Trạm Thị Vương Triều
|
|
Lúc này Vũ Sư Đức mới thở phào nhẹ nhõm, ngẫm lại, Cũng đúng, mình là người của thái thượng hoàng và hoàng quý phi, sao hoàng thượng lại không tin mình được chứ? Huống chi mấy ngày gần đây, mình đều nhận tin từ hoàng quý phi, trong thư tuy đều là những lời khuyến khích mong mình nên nỗ lực nhiều hơn, nhưng giọng điệu vẫn luôn coi mình là tâm phúc. Nghi ngờ qua đi, ông lại phấn chấn lên, tháp tùng hoàng thượng trở về hành cung.
Tới giờ ngự thiện, Trạm Hi ra hiệu Vũ Sư Đức ngồi chung ăn cùng. Vũ Sư Đức luôn miệng nói mãi tạ ơn, thấy trên bàn chỉ bày hai đĩa ăn nhẹ, một bát cháo loãng, không khỏi cảm thán: “Hoàng thượng cũng quá mức tiết kiệm.”
Trạm Hi nói: “Ăn ít nhưng ăn nhiều bữa, buổi tối không cho phép ăn những món quá mức dầu mỡ. Đây chính là quy định Tiên Tiên đã bắt trẫm phải theo.”
“Hoàng quý phi lúc nào cũng quan tâm lo lắng cho hoàng thượng, khi thần ở kinh thành đã sớm cảm động rất sâu.” Vũ Sư Đức thấy hoàng thượng nói chuyện như việc nhà, chân chính yên lòng.
“Trẫm sợ nàng còn hơn cả sợ phụ hoàng.” Trạm Hi bật cười ha ha: “Trẫm vẫn chưa có dịp hỏi kỹ ông. Lúc trước ông và Lý Lãng làm sao chiếm được Cự thành? Vì sao Phạm Hách lại không có động thái nào quấy nhiễu?”
“Bẩm hoàng thượng, việc này thật ra cũng có công lao từ tâm tính lo được lo mất của Phạm Hách. Lúc trước gã ta giết Mẫn Vỹ, sợ sẽ khiến cho dân chúng Cự thành phẫn nộ gây bạo động, nếu gã ta thật muốn liều mạng với ba mươi vạn quân đóng ở đây thì sẽ tạo ra một cuộc chiến lớn đầy cam go. Như thế sao gã ta dám bỏ ra nhiều tiền vốn vào một cuộc đầu tư rất mạo hiểm này? Mà đúng lúc ấy Lý Lãng lãnh quân chạy đến chiếm thành, gã ta muốn đẩy thuyền theo nước chờ Lý Lãng và quân ở Cự thành trai cò tranh nhau lưỡng bại câu thương thì gã sẽ ở phía sau làm ngư ông đắc lợi. Thế nhưng không ngờ được ba mươi vạn quân này lại chia năm xẻ bảy không hề đoàn kết, nên Lý Lãng không hề tốn nhiều công sức đã dễ dàng tóm gọn. Sau này thần mới biết, Mẫn Vỹ này chỉ dễ chịu thiên vị cho mấy tâm phúc của mình, còn phần lớn tất cả mọi người đều cực kỳ hà khắc. Khi Bắc Địch vừa xua quân đến, Mẫn Vỹ chỉ dẫn theo đám hộ vệ tâm phúc trốn vào Bất Sinh cốc, còn những người khác để mặc cho tự sinh tự diệt. Bởi thế khi Mẫn Vỹ vừa chết, ai còn sẽ thay hắn ta bán mạng đâu?”
Khi Vũ Sư Đức đang nói, Tý Đoan bước vào đem theo một bức mật báo. Trạm Hi cười nói: “Tiên sinh là người mình, cứ đọc không sao.”
Tý Đoan bẩm báo: “Là tin từ Mã lão tướng quân. Đại quân của ông ấy đang cách nơi này mười dặm, chỉ chốc lát nữa sẽ đến.”
“Tuyên Lý Lãng đến đây đi.” Trạm Hi ra lệnh.
Khi bát đũa vừa được dọn xuống, Lý Lãng đã đến. Trà thơm mới được bưng ra, Mã lão tướng quân liền dẫn theo một vị tướng lĩnh trẻ tuổi khôi giáp chỉnh tề xoải bước đi vào, quỳ xuống diện thánh.
Trạm Hi cũng không khách sáo, nói thẳng: “Trẫm muốn để Mã lão tướng quân mai phục tại một nơi gần thành Định Xương. Trẫm và Vũ Sư Đức sẽ dùng cờ hiệu của Lý Lãng tướng quân trấn thủ Cự thành. Còn Lý Lãng tướng quân suất binh mai phục tại mặt sau quân địch. Các khanh nghĩ thế nào?”
Trong lòng Lý Lãng và Mã lão tướng quân biết hoàng thượng đã sắp xếp thỏa đáng, nhưng không thể theo ý hoàng thượng để Trạm Hi tự mình trấn thủ Cự thành.
Trạm Hi nghiêm mặt nói lời không để ai phản bác: “Ý trẫm đã quyết, không cần bàn ra.” Thấy hoàng thượng cương quyết, hai người họ không dám nói thêm nhưng cũng không muốn hoàng thượng mạo hiểm.
Bầu không khí có chút gượng gạo im lặng, Trạm Hi than thở: “Trẫm biết hai người lo lắng cho trẫm, nhưng nếu như trẫm không tự mình đứng ra trấn thủ Cự thành, thì Kháng Tàng Kim sao có thể tập trung toàn bộ binh lực đến công thành? Kế sách này nếu không làm vậy thì sao có thể thực hiện thành công? Lời này có chút khó nghe, hiện giờ chúng ta cùng Bắc Địch thật giống như hai gã nghèo đánh nhau, lão ta không kéo nổi cuộc chiến quá dài, mà chính chúng ta cũng không kéo nổi. Trẫm chỉ còn nước phải mạo hiểm một phen!”
“Hoàng thượng không cần lo lắng. Chờ mạt tướng đánh đuổi xong lũ quân địch xâm phạm Định Xương sẽ lập tức xoay ngựa lại xuất kích tấn công Bắc Địch ở Cự thành. Quân Đoan ta là đội quân tinh nhuệ, chắc chắn sẽ nghiền nát bè lũ man di Bắc Địch kia.” Người nói chính là vị tiểu tướng trẻ tuổi đi theo Mã lão tướng quân đến đây.
Mã lão tướng quân quát mắng: “Lớn mật! Ở trước mặt hoàng thượng mà cháu cũng dám càn rỡ thế ư?”
Trạm Hi xua tay cười nói: “Lão tướng quân đừng dọa cậu ấy. Trong quân ta đang cần những thiếu niên kiên cường thiện chiến như vậy. Thế cậu là người phương nào? Bao lớn rồi?”
Tướng quân trẻ tuổi không chút mất tự nhiên, cất cao giọng nói: “Bẩm hoàng thượng, mạt tướng là Mã Anh, năm nay đã mười tám.”
Mã lão tướng quân mau chóng quỳ xuống bẩm: “Hoàng thượng, thằng nhóc này là cháu trai út của thần, tính tình thuở nhỏ đã hiếu động nóng vội, cũng không chịu ngồi yên học qua mấy ngày đèn sách, cách làm người lại lỗ mãng không biết chú trọng lễ nghi, kính mong hoàng thượng thứ tội.”
“Có tội gì chứ?” Trạm Hi bật cười: “Cũng bằng tuổi với trẫm đấy. Được, được đấy, chờ khi nào đẩy lùi được Bắc Địch, trẫm sẽ tự mình tỷ thí đao kiếm cưỡi ngựa bắn cung với cậu. Thế nào, cậu có dám ứng chiến không?”
“Có gì không dám!” Mã Anh nói sang sảng: “Hoàng thượng, nếu lần này mạt tướng anh dũng giết địch lập được nhiều công lao, mong ngài bằng lòng ngợi khen mạt tướng đi ạ. Ông nội của mạt tướng lần nào cũng áp chế không cho phép viết công lao của mạt tướng báo lên triều đình, nên hiện tại giờ mạt tướng chỉ mới là một hộ vệ nho nhỏ, trong khi mấy bằng hữu giao hảo của mạt tướng giờ đều làm ít nhất đến giáo úy.”
“Được. Một lời đã định!” Trạm Hi thoải mái cười to.
Lý Lãng cũng cười nói: “Sớm đã nghe qua danh tiếng đội quân dũng mãnh thiện chiến của Mã lão tướng quân đóng ở Bắc Đoan, hôm nay nhìn thấy đúng thật là danh bất hư truyền. Từ Bắc Đoan đến Cự thành phải vượt qua dãy núi Dự Lương, thế mà tướng quân có thể dẫn dắt cả đội quân thần không biết quỷ không hay thần tốc mà đến, Lý mỗ quả thật khâm phục không thôi.”
“Thấy núi mở đường, gặp nước bắc cầu, đây không tính là gì.” Mã Anh đắc ý nói.
Tuy lời nói của cậu nghe qua khá đơn giản, nhưng gian khổ trong đó Lý Lãng vẫn có thể hình dung ra được. Mười vạn đại quân vượt núi băng đèo, còn muốn lặng yên không một tiếng động, binh quý thần tốc, chỉ khi là một thiên tài dụng binh mới có thể làm được như vậy. Lý Lãng không khỏi khâm phục: “Lão tướng quân thật đúng là có tài dụng binh cực giỏi.”
Mã lão tướng quân vừa nhận được mật chỉ, liền đem đại đội binh mã chia làm hai mươi đội nhỏ rồi rải rác mà đến, trên đường đi cứ tùy theo ý mình mà làm nhưng chỉ với một mục tiêu duy nhất: Trước ngày mười tám tháng Sáu phải vượt được dãy núi Dự Lương và tập kết ở gần Cự thành. Vì một đội nhỏ chỉ có năm ngàn binh mã nên tính linh hoạt cơ động hơn rất nhiều, đều tự tìm đường mòn trong núi rừng để vượt núi băng sông, một khắc cũng không dám trì hoãn. Thế nhưng lúc này ông không có tâm tình nghe lời tán dương của người khác, chỉ vô cùng tức giận lập tức một chưởng vỗ trên lưng cháu trai, phẫn nộ nói: “Cháu mà còn dám làm càn trước mặt hoàng thượng thì hãy mau cút ngay về đất Đoan đi!”
Trạm Hi cười ha ha: “Có tướng sĩ thế này, Đại Đoan ta lo gì đánh không thắng?!”
Lại tỉ mỉ thương lượng một hồi, chờ mọi người lui ra sau, Trạm Hi lập tức mệnh lệnh cho Tý Đoan: “Cô đi nói với Mã lão tướng quân, nhất định phải chiếm thành Định Xương bằng được cho trẫm.”
.
Những ngày kế tiếp, một cuộc đại chiến sắp sửa đến, cả hai bên đều điều binh khiển tướng toàn lực chuẩn bị.
Ngày hai mươi lăm tháng Sáu năm Thánh Khải thứ hai, trinh sát cưỡi ngựa chạy về báo, sáu mươi vạn đại quân Bắc Địch đã vào Hồi Đầu quan, đang thẳng tiến đến Cự thành. Đột nhiên dân chúng Cự thành hồi hộp khẩn trương hẳn lên, cũng không ai biết hoàng thượng có phải sẽ lâm trận chạy mất. Mọi người lại bắt đầu như lúc xưa vội vàng mau chóng sắp xếp đồ đạc tiền bạc, nhưng chợt nghe trên đường có người ồn ào, hoàng thượng lên thành lầu dò xét tình trạng phòng thủ ở cổng thành, tiếp theo sau là tin trên hoàng bảng cũng niêm yết thông báo với đại chúng, hoàng thượng muốn cùng năm mươi vạn đại quân đồng sức đồng lòng trấn thủ Cự thành. Nhân dân lại thấy từng nhóm binh mã, từng xe lương thảo ngày đêm liên tục tiến vào trong thành, bỗng chốc liền an tâm xuống. Ai cũng chưa từng ngờ tới, giờ phút này vị hoàng thượng ở trên thành lầu kia không phải là Trạm Hi. Tối hôm qua Trạm Hi dưới sự hộ tống bí mật của ám vệ, lặng yên đi tới Bất Sinh cốc, ngay cả Đào Thanh Sơn là một trong những tâm phúc cũng không hề hay biết.
Ngày hai mươi bảy tháng Sáu, Bắc Địch vây khốn bốn phía, song phương làm dáng chuẩn bị quyết chiến. Một công một thủ, lúc bắt đầu cả hai bên đều là thăm dò, cũng không đem hết toàn lực. Vũ Sư Đức phái vài xe ngựa nhỏ đem quân ra khỏi thành đánh lén đều gặt hái được thắng lợi, trong lúc nhất thời sĩ khí tăng vọt. Tuy nhiên như thế lại càng thêm khiến Kháng Tàng Kim thật sự bị chọc giận, đại chiến chân chính là vào ngày ba mươi tháng Sáu mới thật sự kéo màn. Bắc Địch tựa như bị điên tiết, ba ngày ba đêm liên tục ra sức tấn công thành. Lần này chỉ làm khổ quân sĩ thủ thành, đám người này đều là lính mới chạm trán với chiến trường, nơi nào từng đối mặt với trận chiến khốc liệt thế này, nhất thời tử vong tương đối nhiều. May mà số người quá nhiều, tường thành lại rất kiên cố, Bắc Địch cũng không thể làm gì.
Vũ Sư Đức thấy toàn quân tràn ngập bầu không khí ảm đạm trầm thấp, trong lòng biết không ổn, thừa dịp Bắc Địch đang trong thời điểm đình chiến, mau chóng đưa ‘hoàng thượng’ đến dò xét, lại cao giọng khích lệ động viên đám tướng sĩ, bảo hoàng thượng đã sớm có sắp xếp, chờ khi quân địch mệt mỏi chính là thời khắc viện quân ập tới hỗ trợ. Trong lời nói đều toàn những từ ngữ mơ hồ không rõ, khiến người nghe có cảm giác rằng dường như ở đất Đoan còn có một nhánh đại quân đang chuẩn bị đến. Xưa nay quân Đoan thường đấu thắng Bắc Địch, quân tâm lại nhất thời phấn chấn lên. Huống chi bọn họ đều cho rằng đại quân của Lý Lãng cũng đang kề vai sát cánh chiến đấu cùng, nên càng thêm không e ngại. Kỳ thật Lý Lãng chỉ để lại mấy ngàn người làm dáng động viên lòng người. Vũ Sư Đức cầm thánh chỉ ra lệnh cho một vạn binh Kinh Kỳ Vệ canh gác các đường trọng yếu, không cho phép bất luận người nào truyền tin cho nhau, rồi lại từ bên trong đồn thổi chút tin để kiểm soát luồng dư luận. Cứ như vậy, đám tướng sĩ trấn thủ cánh cổng phía Bắc cho rằng quân đội Lý Lãng đang phòng thủ ở cửa Nam và ngược lại, sau đó thì nghe phong phanh người bên kia đại thắng, đương nhiên cũng không cam lòng yếu thế liền anh dũng giết địch. Dựa theo loại suy luận này, trái lại Bắc Địch không chiếm được chút lợi thế nào. Cự thành được trấn thủ đến vững như thành đồng vách sắt.
Ngay trong quân Bắc Địch cũng không nghĩ tới, chỉ mới thay đổi một vị hoàng đế, người Trung Nguyên nay lại đột nhiên trở nên biết cách chiến đấu đánh nhau? Nhất thời quân tâm xẹp xuống như quả bóng bị xì hơi, Kháng Tàng Kim lập tức triệu tập mưu sĩ thương nghị, ai cũng không phải người ngu, nghĩ ngay ra dụng ý đằng sau, Quân Đoan dễ dàng cho vây thành như vậy khẳng định còn có hậu chiêu! Bây giờ đánh lâu mà không tấn công húc đổ được tường thành, lương thảo cung cấp khó khăn, nếu như lại có thêm kẻ địch chạy ra sau lưng đánh lén, thì toàn bộ quân lính Bắc Địch sẽ rơi vào cảnh nguy hiểm! Kết quả thương nghị cuối cùng là xoay đầu ngựa đi đánh chiếm thành Định Xương, đem tất cả con đường thông tới Cự thành đều bị chặt đứt, sau đó lại tiếp tục dồn sức thêm một lần đóng cửa đánh chó. Đến lúc đó mặc kệ quân Đoan dùng kế sách thế nào thì cả vùng đất bằng phẳng này cũng chỉ có thể để mặc cho đội quân tinh nhuệ Bắc Địch bọn họ thoải mái phóng ngựa rong ruổi. Cứ thế chiều muộn ngày mùng bảy tháng Bảy, một nhánh mười vạn quân Bắc Địch lặng yên đánh về phía thành Định Xương. Ở một đêm Thất Tịch năm nay, thời khắc quyết phân thắng thua đã bắt đầu.
Trạm Hi ở Bất Sinh cốc cũng đứng ngồi không yên, trận ‘ván cờ’ này nhất định nàng phải thắng, có điều tuy tất cả đã an bài xong nhưng kẻ địch sẽ dựa theo đúng suy nghĩ của nàng để ‘chơi cờ’ sao? Còn có mối nguy chiến sự ở phương Nam kia, Mẫn Dục không thể bỏ qua một cơ hội tốt như thế này mà không xuất binh đánh chiếm, trong khi Triệu Nham chỉ có mười lăm vạn binh mã, có thể chống đỡ nổi quân Mẫn Dục sao? Còn có Đổng gia ở kinh thành, với tình hình rối ren lúc này, nhất định bọn họ phải góp một chân vào quấy một trận đục ngầu, không biết sẽ lấy thủ đoạn đê hèn nào để ra tay đây? Thêm nữa còn một người đầy mưu mô như Vũ Sư Đức đang ở bên cạnh cần phải đề phòng!
Sắc mặt Trạm Hi dần dần ngày càng âm trầm. Tuy Vũ Sư Đức không thể cầm quân đánh trận nhưng lại cực hiểu lòng người, dạng người thế này chỉ có thể gặp chứ không thể cầu, không trách phụ hoàng để ông ta lưu lại ở kinh thành thay Trạm thị ta bày bố mưu tính. Nếu như chiến thắng ở trận này, nhất định danh vọng của Vũ Sư Đức trong ba mươi vạn quân sẽ không ai sánh bằng. Trên chốn quan trường ở kinh thành, ông ta biết cách giao thiệp; trong quân doanh ngoài biên cương, ông ta có binh mã thân tín. Người như vậy nếu có dị tâm nhất định còn đáng sợ hơn Đổng thị rất nhiều! Vậy làm hoàng đế như mình phải khống chế thế nào? Tuy nói hiện tại chính là thời khắc dùng người, nhưng nếu chờ khi ông ta phát triển trở thành một Đổng Hoa thứ hai, đến lúc đó đuôi to khó vẫy, chẳng phải tự tìm buồn phiền? Vào ban đêm ngày ấy, khi bí mật đi gặp ông ta, tuy có hứa hẹn sau khi về kinh sẽ trọng dụng nâng đỡ ông ta, nhưng đây cũng chỉ là lời động viên để ông ta dồn hết tâm sức cho cuộc đại chiến sắp tới thôi.
Trong mắt Trạm Hi lúc này đã lóe lên một chủ tâm giết người, chỉ là không cách nào quyết định, dù sao Vũ Sư Đức cũng một lòng trung thành với nàng bấy lâu. Trong lúc nàng đang do dự khó thể đưa ra quyết định, Tý Đoan trở về báo cáo lại những tình huống chính đã xảy ra bên trong Cự thành. Các ám vệ đều tự có một bộ cờ tín hiệu hoặc dùng bảng chữ lửa để liên lạc từ xa. Ban ngày vung vẩy đủ loại cờ hiệu, buổi tối vung vẩy các số lượng cây đuốc khác nhau làm đủ loại tư thế, người bên ngoài xem không hiểu nhưng các ám vệ lại biết rõ ẩn ý đằng sau, nên không cần lo lắng để lộ bí mật. Không ngờ báo cáo từ ám vệ lần này rốt cuộc giúp Trạm Hi vững tâm ra một quyết định, Nếu ông ta đã thông hiểu lòng người đến mức độ vậy, e rằng tâm tư của mình cũng có thể đoán đúng được nhỉ?
Một cơn gió mát lướt qua trong phòng. Ánh nến lúc sáng lúc tối từ ánh nến đột nhiên bị dập tắt. Trong căn phòng tối đen, âm thanh lạnh lẽo vô tình của Trạm Hi cất lên: “Thời điểm Kháng Tàng Kim bị đánh bại phải lui binh, cũng là ngày Vũ Sư Đức phải bỏ mạng.”
“Tuân chỉ.” Vẻ mặt Tý Đoan không chút tình cảm lập tức đáp.
Hai chủ tớ nhìn như tùy ý đối đáp nhưng cứ như vậy quyết định xong vận mệnh của một người.
|
Trạm thị vương triều – chap 27 .
Hồi II: Bình định Phần 11 .
“Ông nội, đến rồi, đến thật rồi kìa. Chúng ta có đánh không ạ?” Trong đêm tối, một thiếu niên không dằn xuống được cảm giác hưng phấn, lớn tiếng hỏi người bên cạnh.
“Câm miệng.” Mã lão tướng quân hung hăng trừng mắt cháu trai, nhưng vì đang trong bóng tối nên không hiện ra chút uy lực nào. “Ý hoàng thượng là muốn chiếm thành Định Xương, cháu nôn nóng thế làm gì? Chờ khi nào binh lính ở thành Định Xương sắp không chống đỡ được, chúng ta mới dồn lên tấn công.”
“Cháu có thể không nôn nóng được sao? Hoàng thượng đã chính miệng đồng ý với cháu, chỉ cần lập được công lao thì chuyện phong thưởng là không thể thiếu. Cháu sẽ để đám nhãi con kia trông vào mà thèm! Để xem bọn họ còn mặt mũi nào cười nhạo cháu nữa không?” Thiếu niên đang nói đúng là Mã Anh.
Mã lão tướng quân bất đắc dĩ thở dài, thật ra ông vô cùng yêu thích đứa cháu trai út này, nên cứ giữ chặt bên người để dễ bề chăm sóc vì chỉ lo lỡ có gì sơ suất thì ông còn kịp đỡ được, dù sao đánh trận cũng không phải một trò giỡn chơi. Thế nhưng lúc này ông cũng không muốn làm cháu trai mất hứng, đành chuyển đề tài: “Nếu cháu muốn đánh trận thì phải có bản lĩnh. Ông nội đố cháu, tại sao hoàng thượng không cho chúng ta từ Bắc Đoan tiến thẳng đến Bắc Địch, tập kích cung vua ép bọn chúng phải lui binh? Trái lại muốn chúng ta vượt núi băng đèo đi tới nơi này?”
“Ông nội, chuyện này mà cũng đem ra đố cháu sao? Lũ man di thì dù có là cung vua cũng chẳng khác gì túp lều vải. Khi đại quân chúng ta lặn lội đường xa đi tập kích bọn chúng, thì khi bọn chúng nhận được tin sẽ lập tức thu dọn lều vải điều khiển xe ngựa dắt díu dê bò, rồi tứ tán trên đại thảo nguyên. Chúng ta đến chỗ nào để tìm chứ? Uổng công vô ích không nói, còn phải tiêu hao tiền bạc và lương thực. Ngược lại chúng ta lại không giống thế, phòng ốc, gia tài, ruộng đất, lương thực đều cố định ở một chỗ, đúng y như tục ngữ đã nói, tránh được nhất thời chứ không tránh được cả đời. Đương nhiên chúng ta muốn tới chỗ này là để bảo vệ quốc gia.” Mã Anh biểu lộ giọng điệu y như đứa nhỏ hiếu thắng: “Ông nội, cháu biết ông làm tất cả là vì cháu, muốn che chở cháu trai bình an. Thế nhưng giờ cháu trai đã lớn, không thể lúc nào cũng ẩn núp phía sau ông mãi được. Còn nữa, thiên hạ đều biết Mã gia ở đất Đoan chúng ta là những người đời đời trung dũng, vì thế cháu trai cũng không thể làm một thằng oắt con vô dụng, để khuôn mặt già nua của ông nội bị bôi đen.”
“Cháu đúng thật là thằng ngóc thúi.”
Bên này hai ông cháu Mã gia đang thoải mái trò chuyện vui vẻ, nhưng phía bên kia vị tướng trấn thủ thành Định Xương – Chu Bính đang bị tình huống nguy cấp trước mắt giày vò đến sắp ngất. Chu Bính đã sớm nhận được tin trinh sát truyền về báo, quân địch đang dồn quân tấn công thành Định Xương, vậy nhưng thời điểm nguy cấp như lúc này mà dù một cái bóng của viện quân cũng chẳng thấy đâu. Lần này Chu Bính đành chỉ còn cách nhắm mắt mệnh lệnh đám binh lính phải quyết tử thủ thành Định Xương cho bằng được.
Đại tướng thống lĩnh quân Bắc Địch tấn công thành tên là Xích Kim – một vị dũng tướng cũng đồng thời là mãnh tướng. Kháng Tàng Kim để người bản lĩnh thế này ra trận chính là muốn không tiếc tất cả mau chóng đánh hạ thành Định Xương. Chính vì vậy, tình thế ở thành Định Xương giờ phút này là cực kỳ nguy hiểm. Mới đánh qua canh giờ thứ hai, quân Bắc Địch tựa như đám chó điên toàn bộ nhào lên bất chấp kỹ thuật bất chấp thương vong, chỉ dốc lòng ra sức đánh thật mạnh.
Binh lính thủ thành tuy được nghiêm chỉnh huấn luyện, nhưng dù sao số lượng có hạn. Chỉ một vạn người thì làm sao chống được kiểu đánh lấy thịt đè người thế này? Chu Bính nhíu mày nhìn xuống phía dưới thành thấy đâu đâu cũng có cây đuốc bị rơi vứt và tử thi ngã như rạ, nếu tạm đoán đại khái, e rằng bên phe địch còn chưa chết hơn vạn người mặc dù hiển nhiên quân Bắc Địch thương vong cũng khá nặng. Đáng tiếc vị tướng quân tên Xích Kim kia vẫn lớn tiếng thúc giục đại quân không ngừng nghỉ tấn công. Chu Bính tức giận đến mắng to: “Đúng là kẻ điên, đã điên mất rồi!”
Một tiểu giáo đứng gần bên lo lắng chạy tới: “Tướng quân, mới đánh hơn một canh giờ mà quân ta đã thương vong hơn nửa. Bây giờ có thể đứng lên chiến đấu được cũng chỉ khoảng chừng ngàn người. Tướng quân, chúng ta nên làm gì?”
“Làm gì bây giờ? Bố mày làm sao biết?”
“Tướng quân, hiện tại rút lui vẫn còn kịp.”
“Rút lui? Mày muốn để đầu ta cũng bị rút xuống theo ư?” Chu Bính chán nản ngồi sụp xuống đất, lại có một tiểu giáo hoảng sợ chạy tới, lớn tiếng kêu la: “Tướng quân, kẻ địch lại tiếp tục tấn công. Chúng ta sắp trấn thủ không được nữa.”
Chu Bính tuyệt vọng đem đao gác ở trên cổ chuẩn bị tự vẫn, hai tiểu giáo kia vội vàng ôm lấy ngăn cản. Tiếng quát tháo của kẻ địch ngày càng vang vọng, mắt thấy đến đường cùng, bỗng nhiên có người liều mạng gào to: “Đội hình địch bị rối loạn! Mau nhìn đi, quân địch thật giống như bị gì đó làm rối loạn rồi! Viện quân, nhất định là viện quân.”
Chu Bính vội vàng ném cây đao xuống, víu vào đầu tường ra sức phóng tầm mắt về phương xa chăm chú nhìn, đột nhiên hai mắt trừng lớn, trong lòng ức chế không được cảm giác hưng phấn la to: “Không sai, trận tuyến của kẻ địch bị rối loạn, có kỵ binh đang xông tới đây. Các anh em, viện quân đến rồi, mọi người đã được cứu.” Nói xong, Chu Bính đi đầu nhặt lên đao chém về phía kẻ địch, ra sức chém mạnh điên cuồng. Binh lính đang thủ thành cũng lập tức sĩ khí tăng vọt, dũng mãnh phản kích xông vào kẻ địch. Trong lúc nhất thời, từ trên xuống dưới tường thành đều âm vang tiếng hô ‘Giết’ đến rung trời, cây đuốc lập lòe cháy khiến đêm đen cũng sáng rõ như ban ngày. Ước chừng sau nửa canh giờ, quân Bắc Địch bắt đầu không chống đỡ nổi, dù sao bọn họ liều mạng tấn công hơn một canh giờ đã là phi thường mệt mỏi, hơn nữa thương vong khá lớn, sĩ khí có chút không cao, mắt thấy tường thành sắp phá được thì đột nhiên bên phe địch lại có viện quân tới hỗ trợ, nên tinh thần chiến đấu càng thêm hạ. Cũng không biết ai nhận ra trên cờ hiệu của phe đối địch có viết chữ Mã, thế nên quân Bắc Địch càng thêm vô tâm ứng chiến, bởi vì chuyện này có ý nghĩa là đám viện quân mới tới kia chính là quân Bắc Đoan trăm trận trăm thắng khi đối đầu với bọn họ.
Quân Bắc Đoan lấy vẻ nhàn hạ đánh kẻ mệt mỏi giết đến hăng say. Mã Anh xông lên trước, hăng hái giết địch như cắt rau gọt dưa. Mã lão tướng quân tay niệp chòm râu, cười híp mắt ở cách đó không xa, đứng gần chiến trường để nhìn xem cháu trai. Đúng đấy, chim ưng non đã lớn, cũng nên thả cho tự do bay đi.
Tinh thần chiến đấu một khi tan rã, việc bại trận như một chuyện hiển nhiên trước mắt. Xích Kim này có bản tính lỗ mãng còn muốn thu gom tàn binh xông lên chém giết lần nữa, nhưng bị đám thuộc hạ liều mạng ngăn lại, kéo lên ngựa tìm đường chạy trốn. Mã lão tướng quân thấy thắng bại đã định cũng không ra lệnh đuổi theo tàn quân, cưỡi ngựa đi đến dưới cổng thành Định Xương, sai người gọi bên trong ra mở cửa. Nhiệm vụ chủ yếu của ông chính là lãnh binh vào thành Định Xương làm công việc trấn thủ chỗ này.
Thế nhưng việc này lại khiến Chu Bính khó xử. Phạm Hách đã nói trước, không có thủ lệnh của gã thì không cho phép để bất luận người nào bước nào. Suy nghĩ đắn đo hồi lâu, Chu Bính góp vui đôi lời: “Không làm phiền tướng quân, mạt tướng sẽ lập tức sai người chạy đi bẩm báo Phạm đại nhân, ít ngày nữa Phạm đại nhân sẽ phái binh lại đây.”
Mã lão tướng quân cũng không định tranh luận với Chu Bính, chỉ lạnh lùng thốt: “Ít ngày nữa? Ít ngày nữa là khi nào? Nếu quân địch lập tức xua quân tấn công lần nữa, lẽ nào viện quân của Phạm đại nhân sẽ như thần binh từ trên trời giáng xuống? Chẳng lẽ ngươi muốn để cho binh mã của lão phu phải ở dưới thành liều mạng với kẻ địch, còn bản thân ngươi lại ngồi ở trong thành nhàn nhã quan sát? Lão phu có thủ dụ của hoàng thượng, nếu ngươi còn không mở cửa thành, chính là kháng chỉ. Lão phu sẽ đếm đến mười, nếu như ngươi vẫn không chịu mở cửa thành, lão phu sẽ lập tức ra lệnh cho quân lính công thành, đem hết đám giặc dám kháng chỉ các ngươi toàn bộ tàn sát hết. Một, hai ——”
Tiểu giáo đứng cạnh bên liền cuống lên: “Chu tướng quân, mở thành đi.”
“Này ——” Chu Bính do dự không quyết: “Phạm đại nhân có lệnh.”
Tốc độ nói của tiểu giáo cực nhanh: “Tướng quân, hiện tại chút người này của chúng ta có thể làm được gì? Ngài không mở cửa thành, hoàng thượng sẽ không bỏ qua cho ngài, khẳng định chờ đợi ngài là một con đường chết, ngài nói Phạm đại nhân sẽ vì ngài mà trở mặt với hoàng thượng sao? Không bằng trước tiên cứ mở cổng thành, chúng ta cùng bọn họ kề vai sát cánh trấn thủ thành Định Xương này, không có công lao cũng có khổ lao, hoàng thượng chắc chắn sẽ ngợi khen, Phạm đại nhân cũng không tốt trị tội ngài. Còn sau đó, có chút lời nói không xuôi tai, nếu ngài muốn tiến thân hay tiền đồ xán lạn gì đó thì điều kiện tiên quyết nhất là ngài vẫn còn mạng mới có thể mơ tưởng đến được!”
Chu Bính vội hét lớn: “Mở cửa, mau mở cửa.”
Vừa vặn Mã lão tướng quân đếm tới ‘Mười’, trong ánh mắt lóe lên một tia sát ý, vừa vào thành liền đem hết thảy binh lính thủ thành còn sống sót giam cầm chung một chỗ, làm trái tim Chu Bính giật thót thình thịch nhảy lên, vội cười nịnh hỏi: “Lão tướng quân, đây là ý gì?”
“Nơi này không cần các ngươi.” Mã lão tướng quân cũng không tiếp tục nhìn Chu Bính, sai người kéo xuống cho khuất mắt, rồi lập tức tự mình dẫn đầu ba vạn binh sĩ gia cố lại thành Định Xương, sau đó mệnh lệnh bảy viên đại tướng nhanh chóng dẫn theo một vạn binh mã lặng yên xuất kích, mai phục tại phía Đông của Cự thành, chỉ chờ khi thiên đăng sáng lên bay đầy trời thì đó là ám hiệu phản công do Lý Lãng phát động.
.
Xích Kim thảm bại mà quay về, người Bắc Địch cũng hiểu rõ quân Đoan đúng thật có lưu lại hậu chiêu, chỉ là Kháng Tàng Kim chưa từng nghĩ tới Trạm Hi lại dám điều động đại quân Bắc Đoan chạy tới đây. Lão có chút hối hận, hiện tại Bắc Đoan chỉ có mấy vạn quân trấn thủ, binh lực trống trải, nếu giờ lão chơi kế giương đông kích tây cầm quân công kích Bắc Đoan thì tốt rồi. Nhưng bỗng nhiên lão lại sực tỉnh, Trạm Hi dám làm thế vì không có gì phải sợ. Những năm gần đây, ngân khố quốc gia của Bắc Địch chỉ đều toàn dựa vào việc doạ dẫm Trung Nguyên mà có. Quân Bắc Địch vốn rất am hiểu cách đánh du kích, nhưng tại sao bây giờ lại muốn dồn đại quân ra vẻ quyết phân cao thấp cùng đối phương? Còn không phải do lương thảo tiếp tế khó khăn, muốn một lần bắt được Trạm Hi làm cho đối phương khuất phục, để cho triều Đoan tiếp tục tự nguyện nộp cống tiền bạc và lương thực cho bọn họ sao? Nếu giờ thật muốn từ Bắc Đoan xâm phạm Trung Nguyên, dọc theo đường đi phải qua Hộ thành và Nhạn Linh Quan, chỗ nào cũng có quân chốt chặn ngăn cản, như vậy Bắc Địch bọn họ lấy lương thảo từ đâu để tiếp tế trên con đường khúc chiết lặn lội đường xa đây? Đó là chưa kể nhân dân đất Đoan nhanh nhẹn dũng mãnh cũng sẽ không để cho đại quân bọn họ dễ dàng ra vào, đến lúc đó Trạm Hi thống lĩnh đại quân chạy đến nghênh chiến thì quân Bắc Địch chỉ có thể giống như thú bị vây khốn rơi vào vũng bùn. Càng nghĩ lão càng không cam lòng, còn muốn liều mạng một phen. Kế trước mắt, chỉ có mau chóng chiếm lấy Cự thành thì mới có thể xoay chuyển được cục diện cuộc chiến. Chủ ý đã quyết, lập tức truyền lệnh xuống.
Ngày mùng tám tháng Bảy, trời còn chưa sáng, quân Bắc Địch đã thổi kèn lệnh tiến công. Lần đánh này không giống với trận đánh mấy ngày trước, kẻ địch như sóng to gió lớn mạnh mẽ nhào lên, một làn sóng người cứ cứng rắn tiến đánh từ khi bình minh đến đêm đen sụp xuống, dường như muốn nhấn chìm san phẳng Cự thành.
Ngày mùng mười tháng Bảy, bên dưới Cự thành thây ngã ngựa đổ khắp mọi nơi, nhưng quân Bắc Địch vẫn không có ý dừng lại, cứ đạp lên thi thể đồng bào tiếp tục điên cuồng tiến công. Quân Cự thành trấn thủ đã rơi vào thế khổ cực chống đỡ, một bầu không khí tuyệt vọng tràn ngập khắp thành. Lúc này Vũ Sư Đức cũng chỉ có thể hết lần này đến lần khác mời vị ‘hoàng đế’ ra mặt tuần tra khảo sát để giúp binh lính vững tâm chiến đấu, trong lòng thì hy vọng Lý Lãng có thể mau chóng khởi xướng tổng tiến công.
Nội tâm Trạm Hi cũng như lửa đốt, Tại sao giờ này Lý Lãng còn chưa động thủ? Lẽ nào Lý Lãng cũng tráo trở thay tâm muốn mình rơi vào hiểm nguy? Thế nhưng lập tức nàng phủ định suy nghĩ ấy, Lý Lãng luôn là cái đinh trong mắt Kháng Tàng Kim, nếu như Bắc Địch thắng, người đầu tiên Kháng Tàng Kim muốn xử lý chính là mối họa lớn này trong lòng lão. Hơn nữa Lý Lãng là do Tiên Tiên thu phục về, nhất định Tiên Tiên sẽ không làm gì hại đến mình! Nghĩ đến đây, tâm trạng Trạm Hi hơi bình tĩnh lại.
Buổi chiều ngày mười hai tháng Bảy, quân Bắc Địch rốt cuộc ngừng lại việc công thành. Không phải Kháng Tàng Kim không muốn tiếp tục, mà là vì đám tướng sĩ đã mệt mỏi quá độ cộng thêm không được nghỉ ngơi phút giây nào, bởi thế mấy trăm ngàn đại quân này đã bị đẩy đến cực hạn không còn sức chiến đấu. Vũ Sư Đức đứng trên thành lầu nhìn thấy tình cảnh ấy đột nhiên mỉm cười, Bè lũ địch đã suy kiệt đến mức không thể tái chiến, xem ra nhiệm vụ nơi này của mình đã hoàn thành xong rồi! Bây giờ bên phe địch đã sĩ khí ủ rũ, binh lực mệt mỏi. Lý Lãng tướng quân, đại quân của ngài được nghỉ ngơi dưỡng sức đến hiện tại cũng nên xuất kích thể hiện bản lĩnh của bản thân đi!
Vừa đến giờ Tý, ông trời cũng thật giống linh cảm được điều gì mà tối nay đã ẩn đi ánh sao, bóng đêm trời tối đến mức xòe bàn tay trông không rõ năm ngón.
“Đằng kia là ánh sáng phản xạ từ ngôi sao ư? Thật nhiều ngôi sao?”
Binh lính tuần doanh Bắc Địch kỳ quái giương mắt nhìn về phương xa, những ‘ngôi sao’ này dường như ngày càng phát sáng, bay nhanh hướng về phía bọn họ. Có người cẩn thận nhìn đánh giá, còn có người có chút kiến thức, buồn bực nói: “Đây là thiên đăng của Trung Nguyên?” Lời còn chưa dứt, hỏa long tiễn che ngợp bầu trời giống như trận mưa xối xả trút xuống, bất ngờ tiếng la giết nổi lên đinh tai nhức óc.
Vũ Sư Đức đứng trên thành lầu đắc ý vô cùng, lập tức truyền lệnh triệu tập chúng tướng đến. Mọi người vừa tề tập đông đủ, ông vừa muốn phát lệnh tấn công thì ‘hoàng thượng’ dẫn theo tất cả đám thần tử đi đến, mặt mày tươi rói quay sang phía chúng tướng nói lời khuyến khích động viên: “Kỵ binh đã tới, tối nay chính là khoảnh khắc hãnh diện của nhân dân Trung Nguyên chúng ta khi được rửa sạch hết mọi nhục nhã bấy lâu. Trẫm đã từng nói với mọi người rằng, người làm binh muốn có một tiền đồ xán lạn rạng rỡ thì hãy ở trên chiến trường lập được chiến công. Tối nay trẫm sẽ đứng trên thành lầu nhìn mọi người anh dũng giết địch ra sao. Vũ đại nhân, truyền lệnh tấn công đi.”
Vũ Sư Đức nhanh chóng chạy đi truyền lệnh đại quân ra khỏi thành tấn công địch, sau khi an bài xong tất cả, ông hơi thấy bất mãn, Lúc này thắng bại đã định, đâu cần thứ hoàng đế giả mạo này xuất hiện ở đây làm bộ làm tịch? Nhưng ông lại sợ đám thần tử yêu cầu hoàng đế có mặt ở đây đôn đốc tác chiến, chỉ đành đè xuống cảm giác khó chịu, tiếp tục mệnh lệnh các tướng lĩnh dẫn binh ra khỏi thành tiến đánh địch. Tuy rằng chúng tướng ai nấy đều uể oải mệt mỏi, nhưng dù sao cũng đã dồn sức đánh trận mấy ngày qua, đã chết nhiều người như vậy, rốt cuộc mắt thấy sắp chiến thắng, cơ hội thăng quan tiến chức của chính mình đang nghênh đón ở phía trước, lúc này không nhanh chân giành trước thì còn tính chờ đến khi nào? Vì lẽ đó tinh thần mỗi người mới phấn chấn hăng hái lĩnh mệnh xông ra.
Quân Bắc Địch đã sắp tản đi, ngay từ đầu Kháng Tàng Kim còn muốn biết rõ rốt cuộc có bao nhiêu quân địch đang đột kích, nhưng hầu như phía Tây tựa hồ đâu đâu cũng có kẻ địch, đội ngũ của lão mà vọt tới đó thì bảy phần tan tác tám phần chạy trốn. Kháng Tàng Kim không hổ danh là nhân vật trí dũng kiệt xuất dày dạn sa trường, lập tức truyền lệnh xuống bảo các đại tướng mang theo đội binh lính mau lui về Hồi Đầu quan, rồi lại tập kết sau đó trăm dặm.
Lúc này trời đã về khuya nhìn gì cũng chẳng rõ, chính là khoảnh khắc bóng đêm phủ xuống mọi người an giấc. Cách chỗ quân doanh Bắc Địch không xa hừng hực trận cháy to hắt ánh lửa đến Cự thành sáng như ban ngày. Lúc đó có mũi tên lạc bay tới, mọi người dồn dập khuyên nhủ vị ‘hoàng đế’ mau chóng dời bước vào trong thành nhưng đều bị cự tuyệt, chỉ đành bất đắc dĩ đứng vây quanh cẩn thận bảo vệ sự an toàn.
Vũ Sư Đức nhẩm tính đã đến canh giờ để hoàng thượng thật xuất hiện, mới vừa mở miệng định khuyên hoàng đế giả mạo mau xuống trao đổi thân phận thì bỗng nhiên thấy trước ngực mát lạnh, loạng choạng lui hai bước, lại cảm giác phía sau tê rần, tức thì xụi lơ chúi người về trước ngã trên đất. Có người kinh ngạc hét lên: “Vũ đại nhân trúng tên lạc rồi.”
‘Hoàng đế’ tiến lên kiểm tra, vội la lên: “Mau chóng mệnh quân y cứu trị.”
Có một thị vệ đứng bên nhắc nhở: “Hoàng thượng, trên giày rồng của ngài đang dính vết máu, nếu như các tướng sĩ toàn thắng trở về nhìn thấy cảnh này, ắt hẳn trong lòng sẽ thấy bất an.”
“Mọi người hãy ở đây đốc thúc tác chiến. Trẫm vào thay y phục rồi sẽ quay lại ngay.” Vị ‘hoàng đế’ phất tay áo đi vào trong, một thoáng đảo mắt đi lên lần nữa đã là Trạm Hi chân chính.
Tin tức của Trạm Hi vô cùng linh thông, khi quân mã mới chạy ra ngoài Cự thành nghênh chiến, thì nàng đã bí mật vào trong thành dưới sự hộ tống của ám vệ. Có thủ lệnh của hoàng thượng và Vũ Sư Đức, vào cửa thành là chuyện dễ như ăn cháo. Trước khi Vũ Sư Đức bị trúng tên lạc, nàng đã ở trong hành cung nghỉ ngơi được nửa ngày. Khi người giả trang vừa lui xuống, nàng lập tức dẫn theo Tý Đoan đi ra ngoài, khôi phục lại thân phận.
Mã Cường đang đứng gần nhất âm thầm đánh giá vị hoàng thượng vừa xuất hiện, trong lòng bỗng nổi lên vài điểm ngờ vực. Thời điểm thành bị vây khốn, bọn họ toàn ở trong thành, nhưng cung nữ thân cận của hoàng thượng là Tý Đoan lại không có mặt ở đó, thế mà hiện tại lại xuất hiện. Ông từng bảo tâm phúc lặng lẽ đi dò hỏi khắp nơi nhưng chỉ nhận về một câu trả lời chung chung như hoàng thượng sai phái Tý Đoan đi ra ngoài làm việc, ông vô cùng không tin mà không có cách nào điều tra chứng thực. Hôm nay thấy Vũ Sư Đức bị trúng tên, dù nhìn thế nào ông cũng thấy hết sức kỳ quái, Trúng tên trước ngực nên ngã ngửa xuống đất, sao lại chúi người về trước ngã ra thế này? Chẳng lẽ là… Ông âm thầm hoảng sợ, lại nghe quân y đến báo, Bên trong tên lạc bắn trúng Vũ đại nhân có tẩm chất kịch độc. Mã Cường lặng yên quay đầu nhìn vết máu đỏ tươi trên mặt đất, càng thêm chắc chắn cho những suy nghĩ kia trong lòng. Hoàng đế thật ác độc! Nhưng vì sao lại phải làm vậy? Ông vẫn thấy hoàng thượng lo lắng vạn phần, mệnh lệnh đám quân y toàn lực cứu chữa, dáng vẻ không giống như đang làm bộ, trong lòng hoàn toàn mơ hồ hỗn loạn, căn bản đoán không ra tâm tư của hoàng thượng. Dường như Trạm Hi có cảm ứng, lạnh lùng liếc mắt nhìn lướt qua phía ông, khiến ông sợ đến mức vội vàng cúi đầu, nội tâm nháo nhào nhảy loạn.
Lúc này trời đã sáng choang, các đội quân mã lục tục phái người chạy qua lại báo cáo, bè lũ Bắc Địch tháo chạy về phía Hồi Đầu quan, thỉnh cầu được lệnh truy kích.
Trạm Hi sớm suy nghĩ xong kế sách, chỉ hạ chỉ để Lý Lãng dẫn quân truy kích, những người còn lại thúc ngựa lui về Cự thành thu dọn chiến trường. Nàng không dám bất cẩn, trận chiến ác liệt tối qua không biết giết địch được bao nhiêu, cũng không biết Kháng Tàng Kim còn có hậu chiêu nào khác phía sau hay không? Lý Lãng có kinh nghiệm chinh chiến phong phú, đủ sức tùy cơ ứng biến. Còn đám quân đội thủ thành đã quá mức mệt mỏi, ngộ nhỡ đụng trúng quỷ kế gì đó, không phải bị lật ngược chiến thắng rước lấy thất bại hay sao? Quân mã của Mã lão tướng quân vẫn đang đóng ở điểm trung gian giữa Cự thành và thành Định Xương qua lại phối hợp, bởi vì nàng đã đoạt lấy thành Định Xương nên càng phải nên phòng bị Phạm Hách.
Giờ phút này dân chúng sớm nhận được tin chiến thắng, tự phát giăng đèn kết hoa chúc mừng ầm ĩ trên đường phố, trong thành ngập tràn không khí vui mừng. Chạng vạng tối, Đào Thanh Sơn cực kỳ hưng phấn chạy đến báo cáo các tin tức nhận được trên chiến trường. Ngoài việc thu được số lượng lớn quân nhu kẻ địch để lại, không ngờ số lượng địch đã chết lên con số hơn hai mươi vạn người, nếu tính thêm số lính bị bắt, bị thương hoặc đào tẩu thì quân Bắc Địch lần này bị tổn thất gần phân nửa.
Thế nhưng khi Trạm Hi nghe báo cáo lại đột nhiên nhăn chặt lông mày, Tổn thất gần phân nửa? Vậy nói cách khác Kháng Tàng Kim vẫn còn ba mươi vạn quân! Tuy quân lão chạy tan tác mỗi người một ngả nhưng Lý Lãng chỉ có trong tay hai mươi vạn, sợ là đã phải quyết chiến một phen đây! Nàng hỏi: “Thế quân ta thương vong thế nào?”
“Bẩm hoàng thượng, nếu tính cộng gộp cả số binh lính của Lý Lãng tướng quân và Mã lão tướng quân thì tổn thất khoảng chừng đúng vạn người, chỉ là ba mươi vạn quân trấn thủ ở Cự thành này có số thương vong rất lớn, gần tám vạn người chết trận, hơn bảy vạn người bị thương, số còn lại cũng chỉ có mười lăm vạn người có thể tiếp tục chiến đấu, tuy nhiên sĩ khí của mọi người đã tăng vọt rất nhiều, cực kỳ hăng hái nếu được ra trận lần nữa.”
Trạm Hi nghe vậy càng thêm lo lắng, Giết địch được một ngàn, tự tổn thất năm trăm, đây quả là thắng hiểm! Xem ra quân Bắc Địch nổi tiếng dũng mãnh thiện chiến cũng là danh bất hư truyền. Trong lòng nàng rõ ràng, đám bộ hạ cũ của Mẫn Vỹ đảm nhiệm việc trấn thủ Cự thành này căn bản không có chút hiệu quả sát thương kẻ địch. Phần lớn quân địch thương vong đều là do trận tập kích bất ngờ vào tối qua mà có. Nàng đã hạ xuống nước cờ hiểm, những người này xem ra chỉ là đám dê con bị thí, dùng đội quân ba mươi vạn này như một đống thi thể xây lên bức tường chống đỡ thật dày chắc. Không sai, đúng thật nàng đã cầm vận mệnh của ba mươi vạn người để làm sụt giảm quân lực của Bắc Địch, nhằm tạo một cơ hội tấn công thật tốt cho Lý Lãng. Điểm ấy Vũ Sư Đức rõ ràng, Lý Lãng rõ ràng, Mã lão tướng quân rõ ràng, nhưng Kháng Tàng Kim lại nhìn không thấu, cũng không phải lão không thể nhìn thấu, căn bản lão cũng đã từng nghĩ tới hướng này. Kỳ thật bên phía Bắc Địch có người nhìn thấy điểm này, cũng từng nhắc nhở qua Kháng Tàng Kim, nhưng lão luôn cân nhắc đắn đo mãi, đặt mình vào hoàn cảnh người khác để suy ngẫm, lão đường đường là vua Bắc Địch cũng không dám đi một nước cờ hiểm như thế, vậy mà đứa nhãi con như Trạm Hi kia lại dám chỉ dùng chút dê con đó để bảo vệ sự an toàn của mình? Có điều bây giờ rước lấy thảm bại, chắc chắn Kháng Tàng Kim đã tỉnh táo lại, thu hồi lòng khinh thường rồi nghiêm túc đối đầu cùng Trạm Hi.
Vì lẽ đó, trong mắt Trạm Hi lóe ra tia tàn nhẫn quyết tuyệt, kiên quyết không thể để cho ba mươi vạn quân Bắc Địch này chạy ra được Hồi Đầu quan, bằng không thả hổ về rừng hậu họa khôn lường. Ngoài ra điểm khiến nàng càng thấy kỳ quái chính là tình hình đang xảy ra ở phương Nam, trận chiến tại đây của nàng đã đánh tới giai đoạn này, vậy mà sao phía Mẫn Dục dù chỉ một chút động tĩnh đều không thấy có? Còn chỗ Đổng gia, tựa hồ hoàn toàn không có tin tức? Lẽ nào là vì mình mang Đổng Bình theo bên người, bọn họ sợ ném chuột vỡ đồ ư?
Chính lúc mạch suy nghĩ của Trạm Hi đang dồn dập trăm mối ngổn ngang, lại nghe Đào Thanh Sơn bẩm báo: “Hoàng thượng, quân y nói vết thương Vũ đại nhân trúng tên không quá đáng lo, nhưng độc mà ông ấy dính phải lại là vấn đề nan giải, e rằng có nguy hiểm đến tính mạng. Hiện nay Vũ đại nhân đã tỉnh, muốn được gặp hoàng thượng.”
Trạm Hi than thở một tiếng thương xót, dời bước đi đến chỗ Vũ Sư Đức, thấy sắc mặt ông đã vàng như giấy cùng hơi thở mong manh, vậy mà còn muốn giãy giụa ngồi lên để được nhìn thấy mặt vua, liền vội vàng ra hiệu cho quân y giữ ông lại nằm nghỉ ngơi trên giường, trên mặt khổ sở nói: “Tiên sinh yên tâm, trẫm đã sai người chạy đi kinh thành tuyên ngự y đến, chắc chắn rồi ông sẽ sớm khôi phục thôi.”
“Hoàng thượng, thần không thể lại vì hoàng thượng mà tận lực nữa rồi. Đứa con trai nhỏ của thần tên Vũ Thanh Chiêu, kính mong sẽ được hoàng thượng chăm nom dẫn dắt thằng bé nhiều hơn.” Vũ Sư Đức rơi lệ đầy mặt, trong lòng biết không còn sống được lâu, chỉ là ông không cam lòng cũng không sao hiểu nổi, Bản thân mình luôn trung thành tận tâm một lòng với hoàng thượng như vậy, sao giờ lại uổng mạng chết ngay lúc này? Nhưng ông cũng biết hiện tại đã không đủ sức xoay chuyển đất trời, thậm chí ở khoảnh khắp sắp lìa đời này, ông cũng không thể để lộ ra một tia oán hận, bằng không gia tộc của ông tức khắc sẽ xong đời ngay. Ông chỉ có thể thầm đáng thương cho bản thân, Tính toán mưu tính nửa cuộc đời, ngay cả giờ phút lâm chung cũng phải ra sức diễn một vở kịch hết lòng trung thành với vua không chút sơ sót. Xem ra cả đời đều không thể sảng khoái một lần thật sự được làm chính mình.
Ngày mười ba tháng Bảy năm Thánh Khải thứ hai, giờ Dậu ba khắc, một thần tử tài giỏi cực kỳ trung thành với Trạm thị – Vũ Sư Đức, Phòng ngự sử triều Đoan, sau một lần trúng phải mũi tên lạc tẩm độc mà không may bỏ mình hy sinh vì nước. Trạm Hi khóc thương đau khổ không thôi, truy phong ông là Trung Mẫn Bá, mệnh lệnh an táng trọng thể, hạ chỉ cho phép con trai ông là Vũ Thanh Chiêu vào kinh kế tục tước vị.
.
Mê man ngủ suốt một đêm, đến trưa ngày hôm sau, Trạm Hi rời giường rửa mặt, lúc này nàng mới thật sự cảm thấy tinh thần thoải mái minh mẫn. Dùng chút đồ ăn sáng, mới muốn vận động đôi chút, lại thấy Tý Đoan tất tả chạy vào báo Lý Lãng tướng quân trở về.
Trạm Hi thấy kỳ quái, vội vàng tuyên ông đi vào, vừa mở miệng hỏi liền biết. Vốn dĩ Lý Lãng biết Hồi Đầu quan có đoạn đường đi vào chật hẹp, nếu quân mã quy mô lớn đang tháo chạy đi qua đoạn đường ấy thì khẳng định tốn không ít thời gian. Bởi thế ông muốn thừa dịp tình cảnh hỗn loạn cho quân địch một đòn trí mạng, sau đó thuận thế xua quân chiếm đoạt lại Hồi Đầu quan. Do đó khi dẫn quân truy kích, ông ra lệnh cho đội ngũ không nên bám quá sát quân địch, chờ toàn bộ quân địch tập trung ở lối vào Hồi Đầu quan thì một lưới tóm gọn. Thế nhưng không ngờ quân Bắc Địch đang truy đuổi theo từ xa kia lại đột nhiên biến mất không thấy tung tích. Lúc mới đầu ông cho rằng kỵ binh Bắc Địch cưỡi ngựa thần tốc, lệnh trinh sát đi tìm hiểu, kết quả ở Hồi Đầu quan vẫn phòng giữ giới nghiêm mà không gặp quân địch chạy đến. Ông đi dọc theo phương hướng Hồi Đầu quan, phái ra rất nhiều trinh sát đi tra xét khắp nơi nhưng không thấy bóng dáng quân địch ở đâu. Ông chỉ lo có biến cố đã xảy ra, mau chóng dẫn binh trở về Cự thành phục mệnh.
Trạm Hi cũng nghĩ mãi mà không ra, liền lệnh cho đội trinh sát mau chóng cưỡi ngựa về phía Bắc đi tìm tung tích địch. Thế nhưng ba ngày trôi qua vẫn không hề có tin tức nào. Trạm Hi triệu tập toàn bộ tướng lĩnh vào hành cung nghị sự, có vài binh lính thủ thành lập được công lao mới vừa đề bạt lên vị trí thống lĩnh, đây là lần đầu tiên được diện kiến hoàng thượng nghị sự nên nội tâm vô cùng khẩn trương, nhưng trên mặt đều là vẻ cứng đờ cẩn trọng.
Trạm Hi ôn hòa tươi cười với chúng tướng: “Các vị tướng lĩnh ở đây ắt hẳn đều đã nghe thấy chuyện quân địch mất tích một cách bí ẩn? Hôm nay trẫm gọi các vị đến đây chính là muốn thương nghị đối sách. Các vị tướng lĩnh cứ việc nói năng thoải mái.”
Chúng tướng nhìn lẫn nhau, cau mày trầm mặc không nói. Ngay cả Lý Lãng còn không làm rõ được, chúng tôi đây nào có thể biết?
Cũng có người lớn mật mở miệng thưa: “Khởi bẩm hoàng thượng, có thể kẻ địch cũng như chúng ta chia nhỏ đội quân thành nhiều tiểu đội rồi dùng xe ngựa nhỏ vượt qua núi Tiên Nữ trở về Bắc Địch.”
Trạm Hi giương mắt nhìn lên, Lại là Mã Anh! Nàng cười nói: “Lúc này Mã lão tướng quân nên ở thành Định Xương, làm sao ông ấy lại thả cậu đến đây?”
Mã Anh chắp tay nói: “Bẩm hoàng thượng, sáng nay Phạm Hách dẫn theo năm vạn binh đến dưới thành Định Xương, yêu cầu được mở cổng ra khỏi thành để hợp lực cùng hoàng thượng tiến đánh Bắc Địch. Ông nội bảo mạt tướng đến đây để xin ý chỉ của hoàng thượng.”
Muốn mượn lý do đánh địch để được vào thành Định Xương rồi ở lì không đi sao? Phạm Hách đây là đang xem trẫm là kẻ ngu si ư? Trạm Hi cười lạnh nói: “Bảo ông ta hãy mau bảo vệ tốt Cận Hương quan, còn những thứ khác không cần ông ta quá nhọc lòng.”
Lý Lãng thấy hoàng thượng có vẻ không vui, mau chóng chuyển hướng đề tài: “Hoàng thượng, điều Mã tiểu tướng quân nói cũng có lý. Vậy thần sẽ phái người vào núi Tiên Nữ tìm hiểu kỹ thêm.”
Trạm Hi gật đầu đồng ý. Lúc này thị vệ bước vào bẩm báo: “Hoàng thượng, Đổng Bình đại nhân ở bên ngoài đang chờ yết kiến.”
“Tuyên.” Trạm Hi nhất thời cảnh giác lên. Nàng luôn có tâm lý đề phòng hai người Đổng – Mã trước những chuyện quân sự này nọ, mà hai người Đổng – Mã này cũng rất tinh ý có tự mình hiểu mình, vừa vào Cự thành liền lẩn đi rất xa, hôm nay Đổng Bình đến chỉ sợ sẽ không có chuyện tốt.
Tay Đổng Bình nắm chặt phong thư, sắc mặt đầy vẻ thê lương, quỳ xuống nức nở nói: “Hoàng thượng, phụ thân thần bệnh nặng, vô cùng nhớ nhung hoàng hậu cùng thần. Thần ăn lộc của vua thì phải trung với vua, đương nhiên không thể rời đi vào lúc này. Kính xin hoàng thượng cho phép hoàng hậu về nhà thăm viếng để an ủi tâm tình của phụ thân thần.”
Thế này là đang tính đóng vở tuồng nào đây? Trạm Hi không rõ, nàng chợt nhớ tới, Trước đây Đổng gia đã từng thỉnh cầu xin hoàng hậu được về nhà thăm viếng thì phải? Bọn chúng muốn lợi dụng Đổng Xu Vận làm chuyện xấu xa gì? Thế nhưng phụ thân người ta bệnh nặng, muốn cháu gái về thăm cũng là chuyện thường tình, ngay ở trước mặt nhiều như vậy thẳng thừng lên tiếng từ chối cũng không thể nào nói nổi. Nhưng nàng cũng không muốn cứ như vậy dễ dàng đáp ứng, bèn âm trầm nói: “Mấy ngày nay quân địch vây thành vô cùng chặt, thế mà thư của ông vẫn có cách để vào đây?”
“Hoàng thượng, thư nhà thần vốn đã sớm đến, chỉ là lúc đó thấy quân tình căng thẳng, thần không dám lại để hoàng thượng thêm phiền lòng. Hiện tại Bắc Địch đã lui, thần mới cả gan đến xin yết kiến.” Đổng Bình là ai cơ chứ, nói chuyện rất có lý lẽ bằng cớ.
“Được.” Trạm Hi không muốn tiếp tục dông dài cùng ông, xua tay để ông lui ra, sau đó lại thương nghị đến những công việc cần làm kế tiếp rồi đuổi chúng tướng ra ngoài, mới tĩnh tâm hạ bút xuống viết thư cho Mẫn Tiên Nhu, đem mọi chuyện đã xảy ra nơi đây thuật lại tỉ mỉ, đặc biệt căn dặn việc quan trọng trước hết chính là cẩn thận phe cánh Đổng gia. Chờ đến khi ký tên viết ngày, nàng mới bất chợt thấy sốt ruột, Tính ra hôm nay đã qua giữa tháng bảy, đến cuối tháng Tiên Tiên đã mang thai đủ tháng, con gái không biết lúc nào sẽ được sinh ra, thế nhưng hiện tại Kháng Tàng Kim kia không biết đang trốn chỗ nào, mình căn bản không thể trở về kinh thành. Mới nghĩ đến đây, nàng đứng dậy tính cất bước ra ngoài đi dạo, nhưng khi quay sang thấy Tý Đoan như cọc gỗ đứng bên cạnh thật chướng mắt, trong lòng nổi nóng: “Trẫm nhìn cô cứ tựa như thấy một nhỏ lạnh lùng vô tình nào ấy! Lẽ nào cô không một chút nào thấy nhớ Ngân Nguyệt? Mau cầm theo phong thư trẫm vừa viết rồi nhanh chóng hồi cung thăm nàng đi.”
Mặt Tý Đoan không chút biểu cảm: “Nô tì phải ở đây bảo vệ hoàng thượng, việc đưa thư truyền tin đã có một ám vệ khác lo.”
“Cô ——” Trạm Hi tức giận đến không chỗ phát tiết.
.
Khi phong thư này được đưa đến kinh thành thì đã là ngày hai mươi hai tháng Bảy. Mọi người ở cung Thanh Y từ lâu như gặp đại địch, ai ai cũng tinh thần căng thẳng, chỉ lo nương nương nhà mình có gì đó sơ suất, thế mà người trong cuộc vẫn bình tĩnh thản nhiên như không có việc gì. Từ sau khi Trạm Hi ra ngoài xuất chinh, Mẫn Tiên Nhu trở nên vô cùng nhàm chán, dù làm gì cũng không nhấc lên được hứng thú, dáng vẻ lúc nào cũng uể oải biếng nhác. Thế nhưng việc này lại khiến Chu y quan và Lý ma ma lo lắng sốt hết cả ruột, ngày ngày đều ở bên tai Mẫn Tiên Nhu lải nhải, hy vọng Hoàng quý phi siêng đi lại nhiều thêm chút để ngày sau dễ sinh hơn. Chỉ khi Mẫn Tiên Nhu đang trong tâm trạng tốt mới nghe lời bước ra ngoài dạo quanh hai vòng, chứ ngoại trừ Trạm Hi thì ai có thể khuyên động được nàng? Cũng không nên trách nàng lúc này quá biếng nhác, vì hiện nay trong triều và phương Nam đều không có động tĩnh, nàng muốn kiếm chuyện để bận tâm động não động tay chân cũng không thấy cơ hội thi triển ở chỗ nào. Điều này cũng tại bản thân nàng, ai bảo ngay từ đầu nàng đã sắp xếp quá chu đáo làm chi?
Kỳ thật từ lúc Mẫn Dục nhận được tin Bắc Địch xua quân đến xâm phạm biên cương thì đã nghĩ đến chuyện khởi binh, nhưng y mới có chút động tĩnh chuẩn bị điều binh, lập tức bên trong Nam Tấn liền đồn đại khắp nơi, bảo y cấu kết Bắc Địch muốn gieo vạ cho nhân dân Trung Nguyên. Y đã tạo dựng một hình tượng nhân đức chú trọng thanh danh, như vậy làm sao có thể để bát nước dơ đó giội trên người mình? Lập tức hạ chiếu thư phát hoàng bảng, công bố bản thân y quyết không chung tay với Bắc Địch thông đồng làm bậy, phải đợi đến khi lũ man di bị đánh đuổi khỏi Trung Nguyên, lúc đó y mới quang minh chính đại khởi binh vì một triều Tấn chính thống hợp nhất. Có điều y cũng là người có đầu óc, biết đây chính là thời cơ trời cho ngàn năm một thuở, bỏ mất quá đáng tiếc, bởi vậy y luôn mãi nghĩ suy, quyết định lặng yên xuất binh. Đại quân năm mươi vạn nhân mã tập kết xuất chinh mà muốn làm âm thầm thần không biết quỷ không hay, thì việc này không thể vội vàng và tốn rất nhiều thời gian. Ban ngày không cho phép nhúc nhích, buổi tối mới lặng lẽ di chuyển, đội ngũ vẫn chưa thể tụ tập quá nhiều, bằng không một khi gây ra động tĩnh lớn, nhất định dân chúng đều sẽ biết ngay. Có vài mưu sĩ Nam Tấn thấy vậy đều tức giận không thôi, nhiều lần tiến vào ngăn gián nhưng Mẫn Dục khăng khăng không nghe. Chờ khi đại quân đến gần Thiên Môn Lĩnh đã là ngày mười tám tháng Bảy, lúc này lại nghe mật thám đến báo, Bắc Địch thất bại thảm hại, thế là y lại bắt đầu do dự, mệnh lệnh quân đội lùi về sau trăm dặm dựng trại đóng quân. Suốt ngày y triệu tập mưu sĩ thương nghị, kết quả càng nghe càng loạn, cũng không biết nên làm thế nào cho phải. Thời gian cứ như vậy mà trôi, làm lỡ rất nhiều thời cơ tốt.
Tuy nhiên tướng quân đóng giữ Thiên Môn Lĩnh – Triệu Nham không ngày nào dám lơi lỏng khinh thường, lập tức viết tấu chương báo cáo hết tình huống hiện nay cho triều đình. Phần tấu chương này cùng phong thư của Trạm Hi gần như cùng một lúc được gửi đến tay Mẫn Tiên Nhu. Nàng khẽ vuốt ve phần bụng nhô lên, mỉm cười lẩm bẩm: “Ngày mười ba quân ta đại thắng, thế mà ngày mười tám Mẫn Dục đã biết rồi? Thần tốc như vậy, xem ra bên cạnh Trạm Hi có người cấu kết với Mẫn Dục.”
Dậu Dương, Thân Cúc, Ngân Nguyệt đứng bên cạnh đều giật mình sững sờ. Dậu Dương vốn đảm trách nhiều công việc ở bên ngoài, mở đầu lên tiếng: “Nương nương, nếu là đi đường bộ, chỉ tính khoảng cách từ kinh thành đến Cự thành, trước hết cần phải đi về phía Đông Bắc, vòng qua núi Vọng Nữ, lại đi tiếp từ phía Tây thành Định Xương, hành trình như vậy ít nhất cũng phải mấy ngàn dặm. Còn nếu dùng bồ câu đưa thư, trực tiếp bay từ núi Vọng Nữ về kinh thành, rồi từ kinh thành bay qua Thiên Môn Lĩnh, không chừng chưa cần dùng tới năm ngày. Ngoài ra nếu Mẫn Dục có thiết lập một tổ chức do thám ở Cự thành thì rất có thể cũng cực nhanh biết được tin tức.”
Mẫn Tiên Nhu nhăn mi không vừa lòng nói: “Nghĩ tiếp đi!”
Thân Cúc tiếp lời: “Bẩm nương nương, nếu nhắc đến thời tiền Tấn, thiên hạ đều biết ba huynh đệ Mẫn thị ai ai cũng có mưu đồ soán vị. Mẫn Dục đúng là có lý do bố trí nội ứng ở kinh thành, thế nhưng vị trí Cự thành xa xôi hẻo lánh lại là địa bàn của Mẫn Vỹ, trong khi hành vi của Mẫn Vỹ đã sớm đánh mất tâm của người trong thiên hạ, vậy thì sao Mẫn Dục sẽ bỏ sức giám thị Mẫn Vỹ?”
Dậu Dương chần chờ nói: “Mẫn Vỹ bồi binh luyện tướng, Mẫn Dục xưa nay cẩn thận, có thể ——”
Ngân Nguyệt mỉm cười nói: “Nương nương, nô tì hiểu rồi. Việc nuôi dưỡng bồ câu đưa thư vừa phí tiền vừa tốn thời gian, trong khi khu vực Cự thành lại thường xuyên bị Bắc Địch xua quân xâm phạm, binh mã vừa đi qua là cả vùng trở thành phế tích, hẳn là Mẫn Dục sẽ không ngốc mà làm vậy. Huống hồ Mẫn Vỹ chẳng qua là ỷ vào Phạm Hách mới ngông cuồng tự mãn, nên người muốn giám thị phải là Phạm Hách mới đúng. Tuy nhiên từ chỗ Phạm Hách biết được tin đại thắng, lại dùng chim bồ câu đưa thư cho Mẫn Dục thì không thể chỉ mất mỗi năm ngày. Chính vì thế, chắc chắn bên cạnh hoàng thượng có người của Mẫn Dục.”
“Rốt cuộc Ngân Nguyệt lớn tuổi hơn chút nên tầm hiểu biết rộng hơn. Có phải là người của Mẫn Dục hay không thì chưa thể chắc chắn được, thế nhưng nếu như hai phe cấu kết hợp tác để cầu lợi cho riêng mình, thì hừ!” Mẫn Tiên Nhu cười lạnh: “Dậu Dương, cô đi thăm dò vùng ngoại thành xung quanh kinh thành xem hiện đang có bao nhiêu hộ nuôi dưỡng bồ câu.”
“Ý nương nương là, phương hướng bồ câu đưa thư từ Cự thành chính là bay đến kinh thành, rồi tại kinh thành lại có người khác dùng bồ câu đưa thư báo tin cho Mẫn Dục? Vậy thì không ai khác ngoài hai nhà Đổng – Mã kia rồi!” Thân Cúc bất chợt không nói nữa.
“Đột nhiên Mẫn Dục cho quân lui về sau trăm dặm, rõ ràng chính là vì đã biết tường tận kết quả của cuộc đại chiến ở Cự thành, chỉ lo Trạm Hi rút ra vài phần quân lực quay sang đánh trả chống lại y. Đã tiêu diệt được bao nhiêu quân địch, mấy kiểu tin thế này không tính là cơ mật, chỉ cần tìm mấy vị tướng lĩnh bình thường hỏi thăm đã biết được ngay. Kỵ binh Bắc Đoan ngày đi ngàn dặm thần tốc không thua kém gì quân Bắc Địch. Vậy nên y có thể không sợ ư?” Mẫn Tiên Nhu nhắm mắt nghỉ ngơi: “Dậu Dương, nhanh chóng đi thăm dò!”
|
“Nô tì tuân chỉ.” Dậu Dương xoay người đi ra ngoài. Sau một đêm, Dậu Dương tức thì trở về bẩm: “Nương nương, nô tì sai phái người cẩn thận tra xét bốn phía, đúng là khu vực ngoại thành có vài hộ gia đình nuôi dưỡng bồ câu, có điều kiểm tra từ màu lông đến xương cốt thì những chim bồ câu này đều là loại nuôi lấy thịt. Còn phía Đông ngoại thành, chỗ làng Đồng Sơn có rất nhiều bầy bồ câu chắc khỏe chất lượng tốt, thuộc hạ nô tì đóng giả làm khách hành hương hỏi thăm qua rất nhiều hòa thượng sống gần đấy, có người cho biết bầy bồ câu này đều là những chim hoang được mấy chùa miếu rải thức ăn nuôi qua ngày mà thôi. Thật sự nô tì nhìn không ra điểm nào bất thường, hay là nô tì phái người lại tiếp tục tra xét trong kinh thành?”
“Cô sống càng lâu càng đi thụt lùi.” Mẫn Tiên Nhu khiển trách: “Trong kinh thành này, người tinh mắt chỗ nào cũng có, bồ câu đưa thư bay tới bay lui có thể không khiến người sinh lòng nghi ngờ sao? Chùa miếu rải thức ăn nuôi dưỡng vài động vật hoang dã đúng là chuyện bình thường, nhưng hiện tại là thời kỳ không bình thường nên không thể bỏ qua bất kỳ chi tiết nào. Cô có nhớ chùa Vân Tịnh ở ngoại ô thành Nam? Trụ trì chùa – Không Minh đại sư chính là người của hoàng thượng.”
Dậu Dương vô cùng xấu hổ, cả mặt đỏ bừng: “Nô tì sai rồi.” Nàng khom người lui ra, khi đến giờ lên đèn, nàng lại quay về bẩm báo: “Không ngoài dự liệu của nương nương, quả thật có điểm quái lạ. Làng Đồng Sơn này tuy chỉ là gò đất toàn lăng mộ nhưng lại có đến ba tòa nhà khá lớn có để bảng chữ ‘Phẩm’ theo kiến trúc chùa miếu. Nếu xem xét theo cách nhìn binh pháp, rất có thể được xây dựng với ý định của công và thủ nương nhờ và tương trợ lẫn nhau. Càng kỳ quái chính là, các chùa miếu này hầu như không có khói nhang và thắp đèn, vậy mà đám hòa thượng ở trong lại có đến mấy trăm người. Thuộc hạ nô tì có lẻn vào trong tra xét, đếm đại khái ba toà chùa miếu phỏng chừng có hơn ngàn hòa thượng. Nô tì còn sai người đi tìm hiểu ở bốn phía xung quanh làng Đồng Sơn, thấy toàn bộ thôn trang đều là nông hộ, khi chùa miếu thu mua đồ cũng là trực tiếp mua từ trong các nông hộ này. Vào ngày thứ mười lăm mỗi tháng, tiểu thương trong thành cũng sẽ ghé các nông hộ đó thu mua chim sống rau tươi, rồi buôn bán cho mấy nhà giàu hoặc tửu lâu trong thành.”
“Lần này cũng biết học khôn, không cần bổn cung nhắc nhở đã biết sai người đi tra xét bốn phía quanh làng Đồng Sơn.” Mẫn Tiên Nhu khá thỏa mãn, nhưng bất chợt lông mày lại nhăn chặt: “Nhà giàu? Tửu lâu? Tiểu thương? Nông hộ? Hòa thượng? Chỉ có chỗ này nuôi dưỡng bồ câu đưa thư ư? Dậu Dương, hôm qua cô nói từ Cự thành đến ngoài Thiên Môn Lĩnh, nếu như dùng bồ câu đưa thư cũng không cần thời gian năm ngày?”
Dậu Dương nghe được khen ngợi, tâm trạng chuyển sang vui hơn: “Bẩm nương nương, nô tì đã tính toán qua, nếu là bồ câu đưa thư loại tốt thì ít nhất ba ngày đã tới nơi, nếu không bốn ngày sẽ tất đến.”
“Thế vì sao Mẫn Dục lại mất năm ngày mới có thể nhận được tin?” Mẫn Tiên Nhu giống như tự hỏi tự đáp: “Đúng như dự đoán, chỉ có thể là như vậy.”
“Nương nương, đây là ý gì?” Dậu Dương không rõ.
Mẫn Tiên Nhu nâng mắt liếc nàng: “Điểm ấy cũng không nghĩ ra, cô cũng không xứng làm người của bổn cung.”
Dậu Dương cố gắng cân nhắc lại khổ sở suy nghĩ, cuối cùng quyết định lẩm bẩm nói: “Bồ câu đưa thư từ Cự thành đến kinh thành nhiều nhất cần một ngày rưỡi, mà từ kinh thành đến ngoài Thiên Môn Lĩnh cũng chỉ cần hơn một ngày là cùng. Nếu Mẫn Dục có cấu kết với người trong triều, hẳn là Mẫn Dục chỉ cần khoảng ba ngày đã có thể biết tình hình ở Cự thành. Vậy mà giờ y năm ngày mới nhận được tin, nói rõ người trong triều ít nhất phải mất thêm một ngày mới có thể tiếp xúc với người của Mẫn Dục.” Nàng càng nói càng hớn hở: “Nương nương, nô tì muốn phái người đi lục soát phạm vi lớn hơn chút nữa.”
Lúc này Mẫn Tiên Nhu mới điềm nhiên gật đầu: “Nói chung có tiến bộ. Ban đầu bổn cung vốn cũng cho rằng trong kinh thành tất nhiên phải có nhiều nanh vuốt cài cắm của Mẫn Dục. Không hề nghĩ rằng Mẫn Dục cũng là người có chút đầu óc suy tính. Đội ngũ của cô nếu chỉ phụ trách điều tra tìm hiểu trong kinh thành và ngoại ô xung quanh kinh thành thì còn có thể đảm đương. Giờ muốn lục soát phạm vi lớn hơn ngoài khu vực kinh thành, e rằng người của cô không đủ dùng, giờ cô mau đi truyền lệnh cho Vệ Tự, điều động nhân mã Kinh Kỳ Vệ, để bọn họ cải trang ngầm hỏi. Ắt hẳn tổ chức bí mật của Mẫn Dục ẩn giấu rất sâu, trong thời gian ngắn e rằng cũng không tra được.”
Dậu Dương cười đến xán lạn: “Mẫn Dục biết giờ phút này nếu để mật thám xuất hiện ngày một nhiều ở kinh thành nhất định sẽ gây ra hoài nghi. Y sợ những mật thám này ngược lại bị chúng ta lợi dụng, liền lui về một bước yên lặng xem biến đổi. Nói như vậy, trong kinh thành chắc chắn có một cứ điểm y cho rằng rất đáng tin không dễ bị hoài nghi dùng để trao đổi tin tình báo.” Nàng khua tay múa chân: “Nương nương, nô tì sẽ bảo thuộc hạ điều tra kỹ thêm đám nhà giàu, tửu lâu, tiểu thương, nông hộ, hòa thượng kia, quyết để bọn chúng lộn chổng vó lên trời. Nô tì còn có thể nhờ Không Minh đại sư trợ lực giúp nô tì, tìm một cái cớ để thăm dò mấy hòa thượng đó.”
Thân Cúc bĩu môi liếc nàng: “Làm được chút việc liền đắc ý vênh váo! Đừng ở trước mặt nương nương thất lễ hơn nữa, bộ không thấy xấu hổ ư?”
Đám người nhìn dáng vẻ Dậu Dương lúng túng luống cuống liền bật cười vui vẻ. Ngay cả Mẫn Tiên Nhu cũng không nhịn được cười. Ai ngờ ba ngày sau, Dậu Dương cúi đầu ủ rũ quay về bẩm báo: “Nương nương, nô tì vô năng, chỉ có ở chỗ Không Minh đại sư thu được chút tin có giá trị. Ngày hôm trước đại sư lấy cớ muốn vì hoàng thượng cầu phúc tam quân nên có gửi lời mời các trụ trì ở mấy chùa miếu gần đó cùng làm một đạo trường. Sau đó ông ấy có lén nói với nô tì, ba vị trụ trì ở làng Đồng Sơn kia đúng là có biết chút ít Phật pháp, chỉ là ông ấy có trực giác cảm thấy sát khí của ba người này rất nặng.”
“Con nhà võ? Những tử sĩ ở trường thi lúc trước kia, Vệ Tự đã tra đến đâu rồi?” Trong mắt Mẫn Tiên Nhu lóe ra linh quang, chỉ là hiện tại nàng đang bị Ngân Nguyệt và Thân Cúc dìu đỡ tản bộ ở trong vườn nên hơi thở có chút dồn dập.
“Bẩm nương nương, thánh chỉ của hoàng thượng là gióng trống khua chiêng tra xét một phen, đương nhiên Vệ đại nhân không tìm ra được bất kỳ manh mối nào.” Đột nhiên Dậu Dương như được mở sáng mắt: “Đi thăm dò chỗ chùa miếu ở làng Đồng Sơn kia? Nương nương thật sự là thần tiên! Trước khi đi ứng thí, những tử sĩ giả trang làm văn nhân đó sẽ tìm một chùa miếu thanh tịnh kham khổ học hành, việc này nếu nhìn vào sẽ thấy là chuyện bình thường, vì chẳng ai sẽ hoài nghi đến chùa miếu.”
“Hòa thượng, người trần. Nói trắng ra, hai loại người này khác nhau có khi chỉ là không tóc hay có tóc thôi. Đổng gia, chùa miếu, tử sĩ, cứ theo đường dây này đi thăm dò thử xem. Có thể không hẳn như bổn cung suy nghĩ.” Mẫn Tiên Nhu hơi mệt chút, ra hiệu dìu nàng ngồi xuống, lại nói: “Bổn cung luôn cảm thấy có chút kỳ lạ. Các đời cha chú của Trạm Hi ở kinh thành bố cục hồi lâu, Vũ Sư Đức lại là người có thủ đoạn tâm trí thượng thừa, trong kinh thành này đủ loại hạng người ở mọi ngành nghề đều có mật thám của chúng ta cài cắm, làm sao lại không tìm được tổ chức bí mật của Mẫn Dục chứ?” Nói đến đây, nàng hơi có chút tiếc hận vì Vũ Sư Đức đã tự dưng bị uổng mạng, rồi quay sang hỏi ngược lại: “Người nào có thể không khiến chúng ta sinh ra bất kỳ chút nghi ngờ nào đây?”
Dậu Dương, Thân Cúc, Ngân Nguyệt tròn mắt đối diện nhìn lẫn nhau, đột nhiên đồng thanh nói: “Người của mình!”
Mẫn Tiên Nhu cười lạnh: “Dậu Dương, trước tiên cô tạm thời đừng điều động tiếp thế lực ngầm ở kinh thành, để đám Sửu Hoa đi thăm dò, đặc biệt là các nhà giàu và người trong tửu lâu.”
Dậu Dương lĩnh mệnh mà đi, tiếp theo cung nữ đến báo, Hoàng hậu phái người truyền lời cho nương nương, báo rằng mấy ngày nay nàng ấy vội vàng chuyện về nhà thăm viếng nên không có thời gian đến thăm nương nương, kính mong nương nương nhất định phải bảo trọng thân thể.
Thân Cúc bưng một bát canh gà hầm thuốc đang tỏa ra mùi thơm ngát đưa cho Mẫn Tiên Nhu, bất mãn nói: “Nương nương, Đổng gia này lại tính đóng vở tuồng nào nữa đây? Chẳng hiểu ra sao vào lúc này lại muốn hoàng hậu trở về nhà thăm viếng?”
Mẫn Tiên Nhu mỉm cười nói: “Bổn cung đâu phải thật sự là thần tiên, chỉ cần bấm tay tính toán liền biết hết tất cả mọi chuyện. Cô nóng vội thế làm gì, ngày mai hoàng hậu quay về đây không phải sẽ sáng tỏ ngay sao?”
Ngân Nguyệt cười nói: “Nương nương ở trong lòng đám nô tì không khác gì thần tiên cả mà. Thế nhưng cô nàng hoàng hậu kia thật có thể biết gì nói nấy với nương nương ư?”
“Vậy thì phải xem Đổng gia đối xử ra sao với vị hoàng hậu này đã.” Mẫn Tiên Nhu cười vô cùng giảo hoạt.
Không ngoài dự đoán, sáng sớm giờ Mão ngày hai mươi bảy tháng Bảy, Hoàng hậu xuất cung về nhà thăm viếng. Vốn bộ Lễ và phủ nội vụ đã an bài lịch trình để Hoàng hậu có thể hồi cung vào giờ Dậu, kết quả không tới giờ Thân, Hoàng hậu đã trở về cung, sau đó trực tiếp đến thẳng cung Thanh Y. Ngân Nguyệt đứng bên bị dáng vẻ hai mắt đỏ rực cùng luồng khí tức giận đang tỏa ra từ người hoàng hậu làm sợ hết hồn, chỉ có Mẫn Tiên Nhu bình tĩnh ngồi yên tại chỗ, sai người đóng chặt chính điện, trên mặt mang theo nụ cười an ủi, yên lặng nhìn Đổng Xu Vận quỳ xuống đất bật khóc kể lể.
.
Ban đầu thánh chỉ của hoàng thượng cho phép về nhà thăm viếng bỗng nhiên ban xuống, tuy không hiểu rõ lắm tình huống nhưng nội tâm Đổng Xu Vận vẫn tồn chút hy vọng, dù sao cũng là nơi đã từng sinh ra và lớn lên, có người thân cùng chung huyết mạch với nàng ở đó. Khi bước chân vào phủ, thấy mọi người trong Đổng gia đều là vẻ ngóng trông vui mừng, thật tình thì đã làm trong lòng nàng cảm thấy chua xót không thôi, đặc biệt nhìn thấy nước mắt của mẫu thân càng khiến nàng thêm thương cảm. Lại nhìn tới khuê phòng trước đây của mình không thay đổi nửa điểm, rồi nghe đám nô tì nói lão thái gia không cho phép bất luận người nào động vào đồ vật trong phòng, tự dưng những oán giận hờn tủi với ông nội nhất thời hóa thành nhu tình. Hai nha hoàn theo nàng tiến cung là Đào Nhiễm và Mai Nhiễm tay chân lanh lẹ lấy ra lá trà và tinh dầu mà nàng thích nhất, nhanh chóng thuần thục pha trà ngon rồi đốt hương, tất cả hoảng hốt bất an như lại trở về khoảng thời gian nàng chưa tiến cung.
Giờ phút này trong lòng nàng tuôn trào một loại cảm giác cực kỳ mệt mỏi vô lực, nàng tự mình an ủi, Thôi quên đi! Rốt cuộc là nhà của mình, người thân của mình, bất kể làm sao vẫn có chút cảm tình gì đó. Nàng ở trong cung bo bo giữ mình, còn không phải là muốn được một phần an ổn sao? Người nhà đưa nàng vào trong cung, mưu đồ cũng là muốn gia tộc được an ổn, có thể thông cảm được. Chờ sau khi nàng hồi cung, nhất định sẽ xa rời mọi việc một lòng lễ Phật, không đắc tội hoàng thượng cũng không đắc tội chính mình, cứ như vậy mà sống đến hết đời thôi, ai bảo nàng là con cháu của Đổng gia đây? Nàng uống tách trà thái giám đã kiểm tra qua, cảm nhận tình thân trong gia đình, đột nhiên cảm thấy buồn ngủ, nghĩ thầm có thể là vì mấy ngày nay quá mức hưng phấn, hôm nay lại thức dậy sớm nên giờ mới thấy mệt mỏi. Đào Nhiễm và Mai Nhiễm thấy nàng lộ ra vẻ mỏi mệt, vội chạy đi hỏi ý Đổng Hoa để nàng chợp mắt đôi chút trong khuê phòng trước đây. Nàng vui vẻ bằng lòng với giải pháp này, nằm trên giường rất nhanh mơ màng muốn ngủ, nội tâm còn nghĩ, Quả nhiên là nhà mình, bởi vậy mới làm mình dễ ngủ thế này.
Không ngờ nàng mới ngủ trong chốc lát, chợt cảm thấy trên ngực giống như có hòn đá to chặn lên khiến nàng không thở nổi, nỗ lực hết sức mở mắt ra, không ngờ cảnh trước mắt dọa nàng sợ đến hồn vía lên mây. Chẳng biết tên nam nhân nằm đè trên người nàng kia từ chỗ nào đến đang muốn giở trò bất chính, nàng muốn lớn tiếng kêu cứu liều mạng giãy giụa, nhưng dù làm sao cũng thấy đầu óc mê man cả người mềm nhũn. Lúc này trong lòng nàng mới phát hiện có điểm không đúng, rốt cuộc nàng vẫn là một nữ tử can trường dũng cảm, nhẫn tâm cắn thật mạnh vào đầu lưỡi chính mình, cảm giác đau đớn lóe lên ấy giúp tay chân nàng hơi khôi phục lại chút sinh lực, nhanh chóng dốc hết sức mạnh đang có cong chân lên gối thúc thẳng vào chỗ dưới khố của tên nam nhân kia. Thân hình nam nhân lập tức vặn vẹo lăn xuống dưới giường, khuôn mặt nhăn nhó nhìn nàng, hiển nhiên đang bị đau đớn vô cùng. Nàng mới vừa giãy giụa ngồi lên tính lớn tiếng gọi người vào, tên nam nhân vội vàng khẽ ho vài tiếng nhỏ giọng nói: “Lão thái sư sắp xếp, hoàng hậu không được lộ ra.” Lời này nhanh như tia chớp đánh cho sắc mặt nàng trở nên tái nhợt giống như nữ quỷ. Đây chính là tình thân của Đổng gia dành cho mình? Là cách đối xử của người thân cùng chung huyết mạch của mình đấy sao? Không ngờ muốn dùng thân thể của mình để đổi lấy bá nghiệp đế vương cho Đổng gia lão ư? Toàn thân là tiếng than khóc phẫn hận ê hề rất nhanh khiến nàng nổ tung trong tức giận.
Tên nam nhân thấy nàng lặng lẽ không nói gì, cho rằng nàng sẽ nhẫn nhịn nghe theo, nên đứng lên bước đến gần nhưng lại bị nụ cười gằn lạnh lùng của nàng dọa cho đứng yên tại chỗ. Giờ phút này, nàng cảm thấy hết thảy lông tóc trên người đều hóa thành những thanh kiếm sắc bén dựng thẳng đứng, nàng cũng có thể nghe rõ ràng giọng nói lãnh khốc của mình đang cất lên: “Đi ra ngoài nói cho chủ nhân của ngươi nếu còn dám làm bừa, bổn cung liền tặng một món lễ lớn cho hoàng thượng, để vị hoàng hậu ta đây tức khắc chết ngay ở Đổng gia này. Đã như thế rồi nhìn xem Đổng Hoa lão còn có thể dùng gì để mưu đồ nữa đây?”
Tên nam nhân nghe vậy hoang mang đi ra ngoài, lập tức Đào Nhiễm và Mai Nhiễm cũng rất nhanh hoang mang nối gót đi vào. Trong lòng nàng đã hiểu thấu mọi chuyện, Hai nha hoàn này ăn cây táo rào cây sung cố ý bỏ thuốc mê cho mình đây mà! Nàng bật cười đầy hung tàn: “Ta nhớ từ xưa đến nay luôn đối xử với hai ngươi không hề tệ, những tình cảm cùng nhau lớn lên kia chỉ đáng để hai ngươi báo đáp lại ta như thế này đấy sao? Được… được… được lắm, sau khi hồi cung, bổn cung sẽ tự có biện pháp báo đáp lại các ngươi.” Hoàn toàn bị lòng trả thù tràn ngập và kích thích để nội tâm nàng trở nên sáng suốt hơn bao giờ hết. Từ khi nàng tiến cung đến nay đã hơn nửa năm, trải qua ba mùa đông, xuân rồi hạ, những đồ vật trong khuê phòng lại không có ai chạm qua, vậy thì sao lá trà cùng tinh dầu kia còn không bị mốc hư? Cho dù không bị mốc meo hư thối, nhiệm vụ của nha hoàn chung quy phải cẩn thận kiểm tra một phen, nhưng nhìn những động tác thuần thục trước đó của hai người này khi trực tiếp pha trà đốt hương, thật giống như đã biết lá trà và tinh dầu đều là đồ tốt. Đúng rồi, một phòng đầy người ngửi hương đều không có chuyện gì, nước trà cũng đã bị kiểm tra qua, vậy khẳng định chính là vừa uống trà vừa ngửi hương mới có thể gây ra trạng thái buồn ngủ hôn mê, như thế rõ ràng chỉ nhắm vào mỗi mình để thi triển kế độc!
Lúc mới đầu, hai nha hoàn còn làm bộ bị dọa sợ đến quỳ xuống phân trần giải thích, chờ đến khi Đổng Hoa đi vào lại hùa theo lão vừa khuyên bảo lại vừa uy hiếp: “Cháu vừa được lâm hạnh, ngày hôm sau đã có người báo cáo lại cho ông nội. Thủ đoạn của ông nội, thế lực của Đổng gia đều là đại họa cần dè chừng trong đầu hoàng đế. Cháu thân là người nhà họ Đổng, lại là hoàng hậu, vậy mà chậm chạp không có con nối dõi, như thế cực kỳ bất lợi cho cháu cũng như với Đổng gia ta. Không có cháu, ông nội cũng có thể bảo vệ được cho Đổng gia. Thế nhưng nếu như không có Đổng gia, cháu lấy gì để tự bảo vệ mình?” Hai nha hoàn kia lập tức hùa theo tiếp lời khuyên bảo: “Tiểu thư, người ở trong cung phải trải qua thế nào ắt hẳn người đã biết rồi, chúng nô tì nhìn mà nội tâm khó chịu không thôi. Đã vậy chi bằng cứ làm chuyện này để thái gia còn dễ bề suy tính những nước cờ sau giúp tiểu thư. Ngày sau có con nối dõi tức là tương đương tiểu thư chân chính ngồi vững cái ghế mẫu nghi thiên hạ trong cung kia. Chúng nô tì làm tất cả cũng là vì muốn tốt cho người.”
Nàng tức giận đến run rẩy khắp người, liều mạng hét lớn, thấy thái giám cung nữ tràn vào, mới thoát lực xụi lơ ngồi xuống, quyết không tiếp tục đồng ý ở thứ ‘gia đình’ thân thương bẩn thỉu này lâu thêm một khắc.
Vừa vào cửa cung, nàng không còn do dự bước thẳng đến cung Thanh Y. Các ngươi đã vô tình, vậy đừng trách sao tôi đây vô nghĩa! Dù sao đều chảy dòng máu trơ tráo vô liêm sỉ của Đổng gia cả mà! Như thế dựa vào gì mà tôi đây không thể là ả khốn nạn? Chỉ là khi nàng chợt nhớ đến gương mặt già nua hiền dịu kia của mẫu thân, trong lòng nàng vẫn vạn phần khó chịu.
Dường như Mẫn Tiên Nhu biết được nàng đang suy nghĩ gì, nhàn nhạt lên tiếng trấn an: “Khi cô mới bước chân vào cung, bổn cung đã từng nhắc nhở cô nên tìm một người có thể tin tưởng được. Hai nha hoàn Đào Nhiễm và Mai Nhiễm kia của cô từ một năm trước đã bị Đổng Thế Kiệt thu vào tay, hai người này đang chờ một khi lớn tuổi thả ra ngoài cung sẽ làm thiếp thất của Đổng Thế Kiệt. Toàn bộ người trong Đổng phủ đều biết việc này, chỉ gạt mỗi mình cô thôi. Bổn cung vẫn là câu nói kia, chỉ có một biện pháp bảo đảm được sự bình an của cô và người nhà.” Trong miệng nàng hai chữ người nhà này đương nhiên là chỉ những người Đổng Xu Vận còn xem là người thân và không gây nguy hiểm gì cho Trạm Hi.
Đổng Xu Vận ngầm hiểu dụng ý, thu hồi lại nước mắt đang chảy, cúi đầu tạ ơn rời đi.
.
|
Thân Cúc ngạc nhiên nói: “Nương nương, vị hoàng hậu này thật sự sẽ chân tâm đầu quân ở phe ta sao?”
Mẫn Tiên Nhu cười nói: “Xưa nay nàng ấy và đường tỷ – Đổng Xu Tình có mối quan hệ rất tốt. Thế nhưng kết cục của Đổng Xu Tình kia ra sao đây? Việc này đã làm cho nàng ấy nảy sinh tâm không cam lòng, sau đó chính bản thân nàng ấy lại bị coi là quân cờ đưa vào cung. Nếu cô là nàng ấy thì trong lòng có suy nghĩ thế nào? Có còn ý hy sinh bản thân vì gia tộc nữa không? Lúc xưa có lẽ nàng ấy sẽ nghĩ đến tình thân máu mủ, vừa muốn tự vệ lại không muốn cùng đối nghịch với Đổng gia, nhưng sau khi trải qua chuyện ngày hôm nay, nàng ấy đã nhìn thấu một chuyện là căn bản Đổng gia không xem nàng ấy là người. Tiểu thư khuê các bị vây khốn trong lầu các xa hoa, bản thân biết chữ nghĩa lại hiểu chuyện, nếu không chịu phận ngậm đắng nuốt cay làm bèo trôi theo dòng nước chảy, thì chính là muốn ngoan cường chống đối lại vận mệnh.” Nàng hững hờ nói: “Dùng nàng ấy để đối phó với Thục phi và Huệ phi, khiến cho lão hồ ly Đổng Hoa kia phải ngậm miệng có nỗi khổ khó giãi bày.” Rồi quay sang mệnh lệnh Thân Cúc: “Nhớ phái người theo dõi chặt chẽ nhất cử nhất động của Đổng Xu Vận, nhìn xem nàng ấy tìm người phương nào làm tâm phúc. Còn nữa, bảo Chương Thành lặng lẽ bí mật thăm dò hết mấy mật thám cài cắm ở trong cung của Đổng gia đi.”
“Vâng.” Thân Cúc cười nói: “Nương nương nói quá đúng rồi. Theo nô tì thấy hoàn cảnh của Đổng Xu Vận còn không bằng Liễu Ngọc Lăng, tốt xấu gì Liễu gia là e ngại quyền quý mới dâng ra con gái, còn Đổng gia thuần túy là vì tư lợi của bản thân mà lấy cháu gái làm vật trao đổi để đoạt lấy lợi thế.”
Ngân Nguyệt cũng đi theo cười nói: “Nhìn mấy thủ đoạn hết xoay sang trái lại nghiêng sang phải thời gian trước của Đổng Xu Vận, thật không hổ danh là người nhà họ Đổng.” Mọi người nhất thời đều bật cười vui vẻ.
|
chap 28 .
Hồi II: Bình định Phần 12 .
Đổng Xu Vận sầm khuôn mặt âm trầm trở lại cung Duyên Phúc, mấy cung nhân đều trở nên dè dặt thận trọng chỉ lo rước họa vào thân. Ai cũng đều lăn lộn trong cung bao năm thì sao chẳng luyện được đôi mắt tinh tường và óc phán đoán nhạy bén? Tuy biết vị hoàng hậu này không được sủng ái nhưng danh phận của người ta vẫn còn sờ sờ ở đó, nếu muốn giết một cung nhân vẫn là việc nhỏ như trở bàn tay. Lúc này hai người Đào Nhiễm và Mai Nhiễm đã sớm lẩn mất không thấy bóng dáng, nên nỗi bi phẫn đầy ngập trong lòng Đổng Xu Vận không có chỗ phát tiết, tâm tình cũng theo sắc trời dần tối ngày một u ám. Sau giờ tắt đèn, đám hầu cận thấy vị hoàng hậu để đôi chân trần, chỉ ăn mặc váy lót màu trắng đi loanh quanh với vẻ mất hồn khắp nơi trong cung điện, rất giống cô hồn dã quỷ phiêu đãng mấy trăm năm trên đời, thế là cả đám sợ mất mật mỗi người vội vàng chạy tứ tán.
Cũng chẳng biết trải qua bao lâu, Đổng Xu Vận phát hiện bản thân không biết sao đã đi ra ngoài cung Duyên Phúc, bên cạnh không một bóng người. Giờ phút này nỗi bi phẫn đã phai nhạt, thay vào đó là cảm giác chua xót dâng tràn, nàng buồn bã thả bước chân chậm rãi đi dọc theo bên hồ Đông, trong lòng ngập đầy vị chát lẫn vị xót cùng bi ai và thở than, mọi loại cảm xúc như thế chỉ có mình nàng tự thấm tự biết. Tận đến khi thật sự không còn sức lực, Đổng Xu Vận mới dựa vào gốc liễu bên hồ ngồi xuống mép đá khá bằng phẳng, si ngốc giương mắt nhìn mặt nước đen ngòm, bên khóe môi tất cả đều là trào phúng, Đêm tối đen không thể nhìn thấy năm ngón tay thế này chính là thời khắc tuyệt hảo để giết người, nhưng đáng tiếc thay bản thân mình đây lại là mệnh của kẻ ti tiện, chỉ đáng cho Mẫn Tiên Nhu và Đổng gia lợi dụng đến mức tận cùng! Nàng không thấy có gì đáng sợ, chưa kể lúc này có lẽ rất nhiều đôi mắt đang dán chặt theo dõi nàng sát sao. Nếu những người thân máu mủ đều không coi mình là người, thì mình cần gì làm ra vẻ một người nhân nghĩa rộng lượng! Không phải là trơ tráo ích kỷ thôi sao? Loại nhân phẩm này thì không cần học, ai cũng có thể vận dụng nhuần nhuyễn. Khóe miệng nàng nhếch lên, nỗ lực để bản thân cười châm biếm thật lãnh khốc vô tình. Nhưng đột nhiên bờ vai bị thứ gì đó vỗ một cái khiến nàng sợ đến run cả người, hoảng sợ quay đầu nhìn lại, lập tức đối diện với đôi mắt xán lạn như ánh sao trên trời.
Bóng người đối diện thon thả cao gầy, hơi thở tỏa ra thật ấm áp, trên người phảng phất có một mùi thơm không biết tên làm nội tâm Đổng Xu Vận chợt trở nên an yên.
“Nàng là cung nữ nơi nào? Cũng chạy đến đây hóng mát ư?” Giọng nói của người này vô cùng mềm mại dễ nghe, để tâm tình người ta nhất thời vì thế mà thoải mái bình tĩnh trở lại. Lúc này Đổng Xu Vận mới cúi đầu để ý đến bộ dạng hiện giờ của bản thân, trên mặt không khỏi nóng bừng lên. May trời đã về khuya tối đen như mực, bằng không nàng đã chẳng còn mặt mũi nào để sống trên đời.
Thấy không ai trả lời, người này ngồi xuống sát bên Đổng Xu Vận, cười nói: “Sợ là lần đầu nàng đi ra đây? Đừng lo lắng quá, trời nóng thế này thì mấy tỷ muội cũng hay ra hóng mát vào buổi tối lắm.”
Đổng Xu Vận giật mình, vừa nghĩ tới cảnh tượng mất lễ nghi vừa nãy của bản thân e rằng bị người nhìn thấy, nhất thời cả người khô nóng khó chịu, muốn lấy ra uy nghiêm hoàng hậu để đe nẹt nhưng lời nói ra lại mang theo cảm giác nhẹ nhàng: “Mọi người không sợ bị người nhìn thấy rồi bẩm báo cho chủ nhân sao?”
Người này ha ha bật cười: “Mây đen gió lớn chính là thời tiết tốt để nói chuyện yêu đương. Mấy tỷ muội tới nơi này toàn là những đôi đối thực*, người nào người nấy đều chỉ lo vui vẻ trêu ghẹo nhau, nào có thời gian rảnh rỗi quản chuyện người khác.”
* Cụm từ ‘đối thực’ được ghi lại sớm nhất ở liệt truyện về Hiếu Thành Hoàng hậu Triệu Phi Yến trong Hán thư. ‘Đối thực’ ban đầu chính là hành vi quan hệ đồng tính nữ, hoặc một hiện tượng được gọi là đồng tính giả, bởi vì cung nữ ở trong cung tịch mịch lại không tiếp xúc với nam giới nên thúc đẩy các cung nữ quan hệ đồng tính với nhau. Dần dà về sau, ‘đối thực’ ngày càng phổ biến để gọi thái giám và cung nữ kết giao thành phu thê trên danh nghĩa.
“Trong cung thế mà hỗn loạn vậy ư? Quy củ ở đâu? Thể thống ở đâu?” Đổng Xu Vận ngạc nhiên hỏi.
Người này cũng ngạc nhiên đáp: “Lẽ nào muội muội mới tiến cung gần đây? Mấy việc thế này thì ngay cả lão hoàng đế tiền triều kia còn mặc kệ không quản, huống chi thánh thượng hiện nay của chúng ta. Bước chân vào chốn hậu cung thâm sâu này, nếu không có người nào ở bên bầu bạn thì đêm dài dằng dặc làm sao ngủ ngon?” Thấy vẻ mặt Đổng Xu Vận tràn đầy kinh ngạc, người này lải nhải thêm: “Đều là người đáng thương cả, đám ngự vệ cũng mở một mắt nhắm một mắt cho qua. Có điều vẫn cần phải trở về nơi mình ở trước giờ Tý, sau thời gian này nếu bị bắt được thì cũng bị trách phạt nặng lắm đấy.” Rồi hì hì bật cười: “Hiện nay hoàng thượng sửa lại thể chế, ở vòng ngoài tiền điện vẫn giữ cách bố trí như trước nhưng đội thị vệ tuần tra trong hậu cung đều đổi thành nữ tử cả. Cũng không biết từ đâu lại chạy ra nhiều tỷ muội biết công phu như thế, thiết nghĩ nếu bị mấy nàng ấy bắt được chắc chẳng bị gây khó dễ gì nhiều lắm đâu?” Lại tiếp tục không ngớt lời thở dài: “Hầy, thời tiền Tấn thì thái giám nắm quyền trong cung, mấy tỷ muội có nhiều tâm tư hơn chút đều đối thực với đám công công. Bây giờ ai cũng nhìn ra, vị nô tài có tiếng nói nhất thuộc về Ngân Nguyệt đại cô cô đang hầu hạ hoàng thượng, nghe đâu Ngân Nguyệt đại cô cô cùng hoàng thượng lớn lên bên nhau. Ôi chao! Giờ người ta đua nhau quăng bỏ công công đang đối thực, một lần nữa quay sang tìm một tỷ muội khác. Hầy, tôi nói chứ, phải chân tâm yêu nhau mới quan trọng nhất, ai đời lại làm vậy đây? Vốn đều là số khổ, muốn ở bên nhau chính là vì mong có người thật lòng biết lạnh biết nóng lo lắng cho mình, cần gì lưu ý những thứ rỗng tuếch kia làm chi?”
Người này kể lể với giọng bất đắc dĩ ai oán, nhưng Đổng Xu Vận nghe vào tai lại bùi ngùi không thôi, nghĩ thầm, Những nữ thị vệ này đương nhiên đều từ đất Đoan tới đây, vậy hẳn đã được huấn luyện từ lâu. Giờ mới ngẫm đến chuyện hoàng thượng mới bao lớn đâu? Có thể thấy được Trạm thị có tâm tranh giành hoàng vị sợ là mấy đời trước đã sớm có. Bỗng nghĩ đến thân thế của mình, thoáng chốc nỗi xót thương lại dâng tràn, Xem ra bản thân còn không bằng những cung nữ này nữa? Ngay cả người thật tâm chia sẻ còn không có, cả ngày phải phòng cái này nghi cái kia, thậm chí trong giấc mộng cũng không dám buông xuống trái tim thả lỏng. Nàng càng nghĩ càng bi thương, không khỏi lên tiếng thở dài.
Người này cũng đi theo thở dài, dông dài nói: “Bên hồ Đông này chỉ sợ cũng chỉ có nàng và tôi là hai người thân đơn bóng chiếc. Xem dáng dấp này của nàng nhất định cũng giống tôi đều đang nhớ nhung đến người yêu đi? Kỳ thật tôi ngồi đây nhớ nàng ấy thế này cũng vô dụng thôi! Nàng ấy tự nguyện xuất cung, còn tôi tự nguyện lưu lại, ai cũng oán không được ai.”
Đổng Xu Vận bị mấy lời huyên thuyên của người này làm ồn bên tai, tự dưng cảm xúc ai oán dần tản đi, trong lòng hơi thấy buồn cười hỏi: “Nàng là cung nữ nơi nào?”
Người này còn chưa chờ Đổng Xu Vận nói xong đã nhanh miệng đáp: “Tôi tên Xương Phúc làm trong cục Thượng Thực*, chỉ là trợ thủ chuyên chạy mấy việc lặt vặt trong đám ngự trù nơi đó nên cũng nhàn hạ thoải mái. À, tôi có đem theo mấy cái bánh gạo ngọt này, bên trong có bỏ thêm mật ong, ăn ngon lắm đấy.” Vừa nói vừa móc trong lồng ngực ra một hộp cơm nhỏ bằng gỗ được bọc bằng khăn tay, sau khi mở ra liền vô cùng mừng rỡ góp vui đôi lời: “Nàng cũng nếm thử xem.”
* cục Thượng Thực: bộ phận coi sóc việc ăn uống của vua
Trong lúc nhất thời Đổng Xu Vận bị đôi mắt to lóe sáng lấp lánh đối diện chao đảo tinh thần, ma xui quỷ khiến cầm lên một miếng bánh gạo ngọt đưa vào miệng cắn đôi chút, đầu lưỡi sau khi nếm qua, trái lương tâm khen: “Đúng là không tệ. Mà họ tên của nàng nghe qua cũng thật thú vị.”
Xương Phúc phấn khích lên, thuận theo lời mà nói mãi không ngớt: “Cha tôi họ Xương, ông ấy hy vọng tôi sau này có phúc, vì lẽ đó mới đặt cho tôi cái tên này. Hầy, nhà nghèo làm sao có phúc nổi đây? Khi tôi sáu tuổi năm ấy, trong thôn nổ ra trận ôn dịch, chỉ có mỗi mình tôi sống sót thôi. Sau này bị bán làm nha hoàn ở một gia đình giàu có trong thành Hạ Phong, lại sau đó có thái giám tới chọn tú nữ, người chủ này mua chuộc được vị thái giám nên để tôi thay thế tiểu thư nhà đó vào cung, khi đấy tôi mới mười ba. Loáng một cái vào cung đã hơn mười hai năm.” Xương Phúc cũng không nhìn ánh mắt người bên cạnh, tiếp tục lải nhải: “Có điều thời điểm tôi gặp được Hoài Nhi thì mười bảy rồi, lúc đó lần đầu tiên mới biết yêu là gì! Nàng ấy nha, cũng lớn cỡ tuổi tôi thôi nhưng làm việc ở cục Thượng Phục*, nàng ấy rất giỏi mấy chuyện nữ công. Một lần tôi đến đó đưa thức ăn thì quen biết nàng ấy, không biết sao lại bắt chuyện nọ xọ chuyện kia, cuối cùng biết ra quê hương của hai đứa tôi đều ở vùng lân cận thành Hạ Phong, xem như là đồng hương rồi đó. Rồi khi quen biết một khoảng thời gian thì tự nhiên hai đứa tôi ở bên nhau thôi. Nơi này cũng là chỗ tôi và nàng ấy thường hay đến.”
* cục Thượng Phục: bộ phận coi sóc việc ăn mặc của vua
Bỗng dưng Đổng Xu Vận chẳng hiểu sao lại cắn tiếp miếng bánh gạo ngọt trên tay, hỏi: “Vậy vì sao nàng không xuất cung cùng nàng ấy?”
“Nàng không biết rồi. Thời tiền Tấn, người nắm quyền trong cung chính là thái giám, mà bọn họ với cung nữ không giống nhau, cả đời chỉ có thể chết già ở trong cung, vì lẽ đó không chịu nổi khi có người xuất cung được tự do. Mặc dù đã đến tuổi xuất cung là hai mươi lăm tuổi nhưng nếu không đưa đủ tiền đút lót bọn thái giám thì khỏi cần nghĩ đến việc xuất cung. Tiền lương hàng tháng của hai đứa tôi rất ít, còn chưa đủ nhét kẽ răng của bọn thái giám nữa là. Bây giờ nghĩ lại, lúc đó nàng ấy với tôi đã ôm dự định sẽ sống cả đời chết già trong cung. Nhưng ai ngờ đâu sau khi hoàng thượng đăng cơ, trong cung người mới việc mới, mọi người cũng không cần tiếp tục nhẫn nhịn chịu ức hiếp, lại khéo sao hai đứa tôi đúng lúc hai mươi lăm tuổi. Mấy tháng trước, chưởng sự có đến hỏi hai đứa muốn xuất cung sống tự do bên ngoài không? Người nhà nàng ấy đều khoẻ mạnh, bản thân nàng ấy lại nhớ nhà, động tâm tư cũng là lẽ thường. Còn hoàn cảnh của tôi lại không giống nàng ấy, sau trận ôn dịch, toàn thôn của tôi đều không còn người sống thì làm gì có người nhà đâu? Hơn nữa tôi đã quen cuộc sống trong cung, sau khi xuất cung cũng không biết làm sao để kiếm kế sinh nhai, nên đương nhiên là muốn lưu lại.” Xương Phúc bi thương nói: “Hai đứa tôi vì chuyện này mà cãi nhau một trận ầm ĩ, đều giận không gặp mặt tận mấy ngày. Sau này tôi nghe bảo nàng ấy vẫn quyết ý muốn xuất cung, tôi lại không cam lòng dễ dàng buông bỏ tình cảm đã có bao năm qua nên suốt đêm đi tìm bàn bạc nói chuyện, nếu như sau khi xuất cung ra ngoài, nàng ấy vẫn còn nguyện ý ở chung một chỗ với tôi thì tôi sẽ đi theo xuất cung. Kết quả nàng ấy lại nói, Cuộc sống bên ngoài không thể so với trong cung, từ xưa nữ nhân chính là phải dựa vào nam nhân mới sống được. Sau khi xuất cung ra ngoài, phận làm con đương nhiên phải nghe theo lời cha mẹ lập gia đình sinh con đẻ cái. Tôi nghe vậy rồi còn có thể nói gì? Tình cảm tám năm chỉ trong một buổi tối mà tan biến vậy đấy.”
Trong lòng Đổng Xu Vận cũng thấy khá khó xử, lên tiếng an ủi: “Lời nàng ấy nói cũng không sai. Là phận nữ nhi thì đều phải chịu sự thao túng của nam nhân.”
“Ai nói? Hoàng thượng của chúng ta kia, nam nhân nào dám thao túng ngài ấy chứ?” Xương Phúc lại phấn khích lên: “Tôi cũng nghĩ thông rồi, không oán nàng ấy cũng không oán chính tôi, bởi vì mỗi người đều đang đi con đường cuộc sống mình muốn cả mà. Có tình mà không có duyên thì khó mà sống đời ở bên nhau, nàng ấy lập gia đình sinh con cũng tốt, tôi thật tâm chúc phúc cho nàng ấy. Tôi đây cũng sẽ chôn chặt hình ảnh của nàng ấy ở trong lòng, một lần nữa lại tìm một người có duyên với tôi, nói chứ còn nhiều mấy tỷ muội độc thân trong cung lắm đấy. Yêu cầu của tôi cũng không cao, người thật lòng biết lạnh biết nóng và thoải mái chia sẻ cuộc sống cùng là được, lần này tôi quyết tâm phải tìm ra một người có thể ở bên hết đời với tôi.”
Đổng Xu Vận bị lời nói đó chọc cười, ngẩng đầu chợt thấy ánh sao đầy trời, không hiểu sao cảm thấy trong lòng thoải mái không ít. Lúc này mới có tâm tình quan sát tỉ mỉ người đang ngồi bên cạnh, vẻ ngoài không quá xuất sắc, nhưng đôi lông mày rậm cùng hai mắt to đúng là rất dễ tạo ấn tượng cho người khác, chỉ là nụ cười kia dù thấy thế nào đều cảm thấy có chút ngốc nghếch.
Xương Phúc bị nhìn chằm chằm, cười càng thêm vui vẻ: “Nàng tên gì? Hiện đang làm ở cung nào?”
Đột nhiên Đổng Xu Vận cảnh giác lên, sau nhiều lần suy nghĩ mới cẩn thận nói: “Ta tên Xu Nhi, ở cung Duyên Phúc.”
“Thư* Nhi? Xem ra cha mẹ nàng đang hy vọng nàng đọc thêm nhiều sách nhỉ?” Xương Phúc hiên ngang lẫm liệt cười nói: “Không trách sao tôi chưa từng thấy nàng. Hầy, các nương nương trong cung đương nhiên đều có người chuyên dụng đưa đồ ăn đến, tôi nào có thể chen vào được đâu! Đúng rồi, đêm mai nàng lại đến đây chứ? Tôi sẽ mang vài thứ ăn ngon khác cho nàng thưởng thức thử.”
*姝 (xu: người con gái đẹp) và 书 (thư: sách) cùng đọc âm là shū nên ở đây Xương Phúc đang nghe nhầm.
Đổng Xu Vận không biết chính mình xem người không chuẩn, vẫn là do tâm tư không đủ thâm trầm, luôn cảm thấy người này không giống như người xấu, càng không hiểu ra sao lại gật đầu đồng ý. Nàng thầm nghĩ, Coi như đang cho bản thân ở trong chốn thâm cung này tìm chút việc vui thư giãn đi! Dù cho có người dựa vào người này đến hại mình thì có thể như thế nào, Mẫn Tiên Nhu cũng sẽ không để mình dễ dàng gặp chuyện. Nói không chừng… Trong lòng nàng hiện ra hàn ý, khóe miệng không tự chủ nhếch lên một nụ cười lạnh, Nói không chừng Mẫn Tiên Nhu đã sớm biết được tất cả mọi chuyện xảy ra trong đêm nay.
.
Rốt cuộc Đổng Xu Vận đã lớn lên bên người Đổng Hoa, là người rất có tầm mắt nhìn nhận và suy đoán sự việc. Ngay sau khi nàng trở về cung Duyên Phúc, Mẫn Tiên Nhu đã cầm tin báo chuyện này ở trên tay. Lúc này Thân Cúc đi thăm dò xem Xương Phúc kia là ai, tại sao lại xuất hiện vào lúc này? Chỉ đi tra xét một đêm liền trở về hồi bẩm, Nữ tử này không có gì dị thường, thật sự chỉ là một cung nhân hạ đẳng không tâm cơ.
Bởi vì Mẫn Tiên Nhu bị con gái trong bụng đạp mạnh vài cái, vẻ mặt tái nhợt vô lực nói: “Chớ ép đến quá chặt! Bổn cung còn muốn nàng ấy đứng ra đối phó với hai người Kỳ – Hà kia.” Để cho chính cháu gái ruột động thủ đả kích chính người trong phe cánh mình, chỉ cần tưởng tượng vẻ mặt Đổng Hoa lúc đó thôi đã làm Mẫn Tiên Nhu cảm thấy vô cùng thư thái.
Đúng lúc này Dậu Dương vội vàng từ ngoài chạy tới, quỳ xuống hồi bẩm: “Nương nương, người ở vùng lân cận làng Đồng Sơn nhìn thấy bồ câu đưa thư từ hướng Bắc bay ngang qua. Người giám sát đã bắn hạ một con và phát hiện được thứ này.” Nói xong, Dậu Dương cầm một ống trúc nhỏ chỉ to bằng một ngón cái trình lên.
|