Khi Vưu Kiện trở về nhà chính thì ngoài trời đã tối đen như mực.
Trên người gã thoang thoảng mùi rượu, từ ngoài sân đi vào phòng khách không quá hai mươi bước chân, nhưng gã chật vật một lúc mới có thể đến nơi. Tài xế đứng bên cạnh muốn đỡ lấy thì bị gã gạt tay, quát khẽ.
Trong phòng khách không bật đèn sáng choang như mọi hôm. Bầu không khí yên tĩnh và ngột ngạt, nhất thời đè ép thần kinh của Vưu Kiện. Gã lắc đầu, vịn tay lên thành ghế, muốn nới lỏng cà vạt trên cổ.
Đúng lúc ấy, từ trên lầu có một bóng đen từ từ bước xuống. Tiếng bước chân khẽ khàng mà lạnh lẽo, khiến cho chú tài xế vốn đang loay hoay cùng Vưu Kiện phải rùng mình, ngẩng đầu lên nhìn một cái.
“Cậu Cả.” Chú tài xế trông thấy Vưu Thần, lập tức cúi người cung kính.
Vưu Thần vừa mới hạ cánh cách đây năm tiếng trước, trên người còn mặc nguyên vẹn bộ quần áo trong phòng họp. Ánh mắt sâu hun hút như đáy vực, y thờ ơ liếc nhìn người tài xế vẫn đang cúi người, lạnh nhạt cất tiếng:
“Lui.”
Người tài xế kìm nén run rẩy, vội vội vàng vàng cúi chào rồi xoay người biến mất như khói.
Bấy giờ, Vưu Kiện mới tỉnh táo, ngẩng đầu nhìn sang bên cạnh. Lúc tầm nhìn đã rõ ràng hơn một chút, gã nhất thời sửng sốt, toàn thân cứng đờ.
“Anh Cả?”
Một tiếng gọi kinh ngạc cất lên, nhưng còn chưa kịp nói tiếp câu sau, một bạt tai đầy tức giận đã giáng xuống gò má của Vưu Kiện.
Cả người Vưu Kiện lảo đảo, may sao gã kịp thời chống tay xuống bàn. Một bên gương mặt nhanh chóng sưng tấy, đau đớn tê người. Gã đưa tay sờ lên mặt mình, qua hồi lâu vẫn không biết phải nói gì.
Vưu Kiện hiểu vì sao Vưu Thần lại làm như thế. Vì sao vừa mới gặp mặt nhau thì đã tức giận cho gã một bạt tai điếng người. Còn vì sao được nữa? Chẳng phải là vì bản thân gã không làm tròn trách nhiệm hay sao? Vì không làm tròn trách nhiệm của một người anh trai, cho nên mới bị đánh như vậy.
Vưu Kiện cắn răng chịu đau, không mở miệng đôi co nửa lời.
“Từ khi nào?” Vưu Thần đứng thẳng lưng, rũ mắt hỏi.
Vưu Kiện loạng choạng đứng lên, đưa tay lau đi vệt máu bên khóe miệng, khàn giọng đáp: “Ba ngày trước, vào đêm sinh nhật của anh.”
“Đến tận hôm nay mới phát hiện?” Giọng của Vưu Thần vẫn lạnh như băng.
“Vâng.”
“Những ngày đó em đã làm gì?”
“…”
“Đã làm gì?”
“Em…”
Bỗng, Vưu Thần vươn tay siết lấy cổ Vưu Kiện, nghiến răng từng chữ trong cơn giận dữ: “Rốt cuộc đã làm cái quái gì trong những ngày đó? Hả?!”
“Em…” Vưu Kiện không vùng vẫy, chỉ cố gắng nói bằng giọng gió, “… Em xin lỗi, em sơ suất…”
Vưu Thần nhắm mắt lại, đồng thời buông tay. Ngay sau đó, Vưu Kiện ngã ngồi trên đất, hoảng hốt hít liên tục mấy ngụm khí vào phổi. Gã sờ sờ cần cổ, cảm giác vừa nghẹt thở vừa đau đớn lan khắp cơ thể.
Bình thường, Vưu Thần là một người cực kỳ kiệm lời và lạnh lùng. Nhưng chỉ cần có một chuyện không vừa lòng hoặc chạm vào điều tối kỵ của y, y sẽ lập tức trở thành một con quỷ hung tàn nhất trên đời này.
Từ hơi thở đến ánh mắt, tất thảy đều ngập mùi chết chóc.
Vưu Thần xoay lưng về phía Vưu Kiện, đầu mày chau tợn, ngữ khí ngược lại không nghe ra được là có còn căm giận hay không.
Y chỉ nói vỏn vẹn bốn chữ, nhưng qua bốn chữ này, Vưu Kiện có thể nhìn thấy được một tương lai không mấy tươi sáng của Tề Cao Vân.
“Đem nó về đây.”
—
Vưu Hạ ngủ li bì suốt năm ngày. Nếu có khoảnh khắc anh chợt tỉnh cũng chỉ kéo dài khoảng vài phút mà thôi.
Mỗi lần Vưu Hạ giật mình choàng mở mắt, toàn thân đều run lẩy bẩy như gặp phải một cơn ác mộng khủng khiếp nào đó. Trên trán không đổ mồ hôi, nhưng qua đôi mắt bần thần cũng đủ hiểu được anh mệt mỏi tiều tụy đến nhường nào.
Một đêm đầu Đông tĩnh lặng.
Vưu Hạ nằm yên bất động trên giường, hơi thở đều đặn nhịp nhàng. Song, trong một thế giới khác, anh đang lang thang vô định, đi mãi đi mãi vẫn không thấy một đích đến.
Không gian xung quanh mờ ảo vì bị phủ một lớp sương dày đặc và lạnh lẽo. Vưu Hạ lần dò từng bước, từng bước, cho đến khi thấp thoáng nghe thấy có tiếng cười nói của trẻ con vang lên. Anh hít thầm một hơi, men theo âm thanh phát ra mà đi về hướng đó.
Qua lớp sương mù, anh phát hiện có một lớp học. Bên trong có rất nhiều học sinh, tiếng cười nói có lẽ xuất phát từ đây. Vưu Hạ đứng bên ngoài nhìn vào một hồi thì bất chợt cảm thấy chóng mặt. Anh nhíu mày, lắc lắc đầu, chẳng bao lâu thì nhận ra mình đang đứng bên trong lớp học nọ.
Có vài ba đứa trẻ xoay quanh một bạn học nam.
“Lần này điểm Tập Làm Văn của cậu vẫn cao nhất lớp đó.”
“Hạ Hạ đúng là thiên tài. Môn nào cậu cũng đứng nhất hết trơn.”
“Cho tụi mình đọc thử bài văn của cậu nha?”
“U Woa, Hạ Hạ viết về anh trai hả? Anh trai của cậu giỏi đến vậy thật ư?”
“Đâu đâu? Aw, mình cũng muốn có một anh trai như vậy.”
“Hạ Hạ, cậu có viết quá lên không đó? Thật sự có người hoàn hảo như thế hả?”
Lúc bị hàng đống câu hỏi vây quanh, đứa nhỏ được gọi là Hạ Hạ kia không chịu được mà giành lại bài văn của mình. Khuôn mặt của nó hơi đỏ lên, nhưng không phải vì ngại, mà là vì giận.
“Mình không biết nói dối đâu! Anh Cả của mình rất giỏi, giỏi gấp mấy trăm lần so với người khác. Sau này mình cũng sẽ tài giỏi giống anh ấy.”
Đám bạn nhỏ nghe xong, ai nấy cũng mắt sáng trưng như sao, lấp lánh lấp lánh đầy ngưỡng mộ.
Vưu Hạ rũ mắt nhìn đứa nhỏ viết về anh trai, đáy mắt gợn lên một làn sóng nhỏ. Nhưng sau đó, bên tai anh thình lình vang lên một tiếng khóc thét xé trời.
Vưu Hạ giật mình ngoảnh đầu tìm kiếm, lúc này mới phát hiện khung cảnh đã bị thay đổi. Trước mặt anh không còn là lớp học nữa, thay vào là một đại sảnh rất lớn. Xung quanh có nhiều người vây quanh, chính giữa là một đứa trẻ.
Đứa trẻ đang gào khóc trên nền đất.
Bên cạnh đứa trẻ là một người đàn ông, trong tay người ấy có một sợi roi điện.
Trái tim Vưu Hạ nảy lên thật mạnh.
Mỗi khi sợi roi sượt qua da thịt đứa trẻ, anh mơ hồ cảm giác cơ thể của mình cũng đau đớn quằn quại.
Không… Đừng đánh… Đừng đánh nữa…
“Đừng, đừng đánh… Đừng đánh nữa…”
Trên giường, Vưu Hạ thì thào trong hoảng loạn. Bên cạnh anh đang có một bóng người luôn túc trực không ngừng. Ngay khi nghe thấy giọng nói mê sảng của đối phương, Vưu Thần lập tức ngồi thẳng dậy, nắm lấy bàn tay lạnh buốt kia.
“Hạ Hạ…” Vưu Thần cúi đầu, thấp giọng gọi.
Vưu Hạ mơ mơ màng màng thì thào thêm một lúc mới thôi.
Đúng lúc ấy, cửa phòng bật mở, Vưu Kiện đứng ở ngạch cửa, báo tin: “Anh Cả, nó muốn gặp anh.”
Một tia lạnh lẽo khẽ khàng vụt qua trong ánh mắt.
Vưu Thần đảo mắt quan sát Vưu Hạ, nhàn nhạt hỏi: “Lý do?”
Vưu Kiện hít thầm một hơi: “Nó bảo… không chịu nổi nữa.”
Khi Vưu Thần có mặt, Tề Cao Vân đã bị bức đến phát điên.
Ngày đầu tiên bị nhốt trong phòng giam, Tề Cao Vân vẫn còn sót lại một chút dáng vẻ của người bình thường. Nhưng đến ngày hôm nay, là ngày thứ năm liên tiếp bị nhốt, nó gần như đã hóa thành một kẻ tâm thần.
Có lẽ sẽ không ai dám tin đây là sự thật. Thậm chí là cả Vưu Kiện. Vào khoảnh khắc cánh cửa mở ra, bên trong phòng giam trắng toát là một bóng người nằm thoi thóp trên giường. Lúc nghe thấy tiếng động, Tề Cao Vân bừng mở đôi mắt điên dại của mình, cổ ngoẹo sang một bên, cố gắng nhìn người vừa mới bước vào.
Vưu Thần đứng sừng sững trong một bộ quần áo đen tuyền. Đôi mắt căm lạnh nhìn đăm đăm về phía Tề Cao Vân.
Qua dư quang, Tề Cao Vân ngờ ngợ nhận ra gì đó, nó lấy hơi lên thở hồng hộc như vừa vui sướng vừa hoảng sợ, khàn giọng gọi: “Ngài…Vưu.”
Một tiếng “ngài Vưu” tràn ngập nể sợ và khẩn thiết khiến Vưu Kiện đứng bên cạnh nhất thời sững sờ. Gã nhíu mày nghĩ ngợi về bộ dạng ngông nghênh không sợ chết của Tề Cao Vân khi còn ở quán bar. Sau đó gã so sánh với bộ dạng tàn tạ chẳng khác gì một con chó ghẻ của Tề Cao Vân ngay lúc này, chợt giật mình phát hiện, hình như… nó đã điên rồi.
Đúng vậy.
Chỉ trong năm ngày, Vưu Thần đã khiến một tên súc sinh như Tề Cao Vân thành một kẻ tham sống sợ chết.
Rốt cuộc trong suốt năm ngày qua, Tề Cao Vân đã phải chịu đựng những gì?
Vưu Kiện không trực tiếp nhúng tay vào chuyện này, vì Vưu Thần không cho phép. Gã chỉ có thể đứng bên ngoài nghe ngóng tình hình thông qua một thuộc hạ thân cận, từ đó mới biết được toàn bộ sự thật ghê người ở bên trong phòng giam.
Từ khi vào đây, Tề Cao Vân đã bị trói chặt tay chân trên giường bệnh nhân. Xung quanh phòng giam được sơn phết độc một màu trắng. Phía trên đầu nó có một bóng đèn cũng là loại ánh sáng trắng. Tần suất chiếu sáng khoảng mười tiếng một ngày và chỉ chiếu thẳng vào mắt Tề Cao Vân.
Đương nhiên, Tề Cao Vân sẽ không được nhắm mắt lại. Mỗi khi nó muốn nhắm mắt đều sẽ bị một thuộc hạ khác dùng roi điện đánh mạnh vào người.
Liên tiếp năm ngày, thị lực của Tề Cao Vân bị suy giảm mạnh. Đồng tử không còn phản xạ nhạy bén, hình ảnh trước mắt cũng mờ mờ ảo ảo, gần giống trở thành một người mù.
Vưu Thần bước đến ngồi xuống một chiếc ghế được bố trí sẵn. Y gác hai tay lên thành vịn, nghiêng nhẹ đầu nhìn Tề Cao Vân.
“Cởi trói.” Sau đó, Vưu Thần hạ giọng ra lệnh.
Khi Tề Cao Vân được cởi trói, cả người hôi hám tàn tạ ngã rạp ra đất, bò lết như một con chó ghẻ, hoảng loạn van xin. Nó lết tới gần bên chân Vưu Thần, đôi tay rỉ máu vô tình bám vào gấu quần của y. Lúc ấy, Vưu Kiện định bước lên tung một cú đạp vào người nó, song Vưu Thần lại khoát tay ngăn cản.
Vưu Kiện khựng lại, liếc mắt nhìn anh trai, trầm mặc khó hiểu.
“Ngài… Vưu.” Tề Cao Vân chưa gì đã vội mừng rỡ, nó bấu gấu quần của y, nói năng loạn xạ, “Ngài Vưu, tha tôi, tha tôi… Tôi đau lắm, đau lắm… Tôi đau khắp nơi… Ngài Vưu…”
Vưu Thần rũ mắt dửng dưng nhìn đối phương khóc lóc van xin, bất ngờ hạ lệnh: “Kéo nó ra, kẹp gãy ngón tay của nó.”
Ngay tức thì, cả người Tề Cao Vân đông cứng. Nó bàng hoàng ngẩng đầu nhìn Vưu Thần, như đang nhìn thấy một con quỷ sống.
“Không, không được, không được, tha tôi, tha tôi…Arrgggggg.”
Thuộc hạ của Vưu Thần đều là những người được huấn luyện kỹ càng. Họ máu lạnh, vô cảm, trong lúc hành hình một người cũng không hề tỏ ra thương hại.
Giống hệt những con robot.
Các khớp tay của Tề Cao Vân bị bẻ gãy nát vụn.
Nó đau đến điếng người, giàn giụa nước mắt nhưng không thể thốt ra bằng lời.
Vưu Thần tì huyệt thái dương trên ngón tay, qua một hồi chiêm ngưỡng dáng vẻ quằn quại khổ sở của Tề Cao Vân, y nhướng mày nói: “Thuốc hiệu quả không?”
Thuốc…?
Đau đớn chưa thể vơi đi, nhưng Tề Cao Vân vẫn có thể tỉnh táo nhớ đến một chuyện còn khiếp đảm hơn gấp mấy lần.
Trong năm ngày nay, ngoại trừ bị hành hạ bởi ánh sáng, nó còn bị thuộc hạ của Vưu Thần ép uống một loại thuốc kích dục. Mỗi ngày cách bốn tiếng sẽ phải uống một liều. Phần dưới không được mặc quần, ngay vị trí của lỗ niệu đạo sẽ chực chờ sẵn một mũi kim nhọn hoắc nhỏ xíu. Sau khi cương lên, mũi kim được canh chuẩn xác sẽ đâm sâu vào lỗ niệu đạo.
Khi ấy, Tề Cao Vân muốn vùng vẫy nhưng không thể. Bởi vì một khi nó cố gắng giãy dụa, mũi kim sẽ càng đâm loạn khắp nơi, máu rỉ ra không ngừng.
Hồi ức khủng khiếp ùa về, Tề Cao Vân hoảng loạn dập đầu xuống đất: “Đừng, đừng cho, tôi uống, nữa… Tôi không, muốn uống… Đừng… Xin ngài… Đừng…”
Vưu Thần cười khẩy: “Không phải mày rất thích những chuyện này à?”
“Không… Không… Không thích…”
Chợt, nụ cười trên môi y vụt tắt.
Đôi mắt Vưu Thần tối sầm lại, nơi cánh mũi thoát ra từng hơi thở lạnh lẽo chết chóc: “Vậy… tại sao mày lại dám làm như thế với em trai tao?”
Tề Cao Vân nghe hỏi thì chỉ biết lắc đầu hối hận.
“Xin lỗi… Xin lỗi…Xin ngài tha… tha cho…” Vừa nói, nó vừa dập đầu khẩn khoản cầu xin.
Thấy vậy, Vưu Thần nghiêng đầu nhìn về phía một thuộc hạ, ra lệnh qua ánh mắt. Chẳng bao lâu, thuộc hạ ấy quay lại với một chén canh trong tay. Chén canh có màu hồng phấn, là hỗn hợp của máu, sữa và Scopolamine.
Vưu Thần hất nhẹ cằm, nhàn nhạt nói: “Chỉ cần mày uống cạn chén canh này, tao sẽ lập tức thả mày đi.”
“Thật…thật…sao?” Tề Cao Vân ngẩng đầu, trên trán đã bị dập đến chảy máu.
Vưu Thần nhướng mày, không đáp.
Vì bần cùng, vì tham sống sợ chết, Tề Cao Vân tức khắc vươn tay chộp lấy chén canh hỗn hợp, ngửa cổ uống ừng ực. Mùi vị máu tanh tưởi suýt khiến nó phải nôn, nhưng Vưu Thần đã sớm cảnh cáo nó không được nôn ra dù chỉ một chút.
Sau khi uống cạn chén canh, Vưu Thần cho người mở cửa phòng giam thật. Một lối đi nhỏ hẹp hiện ra trước mặt. Tề Cao Vân bừng mở đôi mắt sắp bị mù của mình, sung sướng muốn khóc. Nó nghĩ mình sắp thoát khỏi được địa ngục trần gian, cho nên đã dồn hết sức bình sinh lảo đảo đứng dậy, chạy ra ngoài.
Có điều, khi nó mới chạy được ba bước, Vưu Thần ở trong phòng đã đứng dậy, nghiêng nửa người, giơ khẩu súng trong tay lên, bắn một phát vào chân trái.
Một tiếng “đoàng” thình lình xé tan bầu không khí yên tĩnh của phòng giam.
Viên đạn ghim sâu vào bắp chuối của Tề Cao Vân, khiến bước đi của nó suy suyễn. Nó đau điếng, thế nhưng không muốn từ bỏ, đành tiếp tục bò lết bằng một chân.
Đáng tiếc, vào giây khắc này, Vưu Thần vốn chỉ xem Tề Cao Vân như một con thú hoang bần cùng khổ sở, y nhàn nhã chiêm ngưỡng dáng vẻ chạy trốn của nó, khóe môi thâm hiểm nhếch lên.
Nhìn thấy Tề Cao Vân vừa bò lết được thêm một đoạn, Vưu Thần lại giơ súng lên, bắn một phát vào chân còn lại. Tức thì, đối phương ngã khụy, bám hai tay trên mặt đất, hoảng sợ kêu gào. Hai chân bị bắn chảy máu, không còn đủ sức để đi, nó bắt đầu dán hai bàn tay trên đất, trườn bò về phía trước. Mỗi lần Tề Cao Vân lê đi đều sẽ lưu lại mấy vệt máu dài loang lổ.
Toàn bộ sự việc được thu vào mắt Vưu Kiện. Gã không có ý kiến gì, chỉ là nhất thời có một suy nghĩ.
Quả nhiên vẫn là anh Cả.
Vưu Thần thu tầm mắt lại, ném súng sang một bên, lạnh giọng hạ lệnh:
“Bắt nó về lại đây rồi cắt lưỡi nó. Mỗi ngày đúng giờ cho uống một chén canh hỗn hợp ban nãy. Nhớ rồi chứ?”
Thuộc hạ đứng gần lập tức tuân theo: “Đã rõ.”
Ra khỏi phòng giam, Vưu Kiện đi bên cạnh bỗng hỏi: “Anh định làm gì tiếp theo?”
Vưu Thần lau tay bằng khăn mùi soa, nhàn nhạt đáp: “Nó không có người thân, báo một tin là đã chết vì tai nạn. Tự an bài tất cả đi.”
—
Vào giờ cơm tối, Trương Mỹ Hạnh đang dọn chén bát lên bàn thì bỗng nghe thấy cửa ngoài bật mở. Cô thoáng ngừng lại, ngoảnh đầu nhìn ra ngoài đó một cái rồi nhỏ giọng gọi Thiên Nga:
“Nga ơi, con ra xem là ai mới tới thế.”
Thiên Nga vốn đang ngồi đung đưa chân trên ghế, cười khúc khích với cuốn truyện tranh thì nghe mẹ bảo. Cô bé lập tức bỏ cuốn truyện xuống bàn, nhanh nhảu chạy ra ngoài, ló đầu ngó xem tối thế này lại có ai đến.
Qua ngọn đèn lơ lửng dưới mái hiên, Thiên Nga nhận ra đối phương là Kỳ Họa Niên. Cậu vừa mới dắt chiếc xe đạp đỗ sát bên vách tường trống. Lúc xoay người lại, cậu giật mình bởi một đôi mắt to tròn đang trố ra nhìn mình.
Kỳ Họa Niên sững người một giây rồi phì cười: “Thiên Nga, em đứng đó làm gì vậy?”
Thiên Nga ôm cột tường, líu lo đáp: “Em đang nhìn anh á. Sao hôm nay anh lại qua đây thế ạ? Anh nhớ em hả? Hihi.”
Kỳ Họa Niên đi về phía Thiên Nga, trước đưa cho con bé một chiếc túi đầy ắp bánh kẹo, sau là xoa đầu nó, hỏi: “Mấy nay học hành sao rồi? Có quen với bạn bè trong lớp chưa?”
“Ỏ, em quen với hai người bạn lần á. Ai cũng dễ thương tốt bụng hết. Bài vở cũng không có nhiều lắm, cô giáo giảng siêu hay, em nghe tới đâu hiểu tới đó.”
Thiên Nga miệng mồm lanh lợi nói không ngừng. Tính cách cô bé tương đối hướng ngoại, không có vẻ gì là ngại ngùng với lạ nước lạ cái nữa. Đi vào trong phòng khách, Thiên Nga khoe với mẹ túi kẹo của Kỳ Họa Niên, sau đó thì chạy vào phòng ngủ cất đi, để dành tối ăn.
Trương Mỹ Hạnh nhìn theo cái dáng nhỏ con thoăn thoắt của Thiên Nga, cười hiền từ. Đoạn, cô ngoảnh đầu nhìn Kỳ Họa Niên, chợt phát hiện một chuyện kỳ lạ. Hôm nay cậu không chỉ đến đây một mình mà còn vác theo một… túi hành lý.
Gì thế nhỉ? Không lẽ chủ nhà bên kia đã đuổi thằng bé?
Trương Mỹ Hạnh vừa sốt ruột vừa khó hiểu hỏi: “Túi hành lý kia là sao vậy Niên?”
Kỳ Họa Niên nghe hỏi, ngẩng lên nhìn đối phương, ấp úng: “À… cái này, thật ra hôm nay con đến là có chuyện muốn phiền dì một chút.”
Vì thái độ úp úp mở mở của Kỳ Họa Niên mà suốt bữa cơm tối, Trương Mỹ Hạnh không có nửa phút yên lòng. Thân là dì ruột, cô thấy mình cũng nên có trách nhiệm thay chị gái chăm sóc cho đứa cháu này. Cho nên cách đây mấy tháng, cô có mở lời muốn cậu sống cùng với hai người để đỡ vất vả tiền nong, thế nhưng cậu nhất quyết không chịu.
Bây giờ thì đột nhiên lại đem hành lý tới đây, rốt cuộc là có chuyện gì rồi không biết nữa.
Qua bữa cơm, Thiên Nga nghe theo lời mẹ, lẳng lặng đi vào phòng làm bài tập. Bên ngoài chỉ còn có hai người lớn đang ngồi đối diện nhau, ai nấy đều im lìm chưa lên tiếng.
Trương Mỹ Hạnh rót một cốc trà nguội uống để thanh cổ họng rồi chủ động nói trước: “Chủ nhà bên kia làm khó dễ với con hả?”
Kỳ Họa Niên ngước nhìn cô bằng đôi mắt nặng tâm tư, song khóe miệng lại nhàn nhạt cong lên, mỉm cười đáp: “Dạ không. Chủ nhà là bạn của con, giữa chúng con không có xích mích gì cả, chẳng qua lúc này con không tiện để sống cùng nữa thôi.”
“Con soi gương xem, ai mà tin nổi lời con nói đây?”
Mặc dù Trương Mỹ Hạnh là một người phụ nữ nông thôn, quanh năm suốt tháng chỉ lao động ngoài đồng, nhưng không phải vì thế mà có thể đánh giá cô là một người có đầu óc rỗng tuếch nông cạn được. Những ai từng tiếp xúc với cô đôi lần đều biết con người cô có bao nhiêu phần sâu sắc và tâm lý.
Cho nên ban nãy vừa mới nhìn vào đôi mắt của Kỳ Họa Niên thôi, Trương Mỹ Hạnh lập tức cảm nhận được thằng bé đang có tâm sự.
Có điều, tâm sự như thế nào thì cô không dám chắc. Dẫu sao cô cũng chưa từng nghe đối phương kể về mối quan hệ giữa cậu và chủ nhà, vì vậy mọi thứ tạm thời chỉ là phỏng đoán.
Trương Mỹ Hạnh thường ngày rất hiền hậu nhưng không hiểu sao hôm nay lại bất chợt khó chịu, giọng điệu cũng nghiêm khắc: “Trước dì cũng nói rồi, ba người ở chung thì vẫn đỡ vất vả hơn nhiều. Ở với người lạ sớm muộn gì cũng đụng chạm nhau thôi. Bây giờ con tính thế nào? Có muốn dọn về đây ở luôn không?”
Thật lòng mà nói, Kỳ Họa Niên vẫn chưa có quyết định gì sâu xa. Vốn dĩ cậu dọn hành lý trở về đây là vì hiện tại không thể sống trong căn hộ của Vưu Hạ nữa. Chuyện hai người họ sống cùng nhau đã bị phát hiện, đương nhiên cậu không thể cứ mặt dày ở lại được. Vì vậy, trước khi để phía người nhà của Vưu Hạ lên tiếng đuổi người, cậu đã tự giác cuốn gói rời đi.
Lúc khóa cửa nhà, Kỳ Họa Niên chợt cười giễu bản thân: Không biết mình làm mọi thứ rốt ráo thế này thì có bị họ mỉa mai hay không đây? Chẳng hạn như…
“Chưa gì đã muốn trốn rồi à?” Từ xa bỗng truyền tới một giọng nói hết sức châm chọc.
Động tác khóa cửa nhất thời khựng lại.
Kỳ Họa Niên giật mình ngoảnh đầu nhìn qua, phát hiện Vưu Kiện đang từng bước thong thả đi đến gần. Khoảng cách của cả hai bị rút ngắn chỉ trong vòng ba nốt nhạc.
Trong cuộc sống luôn tồn tại những điều mà bản thân chúng ta không bao giờ ngờ đến được. Giống như giây phút này, khi Kỳ Họa Niên chỉ tình cờ nghĩ tới người nhà của Vưu Hạ, thì một khắc sau đó, một trong số họ liền xuất hiện. Hơn thế, người nọ còn mang theo một khuôn mặt không có cảm xúc, à không, là lẫn lộn rất nhiều cảm xúc mới phải, là một bộ biểu cảm vô cùng phức tạp, nhìn chằm chằm vào cậu.
Kỳ Họa Niên vô thức nắm lấy quai của vali hành lý, mấp máy mở miệng: “Em… Em chào thầy.”
Vưu Kiện ôm hai tay trước ngực, ánh mắt đầy ý tứ liếc nhìn hành lý bên cạnh Kỳ Họa Niên, nhếch môi cười: “Uầy, tác phong của cậu cứ như con dế ấy nhỉ, thoáng cái liền đến, thoáng cái liền đi. Tôi mà đến đây chậm một giây nữa thì hẳn là không tóm được cậu rồi.”
Cách nói chuyện xưa nay của Vưu Kiện vẫn luôn chia thành hai loại. Một loại dành cho người gã yêu thương chiều chuộng. Một loại dành cho người gã cảm thấy ngứa tai gai mắt. Nếu buộc phải chia thêm một loại nữa thì có lẽ là loại người tàng hình, tức không đáng để gã đặt vào mắt mình.
Nếu nói theo nghĩa may mắn thay thì Kỳ Họa Niên vẫn chưa bị nằm trong danh sách những người tàng hình. Nhưng nếu nói đúng nghĩa đen đủi thì cậu đã lọt vào danh sách chướng tai gai mắt của gã. Cho nên mỗi khi tiếp chuyện với cậu, thái độ của gã sẽ dao động ở khoảng hời hợt và tức giận.
Có thể sẽ hời hợt, cũng có thể sẽ tức điên mắng chửi, song cuối cùng gã chỉ dùng mấy lời mỉa mai để châm chọc đối phương mà thôi.
Lý do à? Nói sau vậy.
Kỳ Họa Niên im lặng một chốc mới giải thích: “Em nghĩ là thầy đã hiểu lầm gì rồi. Em dọn đi là vì cảm thấy mình không nên ở lại đây nữa thôi ạ. Dù sao không có anh ấy, em ở đây cũng không có ý nghĩa gì.”
Vưu Kiện chau mày, bắt đầu khó chịu: “Gì? Bây giờ cậu còn cố tình muốn khoe tâm ý của mình ra cho tôi xem nữa à? Đúng vậy, nếu không có Hạ thì cậu ở đây đúng là vô nghĩa. Nhưng nếu không có cậu thì có lẽ mọi chuyện đã khác rồi. Hai đứa giỏi thật, nhất là cậu, dám qua mặt cả tôi sao?”