Tam Sinh Tam Thế Thập Lý Đào Hoa
|
|
Chương 20:
Ta tiếc rằng đã không thể gặp chàng trong những năm tháng đẹp nhất của cuộc đời
Ta còn nhớ Tiểu Chúc Âm ở thủy phủ cạnh nhà mình, năm đó nàng ta được gả đi, mẹ chồng chẳng vừa lòng, bị mẹ chồng hiếp đáp. Cha nàng biết được, tức giận đùng đùng làm loạn nhà chồng nàng lên cả ngày. Mẹ chồng nàng đấu không lại cha nàng, mà lại nuốt không trôi cục tức này, đã đâm đơn đến trước động Hồ Ly, muốn nhờ cha ta ra mặt làm chủ, thay mặt nhà họ bỏ Tiểu Chúc Âm. Vì cha của Tiểu Chúc Âm đã đả thương người khác trong địa bàn của nhà chồng Tiểu Chúc Âm, dù sao cũng đuối lý, để tránh sau này xảy ra đại họa, cha ta đã suy tính trước sau, định y chuẩn cho lá đơn của mẹ chồng Tiểu Chúc Âm, cắt đứt quan hệ hai nhà.
Mẹ ta nhìn thấy Tiểu Chúc Âm thì động lòng trắc ẩn, còn thay nàng cầu xin cha ta, nói nàng ta không xinh đẹp, lại được chiều chuộng quen, nếu như bị nhà chồng bỏ, chắc chắn không lấy được chồng lần nữa. Làm sao mà chuyện nhà họ lại nhiều khúc mắc vậy, cha ta xưa nay chí công vô tư, thế nên cuối cùng Tiểu Chúc Âm vẫn bị chồng bỏ.
Khi ấy ta và tứ ca trong lòng cũng có chút đồng tình với Tiểu Chúc Âm, cảm thấy nhân duyên sao mà thảm đạm. Tứ ca còn nâng mặt ta lên nhìn một lượt, rồi rút ra kết luận “Ta tuy được chiều chuộng giống Tiểu Chúc Âm, nhưng xinh đẹp hơn nhiều, cho dù là nhà chồng bỏ thì vẫn không đến nỗi không lấy được chồng nữa”, sau đó mới thấy an tâm. Nhưng tứ ca cũng đã an tâm quá sớm. Sau một vạn tám nghìn năm, ta bỗng ngộ ra chân lý: Trong số mệnh, đường nhân duyên có tốt hay không cũng chẳng quan hệ gì tới dáng vẻ bề ngoài.
Trong mấy vạn năm sau đó, nàng Tiểu Chúc Âm bị mẹ ta cho rằng không xinh đẹp thì hoa đào(*) lại nhặt hết giỏ này đến giỏ khác, đám nam thần tiên đến động Chúc Âm cầu thân dường như đã giẫm phẳng động phủ Chúc Âm nhà họ. Nhờ phúc của những nam thần tiên này, Tiểu Chúc Âm cũng tự học thành tài, lột xác thành cao nhân một đời về khoản chơi đùa nam thần tiên.
(*)Ý chỉ tình duyên.
Trong mấy vạn năm ấy, bản thượng thần ta được tứ ca gửi gắm bao hy vọng, được đánh giá là dung mạo xinh đẹp, thì tình duyên chỉ đếm trên đầu ngón tay, vỏn vẹn gặp đúng năm đóa hoa đào.
Đóa thứ nhất chính là cửu hoàng tử của tộc Bỉ dực điểu(*). Khi hắn cùng cha mình đến làm khách ở Thanh Khâu, hắn đã yêu tiểu nha đầu hai vạn tuổi là ta ngay từ cái nhìn đầu tiên, lúc gần đi, hắn còn giấu cha mẹ ta lén kéo ta sang một bên, nhổ hai chiếc lông vũ làm vật đính ước, nói đợi hắn lớn thêm một chút nữa, rồi sẽ cưỡi mây ngũ sắc đến cưới ta về làm vợ. Lông vũ trên người hắn có hai màu, một xanh một đỏ, ta thấy màu mè sặc sỡ thì rất thích, bèn nhận lấy, bụng nghĩ gả cho tộc Bỉ dực điểu kể cũng không đến nỗi nào. Nhưng mãi sau, lại nghe Mê Cốc buôn chuyện rằng, người trong tộc Bỉ dực điểu của hắn không thể kết hôn với người ngoại tộc, cửu hoàng tử của tộc Bỉ dực điểu lại nhất quyết đòi lấy ta, nào là tuyệt thực, nào là nhảy sông, làm náo loạn cả lên. Cha mẹ hắn không chịu được phiền phức, một đêm nhân lúc hắn say ngủ cho hắn uống hai viên tình dược, rồi đưa hắn lên giường một cô nương có vai vế trong tộc Bỉ dực điểu. Híc, hắn tự thấy mình đã làm chuyện có lỗi với ta, không còn mặt mũi nào cưỡi mây ngũ sắc đến cưới ta nữa. Ta đem hai chiếc lông vũ hắn tặng, cùng mấy chiếc lông gà rừng làm thành chiếc chổi lông gà, đem quét bụi cũng rất tốt.
(*) Bỉ dực điểu có nghĩa là Chim liền cánh. Chim liền cánh, cây liền cành tượng trưng cho sự thủy chung, chính vì thế tộc này mới không có lệ kết hôn với người ngoại tộc (ND).
Đóa thứ hai chính là nhị hoàng tử Ly Kính của Quỷ tộc. Xem ra ta và hắn cũng ngọt ngào bên nhau được ít ngày, sau này lại gây oan nợ với hắn do Huyền Nữ giật dây bắc cầu.
Đóa thứ ba là con trai thứ hai Tang Tịch của Thiên Quân. Đây cũng coi như là mối nhân duyên do cha mẹ ép ta nhận lấy. Nhưng số ta không thể nhận được mối nhân duyên này, cho nên Tang Tịch vừa đến Thanh Khâu một chuyến đã có duyên tình với tỳ nữ của ta, rồi hai người bỏ trốn.
Đóa thứ tư là vật cưỡi của tứ ca - Tất Phương. Nhưng Tất Phương giấu giếm tình cảm của hắn cũng hơi sâu một chút, dường như chưa từng nhiệt tình sôi sục như đám nam thần tiên ngưỡng mộ Tiểu Chúc Âm, khó khăn lắm mới đợi đến được lúc hắn nghĩ thông suốt để cuồng nhiệt theo đuổi một lần, thì lúc đó ta đã được đính hôn rồi.
Bốn đóa hoa đào ấy, có ba đóa là hoa héo, chỉ còn một đóa đẹp hơn cả, nhưng chỉ được vẻ bên ngoài mà thôi.
Đóa cuối cùng trong năm đóa chính là Dạ Hoa.
Phu quân tương lai Dạ Hoa của ta, ta tiếc rằng mình đã không thể gặp chàng trong những năm tháng đẹp nhất của cuộc đời.
Từ Tây Hải mù mịt ráng khói, ta cưỡi mây lên Cửu Trùng Thiên, vì giữa đường bị ngã từ trên mây xuống một lần thành ra lôi thôi lếch thếch, lúc đến Nam Thiên Môn, ta bị hai thiên tướng canh cổng không khách khí ngăn lại.
Đầu tóc áo quần của ta quả thực không lịch sự cho lắm, làm giảm uy nghi của Thanh Khâu, nhưng vì nóng lòng muốn gặp Dạ Hoa, nên bất đắc dĩ lại phải mượn đến đại danh của Chiết Nhan, giả mạo là tiên sứ của lão, phụng lệnh lão đến thăm hỏi thái tử điện hạ của Thiên Đình - Dạ Hoa Quân.
Hai thiên tướng này đúng là làm việc cẩn thận, hết sức khách khí bảo ta đứng chờ một bên, tự mình đến Tẩy Ngô cung bẩm báo. Lòng ta nóng như lửa đốt, nhưng lại thấy họ đến Tẩy Ngô cung bẩm báo mà không phải là đến Lăng Tiêu điện bẩm báo, nên đoán rằng Dạ Hoa không sao cả, lòng cũng nhẹ nhõm ít nhiều.
Vị thiên tướng đi trước bẩm báo đi khoảng được chừng nửa tuần trà mới quay về, theo sau là một tiểu tiên nga tới dẫn đường cho ta. Ta cũng có chút ấn tượng về tiểu tiên nga này, hình như chính là nô tỳ trong thư phòng của Dạ Hoa. Nhìn thấy ta, nàng ta giương mắt tròn xoe, nhưng rốt cuộc vẫn là nô tỳ trong thư phòng của Dạ Hoa, nên hiểu biết, đôi mắt tuy trợn lên tròn như một cái bánh rán, nhưng miệng vẫn không mấp máy. Chỉ nghiêm chỉnh cúi chào ta một cái, rồi run rẩy chăm chú đi trước dẫn đường.
Hôm nay gió mát phe phẩy, ta ngửi thấy trong đó thoang thoảng hương sen thơm ngát.
Đã sắp đến Tẩy Ngô cung, ta hắng giọng hỏi: “Quân thượng các ngươi, chàng gần đây thế nào? Bây giờ có đang làm việc không?”.
Tiểu tiên nga dẫn đường quay đầu lại, cung kính thưa: “Gần đây quân thượng rất khỏe. Vừa cùng mấy vị tinh quân như Tham Lang, Cự Môn, Liêm Trinh bàn bạc công chuyện xong, bây giờ đang ở thư phòng đợi thượng thần giá đáo”.
Ta gật đầu một cái.
Nửa tháng trước chàng mới mất đi tu vi hơn vạn năm, bây giờ có thể ngồi đây bàn công chuyện, khôi phục cũng khá nhanh.
Tiểu tiên nga đó dẫn ta đi một mạch đến thư phòng của Dạ Hoa, rồi cung kính lui gót.
Ta vội vàng đẩy cánh cửa thư phòng, vội vàng bước qua bậc cửa, vội vàng vén bức rèm bên trong. Những hành động vội vàng ấy tuy nhìn vẫn rất đẹp mắt, nhưng vì lo lắng trong lòng nên khó tránh không chú ý va phải hai bình hoa cổ, gây ra tiếng động nho nhỏ.
Dạ Hoa đang vùi đầu trong đống giấy tờ, bỗng ngẩng lên nhìn ta nửa cười nửa không, day day góc trán nói: “Hôm nay nàng còn đặc biệt đến chỗ ta sao?”. Trên chiếc bàn đầy công văn còn có vài cuốn sổ đang mở.
Bề ngoài nhìn chàng không nhợt nhạt như khi ở Thủy Tinh cung Tây Hải lần trước, nhưng ta vẫn nhận ra chàng xanh xao đi rất nhiều.
Bây giờ ta đã không còn vô tâm như thuở nhỏ, dần dần hiểu rằng một người nếu muốn giấu bạn những điều không tốt của mình, thì bạn sẽ nhìn ngay ra những điểm không tốt của người đó.
Ta vội bước lên hai bước đến trước mặt chàng, định bắt mạch cho chàng. Thì chàng đột nhiên ngưng bặt nụ cười, vòng qua giữ chặt vạt áo của ta, cau mày hỏi: “Cái gì đây?”.
Ta cúi đầu xuống nhìn: “À, không có gì, khi sử dụng truy hồn thuật với Tây Hải đại hoàng tử một canh giờ trước, không để ý kinh động thần thức, nôn ra hai ngụm máu nhỏ mà thôi”.
Chàng đứng dậy, bưng chén lên xoay người rót thêm trà, vừa rót vừa nói: “Tuy nàng hết lòng chăm sóc Mặc Uyên nhưng cũng phải chăm sóc cho chính mình, nếu khi Mặc Uyên tỉnh lại mà nàng lại quỵ ra đó, thì không tốt đâu”.
Ta nhìn bóng lưng chàng, nhẹ nhàng nói: “Chàng đoán xem khi ta đi vào nguyên thần của Tây Hải đại hoàng tử, ta đã nhìn thấy gì?”.
Chàng quay người lại, đưa ly trà cho ta, nghiêng đầu hỏi: “Mặc Uyên à?”.
Ta đón lấy ly trà, thở dài đáp: “Dạ Hoa, bốn con ác thú canh giữ cỏ Thần Chi ở Doanh Châu, hình dáng ra sao? Viên tiên đan Chiết Nhan đưa cho ta là do chàng luyện phải không? Bây giờ trên người chàng còn lưu lại được tu vi bao nhiêu năm?”.
Chàng bưng ly trà đứng lặng, sắc mặt vẫn u ám, sau đó lại mỉm cười, nói: “Haizz, chuyện là như thế này. Trước đây Thiên Quân có sai ta đến Đông Hải trông coi, lúc ghé qua Doanh Châu bỗng nhớ đến nàng cần tới cỏ Thần Chi, nên nhân thể lấy mấy nhành. Còn mấy con ác thú mà nàng nói, hình dáng xấu xí, nếu như chúng dễ coi một chút, thì có thể bắt một con về cho nàng huấn luyện, lúc rảnh rỗi giải sầu. Nàng cũng hay rảnh rỗi mà”.
Chàng nói những lời này sao quá nhẹ nhàng, còn ta vẫn nhớ khi cha ta từ Doanh Châu trở về mình đầy thương tích. Ta nghe thấy tiếng của mình vang lên khô khốc: “Vậy viên tiên đan đó đã làm mất tu vi bao nhiêu năm của chàng? Lúc chàng nhờ Chiết Nhan đem đến cho ta sao còn phải giấu ta?”.
Chàng nhíu mày ra vẻ ngạc nhiên, nói: “A? Có chuyện vậy sao? Chiết Nhan không nói với nàng viên tiên đan đó là do ta luyện ư?”. Rồi lại cười, tiếp lời: “Đúng là không nên nhờ lão ta làm hộ, để lão cướp không công lao của ta”. Rồi lại vừa giở công văn trên bàn vừa nói, “Ta bẩm sinh tu vi đã cao hơn những thần tiên bình thường, trước đây Thiên Quân cũng độ cho ta không ít. Luyện viên tiên đan này cũng chỉ là chuyện vặt thôi”.
Ta nhìn cánh tay phải giấu trong tay áo của chàng, dịu dàng hỏi: “Lúc chàng rót trà, giở công văn, sao chỉ dùng tay trái, còn tay phải thì không dùng tới?”.
Cánh tay trái đang giở công văn của chàng khựng lại.
Nhưng cũng chỉ khựng lại trong giây lát, rồi lại thong thả giở tiếp, miệng vẫn nói: “Haizz, lúc lấy cỏ Thần Chi không cẩn thận để con Thao Thiết cắn một phát, đúng ngay tay phải, cho nên mới không được cử động. Cũng không có gì đáng lo ngại, Dược Quân cũng đã khám rồi, nói dưỡng thương một tháng là sẽ hồi phục”.
Nếu như ta trẻ hơn chàng, thì không chừng cũng tin những lời dối trá này. Nhưng ta đã sống ngần này tuổi, đương nhiên biết rằng chàng nói dối.
Chàng nói Thiên Quân độ tu vi cho chàng, tất nhiên Thiên Quân không vô duyên vô cớ mà độ tu vi cho chàng, hẳn là cái lần chàng nhảy xuống Tru Tiên đài, mất tu vi, tính mạng cũng sắp mất, Thiên Quân mới độ tu vi cho chàng. Ví dụ như bảy vạn năm trước mẹ ta cứu ta, cũng vì lẽ ấy. Thiên Quân độ cho chàng tu vi tất nhiên chỉ là bù lại phần đã mất, tổng cộng cũng không thể vượt quá tu vi năm vạn năm của chàng. Ta nhẩm tính tiên khí dùng để điều dưỡng cho Mặc Uyên chí ít cũng phải mất tu vi bốn, năm vạn năm.
Chàng nói Thao Thiết cắn một miếng vào cánh tay phải của chàng, chỉ là một vết thương nhỏ, chỉ cần dưỡng thương là khỏi. Thần tiên thời viễn cổ chúng ta đều hiểu, ác thú Thao Thiết vô cùng hung tợn, nó đã cắn cái gì thì thứ đó từ da đến xương đều bị nuốt trôi, xưa nay chưa từng có ai dám nói Thao Thiết cắn một miếng chỉ là vết thương nhỏ.
Những lời nói dối này rõ ràng là để an ủi ta. Để chàng khỏi thất vọng, tuy trái tim nhói từng cơn đau buốt nhưng cũng chỉ có thể giả vờ an tâm, nhẹ nhõm thở phào nói: “Vậy thì tốt, vậy thì tốt, ta yên tâm rồi”.
Chàng nhíu mày, cười cười, nói: “Ta có gì khiến nàng không yên tâm chứ? Có điều, Tây Hải đại hoàng tử mới dùng tiên đan chưa lâu, sợ còn phản ứng. Lúc này nàng lại lên Thiên Cung, chỉ sợ xảy ra sơ suất”.
Những lời này rất khéo léo nhưng rõ ràng có ý tiễn khách. Nhìn vẻ ngoài sắc mặt vẫn tốt, nhưng cũng hơi tiều tụy, chàng gắng gượng như vậy có lẽ cũng chẳng được bao lâu nữa.
Để giữ thể diện cho chàng, ta đành tỏ vẻ giật mình vì được chàng nhắc nhở, tặc lưỡi kêu: “Ai da, suýt nữa thì quên, vậy ta về trước, chàng cũng chịu khó dưỡng thương nhé”.
Lúc nói ra câu đó, ta cảm thấy vừa đau lòng vừa buồn bã.
Ta quyết định về Thanh Khâu hỏi Chiết Nhan, xem xem thương thế của Dạ Hoa rốt cuộc ra sao.
Lòng nóng như lửa đốt, ta vội vã quay về, nhưng Chiết Nhan lại không còn ở Thanh Khâu nữa.
Tứ ca miệng ngậm cây cỏ đuôi chó đang nằm phơi nắng trên bãi cỏ bên ngoài động Hồ Ly, nói với ta: “Mấy hôm trước Chiết Nhan về rừng đào rồi. Nghe nói gần đây hắn làm một chuyện sai trái, vì đã bao năm không làm chuyện sai trái, nên cảm thấy cắn rứt lương tâm, phải quay về rừng đào ăn năn”.
Ta chán nản rủa một tiếng, lại cưỡi mây đi thẳng về rừng đào mười dặm.
Lúc tìm Chiết Nhan ở Bích Dao trì sau rừng đào, vẫn là giờ Ngọ mặt trời còn treo trên đỉnh đầu, nhưng miệng lão cứ ngậm chặt, đến khi lão mở miệng kể về chuyện của Dạ Hoa đã là giờ Tý trăng treo ngang trời.
Kể rằng vào hơn nửa tháng trước, đêm mười sáu tháng sáu, lão cùng tứ ca ta ngắm trăng trong rừng trúc bên ngoài động Hồ Ly, bỗng một đôi tiên quân từ trên trời xuất hiện. Đôi tiên quân này vâng mệnh của Thiên Quân, cấp tốc tới cửa cốc Thanh Khâu, mời lão lên Cửu Trùng Thiên một chuyến, cứu một người. Trên trời xưa nay đã có Dược Quân phụ trách, Thiên Quân lại chẳng quản ngàn dặm xa xôi vời lão, chắc chắn người này tính mạng nguy cấp, thuốc thang vô phương cứu chữa, đến Dược Quân cũng phải bó tay. Lão vốn không có mấy thiện cảm với Thiên Quân hiện giờ, nhưng vốn bản thân cũng muốn để Thiên Quân nợ mình một món ân tình, thế nên vẫn theo hai tiên quân kia lên trời.
Sau khi lên Cửu Trùng Thiên, lão mới hiểu người mà Thiên Quân chẳng quản nghìn dặm xa xôi mời lão về cứu chữa, chính là con rể tương lai của nhà họ Bạch chúng ta - Dạ Hoa.
Khi lão gặp Dạ Hoa, tình hình của Dạ Hoa tuy không đến mức thuốc thang vô phương cứu chữa, nhưng cũng vô cùng hiểm nghèo, toàn bộ cánh tay phải bị Thao Thiết nuốt hết, chỉ còn lại một tay áo phơ phất, tu vi trên người cũng chỉ còn một, hai vạn năm mà thôi.
Kể đến đây, lão hơi thương cảm, nói: “Phu quân của ngươi tuy tuổi còn nhỏ nhưng suy tính chu toàn, nói mấy ngày trước đã dâng sớ lên lão già Thiên Quân, chính là ngày thứ hai ngươi đi Tây Hải, trong sớ nói rằng cỏ Thần Chi mọc ở Doanh Châu, Đông Hải đã vi phạm pháp chế của tiên giới ra sao, viện ra hàng loạt lý lẽ, xin Thiên Quân ân chuẩn cho hắn đi nhổ sạch cỏ Thần Chi ở Doanh Châu Đông Hải. Thiên Quân thấy rất chí lý bèn ân chuẩn. Hai ngày sau khi hắn đến Doanh Châu, tin tức báo về rằng Doanh Châu đã chìm vào Đông Hải, Thiên Quân cả mừng, lại qua một ngày nữa sau khi hắn quay về, thì thương tích nặng nề. Thiên Quân cho rằng cháu mình bị như vậy đều là do bốn con ác thú canh giữ cỏ Thần Chi làm hại, vô cùng hối hận mình đã đánh giá cao đứa cháu, lúc đầu đã không phái thêm mấy trợ thủ cho hắn. Ta cũng tưởng tu vi trên người hắn bị bốn con súc sinh đó ăn hết lúc hủy cỏ Thần Chi ở Doanh Châu. Sau này hắn giao viên tiên đan cho ta, ta mới hiểu rằng, bốn con súc sinh đó ngoài ăn mất một cánh tay của hắn, thì không được lợi nửa phân, ngược lại hắn còn một nhát kiếm chém sạch bọn chúng. Hắn tiều tụy bơ phờ như vậy là do sau khi lấy được cỏ Thần Chi lại lập tức dùng tu vi của mình để luyện đan. Ta đã đắp thuốc cho vết thương của hắn, ngươi không cần lo lắng, dần dần sẽ khỏi thôi, còn cánh tay kia là tàn phế rồi. A, mà cũng chưa hẳn tàn phế, ngươi xem cánh tay ta làm cho hắn, bây giờ tuy chưa sử dụng được nhưng sau một vạn, tám nghìn năm sẽ dần dần linh hoạt, biết đâu lại dùng được”.
Ánh trăng chiếu chênh chếch trên đầu, mặt trăng lớn tròn vành vạnh tỏa sáng lạnh lẽo biết bao.
Chiết Nhan thở dài, than: “Hắn không an tâm về ngươi, mới nhờ ta đưa viên tiên đan cho ngươi. Hắn cảm thấy hắn đã là phu quân tương lai của ngươi, những gì ngươi nợ Mặc Uyên, hắn sẽ thay ngươi trả tất cả, còn đòi ta giấu ngươi, là sợ ngươi bướng bỉnh, biết được là do hắn chia hơn một nửa tu vi để luyện thì sẽ không chịu dùng. Cũng sợ ngươi lo lắng nữa. Đâu ngờ ngươi xưa nay luôn qua loa đại khái, lần này sau khi cho Tây Hải đại hoàng tử uống tiên đan xong lại đi vào nguyên thần của y để xem xét. Có điều tính cách chuyện gì cũng một mình gánh vác của Dạ Hoa, khiến ta bội phục, quả là mạnh mẽ ngoan cường”. Rồi lão lại thở dài một tiếng, ngậm ngùi nói “Hắn mới năm vạn tuổi đã một kiếm giết chết bốn con ác thú Thao Thiết, Cùng Kỳ…, tiền đồ rộng mở. Nhưng tu vi tinh túy toàn thân, hắn nói chia là chia, đáng tiếc lắm thay”.
Cổ họng ta nghẹn lại, trái tim bỗng chùng xuống.
Chiết Nhan giữ ta ở lại, ta cảm ơn ý tốt của lão, rồi lấy ở chỗ lão mấy viên đan dược bổ khí dưỡng sinh, nhân lúc trăng sáng cưỡi mây mà đi. Dạ Hoa đã được Chiết Nhan điều trị, đúng như những gì lão khuyên nhủ ta, cho dù ta lập tức quay lại bên chàng cũng chẳng giúp được gì hơn, chỉ có thể nhìn chàng mà thôi. Nhưng cho dù ta chỉ có thể làm được một việc rất, rất nhỏ, thì ta vẫn muốn quay về bên chàng ngay lập tức.
Ta bắt quyết biến thành một con thiêu thân, bay vòng qua mấy thiên tướng và mấy con hổ canh gác Thiên Nam Môn, lần theo tuyến đường rất khó nhớ đã đi ban trưa, bay thẳng đến điện Tử Thần của Dạ Hoa.
Điện Tử Thần của chàng được sơn màu đen, khi ta chạm đất, chẳng may va phải một chiếc ghế. Chiếc ghế vừa “cạch” một tiếng, cả tòa điện đã sáng trưng lên. Dạ Hoa mặc một chiếc áo bào lụa trắng, ngồi dựa vào thành giường, ánh mắt nhìn ta vô cùng sâu xa khó hiểu. Ta mới chỉ thấy chàng lúc mặc áo bào màu đen và lúc không mặc quần áo, giờ chàng mặc một chiếc áo bào lụa trắng mỏng manh này, hừ, đẹp không tả xiết, mái tóc đen như mun buông xõa, hừ, cũng đẹp không thể tả xiết.
Chàng nhìn ta chằm chằm một lát, rồi nhíu mày hỏi: “Không phải nàng đang chăm sóc Tây Hải đại hoàng tử ở Tây Hải sao? Sao nửa đêm canh ba lại vội vội vàng vàng chạy đến phòng ta, chẳng nhẽ Điệp Ung xảy ra chuyện gì sao?”. Dáng vẻ nhíu mày của chàng, vẫn rất đẹp.
Ta cười khan hai tiếng, thong thả nói: “Điệp Ung không sao, việc của ta ở Tây Hải xong rồi, nhớ đến vết thương trên tay chàng, sợ chàng đến cầm chén rót trà cũng không vững, nên ta tới đây chăm sóc chàng”.
Dạ Hoa, chàng đã mất công giấu ta, không muốn ta lo lắng, để chàng yên tâm, ta cảm thấy mình vẫn nên tiếp tục giả vờ không biết gì là hơn.
Chàng lại nhìn ta càng khó hiểu hơn, rồi mỉm cười, ngồi dịch qua một bên giường, nói: “Thiển Thiển, nàng qua đây”.
Giọng chàng rất trầm, dái tai ta đỏ ửng lên, ho khẽ nói: “Không được sao? Ta đến chỗ cục bột ở lại cùng nó, chàng cứ yên tâm nghỉ ngơi đi, ngày mai ta lại đến thăm chàng”, nói đoạn quay người bước đi. Nhưng chưa ra khỏi phòng Dạ Hoa, trong điện lại vụt tối thui. Chân ta còn chưa thu về kịp, theo đà lại va vào chiếc ghế.
Dạ Hoa ở phía sau ôm lấy ta. Chàng nói: “Bây giờ ta chỉ có dùng một tay để ôm nàng, nếu nàng không muốn thì có thể gỡ ra”.
Trước đây mẹ ta từng dạy ta khi đi làm dâu phải như thế nào, nói đến chuyện trong khuê phòng của hai vợ chồng, đặc biệt nhấn mạnh chuyện này. Mẹ nói con gái lúc mới làm vợ, khi phu quân đòi hỏi, phải theo truyền thống mà từ chối nhẹ nhàng khéo léo, thể hiện được sự giữ gìn khép nép của con gái.
Ta cảm thấy cái ho ban nãy của ta, đã thể hiện ý từ chối một cách khéo léo, nhưng rõ ràng là Dạ Hoa không thèm để ý. Nhưng buồn thay mẹ ta lại không hề dạy ta rằng khi phu quân không chấp nhận sự từ chối khéo léo của vợ, thì người con gái phải làm thế nào mới thể hiện được sự giữ gìn khép nép.
Mái tóc buông xõa của Dạ Hoa cọ vào dái tai ta nhột nhột, ta bối rối chẳng biết làm sao, lặng im quay sang ôm lấy chàng, nói: “Ta chỉ chiếm một nửa cái giường của chàng, được không?”.
Chàng ho nhẹ một cái, cười nói: “Tầm vóc của nàng cũng không thể chiếm được nửa cái giường của ta”.
Ta ngượng ngập đẩy chàng ra, rồi mò mò đến mép giường, ngẫm nghĩ rồi cởi áo, tung chăn chui vào. Ta cuộn mình trong một góc giường, cuốn chăn quanh người, đợi Dạ Hoa lên giường, lại cuộn mình nhích vào bên trong. Chàng quờ quạng kéo ta, kéo chăn của ta ra, túm được một góc chăn rồi kéo về phía chàng. Nhưng chiếc chăn này hơi nhỏ, chàng vừa kéo một cái đã kéo tuột hết chăn của ta. Tuy giờ là đêm hè tháng bảy, nhưng trên Cửu Trùng Thiên vẫn rất lạnh, ta lại cởi áo khoác ngoài, nếu cứ như vậy ngủ suốt đêm, ngày mai chắc chắn không phải ta chăm sóc Dạ Hoa, mà là chàng sẽ phải chăm sóc ta.
Mất thể diện cũng chẳng sao, ta nhích lại gần chàng một chút, lại nhích thêm một chút. Chàng nằm sát mép giường, ta lại nhích qua tiếp. Ta liên tiếp nhích sang ba lần, nhưng đến mép chăn mà vẫn chưa chạm đến, đành tiếp tục nhích sang nữa, chàng liền quay người lại, thành ra ta nằm gọn trong lòng chàng. Chàng dùng tay trái ôm lấy ta, nói: “Đêm nay nàng nằm yên trong lòng ta đắp chăn ngủ, hay là nằm trong góc tường không đắp chăn ngủ?”.
Ta sững người, nói: “Hai chúng ta có thể cùng nằm trong góc tường đắp chăn ngủ”. Ta thấy mình chưa kịp suy nghĩ đã nói.
Chàng ôm lấy ta khẽ cười: “Ý này rất hay”.
Đêm nay, chúng ta giống như một đôi chim liền cánh, ôm nhau nằm trong góc tường ngủ say.
Tuy rằng ôm nhau, ta dựa vào lồng ngực Dạ Hoa nhưng ngủ vẫn rất ngon. Trong khi mơ màng hình như nghe thấy chàng nói, nàng biết cả rồi à, tính cách của nàng quả vẫn như trước đây, không chịu nợ ân tình người khác. Chàng nói không sai, xưa nay ta không thích nợ ân tình của ai, nên trong lúc mơ màng đã nói đồng ý với chàng. Nhưng vì ta thấy chàng cũng mơ màng ngủ say, nên cũng không nhớ đã đồng ý với chàng điều gì.
Giữa đêm, bỗng nghe thấy chàng ho một tiếng, ta liền giật mình. Chàng nhẹ nhàng xuống giường, đắp chăn lại cho ta, rồi rón rén đẩy cửa bước ra ngoài. Ta chăm chú lắng nghe bên ngoài điện vang lên một tràng ho, tiếng ho cố nén xuống thật khẽ, nếu không phải loài hồ ly nhà ta tai rất thính, ta lại chăm chú lắng nghe thì cũng không thể nghe thấy âm thanh ấy. Ta sờ chỗ chàng nằm bên cạnh, trong lòng trào dâng một nỗi đau buồn khôn xiết.
Chàng ở bên ngoài một lúc mới quay lại, ta giả vờ ngủ rất giống, lúc chàng lật chăn vào nằm, không hề phát hiện ra ta đã tỉnh. Dường như ta ngửi thấy thoang thoảng mùi máu tanh, nằm sát người chàng, đoán rằng chàng đã ngủ mới lại chui vào lòng chàng, giang tay ôm lấy chàng, đau xót biết bao, rồi ta cùng dần dần thiếp đi. Sáng hôm sau tỉnh dậy, trông chàng không có vẻ gì là bệnh tật cả, khiến ta cũng ngờ rằng đêm qua chỉ là do ta quá buồn quá vui quá lo quá sợ nên đã nằm mơ mà thôi.
Nhưng ta biết rằng, đó không phải là giấc mơ.
Ta vừa ở bên Dạ Hoa vừa hơi nhớ cục bột nhỏ. Nhưng nghe nói mấy hôm nay trên Linh Sơn mở pháp hội, Phật Tổ đăng đàn thuyết pháp, giáo hóa chúng sinh, cục bột nhỏ được Thành Ngọc Nguyên Quân đưa đi xem.
Ta lo lắng Tây Thiên đất Phật, cảnh thiền sâu đậm, cục bột còn nhỏ như vậy sẽ sinh ra buồn chán. Dạ Hoa lại không nghĩ thế, nói: “Nó đi Tây Thiên chẳng qua chỉ là ăn quả ăn mía ở Linh Sơn, huống hồ còn có Thành Ngọc đi theo, đám thần tiên dưới đàn tràng đều buồn chán đến mức ngủ gật, nó cũng không buồn chán lắm đâu”. Ta nghĩ một lát, cảm thấy cũng có lý.
Khí sắc của Dạ Hoa không được tốt. Chiết Nhan nói cánh tay phải của chàng không còn dùng được, mỗi ngày ta đều chăm sóc chàng rất cẩn thận, nhưng chàng lại chẳng hề để ý. Vì chuyện chàng bị thương hết thảy thần tiên - từ thần tiên nhất phẩm đến cửu phẩm đều biết, cũng không có ai dám đem những chuyện cỏn con đến quấy nhiễu chàng, cho nên chàng cũng khá rảnh rỗi.
Ta lo lắng cho vết thương của Dạ Hoa, muốn ở gần chàng. “Nhất Lãm Phương Hoa” lại cách điện Tử Thần khá xa, không gần bằng điện Khánh Vân, hơn nữa lại là nơi phu nhân trước của Dạ Hoa ở, nên tạm thời ta ở điện Khánh Vân của cục bột nhỏ. Hình như Thiên Cung của chàng không có quy định này, nhưng châm chước ta ở chốn quê mùa Thanh Khâu xa xôi đến, nên vẫn sắp xếp giường chiếu ở chỗ điện Khánh Vân.
Mấy ngày đầu, ngày nào ta cũng dậy rất sớm, khi trời vẫn còn chưa sáng, đi một mạch sang điện Tử Thần của Dạ Hoa, giúp chàng mặc áo, cùng chàng ăn sáng. Vì mấy vạn năm nay ta không dậy sớm như vậy, nên thi thoảng cũng ngái ngủ ngáp mấy cái.
Mấy hôm sau, có một hôm ta đang cố gắng tỉnh ngủ, trong lúc lơ mơ định vội vàng chạy qua điện Tử Thần, thì vừa mở mắt đã thấy Dạ Hoa đang nửa nằm nửa ngồi bên cạnh ta đọc sách rồi.
Đầu ta gối lên cánh tay phải bất động của chàng, cánh tay trái đang cầm một cuốn bản đồ tác chiến, nhìn thấy ta đã tỉnh, chàng lật sang trang, nói: “Trời vẫn chưa sáng, nàng ngủ thêm đi, đến giờ Thìn ta sẽ gọi nàng dậy”.
Nói ra thật xấu hổ, từ đó, ta không cần ngày ngày dậy sớm đến điện của chàng, mà mỗi sáng sớm chàng đến điện của cục bột nhỏ, bữa sáng đương nhiên cũng chuyển từ điện Tử Thần sang điện Khánh Vân.
Những ngày ở Thiên Cung này không giống với những ngày ở Thanh Khâu, ở Thanh Khâu sau khi ăn sáng đều đi dạo, đi dạo xong thì cùng về thư phòng, trong thư phòng pha hai bình trà, chàng làm việc của chàng, ta làm việc của ta, đến đêm thì chong đèn đánh mấy ván cờ.
Dược Quân thi thoảng qua qua lại lại Tẩy Ngô cung, lúc ta ở đó, ông ta hầu hết chẳng nói được gì. Nhìn thấy ông ta là ta lại nhớ đến vết thương trên người Dạ Hoa, vì thế ta chẳng muốn gặp ông ta chút nào. Ngoại trừ điều đó, hết thảy ta đều vừa ý cả. Ta sống đến ngần này tuổi, những chuyện thuở nhỏ nay đã không còn nhớ rõ, nhưng vẫn còn có thể phân biệt được, cho dù là những năm tháng ở bên Ly Kính cũng chưa bao giờ có cảm giác hạnh phúc như bây giờ.
Tuy ta tuổi có cao một chút, khi còn thiếu nữ tuy hoa đào ít ỏi, chẳng có ôm ấp mối tình giống như trong thơ, đến nay, cảm nhận được xúc động của tình yêu, thi thoảng cũng muốn cùng Dạ Hoa “Dưới trăng trước hoa”(*) một phen. Nhưng vị trí của Tẩy Ngô cung còn cao hơn trăng rất nhiều, nếu muốn ngắm trăng thì chỉ có thể không ngừng nhìn xuống chân, hơn nữa phải may mắn lắm mới nhìn thấy, chứ đừng mong ánh trăng dịu dàng dát trên người chúng ta, tạo nên khung cảnh mông lung huyền ảo, cho nên đành nuốt hận mà thôi. May mà trong lúc đi dạo cùng Dạ Hoa, cũng có thể ngắm hoa cỏ, miễn cưỡng cũng coi là “trước hoa” được mấy lần.
(*) “Dưới trăng trước hoa” có nghĩa bóng chỉ chuyện ái ân, nhưng nhân vật Bạch Thiển lại hiểu theo nghĩa đen là ngắm trăng thưởng hoa (ND).
Lúc trước ở Thanh Khâu, hễ sáng sớm là bị Dạ Hoa lôi đi dạo, đi vòng quanh đầm nước, rừng trúc gần động Hồ Ly mấy vòng, hầu hết là chàng hỏi ta bữa trưa muốn ăn gì, chúng ta cứ bàn tới bàn lui, khi đi đến nhà tranh của Mê Cốc, thì tiện thể bảo Mê Cốc chuẩn bị ít thức ăn tươi.
Còn ở trên Thiên Cung, bữa cơm chẳng cần Dạ Hoa nhọc công, chàng cũng không có sở thích nào khác, may mà lúc đi dạo nghe ta kể những chuyện đã đọc được. Xưa nay ta đọc những truyện đó là để giết thời gian, đọc hết quyển này đến quyển khác, đến bây giờ không còn nhớ tên của các tiểu thư, thư sinh, chỉ nhớ mang máng là chuyện gì.
Nhưng Dạ Hoa lại rất thích thú, ta đọc lại những cuốn sách này cố gắng nhớ thật kỹ, để ngày hôm sau có thể kể cho chàng nghe. Mấy hôm sau, tự ta cũng cảm thấy mình có năng khiếu đọc sách.
|
Ngày mùng bảy tháng bảy, pháp hội trên Linh Sơn cũng kết thúc. Xem ra cục bột nhỏ cũng sắp quay về Thiên Cung rồi.
Đêm mùng bảy tháng bảy, gió mát hiu hiu, hoa quế trên cung trăng nở sớm, mùi hoa quế thơm ngát lan tỏa khắp Cửu Trùng Thiên.
Ta cùng Dạ Hoa ngồi trong một ngôi đình bên cạnh Bích Dao trì, trên nóc đình có treo mấy chiếc đèn lồng, trên mặt bàn bằng đá cũng thắp mấy ngọn đèn dầu. Tay trái Dạ Hoa cầm bút, vẽ một bức trận đồ trên đèn lồng.
Năm xưa khi ta bái sư ở Côn Luân, khi học nghệ với Mặc Uyên, môn trận pháp này đã từng học tới hai vạn năm, còn khó hơn cả môn Đạo pháp, Phật pháp, là môn hóc búa nhất trong những môn hóc búa mà ta đã từng học. Ta hễ nhìn thấy hình trận pháp là không chỉ đau đầu, mà còn đau toàn thân, cho nên chỉ đứng bên cạnh thưởng thức tài nghệ của Dạ Hoa, làm điệu bộ mỹ nhân nhắm mắt dưỡng thần mà thôi.
Vừa mới nhắm mắt liền nghe thấy tiếng cục bột lanh lảnh gọi ta từ xa: “Mẫu thân, mẫu thân”.
Ta đứng dậy nhìn, quả đúng là cục bột.
Nó mặc một chiếc áo màu xanh ngọc bích, đôi tay nhỏ đang giữ một tay nải trên vai trái, tay nải đó nhìn có vẻ rất nặng. Nó khoác tay nải chạy xiêu xiêu vẹo vẹo, Dạ Hoa ngừng bút, đi đến bên bậc thềm nhìn nó, ta cũng ngưng dáng vẻ mỹ nhân dưỡng thần nhìn nó. Nó chạy lại gần chừng trăm bước, miệng gọi to mẫu thân, ta liền đáp lời. Nó từ từ hạ thân hình mũm mĩm ngồi xuống, rồi cẩn thận gỡ tay nải trên vai đặt xuống đất, giơ cánh tay bé nhỏ lên vừa lau mồ hôi vừa liến láu: “Mẫu thân, mẫu thân, A Ly mang mía trên Linh Sơn về cho người đây, là A Ly tự tay chặt đó…”, nghĩ gì đó lại nói, “A Ly toàn chọn những cây to nhất để chặt, hi hi hi”, cười xong thì quay người bụm miệng, cố hết sức kéo tay nải kia nhích từng bước đến chỗ chúng ta.
Ta định qua đó giúp nó, nhưng bị Dạ Hoa ngăn lại: “Kệ nó kéo một mình đi”.
Sự chú ý của ta dồn cả vào cục bột, nên không để ý sau bụi hoa vô danh đột nhiên lộ ra một bóng người. Trong tay bóng người này cũng có một tay nải, so ra còn nhỏ hơn nhiều tay nải của cục bột.
Hắn rảo bước đến trước mặt chúng ta, dưới ánh sáng nhàn nhạt của đèn lồng, khuôn mặt thư sinh trắng trẻo đờ ra.
Cục bột nhỏ tiến lên phía trước, nói: “Thành Ngọc, Thành Ngọc, đây là mẫu thân của ta, ngươi xem, mẫu thân ta rất đẹp phải không?”.
Hóa ra tên thư sinh mặt trắng kia là chính là Thành Ngọc Nguyên Quân - kẻ rất giỏi trò vuốt râu cọp, chuyên bày ra những trò to gan lớn mật.
Thành Ngọc đờ đẫn nhìn ta, nhìn một lúc lâu, mới giơ tay ra nhéo vào đùi mình, đau đến mức xuýt xoa, trong lúc xuýt xoa, hắn bật ra một câu: “Quân thượng, tiểu tiên có thể sờ vào nương nương một cái được không?”.
Dạ Hoa ho một cái. Còn ta sững sờ.
Tuy Thành Ngọc mặc áo choàng rộng, mặc đồ nam giới, nhưng giọng nói lại “nhão nhoét”, trước ngực cũng phập phồng, nhấp nhô, chẳng giống nam tử chút nào. Theo kinh nghiệm sáng suốt của bản thượng thần đã nhiều năm giả nam, thì Thành Ngọc Nguyên Quân này hẳn là một nữ nguyên quân.
Dạ Hoa còn chưa nói gì, cục bột đã nhảy dựng lên, chắn trước mặt ta, vênh mặt nói: “Cái tính vừa nhìn thấy gì lạ là muốn sờ một cái của ngươi còn chưa bị Tam gia gia của ta trị sao, mẫu thân ta là của phụ quân ta, chỉ có phụ quân ta được sờ, ngươi sờ cái gì mà sờ?”.
Dạ Hoa khẽ cười một tiếng, ta ngước lên nhìn chiếc đèn lồng treo trên nóc đình.
Thành Ngọc mặt xám ngoét, ấm ức nói: “Ta đã lớn ngần này, lần đầu tiên mới nhìn thấy một nữ thượng thần. Sờ một cái cũng không được sao?”.
Cục bột nhỏ nói: “Hừ”.
Thành Ngọc tiếp tục ấm ức nói: “Ta chỉ sờ một cái thôi, chỉ một cái thôi, cũng không được sao?”.
Cục bột nhỏ tiếp tục nói: “Hừ”.
Thành Ngọc rút một chiếc khăn từ trong tay áo ra, chấm chấm nước mắt nói: “Ta tuổi trẻ, vô ý bị đưa lên Thiên Đình làm thần tiên, ngày ngày bị tam điện hạ sai bảo, bao năm qua thê thảm biết bao, ta cũng chẳng dám trông mong gì, nguyện vọng bình sinh chỉ là, khi gặp một nữ thượng thần có thể chạm một cái, ý nghĩ nhỏ nhoi này cũng không thể thỏa nguyện, Ti Mệnh thật tàn nhẫn với ta”.
Dáng vẻ buồn bã của nàng ta đúng là như cha chết mẹ chết. Ta bỗng “à” ra, vị Tam điện hạ mà nàng ta nhắc đến, chính là Tam gia gia mà cục bột nói, tức là đệ đệ của Tang Tịch, tam thúc của Dạ Hoa - Liên Tống Quân.
Cục bột nhỏ nhệch miệng, hết nhìn ta lại nhìn phụ quân nó, mãi lâu sai cuối cùng mới nói: “Được rồi, ngươi sờ đi, nhưng chỉ cho sờ một cái thôi”.
Dạ Hoa lườm Thành Ngọc một cái, quay lại với bức họa trên bàn đá, nhấc bút lên khẽ nói: “Dám trêu ghẹo vợ ta, lừa gạt con ta trước mặt ta, Thành Ngọc, gần đây ngươi càng ngày càng tiến bộ đấy”.
Thành Ngọc đang hí hửng giơ tay lên, còn chưa chạm vào vạt áo ta, đã vội buông tay xuống.
Cục bột nhỏ kéo tay nải nặng trịch kia vào trong đình, rồi mở ra, quả nhiên là mía đã chặt thành từng tấm. Nó chọn ra một tấm to nhất rồi đưa cho ta, sau đó lại chọn một tấm to không kém đưa cho phụ quân nó. Nhưng tay trái Dạ Hoa đang cầm bút, tay phải đã hỏng rồi, nên không thể cầm lấy.
Cục bột nhỏ chạy qua, kiễng chân ôm lấy cánh tay phải không còn tri giác của Dạ Hoa, chun mũi sụt sịt, hai giọt nước mắt long lanh lăn xuống, rồi òa lên: “Tay phụ quân không khỏi sao, bao giờ thì phụ quân mới có thể bế A Ly đây”.
Sống mũi ta cay cay. Chiết Nhan nói cánh tay của chàng một vạn, tám nghìn năm nữa mới có thể khỏi, chàng đang giấu cục bột, đang giấu ta, muốn ra sao thì ra thế ấy, cũng không thèm coi trọng. Ta vì phối hợp diễn xuất với chàng, nên cũng đành không coi trọng. Nhưng trong lòng ta vẫn canh cánh chuyện này, có điều ván đã đóng thuyền, đau buồn hơn nữa cũng không giải quyết được, ta thầm tính toán, từ giờ về sau, ta sẽ là cánh tay phải của chàng.
Dạ Hoa đặt bút xuống, một tay giang ra ôm lấy cục bột, nói: “Ta chỉ cần một tay vẫn ôm được con, con trai không nên hơi tý là rơi nước mắt, sẽ ra thể thống gì”. Ánh mắt lướt qua ta, nửa cười nửa không: “Tuy ta luôn cảm thấy mỹ nhân u sầu có vẻ đẹp rất riêng, nhưng nàng u sầu thế này nhìn khổ sở quá. Mấy hôm trước ta cảm thấy cánh tay này đã có chút tri giác, nàng chớ nên lo lắng”.
Ta thầm than một tiếng, ngoài mặt vẫn tỏ ra vui mừng, nói: “Ta đương nhiên biết rằng cánh tay của chàng không lâu nữa sẽ khỏi, nhưng không biết sau khi khỏi rồi có linh hoạt như xưa không. Chàng vẽ rất đẹp, nếu vì thế mà không vẽ nữa, sau này ta và cục bột nhỏ muốn vẽ tranh lại phải phiền đến người khác, thì không được tiện cho lắm”.
Chàng cúi đầu khẽ cười, buông cục bột ra rồi nói: “Tay trái ta còn linh hoạt hơn tay phải, cho dù tay phải không khỏi thì cũng không sao. Nhưng bây giờ vẽ luôn cho nàng một bức có được không?”.
Ta nhếch môi cười. Quả không hổ là người được Thiên Quân chọn để kế vị, ngoài đánh giết ra, chàng còn có bản lĩnh này.
Thành Ngọc đứng im thin thít từ nãy giờ lập tức xí xớn bước tới, nói: “Nương nương phong thái trác việt, họa sĩ tầm thường đâu dám hạ bút, e rằng chỉ có quân thượng mới có thể vẽ lại được tiên thế của nương nương, tiểu tiên đi trước lấy bút mực, giá vẽ cho quân thượng”.
Mấy câu nói này của Thành Ngọc thật làm người ta vui vẻ, ta liền đồng ý.
Thành Ngọc chạy tới chạy lui như một cơn gió mang bút mực giấy nghiên, giá vẽ về, theo ý của Dạ Hoa, ta ôm cục bột nhỏ ngồi nghiêng nghiêng, thấy Thành Ngọc ngồi không bên cạnh, nên cũng gọi nàng ấy qua, ngồi xuống bên cạnh ta, để Dạ Hoa nhân thể vẽ cho nàng ấy một bức.
Cục bột nhỏ nép trong lòng ta vặn vẹo mấy cái.
Dạ Hoa mỉm cười nhíu mày, không nói gì, lúc hạ bút còn khẽ cười với ta một cái, nụ cười này của chàng phản chiếu nền trời đen thăm thẳm sau lưng chàng, ánh nến bập bùng, giống như ánh sáng từ ba nghìn thế giới hội tụ, lòng ta hễ xao động là dái tai đã nóng bừng.
Cho dù tay phải không thể cử động, nhưng tư thế vẽ của chàng vẫn rất đẹp mắt, tự nhiên. Ta tự cảm thấy con mắt chọn chồng của mình quả không tồi chút nào.
Lúc hoàn thành bức tranh, ta thấy chưa mất một canh giờ, cục bột nhỏ đã ngủ say trong lòng ta. Thành Ngọc chạy qua nhìn, chỉ dám than mà không dám giận, miệng méo xệch: “Tiểu tiên ngồi bao lâu như thế, quân thượng thánh minh, xấu đẹp gì cũng phải vẽ một góc áo của tiểu tiên chứ”.
Ta ôm cục bột nhỏ cũng bước qua xem sao.
Bức tranh do Dạ Hoa dùng tay trái vẽ, cũng đẹp chẳng kém so với dùng tay phải. Nếu để nhị ca ta biết được tài năng này của chàng, hẳn sẽ coi chàng là tri kỷ.
Ta cử động làm cục bột tỉnh dậy, chớp chớp mắt rồi từ trên đầu gối ta nhảy xuống. Nó nhìn bức tranh, chậc chậc hai tiếng hỏi: “Thành Ngọc, sao không có ngươi?”.
Thành Ngọc ai oán liếc nó một cái.
Ta thấy Thành Ngọc đáng thương, vỗ vỗ lên vai nàng ấy, an ủi: “Mấy hôm nay thể lực của Dạ Hoa có suy giảm một chút, vẽ bằng một tay đã đủ mệt rồi, ngươi nên thông cảm cho chàng”.
Tay phải Thành Ngọc bưng miệng, khụ khụ: “Thể, thể lực suy giảm”.
Động tác nhúng bút vào chậu rửa bút của Dạ Hoa khựng lại, ta nhìn thấy cây bút lông thỏ cán bạch ngọc trong tay chàng gãy làm đôi.
Khụ khụ, nói sai rồi.
Cục bột nhỏ ngây ngô nhìn Thành Ngọc, chất giọng non nớt cất lên: “Thể lực suy giảm là ý gì? Có phải tuy phụ quân ôm được A Ly nhưng lại không ôm được mẫu thân không?”.
Ta cười ha ha hai tiếng, lùi về sau một bước. Chân còn chưa chạm đất, trời đất đã xoay mòng mòng. Sau khi ta định thần lại thì người đã bị Dạ Hoa vác trên vai.
Ta kinh ngạc.
Chàng nhẹ nhàng dặn dò Thành Ngọc: “Thu dọn những thứ trên bàn, ngươi đưa A Ly về điện của nó nghỉ ngơi”.
Thành Ngọc rũ tay áo thưa “vâng”, cục bột nhỏ đưa hai tay bịt mắt, lại kêu lên “đồ háo sắc, đồ háo sắc” với chàng, Thành Ngọc vội vàng đưa tay ra bịt miệng cục bột nhỏ.
Năm vạn năm trước khi ta và Tang Tịch đính ước, cha mẹ dạy ta cách làm dâu là phải theo Thiên Cung, nhưng khi cùng Dạ Hoa thì lại chẳng hề theo quy định của Thiên Cung, trước đây cùng Ly Kính vì tuổi nhỏ trong sáng, những chuyện trong khuê phòng chưa hề dám làm gì, ta đắn đo trong lòng, cảm thấy chuyện đã như thế này, thì chỉ có thể theo tập tục của Thanh Khâu nhà ta.
Tam ca Bạch Kỳ của ta từng viết một bài hát, rằng: “Muội muội cứ can đảm đi về phía trước, nhắm chuẩn rồi lập tức ra tay, dùng dây thừng mà trói, dùng cần câu mà câu, nếu muội chỉ chậm một chút, thì ca ca trong lòng đã bị người khác bắt đi rồi”. Tam ca của ta, huynh ấy là một nhân tài, bài hát đó tuy giản dị nhưng đã phản ánh được phong tục của Thanh Khâu nhà ta.
Ánh đèn vàng nhạt chiếu khắp cung phản chiếu bóng ta và Dạ Hoa hòa làm một, chàng sải bước rất nhanh, ta nằm sấp trên vai chàng, nhìn thấy sắp ngoặt ra khỏi hành lang, rẽ sang Tẩy Ngô cung, đầu óc ta choáng váng mụ mị, nói: “Thiên Cung nhà chàng luôn để ý tới thể thống, chàng vác ta như thế này, còn ra thể thống gì nữa?”.
Chàng cúi đầu khẽ cười, đáp: “Lúc nào cũng để ý đến thể thống, khó tránh sẽ mất nhiều hứng thú, thi thoảng ta cũng muốn không cần để ý thể thống một phen”.
Thế là hai người chúng ta đã rẽ sang điện Tử Thần của chàng một cách cực kỳ không ra thể thống như vậy. Một tay chàng vác bản thượng thần vừa bất tài vừa “lớn xác”, bước đi vững vàng, không hề thở dốc lấy một hơi. Tiểu tiên nga trong điện của chàng thấy vậy liền hiểu ý lui ra, bước cuối cùng hai gò má nàng ta đỏ ửng cả lên, giúp chúng ta đóng cửa lớn lại.
Việc ta và Dạ Hoa làm hết sức đường hoàng, tiểu tiên nga này đỏ mặt hẳn do chưa từng trải mà thôi.
Lần trước ở Thủy Tinh cung ở Tây Hải, Dạ Hoa hết sức dịu dàng, tinh tế, chẳng hiểu vì sao đêm nay, ôi, chàng lại hơi thô bạo.
Chàng thả ta xuống giường, đầu ta gối lên cánh tay phải của chàng, tay trái chàng ôm ghì lấy ta, tìm đôi môi ta, khẽ cười cắn lấy một cái. Tuy rằng không đau, nhưng ta cảm thấy không thể để chàng được lợi, định bụng sẽ cắn trả, thì bờ môi chàng đã lướt đến tai ta.
Dái tai bị miệng chàng ngậm chặt, mút đi mút lại, bị mút đến phát đau, chàng lại cắn khẽ một cái nữa, một cảm giác tê giật lập tức chạy dọc toàn thân ta, ta nghe thấy mình thở hổn hển nhỏ như tiếng muỗi.
Giữa tiếng thở hổn hển của ta, môi chàng dần dần trượt xuống dưới, chẳng may lại gặp vật cản, chính là chiếc váy đỏ trên mình ta. Đây là chiếc váy mà khi xưa ta còn nhỏ, lúc về động Hồ Ly nhị tẩu đã tặng ta, nói là đồ quý dùng thứ tơ gì đó dệt thành. Đối với kẻ hiểu biết nông cạn như ta, chỉ biết rằng chiếc váy này mặc vào đã khó, cởi ra càng khó hơn. Lần này chàng chỉ có một cánh tay còn cử động được, lại cởi chiếc váy vô cùng khó cởi của ta một cách suôn sẻ, trong nháy mắt ta thấy chiếc váy vừa nãy còn bận trên người ta, chàng chỉ cần vung tay lên một cái đã rơi xuống đất.
Chàng cởi xiêm y của ta dễ dàng như vậy, nhưng đến lúc cởi y phục của mình lại lóng nga lóng ngóng. Ta nhìn không thuận mắt, bèn đứng dậy giúp chàng, chàng chỉ cười một tiếng. Tay ta giơ lên cởi áo choàng của chàng, chàng liền sáp đến, đôi môi du ngoạn trên cổ ta, ta chẳng thể làm gì được, tay cũng mềm nhũn, đành cố gắng kéo y phục của chàng ra.
Ta không thể không khâm phục bản thân, kéo kéo co co như vậy cũng cởi được y phục của chàng.
Chàng vùi đầu vào lồng ngực ta, mút mát vết sẹo trên ngực. Vết sẹo ấy đã lành được hơn năm trăm năm, vốn đã chẳng còn cảm giác gì, nhưng khi chàng hôn lên đó, không hiểu tại sao, từ đầu đến chân ta bỗng mềm đi, trái tim giống như bị mèo cào, không rõ là cảm xúc gì, chỉ cảm thấy vô cùng khó chịu. Hai tay ta vòng lên ôm cổ chàng, mái tóc đen nhánh của chàng buông xõa, xổ trên tay ta, hễ cử động là tóc lại quét nhẹ vào tay, ta ngẩng đầu lên hổn hển. Chàng ghé sát tai ta, thì thầm: “Khó chịu à?” Tuy hỏi ta dịu dàng, âu yếm là vậy, nhưng tay lại mơn man vuốt dọc sống lưng ta.
Bình thường, tay của chàng luôn lạnh giá, nhưng giờ đây lại nóng hừng hực. Ta cảm thấy những nơi bị chàng mơn trớn, tựa như quả dầu mới vớt ra khỏi nồi, mềm tới mức chỉ cần cắn một cái là có thể vỡ vụn ra. Đôi môi chàng lại trượt xuống cằm ta, day nhẹ từng chút, từng chút một. Ta mím môi ngăn tiếng thở càng lúc càng dốc, cảm thấy có thứ gì đó trong cơ thể đang đâm chồi nảy lộc nhanh chóng, nháy mắt đã biến thành đại thụ chọc trời.
Cái cây ấy muốn quấn thật chặt người đang ôm ta.
Đôi môi chàng men theo cằm di chuyển đến miệng ta, nhẹ nhàng hôn lên đó, lại cắn môi dưới của ta, tách răng của ta ra. Ta bị chàng quấy rầy không chịu nổi, dứt khoát hôn lại một cách dữ dội, ra tay trước là kẻ mạnh, đẩy lưỡi vào khoang miệng của chàng. Chàng sửng sốt giây lát, tay luồn qua sau eo ta, bấu mạnh một cái, ta bị kích thích đến mức run lên, đầu lưỡi quên cả chuyển động, đến khi phản ứng lại, đã bị lưỡi chàng đi vào trong miệng…
Quấn quấn quýt quýt khiến ta rạo rực vô cùng, nhưng không hiểu chàng định tiếp tục màn dạo đầu này đến lúc nào, đến khi lưỡi chàng đi ra khỏi miệng ta, ta không kìm được thôi thúc nói: “Chàng… chàng mau lên”, lời vừa nói ra, âm thanh nũng nịu đó khiến ta giật thót mình.
Chàng lặng người, cười đáp: “Tay của ta không cử động được, Thiển Thiển, nàng nhích lên chút đi”.
Giọng nói trầm trầm của chàng dễ nghe biết bao, ta ngây ngất đến mức đầu óc trở nên mụ mị, liền làm theo lời chàng, nhích lên trên một chút.
Khi chàng đi vào, ta ôm lấy cánh tay của chàng không thể kìm chế, móng tay bấu mạnh vào da thịt, chàng kêu “hừ” một tiếng, rồi lại ghé sát tai ta hổn hển thở: “Ngày mai ta sẽ sửa móng tay cho nàng”.
Khi trước lúc bày trò bói toán ở trần gian, lúc vắng khách, ngoài đọc truyện ra, thỉnh thoảng ta cũng đọc sách vở chính thống. Trong một cuốn sách kinh điển có nhắc đến câu “phát hồ tình, chỉ hồ lễ”, ý nói tình yêu có thể nảy sinh từ tình lý, nhưng phải biết nương theo đạo đức lễ nghi mà dừng lại. Thập sư huynh cùng ta mở hàng bói lúc đó cảm thấy, người đề ra quan điểm này bị điên, ta rất tán đồng với huynh ấy. Bản thượng thần sống một vạn tám nghìn năm mới có một đóa hoa đào, nếu lúc nào cũng phải khắc chế bản thân, thì đúng là tự ngược đãi mình.
Xong chuyện ta tựa vào lòng Dạ Hoa, còn chàng nghiêng mình nghịch mấy lọn tóc của ta, không biết đang nghĩ những gì. Ta cảm thấy đầu óc mình vẫn mụ mị như cũ.
Mụ mị một lúc, rồi lại mơ mơ màng màng, bỗng nhớ ra một chuyện rất quan trọng.
A di đà Phật, tứ ca nói cũng không hoàn toàn sai, ta một vạn tám ngàn năm mới được yêu, thực sự phải điên dại một lần. Ta lên Cửu Trùng Thiên chăm sóc Dạ Hoa lâu như thế, vậy mà lại quên béng mất chuyện định hễ gặp chàng là nói với chàng ngay.
Ta vừa trở mình lại ép ngay lên ngực Dạ Hoa, mắt đối mắt với chàng, ta hỏi: “Chàng còn nhớ lúc ở Tây Hải thiếp nói muốn từ hôn với chàng không?”.
Chàng cứng người, cụp mắt xuống nói: “Còn nhớ”.
Ta hôn chàng, day chóp mũi mình lên chóp mũi chàng, nói: “Khi ấy, thiếp còn chưa nhìn thấu lòng mình, câu nói đó chàng đừng để tâm, bây giờ hai ta tình nồng ý đượm, đương nhiên không thể từ hôn. Khi ở Tây Hải, rảnh rỗi quá nên ta có xem ngày, ngày mùng hai tháng chín nên cưới gả, động thổ, giết mổ, cúng tế, tóm lại là ngày lành tháng tốt, chàng xem có nên nói với ông nội chàng, ngày mùng hai tháng chín này tổ chức hôn lễ không?”.
Chàng bỗng mở choàng mắt, trong đôi con ngươi đen lay láy phản chiếu nửa khuôn mặt ta, rất lâu sau, mới nghèn nghẹn giọng nói: “Nàng vừa nói gì?”.
Ta thầm điểm lại những gì đã qua trong lòng, cảm thấy không nói gì đặc biệt cả, a, có lẽ theo quy củ Thiên Cung phải do Dạ Hoa tìm Thiên Quân bàn bạc ngày cưới, lại không hợp với thể thống sao?
Ta ngẫm nghĩ, bèn tiến tới áp sát mặt chàng: “Là thiếp suy nghĩ không chu đáo, chuyện này để chàng làm thì không trịnh trọng cho lắm, nếu không thiếp đi tìm cha mẹ thiếp, rốt cuộc chúng ta thành hôn vẫn là chuyện trọng đại, phải do người lớn trong nhà nói ra mới phải lẽ”.
Khi ta nói xong, cơ thể bỗng bị xiết mạnh một cái, ta khẽ rên một tiếng. Chàng ôm ta vào lòng, lại một lúc sau mới nói: “Nàng nói lại lần nữa, nàng muốn cùng ta thế nào?”.
Ta sững người. Ta muốn cùng chàng thế nào? Chẳng phải ban nãy vừa nói rõ lắm sao? Đang định cất tiếng trả lời chàng một lần nữa thì ta chợt hiểu ra. Khụ khụ, Dạ Hoa, chàng định bắt ta tỏ tình sao?
Những sợi tóc đen như mun của chàng xõa ra, quấn lấy ta, đôi mắt đen thăm thẳm như đầm sâu, hương hoa đào ngan ngát trong màn, giường, gương mặt ta đỏ bừng, những lời đè nén trong lòng không hiểu bị thứ gì mê hoặc, sểnh chút là đã nói tuột ra khỏi miệng. Ta nói: “Thiếp yêu chàng, thiếp muốn lúc nào cũng được ở bên chàng”.
Chàng không nói gì.
Con gái Thanh Khâu chúng ta luôn thẳng thắn như vậy, một là một, hai là hai, nhưng Dạ Hoa từ nhỏ đã lớn lên trên Cửu Trùng Thiên, chẳng nhẽ lại chê câu nói của ta phóng túng mà chối bỏ sao?
Ta đang suy nghĩ rất lung, chàng lặng im một lát nữa, đột nhiên trở mình ép ta xuống dưới, toàn cơ thể phủ phục lên mình ta. Ta ôm lấy tấm lưng nhẵn mịn của chàng, cả cơ thể bị chàng quấn lấy thật chặt, thật sát. Chàng cắn lên dái tai ta, khẽ nói: “Thiển Thiển, sinh thêm cho ta một đứa con nữa nhé”. Ta chỉ cảm thấy “đùng” một tiếng, máu huyết toàn thân như dồn ngược lên tai, tai nóng rừng rực. Ta cảm thấy câu này có điểm gì đó không đúng, nhưng nhất thời chưa nghĩ ra điểm nào không đúng.
Cả đêm chìm chìm nổi nổi, tầm mặt trời bắt đầu mọc mới thiếp đi. Lần đầu tiên trong đời ta biết mùi vị đêm xuân ngắn ngủi là thế nào.
Khi tỉnh lại, trong điện vẫn còn tối, Dạ Hoa đã say giấc nồng. Hễ tỉnh dậy là có thể nhìn thấy chàng như thế này, thật hạnh phúc biết bao.
Ta khẽ rướn người lên để ngắm thật kỹ khuôn mặt chàng. Khuôn mặt chàng giống Mặc Uyên nhưng ta chưa bao giờ nhận nhầm chàng là Mặc Uyên, giờ đây nhìn kỹ lại có nét không giống. Ví như đôi mắt Mặc Uyên không đen thăm thẳm như mắt chàng, cũng không lạnh lùng điềm tĩnh như chàng.
Khuôn mặt của Mặc Uyên chỉ hiện diện sự trang nghiêm tột cùng, gần đây mỗi lần nhìn thấy gương mặt Dạ Hoa, ta lại cảm thấy trong tim trỗi dậy một cảm giác thật khó nói.
Ta ngắm nhìn gương mặt chàng rất lâu, sau đó cơn buồn ngủ ập đến. Ta chỉ biết chàng đang say ngủ, giở mình định ngủ tiếp thì bị chàng vươn tay ôm vào lòng. Ta giật mình, chàng vẫn nhắm mắt, nói: “Nàng cứ nhìn thêm lúc nữa, đừng ngại, nhìn mệt thì hãy nằm nép trong lòng ta một lát, góc tường không ấm áp bằng lòng ta đâu”.
Dái tai ta đỏ lựng lên, ngượng ngùng cười: “Có con muỗi đậu trên mặt chàng, thiếp đang định bắt giùm chàng, chàng vừa nói thì nó thấy động bay mất rồi”.
Chàng “à” một tiếng, nói: “Nàng vẫn còn sức bắt muỗi giúp ta”, lại bế ta lên người chàng, “Dậy rồi hay lại ngủ thêm lát nữa?”.
Một tay ta đè lên vai chàng, chú ý không đè quá mạnh, một tay sờ mũi, nói: “Ngủ thì vẫn muốn ngủ, nhưng người nhớp nháp quá, ngủ cũng không nổi, bảo họ mang hai thùng nước vào, chúng ta tắm trước đã rồi ngủ sau”.
Chàng đứng dậy với lấy áo quần rồi xuống giường, gọi tiểu tiên nga dâng nước.
Qua đêm nay, ta cảm thấy vết thương trên người Dạ Hoa đã khá lên nhiều, nên cũng an tâm hơn, thầm tính toán xem cũng đến lúc nên giảm một chút lượng thuốc bình thường vẫn lén bỏ vào trong trà của chàng.
Khi định hôn ước giữa ta và Dạ Hoa, Thiên Quân mới chỉ tặng chút quà, chứ chưa nạp sính lễ. Ta thầm tính chọn ngày để cha mẹ đến nhắc khéo Thiên Quân, giục ngài mau mau đem sính lễ, chọn ngày, đương nhiên tốt nhất vẫn là ngày mùng hai tháng chín rồi.
Hiện nay Dạ Hoa chẳng còn lại bao nhiêu tu vi, ta sợ rằng khi chàng kế ngôi Thiên Quân sẽ không chịu nổi đại nghiệp gồm chín đạo thiên lôi, tám mươi mốt đạo hoang hỏa. Từ xưa tới nay, đây là đại nghiệp mà Thiên Quân và Thiên hậu khi kế nhiệm phải cùng chịu, ta muốn chúng ta mau mau thành hôn, khi chịu đại nghiệp ta sẽ có thể chịu thay cho chàng. Với tu vi hiện giờ của ta, tuy khi phong ấn Kình Thương đã mất đi không ít nhưng một mình chịu thiên lôi hoang hỏa thì vẫn có thể chịu được. Nhưng đến lúc phải gạt Dạ Hoa như thế nào, không cho chàng ra ngoài lại là một vấn đề. Chắc chắn Dạ Hoa không dễ gạt như ta hồi còn trẻ.
Ta nghĩ rất nhiều, sau khi tắm gội lại từ từ say ngủ, cứ tưởng từng chuyện từng chuyện đang được tháo gỡ một cách suôn sẻ, nào ngờ sau khi tỉnh dậy, những lời của Dạ Hoa lại phá vỡ hết những dự tính của ta.
Chàng ôm ta vào lòng, rầu rĩ nói, mùng hai tháng chín không được rồi, đại hôn lễ của chúng ta ít nhất phải chậm trễ hai tháng nữa.
Vì hai tháng này, chàng phải xuống trần lịch kiếp.
Kiếp số này, cũng do bốn con ác thú kia mà ra.
Năm đó, sau khi cha ta bị bốn con súc sinh cắn bị thương, ta cũng hơi ghét chúng. Ban đầu ta còn tự mắng mình là nhỏ nhen, nhưng giờ lại cảm thấy, sự ghét bỏ này cũng rất có lý.
Tuy Dạ Hoa vâng lệnh Thiên Quân đi hủy cỏ Thần Chi ở Doanh Châu, nhưng Thiên Quân chưa từng hạ lệnh cho chàng chém bốn con ác thú do Phụ Thần giữ lại. Bao nhiêu năm sau khi Phụ Thần về nơi hỗn độn, những bát vỡ đĩa sứt cũng được Thiên tộc đem lên Cửu Trùng Thiên cất giữ, chứ chớ có nói đến bốn con mãnh thú mà Phụ Thần rót một nửa thần lực vào chúng.
Dạ Hoa hủy cỏ Thần Chi là công lớn, chém bốn con ác thú giữ cỏ lại là tội lớn. Công chẳng bù nổi tội, cuối cùng bị trừng phạt xuống trần lịch kiếp.
May mà trong hàng triệu thế giới, lão già Thiên Quân lại chọn phàm trần cho Dạ Hoa, thời gian nơi đó không giống với thế giới thần tiên bốn bể tám cõi chúng ta. Một giờ ở chỗ chúng ta bằng một năm ở nơi đó. Nên tuy Dạ Hoa bị đày luân hồi một kiếp sáu mươi năm cũng chỉ phải xa ta có hai tháng mà thôi.
Nhưng cho dù chỉ phải xa Dạ Hoa hai tháng ta vẫn lưu luyến không nỡ. Ta không hiểu tại sao mình lại cảm thấy như vậy, nhưng suy nghĩ ấy cứ đau đáu trong lòng, vừa ngọt ngào mà lại vừa sầu thảm.
Có lẽ do ta và Dạ Hoa số chẳng hợp nhau, mới không được hưởng hạnh phúc ấm êm. Nghĩ vậy, ta thở dài một tiếng, cảm thấy buồn bã tột cùng.
Dạ Hoa nói: “Nàng có đồng ý chờ ta hai tháng không?”.
Ta bấm ngón tay tính, đáp: “Đầu tháng tám chàng xuống trần gian, nếu ở trần gian đợi hơn hai tháng, vậy ngày thành hôn dời đến tháng mười đi, tiết Tiểu dương xuân tháng mười, hoa đào hoa mận nở bung cũng là thời khắc đẹp”. Nghĩ một lát lại lo lắng nói, “Tuy với thiếp chỉ là hai tháng ngắn ngủi, nhưng với chàng lại là một đời dài lê thê, chàng đã xem qua số mệnh mà Ti Mệnh viết cho chàng chưa?”.
Số mệnh mà Ti Mệnh viết cho Nguyên Trinh lần trước, sau khi may mắn đọc được, ta không khỏi muôn phần bội phục tài hoa của hắn.
Ta nhận sự gửi gắm của Thiếu Tân, xuống phàm trần để sửa đổi một chút số mệnh của Nguyên Trinh, nhưng không được để vở kịch do Ti Mệnh khổ công sắp đặt diễn ra, không dám chắc hắn có thù ta hay không. Nếu vì thế mà hắn định trả thù lên đầu Dạ Hoa, sắp xếp một mối tình tay ba tay tư… Nghĩ thế mà ta rùng hết cả mình.
Dạ Hoa mỉm cười, hôn lên trán ta nói: “Lần này ta xuống trần, số mệnh không phải do Ti Mệnh viết, Thiên Quân bàn bạc với các vị Tôn giả, trong cuốn sổ của Ti Mệnh, trang của ta để trắng, tùy duyên ra sao, còn phụ thuộc vào tạo hóa của ta”.
Ta nhẹ nhõm một chút, để an tâm, ta vẫn dặn dò thêm: “Chuyến này chàng xuống trần lịch kiếp, cho dù uống nước Vong Xuyên trong điện của U Minh Ti Minh chủ thì cũng không được lấy người con gái khác”. Chàng không đáp lời, ta dùng dằng một lát, nói, “Thiếp chẳng lo gì, chỉ lo, chỉ lo chuyến này chàng đầu thai chuyển kiếp, rồi mấy bông hoa đào khác lại bay đến. Chàng, chàng cũng biết rằng, lòng thiếp xưa nay vốn hẹp hòi, quyết không chịu chia sẻ chàng với người khác”.
Chàng vén những sợi tóc lên bên vành tai ta, vỗ vào má ta, nói: “Bây giờ một bóng hoa đào còn chẳng có, nàng đã ghen rồi ư?”.
Ta ngượng ngùng ho hai tiếng, ta tin tưởng tình ý của Dạ Hoa, nếu đầu thai rồi chàng vẫn nhớ tới ta, tất nhiên ta không cần phòng bị trước thế này. Nhưng đám tiên giả xuống trần gian lịch kiếp, đều phải chấp hành một quy định biến thái, đó là phải uống một bát nước Vong Xuyên lớn, quên hết chuyện kiếp trước, sau khi phục vị mới có thể nhớ lại chuyện xưa.
Chàng vuốt nhẹ lên mái tóc ta, cười nói: “Nếu khi ấy ta đem đóa hoa đào về, nàng sẽ làm thế nào?”
Ta ngẫm nghĩ, cảm thấy lúc này phải nói một câu gì thật độc địa, bèn vênh mặt, làm bộ gian tà, nói: “Nếu thế, thiếp sẽ cướp chàng về Thanh Khâu, nhốt trong động Hồ Ly, ngày ngày chàng chỉ có thể ngắm một mình thiếp, lúc dùng cơm cũng chỉ có thể ngắm thiếp, lúc đọc sách cũng chỉ có thể ngắm thiếp, lúc vẽ tranh cũng chỉ có thể ngắm một mình thiếp mà thôi”.
Ánh mắt chàng rực sáng, tay rẽ mấy sợ tóc lòa xòa trước trán ta, hôn lên sống mũi ta, nghèn nghẹn nói: “Nàng nói thế, ta lại muốn nàng cướp ta về ngay bây giờ”.
|
Chương 21:
Cùng với tiếng rồng gầm trên Côn Luân, người đã quay về rồi
Ngày mười lăm tháng tám chơi Tết trung thu, rượu hoa quế trong cung Quảng Hàn cất từ năm ngoái đã xuống men, Thường Nga lệnh cho Ngô Cương ngoài lúc chặt cây ra thì chọn ra mấy vò rượu, tặng mỗi cung thất một vò. Ta đem bình rượu ấm được tặng cho Tẩy Ngô cung, cùng Dạ Hoa uống cạn hai chén, coi như là tiễn biệt chàng xuống hạ giới.
Vốn dĩ ta muốn ở bên cạnh chàng, chàng không chịu, bắt ta phải về Thanh Khâu chờ chàng.
Dạ Hoa không cho ta theo chàng, có lẽ sợ rằng khi ở trần gian, ta sẽ bảo vệ chàng mọi lúc mọi nơi, phá giới mà làm phép, sẽ bị phản phệ lại bản thân. Nhưng ta cảm thấy có thể để chàng chịu ít gian khổ, giày vò nhất, thì bị chính pháp thuật của mình phản phệ một đôi lần cũng chẳng sao, nên tính sẽ giả vờ về Thanh Khâu trước, để chàng an tâm, đợi sau khi chàng uống nước Vong Xuyên, đầu thai chuyển thế, rồi ta lại mặt dày đi tìm chàng.
Yêu một người là như thế đó, lúc nào cũng muốn người mình yêu được sống tốt, người mình yêu được sống tốt, thì bản thân cũng vui vẻ. Đây chính là điều kỳ diệu của tình yêu, cho dù chịu tội, chịu khổ, nếu như trong lòng đã có hình bóng một người, thì nỗi khổ sánh ngang trời đấy cũng chỉ là sự giày vò ngọt ngào mà thôi.
Ti Mệnh Tinh Quân lại chỉ cho ta nơi Dạ Hoa đầu thai.
Kiếp này của Dạ Hoa được đầu thai vào một nhà danh gia vọng tộc, đời đời đèn sách ở Giang Nam, thúc bá tổ phụ đều là làm quan cả.
Ti Mệnh vui vẻ hào hứng, tặc lưỡi than, nói xét theo kinh nghiệm nhiều năm viết số mệnh của hắn, đứa con sinh ra trong gia đình này hẳn sẽ nối nghiệp tổ tiên, nhờ ngòi bút có thể hô mưa gọi gió, khuynh đảo thiên hạ, mà xưa nay Dạ Hoa lại rất giỏi văn chương, được đầu sinh thế này vô cùng phù hợp.
Nhưng ta biết rằng phàm các thế gia đại tộc chốn phàm trần trọng nhất là thể thống, dạy dỗ con cháu cực kỳ nghiêm khắc, rất tẻ nhạt. Con cháu họ cũng rất nghiêm khắc, rất tẻ nhạt, không hề hoạt bát đáng yêu giống những đứa trẻ bình thường trong dân gian. Dạ Hoa vốn đã không hoạt bát cho lắm, ta không chỉ mong khi đầu thai chàng có thể hoạt bát hơn, mà còn lo rằng chàng sẽ cô đơn quạnh quẽ suốt thời niên thiếu trong gia đình danh gia này.
Gia tộc Dạ Hoa đầu thai là họ Liễu, đại thiếu gia phu nhân nhà họ hạ sinh chàng là cháu trưởng, đặt tên Liễu Ánh, tự là Chiếu Ca. Ta không thích cái tên này cho lắm, cảm thấy hơi văn vẻ, không hề phù hợp với một Dạ Hoa anh tuấn dũng mãnh chút nào.
Ta trở về Thanh Khâu thu dọn lấy năm bộ xiêm y, gói vào tay nải, rồi lại rót trà mát, nhấp cho ngọt họng, rồi tức tốc chạy đến rừng đào mười dặm của Chiết Nhan, muốn mặt dày đi xin lão ít đan dược.
Nhưng đi đến nửa đường thì nhìn thấy Chiết Nhan đang cưỡi mây bay tới, phía sau còn có tứ ca cưỡi Tất Phương.
Họ dừng lại trước mặt ta.
Hai mắt tứ ca sáng lấp lánh, nói: “Tiểu Ngũ, có lẽ hôm nay muội đã thỏa ước nguyện bao năm. Bọn ta vừa từ Tây Hải trở về, cả đêm qua Điệp Ung vật vã, sáng nay Chiết Nhan dùng truy hồn thuật đi vào hồn y, lại phát hiện hồn Mặc Uyên không còn ở trong nguyên thần của Điệp Ung. Bọn ta định đến động Viêm Hoa xem xem, Mặc Uyên đã ngủ suốt bảy vạn năm, hẳn đã chọn ngày lành là hôm nay để tỉnh dậy”.
Ta thẫn thờ, mãi sau mới sực tỉnh. Lúc tĩnh trí thì thấy cánh tay mình đang lay lay tứ ca, miệng lắp bắp: “Sư, sư phụ tỉnh rồi ư? Người đã tỉnh rồi ư?”.
Tứ ca gật đầu, lại nhíu mày nhắc: “Tay nải của muội rơi khỏi mây rồi kìa”.
Ta biết rằng chưa đầy ba tháng Mặc Uyên sẽ có thể tỉnh lại, bấm ngón tay tính, hôm nay cách ngày Điệp Ung uống viên đan dược đó còn chưa đầy hai tháng, thời gian ngắn như vậy mà người đã có thể tỉnh lại. Người tỉnh lại thật rồi sao?
Bảy vạn năm, trong bốn bể, giữa gầm trời, ta trốn tránh ở Thanh Khâu, tuy rằng không phải trải qua cảnh sinh linh lầm than trời đất đảo điên, nhưng cũng tận mắt chứng kiến đầm Thanh Khâu hạn hán chín trăm chín mươi chín lần, chứng kiến phủ nhà Chúc Âm trên núi Gia Hầu cứ trăm năm lại nhích qua bên động Hồ Ly của cha mẹ ta một trượng. Bảy vạn năm, nửa cuộc đời của ta. Ta dùng nửa đời mình để làm một việc duy nhất đó là ngóng trông sư phụ tỉnh lại. Hôm nay, cuối cùng người đã tỉnh lại rồi.
Chiết Nhan đứng bên cạnh cúi đầu thở dài: “Cũng không uổng công tiểu tử Dạ Hoa trút toàn bộ tu vi”.
Khóe mắt ta cay xè, ta gật gật đầu.
Tứ ca cười nói: “Chuyện của Dạ Hoa huynh đã nghe Chiết Nhan nói, hắn cũng thực si tình. Nhưng số muội cũng không may, vừa mới trả hết nợ Mặc Uyên, thì lại nợ Dạ Hoa, Mặc Uyên muội còn có thể trả người máu tim mình suốt bảy vạn năm, vậy tu vi bốn vạn năm của Dạ Hoa, muội định thế nào?”.
Ta xòe quạt che đôi mắt đang đỏ hoe, cay xè của mình, đáp: “Muội và Dạ Hoa cuối cùng vẫn sẽ kết thành vợ chồng, muội nghĩ rằng vợ chồng yêu thương lẫn nhau, ai nợ ai, thì không cần tính toán”.
Chiết Nhan đứng trên mây cười, nói: “Lúc này ngươi đã ngộ thấu suốt rồi”.
Tất Phương khẽ nói lời chúc mừng, ta cũng cảm ơn hắn một tiếng.
Chiết Nhan và tứ ca đi trước, ta chuyển mây theo sau. Việc của Dạ Hoa tạm hoãn lại, khi ta mới đến núi Côn Luân bái sư học nghệ, cư xử chẳng ra gì, hiếm khi thể hiện đạo hiếu của đệ tử với Mặc Uyên. Sau này hiểu chuyện rồi, lúc biết tận hiếu thì sư phụ đã nằm trong động Viêm Hoa.
Bây giờ Mặc Uyên đã tỉnh, đã cố nén niềm vui trong lòng, muốn ngay lập tức để sư phụ trông thấy, đệ tử nhỏ nhất đã trưởng thành rồi, lớn khôn rồi, biết thương yêu người khác rồi.
Tiểu Thập Thất đã sống rất vui vẻ.
Vì khi làm đệ tử của Mặc Uyên ta là một đệ tử nam, đang định biến lại thành bộ dạng của Tư Âm năm xưa, thì bị Chiết Nhan giơ tay cản lại, nói: “Với tu vi của Mặc Uyên, đã sớm nhận ra ngươi là nữ nhi, chỉ có điều muốn giữ thể diện cho cha mẹ ngươi nên mới không vạch trần, ngươi còn tưởng mình che mắt hắn được suốt hai vạn năm sao?”.
Ta gấp lại chiếc quạt, giả bộ cười cười: “Nói rất phải, pháp thuật của mẹ ta chỉ che được mắt mười sáu sư huynh, còn ta luôn hoài nghi rằng có thể che mắt sư phụ thì cũng hơi hoang đường”.
Ba người chúng ta men theo lưng chừng núi Phong Di, ta xuống mây trước tiên, nguyệt quế giữa núi tỏa hương thơm thanh mát thoang thoảng.
Len giữa hơi thu trong mát của tháng tám, ta đi thẳng một mạch đến động Viêm Hoa.
Giữa mây mù sương khói chờn vờn, cuối động, chính là chiếc giường băng mà Mặc Uyên đã ngủ bao năm.
Trong thời khắc quan trọng này, mắt ta lại hơi hoa lên, ta lấy tay dụi mắt một cái, nước hoen đầy tay.
Trên giường băng thấp thoáng một bóng người đang ngồi.
Ta tiến lên mấy bước.
Người ngồi trên giường băng đó, chính là, chính là sư phụ Mặc Uyên ngủ say bao năm của ta.
Người nghiêng đầu nhìn mấy đóa hoa dại cắm trong chiếc bình bên cạnh. Tư thế, thần thái đó, không hề khác biệt so với bảy vạn năm trước, khiến ta chực rơi lệ.
Bảy vạn năm trước, sư huynh đệ chúng ta luân phiên quét dọn phòng của Mặc Uyên, ta có thói quen cắm ít hoa theo mùa trong bình đặt trong phòng. Ngày ngày Mặc Uyên đều ngắm nghía, rồi cười khen ta như vậy.
Khi ấy, mỗi ngày nhận được nụ cười khen ngợi của người đối với ta, ta đều cảm thấy tự hào.
Ta làm người kinh động, người quay đầu lại, giơ tay chống má, mỉm cười nói: “Tiểu Thập Thất? Quả nhiên là Tiểu Thập Thất. Lại đây sư phụ xem xem, dạo này ngươi tiến bộ ra sao?”.
Ta bấm móng tay vào cổ tay, vừa thở gấp, trống ngực vừa đập thình thình trong lồng ngực, hai mắt ướt nhòe, run run bước tới, hắng giọng gọi một tiếng sư phụ, biết bao cảm xúc đan xen dâng trào, vừa thương cảm vừa vui mừng.
Người giơ tay đỡ ta, nói: “Sao lại sắp khóc thế này, à, bộ váy này đẹp lắm”.
Chiết Nhan rẽ đám mây mù bước tới, theo sau là tứ ca, cười nói: “Ngươi ngủ suốt bảy vạn năm, giờ đã tỉnh rồi”.
Trong động Viêm Hoa rất lạnh, ta hắt hơi mấy cái liền bị tứ ca kéo ra khỏi động. Chiết Chan và Mặc Uyên người trước kẻ sau ra khỏi động.
Năm xưa khi trên Côn Luân, mười sáu sư huynh phía trên ta, ngoài cửu sư huynh Lệnh Vũ là do Mặc Uyên nhặt về, mười lăm sư huynh còn lại đều là con cháu Thiên tộc. Bảy vạn năm trước, sau khi Mặc Uyên mất tích, nghe nói các sư huynh đã tìm ta mấy ngàn năm mà không có kết quả. Sau này từng người từng người bị gia đình gọi về, mỗi người thực hiện một sứ mệnh riêng.
Tứ ca từng âm thầm đến Côn Luân thăm dò một chuyến, sau đó ngậm ngùi nói, Côn Luân đông đúc ngày nào, giờ đây chỉ còn lại một mình Lệnh Vũ và vài tiểu đồng trông giữ, đáng buồn lắm thay.
Ta không biết nếu như Mặc Uyên hỏi ta về Côn Luân, ta sẽ phải trả lời ra sao.
Dọc đường đi về động Hồ Ly ta cứ thắc thỏm bồn chồn không nguôi.
Không ngờ chuyến đầu tiên người đi lại không phải là Côn Luân.
Người ngồi trong động Hồ Ly, Mê Cốc pha một ấm trà bưng lên, ta rót cho mỗi người một tách, nhân lúc ta rót trà, người hỏi Chiết Nhan: “Những năm tay ngủ say, ngươi có gặp một đứa trẻ, có dáng vẻ giống ta không?”.
Bình trà trong tay ta chao đảo, sơ ý rót quá nửa bình lên đầu gối tứ ca.
Tứ ca cắn răng cười với ta một cái, rồi âm thầm gạt nước trên đầu gối đi.
Bao nhiêu năm trong bốn bể tám cõi, ta chỉ gặp một người duy nhất giống hệt Mặc Uyên, ngươi đó chính là phu quân tương lai của ta – Dạ Hoa.
Dạ Hoa có khuôn mặt giống hệt Mặc Uyên, lúc đầu tuy ta có hơi lạ lùng, nhưng cũng chưa bao giờ nghĩ rằng bọn họ có quan hệ gì.
Ta cảm thấy có lẽ đàn ông hoàn mỹ đều có dáng vẻ như vậy, Dạ Hoa rất hoàn mỹ, đương nhiên sẽ có dáng dấp như vậy.
Nhưng nghe Mặc Uyên nói, hai người bọn họ không chỉ có quan hệ, mà lại còn có quan hệ rất mật thiết.
Ta dỏng hai tai lên lắng nghe, Chiết Nhan cười ha ha, mắt liếc ta một cái, nói: “Đương nhiên có một người như thế, tiểu đồ đệ của ngươi còn rất thân với hắn là đằng khác”.
Mặc Uyên nhìn qua phía ta, mặt ta liền đỏ bừng lên. Tình huống này hơi giống với một thiếu nữ tự đính ước với tình lang, chẳng may bị một em gái “môi mỏng” tố giác chuyện trăng gió với cha mẹ, cho nên ta cũng cảm thấy hơi ngượng ngùng.
Chiết Nhan lại liếc mắt nhìn ta ba, bốn lượt đầy ẩn ý. Ta cũng lườm lại lão, đành cố ra vẻ thong thả, nói: “Người mà sư phụ nói tới, hì hì, chính là phu quân tương lai của đồ đệ, hì hì, chính là thái tử bây giờ của Thiên tộc, hì hì hì…”.
Bàn tay cầm tách trà của Mặc Uyên khẽ khựng lại, cúi đầu hắng giọng, lát sau, người mới bình thản nói: “Mắt chọn nương tử của người này, haizz”. Ngẩng đầu lên, người lại hỏi: “Phu quân chưa cưới của ngươi tên gì? Sinh năm nào?”.
Ta thành thực bẩm báo.
Người bấm ngón tay nhẩm tính, lại bình thản nhấp ngụm trà: “Tiểu Thập Thất, đệ đệ song sinh với ta, đã bị ngươi bắt rồi”.
Ta choáng váng: “A?”.
Không chỉ ta mà cả Chiết Nhan và tứ ca cũng đều trợn mắt há mồm, bộ dạng như bị sét đánh trúng vậy.
Mặc Uyên xoay xoay ly trà, nói: “Chẳng trách các ngươi kinh ngạc, đến ta cũng chỉ được biết khi phụ thân lâm chung, năm xưa mẫu thân tuy chỉ sinh ra mình ta, nhưng ta vẫn còn có một đệ đệ song sinh”.
Mặc Uyên nói, chuyện này phải kể từ khi Mẫu thần hoài thai hai huynh đệ.
Nghe nói năm đó, tứ cực đổ, cửu châu lở. Mẫu Thần vì vá bốn cột chống trời, nên đã bị động thai, khi sinh chỉ có thể giữ được đứa lớn, không thể giữ đứa nhỏ, Phụ Thần cảm thấy có lỗi với con trai nhỏ, đành cố lưu lại hồn phách đáng nhẽ đã tiêu tan vào vũ trụ của nó, nuôi trong nguyên thần mình của mình, muốn xem xem có thiên số và cơ duyên, để có thể tạo một tiên thai cho đứa con trai nhỏ, để nó có thể sống lại. Phụ Thần đã dành một nửa pháp lực để tạo ra một tiên thai, nhưng dù làm cách nào vẫn không thể gọi hồn phách của đứa con nhỏ tỉnh lại được. Phụ Thần bèn biến tiên thai đó thành một quả trứng chim vàng sáng lấp lánh, giấu trong núi sau núi Côn Luân, định đợi hồn phách đứa con trai nhỏ tỉnh lại sẽ dùng.
Nhưng thiên mệnh như thế, chẳng đợi được hồn phách đứa con trai nhỏ tỉnh lại, Mẫu Thần Phụ Thần đã cùng nhau về nơi hỗn độn.
Trước khi lâm chung, Phụ Thần có kể chuyện này cho Mặc Uyên nghe, rồi tách hồn phách của đứa con trai nhỏ trong nguyên thần ra, gửi gắm cho Mặc Uyên. Mặc Uyên nhận hồn phách của đệ đệ mình, cũng như Phụ Thần, đem nuôi dưỡng trong nguyên thần của mình. Bãi bể biến nương dâu bao bận, người em song sinh được nuôi trong nguyên thần của Mặc Uyên vẫn chưa hề tỉnh lại.
Mặc Uyên nói: “Có lẽ khi ta dùng nguyên thần tế chuông Đông Hoàng, nó đã tỉnh lại. Bây giờ ta mới có thể trở lại, hẳn lúc ta hồn tan phách tan, nó đã tốn công thu nhặt từng mảnh hồn phách tan tác của ta lại. Ta còn láng máng nhớ, có một đứa trẻ ngồi bên cạnh cơ thể ta vá từng mảnh hồn của ta, vá suốt bảy, tám nghìn năm, vá được một nửa thì bị một đạo kim quang chiếu rọi vào trong động phủ của ta cuốn mất đi. Sau khi nó đi, ta đã có thể tự mình vá hồn, nhưng rất khó khăn, tốc độ cũng hết sức chậm chạp. Giờ nghe các ngươi kể, nó đã là thái tử của Thiên tộc, có lẽ khi ấy vị phu nhân nào đó trên trời dạo chơi Côn Luân, nuốt phải quả trứng mà Phụ Thần chôn năm nào, tiên thai đã cắm rễ trong bụng vị phu nhân đó, mới cuốn nó đi”.
Chiết Nhan cười ha ha, nói: “Chẳng trách ta nghe nói, khi Dạ Hoa chào đời, có bảy mươi hai con chim ngũ sắc bắc cầu suốt tám mươi mốt ngày, ráng đỏ phương đông chiếu rạng suốt ba năm, hóa ra hắn là đệ đệ song sinh của ngươi”.
Khi nãy nghe được tin này ta đã choáng váng sững sờ, thật không ngờ có một ngày lại có thể với cao có quan hệ thân thiết như thế với Mặc Uyên. Bây giờ nghe người kể ngọn nguồn, sau khi bàng hoàng, ta lại cảm thấy cực kỳ trấn tĩnh, thậm chí cảm thấy dáng vẻ của Dạ Hoa như vậy, quả đúng là đệ đệ song sinh của Mặc Uyên.
Trong sử sách trên Cửu Trùng Thiên rõ ràng còn ghi chép, Phụ Thần chỉ có một con trai là Mặc Uyên. Có thể thấy các thần quan chép sử này đều là không đáng tin, tin vào sử sách đó, thì chẳng thà tin vào những câu chuyện mà Ti Mệnh nhàn rỗi thêu dệt nên còn hơn.
Mặc Uyên muốn đi thăm Dạ Hoa, nhưng người vừa mới tỉnh lại, muốn khôi phục như ngày xưa còn phải đóng cửa tu luyện mấy năm. Ta lo lắng cơ thể người chưa được linh hoạt, nếu cứ khăng khăng đi xuống trần gian thì e rằng sẽ bất lợi cho việc tu luyện, nên đành kiếm một cái cớ để lấp liếm, hẹn rằng khi nào người tu luyện xong, sẽ dẫn Dạ Hoa đến gặp người.
Động Viêm Hoa tuy rằng linh khí hội tụ, nhưng quá lạnh lẽo, không thích hợp để Mặc Uyên tu luyện. Người một lòng muốn về động phủ sau núi Côn Luân đóng cửa tu luyện như năm nào, tuy ta không muốn để người thấy cảnh tiêu điều của Côn Luân ngày nay mà đau lòng, nhưng giấy sao gói được lửa, cuối cùng thì người vẫn phải đau lòng mà thôi. Nghĩ rằng đau muộn chẳng bằng đau sớm, sau hai tuần trà, ta cùng Mặc Uyên trở về Côn Luân. Chiết Nhan và tứ ca nhàn tản rỗi rãi, cũng đi theo, còn Tất Phương cũng đi theo nốt.
Năm người chúng ta cưỡi ba đám mây bay về Côn Luân, tứ ca từng nói Côn Luân giờ đây tiêu điều hiu quạnh vô cùng.
Ta cũng thở dài một tiếng.
Từ cửa núi đi xuống có rất nhiều tiển thần tiên, hoặc đứng hoặc quỳ hoặc ngồi, khí xanh khí tím trộn lại, mây mù bốc lên lưng chừng núi, tiên khí cuồn cuộn dâng cao, ai cũng có thể nhận ra đây là một ngọn núi tiên.
Trong hai vạn năm ta học nghệ ở đây, Côn Luân luôn vắng vẻ, chỉ không quá bảy vạn năm, sao lại nhộn nhịp thế này?
Tất Phương chở tứ ca, co móng vuốt đậu xuống, rồi lại khều một tiểu thần tiên trông có vẻ thực thà hỏi thăm.
Tiểu thần tiên chớp chớp mắt, trả lời: “Ta cũng không biết, ta đi công chuyện ngang đây, nghe nói có một đạo long khí quấn quanh vách núi đã ba bốn ngày, rất nhiều tiên hữu đều đến đây xem, ta cũng tiện đường đến xem. Chuyến này quả không uổng công, long khí này, chậc chậc chậc, không phải long khí bình thường, tuyệt đẹp, ta ngồi đây ngắm đã hai ngày rồi. Ngươi thả con chim này đi bắt sâu, lát nữa chúng ta cùng xem, đảm bảo khiến ngươi đã mắt, bên ta còn một chỗ, đây, chúng ta ngồi đây xem…”.
Tứ ca cảm ơn rồi từ chối ý tốt của tiểu thần tiên đó, im lặng quay về, hắng giọng nói: “Không có gì, bọn họ ngưỡng mộ phong thái của Côn Luân, nên đến chiêm bái”.
Chiết Nhan rũ rũ tay áo, ho một tiếng, nụ cười phảng phất, nói với Mặc Uyên: “Côn Luân vốn là một tòa núi tiên mọc ra từ long cốt(*). Có lẽ nó cảm nhận được ngươi sắp quay về, nên phấn chấn tới mức xuất ra long khí để đón tiếp, thế nên đã thu hút được một số tiểu tiên thiếu hiểu biết xung quanh”.
(*) Long cốt: xương rồng.
Mặc Uyên nhếch môi cười.
Để tránh quấy rầy đám tiểu thần tiên ở lưng chừng núi, năm người chúng ta đều ẩn thân đi vào trong. Nhờ cửu sư huynh giữ nguyên nếp cũ, phép khóa ở cửa núi vẫn như xưa, không hề sửa đổi.
Ta ngỡ rằng hôm nay sẽ chỉ có thể gặp mỗi Lệnh Vũ, nào ngờ vừa bước vào, cảnh tượng trước mặt làm ta giật nảy cả mình. Mười sáu sư huynh của ta, đều mặc đạo bào như khi còn làm đệ tử của Côn Luân, tóc búi kiểu đạo sĩ, đứng thành hai hàng bên cạnh con đường đá.
Cây trong viện vẫn là cây Bà La Song mà mấy vị Phật Đà từ Tây Thiên đến uống trà mang tới. Mười sáu sư huynh của ta đứng trang nghiêm dưới bóng Bà La Song, dường như đã đứng đó suốt bảy vạn năm.
Đại sư huynh mắt đỏ hoe trước tiên, quỳ “phịch” một tiếng xuống đất, giọng run run: “Mấy hôm trước Cửu sư đệ đưa tin tới, nói long khí ở Côn Luân bốc lên, có lúc còn có tiếng rồng gầm, không biết là điềm gì, sư huynh đệ chúng con về ngay trong đêm, tuy từng nghĩ là điềm lành sư phụ sẽ quay về nhưng cũng không dám tin. Hôm nay ở trong điện cảm thấy khí trạch của người quẩn quanh bên ngoài, chúng con vội vã chạy ra nhưng vẫn không kịp ra ngoài cửa núi đích thân đón người, sư phụ, người đi đã bảy vạn năm, giờ mới quay về”. Dứt lời, đã khóc không thành tiếng. Khuôn mặt huynh ấy đã không còn là gương mặt thuở niên thiếu, tuổi tác đã cao hơn nhiều, khóc như thế này, thực khiến người ta nghẹn lòng. Mười lăm sư huynh còn lại đều nhất loạt quỳ xuống nức nở. Mười sáu sư huynh đều khóc không thành tiếng.
Mặc Uyên cúi nhìn, nói: “Đã để các con phải chờ lâu rồi, đứng dậy cả đi, vào trong nhà rồi nói”.
Câu chuyện bắt đầu là các sư huynh khóc lóc một trận, khóc xong bèn kể năm đó không cẩn thận đã để lạc mất Tư Âm Thần Quân, tức thượng thần bất tài là ta.
Nhắc đến ta, đại sư huynh bi phẫn khôn cùng. Năm đó vốn là ta bỏ thuốc bọn họ, rồi trộm tiên thể của Mặc Uyên rời khỏi Côn Luân ngay trong đêm. Sai lầm này của ta huynh ấy quyết không nhắc tới, chỉ luôn miệng nói đã không chăm sóc ta, để lạc ta, là lỗi của huynh ấy. Mấy năm nay huynh ấy không ngừng tìm kiếm ta, nhưng bặt vô âm tín, có lẽ ta đã lành ít dữ nhiều. Huynh ấy thân là đại sư huynh mà không làm tròn bổn phận, đến tiểu sư đệ cũng không bảo vệ nổi, xin sư phụ xử phạt thật nặng.
Ta đứng bên cạnh tứ ca, nghe huynh ấy nói như vậy, viền mắt đỏ hoe, vội vàng trình bày: “Ta không phải lành ít dữ nhiều, ta đang đứng sờ sờ trước mặt huynh, chẳng qua ta chỉ thay đổi xiêm y, ta là Tư Âm đây”.
Các sư huynh ngẩn người, đại sư huynh loạng choạng ngã xuống đất, một lúc sau, mới lồm cồm bò dậy ôm lấy ta, lau nước mắt, chua chát nói: “Cửu sư đệ nói trong lòng ai cũng có một giấc mộng đoạn tụ, năm đó nhị hoàng tử Quỷ tộc đến cướp đệ, ta đã đánh cho hắn đứt giấc mộng này, nhưng lại không kịp thời cắt đứt giấc mộng của đệ, Thập Thất đáng thương biết bao, bây giờ đệ đã thành đoạn tụ, còn lại là đoạn tụ thích mặc quần áo con gái…”.
Tứ ca không nhịn được cười sằng sặc.
Ta cố gắng ngăn dòng lệ, đau buồn nói: “Đại sư huynh, khuôn mặt này của ta, huynh xem lại có phải là nam giả nữ không?”.
Thập sư huynh kéo đại sư huynh ra, ngượng ngùng nói: “Trước đây đệ không chịu tắm chung với bọn ta, hóa ra là vì thế, hóa ra Thập Thất đệ lại là con gái”.
Tứ ca ta kéo dài giọng: “Nàng là một nữ nhi xinh đẹp…”.
Ta đá cho huynh ấy một cái.
Đại sư huynh trước đây không như vậy, quả nhiên tuổi cao sẽ dễ dàng trở nên đa sầu đa cảm.
Sau chuyện của ta, là kể đến chuyện các sư huynh trong bảy vạn năm nay đã tự mình gây dựng sự nghiệp hiển hách.
Mười sáu sư huynh này của ta, thuở thiếu thời cũng chẳng ra sao, ta theo bọn họ, tuy không trèo cây hái táo, xuống sông bắt cá nữa, nhưng lại học được thói đá gà, đuổi chó, chọi dế, học được thói cưỡi ngựa xem hoa, uống rượu xem cung xuân đồ, chuyện nào cũng thành thạo, giấu sư phụ xuống trần gian làm bậy, còn tự cho mình là phong lưu ngàn năm khó gặp.
Ngày nay ta ra nông nỗi này, không thể không kể đến công lao của mười sáu sư huynh. Nhưng mười sáu sư huynh khiến ta ra nông nỗi này, ai cũng thành tài. Khi ông trời an bài số phận cho chúng ta, hẳn ông ấy đang ngủ gật.
Nhưng cơn ngủ gật của ông trời lại khiến ta rất hởi lòng hởi dạ, hẳn sư phụ người cũng rất hởi lòng hởi dạ.
Sau khi hởi lòng hởi dạ, tai lắng nghe những chiến công hiển hách của các sư huynh, lại nghĩ đến lúc các huynh ấy lập công lao ta đang làm những gì, so sánh với nhau, một cảm giác buồn bã cứ thế dâng trào.
Tứ ca ngồi bên cạnh tay cầm bút ngồi chép lia lịa, thỉnh thoảng còn vỗ tay hô to: “Ly kỳ, thật ly kỳ”. Ngoài cảm xúc buồn bã ra là cảm giác mất mặt, xấu hổ.
Thập sư huynh an ủi ta: “Muội là con gái, con gái thì chẳng cần lập công lao làm gì, đám muội muội của ta cả ngày chỉ nghĩ đến chuyện gả cho một nhà chồng tốt, Thập Thất, muội chỉ cần gả cho một nhà chồng tốt là hạnh phúc rồi”.
Thập lục sư huynh cười hì hì nói: “Thập Thất đã ngần này tuổi, không cần nói đến nhà chồng nữa, e rằng con cũng có mấy đứa rồi. À, đúng rồi, hôm nào cho các sư huynh gặp phu quân của muội đi. Dung mạo, tính cách muội như vậy, không biết được gả cho vị phu quân như thế nào”.
Những lời của huynh ấy từng câu từng chữ giẫm vào vết đau của ta, ta lau mồ hồi trán, ngượng ngập cười khan nói: “Nói hay lắm, nói hay lắm, tháng sau nữa là lễ thành hôn của muội, lúc đó mời các huynh đến uống rượu”.
Mặc Uyên từ nãy tới giờ ngồi bên lắng nghe, khi ta thốt ra hai tiếng “uống rượu”, ly trà trong tay người nghiêng một cái, rớt một nửa ra ngoài, ta vội chạy đến thu dọn. Chiết Nhan ho hai cái.
|
Cửu sư huynh Lệnh Vũ quản lý Côn Luân đâu ra đó, tứ ca tròn một tháng không về động Hồ Ly, bụi trong phòng huynh ấy cũng tích dày nửa thước. Đã bảy vạn năm ta chưa lên Côn Luân, căn phòng ta ở khi còn làm đệ tử vẫn sạch sẽ tinh tươm. Ta hôi rình mồ hôi, nằm trên giường, rồi lại trở mình một cái.
Người ở phòng bên cạnh là Thập lục sư huynh Tử Lan. Ta nghe thấy huynh ấy gõ gõ lên tường, hỏi: “Thập Thất, muội ngủ chưa?”.
Ta hừ mũi, để tỏ ý chưa ngủ. Nhưng âm thanh này cũng chỉ như muỗi kêu vo ve, có lẽ huynh ấy không nghe thấy, nên lại thưa: “Chưa ngủ”.
Huynh ấy ngưng bặt một lát, rồi âm thanh lại vẳng qua tường: “Bảy vạn năm nay, vì sư phụ, muội đã khổ nhiều rồi”.
Trong ấn tượng của ta, Thập lục sư huynh này rất thích chọc ghẹo ta, làm những việc ngược với ta, ta nói đông, huynh ấy sẽ chỉ tây, ta nói thứ này tốt, huynh ấy sẽ chê thứ đó không đáng một đồng. Bây giờ huynh ấy nói câu này, không khỏi nghi ngờ, rốt cuộc huynh ấy có phải là Thập lục sư huynh không, bèn cao giọng hỏi: “Huynh là Tử Lan à?”.
Huynh ấy im lặng một lát, hừ một tiếng: “Bảo sao ngần này tuổi muội vẫn không lấy được chồng”.
Huynh ấy đúng là Tử Lan.
Ta cười ha ha, không thèm so đo với huynh ấy, nằm trên giường trở mình.
Ta sống đến ngần này tuổi, tuy đã trải qua biết bao chuyện phải nuối tiếc, nhưng giờ đây, trên chiếc giường mỏng manh ở núi Côn Luân này, ta lại cảm thấy những chuyện phải nuối tiếc trong quá khứ thực ra không đáng để nuối tiếc. Ánh trăng dìu dịu lọt vào trong phòng, phong cảnh bên ngoài ô cửa sổ kia không có gì đặc biệt cả.
Nhị ca thường dùng lý luận “tri túc thường lạc”(*) để tôi luyện tính cách của ta. Nhưng ta chưa bao giờ biết thế nào là “biết đủ”, cảm thấy “biết đủ” không giống như hay quên có thể vui, ngày tháng trôi qua hồ đồ, điên đảo. Giờ đây ta đã hiểu ra, hay quên chẳng qua chỉ là tự lừa dối bản thân để mong sống yên vui, “biết đủ” lại có thể khiến người ta thực sự thoải mái. Thực sự thoải mái rồi, sự yên vui này mới là sự yên vui vĩnh hằng. Hiểu thấu điều này, trong phút chốc, ta cảm thấy mình quá hạnh phúc, chỉ mong mau mau được nói cho Dạ Hoa nghe. Nhưng có lẽ lúc này Dạ Hoa có nghe cũng không hiểu những gì ta nói. Giây phút này, có lẽ chàng đã tròn một tuổi. Haizz, không biết khi tròn một tuổi chàng trông như thế nào, đôi mắt ấy có lạnh lẽo như hồ nước giống chàng bây giờ hay không? Chiếc mũi ấy có cao giống chàng bây giờ hay không? Haizz, không biết chàng có giống cục bột nhỏ hay không.
(*) Tri túc thường lạc: Tự thấy đủ sẽ thường thấy vui (ND).
Ta đã nghĩ rất nhiều, rồi dần dần chìm vào giấc ngủ.
Không hiểu sao việc Mặc Uyên quay trở lại bị đồn ra ngoài, sáng sớm hôm sau, những loài bay trên trời, bò dưới đất, phàm là có chút linh căn, đều có thể biết được thượng thần cai quản âm nhạc và chiến tranh đã quay về.
Theo như tin đồn thì, Mặc Uyên đầu đội mũ vàng tía, thân mặc áo giáp Huyền Tinh, chân đi giày Tạo Giác, tay cầm kiếm Hiên Viên, trong lòng còn ôm một tiểu nương tử yểu điệu thướt tha, vào giờ Mùi ba khắc ngày mười sáu tháng tám, người uy phong lẫm liệt đậu xuống núi Côn Luân. Lúc Mặc Uyên đậu xuống núi Côn Luân, dãy núi dài men theo Côn Luân đều rúng động ba lần, chim muông muôn thú đều ngửa cổ lên trời kêu dài, cá, rồng dưới nước đều nổi lên vui mừng kinh ngạc rơi lệ.
Tin đồn này quá phi lý, mười bảy sư huynh đệ chúng ta nghe thấy mà chực khóc ròng.
Mũ vàng tía, giáp Huyền Tinh, hài Tạo Giác, kiếm Hiên Viên thì đúng là trang phục xưa nay khi Mặc Uyên xuất chinh, bảy vạn năm nay vẫn luôn đặt ở chính điện ở Côn Luân, để cho các đệ tử chúng ta chiêm ngưỡng. Còn tiểu nương tử yểu điệu thướt tha, ta và tứ ca suy nghĩ rất lâu, mới hiểu ra có lẽ là chỉ thượng thần bất tài là ta.
Những tin đồn quái ác này ai ai cũng biết, cho nên họ đều lũ lượt hết tốp này đến tốp khác đến bái kiến.
Mặc Uyên định ngày thứ hai sau khi về Côn Luân sẽ đóng cửa tu luyện, nhưng vì vậy nên phải dời lại mấy ngày.
Đám tiểu thần tiên đến bái kiến không có gì đặc biệt, có người được đại sư huynh, nhị sư huynh dẫn đến trước mặt Mặc Uyên nói một, đôi câu; có người chỉ ngồi ở tiền sảnh uống trà, nghỉ ngơi rồi ra về. Chỉ có người thanh niên đến vào trưa ngày thứ ba mới có chút bất thường.
Người thanh niên này toàn thân vận áo bào trắng, thanh tú tao nhã, nét mặt cũng hết sức hiền hậu. Lúc Mặc Uyên gặp y, nét mặt lạnh lùng cũng hơi sững lại. Người thanh niên vận bào trắng cẩn thận quan sát Mặc Uyên, nhưng không hành lễ, chỉ nhíu mày, nói: “Đã lâu không gặp thượng thần, tinh thần thượng thần vẫn như xưa. Trọng Doãn lần này đến Côn Luân, chỉ vì đêm qua tỷ tỷ báo mộng cho ta, nhờ ta gửi một câu đến thượng thần, tỷ tỷ ta”, y cười cười, nói, “tỷ ấy nói tỷ ấy chỉ có một mình, cô đơn biết bao”.
Ta vẫy một tiểu đồng hầu hạ bên Thập sư huynh lại, sai nó đi rót thêm trà cho Trọng Doãn áo trắng kia.
Mặc Uyên không nói gì, chỉ chống má lạnh nhạt dựa vào tay vịn của ghế ngồi.
Chiết Nhan liếc Mặc Uyên một cái, rồi lại cười hòa nhã với Trọng Doãn: “Tiểu đệ Trọng Doãn, phải chăng ngươi đang nói đùa, tỷ tỷ ngươi đã tan thành tro bụi mười mấy vạn năm rồi, sao có thể báo mộng cho ngươi được?”.
Trọng Doãn cũng nhã nhặn nheo mắt đáp lời: “Thượng thần Chiết Nhan quả thực đã trách nhầm Trọng Doãn rồi, Trọng Doãn đúng là tới để chuyển lời của tỷ tỷ, không hề có ý gì khác. Ta cũng chẳng muốn nhọc sức, chỉ là trong giấc mộng tỷ tỷ quá đáng thương, không đành lòng nên hôm nay mới phải lên Côn Luân. Thượng thần Chiết Nhan nói tỷ tỷ của Trọng Doãn đã tan thành tro bụi, nên không thể báo mộng cho Trọng Doãn. Nhưng thượng thần Mặc Uyên chẳng phải khi xưa cũng nói là tan thành tro bụi, đến giờ lại có thể quay về, tỷ tỷ ta tuy tan thành tro bụi, nhưng hồn chẳng biết ở tận nơi đâu, báo mộng cho ta, thì có gì là không thể chứ?”.
Dứt lời y cúi người hành lễ, rồi đi ra khỏi chính điện.
Đến khi Trọng Doãn ra khỏi chính điện, Chiết Nhan mới đọc một câu kinh Phật.
Mặc Uyên không nói câu gì từ khi ngồi xuống, giờ đi về phía hậu viện. Ta nhấc chân lên định chạy theo xem xem, liền bị Chiết Nhan chặn lại.
Nhị sư huynh trưng bộ mặt khổ sở sán lại: “Sư phụ đi như thế, nếu có tiên hữu tới thăm hỏi, thì phải làm thế nào?”.
Chiết Nhan buồn rầu ngẩng lên nhìn trời cao, nói: “Dẫn họ đến tiền sảnh uống trà đi, uống đủ rồi thì tiễn về. À, mà trà còn đủ dùng không?”.
Ta nhẩm tính, gật đầu, nói: “Còn đủ, còn đủ”.
Ta luôn cảm thấy sư phụ ta Mặc Uyên, là một người rất có lai lịch. Tất cả đều có trước có sau, sư phụ quả nhiên là người có lai lịch. Nhưng nghe lời lẽ của Trọng Doãn áo trắng kia, thì dường như là một lai lịch đầy mưa máu gió tanh. Ta hơi lo lắng. Thân làm đệ tử nên tận hiếu, ta định bụng khi chiêu đãi xong đám tiểu thần tiên ở tiền sảnh sẽ đến phòng của Mặc Uyên để an ủi người.
Đêm đến, khi ta đẩy cửa phòng của Mặc Uyên, người đang ngồi trầm tư trước cây cổ cầm, ánh đèn vàng vọt hắt lên khuôn mặt, lộ rõ thần sắc đau thương của người. Ta đứng trước cửa sững sờ, ánh mắt người đang nhìn cây cổ cầm dần dần ngước lên, cười nhạt nói: “Đứng ở cửa làm gì, vào đi”.
Ta lặng lẽ bước vào, định bụng đến an ủi người, nhưng câm nín hồi lâu, mà chẳng thốt lên được câu nào. Chuyện của người thực ra ta cũng không rõ, nhưng nghe người thanh niên áo trắng đó nói, thì chắc chắn là một mối bi tình trăng gió. Nếu như là một mối bi tình trăng gió, thông thường nên lấy câu gì mào đầu đây?
Ta suy nghĩ rất lung, bên tai bỗng vang lên tiếng đàn rời rạc. Tay phải Mặc Uyên lướt trên phím đàn, tùy ý gảy mấy nốt, nói: “Cái tật lúc nào cũng lơ đễnh của ngươi vẫn giống như mấy vạn năm trước”.
Ta chun mũi cười cười, rồi đến cạnh người, ra vẻ thân thiết khuyên nhủ: “Sư phụ, người chết không thể hồi sinh, có lẽ Trọng Doãn quá nhớ tỷ tỷ mình, người chớ nên canh cánh trong lòng”.
Người sững lại, cúi đầu lại tùy ý gảy hai nốt đàn, rồi lạnh lùng nói: “Đêm nay ngươi qua đây là vì chuyện này ư?”.
Ta gật đầu.
Tiếng đàn hỗn loạn bỗng ngưng bặt.
Người ngẩng đầu nhìn, nhìn ta rất lâu, lại hỏi một câu chẳng liên quan: “Ngươi đối với hắn, là thật lòng ư?”.
Mất một lúc lâu ta mới hiểu “hắn” ở đây là Dạ Hoa, trong lòng tuy cảm thấy hơi ngượng khi nói chuyện này trước mặt bề trên, nhưng xấu hổ không phải là phong cách của ta, bèn sờ mũi thành thật nói: “Thật lòng. Vô cùng thật lòng”.
Người ngoảnh mặt đi, nhìn ra ngoài khung cửa rất lâu, nói: “Vậy thì tốt, ta cũng an tâm”.
Đêm nay thần sắc của người hơi cổ quái, lẽ nào, lẽ nào lo lắng ta làm con gái thì không ra gì, cho nên không gả được chồng sao? Ta hiểu ra điều này, cười hì hì an ủi người: “Sư phụ không cần lo lắng, Dạ Hoa chàng rất tốt, chúng con tâm đầu ý hợp, con đối với chàng thật lòng, chàng đối với con cũng vậy”.
Người không quay đầu lại, chỉ lạnh lùng nói: “Đêm khuya rồi, ngươi về phòng nghỉ đi”.
Từ đó về sau, Mặc Uyên hiếm hoi mới đến chính điện. Đêm đó ta đến để an ủi người, nhưng sau khi ra khỏi phòng của người mới phát hiện là chưa hề an ủi gì, ta thấy hơi xấu hổ. Có lẽ chuyện này vẫn nên tự mình bỏ đi mới được, người ngoài rốt cuộc vẫn không thể giúp được.
Cứ tưởng không gặp được Mặc Uyên đã làm nhiệt tình muốn thăm hỏi của đám tiểu thần tiên mấy hôm trước nhạt bớt, chẳng ngờ tinh thần của họ vẫn hừng hực như cũ. Đến ngày cuối cùng, thời gian họ ngồi uống trà ngày càng lâu, lượng trà uống cũng ngày càng nhiều. Tứ ca đoán rằng đây chính là một cơn gió độc mang tên ganh đua. Ví dụ như lúc ta còn nhỏ thường so bì xem ai có thể hái được nhiều đào hơn, uống được nhiều rượu hơn ở chỗ Chiết Nhan. Cho nên đã vội vã dán một trang cáo thị, thông báo cho các thần tiên đến Côn Luân thăm hỏi, mỗi người chỉ có thể nhận một ly trà để uống, lại không được thêm nước. Nhưng cho dù như vậy, người đến vẫn nườm nượp.
Ta ngồi ở tiền sảnh đóng giả người pha trà mười hai ngày, đêm ngày thứ mười hai cuối cùng đã không chịu nổi, lôi tứ ca đến dưới gốc táo trong trung đình, cầu xin huynh ấy giúp ta trông chừng thời gian khoảng bảy, tám nén nhang, để ta xuống trần gian một chuyến xem xem Dạ Hoa ra sao.
Táo ngọt ở cây táo đã kết quả to bằng ngón tay, vỏ quả màu xanh, vẫn chưa ăn được. Tứ ca hái hai quả, cầm trong tay, nói: “Muội lén lút như vậy không phải sợ bị các sư huynh biết được, cười muội là nữ nhi tình trường chứ?”.
Huynh ấy cũng có lúc nhìn nhầm.
Ta thế này chẳng có liên quan gì tới các sư huynh, có điều lo lắng Mặc Uyên biết được đệ đệ song sinh của người bị xuống trần gian lịch kiếp, buộc phải đi xem sao, trần thế ô trọc, không tốt cho việc hồi phục tiên thể của người. Tứ ca nghĩ như vậy, có lẽ huynh ấy cảm thấy nữ nhi đều mặt mỏng cả, cho dù ta đã cao tuổi, nhưng cũng không phải là ngoại lệ. Nào hay da mặt ta còn dày hơn huynh ấy tưởng rất nhiều, đã phụ sự tin tưởng của huynh ấy, ta cũng cảm thấy hơi xấu hổ.
Tứ ca xòe ra ba ngón tay, nói: “Nếu như đồng ý trông khoảng bảy, tám nén nhang, đêm nay huynh khỏi phải ngủ nữa, nên nhiều nhất cũng chỉ trông giúp muội khoảng một nén nhang. Dạ Hoa chẳng qua xuống trần gian lịch kiếp, chứ có gì to tát đâu, mà muội cũng phải đi theo để xem, muội bám hắn cũng chặt thật đấy”.
Ta im thin thít, tai đỏ bừng bừng. Hôm nay nhờ vả không chọn đúng lúc, ta quên béng rằng buổi chiều huynh ấy vừa cãi cọ với Chiết Nhan ở hành lang. Nhưng thời gian một nén nhang cũng khiến ta thỏa nguyện rồi, thế nên sấn bước ra ngoài núi.
Huynh ấy vứt hai quả táo trong tay xuống hồ sen, khẽ buông một câu: “Nếu quá một nén nhang mà không quay về, đừng trách huynh đích thân xuống nhắc muội đấy”. Có thể thấy hôm nay tứ ca giận Chiết Nhan ghê gớm.
Trên núi Côn Luân dải ngân hà lấp lánh ánh sao, đêm sâu thăm thẳm, còn ở phàm trần lại là ban ngày, trời xanh ngăn ngắt. Ta đậu xuống bên ngoài một phòng học, rồi ẩn thân, nghe thấy tiếng đọc sách vẳng lại: “Thúc Hướng gặp Hàn Tuyên Tử, Huyên Tử lo nghèo, Thúc Hướng chúc mừng”(*).
(*) Nguyên văn: Thúc Hướng kiến Hàn Tuyên Tử, Tuyên Tử ưu bần, Thúc Hướng hạ chi. Trích trong “Tả truyện” (ND).
Ta nhìn về phía nơi phát ra tiếng đọc, ánh mắt chạm phải một đứa bé mặt mũi khôi ngô ngồi cuối lớp. Gương mặt đứa trẻ này tuy có thể coi là xuất chúng ở phàm trần, nhưng vẫn hơi non nớt, có lẽ khi lớn lên chưa chắc đã bằng gương mặt của Dạ Hoa, nhưng thần sắc lạnh lùng thì giống hệt Dạ Hoa.
Tiếng đọc dứt, thầy giáo liếc cuốn sách giáo khoa trong tay, nói: “Liễu Ánh, con hãy đứng dậy giải thích cho các bạn nghe đi”. Đứa trẻ lạnh lùng thưa vâng đứng dậy. Lòng ta run run, ánh mắt của bản thượng thần thật tinh tường, đứa trẻ này quả nhiên là Dạ Hoa đầu thai. Ta liền hiểu ra, cho dù chàng chuyển thành dáng vẻ gì ta vẫn nhận ra chàng.
Chàng giải thích rành rọt, cặn kẽ từng điều, thầy giáo vuốt chòm râu dê nghe rất chăm chú, nét mặt khoan khoái, khiến ta nhớ đến sự hãnh diện của Thập lục sư huynh Tử Lan ở lớp học năm nào.
Đây thực sự là một chuyện đau lòng, mất mặt. Năm đó, bản thượng thần còn ngây ngô, bị các sư huynh dẫn dắt thành ra không tiến bộ đã quen, khi lên lớp Mặc Uyên giảng bài, ta cảm thấy thật tẻ nhạt, thường cùng Thập ngũ sư huynh chuyền giấy nói chuyện riêng, coi đó là thú vui. Nhưng chúng ta đạo hạnh nông, học nghệ không tinh, mười lần thì chín lần bị Mặc Uyên bắt. Phương pháp trách tội của Mặc Uyên mãi mãi không thay đổi, hễ bị bắt được là phải đọc thuộc một đoạn Phật lý dài lê thê, hết sức khô khan trước mặt các sư huynh. Đáng thương thay râu ria của những đoạn Phật lý mà sư phụ chỉ định ta đều không biết gì hết, càng chớ nói đến chuyện đọc thuộc nó. Ta dùng dằng, dùng dằng mãi, ngắc nga ngắc ngứ, Thập lục sư huynh mãi đến lúc này được gọi dậy, đọc trôi chảy đoạn Phật lý đó trước mặt ta, rảnh rỗi còn có thể giải thích qua loa một lượt ý nghĩa của đoạn vừa đọc. Thế nên, phàm là những người có tri thức, đều có thể lập tức vừa nhìn đã nhận ra ta là đệ tử không tiến bộ.
Thập ngũ sư huynh và ta “đồng bệnh tương lân”, chúng ta cảm thấy Tử Lan kia quá thông minh, thực đáng ghét, bèn chỉ trời chỉ đất mà thề, đời này sẽ không chơi bời với loại người thông minh, còn viết một lá thư, điểm chỉ lên đó, chôn dưới gốc cây táo trong trung đình ở Côn Luân, để làm chứng.
Nhưng bây giờ, dáng vẻ thông minh đĩnh đạc của Dạ Hoa trong lớp học, ta lại thấy sao mà đáng yêu.
Ta ẩn mình bên ngoài cửa sổ lớp học, đợi đến khi họ tan trường.
Hai tiểu thư đồng giúp Dạ Hoa thu dọn bàn học, rồi cõng chàng ra khỏi cửa. Ta cũng bám gót theo sau, không biết làm thế nào mới có thể hiện hình một cách tự nhiên rồi đến trước mặt chàng chào hỏi. Ta suy nghĩ, đắn đo, chần chừ. Sau lưng vang lên tiếng “vèo vèo”, ta vừa phất tay áo theo phản xạ, hai viên đá nhỏ bay vút tới lập tức bị đổi hướng, đập “bộp” lên thân cây liễu già ven đường.
Tiếng động khiến Dạ Hoa quay đầu, ba, bốn đứa trẻ kêu ầm lên rồi bỏ chạy, vừa chạy vừa hát bài đồng dao. Bài đồng dao này tổng cộng có bảy câu, rằng: “Gạo cũng quý, dầu cũng quý, nhà họ Liễu sinh ra đứa tàn phế. Kiếp trước tạo nghiệt, kiếp này đền, đạo trời luân hồi chẳng thương lượng. Cho dù thần đồng biết nhiều chữ, một kẻ tàn phế biết làm chi?”. Đầu ta “ầm” một tiếng, ngẩng đầu nhìn cánh tay phải của Dạ Hoa.
Thiên Quân, con bà ông chứ. Dạ Hoa là cháu ruột ông, sao ông lại độc ác thế, đầu thai rồi cũng không chịu cho chàng một cơ thể bình thường, ống tay áo bên phải của Dạ Hoa rõ ràng, rõ ràng là trống không mà!
Hai đứa thư đồng cõng Dạ Hoa một lòng bảo vệ chủ, định đuổi theo mấy con thỏ đế thì bị ngăn lại. Mấy con thỏ đế đó ta nhìn rất quen, chợt nhớ ra là bạn học của Dạ Hoa. Là người từng trải, ta thừa hiểu suy nghĩ của chúng, chắc chắn là học hành chẳng ra sao, thấy Dạ Hoa tài hoa hơn người, nên sinh lòng ghen ghét. Nhưng ghen ghét thì cứ ghen ghét, im lặng ở bên cạnh không thèm đếm xỉa là được rồi, còn bịa ra bài đồng dao độc ác kia thực quá đáng. Hừ, lũ thỏ đế chậm tiến bộ như thế, sau này nếm khổ, mới biết rằng những việc làm năm xưa mới hồ đồ làm sao.
Cánh tay trái Dạ Hoa phẩy phẩy ống tay phải trống phơ phất, hơi cau mày, không nói gì mà quay người tiếp tục đi về phía trước. Ta rất đau lòng nhưng không thể lập tức hiện hình, để tránh dọa mấy người bọn họ, đành nuốt nỗi chua xót vào trong lòng.
Từ lúc hoàng hôn đến khi đêm xuống, ta không tìm được thời cơ thích hợp để hiện thân trước mặt Dạ Hoa. Hai đứa thư đồng lúc nào cũng bám sát lấy chàng, khiến ta phát bực. Cuối giờ Tuất, Dạ Hoa mới leo lên giường, hai đứa thư đồng cởi áo hầu chàng đi ngủ, sau khi tắt đèn khoảng nửa tuần trà, cuối cùng đã ngáy khò khò.
Ta thở phào một hơi, giải chú ẩn thân, ngồi bên giường Dạ Hoa, mượn ánh trăng sáng bên ngoài khung cửa, đến gần ngắm chàng thật kỹ, lại đưa tay lay lay chàng tỉnh qua lần chăn. Dạ Hoa “ừm” một tiếng, nửa ngồi nửa mơ màng nói: “Chuyện gì thế?”, đến khi nhìn rõ người ngồi trước mặt chàng không phải là thư đồng mà là ta thì sững sờ. Chàng cứ đờ đẫn nhìn ta, mãi sau, nhắm mắt rồi lại nằm xuống giường, miệng còn lầm rầm: “Hóa ra là nằm mơ”.
Ta run rẩy trong lòng, cuống quýt lay chàng dậy, trước khi chàng cất tiếng đã hỏi trước: “Chàng nhận ra ta không?”. Ta biết chắc chàng không nhận ra, ban nãy chỉ là câu nói thốt ra khi bị đánh thức thôi, nhưng lòng vẫn ôm một tia hy vọng, vẫn bướng bỉnh mở miệng hỏi.
Quả nhiên chàng trả lời: “Không nhớ”. Mày hơi nhíu lại, có lẽ đã tỉnh ngủ, ngập ngừng hồi lâu, nói: “Không phải ta nằm mơ sao?”.
Ta móc một viên dạ minh châu to bằng trứng bồ câu từ trong tay áo ra, tốt xấu gì cũng tỏa chút ánh sáng, kéo tay chàng chạm lên mặt ta, cười nói: “Chàng cảm thấy đang trong mộng sao?”.
Khuôn mặt chàng liền từ từ ửng đỏ.
Ta nhích lại ngồi gần chàng hơn một chút, chàng lùi lại phía sau, mặt lại đỏ lựng lên. Ta chưa từng gặp một Dạ Hoa như thế này, cảm thấy thật mới mẻ, lại ngồi xuống trước mặt chàng, chàng dứt khoát lùi vào góc tường, rõ ràng gương mặt trắng trẻo đã đỏ bừng bừng, vậy mà còn ra vẻ lạnh lùng, điềm tĩnh, nói: “Nàng là ai? Sao lại vào phòng ta?”.
Ta nhớ đến một vở kịch nổi tiếng mình đã từng xem, kể về một con cá tầm tinh màu trắng tên là Bạch Thu Luyện yêu một chàng công tử thiếu niên tên là Mộ Thiềm Cung, tương tư thành bệnh, cho nên đêm đêm gặp gỡ, là một câu chuyện rất hay. Dạ Hoa thế này khiến ta nảy ý muốn trêu chọc, bèn làm bộ ưu sầu nói: “Thiếp vốn là một tiểu tiên ở Thanh Khâu, mấy hôm trước xuống trần du ngoạn, hâm mộ phong thái của lang quân, đem lòng tưởng nhớ lang quân, vì chàng mà võ vàng tiều tụy, thế nên mới đến cùng chàng ân ái một đêm”, lại còn giả vờ xấu hổ nhìn chàng một cái. Lời này tuy rằng khiến toàn thân ta nổi da gà, nhưng nhìn ánh mắt chàng, ta tự thấy mình diễn rất tốt.
Chàng ngẩn người, lát sau mặt đỏ tía tai, che ống tay áo ho hai tiếng: “Nhưng, nhưng chỉ mới mười một tuổi”.
…
Thời gian một nén nhang trôi qua thật nhanh, Dạ Hoa lúc đầu thai thú vị hơn chàng lúc bình thường rất nhiều. Xem ra nhà họ Liễu ở phàm trần dạy con cái còn bài bản hơn lão Thiên Quân cô độc trên Cửu Trùng Thiên. Ta cũng hơi yên tâm.
Ta chưa nới với chàng về nhân duyên kiếp trước, chàng cũng tin rằng ta chỉ là một tiểu tiên vô tình say mê phong thái của chàng, mà đem lòng yêu nhớ, chỉ có điều luôn băn khoăn mình mới mười một tuổi mà thôi, sao lại có thể làm cho một nữ thần đã qua tuổi hoa niên mê mẩn được, huống hồ mình lại còn tàn phế một tay.
Cho nên quá trình khuyên nhủ chàng vô cùng vất vả.
Ta mong chàng có thể reo hò như những đứa trẻ bình thường khác, nhưng kiếp này chàng lại là một thần đồng, tương lai sẽ là một tài tử. Bọn tài tử xưa nay càng khó thuyết phục, lay động hơn người thường, cho nên ta chỉ có thể chỉ trời chỉ đất làm chứng, thi thoảng còn diễn ánh mắt yếu đuối, buồn thảm, thút thít đôi tiếng, cuối cùng cũng khiến chàng tin ta.
Trước lúc đi, chúng ta trao tín vật cho nhau, ta trao cho chàng chuỗi ngọc mà lúc ta xuống trần giúp Nguyên Trinh độ kiếp chàng đã trao cho ta. Chuỗi ngọc này có thể bảo vệ chàng bình an, ta không thể ở bên chàng, chàng đeo chuỗi ngọc này cũng có thể khiến ta an tâm hơn. Chàng lấy miếng ngọc bội đeo trên cổ xuống, đeo lên cổ ta. Ta ghé sát tai chàng, không quên dặn dò chuyện quan trọng: “Chàng không được cưới người con gái khác, đợi rảnh rỗi thiếp sẽ đến thăm chàng nhiều hơn, đợi khi chàng lớn, thiếp sẽ lấy chàng”. Chàng đỏ mặt, bình tĩnh gật đầu đồng ý.
Ta nói rảnh rỗi sẽ đến thăm Dạ Hoa nhiều hơn. Nhưng sau khi về tới Côn Luân, lại chẳng hề được rảnh rỗi.
Mặc Uyên cuối cùng đã định được ngày đóng cửa tu luyện, sau bảy ngày nữa. Chiết Nhan cần luyện ít đan dược cho Mặc Uyên, để khi người đóng cửa tu luyện có thể mang vào trong động phối hợp trị liệu, chọn ta đi giúp lão một tay. Cả ngày ta quẩn quanh trong phòng thuốc hoặc phòng luyện đan, đến thời gian nghỉ ngơi uống trà cũng không có. Đến chiều ngày mùng hai tháng chín, đem một bình ngọc đựng đầy đan dược mới luyện thành trao cho Mặc Uyên, để người mang vào động. Trước khi vào động, thần sắc người bơ phờ mệt mỏi, không nói gì với các sư huynh, chỉ hỏi ta một câu: “Dạ Hoa đối với ngươi tốt chứ?”. Ta thành thật đáp, người gật gật đầu rồi đi vào trong động.
Sau khi Mặc Uyên đóng cửa tu luyện thì không còn thần tiên nào đến. Ta nhẩm số trà trên núi cũng sắp uống hết rồi.
Mười lăm sư huynh từng người cáo từ trở về làm việc của mình, chỉ để lại tiểu đồng của mình giúp đỡ Cửu sư huynh lo liệu. Ta cũng theo Chiết Nhan và tứ ca cáo từ xuống núi.
Sau khi xuống núi, ta bay thẳng đến trần gian.
Tính ra Dạ Họa năm nay đã mười tám, mười chín tuổi, với người phàm trần đây là tuổi tài hoa phong nhã đương nở rộ, không biết tiểu Dạ Hoa mười một tuổi nay đã như thế nào.
Ta ôm ấp trái tim đầy kích động, nhẹ nhàng đậu xuống trước nhà họ Liễu.
Nhưng lục tung cả nhà họ Liễu lên cũng không tìm thấy Dạ Hoa. Trái tim kích động này đã bị giội một gáo nước, buốt thấu tim.
Ta thất vọng ra khỏi nhà họ Liễu, tìm một nơi yên tĩnh hiện hình, ngẫm nghĩ, rồi lại đến tìm một nô tỳ trước phủ nhà họ Liễu hỏi han, hỏi thì mới biết Dạ Hoa mấy năm trước đã vinh danh bảng vàng, đang làm quan dưới chân thiên tử trần gian.
Nô bộc nhà họ Liễu ngẩng lên nhìn trời xanh thăm thẳm, mắt không giấu nổi vẻ tự hào: “Đại thiếu gia nhà tôi là thần đồng trăm năm mới có, kỳ tài, quả là kỳ tài, mười hai tuổi đã vào nhà Thái học, năm năm trước hoàng đế mở ân khoa, thiếu gia thi lấy lệ cũng đã đỗ Trạng nguyên, từ chức Biên tu trong Hàn lâm viện đã rộng đường công danh, nay đã làm Thượng thư bộ Hộ, kỳ tài, quả là kỳ tài”.
Ta chẳng hề hứng thú với việc Dạ Hoa làm chức quan gì, nhưng biết được nơi chàng ở thì rất vui mừng, bèn xốc lại tinh thần, niệm chú gọi mây xanh, đến cung điện của thiên tử chỗ chàng.
|
Chương 22:
Sau đèn Kết Phách, mối bi tình đó tới tới lui lui
Ta tìm Dạ Hoa trong hậu hoa viên của phủ Thượng thư.
Khi ta tìm đến, chàng vận thường phục bằng lụa màu đen, đang đứng nâng chén ngắm hoa đào cùng một người con gái vận đồ trắng. Ở chỗ chàng ngồi, phía trên là một cây hoa đào đang thắm sắc.
Người con gái vận đồ trắng ngồi đối diện chàng dường như nói câu gì đó, chàng nâng ly rượu trên bàn, cười rạng rỡ với người con gái ấy, người con gái đó lập tức thẹn thùng cúi đầu.
Nụ cười này của chàng vừa rạng rỡ vừa thân thiết, nhưng trong mắt ta lại cực kỳ gai mắt.
Sáu ngày không gặp, chàng coi vật đính ước của ta là đồ bỏ, chẳng phải rước cho ta một món nợ tình tạp nham sao? Nỗi ghen tức xộc lên, ta đang định đi vào để xem xem ngọn nguồn thế nào, thì sau lưng vang lên một giọng nói: “Đã lâu không gặp thượng thần, Tố Cẩm xin được thỉnh an thượng thần ở đây”.
Ta sững sờ, quay người lại.
Phép ẩn thân chỉ là phép thuật che mắt, có thể che mắt người phàm chứ không thể che mắt thần tiên. Nhìn Tố Cẩm xiêm y giản dị trước mặt ta thấy không quen cho lắm, bèn hỏi: “Sao ngươi lại ở đây?”.
Nàng ta nhìn ta, đáp: “Quân thượng một mình lịch kiếp dưới trần gian, Tố Cẩm sợ quân thượng cô đơn, nên cố ý làm một người quân thượng nhung nhớ, sắp đặt ở bên cạnh chàng. Hôm nay Tây Vương Mẫu mở hội trà, Tố Cẩm cũng được thiếp mời, tiện đường qua đây, nên xuống thăm người Tố Cẩm làm cho quân thượng, xem nàng ta có hầu hạ quân thượng chu đáo hay không?”.
Ta quay lại nhìn người con gái áo trắng đang đứng bên Dạ Hoa. Vừa nãy không để ý, bây giờ nhìn lại, quả nhiên người con gái đó chỉ là một con rối đội da người. Ta lấy chiếc quạt ra, lạnh lùng buông một câu: “Chu đáo quá”.
Nàng ta nhìn ta ân cần, nói: “Thượng thần có biết Tố Cẩm làm con rối theo mẫu của ai không?”.
Ta nghiêng đầu nhìn dò xét, nhưng không cảm thấy gương mặt của người con gái áo trắng kia có điểm gì đặc biệt.
Ánh mắt nàng ta trở nên xa xăm: “Thượng thần có bao giờ nghe tới cái tên Tố Tố không?”.
Lòng ta run rẩy. Tiểu thần tiên Tố Cẩm gần đây quả có tiến bộ, vừa mới gặp đã có thể xéo đúng lên nỗi đau của ta. Sao ta lại không biết mẫu thân đã nhảy xuống Tru Tiên đài của cục bột, phu nhân trước mà Dạ Hoa hết lòng yêu thương tên là gì chứ. Nhưng từ sau khi ta khám phá ra tình cảm của mình dành cho Dạ Hoa, thì đã gói ghém tất cả tin đồn về mẫu thân của cục bột nhỏ, vứt vào trong hòm, khóa ba tầng khóa, thề rằng sẽ không bao giờ mở hòm ra, để bản thân khỏi phải tự tìm đau khổ. Ta không phải là người đầu tiên Dạ Hoa yêu, mỗi lần nhớ ra lại càng nuối tiếc, đau đớn. Nhưng số phận đã như vậy, ta cũng không hề oán trách, chỉ có thể thở dài than rằng số không may, đường tình trắc trở mà thôi.
Tố Cẩm liếc nhìn thần sắc của ta, nói: “Thượng thần không cần phải lo lắng đâu, bây giờ quân thượng chỉ là một người phàm trần, mới không nhận ra người trước mặt chàng chỉ là một con rối, có thể tác thành, khiến giấc mộng mà lòng chàng khao khát trở thành hiện thực. Đợi quân thượng quay về chính thân, cho dù con rối đó có mang gương mặt của Tố Tố, thì theo tính cách của quân thượng, sao có thể quan tâm đến một con rối chứ?”.
Có phải nàng ta đang muốn nói cho ta hay, bây giờ Dạ Hoa đã rất quan tâm tới con rối này không?
Ta cười ha ha, nói: “Ngươi không sợ sau khi Dạ Hoa trở về chính thân, nhớ ra chuyện ngươi đã lừa chàng, sẽ trách tội ngươi sao?”.
Nét mặt nàng ta cứng đờ, gượng cười đáp: “Tố Cẩm chẳng qua chỉ làm một con rối, đặt ở trên đường trước cửa phủ của quân thượng, nếu quân thượng không có ý với nó, thì hai người cũng chỉ là vô duyên thôi. Nhưng quân thượng vừa nhìn đã yêu mến, đưa nó về phủ. Nếu đến lúc đó quân thượng trách tội Tố Cẩm, Tố Cẩm cũng đành chịu”.
Lồng ngực ta căng tức, chỉ mân mê chiếc quạt không nói gì.
Nàng ta lại nở nụ cười dịu dàng, nói: “Có thể thấy, nếu đúng là yêu một người đến khắc cốt ghi tâm, thì dù uống nước Vong Xuyên của U Minh Ti Minh Chủ, cũng vẫn có ấn tượng, đầu thai rồi vẫn yêu người đó. Đúng rồi”, nàng ta ngưng lại giây lát, thong thả nói tiếp, “Thượng thần có biết, ba trăm năm nay, quân thượng luôn chong đèn Kết Phách để tập hợp khí trạch của Tố Tố không?”.
Trong đầu ta bỗng ầm một tiếng, khiến ta không phân biệt nổi phương hướng, lồng ngực căng tức, cồn cào.
Chàng, Dạ Hoa trước đây định tái tạo một Tố Tố sao?
Cái đêm của sáu hôm trước, khi ta ngồi bên cạnh giường Dạ Hoa, chàng còn không nhận ra ta, chàng nói không nhận ra. Sáu năm sau, chàng lại dẫn một người con gái không quen biết về nhà. Quả đúng là chàng yêu ta chẳng sâu sắc bằng chàng yêu Tố Tố khi xưa, nên mới không nhận ra ta. Hoặc giả, hoặc giả, chiếc hòm có ba lần khóa kia đã mở ra, hoặc là chỉ vì khi ta băng mắt có vài phần giống với phu nhân trước, nên Dạ Hoa mới dần dần yêu ta? Đầu óc rối loạn, ngực đau căng tức, tim ta nhói buốt.
Nhưng dù đầu óc hỗn loạn, ta vẫn khâm phục bản thân, ra vẻ thượng thần rất đạt, ta ung dung nói: “Ngươi quả am hiểu chuyện ái tình, đúng là am hiểu như thế mới có thể chịu đựng được sự coi thường của Dạ Hoa, còn có thể làm thứ phi của chàng suốt hơn hai trăm năm. Trong đám tiểu bối bây giờ, ngươi có thể coi là một kẻ có tầm nhìn, con rối ngươi làm rất tinh xảo, để nó bên Dạ Hoa cũng tốt, đỡ cho bản thượng thần phải nhọc công. Sau này nếu Dạ Hoa có trách ngươi gạt chàng, bản thượng thần sẽ nói đỡ cho ngươi”.
Nụ cười của nàng ta đông cứng trên gương mặt, mãi sau mới khóe môi, nói: “Đa tạ thượng thần”.
Ta giơ tay xua xua, nói: “Để lỡ hội trà của Tây Vương Mẫu thì không hay đâu”.
Nàng ta cúi đầu quỳ gối: “Vậy Tố Cẩm xin lui trước”.
Tố Cẩm đi rồi, ta quay đầu lại nhìn, con rối đó đang cùng Dạ Hoa uống rượu. Mấy cánh hoa đào nương theo gió rụng xuống, bay lả tả, vương trên tóc Dạ Hoa. Con rối đó giơ bàn tay trắng như ngọc như ngà, phẩy nhẹ một cái, mấy cánh hoa đào rớt xuống đấy. Nó ngẩng đầu lên nhìn Dạ Hoa cười thẹn thùng, Dạ Hoa không nói gì, uống cạn ly rượu. Đầu ta đột nhiên đau buốt.
Tứ ca hay nói, ta chẳng chịu suy nghĩ, luôn tùy ý hành động, may mà cha mẹ ta giỏi giang, ta mới không phải thiệt thòi, nhưng ta cũng không ít lần làm mất thể diện tộc Cửu Vỹ Bạch Hồ nhà ta. Cố nhiên ta cảm thấy huynh ấy còn làm nhiều chuyện mất thể diện hơn ta, nhưng niệm tình huynh ấy lớn hơn ta, nên ta cũng nhường huynh ấy.
Giờ đây, ta mới thấy huynh ấy nói có lý. Ta hành động hết sức tùy ý, không hề suy nghĩ. Ví dụ như lúc ban đầu Dạ Hoa bày tỏ với ta, chàng nói chàng thích ta, chàng nói còn ta nghe, nhưng chưa bao giờ nghĩ rằng trong toàn thể nữ thần của bốn bể tám cõi, sao chàng chỉ yêu mình ta, cho dù sau này ta cũng yêu chàng, hai bên tình nồng ý đượm, cũng không hề hỏi chàng chuyện quan trọng này. Nếu như chàng thực sự vì mẫu thân của cục bột nhỏ mới thích ta, thì người thế thân Bạch Thiển ta với con rối đang uống rượu với chàng kia, đâu có gì khác nhau. Tuy cũng biết rằng so đo với người đã mất là hẹp hòi, nhưng tình yêu lại thực sự không thể tính tới thể diện hay độ lượng được.
Ngọn lửa ghen tuông ngùn ngụt, ta day day góc trán, cảm thấy lúc này nên ngẫm nghĩ kỹ một số chuyện về Dạ Hoa, bèn bắt quyết gọi một đám mây, rồi lú lú lẫn lẫn bay về Thanh Khâu.
Tối nay, ta đem đèn Kết Phách ra ngắm nghía dưới ánh sáng của viên dạ minh châu. Chiếc đèn này luôn đặt ở chỗ Tây Hải đại hoàng tử để giúp y dưỡng thần, sau khi Mặc Uyên tỉnh lại đã được Chiết Nhan lấy về và đặt ở Thanh Khâu. Lúc trên Cửu Trùng Thiên, Dạ Hoa không hỏi tới, còn ta cũng quên đem trả.
Dưới ánh sáng trắng của viên dạ minh châu, cây đèn Kết Phách ấy khêu lên một ngọn lửa nho nhỏ bằng hạt đậu, trông chẳng có gì đặc biệt cả. Đâu có ai ngờ, trong cây đèn không có gì đặc biệt này lại chứa khí trạch ba trăm năm của một người phàm.
Ta càng nghĩ lòng càng chùng xuống, lời của Tố Cẩm tuy không thể tin hoàn toàn, nhưng còn lời của tiểu tiên nữ Nại Nại trên Thiên Đình làm chứng, bây giờ ta đã rảnh rỗi để chắp ghép từng chuyện lại, ba trăm nay quả nhiên Dạ Hoa tình sâu như biển với mẫu thân của cục bột nhỏ. Một người nặng tình như chàng, một mối tình sâu như biển ấy, sao chỉ mới ba trăm năm mà đã có thể tan thành mây khói được, sao có thể vừa nhìn thấy bản thượng thần là lập tức thay đổi tình cảm được đây?
Ta càng nghĩ càng cảm thấy ngọn lửa ghen tuông trong lòng bốc lên ngùn ngụt, lan đến tim phổi, cháy bùng lên. Ta yêu Dạ Hoa vì chính con người chàng, nếu như chàng có tướng mạo giống với sư phụ Mặc Uyên, ta cũng chưa bao giờ coi chàng là Mặc Uyên, dù chỉ là một khắc. Nếu như ta coi chàng là thế thân của Mặc Uyên, thì e rằng mỗi lần nhìn thấy chàng ta đều cung kính thưa hỏi, không dám khinh nhờn một chút nào.
Ta đã yêu chàng như vậy, nên cũng mong chàng đối xử lại với ta như thế. Nếu như vì ta giống mẫu thân của cục bột nhỏ, mà chàng lại không nguôi thương nhớ mẫu thân của cục bột nhỏ nên mới chuyển sang ta, thì Bạch Thiển ta không thể nhận sự yêu mến này của chàng.
Mê Cốc đứng bên ngoài khẽ giọng gọi: “Cô Cô, có cần ta dâng ít rượu lên không?”.
Ta im lặng đồng ý.
Rượu mà Mê Cốc dâng lên đều là rượu mới nấu, hơi cay nồng còn chưa được êm lắng, đi vào trong miệng, họng lập tức cay xè, đầu óc ta càng trở nên choáng váng hơn. Có lẽ hôm nay Mê Cốc thấy ta có tâm sự, nên mới cố ý chọn ra loại rượu mạnh này, hễ được lệnh là đem vào trong phòng ta.
Ta uống tới mức một cây đèn Kết Phách trước mắt biến thành mười cây, cảm thấy uống khá say, mới đứng dậy loạng choạng đi ngủ. Mơ mơ màng màng nhưng không ngủ được, luôn cảm thấy trên bàn có thứ gì đang tỏa sáng, rất chói mắt, chẳng trách ngủ không được. Ta ngồi bên mép giường, nheo mắt nhìn, hóa ra là một ngọn đèn. A, có lẽ là cái đèn Kết, kết gì đó…
Ta nghĩ mãi mà không nghĩ ra.
Ngọn đèn đó chiếu sáng khiến trái tim người ta rối bời, toàn thân ta mềm nhũn không bò nổi dậy, cứ ngồi cách bảy, tám bước mà thổi ngọn đèn trên bàn, thổi mãi mà không tắt, muốn dùng pháp thuật để tắt đèn nhưng nhất thời chẳng nhớ nổi một phép thuật nào để thổi tắt đèn cả. Ta rên rỉ một tiếng “đen đủi”, dứt khoát bắt quyết chĩa về phía chiếc đèn Kết gì đó, “choang” một tiếng, ngọn đèn đó hình như vỡ tan. Cũng tốt, ngọn lửa trong đèn đã tắt rồi.
Sau cơn giày vò ấy, trời đất quay mòng mòng, ta lập tức ngã xuống giường ngủ say như chết.
Ta ngủ li bì hai ngày liền, khi ngủ cũng nhớ ra rất nhiều chuyện cũ.
Hóa ra năm trăm năm trước, Kình Thương phá vỡ chuông Đông Hoàng, sau khi ta cố gắng nhốt hắn vào trong, chẳng hề giống như cha mẹ ta vẫn nói là ngủ liền hai trăm mười hai năm trong động Hồ Ly, mà bị Kình Thương gieo một phong ấn trong người, rơi xuống núi Tuấn Tật ở Đông Hoang.
Cái gì mà Tố Tố, cái gì mà mẫu thân của cục bột nhỏ, cái gì mà người phàm nhảy xuống Tru Tiên đài, đó căn bản đều là bản thượng thần ta - khi ấy vẫn còn vô năng, vô tri.
Ta còn thắc mắc là lúc thăng lên làm thượng thần, mình đã lịch kiếp như thế nào, chẳng qua đánh với Kình Thương một trận, ngủ vỏn vẹn có hai trăm mười hai năm, rồi trong giấc mộng say lại được thăng làm thượng thần. Ba trăm năm trước trong động Hồ Ly, khi tỉnh dậy, ta mắt chữ O miệng chữ A nhìn nguyên thần của mình từ ánh sáng bạc chuyển thành ánh sáng vàng lấp lánh, còn tưởng rằng ông trời ưu ái ta, cảm kích đến mức cảm thấy ông trời quá nhân từ.
Ta đâu biết, trận đánh với Kình Thương kia chỉ là một ngòi nổ, mà kiếp nạn ta phải trải qua để được thăng làm thượng thần, lại chính là tình kiếp. Ta phải hy sinh trái tim không nói, mà còn phải hy sinh cả đôi mắt. Nếu không phải Kình Thương phong ấn tiên nguyên của ta, thì nhảy xuống Tru Tiên đài ta còn phải hy sinh toàn bộ tu vi. Ông trời hành sự chẳng hồ đồ chút nào, nhân từ, nhân từ, ông ta nhân từ cái cóc khô ấy.
Ta đã hiểu vì sao khi ở Thanh Khâu, Dạ Hoa ngập ngừng muốn nói rồi lại thôi; hiểu được cái đêm ở quán trọ dưới trần gian, cái câu “Ta mong nàng nhớ ra, lại mong nàng vĩnh viễn không nhớ” ta nghe được trong lúc mơ màng hoàn toàn không phải là ta ngủ mơ; tất cả đều có trước có sau, là năm đó Dạ Hoa đã để ta chịu oan, chàng cảm thấy có lỗi với ta.
E là chàng mãi mãi không bao giờ hiểu được tại sao ta lại đặt tên cho cục bột là A Ly, mãi mãi không hiểu được tại sao ta phải nhảy xuống Tru Tiên đài.
Chuyện cũ lần lượt ào về như thác đổ, nỗi đau kéo dài suốt ba năm đó của ba trăm năm về trước mới như ngày hôm qua, cái gì là đại nghĩa, cái gì là đạo lý, cái gì là bảo vệ sự an toàn cho một người phàm như ta mà không thể không làm với không thể làm, đêm đêm một mình vò võ trong “Nhất Lãm Phương Hoa”, từng tia hy vọng nhỏ nhoi bị bóp nghẹt. Tình cảm ấy ào ạt chảy về, ta cảm thấy cõi lòng bi thương vô tận. Ba năm đó, bản thượng thân sống vô dụng biết bao, đau đớn biết bao.
Ta cảm thấy với tâm trạng của mình giờ đây, nếu thành thân với Dạ Hoa vào tháng mười, e rằng hơi khó. Ta biết rằng mình vẫn còn yêu chàng. Ba trăm năm trước ta bị chàng mê hoặc đến mức đầu óc choáng váng; ba trăm năm sau lại bị chàng mê hoặc đến mức đầu óc mụ mẫm; đây là oan nghiệt. Ta không thể ngăn được mình yêu chàng, nhưng nghĩ đến chuyện ba trăm năm trước, trái tim yêu chàng như trồi lên một cái nhọt, cái nhọt này lại chẳng thể tiêu tan. Thế nên, ta cũng chẳng thể tha thứ cho chàng.
Mê Cốc bưng nước vào trong phòng cho ta rửa mặt, nhìn ta một lúc, lão nói: “Cô cô, có cần ta đi lấy thêm chút rượu nữa không?”.
Ta giơ tay sờ lên mặt, mới phát hiện nước mắt đẫm tay mình.
Mê Cốc dâng rượu lên thật. Bữa trước ta uống bảy, tám vò, cứ tưởng đã uống hết sạch rượu tứ ca cất giữ, Mê Cốc vẫn còn có thể dâng thêm năm, sáu vò, chứng tỏ trong gian nhà tranh của lão cất giữ không ít rượu.
Mỗi khi ta uống say thì sẽ ngủ, tỉnh lại uống, lại say rồi lại ngủ, cứ lặp lại một cách đơn điệu như vậy ba, bốn ngày. Đến chạng vạng tối ngày thứ năm thì tỉnh, Mê Cốc đang ngồi trong phòng ta, nói: “Cô cô lo lắng đến bản thân một chút đi, trong động không còn rượu để mang lên nữa rồi”.
Mê Cốc quá lo, bản thân ta đâu cần lo lắng gì, chỉ là mệt mỏi quá thôi, không vô dụng như Phượng Cửu, thất tình uống tí rượu vào là say đến nỗi ói mật xanh mật vàng. Qua lần tôi luyện này, tửu lượng của ta còn tăng tiến không ít.
Không có men rượu mạnh, đầu ta lại tỉnh táo trở lại. Đầu óc tỉnh táo khiến ta nhớ một chuyện quan trọng mà dù thế nào cũng không thể quên. Đôi mắt của ta đang sống trong hốc mắt của Tố Cẩm, nên đòi nó trở về rồi.
Khi đó ta trải qua tình kiếp, bị Tố Cẩm nhân cướp mất đôi mắt. Bây giờ ta đã lịch kiếp xong, đôi mắt ta vẫn để trong hốc mắt nàng ta là không được, nàng ta nuôi đôi mắt của ta hẳn cũng thấy không tự nhiên.
Chọn ngày chẳng bằng gặp ngày, ta gọi quạt Côn Luân đến, soi gương chỉnh sửa lại dung nhan. Haizz, sắc mặt ta nhìn không tốt lắm, để không mất thể diện của Thanh Khâu, ta đành lấy hộp phấn ra, thoa ít phấn lên.
Mặt mày rạng rỡ, ta lên Cửu Trùng Thiên, ta bắt quyết, dễ dàng lách qua đám thiên binh thiên tướng canh Nam Thiên Môn, đi thẳng một mạch đến điện Sướng Hòa của Tố Cẩm nằm trong khuôn viên Tẩy Ngô cung.
Nàng “mẫu mực” quả rất biết hưởng phúc, nàng ta đang nằm trên giường quý phi an nhàn nhắm mắt dưỡng thần.
Ta hiện thân, một tiên nga thị tỳ vừa bước vào điện trông thấy đã kêu “á” một tiếng. “Mẫu mực” liền mở choàng mắt, nhìn thấy ta thì sững người, miệng vẫn giả lả: “Thượng thần giá đáo, Tố Cẩm vô cùng sợ hãi”. Động tác trở mình xuống giường lại cực kỳ chậm rãi, bình thản thong dong, quả là “vô cùng sợ hãi”.
Ta ngồi một bên. Nàng ta ra vẻ tươi cười, cởi mở, nói; “Tố Cẩm đoán thánh ý của thượng thần, có lẽ là đến để hỏi thăm tình hình gần đây của quân thượng. Nếu nói đến quân thượng”, ngừng lại một lát, lại cười vẻ vô cùng cởi mở, “Tố Tố ở trần gian kia, vẫn sống cùng quân thượng rất vui vẻ, chăm sóc quân thượng rất chu đáo”.
Nụ cười làm nền cho đôi mắt sáng lấp lánh trên gương mặt, ta sờ lên mặt chiếc quạt, ra vẻ ung dung, nói: “Nếu như thế này, tự nhiên là tốt nhất. Dạ Hoa đã có ngươi chăm sóc, ta cũng an tâm, còn hôm nay, ta lại muốn quan tâm tới ngươi một chút”.
Nàng ta nghi hoặc nhìn ta.
Ta cười đoan trang: “Tố Cẩm, ngươi dùng đôi mắt của bản thượng thần đã ba trăm năm, dùng có tốt không?”.
Nàng ta ngẩng phắt đầu, máu trên khuôn mặt từ đỏ chuyển sang hồng nhạt, từ hồng nhạt chuyển sang trắng bệch, trong nháy mắt đổi ba màu, cực kỳ thú vị. Nàng ta nói với giọng run rẩy: “Vừa nãy ngươi, ngươi nói gì?”.
Ta xòe quạt, cười đáp: “Ba trăm năm trước bản thượng thần trải qua tình kiếp, đã đánh mất đôi mắt vào tay ngươi, hôm nay nhớ ra chuyện này, nên cố ý tới đây đòi. Theo ngươi, tự ngươi động thủ hay là bản thượng thần đích thân động thủ?”.
Nàng ta lùi về sau hai bước, va ngay vào thành giường quý phi đằng sau, nhưng dường như không hề hay biết, miệng lắp bắp: “Ngươi là, ngươi là Tố Tố?”.
Ta không bình tĩnh được nữa, xòe quạt: “Rốt cuộc là ngươi đích thân móc trả hay là bản thượng thần móc giúp ngươi?”.
Đôi mắt nàng ta thất thần, tay vặn xoắn tà áo, há miệng mấy lần, nhưng không nói được một câu hoàn chỉnh nào, như cười như khóc, nói: “Người đó, người đó rõ ràng chỉ là một người phàm, sao lại là ngươi, ả rõ ràng là một người phàm”.
Ta bước tới, rót một ly trà đặc còn bốc khói nghi ngút trên bàn, ngạc nhiên nói: “Một người phàm thì sao, một thượng thần thì sao nào? Chỉ vì ba trăm năm trước ta hóa thành một người phàm, yếu ớt vô dụng, một tiểu thần tiên như ngươi có thể đoạt đôi mắt của ta, lừa ta nhảy xuống Tru Tiên đài được sao?”.
Chân nàng ta mềm nhũn, loạng choạng ngã xuống, cứ lắp bắp “ta, ta” hồi lâu mà không nói được câu gì biện hộ.
Ta bước tới, đưa tay sờ lên hốc mắt của nàng ta, dịu dàng nói: “Gần đây bản thượng thần có chuyện vui, uống mấy vò rượu, tay hơi run, động thủ có lẽ sẽ đau hơn ngươi tự làm, ngươi thông cảm nhé!”.
Tay ta còn chưa hạ xuống, nàng ta đã kêu thét thất thanh. Ta vung tay phóng ra một đạo tiên chướng trùm lên trước điện Sướng Hòa, đảm bảo cho dù đám tiểu tiên đồng, tiểu cung nga có nghe thấy tiếng kêu của nàng ta cũng không vào trong được.
Ánh mắt nàng ta đã rối loạn, hai tay giữ chặt lấy tay ta, nói: “Ngươi không thể, ngươi không thể…”.
Ta buồn cười, vỗ nhẹ lên mặt nàng ta: “Ba trăm năm trước ngươi thích giả vờ yếu đuối, lúc nào ta gặp ngươi, ngươi cũng giả vờ yếu đuối, không thể để bản thượng thần mở mắt, nhìn xem lúc ngươi không yếu đuối trông thế nào? Lúc Dạ Hoa móc đôi mắt của ta nói nợ người ta cuối cùng vẫn phải trả, khi đó đôi mắt của ngươi sao lại không có, hai chúng ta đều hiểu rõ. Đôi mắt của ta sao lại lọt vào hốc mắt ngươi, hai chúng ta cũng đều hiểu rõ. Ngươi nói xem, tại sao ta không thể lấy lại đôi mắt của mình, lẽ nào đôi mắt của ta nằm trong hốc mắt của ngươi ba trăm năm, thì sẽ biến thành của ngươi sao?”.
Dứt lời ta ra tay dứt khoát, nàng ta kêu lên thảm thiết. Ta ghé tai nàng ta thì thầm: “Chuyện ba trăm năm trước, Thiên Quân âm thầm làm, chuyện hôm nay, ta cũng âm thầm làm. Khi xưa ngươi nợ ta hai món nợ, một là đôi mắt, hai là Tru Tiên đài. Món nợ hôm nay coi như ta đã bắt ngươi trả. Món nợ Tru Tiên đài, hoặc là ngươi đường hoàng nhảy xuống một lần, hoặc là ngươi nói với Thiên Quân, dùng tiên lực bé mọn của ngươi đến nhà lao ở bến Nhược Thủy canh chừng chuông Đông Hoàng nhốt Kình Thương, vĩnh viễn không lên trời nữa”.
Toàn thân nàng ta co rúm, có lẽ rất đau đớn. Nỗi đau này ta cũng từng trải qua, nên cũng đoán ra. Nàng ta đau đến mức không thể thở nổi, nhưng vẫn bướng bỉnh nhả ra ba tiếng: “Ta… quyết… không…”.
Không sai, không giả vờ yếu đuối với ta, cố gắng cứng rắn một lần. Ta nâng cao khuôn mặt đẫm máu của nàng ta lên, cười nói: “Ô? Vậy là ngươi muốn bản thượng thần đích thân đi nói với Thiên Quân. Nhưng con người ta xưa nay lúc này nói một đằng, lúc khác lại nói một nẻo. Nếu để ta đến nói với Thiên Quân, không biết lúc đó ta có nói như bây giờ không nữa”.
Cơ thể nàng ta cứng đờ, rồi tiếp tục đau đớn cuộn tròn lại. Ta thầm niệm một câu kinh Phật, thiện ác quả báo, đạo trời luân hồi.
|