Tam Sinh Tam Thế Thập Lý Đào Hoa
|
|
Chương 4:
Làm thế nào để chia uyên rẽ thúy
Đông Hải Thủy Quân đi trước dẫn đường, cục bột nhỏ một mình run run đi giữa, Dạ Hoa nắm tay ta đi sau cùng.
Chẳng qua ta chỉ nói dối một câu, câu nói dối này chủ yếu là để bảo vệ cục bột nhỏ, hắn có thể mắt nhắm mắt mở cho qua, vậy mà lại đối đầu với ta, quả thực là làm người ta phát điên lên.
Ta cũng chẳng thèm giữ phong thái của bậc thượng thần, dứt khoát dùng pháp thuật để tách ra khỏi hắn. Hắn mỉm cười một cái, cũng dùng pháp thuật để chặn ta lại.
Suốt dọc đường ta và hắn đấu lẫn nhau, hắn ỷ thế nên chẳng thèm kiêng dè, còn ta thì chốc chốc lại dè chừng động tĩnh của Đông Hải Thủy Quân phía trước nên phân tâm, đến cuối cùng vẫn là thảm bại.
Trước đó không lâu tứ ca từng nói với ta rằng, thế đạo ngày nay thực sự kém xa thời các thần tiên thượng cổ năm nào, chúng tiên chỉ biết tiêu dao tự tại cả ngày, tiên thuật chẳng thịnh, đạo phong suy đồi, thực khiến người ta đau lòng khôn xiết. Chẳng ngờ đạo pháp của Dạ Hoa lại tinh thâm đến mức này, đúng là “tiên thuật chẳng thịnh” ông nhà nó, “đạo phong suy đồi” con bà nó ấy chứ.
Đông Hải Thủy Quân quay đầu lại, bồi thêm một nụ cười, hai mắt vẫn nheo nheo nhìn ta và Dạ Hoa tay trong tay: “Quân thượng, tiên sứ, phía trước đã là đại điện rồi”.
Cục bột nhỏ reo lên một tiếng, khéo léo chạy đến nắm lấy cánh tay còn trống của ta, ra điệu bộ trang trọng uy nghiêm cháu trai của Thiên Quân.
Nếu đặt vào vị trí của ta hiện giờ là vị thứ phi đang ở tại Thiên Cung của Dạ Hoa thì xếp hàng như vậy quá hợp tình hợp lý, không có gì là quá đáng cả.
Ngày hôm nay, khi bái biệt Chiết Nhan, đáng nhẽ nên bảo lão bói cho ta một quẻ. Có lẽ hôm nay chính là ngày xung khắc với ngày sinh tháng đẻ của ta.
Cánh cửa bằng vàng bằng ngọc đó đã hiện ra trước mắt, đầu của thượng thần ta lúc này có chút nhói đau.
Thần tiên trong đại điên đều mỏi mắt chờ khai yến, Dạ Hoa vừa lộ diện, họ bèn quỳ sụp xuống thành hai hàng, mở một lối đi ở giữa, đi thẳng tới vị trí của chủ nhân. Đợi ba người chúng ta an vị, hô vang một tiếng, rồi đều nhập tiệc. Bây giờ mới bắt đầu khai yến.
Vị thần tiên ngồi gần chúng ta đi qua mời rượu. Mời Dạ Hoa trước rồi mới đến mời ta, nói: “Thật may mắn lần này được diện kiến Tố Cẩm nương nương, đúng là vinh hạnh của tiểu thần…”.
Dạ Hoa ngồi bên cạnh nâng chén, nhưng bộ dạng như đang đùa giỡn. Cái vai mà ta phải sắm mới lúng túng ngại ngùng làm sao.
Đông Hải Thủy Quân mặt mày trắng bệch, cố ra hiệu cho vị thần tiên tự coi mình may mắn kia.
Ta thực sự không thể chịu được nữa, bèn cười hì hì với ông ta, nói rằng: “Tiểu tiên thực ra chỉ là muội muội bị lạc đã nhiều năm của Dạ Hoa Quân, nay làm việc ở chỗ thượng thần Chiết Nhan”.
Động tác uống rượu của Dạ Hoa khẽ khựng lại, rượu trong chén sánh ra ngoài mấy giọt.
Đông Hải Thủy Quân nhìn ta hoang mang.
Vị thần tiên đến dâng rượu đó lúc này trông như nuốt phải con nhặng chết, đứng cầm ly rượu đã rót đầy tiến không được mà thoái cũng chẳng xong, mãi hồi lâu mới lắp bắp: “Tiểu thần mắt kém, xin tự phạt một ly, tự phạt một ly”.
Ta cười hiền từ, đương nhiên chẳng coi là thật, cũng uống cùng ông ta một chén.
Phía dưới tiệc tùng nhộn nhịp, hồ ly ta vốn tai rất thính, trong tiếng đưa cốc chạm chén, đã loáng thoáng nghe thấy lời bàn tán: “Hôm nay chưa được gặp cô cô, đáng tiếc quá đi mất, nhưng lại được thấy tiên sứ này của thượng thần Chiết Nhan, cũng không đến nỗi ấm ức. Các vị xem, hôm nay cô cô không đến, liệu có phải là do biết Dạ Hoa Quân và Bắc Hải Thủy Quân cùng đến dự yến, vì thế…”.
Một người nói: “Lời này của tiên hữu không phải không có lý, lần này cô cô thất hẹn, thượng thần Chiết Nhan lại phái một tiên sứ đến dự yến, trong này chắc có ẩn tình chi đây. Các vị nên biết rằng, tính khí thượng thần Chiết Nhan cổ quái, lần này có lẽ trách Đông Hải Thủy Quân chưa bao giờ gửi thiếp cho ông ấy”.
Một người khác gật dù: “Có lý có lý, lạ là vị tiên sứ này của thượng thần Chiết Nhan lại là muội muội của Dạ Hoa”.
Lại có người nói: “Ta vẫn nghi ngờ vị tiên sứ này có thực là muội muội của Dạ Hoa Quân hay không? Ta đã nhậm chức ở Thiên Cung bao năm nay chưa từng nghe thấy Dạ Hoa Quân có muội muội”.
Lại một người nữa nói: “Vừa nãy tiên hữu chẳng nhìn thấy sao, Dạ Hoa Quân nắm tay tiên sứ đó thôi. Xem ra chuyện huynh muội cũng có vài phần đáng tin”.
Ta nghĩ, nếu lúc này Đông Hải Thủy Quân tuyên bố tiệc tan, thì đám thần tiên này sẽ vui tới mức khoa chân múa tay mất, sau đó sẽ tìm một nơi yên tĩnh thanh vắng để bàn tán sôi nổi một phen. Nhưng bây giờ họ lại phải khổ sở ngồi trên bục cao nhẫn nhịn, chỉ thi thoảng mới ghé tai thì thầm được một hai câu, hẳn là rất khó chịu, khổ sở biết bao.
Ta thở dài hai cái, rồi tự uống một chén. Không ngờ Dạ Hoa lại nhăn mày: “Tửu lượng nàng vẫn cao như thế, cẩn thận uống nhiều quá lại say”.
Ta cực kỳ coi thường, loại rượu này của Đông Hải Thủy Quân tuy cũng có thể coi là quỳnh tương ngọc dịch, nhưng nếu đem so với rượu do Chiết Nhan cất thì chẳng qua cũng chỉ là nước lã mà thôi. Cũng chẳng buồn đếm xỉa tới hắn ta, dù gì cũng chẳng còn thể diện, chỉ hận số phận bản thượng thần ta chẳng ra gì, hôn ước đã buộc ta và hắn thành một đôi.
Tiệc đến giữa chừng, ta cảm thấy tẻ nhạt vô cùng, chỉ muốn mau mau ăn xong bữa cơm này, để về động Hồ Ly đánh một giấc.
Đúng lúc đó, Đông Hải Thủy Quân vỗ tay ba cái “bộp bộp bộp”.
Ta cố gắng tỏ ra vui vẻ, thì nhìn thấy một bầy vũ nữ thướt tha bước vào điện, trên tay người nào người nấy đều cầm một chiếc quạt lụa, ăn mặc mát mẻ vô cùng. Trong lòng ta rất hiếu kỳ, lần này chẳng là mừng thọ Đông Hải Thủy Quân, chỉ là tiệc đầy tháng của một đứa trẻ sao còn cần ca vũ trợ hứng làm gì?
Tiếng nhạc dập dìu vang lên. Ta cứ việc với lấy bình rượu gần nhất.
Năm xưa có lần may mắn bị Quỷ Quân Kình Thương bắt trói đến cung Đại Tử Minh của hắn giam mấy ngày. Đám vũ nữ ca nương ở cung Đại Tử Minh, thanh lệ có, mà tao nhã có, diễm lệ ngời ngời cũng có. Bất đắc dĩ phải giả bộ ân cần với họ dăm ba ngày, trong cõi bốn bể tám cõi chẳng có vũ nữ nào có thể làm vừa lòng ta.
Liếc sang nhìn Dạ Hoa bên cạnh, hắn vẫn dửng dưng như không.
Cục bột nhỏ chợt than thở: “A, là vị tỷ tỷ này”.
Nhìn theo ánh mắt nó, ta nhìn về phía giữa điện, giữa bầy ca nương mặc áo trắng trông như những cánh sen trắng muốt là một thiếu nữ mặc áo vàng. Thoạt nhìn thì thiếu nữ đó không có điểm gì đặc biệt, nhưng nhìn dung mạo và dáng vẻ có vài phần giống với Đông Hải Thủy Quân.
Ta khó cưỡng được quay lại nhìn Đông Hải Thủy Quân mấy cái.
Đông Hải Thủy Quân ho một tiếng, bối rối cười nói: “Chính là xá muội”. Rồi lại tiến lên trước một bước đến bên cạnh cục bột nhỏ, “Tiểu thiên tôn biết xá muội ư?”.
Cục bột nhỏ nhìn ta một cái, ấp a ấp úng: “Có biết, có biết”. Rồi lại lập tức xua tay kiên định lập trường, “nhưng bản tiên tôn không quen nàng ấy”. Nói xong lại liếc trộm phụ quân nó một cái.
Vị xá muội đó của Đông Hải Thủy Quân lúc ấy đang ngước mắt ngóng nhìn Dạ Hoa Quân đang ngồi bên cạnh ta, ánh mắt tha thiết mà câm nín, bi thương lại xen lẫn vui mừng.
Dạ Hoa vẫn nâng ly rượu không hề cử động, chớp mắt lại biến thành một vị thần quân lạnh lùng như lần đầu ta gặp.
Đây chẳng phải giống như lời bài hát sao? Hoa rơi cố ý, nước chảy vô tình? Thiếu nữ đa sầu đa cảm gặp phải lang quân lạnh lùng, thiếp sẵn lòng làm dây leo quanh cây, cớ sao lòng chàng sắt đá, thiếp nào có tội tình gì?
Ta hài lòng gật đầu, vẫn là một màn kịch hay, tự mình rót một ly rượu. Đang lúc cao hứng nhất thì tiếng nhạc bỗng bặt thinh, vị xá muội đó của Đông Hải Thủy Quân hướng về phía Dạ Hoa lạy một cái, rồi cùng với đám vũ nữ nhẹ nhàng rút lui.
Dạ Hoa quay đầu sang nhìn ta, nửa cười nửa không: “Sao tiên sứ lại có vẻ thất vọng như vậy?”.
Ta sờ sờ lên da mặt, cười ha ha một tiếng: “Vậy sao?”.
Lại hơn một canh giờ trôi qua, vừa hay tiệc tan, ai về nơi của người ấy, Dạ Hoa lại đẩy cục bột nhỏ vào lòng ta: “A Ly do nàng chăm nom trước đã, ta đi chút việc rồi sẽ về”.
Thần tiên các lộ vừa hay chắp tay cáo biệt, còn một mình ta đứng ngơ ngác, hắn thì đến bóng cũng chẳng thấy tăm hơi.
Sự tỉnh táo do bị mấy chuyện phiền phức này ép trong suốt mấy canh giờ đột nhiên tắt ngóm, ngực ta toát mồ hôi lạnh, hắn không phải tính toán đến mấy lời nói với cục bột nhỏ của ta chứ, chẳng nhẽ thực sự kéo ta lên Thiên Cung sao?
Nghĩ đến đây, cục bột nhỏ mềm mềm trong tay ta ngay lập tức biến thành một củ khoai lang nóng phỏng tay.
Ta vội vội vàng vàng chạy ra đại điện. Lúc này đây, mau mau tìm ra cha của cục bột nhỏ để đem trả lại nó mới là việc làm đúng đắn nhất.
Hỏi mấy tùy tùng, nhưng chẳng một ai nhìn thấy Dạ Hoa Quân. Ta chỉ còn cách rẽ mấy khúc quành, hỏi xem xá muội của Đông Hải Thủy Quân nay đã bay về chốn nào.
Dáng vẻ vội vàng ban nãy của Dạ Hoa, giữa sự thờ ơ ẩn hiện sự thân thiết, giữa sự xa cách hàm chứa sự thân tình, với thần thái ấy, dựa theo kinh nghiệm trăng gió mà ta đã từng thấy suốt mười mấy vạn năm qua, thì chắc chắn là đi gặp giai nhân rồi.
Một tiểu tùy tùng chỉ về phía xa xa, đó là hướng hậu hoa viên của Thủy Tinh cung Đông Hải.
Ta kéo cục bột nhỏ đứng ở cửa hoa viên, hết sức sụt sùi.
Nên biết rằng bản thượng thần tuổi tuy đã cao, nhưng thực ra lại chẳng có cảm giác gì về phương hướng, đi vào thì dễ, nhưng lại không biết có thể ra hay không, nên tốt nhất là đứng ở cổng chờ.
Cục bột nhỏ lại không chịu, giơ nắm đấm nhỏ làm bộ dạng hung hãn: “Mẫu thân không chịu đi vào chia uyên rẽ thúy, phụ quân sẽ bị cái cô công chúa Mậu Thanh đó cướp mất đấy”. Rồi lại ôm trán làm bộ đau khổ: “Tự cổ chí kim hậu hoa viên chính là nơi thị phi, tại nơi đây biết bao tài tử đã bị giai nhân mê hoặc đến nỗi bỏ lỡ tiền đồ, chịu khổ cả đời”.
Ta choáng váng trong chốc lát, rồi lắp bắp hỏi nó: “Cái, cái, cái này là ai dạy ngươi?”.
Cục bột nhỏ ngây ra: “Ba trăm năm trước, một ngày nọ có một tiểu tiên mới thăng thiên tên là Thành Ngọc, Thiên Quân tổ gia gia phong cho hắn hiệu là Nguyên Quân, chính là do hắn nói cho con”.
Ngừng lại một lát, vò mái đầu, nó hoang mang hỏi tiếp: “Lẽ nào không phải như thế?”.
Ta thầm nghĩ trong giây lát, cảm thấy những lời vị Thành Ngọc Nguyên Quân này nói thực sự chẳng sai, một người giỏi như vậy, sau này nhất định phải kết giao mới được.
Cục bột nhỏ dứt khoát kéo tay áo ta, bướng bỉnh lôi ta đi vào trong vườn hoa.
Nó nhỏ bé là vậy mà ta cũng không phản kháng nổi, chỉ đành khuyên bảo: “Phụ quân con thanh xuân tráng kiện, còn Mậu Thanh kia, công chúa Mậu Thanh kia cũng là thiếu nữ đương thì, trai gái đương xuân nhớ nhung nhau cũng là lẽ thường tình, hai người họ đã kết uyên ương, ta và con lại muốn đi chia uyên rẽ thúy, vô duyên vô cớ phá vỡ nhân duyên của người ta, thực sự là tạo nghiệt. Con và công chúa Mậu Thanh đó cũng không phải là thâm thù đại hận không thể hóa giải, cớ sao phải phá hoại nhân duyên của nàng ấy mới cam lòng?”.
Có lẽ câu sau cùng của ta quá nặng nề, cục bột nhỏ miệng liền méo xệch, ta vội vàng an ủi nó, nào là thơm, nào là ôm, nó mới bình tĩnh lại, nghẹn giọng nói: “Nàng ta tuy từng cứu con một lần, nhưng con cũng đã cảm tạ nàng ta tử tế, thế mà nàng ta lại tự cho rằng từ đó về sau đã có vị trí khác trước mặt phụ quân, mỗi lần phụ quân dẫn con đến tiểu trang của mẫu thân ở núi Tuấn Tật, nàng ta lại đến đó quấy nhiễu, thật là đáng ghét!”.
Ta không nhịn nổi bèn dạy dỗ nó hai câu: “Ơn cứu mạng sâu như bể, chỉ nói một câu cảm ơn là xong sao?”.
Nếu như nói một câu cảm tạ mà có thể an lòng thì nay ta đã tiêu dao không biết bao lần, chỉ cần nhớ đến tình cảm hòa hợp viên mãn khi ta và người ấy làm thầy trò, hẳn sẽ không nhiều tiếc nuối như thế này.
Cục bột nhỏ tự kiểm điểm trong giây lát ngắn ngủi, rồi lại lập tức giậm chân, nói: “Nàng ta không chịu an phận, rõ ràng biết phụ quân đã có thê thất mà lại cứ bám lấy phụ quân. Nàng ta ở phòng của mẫu thân, dùng đồ nấu bếp của mẫu thân, còn đến cướp phu quân của mẫu thân”.
|
Ta nhìn lên trời xanh, chợt nghĩ đến khuôn mặt giống Mặc Uyên như in như tạc của Dạ Hoa, trong lòng cảm khái vô cùng.
Điều này cũng chẳng trách nổi nàng Mậu Thanh đó, bản thượng thần nhìn khuôn mặt ấy đã mấy vạn năm, đến nay mới có thể giữ nghiêm được. Một cô gái bình thường mà có thể nghiêm túc giữ đúng thân phận trước khuôn mặt đó, thực sự là có chút khó khăn. Còn như núi Tuấn Tật ở Đông Hoang trở thành tài sản của Tố Cẩm từ lúc nào thì ta cũng có đôi chút nghi hoặc, bèn hỏi một câu, cục bột nhỏ liền nói tất tần tật ra.
Nó nói năng lung tung lộn xộn, ta nghe câu được câu chăng nhưng cũng hiểu được đại khái.
Hóa ra mẫu thân của cục bột nhỏ này không phải là thứ phi Tố Cẩm của Dạ Hoa Quân, mà lại là một người phàm trần. Đến nay trong tẩm điện của cục bột nhỏ vẫn còn treo bức họa của người đó, áo xanh, dải lụa trắng băng ngang mặt, chính là hình dáng của ta lúc này. Ba trăm năm trước, không biết vì duyên cớ gì, người phàm trần đó sinh hạ ra cục bột nhỏ rồi gieo mình xuống Tru Tiên đài. Ta đã từng nghe qua về Tru Tiên đài đó, thần tiên nhảy xuống thì mất sạch tu vi, người phàm nhảy xuống thì chắc chắn là ba hồn bảy phách tiêu tan bằng sạch.
Cục bột nhỏ chưa hề biết đến điều này.
Người phàm trần đó trước khi lên Thiên Cung đã từng sống ở núi Tuấn Tật. Dạ Hoa Quân phong ấn lại căn nhà năm xưa nàng ấy từng ở trên núi, mỗi năm đều dẫn cục bột nhỏ đến ở đó mười ngày nửa tháng.
Ta thực sự bội phục sự can đảm của Dạ Hoa Quân, những chuyện xưa ân oán tình thù chốn cung đình lại không giấu cục bột nhỏ dù một chút, chẳng nhẽ hắn không sợ tạo nên bóng đen tâm lý cho con trai hay sao?
Một ngày vào hơn một trăm năm trước, một mình cục bột nhỏ đang bắt thỏ chơi trong khu rừng trên núi, linh khí của nó đã dẫn dụ một con yêu xà. Con yêu xà chỉ biết đó là đạo đồng của một nhà nào đó, muốn dùng tiên khí hộ thân của cục bột nhỏ để tẩm bổ, chuẩn bị ăn nó. May mà công chúa Đông Hải là Mậu Thanh dự hội Đạp Thanh trên núi Tuấn Tật bắt gặp nên đã cứu nó, theo sự chỉ dẫn của nó đã đưa nó về căn nhà nhỏ trên núi. Căn nhà đó vì đã bị phong ấn, nên người ngoài không nhìn thấy được, nhưng cục bột nhỏ vì cảm cái ơn cứu mạng của ân nhân là công chúa Mậu Thanh, nên đã để lộ thân phận, dẫn nàng ấy vào nhà uống trà. Uống trà xong, khi công chúa Mậu Thanh chuẩn bị cáo từ thì đột nhiên Dạ Hoa Quân trở về, trong khoảnh khắc ấy, nàng công chúa Mậu Thanh đã trúng phải tiếng sét ái tình với Dạ Hoa Quân. Dạ Hoa không muốn nợ ân tình với công chúa Đông Hải, bèn cho nàng công chúa này một ước nguyện. Một trăm mười mấy năm nay, Mậu Thanh dường như luôn trú tại Tuấn Tật ở Đông Hoang, hễ cha con Dạ Hoa đến, nàng ta bèn giặt quần áo, nấu cơm, làm bánh cho hai người. Một công chúa lại chịu làm những công việc của nô bộc, Dạ Hoa cảm thấy không ổn, nhưng nàng công chúa ấy lại im lặng cúi đầu, dáng vẻ xấu hổ vô cùng: “Đây chính là tâm nguyện của thiếp, xin quân thượng tác thành cho thiếp”. Dạ Hoa cũng không còn cách nào khác, chỉ có thể để mặc nàng ta.
Đương nhiên ở trên chỉ là những lời kể phiến diện của cục bột nhỏ. Xem ra Dạ Hoa Quân cũng là một kẻ đa tình, rất khó nói là chưa từng động lòng trước một người thấu hiểu lòng người như công chúa Đông Hải.
Bất giác ta cảm thấy trống rỗng, Dạ Hoa sống tới giờ cũng chưa đến năm vạn tuổi mà đã gây nhiều nợ tình đến vậy, thực là một nhân tài.
Khi bản thượng thần năm vạn tuổi thì vẫn đang còn làm gì?
Thần sắc cục bột nhỏ hết sức phức tạp, nhìn ta muốn nói gì đó rồi lại thôi.
Ta nghiêm nghị nói: “Là đàn ông thì không được tỏ ra ấp a ấp úng, hễ không chú ý là co rúm lại như thế, có gì muốn nói cứ thoải mái mà nói ra đi”.
Nó nước mắt vòng quanh chỉ chỉ vào ta: “Dáng vẻ hờ hững của mẫu thân, liệu có phải là trong lòng đã có người khác, không cần A Ly và phụ quân nữa không?”.
Ta sững người câm nín. Tuy Dạ Hoa và ta đã có hôn ước, nhưng chẳng qua mới chỉ là lần đầu quen biết, thực sự khó mà nói là hờ hững hay không hờ hững”.
Cục bột nhỏ lại lùi về phía sau hai bước, tay bưng mặt, điệu bộ bi thương, nói: “Cha sắp lấy mẹ kế, mẹ sắp lấy dượng, thân phận A Ly quả thực đúng với tên gọi, quả nhiên chẳng được nếm trải cảnh đoàn viên, sẽ phải một mình cô độc, cha mẹ đều không cần A Ly, A Ly đành sống một mình mà thôi”.
Ta bị tiếng gào khóc của nó làm cho kinh hãi tâm can.
Mẫu thân của nó năm nào đã vứt lại con trai, gieo mình xuống Tru Tiên đài, nó tuy tuổi còn nhỏ nhưng tất nhiên trong lòng sẽ chất chứa những tâm tư như thế. Bây giờ kết vào tim phổi, e là sẽ không tốt.
Ta vội vàng tươi cười ôm lấy nó: “Ta đã là mẫu thân của con thì tuyệt đối sẽ không bỏ con”.
Nó lại trách móc ta: “Nhưng người không cần phụ quân. Người không cần phụ quân, mà phụ quân lại sắp lấy cô Mậu Thanh đó, phụ quân mà lấy cô Mậu Thanh đó thì sẽ sinh ra một đứa con khác rồi sẽ không cần A Ly nữa”. Nói đoạn nước mắt lại tuôn như mưa.
Ta thấy thật đau đầu, để không làm nó thất vọng chỉ còn cách giả bộ ngọt ngào, cắn răng cắn lợi mà nói với nó rằng: “Phụ quân của con là tim là gan của ta, là mật ngọt bảo bối của ta, sao ta có thể rời xa người ấy”.
Nói xong tự mình cũng thấy phát run.
Cục bột nhỏ cực kỳ hài lòng, ôm lấy chân ta tiếp tục lôi ta đi vào trong hoa viên.
Ta chẳng còn cách nào, đành để cho nó lôi đi, lòng thầm mong Dạ Hoa Quân lần này đừng có trong hoa viên, ta đỡ phải diễn trò chia uyên rẽ thúy.
Còn nếu như không may, bản thượng thần đã sớm biết lần này hắn đi gặp gỡ giai nhân, Dạ Hoa Quân kia, hôm nay ta phá hoại nhân duyên của ngươi thì chẳng qua cũng chỉ muốn con trai ngươi được vui vẻ, ngươi chớ nên trách ta.
Đi vòng qua cổng chào đã thấy trong mái đình tinh xảo phía không xa, một người đàn ông mặc áo bào đen tuyền, im lặng khoanh tay đứng, đó chính là Dạ Hoa. Thiếu nữ áo vàng ngồi bên cạnh cũng chính là công chúa Mậu Thanh.
Bản thượng thần đâu có đoán nhầm, hắn quả nhiên là tới đây gặp giai nhân.
Cục bột nhỏ giật giật tay áo ta: “Mẫu thân, người mau ra sân đi”.
Nó háo hức muốn diễn kịch đây. Đầu ta tê buốt, suy nghĩ xem phải khai màn như thế nào mới hay.
Trong những người ta quen thì chỉ có đại ca Bạch Huyền là người có nhiều nợ hoa đào nhất.
Mỗi lần đại tẩu xử lý những đóa hoa đào đó của đại ca đều dùng thủ đoạn gì nhỉ?
Ta cố nhớ lại một lượt.
Đầu tiên là ánh mắt, ánh mắt phải thật lạnh lùng, dò xét đóa hoa đào đó từ trên xuống dưới, nhìn mỹ nhân như nhìn một cây cải thảo.
Tiếp đó là giọng nói, giọng nói phải lấp lửng, đối với chủ sự phải nói câu này: “Người lần này ta thấy rất tốt, nếu như phu quân thực sự thích thì sẽ thu nhận nàng ta, ta cũng có thêm một muội muội nữa”.
Đó đều là lấy lùi để tiến.
Đại ca tuy nhiều lần “gặp dịp góp vui”(*) nhưng đối với đại tẩu thì vẫn một lòng không đổi, không thể không có đại tẩu, nên chiêu này vô cùng hiệu nghiệm. So sánh như thế, tình cảnh của ta và đại tẩu lại có chút khác biệt.
(*) Ý chỉ gặp ai có tình ý với mình thì vẫn đáp lại (ND).
Ta đắn đo hồi lâu, cục bột nhỏ đã vội vàng bước lên mấy bước, quỳ xuống trước mặt phụ quân nó, nói: “Hài nhi bái kiến phụ quân”.
Dạ Hoa khẽ nheo mắt, lướt qua cục bột nhỏ rồi nhìn thẳng vào ta.
Ta chỉ còn cách mặt dày bước tới, thi lễ qua loa rồi kéo cục bột nhỏ từ dưới đất đứng dậy, phủi phủi bụi bám trên đầu gối nó, lại ôm lấy nó tìm chỗ ngồi xuống cạnh mỹ nhân.
Ánh mắt của Dạ Hoa phía sau lưng ta thật dữ dội khiến toàn bộ động tác của ta trở nên ngượng ngập, khó coi.
Công chúa Mậu Thanh đó chủ động lên tiếng: “Tỷ tỷ là…”.
Ta cố gắng làm ra vẻ “ngoài cười nụ trong khóc thầm”, xoa xoa khuôn mặt của cục bột nhỏ: “Đứa trẻ này gọi ta là mẫu thân”.
Nàng ta dường như bị sét đánh trúng.
Trong lòng ta vô cùng xấu hổ. Công chúa Mậu Thanh này dáng dấp cũng không đến nỗi, tuy còn kém xa công chúa Lục Tụ của Nam Hải nhưng cũng có thể coi là một mỹ nhân. Nàng ấy với ta không thù không oán, lần này ta làm vậy thực là không phải đạo.
Lòng ta hết sức xót thương nhưng ngoài mặt vẫn phải diễn hết vai này, tiếp tục “ngoài cười nụ trong khóc thầm” nói: “Quang cảnh hiện giờ mây đen ngợp trời, tiếng gió hắt hiu, thật khiến người ta không khỏi nảy sinh thi hứng. Muội muội nói xem có phải như thế không?”.
Còn Dạ Hoa thì dứt khoát khoanh tay dựa cột đình đứng bên cạnh nghe ta nói hươu nói vượn.
Cục bột nhỏ chẳng hiểu gì hết, cứ đờ đẫn quay đầu sang nhìn ta. Ta cụng đầu vào trán nó cười nói: “Trời cao xanh xanh, đồng nội mênh mang, một cành hồng hạnh muốn vượt tường”. Rồi lại nhìn công chúa Mậu Thanh, nói: “Muội muội, có đúng với cảnh này không?”.
Nàng ta cũng ngây ra, phút chốc hai hàng lệ nóng hổi từ khóe mắt trào ra, “phịch” một tiếng đã quỳ xuống trước mặt ta: “Nương nương bớt giận, Mậu Thanh, Mậu Thanh không biết là nương nương phượng giá, Mậu Thanh vạn lần chẳng dám làm muội muội của nương nương. Mậu Thanh chỉ là thầm ngưỡng mộ quân thượng, chứ không hề dám mong mỏi quân thượng ban cho Mậu Thanh điều chi. Lần này huynh trưởng sắp gả Mậu Thanh cho Tây Hải, nhị vương tử của Tây Hải đó lại là, lại là con nhà quyền quý nhưng hư hỏng. Vì ngày thành hôn đến gần, Mậu Thanh chẳng còn cách nào khác, biết được quân thượng mang theo tiểu thiên tôn đến Đông Hải dự tiệc, nên mới bày ra hạ sách ca múa để được gặp mặt. Mậu Thanh chỉ nguyện đời đời kiếp kiếp được làm nữ tỳ theo hầu quân thượng, tuyệt đối không có ý khác, xin nương nương tác thành cho”.
Hóa ra là như vậy, thương tâm biết bao, làm lay động lòng người biết bao, ta cơ hồ nước mắt tuôn rơi lã chã. Vốn nghĩ rằng Thiên Cung rộng lớn như thế, nên để cho nàng ta một góc nào đây, rồi lại nghĩ đây thực ra vẫn là chuyện nhà của Dạ Hoa Quân. Nếu nàng ta không phải một tấm tình sâu nghĩa nặng chẳng thẹn với trời đất như thế thì đòn hờn ghen này của ta sẽ chẳng ngại ngần mà giáng xuống. Còn giờ đây thực sự là chẳng thể làm nổi. Chuyện tình yêu vốn chẳng thể viện tới đạo đức, đúng sai mà phân định, cục bột nhỏ vẫn còn bé thơ, sau này có thể dốc lòng dạy bảo chứ ta quyết không thể giúp vua Trụ làm điều bạo ngược như thế này. Nghĩ đến đây bèn không kìm nổi thở dài một tiếng, ôm lấy cục bột nhỏ toan bỏ đi.
Cục bột nhỏ ra vẻ ấm ức níu chặt lấy mỹ nhân, nói: “Mẫu thân, người vừa mới nói phụ quân là tâm can của người, là mật ngọt bảo bối của lòng người. Người khác đến cướp phụ quân, người lại để mặc nàng ta cướp đi, người nói lời mà không giữ lấy lời”.
Ta tự gây phiền phức, choáng váng vô cùng.
Dạ Hoa nửa cười nửa không, tiến lên phía trước chặn đường đi của ta, nắm lấy một lọn tóc của ta, từ tốn nói: “Ta là tâm can của nàng?”.
Ta cười khan hai tiếng ha ha, lùi lại phía sau một bước.
Hắn lại bước tới gần một bước: “Ta là bảo bối của nàng?”.
Ta cười càng khô khốc hơn, lại lùi ra sau hai bước.
Hắn dứt khoát dồn ta kẹt cứng trong một góc đình: “Mật ngọt bảo bối của nàng?”.
Lần này đến cười khan ta cũng không cười nổi, khóe miệng đắng ngắt, bản thượng thần lần này tạo nên oan nghiệt gì đây?
Ta nhắm chặt mắt lòng cương quyết: “Ngại chết đi được, chàng chẳng phải sớm biết rồi sao, sao lại lừa người ta phải nói ra, đúng là xấu chết đi được”.
Cục bột trong lòng ta khẽ rung rung, Dạ Hoa phía trước cũng khẽ rung rung.
Nhân lúc bọn họ còn đang đờ đẫn ta đẩy cục bột nhỏ về phía mỹ nhân rồi vứt bỏ lớp áo giáp, lủi đi thật mau.
Bản thượng thần lần này thực quá khổ sở.
|
Chương 5:
Cung Đại Tử Minh có rất nhiều hoa cỏ lạ
Vì đánh mất nhành cây Mê Cốc, lại thêm đêm càng lúc càng đen, có thể đi ra khỏi Đông Hải đã là may lắm rồi, vì thế, ta chỉ mong ngóng trời sáng để còn gấp rút về Thanh Khâu.
Nhưng Đông Hải bốn bề là những con đường nước. Từ khi chào đời đến giờ, khi vẫn còn là một con hồ ly, ta đã sống trên mặt đất, bây giờ nhìn bốn con đường này đều thấy giống hệt nhau, không có gì khác biệt. Vì thế lên khỏi mặt nước ta mới phát hiện mình đã nhầm phương hướng, đã nhầm con đường phía bắc thành phía đông.
Giờ trước mắt trăng sáng vằng vặc treo giữa bầu trời. Ta ngồi trên một tảng đá ngầm ở bờ bắc của Đông Hải, thực sự có chút buồn bực.
Đi ngược về đường cũ, từ Đông Hải bơi về cố nhiên không khó, nhưng nếu lại gặp phải Dạ Hoa Quân, xét về mặt thể diện thì thực không hay lắm. Đêm nay cũng chỉ có thể ngồi ở bờ bắc này mà qua một đêm, sớm ngày mai sẽ tính sau.
Chốn nhân gian vào tháng tư hoa cỏ thơm đã hết, ban ngày vẫn ấm áp, nhưng ban đêm lại vô cùng lạnh lẽo. Xiêm y mặc trên người rất mỏng manh, hơi trắng từ biển bốc lên nghi ngút khiến ta liên tục hắt hơi, cuối cùng vẫn nhảy khỏi tảng đá, cắm đầu chạy thẳng vào khu rừng bên cạnh.
Khu rừng này không bì được với khu rừng chỗ Chiết Nhan. Cây cối cao vút mà chập chùng, xòe từng tầng, từng tầng lá, chắn gió rất tốt. Đã chắn gió rất tốt thì chắn sáng tự nhiên cũng không tồi. Tuy là vầng trăng giữa trời đang tỏa sáng nhưng giữa rừng, giơ bàn tay lên vẫn chẳng nhìn thấy năm ngón. Ta gỡ dải lụa trắng băng mắt xuống, nhìn kỹ cảnh vật, rồi lấy từ ống tay áo ra một viên dạ minh châu to bằng quả trứng bồ câu, định bụng tìm một chạc cây nằm qua một đêm trên đó.
Khu rừng này thực sự quá hỗn độn, tuy cũng là loài thú chạy, lại có dạ minh châu chiếu sáng, nhưng đôi mắt này của ta lại chẳng bằng đồng loại. Loạng choạng đi tới ngã ba, ta đã vô ý rơi vào một cái động lớn dưới chân.
Tứ ca cùng với Chiết Nhan viết sách, đã thu thập không ít câu chuyện hoang đường trong cõi bốn bể tám cõi.
Có lần nghe nói trong chúng tiên ở Đông Hoang có một ngọn núi cô độc tên là Diễm Không, dưới chân núi có dựng một cái cổng chào, dưới cổng chào có một cái động không đáy, ở đó có một yêu nghiệt xinh đẹp sinh sống. Yêu nghiệt đó tuy rằng xinh đẹp tuyệt vời nhưng cũng là một yêu tinh tốt, có điều lại yêu một người phàm trần tu chân, mà người đó lại một lòng muốn thành tiên, rốt cuộc làm chuyện bại hoại, sau này đã làm hủy hoại đạo hạnh tu hành, cũng liên lụy tới tính mạng của tất cả mọi người trên núi, cũng coi như là một bài học.
Còn bây giờ cái động lớn mà ta lọt xuống tuy có hơi sâu, nhưng quyết không thể coi là động không đáy ở núi Diễm Không đó. Nhưng cho dù như thế, dưới động cũng chưa chắc đã có một yêu nghiệt xinh đẹp mà si tình sinh sống. Nếu như có thể gặp thì cứ gặp, ta sẽ điểm hóa cho nàng ta, tặng cho tứ ca, để trông nom vật cưỡi của huynh ấy tên là Tất Phương điểu, cũng coi như ra khỏi Thanh Khâu lại làm được một chuyến thiện duyên.
Nghĩ đến đó, ta cũng an lòng mà mạnh dạn đi xuống phía dưới động. Mới đầu thực sự có chút khó chịu, ngã xuống đến nửa giờ vẫn không thể lấy lại được tư thế thăng bằng, coi như là ngã rất có trật tự.
Nửa tuần hương trôi đi, hai chân ta cũng coi như đã chạm đất thực.
Cảnh vật trước mắt trở nên rõ ràng rộng mở. Trên vòm trời tạo ra bằng pháp thuật là trăng sao sáng vằng vặc, phía dưới là một dòng suối chảy róc rách, trên nước còn dựng một tòa thảo đình, so với động Hồ Ly của cha mẹ ta nơi đây có phần rộng rãi hơn một chút.
Trong tòa thảo đình kia có một đôi nam nữ đang diễn trò uyên ương đạp nhau.
Ta vốn muốn tìm một yêu nghiệt còn chưa làm điều ác để điểm hóa, nào ngờ lại bắt gặp cảnh người ta vui thú khuê phòng, thực sự xấu hổ chết đi được.
Người đàn ông đó vì quay lưng về phía ta nên ta không nhìn rõ tướng mạo. Nửa khuôn mặt của người con gái đang vùi trong bờ vai của người đàn ông, mày mắt cũng khá được, chỉ là nhìn thấy ta từ trong động tối om rơi xuống, khó tránh khỏi có chút hoảng hốt.
Ta mỉm cười thân thiện với nàng ta để trấn an. Nàng ta lại trừng mắt nhìn ta, khiến ta cảm thấy ngại ngùng. Vì hai người họ là một đôi ôm ôm ấp ấp, người đàn ông đó có lẽ cảm nhận được sự khác thường liền quay đầu lại nhìn.
Cách một nửa hồ nước lớn, ánh mắt đó lại khiến ta có cảm giác như giữa trời mùa hạ nóng nực lại đi đốt mỡ lợn nóng bỏng tay, vừa ngấy lại vừa kinh.
Một số chuyện đã nhiều năm nay cố ý quên đi, lúc này lại lũ lượt tràn về.
Hai hàng lông mày hắn ta nhíu chặt lại, nhìn chằm chằm vào ta, hồi lâu mới nói: “A Âm”.
Ta cụp mắt xuống, nghiêm túc nói: “Hóa ra là Ly Kính Quỷ Quân, lão thân và Quỷ Quân sớm đã ân đoạn nghĩa tuyệt, hai chữ A Âm thực sự không nên, vẫn là cảm phiền Quỷ Quân gọi ta bằng cái danh hão lão thân đi”.
Hắn ta im lặng, còn người con gái trong lòng run lên hai cái.
Ta thực sự không kiên nhẫn nổi. Nhưng mấy năm gần đây đám thần tiên hậu bối và quỷ tộc cư xử cũng không tồi, không thể vì ân oán của riêng ta mà hủy hoại tình hữu nghị khó khăn lắm mới xây dựng được. Suy nghĩ rất lung như vậy, sắc mặt tuyệt đối không thể làm ra vẻ lạnh lùng được.
Hắn thở dài: “A Âm, nàng trốn ta đã bảy vạn năm, nay vẫn định trốn tiếp ư?”. Lời lẽ hết sức chân thành, dường như không được gặp ta thì thật hối tiếc, thực khiến cho người ta sụt sùi thương cảm.
Ta rất tò mò, rõ ràng quan hệ của chúng ta đã là cá chết lưới rách đến mức gặp nhau chẳng thà đừng gặp, vậy sao hắn có thể nói ra những lời như thể tri kỷ của nhau vậy?
Lại thêm nói ta trốn hắn, đúng là oan tày trời, tuy rằng nói thời gian sống quá dài thì cũng khó mà quên được. Ta day day huyệt Thái Dương nhớ lại một hồi những chuyện xưa, nhưng vẫn cảm thấy, bảy vạn năm nay ta với hắn chưa từng gặp mặt, tuyệt đối không phải là ta chủ tâm trốn hắn, mà là duyên phận chưa tới mà thôi.
Bảy vạn năm nói dài cũng không dài, nói ngắn cũng chẳng ngắn, Đông Hoang đã xảy ra chuyện bãi bể biến nương dâu tới hơn hai chục lần là hết cỡ.
Một ngày nào đó bảy vạn năm trước, tiền Quỷ Quân là Kình Thương ra ngoài săn bắn, ưng ý cửu sư huynh Lệnh Vũ bèn trói lại đem về cung Đại Tử Minh, định lập làm nam hậu. Vì khi đó ta ở cùng với Lệnh Vũ nên cũng nhân tiện bị trói đi.
Khi ta năm vạn tuổi đã bái Mặc Uyên học nghệ. Mặc Uyên không thu nhận nữ đệ tử, mẹ ta phải dùng pháp thuật biến ta thành đàn ông, và lấy bừa một cái tên là Tư Âm(*).
(*) Chữ Tư khi dùng với nghĩa là chức quan chủ quan một nơi, đơn vị thì đọc là Ti, còn khi dùng làm tên người, chỉ người thì đọc là Tư (ND).
Khi đó, ai ai cũng biết Mặc Uyên có đồ đệ thứ mười bảy là Tư Âm, là một vị thần quân dùng một chiếc quạt lụa làm pháp khí, là tiểu đồ đệ được thượng thần Mặc Uyên yêu quý nhất. Tuyệt đối chẳng có ai dám nghi ngờ Tư Âm này vốn là một nữ thần quân.
Ta và Lệnh Vũ tuy cùng bị bắt trói, nhưng vì ta chỉ là tiện thể bị bắt nên tự nhiên cũng được thả lỏng một chút. Vì thế ngoài cơm ba bữa ra, còn được đi lại xung quanh, chỉ cần không ra khỏi cung Đại Tử Minh là được.
Sau này mỗi khi ta nhớ lại, bữa cơm trưa vào ngày thứ ba ở cung Đại Tử Minh lúc đó, có lẽ là mình không nên ăn bát thịt kho đó. Nếu như ta không ăn bát thịt kho đó thì ngày nay bốn bể tám cõi chắc gì đã có chuyện này.
Khi đó, vốn ta đã dùng xong bữa trưa, nhà bếp lại mang lên một bát thịt kho định mệnh đó, nói là buổi sáng Kình Thương săn được một con lợn rừng, cắt ra một cái chân giò lớn, nấu lấy hai bát, một bát đưa sang bên Lệnh Vũ, một bát thì nhân thể ban cho ta. Ta nhìn thấy bát thịt mềm thơm, màu sắc bắt mắt, bèn khách sáo ăn hết cả bát.
Nên biết rằng trước đó ta đã ăn hết bữa trưa, bát thịt kho này coi như là bữa phụ. Cho nên sau khi ăn theo lệ là đi dạo, bèn không thể thiếu đi bộ nhiều hơn bình thường hai bước. Chính là hai bước đi thêm này đã khiến ta lần đầu gặp hoàng tử Ly Kính, tự nhiên thay đổi vận mệnh của bản thân.
Có câu “Đê dài ngàn dặm, sụt ở tổ mối”, cũng có câu “Vụ huyết án có nguồn cơn từ một cái bánh bao”, cho nên một bát thịt kho đã đưa đường đời ta đến chỗ gồ ghề mấp mô không gì bì được, cũng như đó chẳng phải là chuyện hoang đường. Nay nếu quay đầu nhìn lại, bản thượng thần khó tránh khỏi thở dài cảm khái một tiếng, đau lòng vô hạn.
Ta vẫn nhớ ngày hôm đó trời trong xanh lộng gió, vầng thái dương chiếu sáng xa xa, xuyên qua làn mây mù màu trắng xám bao vây, cung Đại Tử Minh giống như một quả trứng bồ câu treo lơ lửng giữa bầu trời.
Một cung nga bầu bạn nói với ta rằng, trong ngự hoa viên có một cây sen Hàn Nguyệt rất hiếm có, bây giờ đương lúc nở hoa, thần quân nếu như vẫn cảm thấy chướng bụng khó tiêu thì có thể đi qua đó xem xem. Rồi lại chỉ đường cho ta.
Ta phe phẩy chiếc quạt lụa suốt dọc đường đi, oanh yến ríu rít, hoa thắm liễu xanh. Vì khả năng nhận biết đường đi rất kém, hồi lâu ta vẫn chưa tìm thấy đóa sen hiếm có đó. May mà trong ngự hoa viên này tuy là nước nông núi giả, nhưng để tâm thưởng ngoạn thì cũng khá thú vị.
Ta đang vui vẻ thì đột nhiên có một chàng thiếu niên từ đâu nhảy ra, vạt áo buông lơi, mái tóc thả xõa, ánh mắt mơ màng, trên vai còn dính vài cánh hoa. Tuy điệu bộ giống như vừa ngủ dậy nhưng chẳng giấu nổi phong thái khuynh quốc khuynh thành.
Ta đoán rằng có lẽ đây là một vị phu nhân của tên Quỷ Quân đoạn tụ kia, bèn gật đầu qua loa với hắn một cái. Hắn ngây ra, cũng không đáp lễ, thần trí hình như vẫn chưa tỉnh táo. Ta cũng không thèm so đo với kẻ còn ngái ngủ, thi lễ xong liền tiếp tục dạo quanh vườn. Lúc đi ngang qua hắn, hắn lại kéo tay áo của ta, thần sắc trịnh trọng mà nghi hoặc: “Màu sắc chiếc áo của ngươi rất kỳ lạ, nhưng nhìn cũng rất đẹp, may ở đâu đó?”.
Ta nhất thời không phản ứng lại được, mắt đờ ra nhìn hắn, không thốt nổi lên lời.
Chiếc áo này màu tím bạc, vì mấy ngày rồi toàn ngày mặc đêm giặt nên màu sắc cũng nhạt đi đôi chút so với khi mới khoác lên mình, nhưng vẫn có thể chấp nhận được, thực sự cũng đâu được coi là kỳ lạ gì. Trước khi Kình Thương trói ta và Lệnh Vũ lại cũng chưa từng chào hỏi qua, coi như là sự kiện đột ngột phát sinh, ta cũng không kịp chuẩn bị áo xống để mặc thay, vào cung Đại Tử Minh này, trước sau chỉ có mỗi một bộ này. Quần áo mà bọn họ chuẩn bị cho ta mặc không quen, nên đành phải chăm giặt giũ một chút.
Thiếu niên trước mặt xoay ta một vòng dò xét, thành khẩn nói: “Ta chưa bao giờ nhìn thấy thứ gì có màu này, đang buồn bực vì chưa tìm được thứ gì thích hợp làm quà mừng chúc thọ phụ vương, đây đúng là một của hiếm. Tiểu huynh đệ coi như vị nể nhân tình, đổi cho ta bộ này nhé”. Nói xong bèn tóm lấy ta, làn da trắng tựa tuyết thoáng ửng hồng, vừa ngại ngùng vừa nhanh nhẹn lột áo của ta ra.
Tuy đã hóa thành hình dáng của đàn ông nhưng rốt cuộc thì ta vẫn là một nữ thần trong trắng thơ ngây. Gặp phải chuyện này, theo như truyền thống, nếu bất lực thì cũng phải phản kháng một phen.
Lúc đó, hai người chúng ta đang đứng bên cạnh đầm sen, gió lành đưa tới mùi hương hoa thơm ngát khiến người ta cảm thấy thư thái.
Lúc giằng co, tuy ta chưa dùng tới pháp thuật, chỉ dùng tay trần giằng qua kéo lại, đã đẩy cả hai người cùng tơi xuống đầm sen. Tai của quỷ tộc rất thính, vừa nghe thấy tiếng rơi tõm xuống nước bao người đã tới xem vui. Chuyện này quả thực mất mặt, hắn giơ tay ra hiệu với ta, ta ngầm đoán ý hắn là đừng có lên trên, bèn gật gật đầu, cùng hắn dựa lưng quỳ dưới nước.
Bọn ta buồn bực quỳ rồi lại quỳ, quỳ đến tận khi trời tối. Đoán chừng trên mặt nước đã chẳng còn ai, mới khụ khụ bò lên trên bờ.
Bởi vì duyên cớ cùng quỳ nửa ngày dưới nước, bọn ta bèn bỏ qua tị hiềm trước đây gọi nhau là huynh đệ, trao đổi danh thiếp với nhau.
Thiếu niên diễm lệ này thực sự có quan hệ với Quỷ Quân đoạn tụ đó, nhưng không phải là phu nhân của hắn, mà là người con thứ hai do hắn sinh ra, chính là Ly Kính.
Còn nhớ năm đó, ta ngạc nhiên ú ớ, hóa ra thân là một kẻ đoạn tụ, hắn cũng có thể có con trai.
Từ đó về sau, Ly Kính ngày ngày tới mời ta thưởng trà, chọi gà, uống rượu.
Ta lại chẳng có tinh thần. Vì theo thông tin mới nhận được, rằng Kình Thương cưỡng ép, rằng đã định tổ chức hôn lễ vào ngày mùng ba tháng sau, Lệnh Vũ dù chết cũng không chịu, đã ba lần đâm đầu vào cột bị cứu sống, bây giờ lại bắt đầu tuyệt thực.
Khi đó ta thân cô sức yếu, đừng nói là cứu Lệnh Vũ cùng chạy trốn khỏi cung Đại Tử Minh, chỉ một mình ta muốn trốn đi đã khó lắm rồi. Vì tin rằng sau khi Mặc Uyên khai quan sẽ đến cứu chúng ta, những ngày ta ở nơi này cũng không đến nỗi quá khó chịu. Cứ nghĩ Kình Thương một lòng yêu thương Lệnh Vũ thì tình cảnh của Lệnh Vũ cũng không đến nỗi đáng ngại lắm, nào ngờ đâu huynh ấy lại đày đọa bản thân khiến người khác phải phiền lòng.
Ta ngày cũng phiền mà đêm cũng phiền.
Ly Kính thấy thế thì không nhẫn nại được, tức giận chạy đến, nâng chén kính rượu rồi tợp một ngụm, nói: “Chuyện nhỏ như vậy, đệ lại thà chịu ngày ngày dáng vẻ buồn bực cũng không chịu nhờ huynh giúp đỡ, rõ ràng không coi huynh là huynh đệ, lại còn phải để huynh chạy đến hỏi đệ. Đệ không nhận ta là ca ca, còn ta cứ nhận đệ là đệ đệ. Ta đảm bảo trước ngày mùng ba tháng hai sẽ giúp đệ đưa hắn ta ra khỏi cung là được. Đệ nói gì với hắn ta, cũng nên viết cho kỹ, tối nay ta sẽ giúp đệ mang qua cho hắn ta yên lòng. Nghe nói ngày hôm qua hắn ta gieo mình xuống hồ một lần. Ta thực sự không hiểu nổi, thần tiên bây giờ yếu đuối như thế, nhảy xuống hồ cũng có thể chết đuối. Cũng lạ là phụ vương ta lại có thể coi đó là một chuyện lớn”.
Ta chẳng thể nói gì. Không muốn vì chuyện này mà làm phiền đến hắn ta, cũng vì nghĩ hắn ta và Kình Thương chung quy thì vẫn là cha con, mang thêm phiền toái cho hắn thì sẽ không hay. Hắn lại khăng khăng muốn giúp đỡ ta, ta chỉ còn cách nhận lấy mà thôi.
|
Vì thế ta lại nợ hắn một mối nhân tình, sau này cùng Ly Kính uống rượu, ta không khỏi càng dốc sức hơn nữa.
Vốn ta sợ nhất là cùng người khác chơi nhã lệnh(*) khi uống rượu. Thuở thiếu thời, do quá ham chơi, suốt ngày chỉ cùng mấy vị sư huynh hồ đồ chơi mấy trò như chọi gà, đua chó, chơi bời chốn đô thị, làm mấy trò phong lưu, thi văn âm luật đại khái đều không am hiểu, mỗi khi chơi trò nhã lệnh, ta đều là kẻ bị phạt nhiều nhất trong cả bàn. Còn trò thông lệnh mới là trò ta giỏi nhất, cho dù là đổ xúc xắc hay rút thăm hoặc oẳn tù tì ta đều dễ dàng xứng danh là đệ nhất sư môn.
(*) Trong văn hóa của Trung Hoa, tửu lệnh là một thú vui trợ hứng trong các buổi tiệc rượu, thông thường có một người được cử ra làm lệnh quan, những người còn lại thì lần lượt thay phiên nhau đọc thơ từ, câu đối hoặc các trò chơi tương tự khác, nếu người nào làm trái lệnh hoặc không làm thì sẽ bị phạt uống rượu, cho nên còn có câu “hành lệnh ẩm tửu” - làm theo lệnh uống rượu. Căn cứ theo người chơi là văn nhân tài tử hay người bình thường mà tửu lệnh chia làm hai loại lớn: Nhã lệnh và Thông lệnh. Nhã lệnh thường là có những trò đọc thơ ca, đối câu, nhắc điển cố điển tích như tứ thư lệnh, hoa kỹ lệnh, Thi lệnh, lệnh câu đố, lệnh đổi chữ, lệnh điển cố, lệnh tên người… Còn Thông lệnh thường gồm các trò như đổ xúc xắc, rút thăm, oẳn tù tì (ND).
Lần này ta lại phải lấy lòng Ly Kính, cho nên chơi nhã lệnh hết sức vui vẻ, cho dù mở mồm nói lung tung cúi đầu uống rượu cũng được, chơi thông lệnh thì lại phải vò tai chống cằm. Ly Kính đương nhiên là rất vui.
Lên kế hoạch chu đáo tỉ mỉ, quyết định trong đêm mùng hai sẽ lén đưa Lệnh Vũ ra khỏi cung.
Như thế, quan hệ của hai người chúng ta luôn là một ngày ngàn dặm, mười ngày ngắn ngủi, đã vượt một vạn dặm, đến tới cảnh giới bàn luận chuyện hôn nhân.
Nhưng không phải là ta bàn chuyện hôn nhân với hắn, mà là muội muội của hắn - Yên Chi, chẳng hiểu vì sao lại “ngắm” ta.
Ta đã từng gặp muội muội Yên Chi này của Ly Kính một lần, ngoại hình không giống với hắn, đại để là giống mẫu thân, nhưng cũng là một giai nhân thanh tú.
Hắn vô cùng vui vẻ, chỉ nói rằng đã thân lại càng thêm thân, tuy rằng ta và hắn vốn đâu có thân gì nhau. Nhưng trong lòng ta thực sự buồn khổ. Nếu như ta sinh ra đã là đàn ông thì chẳng có gì phải phàn nàn cả, đây sẽ là chuyện tốt, nhưng rõ ràng lúc sinh ra ta chẳng phải là một con hồ ly đực. Ta nói với Ly Kính rằng ta là một kẻ thô lỗ, làm sao xứng với công chúa Yên Chi, hắn lại tưởng rằng ta xấu hổ, chỉ mỉm cười không bận tâm. Lòng ta buồn bực khổ sở biết bao.
Trong cung Đại Tử Minh, Lệnh Vũ đang khổ sở chống đỡ ở góc phía đông, ta cũng ở góc phía tây khổ sở chống đỡ, cũng coi như là cân bằng với nhau.
Một đêm nằm mơ, ta mơ thấy Lệnh Vũ thực sự gả cho gã Quỷ Quân đoạn tụ đó làm vương hậu, còn ta thực sự lấy Yên Chi. Ly Kính nhiệt tình, thân thiết kéo ta lại, chỉ vào
Lệnh Vũ mà nói: “Âm đệ, mau gọi một tiếng mẫu hậu đi”. Lệnh Vũ lại kéo tay ta đặt lên bụng huynh ấy, trên đỉnh đầu tỏa vầng hào quang, nói với ta một cách cực kỳ hiền từ: “Sau mấy tháng nữa, mẫu hậu sẽ hạ sinh cho các con một tiểu đệ đệ, A Âm, con có thích hay không?”. Ta cứng đờ mặt, cười khan, đáp: “Thích ạ”.
Đến khi tỉnh lại, lớp áo lót đã ướt đẫm mồ hôi lạnh. Muốn xuống giường uống ngụm nước mát cho tỉnh táo, rẽ màn ra, lại nhìn thấy Ly Kính toàn thân mặc áo bào trắng, lặng lẽ đứng ở đầu giường, ánh mắt nhìn ta sáng lấp lánh.
Từ trên giường ta ngã lăn xuống đất.
Lúc đó đã là canh ba, ngoài cửa ánh trăng tuy chẳng đẹp chút nào nhưng cũng đủ chiếu sáng gian phòng nhỏ này.
Ta bò trên đất nghĩ, không có gì lạ, không có gì lạ, hắn ta có lẽ là mất ngủ, đến tìm ta giải khuây mà thôi.
Nhưng quả nhiên thấy hắn ta quỳ xuống, trầm ngâm hồi lâu mới lên tiếng: “A Âm, ta nói với đệ một bí mật, đệ có muốn nghe không?”.
Ta đắn đo, lúc này hắn ta vẫn chưa ngủ, lại chạy đến chỗ ta để nói với ta một bí mật, rõ ràng là rất đau khổ. Nếu như ta không nghe, thực sự không đáng làm huynh đệ của hắn, bèn ngậm ngùi gật đầu một cái.
Hắn thẹn thùng nói: “A Âm, ta thích đệ, muốn ngủ cùng đệ”.
Ta vừa lồm cồm bò dậy ngay lập tức đầu lại cắm xuống đất.
Theo những gì ta biết, Ly Kính vì chán ghét hành vi đoạn tụ của cha hắn, những chuyện trăng hoa của hắn hết sức bình thường, trong tẩm điện có hàng tá mỹ nhân, người nào người ấy đều ngực nở eo thon chân dài. Lúc đó ta hóa thành đàn ông, nhưng mặt mũi vẫn không hề biến đổi, chỉ có phần ngực là phẳng lỳ. Nghe những lời này của hắn ta, đương nhiên là choáng váng hết sức.
Hắn tự cho rằng mình đã cởi lòng cởi dạ, coi như đã thỏa thuận xong với ta, bèn bước tới cởi xiêm y của ta. Ta sống chết túm lấy vạt áo phía trước, hắn giận dữ nói: “Đệ đã im lặng đồng ý, sao lại ngại ngùng làm gì?”.
Nên biết rằng bản thần quân khi đó chỉ không nói gì, chứ tuyệt đối không phải im lặng đồng ý, mà là choáng váng đó thôi.
Hắn giằng lấy xiêm y như lần đầu tiên gặp mặt, cũng chưa tới mười ngày lại giằng thêm một lần nữa. Tượng đất còn có tự trọng, huống đó lúc đó ta lớn nhỏ gì cũng đã có tiên vị, được phong làm thần quân.
Thực sự là không thể nhẫn nhịn hơn được nữa, một đao chém ra, làm hắn ngã lăn ra đất. Nào hay lực đánh ra quá mạnh, lại vừa hay chém trúng huyệt Thiên Trụ sau gáy, cơ duyên trùng hợp, hắn liền ngất đi, nằm nặng trịch trên bụng ta, từ đầu tới chân toàn hơi rượu.
Như thế, ta ngẫm nghĩ xem những hành vi vừa nãy của hắn đều là do say rượu làm càn, cho nên cũng không so đo tính toán gì nhiều nữa. Lại nghĩ hắn nằm trên đất sẽ bị lạnh, bèn ôm lấy chiếc chăn trên giường, “gói” bừa hắn lại, cuộn lại rồi đẩy hắn vào xó giường, còn mình thì trèo lên giường đi ngủ.
Sáng sớm hôm sau, vừa mở mắt ra ta đã nhìn thấy hắn đang bó mình trong cái chăn hôm qua một cách rất đáng thương, cúi mình bên cạnh mép giường của ta, vừa nhăn mày vừa xoa xoa má: “Sao huynh lại ngủ ở chỗ đệ?”.
Trống ngực ta đánh mấy hồi, ta chậm rãi nói: “Đêm qua huynh uống say quá, canh ba chạy đến phòng đệ, nói thích đệ, đòi ngủ cùng đệ nữa”.
Cánh tay đang gãi gãi lên mái tóc của hắn cứng đờ giữa khoảng không, sắc mặt lúc xanh lúc trắng, chiếc áo nhàu nát như cái tổ chim, giống như đánh một quả trứng gà trong bát canh. Mãi lâu sau, hắn mới lắp bắp nói: “Huynh, huynh không phải là đoạn tụ. Nếu, nếu huynh là người như thế, sao, sao có thể nói là sẽ gả muội muội cho đệ?”.
Ta khẽ túm vạt áo, vui vẻ nói: “Quả thực huynh không phải là đoạn tụ”
Nhưng chẳng ngờ động tác túm vạt áo này lại kích thích mạnh hắn.
Hắn giơ tay phải lên run run chỉ vào ta: “Đệ, đệ… như thế… rõ ràng, rõ ràng là sợ ta quấy rối đệ”.
Ta đờ người ra, nói mập mờ: “Quả thực đêm qua huynh cũng suýt chút nữa lột áo của đệ ra”.
Mấy ngày liền sau đó không gặp Ly Kính. Trước đó hầu như ngày nào hắn cũng đến quấy nhiễu ta, lần này lại mất tăm mất tích.
Thành thật mà nói, con người Ly Kính tuy có ồn ào một chút, nhưng rượu mà hắn đem đến lại rất ngon, lúc cùng hắn chọi gà, chọi dế cũng rất vui vẻ. Vì thế, mấy ngày không gặp ta rất nhớ hắn.
Công chúa Yên Chi mời ta cùng dạo chơi hậu hoa viên, vô tình có nhắc đến vị ca ca này của nàng ta, lúc đó ta mới biết mấy ngày nay đêm nào cũng hỏi hoa tìm liễu, vô cùng phóng đãng phong lưu.
Yên Chi tỉ mỉ dịu dàng, lo lắng hỏi ta: “Có phải thần quân và nhị ca ca xảy ra hiềm khích gì không? Trước đây hai người như chân với tay, ngày ngày bên nhau như hình với bóng cơ mà”.
Ta đưa tay lên sờ phía sau gáy, nghĩ lại một hồi, cho rằng ngoài việc đêm đó hắn say rượu giở trò càn quấy với ta bất thành ra, thì ta với hắn luôn luôn hòa thuận. Thêm vào đó, anh em như quần áo, thê thiếp như tay chân, hắn và tay chân của hắn làm chuyện đại sự lo người hương hỏa, có thêm quần áo quả thực quá thừa thãi. Chuyện phong tình trang nhã như ôm mỹ nhân trong lòng, mà bên cạnh lại có một tên đàn ông đứng cạnh nhìn chằm chằm vào mỹ nhân của hắn thì phong tình trang nhã cũng hơi quá. Đương nhiên ta không phải đàn ông, vì thế tuyệt đối không thèm nhìn trộm mỹ nhân trong lòng hắn, hắn cũng không biết rằng chắc chắn phải phòng bị một phen. Làm đàn ông không dễ, làm một người đàn ông có nhiều vợ lại càng không dễ, nghĩ tới đây, ta rất cảm thông với hắn.
Yên Chi nhìn ta chằm chằm muốn hỏi đến tận cùng. Ta đắn đo trong lòng một hồi, cảm thấy nói cho nàng ta nghe e sẽ không hay. Bối rối hồi lâu bèn tìm đại một lý do để lấp liếm cho qua.
Chẳng mấy chốc đã là mùng hai tháng hai.
Cung Đại Tử Minh đèn hoa rực rỡ, phần ăn của ta cũng được cải thiện không ít.
Sau khi nhận được phong thư của ta, vì được an ủi nên Lệnh Vũ cũng miễn cưỡng được coi là sống yên ổn. Đưa huynh ấy trốn khỏi cung lại là chuyện cực kỳ cơ mật, ngay cả trong thư ta cũng chưa từng nhắc đến. Cho nên ngày hôn lễ đến gần, huynh ấy khó tránh khỏi lo lắng, trong giờ Thìn buổi trưa huynh ấy đã làm liền một lúc nào là cắn lưỡi, uống thuốc độc, treo cổ, làm đi làm lại mấy lần liền.
Ta cũng đi đi lại lại trong nhà hơn mười vòng, xem chừng vẫn nên đi đến tẩm điện, thương lượng qua với Ly Kính xem xem có thể tiến hành kế hoạch trước một ngày hay không.
Đến trước tẩm điện của Ly Kính thì bị hai cung nga chặn lại, nói nhị hoàng tử đã cùng hai vị phu nhân đi săn bắn bên ngoài, không có trong cung. Ta đắn đo một hồi rồi đành để lại lời nhắn cho cung nga, đợi khi nhị hoàng tử trở về cung nhờ hai người họ thông báo một tiếng, nói là Tư Âm Thần Quân có món đồ chơi mới rất hay, muốn chơi cùng ngài.
Ta ngồi lỳ trong phòng cắn hạt dưa rất lâu, chưa đợi được Ly Kính nhưng lại đợi được sư phụ của ta - Mặc Uyên.
Dưới nách của Mặc Uyên có một bọc chăn, trong đó quấn kín một bóng người, dường như chính là vị cửu sư huynh tự sát bất thành - Lệnh Vũ của ta.
Một miếng vỏ hạt dưa mắc trong họng ta, làm ta ngạt thở đến mức mặt mày tím tái. Sư phụ nhíu mày nhìn ta dò xét một lượt, rồi đi tới vỗ vỗ ngực cho ta.
Ta nhổ ra được mảnh hạt dưa, nghĩ tới việc cuối cùng ngày hôm nay có thể trốn khỏi nơi này, không còn phải sợ hãi lo lắng cho sư huynh Lệnh Vũ nữa thì không khỏi cảm thấy vui mừng.
Sư phụ đặt Lệnh Vũ xuống rồi ôm ta một cái, ôm chặt hồi lâu mới thả ra, lạnh nhạt nói: “Không sai, Lệnh Vũ gầy đi một chút, Tiểu Thập Thất lại béo lên một chút, coi như là chúng ta không bị thiệt thòi”.
Ta nở nụ cười nịnh bợ, bưng hạt dưa đưa đến trước mặt người: “Sư phụ, người ăn hạt dưa đi ạ”.
Cuộc chạy trốn đêm đó của chúng ta không hề thuận lợi.
Kình Thương tóm được ta và Lệnh Vũ, đương nhiên hắn ta cực kỳ yêu mến Lệnh Vũ nhưng Lệnh Vũ lại không chịu theo hắn, ấy chính là cưỡng ép. Mặc Uyên nể tình hữu nghị giữa Thần tộc và Quỷ tộc nên chẳng gây chuyện binh đao, chỉ âm thầm đột nhập cung Đại Tử Minh để cướp ta và Lệnh Vũ đi, coi như là đã giữ thể diện cho hắn ta. Hắn ta lại không biết phải trái điều động binh tướng chặn kín ở cửa cung, đòi bắt chúng ta, chẳng trách Mặc Uyên không nhẫn nhịn được nữa, đại khai sát giới.
Lệnh Vũ vì hôn mê suốt nên không trông thấy cảnh tượng đó. Ta nhìn cảnh máu chảy đầu rơi trước mặt mà lòng run sợ.
Mặc Uyên xưa nay bất bại, lúc ôm ta và Lệnh Vũ nhảy ra khỏi cửa cung, ta còn quay đầu lại nhìn, chỉ nhìn thấy Kình Thương cầm chiếc Phương Thiên họa kích, đứng ở giữa đống máu tanh màu đỏ sậm, đôi mắt như muốn rách toác ra.
Ta vẫn chưa nhìn thấy Ly Kính đâu.
Mặc Uyên ôm ta và Lệnh Vũ từ cung Đại Tử Minh chạy về gò Côn Luân, Lệnh Vũ vẫn hôn mê, vẫn im lìm như thế.
Ta mãi mãi không thể nào quên được đêm hôm đó, nhưng suốt đời này cũng không muốn nhớ lại.
Sau khi chạy về gò Côn Luân, Mặc Uyên giao Lệnh Vũ cho tứ sư huynh chăm sóc, còn mình vội vã dẫn ta đến phòng đan dược, giơ tay điểm huyệt ngủ của ta, rồi nhốt ta trong lò luyện đan của người.
Lúc ta mới tỉnh lại vẫn còn nghĩ tất là sự trừng phạt của Mặc Uyên, cảnh cáo ta đã không chăm sóc Lệnh Vũ tử tế, hại huynh ấy bị thương hơn nửa tháng, gầy đi mất một chút.
Bỗng nghe sấm long sét nổ.
Lúc đó mới ý thức được rằng, e rằng đây là thiên kiếp của ta. Mặc Uyên sắp xếp cho ta ở nơi đây là vì muốn ta tránh được thiên kiếp.
Tuy rằng ta sinh ra từ tiên thai, nhưng nếu muốn có chút tiền đồ, thì cũng phải dựa vào bản thân. Từ một thần tiên bình thường mà thăng lên làm thượng tiên, từ một thượng tiên được thăng lên thượng thần, ít nhất cũng mất bảy vạn năm, nhiều nhất thì cũng phải mười bốn vạn năm, phải trải qua hai kiếp số. Kinh qua được thì thọ ngang trời đất, không qua được thì tuyệt mệnh tại đây.
Khi đó, ta đã theo Mặc Uyên hai vạn năm. Theo lý mà nói, suy diễn thiên kiếp của bản thân diễn ra vào lúc nào, nơi nào, dùng phương thức nào để giáng xuống, lại tổng duyệt trước một số cách vượt qua thiên kiếp xem có ổn hay không là đều có thể được. Nhưng vì ta xưa nay rất ghét thuật suy diễn, cảm thấy những ấn già(*) này cực kỳ vô vị, mỗi giờ dạy của Mặc Uyên ta đều tích cực ngủ gà ngủ gật, thế nên học đã bao lâu cũng chỉ có thể tính được số mệnh của người phàm trần. Cho dù như thế, mười lần thì cũng có năm, sáu lần tính sai.
(*) Ấn già: Những tư thế tay bắt ấn để làm phép (ND).
Ta rất hiểu rằng mình đạo mỏng duyên nông, dùng tu vi như thế này để trải qua thiên kiếp như thế kia thì đúng là giống như mổ bụng gà mà đòi lấy ra trứng vịt, thực sự là không thể.
May mà bảy vạn năm qua ta rong chơi ngày tháng tiêu dao tự tại, nên khoảnh khắc hồn tiêu phách tán ta cũng không lấy làm hối tiếc điều gì. Cho nên đối với thiên kiếp này ta cũng chỉ coi là bình thường, chỉ hiểu sơ sơ là giáng vào năm này, còn ngoài ra thì ta mù tịt.
Ta chui trong lò luyện đan, đợi qua một lúc mới đột nhiên nhớ ra, ta đang trốn trong căn phòng này, vậy phải tìm ai để thay thế ta? Nên biết rằng sở dĩ thiên kiếp được gọi là thiên kiếp, đương nhiên không thể giống như kiếp số bình thường, một khi đã giáng xuống thì chắc chắn phải ứng vào thân người thì mới coi như đã xong chuyện.
Tiếng sấm sét đì đùng làm đầu óc ta trở nên trống rỗng, thi triển mọi bản lĩnh để khoan lò chui ra, nhưng trước sau đều không thể. Đây là lần đầu tiên trong đời ta ý thức được rằng suốt hai vạn năm cầu học kia, ta đã sống hết sức khốn nạn.
Ngày hôm sau, đại sư huynh đến mở nắp lò, hết sức chân tình nói: “Thập Thất, hôm qua sư phụ đứng bên cạnh lò đỡ cho đệ trọn ba cú sét đánh, sau này đệ nên chịu khó học hỏi chút bản lĩnh đi. Lần sau được thăng làm thượng thần mà lại để sư phụ giúp đệ vượt qua thiên kiếp e là không được đâu”.
Mặc Uyên giúp ta chịu thiên kiếp, trước khi ta từ trong lò bò ra ngoài, người đã bế quan trị thương rồi.
Ta quỳ trước động của người ba ngày, nước mắt nước mũi tèm nhem, thành khẩn nói: “Sư phụ, có phải người bị thương quá nặng không? Thương thế của người có trị được không? Đệ tử thực sự là đồ khốn nạn, đã làm liên lụy đến người. Xin người chớ để lại mầm bệnh, nếu như người có chuyện gì không hay xảy ra, đệ tử chỉ có cách đem hầm bản thân ra làm canh bổ cho người ăn thôi”.
Đời này chỉ có một lần ta khóc đến mức dữ dội và thương tâm như thế.
|
Chương 6:
Chuyện đã qua không nên quay đầu lại
Sau đó, ta rất cố gắng ngày ngày ở trong phòng tham khảo học hỏi các tiên thuật đạo pháp, lúc rãnh rỗi thì đọc thêm các điển tịch mà thần tiên đời trước để lại. Đại sư huynh rất thảnh thơi.
Học được phép thuật nào ta lại đến biểu diễn trước động của Mặc Uyên một lần. Người tuy rằng không biết nhưng ta lại cầu được yên lòng.
Một ngày nọ, khi ta đang ngồi dưới rừng đào phía sao núi để tọa thiền. Đại sư huynh sai một con hạt tiên tới thông báo, ta mau mau về tiền sảnh, có khách tới thăm.
Ta ngắt lấy một cành hoa đào. Cành đào trong phòng Mặc Uyên đã có mấy dấu hoa tàn. Tuy gần đây người bế quan tu luyện, chưa từng ở trong phòng nhưng ta vẫn chăm chút cho nó, khi nào người xuất quan ở phòng đó cũng sẽ cảm thấy thoải mái dễ chịu.
Ta cầm cành đào đi đến tiền sảnh.
Đi ngang qua đình trung, hai vị sư huynh Thập Tam, Thập Tứ đang ngồi dưới gốc táo đang cá cược xem vị khách kia là nam hay là nữ. Ta đoán là tứ ca Bạch Chân đến thăm hỏi, cho nên móc một viện dạ minh châu ra, cũng rụt rè tham gia đánh cược. Bước vào tiền sảnh lại chẳng ngờ, vị khách mà đại sư huynh nói đến chính là Ly Kính – nhị hoàng tử của quỷ tộc đã lâu không gặp.
Lúc ấy, hắn nghiêm trang ngồi ngay trên chiếc ghế thái sư bằng gỗ lê, lim dim mắt uống trà. Nhìn thấy ta bước vào hắn thoáng ngây người.
Lấy máu Mặc Uyên để rửa cung Đại Tử Minh, ta suy diễn rất có logic, lần này Ly Kính đến đây chẳng phải hỏi tội lần trước sao? Hắn ta lại bước nhanh hai bước, rất nhiệt tình thân thiết ôm lấy hai tay ta: “A Âm, ta hiểu rồi, lần này ta sẽ cùng đệ ở cùng bay chung, gắn bó bên nhau”.
Cành hoa đào “rắc” một tiếng rơi xuống đất.
Thập Tam sư huynh đứng ngoài cửa hét lên: “Trả tiền, trả tiền, là con gái đó”.
Ta rất hoang mang, ngẫm nghĩ hồi lâu, mới mở vạt áo cho hắn nhìn: “Đệ là đàn ông, huynh và các phu nhân ở tẩm điện của huynh ân ân ái ái, đâu phải là một kẻ đoạn tụ”.
Thực ra ta không phải là đàn ông, trái tim hồ ly to bằng bàn tay dưới lớp da thịt kia đâu có thô lỗ như bọn đàn ông, mà vẫn dịu dàng tinh tế như những cô gái bình thường. Nhưng vì ban đầu mẹ ta muốn đánh lừa Mặc Uyên, nên ta không tránh khỏi phải giữ hình dáng đàn ông này cho đến khi học thành tài, có thể thuận lợi ra khỏi sư môn.
Ly Kính nhìn chằm chằm vào bộ ngực bằng phẳng của ta, quẹt máu mũi nói: “Từ ngày huynh rời khỏi phòng của đệ, huynh đã suy nghĩ rất nhiều. Vì sợ rằng mình đúng là có tư tưởng kỳ quái như lời đệ nói, cho nên cả ngày quyến luyến hoa liễu, những mong, những mong sẽ dùng đàn bà để mê hoặc chính mình. Lúc đầu, lúc đầu cũng có chút hiệu quả, nhưng chẳng ngờ từ sau khi đệ ra đi, ta ngày nhớ đêm mong. A Âm”, hắn chẳng màn tới xung quanh mà tiến tới ôm chặt ta, chậm rãi nói: “Vì đệ, dù làm đoạn tụ một lần cũng đâu có gì đáng ngại?”.
Ta ngẩng lên nhìn gỗ hoa đào trên xà nhà, lại nghĩ kỹ một lượt, cảm thấy tình thế lúc này, sao mà khiến người ta kinh sợ đến vậy, sao mà khiến người ta ngậm ngùi biết bao.
Thập Tứ sư huynh cười ha ha: “Rốt cuộc là ai trả tiền cho ai?”.
Cho dù Ly Kính ngàn dậm xa xôi chạy tới Côn Luân để thổ lộ tâm tình với ta, nhưng đối với hắn, ta chẳng hề có một chút tình cảm đoạn tụ nào, đành phải khiến hắn thất vọng mà thôi.
Sắc trời dần tối, đường núi khó đi, ta giữ hắn ở lại trên núi một đêm. Đại sư huynh Nại Hà biết được có một kẻ đoạn tụ lên núi tìm ta, bèn tức giận đánh hắn, tống cổ ra khỏi cửa.
Ta vô cùng khâm phục sự cam đảm của Ly Kính, bị đại sư huynh đánh một trận dã man như vậy cũng quyết không từ bỏ, cách dăm ba hôm lại sai vật cưỡi của hắn là Hỏa kỳ lân đem tới mấy bài thơ tình vừa đau thương vừa chua sót. Lúc đầu viết “Trên trời nguyện làm chim liền cánh, dưới đất nguyện làm cây liền cành”, dăm hôm sau lại “Tương tư muốn gặp nhau biết ngày nào, lúc này đêm nay khó vị tình”, vài hôm sau lại “Áo khan dần lỏng cũng không hồi hận, vì ai thương nhớ tấm thân hao gầy”.
Vì những trang giấy viết những bài thơ này rất dễ cháy, nên Thập Tam sư huynh vốn được phân công coi sóc chuyện bếp núc liền nhặt nhạnh từng trang từng trang, lấy làm mồi nhóm bếp. Ta cũng từng cố hết sức giữ gìn bảo vệ chúng, nhưng chỉ một câu của đại sư huynh Nại Hà: “Đệ suốt ngày ở trên núi không sản xuất, chỉ biết ngồi không đợi ăn cơm, lần này khó khan lắm mới có chút giấy bỏ đi để đóng góp, vậy mà còn nhỏ mọn như thế” làm cho ta “tắt họng” ngay lập tức.
Khi đó ta vẫn còn nhỏ, tuy ngày ngày cùng ở với cánh đàn ông, may mắn là vẫn còn chút tình cảm của thiếu nữ. Tuy rằng chưa từng đáp lại Ly Kính lời nào, nhưng hắn vẫn vô cùng nhẫn nại, ngày ngày sai Hỏa kỳ lân mang thư tới. Ta cũng hơi rung động vì hắn.
Một ngày kia, Hỏa kỳ lân đem tới hai câu thơ, rằng “Thiên trường địa cửu hữu thời tân,Thử hận miên miên vô tuyệt kỳ” (Thiên trường địa cửu còn có lúc hết, Nhưng mối hận này đằng đẵng không bao giờ nguôi). Ta kinh sợ, tưởng rằng đó là di thư, hắn có vẻ giống như một người nghĩ quẩn, bèn tiện đường ngồi lên lưng Hỏa kỳ lân, âm thầm đi tới cung Đại Tử Minh để khuyên nhủ hắn. Hỏa kỳ lân lại đưa ta tới thẳng động phủ ở dưới chân núi.
Đó là một cái động tự nhiên, sau đó được thu dọn, sửa sang, Ly Kính đang nằm nghiêng trên chiếc sập bằng đá. Ta không biết hắn đã chết hay còn sống, chỉ cảm thấy trời như đã sụp xuống một nữa, bèn nhảy xuống khỏi Hỏa kỳ lân mà chạy tới lay hắn. Lay, lay, rồi lại lay, trước sau hắn vẫn không hề tỉnh lại. Ta không biết làm thế nào, đành phải lấy pháp khí ra, sấm rền chớp giật gió điên cuồng thổi qua, thử hết cách này tới cách khác, nhưng hắn vẫn không tỉnh. Hỏa kỳ lân thấy không ổn bèn nhắc ta: “Pháp khí này đánh bên người chỉ là gây tê, thượng tiên không ngại thì hãy kích thích vào tâm can mềm yếu của điện hạ, có lẽ điện hạ sẽ tỉnh lại”.
Cho nên ta liền nói câu nói đó.
“Huynh mau tỉnh đi mà, đệ nhận lời huynh là được chứ gì”.
Hắn quả nhiên mở choàng mắt, tuy rằng bị chiếc quạt lụa của ta đập cho tơi tả nhưng hắn vẫn cười: “A Âm, nhận lời huynh rồi thì đệ không được hối hận đấy, đỡ huynh dậy nào, huynh bị pháp khí của đệ đánh cho xương cốt rụng rời rồi”.
Lúc đó ta mới biết đây chỉ là mưu kế.
Sau này đại ca mới nói cho ta hay, mưu kế trong chuyện gió trăng không được coi là mưu kế, chỉ là tình thú mà thôi; còn hứng thú trong chuyện gió trăng cũng không được coi là hứng thú, chỉ là mưu kế mà thôi. Sau khi trải qua vết thương lòng, ta thấy nó cực kỳ có lý. Nhưng lúc đó thì vẫn chưa ngộ được chân lý.
Ly Kính đã đuổi hết những vị phu nhân trong tẩm điện của hắn. Đương khi tháng tư giữa chốn nhân gian, hoa đào trên núi bắt đầu nở rộ. Ly Kính vì đã thành công nên không gửi những bài thơ sướt mướt đến nữa. Đại sư huynh cho rằng hắn đã không thể kiên nhẫn được nữa nên vô cùng vui vẻ, các bài luyện tập tu tiên của chúng ta cũng nhờ phúc ấy mà được giảm đi không ít, vì thế mọi người vừa tiêu dao lại vừa sung sướng.
Khi ấy, trong lòng Ly Kính cũng có chút dè chừng với đại sư huynh, nên tuy rằng ở dưới chân núi nhưng cũng không lên núi nữa. Thế nên, mỗi ngày sau khi ta kết thúc bài luyện tập, đến trước động của Mạc Uyên báo cáo xong, liền thu dọn đồ đạc để xuống núi hẹn hò với hắn, ngày tháng trôi qua mệt mỏi muốn chết đi được.
Ly Kính quả không hổ là kẻ quen đường tìm hoa hỏi liễu, khiến người ta vui vẽ. Giờ đây vẫn còn nhớ, hắn từng tặng cho ta rất nhiều đồ chơi tinh xảo. Những thứ như dế tết bằng cỏ, sáo ngắn bằng trúc xanh, thứ nào cũng toàn tâm toàn ý làm thành, thực khiến người ta yêu thích. Cố nhiên có điều là không đáng mấy tiền, khiến người ta không khỏi tiếc nuối.
Có một lần hắn còn tặng cho ta một dây hoa dưa chuột. Lúc ở cung Đại Tử Minh, công chúa Yên Chi từng kể với ta rằng, vị ca ca này của nàng ta từ lúc nhỏ đã mắc một tật nhỏ, đó là không phân biệt được màu vàng hay màu tím. Hắn ta nhìn màu vàng hay màu tím đều giống như nhau, mà màu sắc này lại là một màu sắc kỳ dị mà người thường không thể nào lý giải nổi. Như thế khi tặng ta hoa dưa chuột, chắc hẳn hắn coi đó là một loài hoa tuyệt thế. Ta cũng không thèm so đo với hắn, hoa dưa chuột tốt xấu gì cũng là một loài hoa. Cho nên ta ép khô nó lại, rồi kẹp vào trong một cuốn sách về đạo pháp, trân trọng cất đi.
Sau khi ta mắc phải vết thương lòng thì không còn muốn nhớ lại quãng thời gian ta và Ly Kính tâm hợp ý đầu với nhau năm đó nữa. Rõ rang đã qua nhiều năm như thế, những tình tiết của quãng thời gian này ta cũng không còn nhớ rõ nữa.
Vậy thì hãy tiếp tục từ đoạn Huyền Nữ ra sân khấu đi.
Huyền Nữ là một muội muội nhỏ nhất của nhà đại tẩu Vị Thư ta. Khi đại tẩu được gả vào nhà ta, Huyền Nữ vẫn là một đứa trẻ còn quấn trong tả lót. Vì cái năm đại tẩu xuất giá, nhà mẹ đẻ xảy ra một số chuyện, Huyền Nữ từ nhỏ đã được đại ca đại tẩu ta nuôi dạy, thường xuyên cùng chơi, cùng ở với ta.
Huyền Nữ rất thích tướng mạo của ta, lúc còn nhỏ, cả ngày thường lèo nhèo bên tai ta rằng, muốn có được khuôn mặt giống ta như đúc. Ta bị nàng ta lèo nhèo suốt mấy trăm năm, thực là quá khổ sở, vì biết rằng Chiếc Nhan có bản lĩnh dịch dung thay đổi khuôn mặt, có một năm nhân dịp sinh nhật nàng ta, ta bèn đặt biệt tới rừng đào mười dặm để vời Chiếc Nhan, xin người làm phép thuật, biến nàng ta giống ta tới bảy, tám phần. Huyền Nữ được toại nguyện nên cực kỳ vui vẻ. Ta được thanh tỉnh nên cũng vui vẻ vô cùng. Như thế mọi người đều vui vẻ.
Nhưng chẳng bao lâu sau thì phát hiện chuyện không hay. Không phải là phép thuật của Chiếc Nhan chẳng ra gì mà là ở chỗ ta suốt ngày phải nhìn gương mặt gần giống hệt mình lượn qua lượn lại trước mắt, khó tránh khỏi choáng váng đau đầu, thế nên ta dần dần tránh xa Huyền Nữ, ngày ngày chơi bời cùng tứ ca.
Sau khi Huyền Nữ lớn lên, thành một cô nương, bèn quay về chỗ cha mẹ nàng ta. Ta và nàng ấy từ đó chẳng còn qua lại chi nữa.
Khi ta với Ly Kính đang bên nhau nồng thắm thì đại tẩu gửi thư đến nói rằng, mẹ của đại tẩu đang ép gả Huyền Nữ cho một tên mù, Huyền Nữ liền chạy một mạch đến động phủ của đại ca và đại tẩu. Nhưng động phủ của họ cũng không hẳn là an toàn, mẹ của đại tẩu trước sau gì cũng tìm đến. Cho nên tẩu ấy và đại ca ta bàn bạc với nhau tạm thời gửi Huyền Nữ tới chỗ của ta để lánh nạn.
Nhận được thư của đại tẩu, ta liền thu dọn phòng của mình một lượt, lại gửi cho đại sư huynh một lá thư, cho huynh ấy hay rằng có một tiên hữu sắp đến Côn Luân làm phiền mấy ngày. Gần đây tâm tình đại sư huynh rất vui vẻ, nghe nói vị tiên hữu này là nữ nhi thì tâm tình càng vui vẻ hơn, rất mau mắn nhận lời.
Ba ngày sau, Huyền Nữ yểu điệu cưỡi một đám mây xám tiến vào núi Côn Luân.
Khi nàng ta nhìn thấy ta thì lặng đi trong giây lát.
Trong thư đại tẩu chưa nói cho Huyền Nữ biết rằng ta chính là Bạch Thiển, bạn chơi thuở thiếu thời của nàng ta, mà chỉ nói ta là một tiên hữu chơi với họ mà thôi.
Huyền Nữ ở lại núi Côn Luân. Dung mạo của nàng ta thực sự có đến chín phần giống ta.
Đại sư huynh nhận xét rằng: “Nói nàng ta không phải là muội muội của đệ ta quả thực không tin được, hai người bọn đệ đứng cạnh nhau, chỉ khác có mỗi dáng vẻ yểu điệu”.
Khi đó ta đương lúc gió xuân đắc ý, tự cho rằng mình không có dáng vẻ sầu thu thương xuân, luyến hoa tiếc nguyệt, quả thực có chút không có dáng vẻ yểu điệu.
Ta thấy Huyền Nữ cả ngày u uất sầu bi, khuôn mặt võ vàng, vốn có ý quan tâm thăm hỏi như chốn thân thích, lần sau xuống núi tìm Ly Kính liền dẫn nàng ta đi theo.
Lúc Ly Kính mới gặp Huyền Nữ thì ngây ra hồi lâu, khó khăn lắm mới trấn tĩnh, lại thốt ra một câu cực kỳ ngây ngô: “Ở đâu ra một Tư Âm nữ thế này?”.
Huyền Nữ liền cười “phì” một tiếng.
Ta thấy nàng ta cuối cùng đã vui vẻ lại nên cũng rất sung sướng. Hôm sau đi tìm Ly Kính cũng dẫn nàng ta đi theo.
|