Bác Sĩ Zhivago
|
|
Chương 174
Sau một lát dừng nghỉ, nàng nói tiếp bằng một giọng hoàn toàn bình tĩnh.
- Để em nói anh nghe. Giả dụ Strelnikov lại trở thành Pasa Antipop. Giả dụ anh ấy ngừng điên cuồng và nổi loạn. Giả dụ thời gian quay ngược lại. Giả dụ ở một nơi xa xăm nào đó, tận cùng trời cuối đất, nhờ một phép lạ, chợt le lói ánh đèn cửa sổ nhà em, soi xuống các cuốn sách trên bàn viết của Pasa, thì có lẽ em sẽ tới đó, dù phải bò lết bằng hai đầu gối. Tình xưa nghĩa cũ sẽ lại trỗi dậy trong lòng em. Em sẽ đi theo tiếng gọi của dĩ vãng và lòng chung thủy. Em sẽ hy sinh tất cả. Ngay cả điều quý giá nhất. Cả anh. Cả sự gần gũi của em đối với anh, một sự gần gũi nhẹ nhàng, thoải mái, tự nhiên. Ôi, xin lỗi anh. Em không định nói thế. Không đúng đâu.
Nàng ôm choàng lấy cổ chàng, khóc nức nở. Song nàng trấn tĩnh được ngay và vừa lau nước mắt vừa nói:
- Nhưng đấy cũng chính là tiếng gọi của bổn phận, cái tiếng gọi đang giục giã anh về với Tonia. Ôi lạy Chúa, chúng con khốn khổ biết bao? Chúng con sẽ ra sao? Chúng con biết làm gì đây?
Lúc nàng đã hoàn toàn bình tĩnh, nàng tiếp:
- Dầu vậy, em vẫn chưa trả lời câu hỏi của anh, tại sao hạnh phúc gia đình của em lại bị tan vỡ. Về sau em đã hiểu rõ điểu đó. Em sẽ kể anh nghe. Nhưng đó sẽ không chỉ là chuyện riêng về gia đình em. Nó đã trở thành số phận của nhiều người.
- Nói đi, Lara vô cùng thông minh của anh.
- Chúng em lấy nhau được hai năm thì chiến tranh bùng nổ. Bấy giờ, chúng em chỉ mới vừa bắt đầu cuộc sống tự lập, thu xếp xong nơi ăn chốn ở. Nay thì em tin rằng chiến tranh là thủ phạm gây ra mọi chuyện, mọi nỗi bất hạnh cho thế hệ chúng ta suốt từ đó đến nay. Em nhớ rõ thời thơ ấu. Em vẫn được thấy cái giai đoạn mà những khái niệm của thuở thanh bình trước đó còn được coi trọng. Tiếng gọi của lương tâm được coi là điều tự nhiên và cần thiết. Cái chết của một người do kẻ khác gây ra là chuyện hiếm, là hiện tượng bất thường. Người ta cho rằng sự chém giết chỉ xẩy ra trong các vở bi kịch, các cuốn tiểu thuyết viết về các thám tử và đăng trên nhật báo, chứ không có trong đời sống thường ngày.
Thế rồi đột nhiên có bước nhảy vọt từ nhịp sống thanh bình, đều đều và vô tội ấy vào trong máu cùng những tiếng rên xiết, vào sự điên cuồng và man dại đồng loạt của trò sát nhân cứ diễn ra hàng ngày, hàng giờ được hợp pháp hoá và được khen ngợi.
Điều đó bao giờ cũng để lại hậu quả, hẳn thế. Chắc anh nhớ rõ hơn em, mọi sự lập tức bị huỷ hoại như thế nào. Sự lưu thông của xe lửa, sự tiếp tế thực phẩm cho các đô thị, các nềp tảng của nếp sống gia đình, các nguyên tắc luân lý của ý thức.
- Em nói tiếp đi. Anh biết em sắp nói gì rồi. Em phân tích mọi chuyện rất tài tình? Nghe em nói rất thú vị!
- Bấy giờ sự dối trá tràn vào đất Nga. Tai họa chủ yếu, nguồn gốc của cái ác sau này là sự mất tin tưởng vào giá trị của ý kiến cá nhân. Người ta ngỡ rằng đã qua rồi cái thời tuân theo tiếng gọi của linh cảm đạo đức, rằng ngày nay phải nói theo mọi người, phải sống theo những quan niệm của kẻ khác được áp đặt cho hết thảy mọi người. Lời lẽ văn hoa, thoạt tiên của nền quân chủ, sau đó của cách mạng, bắt đầu lên ngôi.
Sự lầm lạc ấy của xã hội mang tính chất rộng khắp, dễ lây lan. Mọi thứ đều rơi vào ảnh hưởng của nó. Gia đình em cũng không thoát nổi. Có một cái gì bắt đầu bị lung lay trong nhà. Thay vì sự sống động hồn nhiên hằng ngự trị trong gia đình em, một phần cái lối nói hoa mỹ ngu ngốc kia đã len vào các buổi chuyện trò trong nhà, một thứ nhất thiết phải làm bộ thông minh, nhất thiết phải bàn luận về các đề tài toàn cầu. Lẽ nào một người vô cùng tinh tế và khắt khe với bản thân như Pasa, vốn biết phân biệt thật giả một cách chính xác, lại có thể không nhận thấy cái sự giả dối đã len lỏi vào gia đình chúng em hay sao?
Và thế là lúc ấy Pasa đã phạm một sai lầm vô cùng tai hại, tiên quyết mọi chuyện sau này. Anh ấy tưởng hơi thở của thời đại, cái ác của xã hội là hiện tượng gia đình, Pasa tự đổ lỗi cho mình về cái giọng điệu kiểu cách, cái hình thức gượng gạo trong các lập luận của hai vợ chồng, anh ấy nghĩ rằng sở dĩ như vậy vì anh ấy là một kẻ khô khan, tầm thường, một người mang vỏ bao(1). Chắc anh khó tin rằng những điều nhỏ nhặt như thế lại có ý nghĩa lớn đến cuộc sống gia đình. Anh không thể tưởng tượng được điều đó hệ trọng đến mức nào và Pasa đã gây ra bao chuyện dại dột vì sự ấu trĩ ấy.
Pasa ra trận, mặc dù không ai yêu cầu anh ấy cả. Anh ấy làm thế để giải thoát mẹ con em khỏi anh ấy, khỏi ách áp bức tưởng tượng của anh ấy. Những trò điên rồ của Pasa khởi đầu từ đó. Với lòng tự ái lệch lạc của thanh mên, anh ấy đã hờn giận với một cái gì đó trong cuộc sống mà người đời thường không hề hờn giận. Pasa bắt đầu bất mãn với thời cuộc, với lịch sử. Anh ấy bất hoà với lịch sử. Đến tận bây giờ, anh vẫn đang còn thù hận với lịch sử. Những trò điên rồ khiêu khích của anh ấy xuất phát từ đó mà ra. Pasa đang bước tới cái chết hiển nhiên vì sự ngạo mạn dại dột đó. Ôi, ước gì em có thể cứu được anh ấy.
Tình yêu của em đối với Pasa trong trắng và mãnh liệt biết bao! Em hãy yêu anh ấy, hãy yêu anh ấy đi. Anh không ghen với anh ấy đâu, anh không ngăn cản em đâu.
Chú thích:
Truyện ngắn "Người mang vỏ bao" của Sekhov. Ngụ ý: một kẻ bó mình trong những lợi ích nhỏ hẹp, một kẻ trùm chăn, sợ cái mới.
|
Chương 175
Mùa hè đã đến và trôi qua lúc nào không hay. Bác sĩ Zhivago đã hoàn toàn bình phục. Tạm thời, trong khi hy vọng sẽ có ngày trở về Moskva, chàng nhận làm việc ở ba nơi. Đồng tiền mất giá nhanh chóng đã buộc người ta phải làm việc ở mấy chỗ một lúc.
Sáng sáng chàng thức dậy từ lúc gà gáy, đi ra phố Thương Gia, xuôi xuống qua rạp xinê "Người Khổng Lồ", tới xưởng in cũ của quân đoàn Cô-dăc Ural, nay đổi tên thành "Thợ In Đỏ". Ở góc Toà Thị Chính cũ, nay là Uỷ ban điều hành công vụ, chàng thấy có mấy tấm biển nhỏ "Phòng Khiếu Nại" treo trên cửa. Chàng băng qua quảng trường, tới đường Tiểu Buianovka. Bỏ qua nhà máy Stengov, chàng bước vào sân sau của bệnh viện; tới phòng điều trị ngoại trú của Quân y viện là nơi làm việc chính của chàng.
Một nửa chặng đường chàng đi hàng ngày nằm dưới bóng cây ngang qua những ngôi nhà nhỏ, đa số cất bằng gỗ, mái rất dốc, có hàng rào sắt, cổng trang trí hoa văn, cánh cổng có kẻ lòe của.
Cạnh phòng điều trị ngoái trú, trong khu vườn cũ của nữ thương gia Goregliadova, có một ngôi nhà thấp thấp đáng chú ý được xây cất theo kiểu Nga xa xưa. Nó được lớp bằng loại gạch men màu thanh thiên, có mài nhiều cạnh và đỉnh của các cạnh chĩa ra ngoài, phỏng theo các lâu đài cổ của giới quý tộc Moskva.
Ba hay bốn lần trong một tuần mười ngày, chàng lại từ phòng điều trị ngoại trú tới dự các buổi họp của Sở Y tế Yuratin ở toà nhà của chủ cũ tên gọi Ligheti, trên phố Cựu Miaska.
Ở tại khu phố khác, rất xa, có một toà nhà do ông bố của Samdeviatov xây tặng thành phố để tưởng niệm bà vợ ông qua đời khi sinh hạ Samdeviatov. Viện sản khoa và phụ khoa do Samdeviatov sáng lập đặt trụ sở tại toà nhà ấy. Hiện giờ ở đó mở các khoá học cấp tốc mang tên Rosaa Lucxamburg, đào tạo về phẫu thuật y khoa. Bác sĩ Zhivago đến giảng giáo trình bệnh lý học đại cương và mấy môn học không bắt buộc.
Buổi tối, trở về nhà sau giờ làm việc ở cơ quan, mệt lả và đói meo, chàng thấy Lara vùi đầu vào công việc nội trợ, bên bếp lò hay trước chậu nước. Cái diện mạo hàng ngày, bình thường ấy của nàng với mái tóc xoã, tay áo xắn cao và gấu váy vén lên, gần như có sức quyến rũ, lôi cuốn khiến chàng còn nể sợ hơn cả khi giả sử chàng bắt gặp nàng chuẩn bị đi dự vũ hội, với bộ áo dài hở cổ hở vai, với đôi giày cao gót khiến nàng cao lên hơn, và với cái váy rộng lòe xòe quét đất.
Nàng làm bếp hay giặt giũ, rồi dùng những xà bông thừa lau chùi sàn nhà. Hoặc nếu thư thả hơn, nàng ngồi ủi đồ và khâu vá quần áo của cả ba người, của mẹ con nàng và chàng. Hoặc sau khi nấu nướng, giặt giũ, lau chùi xong xuôi, nàng dạy Katenka học. Hoặc nàng chúi mũi vào việc tự học thêm môn chính trị trước khi trở lại làm giáo viên ở một trường trung học của chế độ mới.
Hai mẹ con người phụ nữ ấy càng trở nên gần gũi với Zhivago bao nhiêu, thì chàng càng không dám coi họ như gia đình mình bấy nhiêu, và sự nghiêm cấm cách nghĩ ấy càng gắt gao hơn bấy nhiêu bởi nghĩa vụ đối với gia đình chàng, bởi nỗi đau của chàng do việc chàng không chung thủy với vợ gây ra.
Sự giới hạn ấy không có gì là xúc phạm đối với Lara và Katenka. Ngược lại, cách cảm nhận không mang tính chất gia đình ấy lại bao hàm biết bao sự kính nể, loại trừ thái độ sỗ sàng và thân mật quá trớn.
Nhưng sự phân thân ấy luôn luôn giày vò tâm can Zhivago, và chàng quen với nó, như có thể quen với một vết thương chưa kín miệng, hay lở loét trở lại.
|
Chương 176
Hai, ba tháng trôi qua như vậy. Đến tháng mười, một hôm Zhivago bảo Lara:
- Em này, hình như anh sắp phải nghỉ việc. Vẫn là cái chuyện cũ, lặp đi lặp lại muôn thuở. Lúc đầu nghe thì hay lắm. "Chúng tôi bao giờ cũng hoan nghênh cách làm ăn trung thực. Còn đối với tư tưởng, nhất là các tư tưởng mới, thì lại càng hoan nghênh hơn nữa. Sao lại không hoan nghênh kia chứ. Nhiệt liệt hoan nghênh. Đồng chí hãy làm việc, hãy phấn đấu, hãy ra sức tìm tòi". Nhưng qua thực tế, mới thấy rằng các tư tưởng, theo họ quan niệm, chỉ là những danh từ hoa mỹ dùng để tán dương cách mạng và những người cầm quyền. Chán ngấy. Và về khoản đó anh cũng không có tài. Mà xem chừng lẽ phải thuộc về họ. Dĩ nhiên, anh không theo họ. Nhưng anh khó có thể nghĩ rằng, họ là các vị anh hùng, là các nhân vật lỗi lạc, trong khi anh chỉ là kẻ hèn mọn, ủng hộ sự dốt nát và thói áp bức con người. Đã bao giờ em nghe nói đến Nicolai Vedeniapin chưa?
- Có chứ. Trước khi quen anh, và sau còn nghe anh hay kể về ông ấy. Chị Seraphima Tunseva cũng nhắc đến tên ông ấy luôn. Chị ấy là môn đồ của Nicolai. Nhưng sách của ông ấy, thú thực, em chưa đọc. Em không thích những tác phẩm chỉ toàn bàn về triết học. Theo em, triết học phải là một chút gia vị nêm vào nghệ thuật và đời sống. Chỉ nghiên cứu triết học không thôi, thì cũng kỳ quặc như chỉ ăn vã gia vị. Nhưng xin lỗi anh, em đã nói năng lẩn thẩn khiến anh lạc ra ngoài lề.
- Không, ngược lại, anh rất đồng ý với em. Nếp nghĩ của em rất giống anh. Về phần ông cậu của anh, có lẽ đúng là ảnh hưởng của cha Nicolai đã làm hỏng anh. Vả lại, tất cả bọn họ đều hùa nhau mà bảo anh chẩn bệnh rất thần tình, "một thiên tài chẩn bệnh". Kể ra, anh rất ít khi chẩn bệnh sai. Nhưng đấy lại chính là cái trực giác nhạy bén mà bọn họ căm ghét, còn anh thì lại phạm tội có nó, có sự thấu hiểu trọn vẹn, bao quát và chớp nhoáng toàn cảnh.
Anh rất say mê vấn đề ngụy trang của các cơ thể, sự thích nghi bên ngoài của cơ thể đối với màu sắc của ngoại giới quanh mình. Sự điều chỉnh màu sắc ấy tiềm ẩn sự chuyển hoá kỳ lạ từ bên trong ra bên ngoài.
Anh đã mạnh dạn đề cập đến vấn đề đó trong các bài giảng. Lập tức bị chụp mũ "Duy tâm, thần bí. Triết học tự nhiên chủ nghĩa của Gothe, thuyết Senling mới".
Phải bỏ việc thôi. Anh sẽ tự xin thôi việc ở Sở Y tế và Viện phụ sản, riêng ở quân y viện thì anh sẽ cố gắng làm tiếp, nếu như họ chưa đuổi anh. Anh không muốn làm em lo lắng, nhưng thỉnh thoảng anh có cảm giác rằng nay mai họ sẽ bắt anh.
- Xin Chúa phù hộ cho anh, Yuri yêu quý. May thay từ nay tới lúc ấy còn lâu. Nhưng anh nói đúng. Thận trọng một chút vẫn hơn. Theo em nhận xét, mỗi lần chính quyền non trẻ này được thiết lập, nó đều trải qua mấy giai đoạn quen thuộc. Đầu tiên là sự chiến thắng của lý trí, là tinh thần phê phán, đấu tranh với các thành kiến. Sau đó đến giai đoạn thứ hai, khi ưu thế thuộc về các lực lượng mờ ám, gồm những kẻ bợ đỡ trân tráo, những kẻ giả bộ thông cảm. Trò nghi ngờ, tố giác, mưu ma chước quỷ, sự thù hận cứ tăng dần. Anh nói đúng, chúng mình đang ở chặng đầu của giai đoạn thứ hai này. Khỏi cần phải đi đâu xa mới tìm ra bằng chứng. Toà án quân sự cách mạng của thành phố vừa có hai vị thẩm phán mới chuyển từ Khodatscoie tới đây. Đó là hai cựu chính trị phạm, xuất thân công nhân, là Tiverzin và Antipop.
Cả hai lão ấy chẳng lạ gì em, một lão thậm chí còn là bố chồng em. Nhưng đúng là từ ngày họ chuyển về đây, em bắt đầu lo sợ cho cuộc sống của hai mẹ con em. Họ dám làm mọi chuyện. Lão Antipop ghét em. Rất có thể một ngày kia họ thủ tiêu em, thậm chí cả Pasa, để phục vụ cho cái công lý cách mạng cao cả.
Phần tiếp nối của câu chuyện trên đã diễn ra vài ngày sau đó. Số nhà 48 phố Tiểu Buianovka, cạnh phòng điều trị ngoại trú của Quân y viện, tức nhà của bà quả phụ Goregliadova, bị khám xét ban đêm. Người ta tìm thấy trong toà nhà ấy một kho vũ khí và đã khám phá một tổ chức phản cách mạng. Nhiều người trong thành phố bị bắt, các cuộc khám xét và bắt bớ diễn ra đều đều. Vào thời gian này, người ta xì xào rằng một số kẻ bị tình nghi đã vượt sông. Có những ý kiến đại loại như sau: "Làm thế thì nước non gì? Có phải cứ vượt sông là thoát đâu. Còn tùy đấy là sông nào. Chẳng hạn, phải là sông Amur ở thành phố Blagovesensck mới bõ. Bờ bên này thuộc chính quyền Xô viết, bờ bên kia là Trung Hoa. Nhảy tùm xuống nước, bơi qua, thế là thôi nhé, xin chào, thánh cũng chẳng bắt được họ. Sông thế mới là sông, chứ đâu như con sông vớ vẩn ở thành phố ta".
- Tình hình đang căng lên,- Lara nói,- Thời kỳ chúng mình được yên ổn, đã không còn nữa. Chắc chắn anh và em sẽ bị bắt. Lúc ấy, bé Katenka sẽ ra sao? Em là mẹ, em phải đề phòng tai hoạ và phải nghĩ cách gì đó. Em phải chuẩn bị trước cho trường hợp ấy. Hễ nghĩ đến đấy em lại phát điên lên được.
- Nào chúng mình cùng tính xem, có cách gì cứu vãn không. Liệu chúng mình có đủ sức ngăn chặn tai hoạ ấy chăng? Thật là số mệnh quái ác.
- Chạy trốn không ổn và cũng chả biết trốn vào đâu. Nhưng có thể tạm lánh đi ẩn thân ở một xó xỉnh nào đó. Ở Varykino chẳng hạn. Em đang nghĩ đến ngôi nhà ở Varykino.
Chỗ ấy khá hẻo lánh và hoang vắng. Nhưng tại đó chúng mình sẽ không làm cho người ta ngứa mắt như ở đây. Sắp tới mùa đông rồi, em sẵn sàng lo việc trú đông tại đó. Trước khi họ sờ đến chúng mình, thì chúng mình đã sống thêm được một năm nữa rồi, mà như thế là lợi lắm. Samdeviatov có thể sẽ giúp chúng ta liên lạc với thành phố. Liệu ông ta có bằng lòng che giấu chúng mình không nhỉ? Anh nghĩ sao? Kể ra ở Varykino bây giờ chả có ai cả, vắng tanh vắng ngắt, sợ lắm. Ít ra tình hình là như thế hồi em tới đó, dạo tháng ba. Người ta bảo ở đấy có chó sói nữa. Sợ thật. Nhưng con người, nhất là những kẻ như Antipop hoặc Tiverzin, bây giờ còn đáng sợ hơn cả chó sói.
- Anh chẳng biết nói gì với em. Em vẫn luôn luôn hối thúc anh đi Moskva, bảo anh đừng trì hoãn ngày lên đường. Dạo này chuyện đi lại đã dễ dàng hơn. Anh đã hỏi thăm ở ngoài ga. Tệ buôn bán chợ đen, họ thây kệ rồi. Không phải ai đi tàu lậu vé cũng đều bị đuổi xuống. Người ta xử bắn mỏi tay rồi, nên dạo này ít xử bắn hơn. Điều anh lo ngại là tất cả các thư anh gửi về Moskva đều không có hồi âm. Anh phải về đó xem gia đình anh thế nào. Chính em vẫn luôn nhắc anh như vậy. Nay em bảo đi Varykino, thì anh nên hiểu ra sao đây? Lẽ nào em lánh đến cái nơi hoang vắng đáng sợ ấy một mình, không có anh bên cạnh?
- Không, không có anh thì dĩ nhiên em đến đấy sao được.
- Thế sao em lại giục anh đi Moskva?
- Vâng, anh không thể không đi Moskva.
- Em này, anh có một kế hoạch rất hay. Chúng mình sẽ cùng đi Moskva, em hãy mang bé Katenka đi với anh.
- Lên Moskva ư? Anh điên rồi. Với danh nghĩa gì? Không, em phải ở lại. Em phải ở loanh quanh gần đây để canh chừng. Số phận của Pasa sẽ được định đoạt tại đây. Em phải chờ đoạn kết, để nếu cần thì có thể giúp được anh ấy ngay.
- Nếu vậy, mình hãy tính đến Katenka.
- Thỉnh thoảng chị Seraphima vẫn đến thăm em, chị Seraphima mà cách đây ít hôm hai chúng mình có nhắc tới ấy.
- Anh biết chứ. Anh vẫn thấy cô ấy trò chuyện với em.
- Em ngạc nhiên về anh đấy. Mắt đàn ông để ở đâu nhỉ? Ở địa vị anh, em đã phải lòng chị ấy rồi. Một người tuyệt vời! Diện mạo thật là đẹp, thân hình cân đối, thông minh, uyên bác, đôn hậu, tư duy sáng sủa.
- Ngày trốn thoát về đây, anh được chị Galina của cô ấy cắt tóc mà.
- Em biết. Cả hai đều sống chung với bà chị thứ hai là Evdokia làm thủ thư. Một gia đình lao động trung thực. Em muốn nhờ họ nuôi bé Katenka trong trường hợp bất hạnh, nếu hai đứa bị bắt. Nhưng em vẫn chưa quyết định dứt khoát.
- Chỉ nên làm thế trong trường hợp bất khả kháng. Nhưng lạy Chúa, tai hoạ ấy chưa đến ngay đâu.
- Người ta bảo chị Seraphima dở người. Đúng là chị ấy không hoàn toàn bình thường. Nhưng đấy chỉ là hậu quả sự sâu sắc và độc đáo của chị ấy mà thôi. Chị ấy có một học vấn tuyệt vời, nhưng không phải theo kiểu các nhà trí thức, mà theo kiểu dân gian. Quan điểm của anh và của chị ấy giống nhau kỳ lạ. Em hoàn toàn yên tâm, nếu phải nhờ chị ấy nuôi dưỡng bé Katenka.
|
Chương 177
Một lần nữa, Zhivago ra ga và trở về mà chẳng đạt được kết quả gì. Mọi chuyện vẫn chưa ngã ngũ. Chàng và Lara vẫn chưa biết rồi sẽ ra sao. Trời hôm ấy rét và u ám như trước cơn mưa tuyết đầu mùa. Phía trên các ngã tư, nơi bầu trời mở ra thoáng rộng hơn so với phía trên các đường phố dài, trông như trời đã sang đông.
Lúc Zhivago về đến nhà, chàng thấy Lara đang có khách. Đó là Seraphima. Câu chuyện giữa hai người giống như bài diễn thuyết mà khách đang giảng giải cho chủ nghe. Zhivago không muốn làm phiền họ. Hơn nữa, chàng cũng muốn ngồi một mình ít phút. Họ trò chuyện với nhau ở phòng bên. Cánh cửa thông hai phòng hé mở, có chiếc rèm buông xuống tận sàn nhà. Mọi lời nói ở phòng bên ấy, chàng đều nghe rõ.
Em sẽ ngồi khâu, xin chị cứ tự nhiên, đừng để ý đến em, chị Seraphima ạ. Em vẫn lắng nghe. Hồi trước em có nghe giảng giải về lịch sử và triết học. Cách trình bày tư tưởng của chị, em rất thích. Ngoài ra, được nghe chị nói, em thấy nhẹ lòng hơn. Những đêm gần đây, chúng em ít ngủ và lo nhiều chuyện, nhất là về cháu Katenka. Bổn phận làm mẹ của em là phải bảo đảm an toàn cho cháu trong trường hợp hai đứa chúng em gặp chuyện chẳng lành. Phải tỉnh táo lo liệu cho cháu. Nhưng về mặt đó, em lại vụng về. Em rất buồn khi nhận thức chuyện ấy. Em đang buồn vì mệt mỏi và thiếu ngủ. Chị nói chuyện khiến em thấy tâm hồn lắng dịu lại. Hơn nữa, chắc tuyết sắp rơi. Trong lúc nhìn tuyết rơi mà lại được nghe những cách lập luận thông minh hàng giờ thì còn gì thú bằng. Nếu liếc ra cửa sổ lúc tuyết rơi, thì bao giờ ta cũng tưởng như có ai đang đi qua sân về phía nhà mình, phải không chị? Chị nói đi.
- Em nghe đây.
- Lần trước ta dừng lại ở chỗ nào nhỉ?
Zhivago không nghe rõ câu trả lời của Lara. Chàng bắt đầu lắng nghe các câu hỏi của Seraphima.
Có thể dùng các danh từ "văn hoá", "thời đại". Nhưng mỗi người hiểu một cách. Vì ý nghĩa lẫn lộn của chúng, ta sẽ không sử dụng chúng, mà thay bằng các cách nói khác.
Tôi có thể nói rằng con người gồm hai phần, Chúa và công việc Sự phát triển của tinh thần con người được chia nhỏ ra thành những công việc riêng biệt có độ dài thời gian vô cùng lớn. Các công việc ấy được thực hiện bởi các thế hệ và cứ nối tiếp theo nhau mãi. Một trong những công việc đó là Ai Cập, một công việc khác là Hy Lạp. Sự nhận thức về Chúa của các nhà tiên tri trong Kinh thánh cũng là một công việc. Công việc cuối cùng xét về mặt thời gian, chưa có việc nào khác thay thế, một công việc được thực hiện bởi toàn bộ cảm hứng hiện đại, ấy là đạo Kitô.
Để có thể hình dung cái mới mẻ, chưa từng thấy mà đạo Kitô đã đem lại, hình dung một cách bất ngờ, mới mẻ, đơn giản và trực tiếp khác hẳn với cái cách mà cô đã biết và quen nghe, tôi sẽ phãn tích với cô một số đoạn trích từ các bài thánh lễ, ngắn gọn và vắn tắt thôi.
Đa số các bài thánh lễ thường đem liên kết các quan mệm của Cựu ước và Tân ước lại với nhau. Những luận điểm về thế giới cũ, bụi cây không cháy, nguồn gốc Israen từ Ai Cập, những thiếu niên trong lò lửa, Iôna nằm trong bụng cá voi v v… được trình bày song song với các luận điểm về thế giới mới, chẳng hạn, với quan niệm về sự thụ thai của Đức mẹ Đồng Trinh và về sự sống lại của Kitô.
Sự sắp xếp thường xuyên và gần như cố định ấy làm nổi bật tính cố cựu của thế giới cũ và tính tân kỳ của thế giới mới, cùng sự khác nhau giữa chúng.
Trong vô số thánh ca, sự làm mẹ trinh bạch của Maria được so sánh với việc dân Do Thái vượt qua Hồng Hải. Ví dụ, trong câu: "Trên biển Đỏ đôi khi nổi lên hình ảnh tân giai nhân trinh bạch" có lời rằng: "Biển, sau khi dân Israen đi qua, không ai còn vượt được; Đức Mẹ, sau khi sinh hạ Emmanuên, vẫn đồng trinh. "Nghĩa là, sau khi dân Israen đã đi qua hết, thì biển không cho ai qua nữa, còn cô gái sau khi sinh ra Đấng cứu thế ở cùng ta, vẫn không hề mất trinh. Những việc gì xảy ra được đem đối chiếu ở đây? Cả hai sự việc ấy đều là siêu nhiên, đều được coi là phép lạ như nhau. Vậy thì cái gì đã được coi là phép lạ ở hai thời đại khác nhau như vậy - thời thượng cổ, nguyên thủy, và thời đại mới, sau khi La Mã ra đời, mãi tận sau này?
Trong trường hợp thứ nhất, theo lệnh vị thủ lĩnh của dân chúng là tộc trưởng Moisơ ( Moïse ) lúc vị này vung cây gậy thần, biển liền giãn ra, để cho cả một dân tộc đông không kể xiết, hàng trăm ngàn người, đi qua, và khi người cuối cùng vừa qua, thì biển lập tức khép lại như cũ, dìm chết những quân Ai Cập đuổi theo. Một cảnh tượng đúng theo tinh thần cổ xưa, thiên nhiên ngoan ngoãn tuân theo thầy phù thủy, từng đám đông tập hợp lại như quân đội La Mã lúc hành binh, dân chúng và thủ lĩnh, những vật thể ta có khả năng nhìn rõ, nghe thấy, váng cả tai.
Trong trường hợp thứ hai, cô gái, - một hiện tượng bình thường mà thế giới thời cổ chả buồn để ý, - lặng lẽ và bí mật sinh ra một hài nhi, sinh ra sự sống, phép màu đời sống, "sự sống của hết thảy mọi người", như sau đó người ta gọi Ngài. Sự sinh đẻ này là trái luật, không chỉ theo quan điểm của các nhà luật học, là ngoài hôn phối. Mà còn đi ngược lại các quy luật của thiên nhiên. Cô gái ấy sinh con không phải theo cách tự nhiên, tất yếu, mà nhờ phép lạ và Thánh linh. Đó chính là thứ Thánh linh mà Phúc âm muốn dựa vào nó để dựng nên đời sống, trái với mọi sự cưỡng bức, bởi lẽ Phúc âm vẫn đem đối lập cái phi thường với cái phàm thường, ngày lễ hội với ngày bình thường.
Sự thay đổi có ý nghĩa mới lớn lao làm sao? Bằng cách nào mà cái công việc riêng tư của loài người ấy, một công việc hết sức tầm thường theo quan niệm thời cổ xưa, lại trở nên ngang giá với cuộc di cư của cả một dân tộc, ngang giá với trời (bởi vì cần đánh giá việc đó bằng con mắt của trời, trước trời, toàn bộ việc đó diễn ra trong khung cảnh thiêng liêng độc nhất).
Có một cái gì đã chuyển dịch thế gian. La Mã đã cáo chung. Quyền lực của số đông, cái nghĩa vụ do vũ khí bắt buộc người ta phải sống đồng loạt, sống hợp quần như toàn bộ dân tộc không còn nữa. Các thủ lĩnh và các dân tộc đã lùi về dĩ vãng.
Thay vào đó là cá nhân và sự truyền bá tự do. Mỗi đời sống cá nhân con người, đã trở thành chuyện của Thượng đế, làm cho không gian vũ trụ tràn ngập nội dung của nó. Như đã được nói trong thánh ca vào dịp lễ Tin Lành, Adams muốn trở thành Thượng đế và đã phạm sai lầm không trở thành Thượng đế, còn ngày nay thì Thượng đế trở thành con người, để làm cho Adams thành Thượng đế ("Thiên Chúa hoá người, đặng biến Adams thành Thiên Chúa").
Seraphima nói tiếp:
- Tôi sẽ còn trình bày với cô đôi điều về chủ đề này. Nhưng bây giờ tôi muốn nói ra ngoài một chút. Về phương diện quan tâm đến nhân dân lao động, bảo vệ bà mẹ, đấu tranh chống thế lực đồng tiền, thì thời đại cách mạng hiện nay là thời đại chưa từng thấy, đáng nhớ, với những thành tựu sẽ còn lại rất lâu, mãi mãi. Còn về phần quan mệm đời sống, triết lý hạnh phúc như cách diễn giải phổ biến hiện nay, thì không thể tin rằng nó được nói một cách nghiêm túc, vì nó chính là tàn tích nực cười. Những câu nói hoa mỹ ấy về các lãnh tụ và các dân tộc rất có thể đẩy ta lùi lại thời cựu ước của các bộ lạc chăn nuôi và các tộc trưởng, giả dụ những câu nói ấy có sức đảo lộn cuộc sống và đẩy lùi lịch sử lại hàng ngàn năm. May thay, điều đó không thể có đượe.
Xin nói đôi lời về Kitô và Madelen. Không phải lấy từ chuyện trong Phúc âm kể về Madelen, mà từ các bản kinh cầu nguyện trong tuần Thánh, hình như vào ngày thứ ba hay thứ tư gì đó Nhưng tôi không nói thì tự cô cũng thừa biết tất cả chuyện đó. Ở đây tôi chỉ muốn nhắc cô nhớ lại, chứ tôi không định lên lớp cho cô.
Như cô biết rõ, chữ "Thống khổ" theo tiếng Slavơ, trước hết có nghĩa đau khổ, các nỗi đau khổ của Chúa, "Chúa tự nguyện tiến tới thống khổ" (Chúa chấp nhận nỗi đau khổ tự nguyện). Ngoài ra, danh từ đó được sử dụng trong tiếng Nga sau này với nghĩa các "tật xấu" và các "ham muốn", "Bắt phẩm giá của linh hồn tôi làm nô lệ cho các ham muốn, là biến tôi thành súc vật", "Bị đuổi khỏi thiên đường, hãy tiết chế các tật xấu để được trở lại" v v… Có thể tôi hư hỏng, nhưng tôi không ưa những bài kinh đọc trước lễ Phục Sinh theo hướng đấy, nói về việc tiết dục và hành hạ thể xác. Tôi luôn có cảm tưởng rằng những bài kinh ấy thô thiển, vô vị, thiếu bản chất thơ thường thấy trong các bản kinh khác, chính là do những lão thầy tu béo tốt mỡ màng làm ra. Rất có thể đám thầy tu ấy cũng sống đúng theo lương tâm. Song vấn đề không phải ở họ, mà là ở nội dung của các đoạn kinh ấy. Những lời đả phá ấy đã quan trọng hoá quá mức những sự yếu đuối của thể xác và vấn đề thể xác có béo tốt hay tiều tụy. Nghe rất ghê tởm. Ở đây một vài điều tầm thường, thứ yếu, bẩn thỉu đã được đưa lên tầm cao không tương xứng với nó. Xin lỗi cô, tôi nói dài dòng như thế trước khi đề cập phần chủ yếu. Bây giờ, tôi xin bù lại sự chậm trễ ấy.
Tôi luôn luôn quan tâm xem tại sao người ta lại nhắc đến Madelen vào ngay đêm trước lễ Phục Sinh, trước khi đấng Kitô qua đời và sống lại. Tôi chưa rõ lý do, nhưng sự nhắc nhở thế nào là cuộc sống là rất kịp thời vào giây phút từ giã cuộc sống và vào lúc chuẩn bị phục sinh. Bây giờ cô hãy nghe, việc nhắc nhở ấy được thực hiện một cách thực sự say sưa và vô cùng thẳng thắn như thế nào.
- Người ta còn tranh luận đó có đúng là Maria Madelen, hay Maria Ai Cập, hoặc một Maria nào khác. Song dù là Maria nào đi nữa, thì nàng cũng đã cầu xin Chúa: "Thầy hãy gỡ nợ như gỡ tóc". Nghĩa là "Xin thầy giải tội cho con, như con gỡ tóc rối !. Sự khao khát xin được tha thứ và hối cải đã được diễn tả mới cụ thể làm sao. Như có thể chạm tay vào nó.
Rồi tiếng cầu xin tương tự cũng còn ghi trong một bài kinh khác cụ thể hơn, đọc cùng ngày, và ở đó hiển nhiên là nói về Madelen ở đó nàng sám hối một cách cực kỳ cụ thể về quá khứ, về việc đêm đêm bóng tối lại khêu gợi các ham muốn dai dẳng trước đây của xác thịt nàng. "Vì đêm đen làm bùng cháy dục vọng tội lỗi của con, nên khi bóng tối buông là con lại muốn phạm tội". Nàng xin Chúa chấp nhận các giọt nước mắt ăn năn của nàng và cúi xuống nghe tiếng lòng nàng thở than, để nàng có thể dùng mái tóc lau hai bàn chân thanh khiết của Người, mái tóc mà Eva đã lánh vào đó khi khiếp sợ và tủi hổ trên Thiên Đường. "Thầy cho con dùng dầu thơm rửa chân Thầy và dùng tóc lau hai bàn chân thanh khiết của Thầy, như Eva giữa ban ngày bị váng tai và kinh sợ trên thiên đường đã xoã tóc che thân. Và đột nhiên, sau mấy câu nói đến mái tóc ấy, bỗng bật ra tiếng thốt: "Ai có thể dò được muôn vàn tội lỗi của con, dò tới đáy sâu số phận của Người?". Cô đọng xiết bao, bình đẳng xiết bao giữa Chúa và cuộc sống, Chúa và con người, Chúa và người đàn bà?
|
Chương 178
Sau khi từ nhà ga về, Zhivago rất mệt mỏi. Hôm nay là ngày nghỉ thường lệ trong mỗi tuần làm việc mười ngày. Thông thường, vào các ngày nghỉ, chàng ngủ bù cho chín ngày kia.
Chàng nửa nằm nửa ngồi trên đi-văng, đôi khi ngã hẳn xuống đó Tuy trong lúc nghe Seraphima nói, cơn buồn ngủ cứ chốc chốc lại kéo đến, song cách lập luận của chị ta khiến chàng rất thích thú. "Tất nhiên, tất cả những cái đó cô ta tiếp thu được ở cậu Nicolai, - chàng nghĩ - Nhưng cô ta thật là tài năng và thông minh!".
Chàng nhảy xuống khỏi đi-văng và bước tới cửa sổ. Cửa sổ trông xuống sân, cũng như cửa sổ phòng bên cạnh, nơi Lara và Seraphima đang ngồi với nhau, tiếng nói của họ bây giờ nghe tiếng được tiếng mật.
Thời tiết xấu thêm. Ngoài trời đã nhập nhoạng tối. Hai con chim ác là bay đến hang tìm chỗ đậu. Gió thổi bồng bồng lông của chúng. Chúng đậu xuống nắp thùng rác, bay lên hàng rào, đoạn sà xuống đi thơ thẩn dưới sân.
"Chim ác là báo hiệu tuyết sắp rơi", - Zhivago nghĩ thầm.
Đúng lúc ấy, chàng nghe tiếng Seraphima nói với Lara:
- Chim ác là báo hiệu có tin. Nhà ta sắp có khách, hoặc có thư.
Lát sau, ở bên ngoài có người giật chuông cửa. Mấy ngày trước Zhivago đã sửa dây chuông xong xuôi. Từ phòng trong, Lara đi ra mở cửa. Căn cứ lời nói của nàng ở ngoài ấy, Zhivago hiểu rằng người khách vừa đến là Galina, chị ruột của Seraphima.
- Chị đến tìm chị Seraphima phải không? - Lara hỏi. - Chị ấy đang ở nhà em.
- Không, tôi không kiếm cô ấy. Nhưng nếu cô ấy về ngay bây giờ thì chị em tôi sẽ cùng đi. Không, hoàn toàn không phải vì lý do đó mà tôi đến đây. Tôi mang thư đến cho ông bạn của cô Thật may cho ông ấy, vì có dạo tôi đã làm ở bưu điện. Thư này đã qua tay rất nhiều người, cuối cùng một người quen đã trao cho tôi. Thư gửi từ Moskva. Mất năm tháng mới tới. Người ta không tìm ra địa chỉ người nhận. Nhưng tôi, tôi biết người ấy là ai. Có lần ông ấy đã được tôi hớt tóc.
Bức thư dài mấy trang, nhàu nát, nhem nhuốc, bỏ trong một cái phong bì đã bị bóc và mủn cả ra. Đó là thư của Tonia.
Zhivago không ý thức được cái việc bức thư đã nằm trong tay chàng theo cách nào, Lara đã đưa cho chàng ra sao. Lúc bắt đầu đọc, chàng vẫn nhớ mình đang ở nhà ai, tại thành phố gì, nhưng càng đọc, chàng càng mất ý thức về điều đó. Seraphima bước ra chào từ biệt, chàng chỉ đáp lại như một cái máy, nhưng không hề để ý đến chị ta và không rõ chị ta về từ lúc nào. Dần dần chàng quên hẳn mình đang ở đâu và có những gì xung quanh chàng.
Tonia viết:
"Anh Yuri ơi, anh có biết chúng mình có một đứa con gái không? Ba và em đặt tên cho nó là Masa để kỷ niệm người mẹ quá cố của anh.
Bây giờ nói sang chuyện khác. Mấy nhà hoạt động xã hội nổi tiếng, các giáo sư thuộc đảng Kadet và các nhà xã hội cánh hữu, Mengunov, Kidevet, Cuskov và vài người khác, kể cả bác Nicolai Gromeko, ba và mẹ con em (bị coi là thân nhân của bác) bị trục xuất khỏi nước Nga.
Đó là điều bất hạnh, nhất là lại vắng anh, nhưng cũng đành cam chịu và phải cảm ơn Chúa đã cho hưởng hình thức lưu đày nhẹ nhàng như thế giữa thời buổi khủng khiếp này, bởi có thể gặp tình huống xấu hơn nhiều. Giá anh ở đây, hẳn anh đã cùng đi với cả nhà. Nhưng hiện giờ anh ở đâu? Em gửi thư này tới địa chỉ của Lara, chắc cô ấy sẽ trao cho anh, nếu tìm ra anh. Em lo khắc khoải vì chưa biết sau này, khi tìm được anh, người ta có cho phép anh, với danh nghĩa một thành viên của gia đình em, ra nước ngoài như cả nhà đã đi hay không. Em tin rằng anh vẫn còn sống và rồi người ta sẽ tìm thấy anh. Lòng em yêu anh vẫn mách bảo em như vậy và em tin vào tiếng nói của nó. Có lẽ khi tìm thấy anh, điều kiện sống ở nước Nga sẽ dễ chịu hơn, tự anh có thể chạy được giấy phép riêng để ra nước ngoài, lúc đó cả nhà lại được đoàn tụ đông đủ. Em viết như thế, song chính em lại không tin có thể đạt tới một hạnh phúc như vậy.Toàn bộ đau khổ là ở chỗ em yêu anh, còn anh lại không yêu em. Em cố tìm ý nghĩa của bản án ấy, cố lý giải nó, cố biện hộ cho nó, em lục lọi, soát xét lại toàn bộ cuộc đời của hai đứa mình và tất cả những gì em biết về bản thân em, song em vẫn không tìm ra căn nguyên và không thể nhớ mình đã làm gì để đến nỗi chuốc lấy điều bất hạnh ấy. Anh cứ nhìn em bằng con mắt ác ý, sai thực tế, anh thấy em méo mó như nhìn qua một chiếc gương cười.Còn em, em yêu anh. Trời ơi, em yêu anh biết mấy, giá như anh có thể tưởng tượng ra được? Em yêu hết thảy những gì đặc biệt ở anh, tất cả những cái có lợi và bất lợi, tất cả những khía cạnh thông thường của anh, song lại rất quý báu trong sự kết hợp khác thường; em yêu khuôn mặt anh, một khuôn mặt trở nên cao quý nhờ đời sống nội tâm, mà nếu không có nội dung ấy, có lẽ xem ra nó không được đẹp, em yêu tài năng và trí thông minh của anh là hai thứ dường như thế chỗ cho cái ý chí hoàn toàn thiếu vắng ở anh. Tất cả những điều đó đều thân thiết đối vôi em, và em không biết có người nào hoàn hảo hơn anh.
Nhưng anh ạ, anh có biết em sẽ nói gì không? Giả dụ anh không thân thiết đối với em đến mức ấy, giả sử em không thích anh đến mức ấy, thì em cũng không bao giờ tìm thấy tình cảm của em bị nguội lạnh đi như một thực tế phũ phàng, thì em vẫn nghĩ là em yêu anh. Không yêu, ấy là một hình phạt gớm ghiếc và nhục nhã, và chính vì sợ nó, mà trong tiềm thức em tránh nghĩ rằng em không yêu anh. Cả em lẫn anh không bao giờ nhận biết điều đó. Trái tim em hẳn sẽ che giấu điều đó, bởi vì không yêu thì cũng gần như là việc sát nhân, mà em chả đủ sức dùng thủ đoạn ấy với bất cứ ai.
Tuy chưa có gì là quyết định dứt khoát, nhưng chắc chắn cả nhà sẽ đi Paris. Em sẽ trôi giạt tới xứ sở xa xôi kia, nơi người ta đã cho anh đến hồi bé và cũng là nơi bác Nicolai với ba em được nuôi dưỡng. Ba gửi lời từ biệt anh. Xasa đã lớn, không khôi ngô lắm nhưng là một cậu bé to khỏe và mỗi khi nghe nhắc đến anh, thì con nó lại khóc nức nở cay đắng không ai dỗ được. Em không thể viết thêm nữa. Lòng em tan nát, nước mắt dâng lên nghẹn ngào. Thôi vĩnh biệt anh. Xin anh để em cầu chúc cho anh gặp may mắn trong suốt cuộc chia ly bất tận, trong những thử thách và bất trắc, trong cả chặng đường dài đằng đẵng, lận đận và mờ mịt anh phải trải qua. Em không kết tội hoặc trách móc anh điều gì, anh hãy thu xếp cuộc sống của anh theo ý anh muốn, chỉ mong anh được sung sướng:.
Trước khi rời khỏi cái xứ Ural đáng sợ và vô cùng xui xẻo đối với chúng ta ấy, em đã có dịp quen biết sơ sơ với Lara. Cám ơn cô ấy đã luôn luôn ở bên em lúc em gặp khó khăn và đã giúp đỡ lúc em sinh nở. Phải thành thực công nhận cô ấy là người tốt, nhưng em cũng phải nói thật rằng cô ấy hoàn toàn trái ngược với con người em. Em sinh ra đời để làm cho cuộc sống trở nên giản dị hơn và để tìm lối thoát đúng đắn, còn cô ấy thì để làm rắc rối thêm cuộc sống và khiến người ta lạc đường.Vĩnh biệt anh, em phải ngừng bút thôi. Người ta đã đến lấy thư và cũng tới lúc em phải gói ghém hành lý. Ôi, Yuri yêu dấu, người yêu của em, chồng em, cha của các con em, thế này là thế nào hở anh? Chúng mình sẽ chẳng bao giờ, không bao giờ còn được gặp nhau, anh ơi. Đấy, em vừa viết những lời này, liệu anh có hiểu hết ý nghĩa của chúng không? Anh có hiểu không, hiểu không anh? Người ta đang giục giã em, y như họ đến dẫn em đi hành hình ấy. Yuri! Yuri!".Yuri Zhivago ngẩng lên. Mắt anh ráo hoảnh vì đau đớn, không nhìn thấy gì cả, không nhìn đi đâu cả, hoàn toàn trống rỗng. Chàng không ý thức được bất cứ gì xung quanh.
Ngoài kia, tuyết bắt đầu rơi. Gió đẩy tuyết bay xiên xiên trong không trung, mỗi lúc thêm mau hơn, dày hơn, như luôn luôn muốn bù đắp một cái gì, còn Zhivago thì cứ nhìn ra cửa sổ trước mặt, tựa hồ đấy không phải cảnh tuyết rơi, mà là chàng đang tiếp tục đọc lá thư của Tonia, và không phải những bông tuyết khô nhỏ đang bay qua, thấp thoáng, mà là những khoảng giấy trắng nho nhỏ giữa các dòng chữ đen nho nhỏ, - những khoảng trắng, trắng toát, bất tận không cùng.
Zhivago bất giác rên lên một tiếng và ôm lấy ngực. Chàng cảm thấy mình sắp ngất, bèn loạng choạng đi vài bước về phía đi-văng rồi ngã xuống đó bất tỉnh.
|