Bỉ Ngạn Hoa
|
|
Chương 4 – Mộ Giữa tháng tư, tại khu mộ dưới chân núi Linh Tựu, một lòai hoa đỏ rực nở bạt ngàn.
Trong mái nhà lá gần đó, như thường lệ, người coi mộ tên Nham Sinh cầm cây điếu trúc lên rít một hơi thuốc lào sau khi uống một chút rượu. Bỗng nhiên, Nham Sinh cảm thấy có một cơn gió thổi qua. Bất giác quay về phía cửa sổ, không khỏi giật mình – trên những nấm mộ vàng sin sít nhau, bỗng nhiên mọc lên cơ man bao nhiêu là hoa đỏ rực như máu!
Nham Sinh đã sống ở quanh khu mộ dưới chân núi này đuợc mười năm, và có nghe người ta nói rằng: sở dĩ Bái Nguyệt giáo chọn khoảng đất dưới chân núi Linh Tựu làm nghĩa trang là để có thể quy tụ được thật nhiều hồn phách, bởi núi Linh Tựu là một ngọn núi mang nhiều âm khí.
Khu mộ dưới chân núi Linh Tựu đã có lịch sử vài trăm năm, quy mô rộng lớn đến kinh người, cũng vì thế mà khu mộ được chia làm bảy khu nhỏ, mỗi khu nhỏ có một người trông giữ.
Nham Sinh nhìn về phía đông bắc, người coi mộ ở khu mộ bên cạnh là một cô gái – Phiêu Bích.
Nhânlúc trời còn chưa tối, Nham Sinh đi tuần một vòng để kiểm tra như thường lệ. Nhưng có một điều khác với mọi khi, hôm nay người coi mộ cầm theo một túi bột màu vàng.
Đó là thuốc chí cương chí dương, chuyên dùng để áp chế những âm linh không chịu an phần dưới chân núi Linh Tựu. Còn đối với những hồn ma dưới đáy Thánh hồ, thì chỗ thuốc này có lẽ không thể đủ được, mà mỗi năm đều cần phải hiến máu của những vị Tế Tư thì chúng mới chịu yên ổn.
Đúng là nghiệp chướng… Nham Sinh vừa đi vừa lắc đầu, chân bước cẩn thận vì không dám sơ suất để rơi một chút thuốc nào xuống đất.
Nham Sinh bước chân đi trên đất vàng ẩm ướt, ống quần không khỏi chạm vào những khóm hoa màu đỏ.
“Quạ!” Một bóng đen nhô lên từ bên trong chiếc túi bột vàng, phát ra tiếng kêu chói tai. Nham Sinh mở ra nhìn, thở một hơi dài, “Nha Nha, mày làm tao sợ hết hồn!”
“Quạ! Quạ!” Chú quạ đen bị nhốt trong túi, khi bay ra tiền đứng trên một ngôi mộ hắt xì hơi liên tục, vỗ đập đôi cánh và rồi quay đầu về phía những đóa hoa màu đỏ đằng xa, cất tiếng kêu “Quạ! Quạ!”
Đây đã là phía cuối của khu mộ. Trong khi rừng hoang vắng, một ngôi tịnh xá bằng tre tỏa ra ánh sáng lờ mờ, và xung quanh là vô số những bông Mạn Châu Sa đỏ như máu – nhưng có một điều thật lạ đó là: loài hoa đó chỉ mọc đến cách ngôi nhà đúng ba trượng thì dừng lại, để lại một khoảng trống trước nhà, nơi đó trồng hai cây dẻ ngựa.
“Còn trong nhà? Bình thường là đang luyện kiếm cùng Phiêu Bích mà…”
Nhìn thấy ánh đèn từ trong nhà, Nham Sinh thấy yên tâm hơn, khẽ xoa đầu, “À, đúng rồi, hôm nay là rằm tháng bảy, có lẽ cậu ấy cũng phải kiên kị, dù thế nào thì cũng là người trong giáo, trước đây đã từng là đồ đệ của Tế Tư Vân Tức!”
Bỗng nhiên, chú quạ Nha Nha cất lêntiếng kêu thảng thốt khác thường, quặp móng lại trên vai Nham Sinh. Thấy đau đau, Nham Sinh liền quay đầu lại, nhìn theo phía Nha Nha đang nhìn, và cũng giật mình trong thoáng chốc.
Ngôi mộ! Ngôi mộ đó mới chôn cất, không hiểu đã bị đào lên từ bao giờ?
Nham Sinh hoảng sợ là điều dễ hiểu – quy định của Bái Nguyệt giáo vô cùng nghiêm ngặt, nếu phần mộ do ai trông giữ mà bị cướp, hoặc để cho linh hồn trốn thoát, khi đã truy cứu ra thì chỉ có nước nhận tội chết!
Nham Sinh vội thắp đèn lên, thấp thỏm bước tới soi đèn quan sát. Chỉ thấy có một lỗ hổng, chứ không thấy bất cứ một dấu vết nào chứng tỏ ngôi mộ bị đào, trên đất có để lại những dấu chân. Nham Sinh xách đèn đi xung quanh ngôi mộ, và phát hiện ra một điều kỳ lạ.
Dấu chân ấy đi thẳng từ ngôi mộ ra!
Hoàn toàn không có dấu chân người đi từ ngoài vào, chỉ có dấu chân bước từ mộ ra.
“Tại sao… sao lại như thế được… mới chôn có hai ngày mà…” Vết chân chứng tỏ đây rõ ràng không phải là một vụ cướp mộ! Sắc mặt của Nham Sinh càng lúc càng tái nhợt đi. Người coi mộ runr ẩy ngồi xuống, rồi không kìm được, đành lấy can đảm bước lại gần hơn, ngó đầu vào lỗ hổng trên ngôi mộ. Lại một lần nữa Nham Sinh thảng thốt kêu lên.
Xác chết vẫn còn đây… một xác chết cuốn trong mảnh chiếu được mai táng qua loa vẫn còn nằm nguyên dưới đất!
Người coi mộ soi đèn nhìn quanh, vài cây Mạn Châu Sa đã bị giẫm đổ ngả nghiêng, thân xanh và hoa đỏ đều bị dập nát, chảy ra những dòng nhựa. Trên chiếc lá hoa, còn sót lại một dấu chân khá rõ, nhỏ bé và mềm mại, như là của một người con gái.
Đôi chân ấy có vẻ hơi chững lại do dự một chút, giẫm đổ một cây hoa, sau đó mới đi tiếp, thẳng về phía ngôi tịnh xá bằng tre ở phía cuối khu mộ.
“Quạ!” Quạ đen lại lượn vài vòng quanh ngôi mộ, kêu lên một tiếng, rồi bay theo dấu chân, lao thẳng qua cửa sổ tịnh xá.
“Quạ!” Sau đó, lập tức lại vang lên một tiếng kêu ngắn ngủi và chói tai nữa.
Nham Sinh đang sợ hãi thì nghe thấy giọng nói quen thuộc: “Muốn chết hả, đồ súc sinh? Cút đi, mày làm khách quý của ta hoảng sợ bây giờ!”
Sau đó, chỉ thấy chút quạ tội nghiệp bị ném ra khỏi nhà, kêu lên “Quạ, quạ…”
Là giọng nói của Phù Nam… Nham Sinh thấy nhẹ nhõm hơn đôi chút, và nhanh chóng xách đèn tiến về phía căn nhà.
Đi qua bóng của hai cây dẻ ngựa, bước lên bậc thềm, đang định gõ cửa, ánh mắt của Nham Sinh lại đột nhiên sững lại – là dấu chân ấy! Trên bậc thềm, có hai vết chân rất rõ, và còn dính cả chút nhựa hoa Man Châu Sa màu đỏ nữa! Đây rõ ràngh là dấu chân đi từ ngôi mộ ra!
Nham Sinh sợ hãi đến không còn đứng vững được nữa, chân bước hụt vào không trung, lảo đảo rồi ngã từ bậc thềm xuống.
“Ai đó?” Người ở trong nhà nghe động liền chạy ra.
Ánh trắng bàng bạc phủ khắp thân hình chàng trai trong bộ y phục trắng bước ra từ sau cánh cửa. Chàng trai trẻ mang một thanh kiếm màu trắng bạc, nét mặt sáng láng, hiền hòa, “Nham thúc, thúc sao vậy?” Nhìn thấy người coi mộ ngã dưới đất, chàng trai ngạc nhiên hỏi.
Phải một lúc sau Nham Sinh mới có thể trấn tĩnh lại, nhặt chiếc đèn lên, tay run rẩy chỉ vết dấu chân trên bậc thềm, “Cậu, cậu không sao chứ? Ai, có ai đã đến phải không? Có phải là Phiêu Bích không?”
“Không phải Phiêu Bích.” Phù Nam mỉm cười, “Chỉ là một người quen cũ đã lâu không gặp thôi ạ!”
Dưới ánh đèn ấm áp của căn phòng, một cô nương trẻ tuổi vô cùng diễm lệ trong bộ bạch y đang ngồi cạnh bàn – có lẽ cũng trạc tuổi Phiêu Bích – khoảng chừng mười sáu. Thần thái của cô gái vô cùng bình thản, nhẹ nhàng, đầu hơi cúi xuống, và dường như là vừa ăn tối cùng với Phù Nam – Nham Sinh đoán vậy.
Phù Nam mìm cười, giơ tay ra nói: “Trời cũng tối rồi, thúc vào trong này ngồi nghỉ một lát? Nhân tiện cùng chúng cháu dùng bữa luôn!”
“Thôi khỏi, thôi khỏi.” Nham Sinh thở một hơi dài, rồi lập tức vẫy tay chào “Xin cáo từ!”
Trước khi đi Nham Sinh cố ý quay lại nhìn người con gái trong phòng một lần nữa. Lúc này cô đã ngẩng đầu lên, đôi mắt thật trong sáng, rõ ràng là còn xinh đẹp hơn cả Phiêu Bích. Nham Sinh nghĩ, rồi bất giác thở dài – chỉ tiếc cho cô gái xinh đẹp thế mà lại bị dị tật bẩm sinh, phía sau lưng thấy rõ một cục u gồ lên, làm thân người gù xuống khiến mặt luôn hướng xuống đất.
Thấy người coi mộ đã đi khỏi, Phù Nam nhẹ nhàng đóng cửa, nụ cười trên môi vụt tắt.
“Rốt cuộc ngươi là người hay là ma quỷ?” Chàng quay đầu, tay nắm sẵn vào chuôi kiếm. “Đừng tưởng ta nhìn không ra, ngươi mang âm khí quá nặng, có phải ngươi trốn thoát từ đáy hồ lên không?”
“Phù Nam huynh, không nhận ra tiểu muội sao? Muội là Thần Triệt đây mà!” Người con gái tự xưng là Thần Triệt vừa cười vừa nói, ánh mắt sáng lên: “Chúng ta cùng lớn lên dưới sự nuôi dưỡng của Tế Tư đại nhân, rồi muội làm Giáo chủ, huynh học pháp thuật. Cách đây tám năm, muội bị phế truết và bị nhốt trong Hồng Liên U Ngục – lẽ nào huynh quên rồi sao?”
“A Triệt?… A Triệt?” Ánh mắt của Phù Nam toát lên vẻ kinh ngạc pha lẫn sợ hãi, giọng như lạc đi, “Muột, muội còn sống ư?”
Làm sao có thể không nhớ cho được? Trong ký ức, làm sao có thể tìm thấy một đôi mắt nào khác trong và đẹp như thế!
“Muội bị nhốt dưới đó suốt tám năm trời, nhưng huynh xem này, muội vẫn còn sống!” Thần Triệt nở nụ cười, nhưng sao trong ánh mắt đó lại có một thứ ánh sáng thật xa lạ, “Muội đã thoát ra được rồi, Phù Nam huynh, người đầu tiên muội muốn tìm gặp đó là huynh… muội muốn nhờ huynh một việc.”
“Việc gì?” Phù Nam hỏi, tay đã rời khỏi chuôi kiếm.
“Hãy giúp muội đoạt lại Nguyệt cung!” Thần Triệt dõi mắt ra cửa số, nhìn những ngọn núi đứng lặng im trong bóng tối, một vẻ gì đó thật cay nghiệt và hiểm ác lóe lên trong nụ cười nơi khóe miệng. “Giáo chủ hiện nay có phải là tên hồng y nữ đồng Tiểu Diệp Tử không? Muội muốn bẻ gãy chân nó, rồi ném xuống Thánh hồ cho lũ hồn ma dưới đó!”
|
Chương 5 – Phù Nam Sau đó, không gian lại chìm vào im lặng.
Câu nói ấy như một lưỡi dao cạy mở cánh cửa của lòng thù hận đã bị dồn nén trong lòng Phù Nam suốt bao năm qua.
Giống như các vị Tế Tư trước đó, Vân Tức nhận hai đồ đệ: đại đồ đệ là Lưu Quang và nhị đồ đệ là Phù Nam. Thế nhưng Tế Tư Vân Tức tính tình quái gở, độc đoán, lúc nào cũng chỉ thích một mình, hầu như không bao giờ dạy pháp thuật cho hai đồ đệ, thỉnh thoảng lắm mới cho họ vào thư viện ở trong Thần miếu để tự nghiên cứu, còn bản thân chẳng bao giờ đích thân dạy bảo.
Lưu Quang hơn Phù Nam ba tuổi, từ nhỏ đã tỏ ra rất hiểu chuyện, dù sư phụ không dạy nhưng vẫn luôn tự giác tập luyện, vì thế pháp thuật nhập cảnh nhanh chóng.
Khi đó Phù Nam còn mải chơi, hằng ngày cứ hễ có thời gian rỗi là chỉ thích ra ngoài, và nơi Phù Nam đến nhiều nhất chính là cung diện Bách Thạnh của Giáo chủ Thần Triệt. Hai đứa trẻ cùng trang lứa quấn quýt gắn bó và trở thành huynh muội tốt của nhau.
Thế nhưng, quãng thời gian tốt đẹp đó không kéo dài được bao lâu. Năm Phù Nam mười tuổi, Nguyệt cung bỗng nhiên xuất hiện một người con gái người Hán tên là Thiên Trúc. Sư phụ hết mực yêu thương hồng y nữ đồng đó, và đã không ngần ngại phế truất Thần Triệt để lập Thiên Trúc lên làm Giáo chủ.
Bái Nguyệt giáo vốn có một quy định vô cùng tàn khốc – khi Giáo chủ mới kế vị, nếu Giáo chủ cũ còn sống thì sẽ bị nhốt vào Hồng Liên U Ngục ở dưới đáy Thánh hồ, để đề phòng hậu họa.
Và thế là Phù Nam đành lòng nhìn A Triệt bị đẩy xuống đáy hồ, không dám và cũng không đủ sức mạnh để phản kháng lại quyết định của sư phụ.
Từ đó trở đi, Phù Nam hạ quyết tâm bắt đầu chăm chỉ tập luyện pháp thuật, thế nhưng không hiểu sao, tốc độ nhập cảnh vẫn rất chậm chạp, không những thế mấy lần còn suýt bị tẩu hỏa nhập ma.
“Trong tâm đệ vẫn còn điều ác, nên làm sao có thể đắc khuy thiên đạo?”
Ngày hôm đó, Phù Nam bị thổ huyết do tẩu hỏa nhập ma khi cố tập thuật Tố Ảnh, nhưng may nhờ được Lưu Quang cứu sống. Khi ngồi trò chuyện, Lưu Quang bỗng nhiên thở dài, thừa nhận: “Thực ra… huynh cũng như đệ vậy.”
Phù Nam lặng người, không khỏi có suy nghĩ: phải chăng trong lòng của Lưu Quang cũng đang đau khổ vì cuộc đời vô vọng như thế này? Dù cho huynh ấy có chăm chỉ tập luyện đến bao nhiêu, thì cũng không sao có thể vượt qua nổi sư phụ.
Nỗi niềm uất ức và phẫn nộ cứ dồn nén mỗi lúc một đầy lên trong lòng Phù Nam, cho đến một ngày chàng quyết định rời xa ngọn Linh Tựu này, một mình lưu đãng khắp mọi nơi một cách vô định. Cuộc sống lưu đãng vùng Nam Cương kéo dài khá lâu và cũng có những thu hoạch nhất định.
Một ngày, Phù Nam bỗng nhận được Nguyệt lệnh buộc phải quay trở về Linh Tựu gấp: Giáo chủ mới chủ định chiêu gọi Phù Nam vào cung. Trong thời gian đó, sư phụ luôn ở trong cấm cung, đã gần nửa năm không lộ diện, nghe nói là lại tiếp tục bước vào một lần bế quan mới, và mỗi lần bế quan xong thì sức mạnh của vị Tế Tư lại tăng lên gấp bội.
Đêm hôm đó, khi Phù Nam và Lưu Quang cùng vào Thần điện đã gặp nữ đồng Giáo chủ trong bộ y phục đỏ, hai bên là mười vị trưởng lão tóc đã bạc trắng. Do bất ngờ không kịp đề phòng, hai người đã bị bọn chúng phục kích.
Quả là một đêm tàn khốc và đẫm máu… cho đến tận hôm nay những ký ức đó vẫn còn lảng vảng, vương vấn trong đầu.
Phù Nam yên lặng nhìn người con gái quay trở về từ ngục sâu đang ngồi trước mặt, khẽ thở dài – thay đổi rồi… nàng đã hoàn toàn thay đổi!
Thần Triệt nhìn Phù Nam, cười nói: “Muội căm ghét con bé Tiểu Diệp Tử kia! Huynh hãy giúp muội giết nó!”
Khi cất lên câu nói đó, nét mặt của Thần Triệt vẫn thản nhiên như không, tưởng chừng chuyện sống chết dễ dàng như trở bàn tay. Trong đôi mắt to tròn ấy ánh lên một thứ ánh sáng thật khác, như sự kết hợp kỳ lạ của lòng căm hận tột cùng và sự bình thản đến không ngờ!
Phù Nam vẫn lặng thinh không nói một câu, đưa mắt nhìn về phía Nguyệt cung trong bóng tối im lìm. Chàng có thể hiểu được sự thù hận của A Triệt.
Suốt tám năm qua, Thần Triệt bị giam cầm trong ngục sâu tận cùng dưới đáy hồ, từ một cô bé còn chưa hiểu chuyện, nay đã trở thành một thiếu nữ kiều diễm. Thời niên thiếu tươi đẹp của nàng đã bị chôn vùi trong bóng tối, không được nhìn thấy mặt trời, không ra sống cũng chẳng ra chết. Tên nữ đồng áo đỏ đã cướp đi của nàng tất cả, vì thế, làm sao không hận cho được?
Thế nhưng…
Hễ nhắm mắt lại, cảnh tượng về cái đêm đẫm máu ấy lại ùa về trong tâm trí, khiến chàng cảm thấy như nghẹt thở.
“Không!” Chàng buông kiếm xuống và khẽ lắc đầu, giọng lạnh lẽo: “Huynh đã thề là sẽ không bao giờ giết người nữa…”
Thần Triệt thoáng ngạc nhiên, rồi che miệng cười: “Ôi, không giết người ư? Chẳng giống với đồ đệ của Vân Tức chút nào.”
Hai tiếng “Vân Tức” vừa buông ra, Phù Nam bỗng giật mình, hoang mang nhớ lại ánh mắt cuối cùng của sư phụ khi rơi xuống ngục sâu. Bị người mình thương yêu nhất phản bội, trong giờ khắc cuối cùng, rõ ràng sư phụ đã có thể giết chết Phù Nam và Thiên Trúc, nhưng tại sao sư phụ lại không làm thế?
Chính sau lần thoát chết đó, những năm vừa qua, mỗi khi nhớ đến chuyện này là Phù Nam lại thấy người mình như run lên, và tất cả mọi thù hận từ thuở nhỏ bỗng chốc đều tiêu tan. Bây giờ, nếu Thần Triệt đã có thể ở đây, thì hẳn là sư phụ cũng đã có thể thoát nạn rồi chứ?
Nghĩ vậy, Phù Nam không khỏi buột miệng: “Sư phụ… hiện nay đang ở đâu?”
“Huynh nhớ ông ấy sao?” Thần Triệt cười, giơ những ngón tay chỉ lên bầu trời đêm, “Hiện giờ ông ấy có lẽ là ở trên này – hoặc,” rồi chỉ xuống dưới đất, “dưới này.”
Chết rồi ư? Làm sao có thể thế được… Người như sư phụ, sao có thể chết được?
“Phù Nam, rốt cuộc huynh có chịu giúp muội hay không?” Không đợi cho Phù Nam kịp định thần, Thần Triệt hỏi. Dưới ngọn đèn, ánh mắt của nàng sáng lên, nhưng ẩn chứa vẻ gian tà đến khác thường.
Phù Nam lắc đầu chậm rãi.
“Tại sao?” Trước thái độ ấy, Thần Triệt bực bội, bất chợt ngẩng đầu lên, ánh mắt sắc như dao, “Muội thoát thân từ nơi chốn quỷ quái ra được đến đây, việc đầu tiên là đến tìm huynh! Huynh… tại sao huynh lại không chịu giúp muội?”
Phù Nam nhìn thẳng vào người con gái trong bộ y phục trắng trước mặt, ánh mắt dần ngưng lại, nói rành rọt từng từ một: “A Triệt, hãy nói cho huynh biết, có phải chính muột đã giết chết Tế Tư Vân Tức không?”
Nàng sững người, không ngờ bỗng nhiên lại bị chất vấn bởi một câu hỏi như thế. Hồi lâu sau, nàng mỉm cười, gật đầu.
“Muội lấy đâu ra sức mạnh như vậy?” Ánh mắt Phù Nam đầy nghiêm khắc nhìn thẳng vào nàng, “Hãy nói cho huynh biết, muội lấy đâu ra sức mạnh đó?”
Thần Triệt thấy mình nóng lên như lửa, đứng bật dậy và cất giọng sắc nhọn: “Không phải việc của huynh!”
“Muội bị quỷ nhập rồi… A Triệt, đúng là muội bị quỷ nhập rồi!” Nhìn người con gái lưng gù trước mặt, mắt của Phù Nam cũng nóng lên như lửa, nghiêm giọng hỏi lớn: “Nói cho huynh biết, để thoát ra khỏi đó, rốt cuộc muội đã làm những gì? Muội lấy đâu ra sức mạnh như vậy?”
Giọng nói ấy vang lên như một tia chớp rạch giữa không trung.
Dường như bị kích động đến tột cùng, Thần Triệt giơ tay phải lên, một ánh sáng trắng vụt ra… là ánh sáng của một thanh kiếm!
Phù Nam điểm đầu ngón chân xuống đất, thoái lại, và cũng rút ra một thanh kiếm sáng choanh. Chàng vừa lùi một bước bay ra khỏi cửa sổ ngôi nhà, nhảy lên trên cành cây dẻ ngựa cao lớn ngoài sân.
Chú quạ đen Nha Nha vừa ngủ thiếp đi trên cây bỗng nhiên bị đánh thức đậy, cất tiếng kêu hoảng hốt, vỗ cánh bay vòng quanh.
“Ra chỗ khác!” Phù Nam gơ tay đuổi con quạ sang cây bên kia, vuốt cổ họng, không ngừng thở dốc, và phát hiện ra rằng, nơi cổ họng mình đã chảy ra những giọt máu.
Nhìn những giọt máu trên đầu ngón tay, gương mặt Phù Nam chợt biến sắc: rõ ràng là thanh kiếm chưa hề chạm vào da, vậy mà dường như đã có những hồn ma vô hình cắn xé cổ họng, và đang thi nhau hút máu!
“Thân thủ khá lắm!” Thần Triệt khẽ cười, thân hình uốn cong nhẹ nhàng đứng trước hiên nhà, ánh mắt thoáng chút ngạc nhiên: “Rõ ràng đây không phải là thuật pháp của Bái Nguyệt giáo… Huynh cũng lấy đâu ra sức mạnh này?”
Dưới ánh trăng rằm tháng bảy sáng trong, nàng ngẩng đầu cười, ánh trăng rọi chiếu thanh kiếm trên tay của nàng,
Thanh kiếm đó, chính là thanh Bạch Cốt có uy lực đáng sợ.
“Muội cứ nghĩ rằng, cho dù tám năm đã trôi qua, khi tất cả mọi người đều đã bỏ mặc muội, thì huynh vẫn sẽ giúp muội!”
|
Phù Nam dưới tán cây dẻ ngựa, khẽ nhếch miệng cười nhạt: “Ba năm trước đây khi bị đuổi khỏi Nguyệt cung, huynh đã hạ một lời thề: từ giờ trở đi tuyệt đối không rút kiếm ra với bất cứ người nào trong giáo, nếu không…”
Câu nói buông lửng giữa chừng… sự im lặng dài lê thê… Cuối cùng, Phù Nam cũng nói nên lời: “Nếu không, Lưu Quang sẽ chết.”
Lưu Quang? Thần Triệtngẩn người, sau một hồi lục tìm ký ức, nàng mới mơ hồ nhớ ra dáng vẻ ấy.
“Có phải Lưu Quang đã rơi vào tay con yêu tinh đó?” Nàng phần nào hiểu ra, rồi ngạc nhiên hỏi: “Thế sao huynh vẫn được bình an?”
Câu hỏi ấy khiến Phù Nam bỗng nhiên giật mìh, và gần như không thể đứng vững nữa.
Sau cái đêm ba năm về trước, tại sao Lưu Quang mãi mãi không quay trở lại… và tại sao, Phù Nam vẫn bình an như bây giờ?
“Ta là một kẻ hèn nhát…” Bóng cây dẻ ngựa trùm lên gương mặt, nhưng ánh mắt thì sáng lên trong bóng tối, Phù Nam khe khẽ tự nhủ, “Ta sợ đau khổ, sợ cái chết… vì thế đã phải quy phục. Ta đã phản bội sư phụ… Trước tiên là mất đi Lưu Quang, sau đó, là mất muội…”
Đêm bị phục kích đó chính là bước đầu tiên trong kế hoạch của các trưởng lão để đối phó với Tế Tư Vân Tức: phải cắt bỏ vây cánh của ông.
Trong cuộc chiến không cân sức đó, hai đứa trẻ thậm chí còn chưa thực sự nắm được pháp thuật phài sùng hết sức lực để phản kích, và đối thủ của họ là mượi vị trưởng lão cái thế của viện nguyên lão, cùng với tên nữ đồng áo đỏ.
Sau khi bị bắt, hai người đã phải nhận đủ loại cực hình tàn khốc. Tên nữ đồng áo đỏ lấy điều kiện thả A Triệt ra đe73 dụ dỗ, bắt họ phải thực hiện âm mưu hại sư phụ – chàng trai trẻ mười lăm tuổi Phù Nam đã vì run sợ mà chấp thuận điều kiện.
Còn Lưu Quang thì không.
Đếm hôm đó, theo kế hoạch, Phù Nam dẫn dụ được Vân Tức vào bẫy, dâng tách trà có độc Long Huyết và chính mắt nhìn sư phụ uống nó. Sau đó, Phù Nam còn tham gia cùng với các trưởng lão trong việc phát động tấn công, tận mắt chứng kiến cảnh tượng tên nữ đồng bóp lấy cỏ họng Vân Tức, cười nham hiểm và đẩy vị Tế Tư xuống đáy hồ.
Hồng Liên U Ngục hé mở trong thoáng chốc, rồi lại nhanh chóng khép lại.
Dưới hồ, vô số hồn mà gào thét, kêu lên sung sướng và thi nhau cắn xé thân thể vừa rơi xuống nước.
Trong giây phút ngắn ngủi, Phù Nam đã nhìn thấy người con gái mặc y phục trắng bị giam trong ngục sâu dưới nước. Thế nhưng vì quá sợ hãi trước lũ hồn mà, chàng đã chần chừ, rồi chỉ biết đứng nhìn căn ngục khép lại.
Ngày hôm sau, Phù Nam bị đuổi khỏi Nguyệt cung, và rời khõi núi Linh Tựu.
Sau đó, Lưu Quang không quay trở lại… còn Phù Nam, vẫn bình an sống sót.
Câu hỏi của Thần Triệt đã khơi lại nỗi đau trong lòng, khiến Phù Nam gần như không đứng vững nổi trên cành cây, suýt chút nữa rơi xuống. Phù Nam cúi đầu, không dám nhìn người con gái lưng gừ đang đứng trước hiên nhà, “Huynh… huynh thực sự là một kẻ hèn nhát.”
“Thôi được rồi, không nói đến chuyện này nữa.” Lặng im một hồi, bỗng nhiên Thần Triệt cười lên, rồi nhảy một bước, từ hiên nhà lên cành cây dẻ ngựa, nhìn Phù Nam nói: “Muội có cái này cho huynh.”
“Gì vậy?” Phù Nam nửa ngạc nhiên nửa vui mừng, rồi đến thực sự bất ngờ.
“Cái này, cái này là…” Nhìn đồ vật trên tay Thần Triệt, Phù Nam không cất lên lời.
Đó là một chiếc vòng đeo trên trán màu bạc với những họa tiết hình hoa Mạn Châu Sa, trên đó có rất nhiều phù chú được khắc tinh xảo trông vô cùng tuyệt mĩ. Mặt trước của chiếc vòng có nạm một viên đá quý màu đó, phát ra thứ ánh sáng diệu kỳ dưới ánh trăng đêm.
Đây rõ ràng là một trong ba bảo vật của giáo – “Nguyệt Phách”!
“Trong giây phúc cuối cùng dưới ngục, muội đã lấy được cái này từ người của Vân Tức – Không có nó, không ai có thể làm Tế Tư được!” Thần Triệt đắcý cười, và trong lúc Phù Nam còn đang thất thần, khẽ kiễng chân lên đội chiếc vòng lên trán Phù Nam, “Huynh hãy nghĩ mà xem, muội trở lại làm Giáo chủ, còn huynh là Tế Tư, được không?”
Chiếc vòng đá quý vừa được đội lên đầu, thần lực mãnh liệt đã tỏa ra mạnh mẽ, khiến thần trí của Phù Nam bỗng ngẩn ngơ trong phút chốc.
“Không… không được.” Phù Nam loạng choạng, một tay vung thanh kiếm để giữ thăng bằng còn tay kia đẩy chiếc vòng ra “Huynh không cần… đeo cái này thì sẽ… thì sẽ…”
Phù Nam ngẩng mặt lên nhìn Thần Triệt, lúc này trong đôi mắt ấy, cái nhìn trong trẻo, long lanh thuở nào đã hoàn toàn biến mất, mà thay vào đó là sự điên cuồng tàn ác… Phù Nam thầm nhớ lại quá khứ. Cảnh sư phụ rơi xuống giếng ba năm về trước lại như hiện ra trước mắt, và thấp thoáng đâu đây là nụ cười nham hiểm của tên nữ đồng áo đỏ.
“Huynh không muốn làn Tế Tư.” Phù Nam cố bình tĩnh, dựa người vào cây dẻ ngựa, nhắm mắt định thần rồi lạnh lùng trả lời.
“Tại sao?” Không cần nhìn, Phù Nam cũng cảm thấy mũi kiếm đang dí sát vào cổ họng mình.
“Làm Tế Tư, có nghĩa là sẽ biến thành quái vật sống không ra sống, chết chẳng ra chết… huynh không muốn cuộc sống như thế!” Phù Nam nở một nụ cười đau xót, lắc đầu, “Hơn nữa, A Triệt, muội đã làm phép váo chiếc vòng này, muội muốn qua đó để biến huynh thành tên bù nhìn cho muội thao túng có phải không?”
Nói đên đây, sự quyết liệt và căng thẳng bao trùm khắp không gian.
Đôi mắt ấy giờ đây sao bỗng nhiên trở nên hoàn toàn xa lạ, đầy khinh thường và thù hận, như thể đã bị dồn nén tích tụ suốt hàng trăm năm.
“Cô là ai? Cô không phải là A Triệt!” Phù Nam không có thời gian để suy nghĩ nhiều, chàng vung kiếm ra nhưng rồi lại không biết đâm vào đâu.
Chú quạ Nha Nha nãy giờ vẫn đậu ở bên chứng kiến, dường như ngay từ đầu đã có ác cảm với vị khách không mời mà đến kia, nên không lại gần làm quen như với những người khác. Trong giờ khắc hai người đang căng thẳng, bỗng nhiên nó kêu lên một tiếng rồi lao vào nhanh như chớp.
“Đồ đáng chết!” Thần Triệt hét lên, và vung tay chém vào không gian. Chỉ nghe thấy tiếng quạ kêu thảng thốt, và bóng đen bay ra từ phía sau lưng Thần Triệt.
Trong bóng tối, miếng rách lớn trên lưng áo để lộ ra làn da trắng toát, nhưng từ phía sau mái tóc đen óng của Thần Triệt bỗng nhiên có ánh sáng màu xanh u ám lóe lên, lộ rõ một nụ cười nham nhở.
Trên đó… trên lưng của Thần Triệt, có một đứa bé!
Đứa bé này chỉ cao khoảng chừng ba mươi phân, co tấm thân khô rạc trên lưng Thần Triệt, đôi bàn tay nhỏ gầy gò như móng chân chin bám lấy cột sống và phía sau đầu nàng.
Nó ngẩng đầu lên nhìn Phù Nam và cười, một cái nhìn lạnh toát phát ra từ con mắt độc nhất, khiến cho Phù Nam lạnh người. Cái gì… cái gì thế này? Dẫu có lật hết tất cả thư tịch của toàn giáo, cũng chưa từng thấy qua phép thuật kỳ lạ như thế – khống chế người khác bằng cách bám chặt lấy thân thể!
|
Chương 6 – Ký sinh Đêm rằm tháng bảy, trắng sáng vằng vặc, tỏa ánh sáng bàng bạc bao trùm lấy không gian.
Phù Nam nắm chặt lấy thanh kiếm trong tay, cảm thấy nó đang rung lên khe khẽ, phát ra những âm thanh nho nhỏ – thanh Khước Tà kiếm của chàng vốn dĩ rất bình tĩnh, vậy mà đêm nay lại không chịu ở yên như thế, có phải là ngầm báo rằng trước mặt là một thế lực tà đạo vô cùng lợi hại?
Đứa trẻ ngồi trên lưng Thần Triệt, bàn tay nhỏ nắm chặt lấy sau gáy nàng. Nó chỉ có một tay, và một nửa mặt. Trong bóng đêm, mắt nó sáng quắc, chốc chốc lại nhìn Phù Nam.
Phù Nam thở nhẹ không ra tiếng – bên má trái của nó có một vầng trăng khuyết màu vàng, là dấu hiệu của Bái Nguyệt Giáo chủ!
“Ngươi là ai?” Phù Nam không giấu nổi vẻ xúc động, “Ngươi là người trong giáo?”
“Ha ha… thân thể tàn phế trên lưng Thần Triệt ngẩng đầu lên cười, ngón tay bám càng chặt hơn.
Dưới bàn tay ấy, dường như có một sợi dây vô hình nào đó điều khiển, Thần Triệt đột nhiên giơ tay lên, thanh Bạch Cốt chĩa thẳng về phía Phù Nam.
“Không làm Tế Tư, để ngươi sống cũng vô ích!” Thần Triệt mở miệng nói câu nói ấy mà ánh mắt vẫn thản nhiên. Thân thủ của nàng nhanh nhẹn như ma quỷ, thảo nào ban nãy chẳng cần thủ thế, trong chớp mắt đã có thể nhảy từ hiên nhà lên cành cây dẻ ngựa một cách nhẹ nhàng.
“Keeng”, Phù Nam giơ thanh kiếm lên đỡ lấy mũi Bạch Cốt, điểm chân trên cành cây dẻ ngựa và nhanh chóng lùi một bước.
Trong chốc lát, Phù Nam cảm thấy tà khí tỏa ra mạnh mẽ khiến chàng như muốn nghẹt thở. Phù Nam nhanh chóng cố gắng lấy lại tinh thần, không nhìn vào mắt của đứa trẻ đó nữa, mà tập trung vào đối phó với mỗu nhát kiếm trên tay của Thần Triệt. Dù có di chuyển thế nào thì bước chân của Phù Nam vẫn không rời khỏi phạm vi của hai cây dẻ ngựa, đầu ngón chân điểm lên cành và lá cây trong từng bước nhảy.
Theo truyền thuyết của Bái Nguyệt giáo, dẻ ngựa là loài cây thần thánh, có thể ngăn được âm tà độc khí.
Vì thế, Phù Nam đã trồng trước cửa nhà hai cây ddẻ ngựa, và cũng vì thế, loài Mạn Châu Sa từ khu mộ cũng không thể mọc sát đến đây.
Xem ra đêm nay Phù Nam không thể không xuất kiếm!
Phù Nam điểm chân trên những cành cây dẻ ngựa, tránh từng nhát kiếm, từ chỗ chỉ cố đỡ gạt đã dần phản công, và rồi khi thanh Bạch Cốt đâm thẳng tới, một luồng sáng chợt lóe lên – Khước Tà kiếm của chàng vung lên đầy sức mạnh.
Bị bất ngờ đánh lại không kịp đề phòng, hổ khẩu Thần Triệt rách toạc, từng giọt máu của ròng ròng chảy ra.
Những tưởng rằng Thần Triệt sẽ buộc phải buông kiếm xuống, nhưng thật không ngờ, nàng dười như không hề cảm thấy đau đớn.
Trong thoáng chốc Phù Nam hiểu rằng, quan trọng là phải đối phó đứa trẻ trên lưng Thần Triệt. Và nếu để cho nó rơi xuống mặt đất, nó sẽ nhanh chóng hút âm khí trong đất và trở nên đáng sợ đến khôn lường.
Do đó, Phù Nam cố hết sức khống chế cuộc chiến trên hai cây dẻ ngựa.
Thế nhưng, dù Phù Nam có nhanh nhẹn đến đâu thì phạm vi hai cây dẻ ngựa cũng có hạn. Cùng với những sát chiêu của thanh Bạch Cốt, hai cay dẻ ngựa ban đầu rậm rạp là thế, chẳng mấy chốc đã rơi rụng, điêu tàn. Hầu hết các cành cây đều bị chặt gẫy, chỉ còn trơ lại chiếc thân khô.
“Xoạt” một tiếng, chiếc tổ chim được làm rất cẩn thận từ trên cao rớt xuống.
“Quạ…” Nhìn thấy tổ của mình bị rơi xuống mặt đất tan tành, chú quạ Nha Nha kêu lên giận dữ, bất chấp nguy hiểm xông lên chĩa thẳng mỏ vào con mắt đen nhánh của đứa trẻ, và lấy hết sức mổ mạnh.
Đương nhiên không thể ngờ đến sự tấn công này, đứa trẻ lộ vẻ sợ hãi, vội vàng dùng kiếm ngăn lại. Thế nhưng do mới ở trên thân của Thần Triệt chưa được một ngày, nên động tác chưa được thuần thục, thế công trong thoáng chốc đã lộ sơ hở.
“Đi!” Phù Nam bất chợt vung tay, thanh kiếm bay lên như một chiếc cầu vồng không trung, lao vòng ra sau lưng và đâm vào phía sau đầu đứa trẻ.
“Cộp” một tiếng, ánh sáng trắng đó lại bay trở lại và nằm gọn trong tay Phù Nam.
Phù Nam điểm chân lên cành dẻ ngựa cuối cùng. Khi thu kiếm, chàng cũng thấy người mình chấn động, chao đảo một lúc mới đứng yên được, có thể là do phải chịu lực phản chấn. Thế nhưng, lúc này toàn thân Thần Triệt đã bất động, thanh Bạch Cột buông xuống, trên mũi kiếm xuất hiện một vết khuyết.
“Ngự kiếm thuật?” Đứa trẻ thoáng giật mình, thốt lên, “Ngươi… môn hạ của Trầm Sa cốc bạch đế?”
Dù đã ngăn cản được đòn tấn công của đối phương, nhưng gương mặt Phù Nam cũng đã trở nên trắng bệch, hồi lâu sau mới thở một hơi dài, khẽ gật đầu và lẩm nhẩm: “Hải thiên long chiến huyết huyền hoàng…”
Câu nói chưa dứt thì sắc mặt đứa trẻ đã có sự biến đổi rõ rệt, không dám quấy rầy Phù Nam nữa, trong thoáng chốc nhảy xuống đất và bỏ đi.
May nhờ có nhát kiếm cùng nửa bài vè đó, Phù Nam đã đánh đuổi được tà mà. Thực ra, nếu nhờ vào thuật Ngự kiếm học được dở dang đó, chàng không phải là đối thủ của đứa trẻ ma quái kia – đây chẳng qua chỉ là chiêu kiếm mà có lần vô tình di qua Trầm Sa cốc chàng đã phần nào lĩnh hội. Nếu cứ tiếp tục chiến đấu thì chắc chàng khó còn sống sau hai mươi chiêu nữa.
Nhớ lại thân thủ như ma quỷ của đứa trẻ, cùng với thanh Bạch Cốt, Phù Nam khẽ rùng mình: “Là Trầm Anh Giáo chủ!”
Một trăm năm qua, thanh Bạch Cốt đã bị thất tung. Nhưng Phù Nam còn nhớ rõ, trong ghi chép của giáo, vị Giáo chủ cuối cùng sử dụng nó là Trầm Anh Giáo chủ!
Ba trăm năm trước, vị Tế Tư lúc đó là Già Nhược đã liều mình nhốt quỷ bên trong người, sẵn sàng chấp nhận trả giá đắt là vĩnh viễn ở dưới đáy sâu, tháo hết nước Thánh hồ để đưa tất cả hồn ma ác quỷ vượt sang bờ bên kia – thuật pháp chống lại ma quỷ cũng từ đó mà biến mất trong toàn giáo.
Một trăm năm sau, trong giáo nổi lên một thiên tài về thuật pháp tên là Trầm Anh. Khi đã nắm được tất cả các thuật pháp lưu truyền lại trong dân gian, Trầm Anh tiếp tục vào “Tri Kiến chướng” – giới hạn tối cao của người tu tập. Sự truy cầu pháp thuật của Trầm Anh Giáo chủ không bao giờ cạn, nhưng trên thực tế, sức mạnh con người là có hạn, thường khó lòng có thể đắc khuy thiên đạo.
Sau mười năm đóng cửa tu luyện mà vẫn chưa thể vượt qua được “chướng”. Trầm Anh quyết định làm theo phương pháp “Huyết tế” thần bí lưu truyền thượng cổ, đó là dùng chính thân thể của mình để đổi lấy sức mạnh.
Một đêm nguyệt thực, sau khi tắm rửa, thay y phục trước sự chứng kiến của Nguyệt thần, Trầm Anh Giáo chủ đối lửa tự thiêu mặt mình, rồi rút dao chém đứt một tay, một chân. Giáo chủ đã hiến mắt, tai, mũi, tay, chân, dung mạo tuyệt đẹp và cả thân thể đang độ thanh xuân của mình. Với cái giá quá đắt đỏ, cuối cùng giáo chủ cũng vượt qua được chướng của bản thân.
Sau khi đã đạt được sức mạnh siêu phàm, tính cách của Trầm Anh Giáo chủ bỗng nhiên đổi khác.
Trầm Anh trở nên tàn ác và độc đoán, bất chấp sự phản đối của Tế Tư Thương Minh và các trưởng lão, đã dùng Thánh hồ làm nơi nuôi dưỡng các linh hồn ma quỷ, với mục đích dựa vào âm khí trời đất nơi đây khống chế được nhiều sức mạnh hơn.
Rồi đến một ngày, như một điều khó tránh khỏi, giữa Giáo chủ Trầm Anh và Tế Tư Thương minh đã xảy ra một cuộc quyết chiến. Kết quả là, vị Tế Tư đã phải chết dưới mũi kiếm Bạch Cốt của chính người mà ông đã dạy dỗ pháp thuật suốt bao năm qua, và rồi bị ném xuống đáy Thánh hồ.
Khi đã ở đỉnh cao của quyền lực, tâm hồn của Trầm Anh Giáo chủ càng ngày càng trở nên khô cằn và độc ác, đến mức không thể không lấy việc tàn sát để đổi lấy sự bình yên trong lòng.
Dù thế lực đen tối đã ăn sâu vào tim, nhưng Trầm Anh vẫn còn đủ tỉnh táo để nhận ra những gì đang xảy ra với mình: “Bên trong cơ thể ta có ma quỷ!”
Một ngày kia, Trầm Anh đã ra tay giết hại người tì nữ thân cận nhất đã theo mình suốt hơn mười năm. Khi tỉnh lại, nhìn thấy đôi bàn tay đẫm máu, Giáo chủ như đã hiểu ra những việc mình làm, mặt biến sắc trắng bệch, “Bên trong ta có ma quỷ! Yểm quỷ đang lớn dần… nó sắp thoát ra… phải làm sao đây?”
Những người xung quanh nghe thấy thế, không ai không hoảng sợ.
Trong Bái Nguyệt giáo, “Yểm quỷ” là thế lực ma quái đối lập với Nguyệt thần, có pháp lực cao cường.
Truyền thuyết kể rằng,Yểm quỷ đẻ trứng trong không gian, ban đầu trứng chỉ nhỏ hơn lỗ chân lông, theo gió phiêu bạt khắp mọi nơi, hễ gặp người có tư chất phù hợp và có âm ảnh ẩn chứa trong lòng, lập tức sẽ nhập vào – và rồi ra đời ngay chính trong trái tim của người đó. Nó sống ký sinh trong cơ thể người, lấy nội tạng làm thức ăn, cho đến khi ăn hết cơ thể đó thì sẽ bay ra và tìm mục tiêu tiếp theo.
Yểm quỷ có thể tìm thấy rất nhiều đối tượng để nhập vào, bởi sức mạnh của nó là phần đen tối trong tâm hồn mỗi con người, vì thế sẽ không bao giờ bị hủy diệt. Theo truyền thuyết, cứ sau một trăm năm, sức mạnh của nó lại đạt đến mức tuyệt đỉnh, trở nên điên cuồng hơn bao giờ hết, thậm chí có thể nuốt chửng cả mặt trăng, để trời đất hoàn toàn chìm trong bóng đêm.
Ngày hôm đó bị gọi là “Diệt thiên chi khước” của Bái Nguyệt giáo.
Đã một trăm năm nữa qua đi… Bởi lòng khao khát sức mạnh đến cực độ, Trầm Anh đã khiến thế lực đen tối trong lòng mình lớn lên, nước Thánh hồ đã cạm khô giờ lại được đổ đầy, còn ma quỷ, cũng đang dần dần phục sinh trong tâm hồn con người!
Thế nhưng, trong khi càng ngày càng không thể khống chế nổi bản thân, Trầm Anh vẫn còn giữ được một chút tỉnh táo cuối cùng.
Một đêm trước khi ngày đại kiếp như lời dự báo xảy ra, vị Giáo chủ mạnh nhất trong lịch sử Bái Nguyệt giáo đã tự mình đốt hương, khoác lên bộ y phục trắng, rồi gieo mình xuống Thánh hồ – Trầm Anh đã làm theo cách mà vị Tế Tư Già Nhược đã làm trước kia – lấy thân mình để dẫn độ tất cả những hồn ma quỷ ác.
Trước khi nhảy xuống hồ, Trầm Anh Giáo chủ đã cắt máu thề, chừng nào linh hồn ma quỷ vẫn còn, thì sẽ không bao giờ quay trở lại.
Trầm Anh đã nhốt ma quỷ trong tim, để rồi gieo mình xuống dưới đáy hồ mãi mãi.
Suốt một trăm năm qua, hầu hết mọi người đều đã lãng quên, thậm chí còn hoài nghi tính chân thực của câu chuyện này.
Thế nhưng, giờ đây, Giáo chủ Trầm Anh của một trăm năm về trứơc đã nương vào thân thể người khác để bất ngờ xuất hiện trên trần gian!
Quay trở vào căn nhà, Phù Nam ngồi xuống băng bó vết thương, rồi lấy cái tráp để trên ô cửa sổ xuống và mở ra. Bên trên lớp vài nhung đỏ là ba cành cỏ Linh chi bảy lá tỏa ánh sáng lung ling và mùi hương thơm ngát.
Ling chi bảy lá là loài cỏ chỉ sống ở những nơi có nhiều âm khí, lớn lên nhờ hấp thu nước ở chốn hoàng tuyền, không cần ánh sáng mặt trời, và làm bạn với những linh hồn cõi âm.
Núi Linh Tựu mặc dù được coi là nơi tích tụ nhiều âm khí của trời đất, nhưng cũng chỉ ở dưới Thánh hồ mới có thể trồng được loài cỏ Linh chi này. Dưới Thánh hồ đầy những hồn ma kêu gào, vì thế việc xuống hồ hái Linh chi quả là vô cùng khó khăn và nguy hiểm, dường như mỗi cành Linh chi đó được đổi bằng sinh mạng của bao nhiêu người.
Vậy mà năm nào cũng vậy, cứ đến rằm tháng bảy là Nguyệt cung lại sai người xuống núi gửi thứ cỏ quý này cho Phù Nam, nói rằng đó là quà của Lưu Quang – thực ra Phù Nam nghĩ đây chính là lời cảnh cáo của Thiên Trúc Giáo chủ, rằng Lưu Quang đang ở trong tay ả, tốt nhất là đừng có ngông cuồng manh động.
Phù Nam vẫn không khỏi thẫn thờ khi nghĩ lại những chuyện đã qua. Chàng gõ gõ ngón tay lên thanh Khước Tà, lắng nghe những tiếng gõ đó, sắc mặt mỗi lúc một nặng trĩu. Chàng đứng một mình bên cửa sổ, trầm mặc nhìn về phía ngọn núi Linh Tựu dưới ánh trăng đêm, ánh mắt lóe lên những tia sáng.
Đằng xa kia, Mạn Châu Sa mọc tràn lan vây quanh chân núi, đó rực cả một vùng, tựa hồ một ngọn núi lửa đang bốc lên mạnh mẽ.
Trăng đêm rằm tròn vành vạnh, núi Linh Tựu cao vút tận chân mây. Trên đỉnh núi, Nguyệt cung như đang đắm mình dưới ánh trăng, tỏa ra thứ ánh sáng như không thuộc trần thế.
Lưu Quang, Lưu Quang đang ở trên đó… Đã ba năm kể từ ngày xảy ra đoạt cung chi biến, Phù Nam không được gặp lại sư huynh của mình, mặc dù rằm tháng bảy hằng năm đều đặn nhận được quà và thư của Lưu Quang. Thiên Trúc Giáo chủ, kẻ mãi mãi trong dáng vẻ nữ đồng ấy, là kẻ lòng lang dạ sói, Lưu Quang ngay từ đầu đã không chịu khuất phục, nay ở trong tay ả, không biết phải chịu những cực hình dã man đến thế nào…
Bây giờ, Trầm Anh Giáo chủ lại thao túng Thần Triệt và đang xông vào Nguyệt cung, không biết chuyện gì sẽ xảy ra.
Đôi mắt to tròn, trong sáng ngày nào lại hiện ra rõ nét trong ký ức Phù Nam… thật ngây thơ và thánh thiện! Tám năm… tám năm trước đây, chàng đã giương mắt nhìn cánh cửa Hồng Liên U Ngục đóng lại mà không dám ra tay cứu giúp.
Suốt bao năm qua, chàng đã sống trong sự nhẫn nhịn, cô đơn và tẻ nhạt. Cuộc sống như thế, có khác là mấy so với cái chết?
Ba năm trước chàng đã thề sẽ không đặt chân vào Nguyệt cung, dù chỉ là nửa bước. Thế nhưng hôm nay, chàng quyết định sẽ mang kiếm lên núi.
Lưu Quang ở trên núi, A Triệt cũng vậy… Những người mà chàng quan tâm đều đang ở trên đó! Dẫu biết rằng, Nguyệt cung vốn là nơi đã cả gan mạo phạm thì tất phải trả bằng tính mạng, thế nhưng, có điều gì là đáng sợ cơ chứ?
Bên ngoài, trăng đêm lạnh lẽo và u tịch. Mạn Châu Sa nở rộ dưới ánh trăng, như thắp lên những ngọn lửa.
|
Chương 7 – Trở lại Sau canh năm, trời sáng dần, cả một khoảng không rơi vào trầm mặc.
Bỗng nhiên, cánh cưa ngôi tịnh xá bằng tre phát ra tiếng động nho nhỏ, ngọn nến sắp tàn bị một cơn gió mạnh thổi qua, đốm lửa lắc lư một hồi, rồi vụt tắt.
Chú quạ Nha Nha tỉnh giấc, mở to mắt và kêu lên một tiếng. Nhưng khi nhìn thấy người đi tới, sự thù địch của nó lập tức biến mất, rối rít bay tới và kêu rì rầm điều gì đó.
Phù Nam chẳng buồn để ý đến nó. Sau khi đặt người con gái trên tay mình lên chiếc sạp, chàng mở tráp lấy ra một nhánh Linh chi, lập tức đút vào miệng người đó.
Nhánh Linh chi vừa chạm đầu lưỡi liền biến thành một dòng cam lồ chảy vào bên trong. Phù Nam đặt tay lên lưng và nhanh chóng truyền chân khí cho người đó. Nhưng Nha Nha lúc này đã tỉnh táo, nó chạy quanh bàn, cặp mắt đen tròn dán chặt vào người mà Phù Nam đưa về, kêu lên một tiếng lớn và chĩa mỏ bay tới.
Quả không sai, đây chính là nữ quỷ đã bước ra từ ngôi mộ đêm qua!
Mặc dù giờ này người con gái đó chỉ còn lại hơi thở yếu ớt, không có vẻ dữ dằn và ma quái như đêm qua, bộ y phục trắng đã nhuốm đẫm máu, nhưng Nha Nha vẫn nhận ra gương mặt trắng bệch không chút huyết khí ấy, vì thế trong mắt nó ánh lên sự thù địch.
“Ra chỗ khác!” Phù Nam quát lên và đuổi nó đi.
Ăn liền một lúc ba nhánh Linh chi, có thể coi như đã lấy lại được chút sinh khí, tốc độ máu chảy ra từ các đại huyệt trên cơ thể cũng dần chậm lại. Vì cái lưng gù của mình, người con gái đó không nằm ngửa được, buộc phải nghiêng người, thu mình lại, hơi thở gấp gáp và yếu ớt. Chiếc áo đã bị rách ở sau lưng, để lộ ra một “cục u” cao khoảng bao mươi phân – đứa trẻ đó dường như cũng bị nội thương nghiêm trọng, đang trong trạng thái hôn nê, nhưng ngón tay thì vẫn tóm chắt lấy gáy của người con gái.
Phù Nam phát hiện ra Thần Triệt giữa những khóm Mạn Châu Sa trên sườn núi. Lúc đó, chàng đang trên đường đi lên, còn Thần Triệt dường như vừa lao ra từ Nguyệt cung. Không biết đã gặp phải đối thủ như thế nào, chỉ thấy Thần Triệt bị thương rất nặng.
Dưới ánh trăng, nhìn Thần Triệt và cả đứa trẻ trên lưng đang trong trạng thái hôn mê, Phù Nam cảm thấy thanh Khước Tà của mình như muốn nhảy ra.
Giết! Giết! Giết!
Trước thế lực tà ma, thanh bội kiếm của Bạch Đế từ trăm năm trước đang động đậy, đằng đằng sát khí muốn xông lên.
Phù Nam quay mặt đi, không muốn nhìn gương mặt xấu xí độc ác của đứa trẻ kia, vì sợ không thể kìm nổi mà phải động thủ. Thần Triệt đang ngủ yên lành, gương mặt của nàng nhợt nhạt nhưng thanh thản, vẫn còn đó sự trong sáng, thuần khiết của tám năm trước kia.
Nếu muốn cứu A Triệt, tức là sẽ buộc phải cứu cả con quỷ này hay sao? Còn nếu muốn tách nó ra khỏi A Triệt, chỉ còn cách xẻo những ngón tay đang bám chặt lấy người nàng mà thôi.
“Keeng” một tiếng, Thần Triệt rút Khước Tà ra khỏi bao.
Bỗng nhiên, đang trong tình trạng hôn mê, Thần Triệt nhanh như chớp, vung cánh tay của mình lên tóm lấy cổ tay Phù Nam.
Thật không ngờ, mặc dù đã yếu đến thế nhưng Trầm Anh vẫn có thể thao túng Thần Triệt để thực hiện động tác nhanh và mạnh như vậy. Do bất ngờ, Phù Nam đã bị giữ chặt cổ tay. Nhưng rồi, sau khi trải qua đêm quyết chiến kịch liệt, Trầm Anh cũng không thể tiếp tục thêm được nữa, chỉ biết dùng con mắt duy nhất của mình nhìn Phù Nam đầy căm hận.
Ngày mới đã đến, những tia sáng từ bên ngoài rọi qua cửa sổ, trải trên tấm sạp giữa nhà. Làn da của Thần Triệt sáng lên như tuyết.
Đột nhiên đứa trẻ bỗng há miệng kêu gào gì đó nhưng không thành tiếng, thân người nó co quắp lại, cố trốn né ánh sáng.
Nó sợ ánh sáng?
Trong giây lát Phù Nam chợt hiểu ra, lập tức quay người mở hết rèm cửa sổ!
“A…” Thế nhưng, khi ánh sáng mặt trời tràn vào phòng, người kêu lên thảm thương lại chính là người con gái đang hôn mê trên tấm sạp – Thần Triệt. Cơ thể Trầm Anh cũng bắt đầu run lên, nhưng ngón tay thì lại tóm chặt lấy gáy, bấu vào mạch máu của Thần Triệt.
Con mắt của Trầm Anh ánh lên đầy đau đớn nhưng cũng thật điên cuồng, nhìn chằm chằm vào Phù Nam, rồi ngón tay lại càng bấu chặt hơn.
Giây phút đó, hai bên trừng trừng nhìn nhau!
Phù Nam đàng phải quay người, kéo lại rèm để che ánh nắng mặt trời chiếu vào phòng.
Trên nửa gương mặt Trầm Anh lộ rõ nụ cười tàn nhẫn và đắc ý, ngón tay cứ liên tục bóp vào rồi thả ra trên gáy Thần Triệt, khiến tấm thân đang hôn mê của nàng không ngừng co giật, kêu lên những tiếng kêu thảm thiết. Nàng chỉ là một cô gái mới mười sáu tuổi, qua hai trận ác chiến đêm qua, thân thể đã chịu nhiều vết thương, làm sao có thể chịu nổi sự hành hạ dã man đến vậy?
“Đủ rồi đấy! Dừng tay lại!” Phù Nam không chịu nổi nữa, sắc mặt tái nhợt đi, nghiếm chặt răng và hạ thấp giọng. “Rốt cuộc ngươi muốn gì đây? Đồ quái vật… ngươi muốn thế nào thì mới chịu tha cho A Triệt?”
“Nhà ngươi thay ta đi giết kẻ ở trong cung Chu Tước.” Trầm Anh lạnh lùng bấu chặt lấy cột sống của Thần Triệt.
“Tại sao ngươi lại muốn giết những người không thù không oán gì với mình?” Phù Nam lắc đầu, tay nắm lấy cán Khước Tà, cảm thấy thanh kiếm đang không ngừng rung động, dường như quá đỗi căm phẫn và chỉ chực xông lên quyết chiến với thế lực tà ma quỷ quái.
Trầm Anh nhếch mép cười, dùng cái chân duy nhất của mình đá vào lưng Thần Triệt, “Bởi vì, nếu ngươi không chịu, ta sẽ giết nó! Giết được kẻ ở trong cung Chu Tước, ta sẽ thả nó ra!”
Lúc này, trời đã sáng rõ. Những ngón tay của Trầm Anh lại cử động, người con gái đang co mình trên sạp bỗng toàn thân run rẩy, và rồi… nàng hét lên một tiếng, tỉnh dậy, hỏi: “Anh là ai? Tôi… tại sao tôi lại ở đây?”
Thanh kiếm trên tay Phù Nam bỗng nhiên rơi xuống đất. Ánh mắt của người con gái trước mặt sáng long lanh và vô cùng thánh thiện, trong lành như dòng nước suối.
Đó là A Triệt… đó mới thực sự là A Triệt!
“Huynh là Phù Nam đây…” Chàng thở nhẹ, cảm thấy cổ họng mình như nghẹn đi, “A Triệt, muội còn nhớ huynh không?”
“Phù Nam huynh?” Trong thoáng chốc, Thần Triệt nhận ngay ra Phù Nam, đôi mắt sáng trong ánh lên niềm vui sướng vô bờ, giơ bàn tay nhỏ bé về phía chàng, “Là huynh thật sao? Muội không nằm mơ chứ? Có đúng là muội đã thoát ra khỏi ngục tối rồi không?”
Thế nhưng Phù Nam vẫn đứng đó, khẽ chớp mắt và lặng người đi.
Bàn tay của nàng…
Bàn tay nhỏ bé đang giơ ra nhuốm đỏ màu máu, trông thật đáng sợ. Trên lòng bàn tay trắng muốt, một bông Mạn Châu Sa đỏ rựa đang nở rộ, lan ra rộng khắp.
Thế nhưng Thần Triệt vẫn không hề hay biết, nàng vẫn giơ tay mình ra và vui mừng gọi tên vị sư huynh đã bao năm xa cách.
Đó là Dung Tuyết thuật… là một trong những pháp thuật uyên thâm nhất của giáo. Cũng tương tự như Hấp tinh đại pháp của võ thuật Trung Nguyên, người thi pháp sẽ mượn lời chú để hút toàn bộ công phu tu luyện của một thuật sĩ khác và thu nhận vào cơ thể mình qua một cách chạm tay. Đây là một thuật sĩ khác cực độc, chính người thi pháp cũng có thể gặp nguy hiểm trong lúc đang hút công phu tu tập của đối phương, có khi dẫn tới tẩu hỏa nhập ma.
Phù Nam nhớ lại chuyện xảy ra trước khi trời sáng, Trầm Anh đã cố dùng chút sức lực cuối cùng của mình để điều khiển Thần Triệt nắm lấy cổ tay chàng. Phù Nam bất giác rùng mình – bây giờ chàng mới hiểu ra, lúc đó Trầm Anh làm thế với mục đích gì.
Cũng may là đã khá lâu rồi Phù Nam không còn tập pháp thuật nữa, chỉ luyện kiếm cho vui và rèn luyện sức khỏe, vì thế đã không trở thành nạn nhân của tà thuật đó.
Nhìn bàn tay đỏ như máu của Thần Triệt, Phù Nam mỉm cười và nhẹ nhàng cúi xuống, ôm lấy tấm thân của người con gái đang bị trọng thương.
Thần Triệt vòng tay ôm lấy cổ chàng, ánh mắt ngập tràn niềm vui, trong phút chốc chẳng biết nói gì, chỉ khóc lên thổn thức.
“Đừng khóc, đừng khóc nữa.” Phù Nam nhẹ nhàng vỗ lưng nàng an ủi. Thế nhưng, tay chàng chạm phải một cục u lạnh ngắt như băng đang khẽ cựa quậy, chàng chợt rùng mình, có cảm giác buồn nọn và vô cùng khó chịu. Phù Nam cố hết sức kìm lại, tránh chạm vào Trầm Anh, và buông Thần Triệt khỏi tay.
Suốt tám năm qua, từng ngày từng ngày Phù Nam luôn mong ngóng Thần Triệt quay trở lại, nhưng chẳng ngờ, khi đã tìm thấy và bế được nàng về đây, chàng lại buộc phải chấp nhận mang theo một con quái vật!
Thần Triệt có vẻ như vẫn không hề biết tại sao mình đến được đây, nàng vẫn mải mê với niềm vui ngày trở lại.
“Được rồi, đừng khóc nữa.” Phù Nam nhẹ nhàng vỗ về, cất giọng ấm áp, “Muội bị thương rồi, để huynh đắp thuốc cho muội!”
“Muội bị thương?” Thần Triệt bấy giờ mới phát hiện ra những vết thương trên chân tay, cũng như hai bên vai mình, ngạc nhiên hỏi: “Tại sao muội lại bị thương? Đúng rồi, mà tại sao bỗng nhiên muội lại ở đây?”
Phù Nam nhất thời không biết giải thích ra sao. Nàng đã không còn nhớ gì hết?
Thần Triệt cúi đầu, nhìn thấy lòng bàn tay đỏ như máu của mình, kêu lên thất thanh: “Đây, đây là cái gì vậy? Bông hoa ở đâu ra thế này? Đây là cái gì vậy?”
Thần Triệt hoảng sợ, vội vàng xoa tay của mình lên gấu áo, mong xóa đi bông hoa màu đỏ kỳ lạ kia. Thế nhưng bông hoa như đã thấm sâu vào da thịt nàng, không sao xóa đi cho được. Nàng cố chà tay thật mạnh, đến nỗi rách cả da, những giọt máu tươi nhuốm vào khiến bông hoa càng thêm kỳ quái.
|