin người”. “ … Đủ rồi”, tôi bực mình nhìn chàng, “Thực ra là huynh…”. Lại bị chàng ngắt lời: “Tôi thích em”. Sự chuyển hướng quá đột ngột khiến người tôi bủn nhủn. Tay run run. Những lời hay như vậy, chuyện tốt như vậy, đây nhất định là đang nằm mơ. Cơ hồ nhắm mắt theo bản năng, bốn bề yên tĩnh, chỉ nghe tiếng mưa nhỏ dần bên ngoài. Quả nhiên là mơ, chẳng phải thường nghe thấy những chuyện như thế sao, làm gì có bánh nướng từ trên trời rơi xuống. Cánh cửa sổ “cạch” một tiếng, tôi giật nảy mình, mở mắt, nhìn thấy một con chim sẻ ướt đẫm bay vào, loạng choạng trong phòng. Căng thẳng nhìn lướt phía trước giường, vật đầu tiên lọt vào mắt là một đôi giày, nhích lên một chút, Mộ Ngôn nhăn nhó nhìn tôi: “Tôi đang chờ em trả lời, em nhắm mắt giả bộ ngủ là ý gì?”. Hóa ra không phải chiêm bao. Tôi líu lưỡi lắp bắp, hỏi lại: “Trả… trả lời gì kia?”. Chàng cầm bàn tay tôi để bên ngoài chăn, nắm chặt trong tay mình, mỉm cười chăm chú nhìn vào mắt tôi: “Tôi thích em, A Phất, có phải em cũng thích tôi?”. Tôi hoang mang nhìn chàng, đầu óc đột nhiên trống rỗng, nghe thấy giọng nói bình tĩnh của mình: “Thích mà huynh nói là như thích em gái sao? Nếu là thích như vậy, tôi cũng thích huynh như thích anh trai…”. Chẳng biết mình đang nói gì. Chàng khẽ kéo tôi lại, hơi cúi đầu, như vậy có thể bốn mắt nhìn nhau. Chàng nhìn tôi, vẻ mặt nghiêm túc xa lạ, nói từng tiếng: “Em nghĩ tình cảm của tôi với em là thế nào? Trước đây tôi đã nói, lấy tôi có nhiều cái hời. Nếu cả đời tôi chỉ lấy một mình em, em có đồng ý lấy tôi?”. Tôi nhìn thấy biển hoa mai trắng dâng lên, dệt thành một tấm thảm trắng, dâng dần dâng dần trong màn mưa đêm, lạnh buốt, trải khắp phòng. Thực ra đều là hoang tưởng, như cái đêm sao sáng lần đầu tôi gặp chàng đó, cảm tưởng như nhìn thấy hoa mai trắng tháng hai nở đầy triền núi. Trên môi chàng nở nụ cười, lặng lẽ, lặng lẽ nhìn tôi, gió lạnh lùa qua cửa sổ, hoa tử vi bên ngoài chi chít đầy cành, rung rung trong gió, cánh hoa tím lặng lẽ khoe sắc trong đêm. Ông trời để chúng tôi tái ngộ đã là phúc lớn, trong lòng tôi cũng thầm mơ ước chàng thích tôi, nhưng chưa bao nghĩ điều đó sẽ thành hiện thực, chưa bao giờ, chàng hỏi tôi có bằng lòng không, sao có thể không bằng lòng. Nhưng tôi đâu có thể được gọi là con người. Tôi như vậy, muốn ôm chàng cũng không dám. Sống và chết là hai cõi khác nhau, chỉ là tôi quá quyến luyến. Đây là người tôi thích nhất, lòng âm thầm trân trọng chàng, muốn bảo vệ chàng, không bao giờ muốn hại chàng. Gật đầu là chuyện dễ nhất, nhưng nếu có một ngày, chàng biết người chàng yêu thương là một người chết, chàng sẽ ra sao? Tôi sẽ ra sao? Như qua cả một cuộc đời, tôi lấy hết can đảm nắm tay chàng, run run đặt lên mũi mình. Sắc mặt chàng có chút lạ lùng, tôi không dám nhìn biểu hiện tiếp theo của chàng, cố kìm nỗi cay đắng trong lòng: “Có cảm thấy gì không…? Mộ Ngôn, tôi không có hơi thở”. Ngón tay chàng hơi dừng lại, đã nói ra được câu đó, dường như tôi có thể thẳng thắn nói ra tất cả: “Có phải rất nhiều lúc huynh ngạc nhiên tại sao tôi không thấy đau”. Tôi cắn môi, khó nhọc đẩy cái vật chắn trong họng, “Bởi vì tôi hoàn toàn không cảm thấy đau, cũng không ngửi thấy mùi hương hoa nồng nàn, cũng không ngửi thấy mùi cao lương mỹ vị của tửu lầu mà huynh ca ngợi. Tôi tỏ ra rất thích bánh chẻo nhân tôm, thực ra ăn nó không có vị gì, chỉ là trước đây, trước đây tôi từng thích món đó”. Ngẩng đầu, hai tay che mắt, nước mắt bắt đầu tuôn, tất cả đã hết. Ép chặt vào đầu giường như bám vào khúc gỗ nổi giữa biển nước mênh mông: “Huynh nói huynh muốn lấy tôi, tôi cầu mong không được, nhưng tôi thế này, huynh còn dám lấy không?”. Tất cả đã hết. Hồi lâu sau, ngón tay lành lạnh của chàng dừng trên tai tôi, men theo lớp mặt nạ bạc từ từ trượt lên trán. Với tâm trạng bát nước đã đổ, không thể cứu vãn, tôi đợi chàng lột mặt nạ của mình. Khi mặt nạ được nhấc ra, tôi không dám mở mắt nhìn, chàng nhất định hoảng sợ khi thấy khuôn mặt trắng nhợt của tôi, nhất định nhìn thấy vết sẹo dài trên trán tôi, một khuôn mặt xấu xí chấp chới giữa sống và chết, cảm giác của chàng sẽ thế nào? Tôi từng nghe một câu chuyện, một con rối bằng gỗ đem lòng yêu chủ nhân của mình, do nhân duyên ngẫu hợp thế nào bị một thuật sĩ làm bùa phép biến thành một cô gái, cuối cùng lấy được người mình yêu, nhưng đến ngày bùa phép hết công lực, chủ nhân đã sợ hãi ngất xỉu khi con rối hiện nguyên hình, con rối với trái tim thiếu nữ gục ngã bên cạnh chủ, cuối cùng dùng thanh kiếm tự kết liễu đời mình. Tôi lúc này giống như con rối đó, chủ nhân của cô hoảng sợ khi nhìn thấy cô, nhưng không biết cô còn sợ hơn anh ta vạn lần. Ngón tay từ giữa hai hàng lông mày từ từ vòng qua trán, di chuyển về tai trái, chính là chỗ vết sẹo đó, là nơi tôi không muốn chàng chú ý nhất, nhưng ngón tay chàng thậm chí đã dừng ở đó, người run lên, tôi chờ câu nói của chàng, “Duyên phận đã hết, chúng ta đoạn tuyệt từ đây”, câu Quân Vỹ thường viết trong tiểu thuyết. Tóc mai bị vén lên. Trong tiếng cánh cửa sổ bị gió thổi va lạch cạch, giọng chàng rất nhẹ: “A Phất, mở mắt nhìn tôi”. Tôi căng thẳng nắm chặt ống tay áo, vừa cảm thấy không thể từ chối đề nghị đó vừa sợ mở mắt nhìn thấy cái không muốn nhìn. Cuối cùng tình cảm chiến thắng lý trí, tôi mở mắt ngước nhìn, thần sắc trên mặt Mộ Ngôn quả nhiên lạ lùng chưa từng thấy, nhưng không phải là vẻ kinh hoàng, khiếp sợ hay ghét bỏ, giống như đứng trước một trận chiến không biết thắng hay thua, điềm tĩnh đến mức tựa như trang nghiêm. Tôi ngây ngây nhìn chàng. Cặp mày hơi cau của chàng cuối cùng giãn ra, kéo tôi lại gần hơn: “Chuyện đó em có thể tự nói ra với tôi, tôi rất vui”. Tôi giơ tay che vết sẹo trên trán: “Huynh, huynh không sợ sao?”. Chàng lắc đầu, như nghe thấy chuyện buồn cười: “Tại sao lại sợ?”. Sao có thể không sợ, có lúc ngủ mơ, nghĩ đến bản thân sống như chết, chính mình cũng thấy sợ, sao chàng lại bình tĩnh chấp nhận như vậy. Đối diện với gương mặt bối rối phản chiếu trong chiếc gương đồng, tôi lùi vào bóng tối, cười đau khổ, “Tôi không giống một người sống thực sự, hơn nữa, huynh nhìn thấy rồi, tôi là một quái vật xấu xí”. Chàng kéo tôi ra khỏi bóng tối, nhìn kỹ tôi, nơi ánh mắt chàng quét qua, da thịt tôi như bị lửa thiêu, rồi lại bị dìm trong băng lạnh. Tôi ngoảnh mặt sang bên, trong cái nhìn hai tầng băng hỏa tương khắc đó, chàng nghiêng người gỡ bàn tay tôi đang ôm trán, nắm trong tay mình: “Tại sao lại cho rằng mình xấu xí, nếu như ngay… danh chấn thiên hạ…”. Nói đến đó, chàng cúi đầu cười, như tự nói với mình: “Tôi vốn nghĩ đó chỉ là… nhưng không ngờ lại đúng như vậy”. Khi ngẩng đầu chàng lại giơ tay vuốt ve vết sẹo trên trán tôi, “Nếu hồi đó tôi có thể đoán ra, chúng ta…”. Nhưng cuối cùng lại không nói hết. Tôi không biết chàng định nói gì, chỉ lờ mờ hiểu, đó là điều tôi không thể, cũng không cần tìm hiểu. Bàn tay chàng dừng trên má tôi: “Vui lên đi, vết sẹo nhỏ đó không ảnh hưởng đến nhan sắc của em, em là cô gái đẹp nhất tôi từng gặp”. Ngón tay chàng lau nước mắt cho tôi, chăm chú nhìn mắt tôi, “Những chuyện đó đã có tôi, em chỉ cần cố sống đến khi tôi tìm ra cách, có làm được không?”. Ngoài gật đầu tôi không thể làm gì khác. Nếu đây là mộng, cả đời này tốt nhất tôi không nên tỉnh lại. Chính trong lúc tôi gật đầu lia lịa, một miếng ngọc bội vân mây xâu chỉ đỏ đã tròng vào cổ tôi. Bạch ngọc Dương Chi trước ngực sáng lóng lánh, chàng ngắm nghía kiệt tác trước ngực tôi, môi cười rất đẹp: “Đây là tín vật của tôi, tôi đưa cho em vật quan trọng nhất thân mẫu để lại cho tôi, em trao tôi vật gì?”. Tôi không biết nên trao chàng vật gì, tìm khắp người, lục tung mọi thứ, gia tài của tôi gồm có lọ thuốc trị thương đã dùng hết nửa, con hổ ngọc của chàng đưa lần trước, một bức họa nhỏ vẽ trộm chân dung chàng, chiếc trâm bạch ngọc vân hoa mua cho chàng nhưng vẫn chưa đưa. Chàng hiếu kỳ nhìn tôi: “Đây là…”. Tôi đẩy những vật đó đến trước mặt chàng: “Tùy chàng chọn”. Tôi không có tiền, không mua được những thứ quý hiếm, chỉ mong những thứ lặt vặt đó có thể chàng sẽ thích. Chàng nhìn tôi một lát, nhặt lên chiếc trâm bạch ngọc: “Em vẽ bức họa đó là để đổi lấy chiếc trâm này tặng tôi?”. Tôi bối rối gật đầu, ngượng nghịu giải thích: “Nghe nói đó là loại ngọc cổ, đã có hai trăm tuổi, chế tác cũng khéo, do một thợ nổi tiếng nào đó làm ra, ông chủ nhất định đòi ba trăm thù vàng…”. Lời chưa dứt bỗng thấy ánh nến hơi tối, chàng đã nghiêng người, bất ngờ hôn vào môi tôi. Có thể cảm thấy hơi thở âm ấm bên má. Tôi sững người nhìn chàng, không biết rằng, trong tình huống như thế này hầu hết các cô gái sẽ nhắm mắt. Khuôn mặt đẹp kề sát, hàng mi dài, ánh mắt như cười. Tôi thật vô dụng, ngay hôn cũng không biết, chàng bèn nhẫn nại chà xát, dụ dỗ, dùng môi tách môi tôi, để chàng ngọt ngào mút mát. Nghĩ đến con đường gập ghềnh đã qua, mắt cay cay, nước mắt bỗng trào ra. Chàng áp trán vào trán tôi, lấy tay lau nước mắt không ngừng trào ra của tôi, mỉm cười chế giễu: “Đồ mau nước mắt”. Tôi bám lấy chàng, ôm chặt cổ chàng nức nở: “Em không mau nước mắt”. Tay chàng vò rối tóc tôi: “Sao? Có lý lẽ hay ho gì nói nghe nào?”. Tôi nhích ra một chút: “Được, em mau nước mắt. Nhưng mau nước mắt không phải là xấu. Em cảm thấy nước mắt là thứ không cần kìm nén nhất trên đời, có lúc em cũng muốn kìm nén, để mọi người thấy em rất kiên cường, bởi vì về sau em hiểu rằng kiên cường chỉ là một phẩm chất của lý trí, mau nước mắt không phải không kiên cường, sau khi khóc xong vẫn có thể đứng dậy, có thể nhìn rõ nên đi con đường nào, làm việc gì, em muốn là một người như thế. Chàng nghĩ coi, nếu như ngay nước mắt em cũng phải nén vào trong, những nỗi lo lắng, sợ hãi và cả hạnh phúc của em nên lấy gì để chứng minh, lấy gì chứng minh em vẫn còn sống”. Ánh lửa chiếu lên đôi mắt sáng, sâu như biển của Mộ Ngôn, như có vì sao ở bên trong, ngoài cửa sổ mưa gió đã yên. Lúc sau, chàng kéo tôi vào lòng: “A Phất, từ nay em có thể cứ khóc thoải mái cho tôi nghe”. Tôi gục vào vai chàng, giống như một giấc mộng lớn, đây là điều lòng tôi hằng khao khát, là Hoa Tư mộng của tôi, tóc chàng chà vào mặt tôi, có một cái cây nhỏ đang lớn dần trong lòng tôi, nở đầy một tán hoa, bóng hai người ôm nhau in lên bức rèm màu tím ngập tràn trong mắt tôi. Chú thích: (1) Trung Quốc cổ đại có chín châu, Dự Châu ở giữa gọi là Trung Châu. Ngày nay chỉ khu vực tỉnh Hà Nam, thuộc vùng trung du sông Hoàng Hà.
|
Chương 2 Buổi sáng hôm nay, cuối cùng chúng tôi nhận được thư của Quân Vỹ, được biết anh ta đang ở cùng với Bách Lý Tấn. Thư viết, lúc này hai người đang ở Bối Trung tập trung nghiên cứu một bí thuật, bí thuật đó là làm thế nào dùng thuốc điều khiển chính xác sự chuyển biến từ người thành thú. Những bí thuật lưu truyền xưa nay Quân Vỹ không hề biết, anh ta không nên nhúng tay vào những việc đó mới phải, có lẽ ngẫu nhiên gặp Bách Lý Tấn, bị anh ta lôi kéo đi làm những việc không công. Thư cho biết, nghiên cứu hiện đang ở giai đoạn sơ khai, muốn chuyển đổi thành công, trước hết phải tìm ra bí dược khiến người ăn xong biến thành dã thú, hỏi tôi có đề nghị nào hay. Tôi cho là không có bí dược biến người thành thú, muốn biến thành thú, có thể mua ít xuân dược kích dục, con người sau khi dùng xuân dược đó sẽ trở nên giống cầm thú, càng dùng nhiều càng giống cầm thú, rồi sinh ra một đống tiểu cầm thú… Mộ Ngôn nghe vậy, suy nghĩ một lát, quyết định đổi ý đích thân đưa tôi đến Bối Trung. Chuyện này cảm giác giống như các bậc phụ huynh trước khi đi đâu đó làm việc lớn nhất định phải đưa con cái gửi gắm một nơi nào đó, kết quả những bậc phụ huynh đi làm việc lớn kia thường không hay trở về hoặc không thể trở về nữa, những đứa con để lại lần lượt trở thành trẻ hư… Tôi cảm thấy một cách bản năng nên đi theo Mộ Ngôn, nhưng chàng cho là tôi nên chờ đợi ở một nơi an toàn, Bối Trung là một nơi an toàn, tuyệt đối sẽ không có sơ sẩy gì. Mặc dù lập tức bày tỏ có thể cùng chàng đồng cam cộng khổ nhưng lại bị phản bác: “Một số nơi rất nguy hiểm với phụ nữ, còn đối với đàn ông chỉ là hơi nhạy cảm một chút, em đến đó mới làm tôi lo lắng”. Tôi cảm thấy nên tin tưởng chàng, nhưng vẫn phải dùng thủ thuật để chàng bỏ ý định đưa tôi đến chỗ Quân Vỹ: “Chàng không biết sao, Quân Vỹ từ lâu đã nói muốn lấy em, sao chàng ngốc thế, nhất định đưa em đến bên anh ta, như vậy không an toàn”. Nói câu đó xong, mới sực nhớ ra là chàng luôn thích khiêu chiến, lập tức tôi bị nhấc lên ấn vào xe ngựa: “Anh ta cứ thử xem”. Đi thâu đêm, đến thẳng Bối Trung. Hai nước Vệ, Trần chung một con sông, đó là Đoan Hà, Đoan Hà bắt nguồn từ Bối Trung của nước Trần. Nhưng Bối Trung không nổi tiếng bởi con sông đó, mà nổi tiếng bởi có dòng họ Công Nghi làm nghề đúc kiếm lừng danh thiên hạ. Nghe đồn dòng họ Công Nghi tồn tại từ xa xưa, tổ tiên từng tham gia cuộc quyết chiến giữa con người với sứ thần nhà trời ở bồn địa đá, sau đó buông kiếm chuyển sang buôn bán, lập nghiệp ở đất Bối Trung, nhiều đời làm nghề đúc kiếm, do từng lập công với Trần triều nên được hưởng nhiều đặc quyền, đến khi Trần quốc phong đất, gia sản đã giàu có vô địch thiên hạ. Mỗi đời Trần vương đều gả một vị công chúa sủng ái nhất cho dòng họ đó, khiến dòng họ Công Nghi có những quan hệ chằng chéo về huyết thống hết sức phức tạp với vương thất Trần quốc. Người trong thiên hạ cho rằng, mục đích nước cờ đó của Trần vương là hướng tới tài sản khổng lồ của dòng họ Công Nghi, nhưng tôi không nghĩ như vậy. Tuy nhiên bất luận thế nào, dòng họ Công Nghi có bảy trăm năm lịch sử được kế truyền hai mươi nhăm đời đã bị hủy diệt bởi một trận đại hỏa hoạn bảy năm trước. Bảy năm trước quả thật đã xảy ra không ít biến cố, lúc đó tôi còn nhỏ không biết, sống trong Thanh Ngôn tông, tin đồn về một gia tộc ở xa xôi đâu đó bị hủy diệt bởi một trận đại hỏa hoạn lọt qua những bức tường sừng sững của quốc tông giáo truyền đến tai tôi, tôi cảm thấy chuyện đó chẳng liên quan đến mình. Sư phụ nói: “Con là công chúa nước Vệ, cũng nên hiểu ít nhiều thế sự thiên hạ, dòng họ Công Nghi giàu có như thế, bị hủy diệt khác nào chặt mất một cánh tay của Trần vương, bất luận thế nào đối với nước Vệ cũng là chuyện tốt”. Tôi thầm nghĩ, ai biết chuyện đó không phải do Trần vương gây ra? Sư phụ trầm ngâm hồi lâu, sau đó lần đầu tiên tôi được nghe sư phụ kể về truyền thuyết hung thú Thiên Hà. Hung thú Thiên Hà, sau nghìn kiếp nạn máu chảy thành sông là thần hộ vệ của dòng họ Công Nghi, ngủ yên dưới đáy sông, bảo vệ dòng họ Công Nghi đời đời thái bình. Thực ra tôi hơi nghi ngờ, cảm thấy cái gọi là hung thú đó sao có thể gọi là Thiên Hà, giả sử nhất định phải có ngụ ý sau khi trải qua nghìn tai họa máu chảy thành sông, gọi là Hậu Hà cũng hay hơn Thiên Hà. Nhưng đó không phải là vấn đề chủ yếu, vấn đề chủ yếu là, tại sao một gia tộc cường thịnh như vậy, lại có riêng một vị thần bảo hộ, lại có thể bỗng chốc bị hủy diệt tan tành, Trần vương không làm được, chỉ có một lý giải duy nhất, dòng họ Công Nghi bị chính vị thần bảo hộ đó hủy diệt. Bài học tôi rút ra được từ câu chuyện này là nuôi thần hộ vệ cũng rất nguy hiểm, còn sư phụ lại nhìn xa hơn: “Rất nhiều việc có nhân mới có quả, có quả tất có nhân, dòng họ Công Nghi bị tai họa triệt diệt như vậy tất có nhân từ xa xưa, ví như một ngày nào đó Vệ quốc bị diệt, cũng do nguyên nhân từ xa xưa, con có thể không hiểu nhân quả, nhưng con phải nhìn thấy hậu quả, trước khi làm gì hãy nghĩ tới hậu quả”. Ấn tượng của tôi về gia tộc Công Nghi sở dĩ rất sâu chính do những lời dạy đó của sư phụ, những lời đó đến giờ tôi vẫn nhớ, ngoài ra còn cảm thấy nhiều tiền như vậy bị lửa thiêu hết thật đáng tiếc. Đương nhiên một gia tộc lâu đời như thế có thật bị hỏa hoạn tàn phá như đồn đại hay không, đến nay vẫn còn là bí ẩn, nhưng lại có tin đồn, hai năm sau, Công Nghi Phỉ, trưởng tộc đời thứ hai nhăm của gia tộc Công Nghi đã tái dựng môn đình từ đống đổ nát, chàng ta còn là một trang nam nhi tuấn kiệt, chỉ có điều gia tộc Công Nghi sau khi tái thiết không sinh sống bằng nghề đúc kiếm nữa, chuyển sang kinh doanh đất đai, châu báu. Đấy là những tin sau này nghe được . Bỗng dưng nhớ tới chuyện cũ chẳng qua là do lần này nơi Mộ Ngôn định đưa tôi đến chính là gia tộc Công Nghi ở đất Bối Trung. Trước khi chàng trở lại, tôi sẽ chờ ở đó. Suy cho cùng cũng là chuyện thường, người đời chẳng phải luôn ở trong trạng thái chờ đợi và được chờ đợi đó sao, thước đo khoảng cách giữa hai cái đó chính là lòng người. Khoảng cách gần trong gang tấc mà biển trời xa cách ngày xưa hy vọng sau này có thể trở thành xa cách cả biển trời mà gần trong gang tấc, nhưng tốt nhất là chỉ nên gần trong gang tấc thôi. Chưa đầy một ngày đã tới chân núi Cô Trúc, thuộc địa phận Bối Trung. Mộ Ngôn nói Phật Tang uyển, biệt cư của gia tộc Công Nghi tọa lạc trên lưng chừng núi Cô Trúc, ngày mai sẽ có người đến đón chúng tôi lên núi, nghĩ đến lúc này Quân Vỹ và Tiểu Hoàng đang ở gần đây, bất luận là nơi nào, một điều chắc chắn là sẽ gặp lại sau bao ngày xa cách, chắc chắn hơn nữa, khi gặp nhau Quân Vỹ nhất định hỏi thẳng tình hình của tôi từ ngày xa nhau, những vết thương trên vai tôi không thể giải thích với anh ta. Tôi nằm trên giường thầm nghĩ, xa nhau đã lâu tôi cũng hơi nhớ Quân Vỹ, con người anh ta có lúc thần kinh nhập nhằng, nhưng ngoài lúc đó cũng là một người có tiền đồ, nhưng không muốn bị anh ta cằn nhằn, chỉ có cách hoãn cuộc gặp thêm vài ngày. Nghĩ vẩn vơ mãi, đầu óc dần mơ màng, đó là dấu hiệu sắp ngủ. Cái chết chỉ là bóng đêm, vạn vật trên đời rồi cũng đến lúc trở về bóng đêm, những người sống đang nhích từng bước đến bóng đêm đó, đây cũng chính là giấc ngủ của người chết. Khi bóng tối quen thuộc dần dần bao phủ, trước mắt tôi bỗng nhiên hé ra một luồng sáng. Luồng sáng bùng phát tỏa khắp nơi, lát sau dần dần biến mất, thay vào đó là một màn sương mù dày đặc cuồn cuộn lan tỏa, thềm đá màu xanh cao cả trăm bậc ẩn hiện trong sương, cuối những bậc đá tít trên cao là một cái cổng lớn uy nghi. Sương mù lan tràn, tầng tầng hoa phật tang màu vàng trải khắp nửa ngọn núi ẩn hiện trong mênh mang sương khói. Sơn môn sừng sững, cột đá uy nghi, lầu gác trùng trùng, trước lầu môn treo một bức rèm châu ngũ sắc cực lớn, gió lay động bức rèm, tiếng ngọc châu va chạm lanh canh. Bên cạnh bức rèm châu có một cô gái đang đứng, tay giương chiếc ô lớn, cán trúc hơi cong, tán ô màu trắng toát, không có bất kỳ trang trí nào, giống như một món đồ tang, dưới tán ô lộ ra một vầng trán trắng ngần với một dải lụa đen đính ngọc buộc vắt ngang, hai hàng lông mày dài cong như mảnh trăng non, mắt băng lạnh, sống mũi thẳng, môi nhạt màu, hơi mím. Toàn thân cô gái là một màu trắng toát, vật trang điểm duy nhất là mái tóc đen buông xõa tựa dòng thác đen từ trong sương mù đổ xuống, dài chấm gót chân. Một mỹ nhân như tạc từ băng. Cách ba bậc thềm đá màu xanh trên có những vết nứt, một chàng trai áo trắng đang cúi người nhặt lên chiếc vòng tay bằng ngọc màu đen óng ánh, khi ngẩng đầu mới thấy đó là một khuôn mặt hao hao giống cô gái, chỉ có khác cặp lông mày không cong như mảnh trăng non, ánh mắt không lạnh như băng tuyết. Mặc dù cũng xiêm áo trắng muốt như cô gái, nhưng cổ tay áo thêu hoa phật tang bằng chỉ tím, bàn tay cầm chiếc vòng ngọc màu đen lộ ra dưới ống tay áo: “Chiếc vòng này là của cô nương?”. Ánh mắt chàng trai long lanh như cười, “Hình như tại hạ đã gặp cô nương ở đâu?”. Mưa lất phất, những đám rêu xanh trên bậc thềm đá ngấm nước mưa, màu sẫm dần, ở chóp mái hiên hai lớp cong vút nạm bạch ngọc treo tấm gương đồng cực lớn phản chiếu biển hoa màu vàng trên núi. Chàng trai dung mạo tuấn tú, rạng ngời hơi ngẩng đầu nhìn cô gái, trong màn sương mù vần vũ, cạnh tấm rèm ngũ sắc trên bậc thềm, cô giương ô bước từng bước, đôi giày thêu màu trắng ướt nước mưa lộ ra đường viền màu vàng chanh. Dừng lại cách chàng một bậc cô đón chiếc vòng ngọc màu đen bóng loáng nước mưa trong tay chàng, những ngón tay trắng bóc chạm vào tay chàng, chàng nắm tay cô, cô ngước mắt nhìn vẻ mặt hơi ngơ ngẩn của chàng: “Đa tạ”. Cô chờ chàng buông tay, có tiếng sáo từ một nơi không xa nào đó từ từ vọng đến, chàng vẫn nắm tay cô: “Tại hạ là Công Nghi Phỉ ở Bối Trung, dám hỏi quý danh cô nương?”. Cô hơi nâng chiếc ô, ngước nhìn chàng đăm đăm, lát sau, giọng nói trong như tiếng châu ngọc va nhau, lạnh như hoa phật tang nở trong tuyết vang lên: “Vĩnh An, Khanh Tửu Tửu”. Vội mở bừng mắt, nếu có hơi thở tôi nhất định thở hổn hển, bên ngoài một vầng trăng tròn treo cao, ánh trăng lặng lẽ lọt qua cửa sổ, soi trước giường lúc mờ lúc tỏ. Đây không phải là mộng, mà là ý thức tàn dư mà Hoa Tư dẫn viên giao châu phong ấn bắt được, nó vấn vương lơ lửng trên núi Cô Trúc, lẩn khuất trong sương mù, lạnh lùng và cao ngạo, trong suốt như ánh trăng dưới đáy nước giữa phồn hoa cuộc đời, lại như bức tranh thủy mặc dang dở cô đơn đợi chờ ai đó vẽ nốt những nét cuối cùng. Ý thức phiêu du giữa đất trời được Hoa Tư dẫn cảm tri chỉ có thể là ký ức của người chết đối với thế gian, là những ký ức đặc biệt được khắc ghi. Một cánh cổng sơn môn, một bức rèm châu ngũ sắc, một khung trời mờ sương, một chiếc ô trúc, mùa hoa phật tang, một đôi nam nữ tương ngộ, tất cả hình ảnh này nhất định có ý nghĩa đặc biệt nào đó đối với người đã chết. Nhớ lại cảnh tượng vừa nhìn thấy trước sơn môn, tôi thầm nghĩ, người đã chết có thể là chàng trai áo trắng nắm mãi tay cô gái, bất giác thầm tiếc nuối. Nhưng lại nghĩ đến hai cái tên nghe được vừa rồi, cảm thấy có lẽ không đúng, Công Nghi Phỉ ở Bối Trung, nếu không trùng tên, trưởng tộc đời thứ hai mươi lăm của gia tộc Công Nghi hẹn sáng mai xuống núi đón chúng tôi cũng mang tên đó. Nếu vậy… cảnh tôi nhìn thấy có phải là ý thức tàn dư của cô gái áo trắng kia? Thì ra cô mới là người đã chết, Vĩnh An, Khanh Tửu Tửu. Cả đêm không ngủ, tôi luôn cảm thấy có bóng hình ẩn hiện, nhưng lờ mờ không rõ. Ngày hôm sau tỉnh giấc trong tiếng đàn dạt dào như nước, đầy một trời ánh nắng, mấy con chim lạ đậu trên cửa sổ hân hoan ríu rít, là khung cảnh sáng sớm mùa hè. Bước xuống giường vừa dụi mắt vừa mở cửa sổ, mấy con chim vỗ cánh bay vụt đi, ngẩng đầu nhìn ra chiếc sân rộng, thấy Mộ Ngôn đang ngồi khoanh chân dưới gốc cây hợp hoan cuối sân. Hầu như mỗi lần chia tay chàng đều đánh đàn. Chấp Túc đứng bên cạnh, không xa có một chàng trai áo trắng đang đứng ngược chiều ánh sáng, nhìn không rõ mặt, đoán là người đến đón tôi, có lẽ là tùy tùng nào đó của Công Nghi Phỉ, nghĩ đến đây, cảm thấy không hài lòng. Cây hợp hoan cao to rợp bóng, nở đầy những bông hoa trông như quả cầu nhung, ánh nắng sớm rạng ngời chiếu trên tán lá, lung linh nhảy múa trên cây đàn thất huyền, lóng lánh như hòa quang trên những ngón tay Mộ Ngôn. Một giai điệu êm lắng, nhẹ như nước chảy, như gió lốc sa mạc thổi qua ốc đảo màu xanh, chỉ có chàng mới có thể đánh ra cầm âm như vậy, ấm áp khẽ khàng chầm chậm chảy vào lòng, tôi mở cửa chạy ra. Tiếng đàn dừng đột ngột, đồng thời lúc đó tôi cảm thấy chân như vấp phải vật gì, người mất thăng bằng chúi đầu về phía trước, bị Mộ Ngôn bước vội tới kéo vào lòng: “Vừa sáng sớm đã được tặng một cái ôm, làm người ta hoảng hồn vì đắc sủng”. Tôi nghĩ, rõ ràng tôi hoảng hồn hơn chàng, thầm nghĩ được ôm chàng thêm chút nào hay chút đó, thừa cơ nép vào chàng, liếc xuống chân, thì ra là một bụi cỏ. Đằng sau thoáng có tiếng đằng hắng, chắc là thấy tôi mãi không nói, giọng Mộ Ngôn ở ngay trên đầu: “Sao thế?”. Tôi xoa mũi, hai tay ôm riết lưng chàng, khẽ nói: “Không có gì, cho chàng ôm thêm lát nữa, có vui không?”. Tôi còn nhớ trong tiểu thuyết của Quân Vỹ những cảnh chia ly của cổ nhân luôn xảy ra trong màn mưa bụi ngợp trời, hay bên nắm tay nhau rơi lệ, uống cạn chén rượu chia ly, hái cành liễu tặng nhau. Nhưng lúc này là buổi sáng nắng chan hòa, mặt trời đang lên cao, nhìn quanh chẳng thấy bóng dáng nửa cây liễu, quả thật không biết làm sao tạo khung cảnh sầu bi. Tôi lưu luyến Mộ Ngôn, lẽ ra phải buồn khi xa chàng, nhưng từ khi biết chàng thích tôi, ngưỡng mộ tôi gì gì đó như chàng nói, mọi nỗi buồn bã, quyến luyến đều trở nên ngọt ngào, lòng thầm nhủ chàng sẽ quay về, sẽ đến tìm tôi, vậy là can đảm lại tăng gấp trăm lần, chẳng còn một chút sầu bi. Nhưng dù sao lúc chia ly cũng nên thể hiện một chút, không có liễu, đành lấy cành cây khác thay thế. Tôi cố bẻ một cành hợp hoan để vào tay Mộ Ngôn.
|