Lý Triều Dị Truyện
|
|
LÝ TRIỀU DỊ TRUYỆN Tác giả: Phan Cuồng Thể loại: Kinh dị
Nước Đại Việt triều Lý đời vua Lý Anh Tông xảy ra loạn Thân Lợi. Thân Lợi là một phù thủy cao tay có tài "mê tâm thuật", có thể làm người ta u mê tinh thần để dễ sai khiến. Với pháp lực bẩm sinh hiếm thấy cộng thêm quá trình tu tập, Thân Lợi trở thành giáo chủ của Xương Cuồng giáo, một tà giáo thờ thần Xương Cuồng, thâu tập những kẻ chuyên luyện tà năng bằng các cách thức man rợ. Nhưng tham vọng của Thân Lợi không dừng lại ở đó, hắn muốn chính mình trở thành thần Xương Cuồng, để sở hữu quyền năng vô biên. Kẻ nào muốn luyện thành phép này phải tột bậc kỳ công cùng may mắn mới hội đủ các yếu tố. Thân Lợi đã chuẩn bị nhiều năm, và gần như đã có tất cả...
|
Hồi dẫn
ĐẠI NAM PHÙ THỦY
Họa hổ, họa bì, nan họa cốt. Tri nhân, tri diện, bất tri tâm .(1)
Tục ngữ
Khi ấy tại thành Đại Lý đất Vân Nam, có vua là Đoàn Chính Nghiêm (2) hiệu là Hiến Tông, tể tướng là Cao Lương Thành, kinh sư là Diệp Du Thành, gần hồ Nhĩ Hải. Đất ấy từ khi những người Mông Bì La Các, vốn là đại chiếu của Mông Xa Chiếu, lần lượt thống nhất lục chiếu, thành lập ra một vương quốc mới gọi là Nam Chiếu, cho đến thời vua Lý Anh Tông bên Đại Việt đã ngót bốn trăm năm.
Kể ra thì vào thời kỳ đầu, Nam Chiếu, hay sau này đổi quốc hiệu thành Đại Lý, là một quốc gia vững mạnh. Nước ấy địa thế hiểm trở, đến nỗi có lời đồn rằng ở những nơi như thung lũng Nhĩ Hải, một binh một tốt có thể địch lại thiên binh vạn mã. Đại Lý còn có giống ngựa hồ trân quý, leo núi như đi lại giữa chốn đồng bằng. Nhờ giống hồ mã ấy, kỵ binh Đại Lý khi chiến đấu trên vùng sơn cước thì khó có đạo kỵ binh nào sánh được. Việt sử ghi lại không ít lần giặc tới từ đất Đại Lý, tỷ như vào tháng mười năm Thuận Thiên thứ năm (3) Dương Trường Huệ và Đoàn Chí Kính đem hai mươi vạn quân đóng ở bến Kim Hoa, định chiếm lấy Thăng Long.
Song, vào những năm dưới triều vua Hiến Tông, Đại Lý rơi vào thời suy yếu. Kể từ loạn Điền Đông (4), nhà vua mất ăn mất ngủ lo đối phó với phản nghịch trong nước. May mắn là bấy giờ Nam Tống đang lo đương đầu với người Kim ở phương bắc, thủ thân còn chưa xong, mới chẳng màng chuyện thôn tính Đại Lý.
Vào tháng bảy năm Thiên Bảo thứ sáu (5), một hôm Trung Quốc Công xin vào yết kiến Hiến Tông. Trung Quốc Công chính là Cao Lương Thành, tể tướng Đại Lý. Người này là cháu nội Cao Thăng Thái, rường cột của triều đình trong nhiều năm trước. Dòng họ Cao ấy mấy đời liền nhau được vương tộc họ Đoàn hết lòng sủng ái.
Vua cho vời Thành vào, gã còn chưa kịp tấu trình, vua đã lo lắng nói trước: - Ta e Điền Đông sẽ lại sinh biến.
Cao Lương Thành vốn biết hoàng thượng từ khi lên ngôi không lúc nào không lo nghĩ về việc ở Điền Đông. Ba mươi bảy tộc người ấy, đều là những đạo quân dũng mãnh, thiện chiến. Trước đây các bộ tộc phương ấy chỉ phục có ông nội gã là Cao Thăng Thái. Khi Cao Thăng Thái chết đi, thân phụ gã là Cao Thái Minh (6) cũng chính vì dẹp loạn ấy mà tử nạn.
Hiến Tông sai thị quan đưa cho Cao Lương Thành xem một biểu tấu, đó là tấu của tuần phủ Điền Đông. Tấu nêu rõ, ba mươi bảy tộc ấy đã tôn Bạch Ngọc Thư làm chủ soái, đang thâu nạp binh mã, rèn luyện khí giới. Cứ trông vào những điều ấy, hẳn là sẽ có biến.
Thành kính cẩn nhận lấy, cẩn trọng xem mấy lượt rồi tâu: - Khải bẩm, rợ ấy vốn hung hãn tàn bạo, giả mà ta dùng binh lực áp chế, chưa chắc đã thắng được. Hôm nay thần xin diện kiến, cũng chính là vì việc này.
Hiến Tông nóng ruột hỏi: - Vậy ý khanh phải làm sao?
Thành đáp: - Bẩm, xin bệ hạ gặp một người.
Vua thuận theo, Thành bèn truyền cho người ấy vào. Vua thấy đó là một thiếu nữ đôi chín, thân liễu lưng ong, dáng điệu thanh nhã ung dung, thị bước vào điện người ưỡn thẳng, đầu ngẩng cao, khí phái bất phàm. Vua thấy thị mặt mày thanh tú, da trắng mũi cao, mới trông đã thấy thiện cảm nảy sinh. Duy chỉ có điều, đôi mắt người ấy bịt kín bằng vải đen. Vua lấy làm lạ lắm, hỏi: - Ngươi tên gì?
Người ấy đáp: - Tôi là Triệu Trí Chi, người đất Đại Việt.
Vua lại hỏi: - Sao mắt ngươi lại bị bịt kín thế kia?
Cao Lương Thành đáp ngang: - Bẩm, bởi mắt người này nguy hiểm.
Vua vốn tính ham sắc, nhất định muốn ngắm đôi mắt người đẹp. Cao Lương Thành can thế nào cũng không được, cuối cùng tâu: - Bẩm hoàng thượng, nếu người muốn nhìn đôi mắt ấy, xin lập một bức màn ngăn, người ở trong có thể nhìn ra, nhưng người ở ngoài lại không thể nhìn vào. Như thế thần mới an lòng được ạ.
Vua thấy Cao Lương Thành có thái độ như thế thì ngạc nhiên lắm, lại càng tò mò, bèn sai người căng một tấm màn lụa. Lụa ấy mỏng tang, vua ở gần nhìn ra có thể thấy trọn dung nhan mỹ nữ, ngược lại Triệu Trí Chi đứng từ xa nên không nhìn được long nhan.
Dường như Cao Lương Thành vẫn chưa yên tâm, lại rườm rà thưa: - Bẩm, việc này hệ trọng, thần sợ có biến, xin hoàng thượng cho đặt thêm cặp kim sư trước án.
Vua liền sai người đưa cặp sư tử bằng vàng vẫn đặt trong thư phòng tới. Cặp kim sư này vốn do Cao Lương Thành dâng lên Hiến Tông, chính là món lễ vật trong ngày đản sinh vua năm vừa rồi. Nghe nói nó được sư tổ của Thổ Phồn quốc sư Khưu Ma Trí dùng máu của mình luyện mất bốn mươi chín ngày đêm mới thành. Vị pháp sư ấy đạo hạnh cao thâm, pháp lực đạt đến tột đỉnh, thế mà đến sáu lần luyện hỏng, lần thứ bảy mới thành, tổng cộng phải mất ba trăm bốn mươi ba ngày, gần một năm trời mới chế luyện xong. Tương truyền cặp kim sư này có sức trừ tà rất mãnh liệt, trong vòng bán kính một dặm, hễ có lực tà công kích thì tự phát sinh cảm ứng chống lại. Vua Hiến Tông quý vật này lắm, sai đặt ở thư phòng. Sự lạ hôm nay khiến vua rất thích thú, đợi sắp đặt kim sư xong xuôi, ngay ngắn trên án mới hỏi Cao Lương Thành: - Như thế được chưa?
Thành đáp: - Thần dám ngăn bệ hạ xét lại, việc này rất nguy hiểm. Thánh thể có bề gì, làm sao thần có thể gánh được tội ấy!
Vua cương quyết đáp: - Trẫm nhất định phải nhìn thấy đôi mắt này.
Cao Lương Thành biết khó trái ý vua, bèn hướng về phía người Triệu Trí Chi nói: - Vậy ngươi bỏ băng che mắt ra nhưng không được nhìn về phía hoàng thượng.
Nói rồi Thành nhắm mắt bịt tai thật chặt, đứng trơ như gỗ, dáng điệu rất căng thẳng.
Người con gái ấy nghe theo lời, từ từ bỏ băng ra. Vua thấy nàng mắt phượng đen láy, lúng liếng ướt át như thiết tha mời gọi. Thế nét nữ sắc này, bất chợt nhà vua sóng dục cồn cào, tâm thần đê mê bất tận. Kỳ lạ thay, miệng Triệu Trí Chi dường như không cử động, mà vua nghe thấy toàn lời đường mật quyến luyến, rủ rỉ mời gọi. Vua như lạc vào cõi mộng, thấy trời đất quay cuồng, tựa như đang đi trên mây trắng, phiêu diêu chốn bồng lai.
Bỗng thấy nàng lặng lẽ đưa tay định đeo băng, che mắt lại. Giữa khi say đắm ngắm nhìn mỹ nhân, làm sao vua dừng lại cho đành? Ngài toan cất tiếng cản, bỗng nhận ra miệng mình cứng không sao thốt ra được thành lời, tay chân nặng tựa ngàn cân, hệt như người bị bóng đè. Xung quanh nhà vua trời đất tối sầm. Từ tâm can ngài, một luồng hàn khí phát ra dữ dội. Luồng khí ấy trầm xuống khiến thân thể vua nặng trĩu. Ngài thấy huyệt bách hội trên đỉnh đầu mát lạnh. Bí huyệt đã được giải thông! Ngài kinh hãi cảm thấy mối hiểm nguy đang dần tới.
Bỗng vua thấy từ sau lưng mình, một luồng kình lực thúc mạnh. Nhiệt khí từ luồng lực ấy tức thì đẩy bạt cơn lạnh thấy xương trong ngài. Ngài giật mình, kêu lên một tiếng rồi thổ ra một ngụm máu. Trong lúc giật mình, tay ngài đẩy văng con sư tử vàng về phía trước. Con sư tử rơi xuống mặt đất, kêu cạch một tiếng.
Bây giờ, ngự lâm quân nghe tiếng vua kêu lớn, tưởng có thích khách liền ùa vào, chỉ trong chốc lát gần trăm cấm vệ quân đã chen đầy điện, gươm giáo sáng quắc. Chúng thấy trong điện chỉ có một người bịt mắt, sau án rồng, nhà vua gục mình, mắt vẫn mở to kinh hãi. Bên cạnh nhà vua, Trung Quốc Công đang bịt tai nhắm mắt, thân hình run rẩy, điệu bộ rất là kỳ quái.
Ngay lập tức, mấy chục mũi gươm sáng quắc chĩa vào Triệu Trí Chi uy hiếp. Chi bình thản đứng yên không chút phản ứng.
Qua một lúc, Hiến Tông mới từ từ gượng dậy, ngài nhận ra con sư tử bằng vàng trên mặt án không còn nữa, thay vào đó là một thứ chất lỏng như chì nung chảy đang bốc khói nghi ngút. Con sư tử trên sàn cũng chỉ còn là một vũng chì như thế.
Tổng quản ngự lâm quân khi đang vội vàng đỡ vua dậy chợt giật mình, mắt hướng về phía sau nhà vua, lắp bắp: - Bẩm hoàng thượng, bẩm hoàng thượng...
Vua chưa kịp hoàn hồn, vội hướng mắt về phía tổng quản chỉ, ngài thấy từ mắt con rồng trong bức "thanh long hí thủy" treo phía sau mình có một dòng máu đỏ chảy dài, nhễu cả xuống mặt đất.
* * *
Tháng chín năm ấy, tức là hai tháng sau sự gặp mặt của Hiến Tông với Triệu Trí Chi, vua nhận được hỉ tấu của tuần phủ Điền Đông. Tấu chương có đoạn: "Nhờ long ân bệ hạ, ngày hăm tám tháng tắm, Bạch Ngọc Thư đột tử, trong vòng hơn một tuần trăng, thủ lĩnh ba mươi bảy tộc man Điền Đông lần lượt chết cả, hiện các bộ tộc ấy như rắn mất đầu, nghi ngờ lẫn nhau, nơi thì tranh giành nhau chức đầu lĩnh, nơi lại cắn xé lẫn nhau, thực không khác gì quần thú tranh thực, việc làm loạn tạm thời không còn đáng bận lòng."
Vua xem xong cả mừng, triệu Cao Lương Thành vào hầu. Vua hân hoan nói: - Ái khanh quả có con mắt nhìn người, Triệu Trí Chi đúng là đã hạ sát được Bạch Ngọc Thư.
Cao Lương Thành nghe xong tin ấy thì mừng lắm, hết lời chúc tụng. Vua tôi qua lúc hả dạ, Thành mới hỏi vua: - Bẩm, tấu chương có nói rõ vì sao Bạch Ngọc Thư chết không ạ?
Vua chưa hết nỗi mừng, đáp: - Không thấy bàn tới. Khanh hỏi làm gì?
Cao Lương Thành đáp: - Thần tò mò không biết Triệu Trí Chi làm thế nào mà giết được hắn.
Hiến Tông vui vẻ đáp: - Triệu thám mã vào hỏi khắc rõ thôi.
Đoạn vua sai thị quan triệu thám mã vào chầu. Tên thám mã tới đại điện, sụp lạy không dám ngẩng đầu. Vua bèn ban cho miễn lễ rồi hỏi: - Ngươi có biết Bạch Ngọc Thư chết thế nào không?
Thám mã đáp: - Bẩm, tiểu nhân không được nhìn tận mắt, không dám nói liều. Có điều dân khắp vùng đều bàn tán về cái chết ấy, ai cũng kinh hãi.
Hiến Tông nói: - Sao lại kinh hãi?
Đáp: - Bởi vì nó kỳ dị, chỉ nghe qua khó mà tin được. Tiểu nhân không được nhìn tận mắt, không dám lộng ngôn trước mặt bệ hạ.
Hiến Tông và Cao Lương Thành từ chuyện Triệu Trí Chi cách đây mấy tháng, cũng đoán được sáu bảy phần cái chết của Bạch Ngọc Thư có chuyện kỳ quái, trong lòng rất tò mò. Vua nói: - Trẫm cho phép ngươi nói.
Nào ngờ, tên thám mã khẩn khoản dập đầu lia lịa: - Bẩm, xin bệ hạ tha cho, xin bệ hạ tha cho.
Cả Hiến Tông và Cao Lương Thành đều kinh ngạc, không hiểu tên thám mã này có tội lỗi gì mà phải cầu xin. Cao Lương Thành đáp: - Bệ hạ hỏi mà ngươi dám nói quanh co, là đáng tội gì?
Tên thám mã lại càng hoảng hốt, dập đầu chảy máu một hồi, lát sau mới dám thưa: - Bẩm, cả vùng ấy, hễ ai kháo nhau một lời về việc Bạch Ngọc Thư chết thế nào, thì y như rằng đều chết theo đúng cách mà Bạch Ngọc Thư đã chết. Chính tiểu nhân, chính tiểu nhân...
Vua sốt ruột hỏi: - Chính ngươi làm sao?
Thám mã đáp: - Chính tiểu nhân cũng thấy người nói lại cho tiểu nhân chuyện ấy chết rất thảm.
Vua quan hai người lấy làm kỳ dị lắm, lặng người hồi lâu. Vua lật lại tấu chương, lúc này ngài mới thấy lạ lùng. Bởi thường thì tấu chương phải đầy đủ, rõ ràng cặn kẽ, nhất là việc binh tình. Có khi tấu thiếu một vài câu cũng có thể bị trách tội. Ấy thế mà tấu này quả thực quá sơ sài, chỉ nói đại để tình hình trọng yếu. Có lẽ nào chính tuần phủ Điền Đông cũng sợ hãi không dám nhắc đến cái chết ấy? Vua suy đi tính lại hồi lâu, mới nghĩ ra một cái, bèn nói: - Ngươi đã sợ như thế thì không cần phải nói ra. Ngươi có biết viết không?
Thám mã đáp: - Bẩm có ạ!
Vua nói: - Vậy ta cho ngươi viết ra.
Tên thám mã biết mình không báo lại không được, đành phải xin vua ba tờ giấy. Vua thầm khen tên này nhanh trí, hẳn là cái chết ấy có liên quan đến ba từ, mỗi tờ viết một chữ, mong là được toàn mạng.
Tên thám mã nhận ba tờ giấy, hắn viết từ thứ nhất là "tự", từ thứ hai là "nhai". Khi vua và Cao Lương Thành đang chăm chú nhìn hắn viết từ thứ ba thì vua quan nhận thấy quai hàm tên thám mã động đậy không ngừng. Nhìn kỹ thì thấy miệng hắn nhai ngồm ngoàm như thể đang ăn thứ gì đó ngon lành lắm.
Đột nhiên, máu miệng tay thám mã từng dòng, từng dòng chảy ồ ạt xuống tờ giấy thứ ba. Tên thám mã bỗng gục lăn ra đất, máu lẫn với nước dãi sùi ra không ngừng. Mắt hắn trợn trừng trừng, giãy đành đạch một hồi rồi chết hẳn.
Hiến Tông và Cao Lương Thành hoảng hốt nhìn nhau. Vua quát thị vệ vào hộ giá, lại truyền thái y vào xem xét.
Thái y đến nơi thì tên thám mã nằm trong một vũng máu lớn, thi thể đã cứng đờ từ lâu. Vua sai khám nghiệm cẩn thận. Thái y xem xét một hồi lâu rồi tâu lại: - Máu chảy quá nhiều dẫn đến tử vong.
Hiến Tông và Cao Lương Thành nhìn nhau kinh hãi. Hồi lâu vua mới nói: - Trước khi chết hắn có nhai vật gì đó, ngươi xem trong miệng hắn xem sao.
Thái y vâng lời xem xét một hồi, rồi lại tâu: - Bẩm, trong miệng không có vật gì, chỉ có lưỡi là bị nát bấy. Máu từ ấy chảy ra mà dứt mạng.
Vua quan hai người lại điếng người nhìn nhau một lần nữa. Cả hai đều nhận ra chữ cuối cùng mà tên thám mã đang định viết là chữ "lưỡi". Tên thám mã đã viết: "Tự nhai lưỡi."
* * *
Một tháng sau, Triệu Trí Chi cầu kiến vua Hiến Tông vào cuối giờ Thân, khi trời đã sẩm tối. Thường thì giờ ấy chỉ trọng thần có việc khẩn yếu mới được cầu kiến. Nhưng một tháng nay, lệnh vua ban xuống, hễ có người xưng là Triệu Trí Chi yết kiến thì cấm vệ quân phải một mặt đưa hắn tới chính điện chờ thánh giá, một mặt tức tốc vời tể tướng Cao Lương Thành nhập cung. Vậy nên Triệu Trí Chi được đưa vào chờ. Thị vệ không quên đưa Chi một mảnh vải đen để bịt mắt. Chi cười ruồi mỉa mai nhưng cũng đeo vào.
Quả như Triệu Trí Chi dự đoán, chỉ có Cao Lương Thành ra tiếp. Hiến Tông ngự ở sau bức màn nghe hai người nói chuyện. Triệu Trí Chi nói: - Tôi đã làm xong việc người cần, loạn ở Điền Đông đã được dẹp. Giờ tôi đến lấy vật tôi muốn.
Cao Lương Thành cung kính xá một cái rồi nói: - Tài phép của người khiến tại hạ thực cảm phục. Thứ người cần bệ hạ đã sai chuẩn bị kỹ càng ở đây.
Đoạn Cao Lương Thành vỗ tay ba tiếng, thị quan từ bên trong bưng ra một cái khay bằng gỗ, bên trên đặt một chiếc hộp chạm bằng ngọc biếc. Dù khi ấy trong điện đèn đuốc sáng rực mà vẫn có thể thấy rõ hộp ngọc tự phát quang rờ rỡ. Hiển nhiên là loại ngọc quý lắm.
Triệu Trí Chi đưa tay đỡ lấy hộp ngọc, mở ra, vuốt qua mặt hộp ngọc một cái, rồi đặt lại lên khay, xá nhẹ nói: - Đúng là nó rồi, xin đa tạ.
Nguyên là từ lần gặp mặt hồi tháng bảy, sau khi làm vua thất điên bát đảo, Triệu Trí Chi chờ cho ngài hồi phục rồi mới tâu lên rằng mình có thể đơn thân dẹp giặc, chỉ xin vua khi mã đáo thành công thì có được một vật. Vật ấy hiện đang nằm trong hộp này. Hôm nay chính là ngày Chi đến lấy như đã giao ước.
Lúc ấy Chi toan quay đi thì Thành vội nói: - Xin kỳ nhân lưu bước, tại hạ có điều muốn ngỏ.
Chi quay lại chờ đợi. Thành lại vỗ tay ba cái, ba thị quan khệ nệ mang ra ba cái mâm lớn, bên trên phủ nhiễu điều. Đó là ba mâm chất đầy vàng bạc châu báu. Thành giả trách bọn người dưới: - Người đâu, sao lại bắt kỳ nhân bịt mắt thế này, mau cởi ra, nhanh!
Thị vệ chưa kịp cởi băng che mắt cho Chi thì Chi nói: - Ông đưa vàng bạc ra là có ý gì?
Cao Lương Thành vốn đã biết Chi có ma thuật, nào ngờ Chi còn có tài bịt mắt mà vẫn nhìn thấy được, trong lòng ngấm ngầm bội phục, nói: - Thưa, thánh thượng tôi muốn lưu kỳ nhân lại giúp cho vương nghiệp. Nếu được như thế, thực là vui mừng khôn xiết. Đây chỉ là chút lẽ mọn ban đầu...
Triệu Trí Chi biết Hiến Tông sợ không dám gặp lại mình, nhưng vẫn có ý muốn thu dụng, ắt hẳn đang ở sau màn nghe chuyện, bèn ngắt lời Thành, lạnh lùng đáp lớn: - Đa tạ hoàng thượng, nhưng cái chí của tôi không nhỏ như thế.
Nói rồi quay bước, đi thẳng.
Qua một hồi lâu, nhà vua từ bên trong mới bước ra. Vua thần đều ngẩn ngơ nghĩ đến người ấy, việc ấy. Bất giác vua than khẽ: - Nàng ta thực xinh đẹp, chỉ tiếc...
Cao Lương Thành ngẩn người ra hỏi: - Bẩm hoàng thượng, ai cơ ạ?
Vua lại nói: - Còn ai vào đây nữa, nàng ta chứ ai.
Cao Lương Thành ngạc nhiên hỏi lại: - Thần ngu muội chưa hiểu ý hoàng thượng.
Vua hơi cáu, nói: - Là Triệu Trí Chi nàng ấy, chỉ sợ đi khắp Đại Lý này, không có ai được như nàng. Thực đáng tiếc.
Vua nói xong tâm tư tiếc nuối lộ rõ trên mặt. Cao Lương Thành lúng túng đáp: - Bẩm...
Nói rồi Cao Lương Thành ngập ngừng không dám tiếp. Vua Hiến Tông nói: - Có chuyện gì thế?
Cao Lương Thành run run: - Bẩm hoàng thượng, làm gì có nàng nào ạ? Triệu Trí Chi hắn ta... hắn ta là đàn ông mà!
Hiến Tông trợn tròn mắt nhìn Cao Lương Thành, không hiểu Thành đang nói chuyện gì. Lòng vua đang xao xuyến mỹ nhân, lại thấy hôm nay tể tướng đầu triều ăn nói lảm nhảm, vua giận lắm, cho gọi tên cấm vệ quân vừa đưa Triệu Trí chi vào, nói với hắn: - Ngươi tả lại tướng mạo người tể tướng vừa gặp cho ông ta rõ.
Tên cấm vệ quân thấy hoàng thượng lộ vẻ bực bội, bèn vội vàng nói: - Thưa, đó là một người trạc bốn mươi, mặc giao lĩnh màu xanh lục, ngoài khoác trường bào, mặt vuông chữ điền, trán cao hàm rộng, da đen, râu rậm...
Vua lên tiếng cắt ngang: - Ngươi nói râu rậm ư?
Cấm vệ quân đáp: - Vâng, râu rậm.
Vua bàng hoàng há hốc miệng. Lúc nãy từ trong trướng, ngài không kìm được lòng dục, có ghé mắt nhìn dung nhan mỹ miều của người con gái ấy. giờ đây cả hai người đang đối diện lại tả nàng là trang nam tử. Lẽ nào lại có sự kỳ lạ ấy?
Vua cho hai người lui ra, mồ hôi ngài toát ra như tắm. Tể tướng Cao Lương Thành cũng kinh hãi không kém, bởi người mà hắn thấy là một lão già tóc bạc mặt mũi quắt queo.
* * *
(1): Vẽ hổ vẽ da, khó vẽ xương. Biết người biết mặt, không biết lòng. (2): Còn gọi là Đoàn Dự, một nhân vật trong tiểu thuyết Thiên Long bát bộ của Kim Dung. (3): Tức là năm 1014. (4): Gồm 37 bộ tộc thiểu số ở Điền Đông, nay là Côn Minh. (5): Tức là năm 1135. (6): Cũng có chỗ chép là Cao Minh Thái.
|
Hồi thứ nhất
QUAN TÀI KÉP
Ma đưa lối, quỷ dẫn đường.
Tục ngữ
Thời nhà Lý, quốc hiệu nước ta là Đại Cồ Việt, sau đến đời vua Lý Thánh Tông thì đổi tên là Đại Việt. từ thuở Lý Thái Tổ lập quốc, Đại Việt vốn là một vương quốc hùng mạnh, sau suốt trăm năm đánh dẹp đã ổn định biên cương, giữ được phong độ của một nước cường. Ngoại bang khi ấy phía nam nước Chiêm Thành phải nể sợ, phía tây nam nước Chân Lạp phải kiêng dè, phía tây nước Ai Lao phải thần phục.
Phương bắc vốn là mối lo ngàn đời của các vương triều Đại Việt, khi ấy cũng rơi vào thế suy yếu. Bởi vì nước Đại Lý phía tây bắc thì càng ngày càng yếu ớt, không phải là mối đe dọa. Ngay đến Tống triều hùng cứ Trung Nguyên bấy lâu cũng bị người Kim uy hiếp phương bắc. Bởi vậy nên Nam Tống trong suốt trăm năm lo giữ mối giao hảo với người Việt. Đến những năm dưới thời vua Lê Anh Tông thì lãnh thổ người Tống bị thu hẹp lại chỉ còn năm mươi lộ phía nam sông Dương Tử.
Có điều, theo sử sách ghi lại, Lý triều hưng thịnh nhất dưới thời ba vị vua đầu là Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông và Lý Nhân Tông. Đến thời Lý Thần Tông, Đại Việt không còn hùng mạnh như xưa nữa. Khi Lý Anh Tông lên nắm đế quyền, ngài mới lên bốn. việc trong triều phần nhiều nhờ vào thái úy Đỗ Anh Vũ. Cứ xét việc người đời trước như Hán Thiếu Đế với Đổng Trác, đời sau như Lý Chiêu Hoàng với Trần Thủ Độ cũng đủ biết, thời kỳ ấu chúa công thần tự cổ chí kim, bao giờ cũng lắm mầm họa.
Vào thời bấy giờ ở làng Việp, huyện Phú Bình, phủ Phú Lương(1) có người tên cúng cơm là Nguyễn Tạm, dân trong làng thường gọi là ông Tạm Mộc. Gọi như thế là bởi ông Tạm ấy làm nghề thợ mộc.
Vốn dĩ, ông Tạm Mộc không phải tay lão luyện trong nghề. Khi xưa còn bé ông đi ở cho nhà người chủ có xuởng mộc trên phủ. Người chủ ấy thấy thằng bé chăm chỉ cần cù bèn sinh lòng thương mến, cho phụ việc để có cái nghề sau này nuôi lấy thân.
Có điều người chủ vốn cũng không phải tay giỏi giang, mà không phải danh sư làm sao xuất được cao đồ? Ông Tạm Mộc rốt lại cũng chỉ có thể đóng những thứ bàn ghế đơn giản thường dùng ở nhà thứ dân. Những chạm trổ cầu kỳ, khảm trai nạm ốc, hiển nhiên ông Tạm Mộc không thể làm được. Ông học nghệ được hai năm thì người chủ xưởng ấy thua bạc đến mất cửa nhà. Ông Tạm Mộc đành sắm lấy ít đồ nghề quay về làng, vừa làm ruộng vừa làm mộc kiếm cơm.
Ông Tạm Mộc đi cấy thuê được vài năm thì chán nghề cày cấy, chuyển hẳn sang làm mộc. Nghề ông vốn không tinh, có điều đất Phú Lương vốn là vùng cách xa kinh thành, nơi ấy dân tình còn khốn khó, việc chế tác các vật dụng trong gia đình không cần cầu kỳ xa hoa, chỉ cần tiện dụng dễ dùng, nên ông Tạm Mộc thường được bà con trong làng nhờ đóng giúp các thứ vật dùng như bàn, ghế, sập, tủ.
Tính ông Tạm Mộc vui vẻ xuề xòa, ai kì kèo bớt một vài đồng ông đều thuận ý ngay. Như thế chẳng những không làm ông nghèo đi, mà dân tình nơi ấy cũng thuần hậu chất phác, dù có được lợi chút ít, nhưng thấy người thợ mộc hiền lành tốt tính, cũng chẳng ai nỡ để ông thiệt thòi, khi xong việc lại mang quà cáp dân dã sang tạ ơn. Nhờ thế nên xét ra ông cũng chẳng mất gì, lại giữ được cái tình với bà con làng xóm, việc nọ đẻ việc kia, ông Tạm Mộc cũng không mấy khi thiếu việc làm.
Vợ ông Tạm Mộc, dân làng thường gọi là thị Tạm theo tên chồng, vốn là người đàn bà có nhan sắc tầm thường nhưng tốt tâm, lại khỏe mạnh, chăm chỉ. Ngày ngày thị ra chợ làng buôn bán lặt vặt, có khi làm thuê cho người ta, phụ giúp chồng nuôi năm đứa con nhỏ.
Tết năm ấy, ông Tạm Mộc bận tối ngày. Là bởi vì nhiều nhà cả năm dành dụm được ít tiền, muốn sắm chút đồ đạc mới, hoặc là sửa lại những thứ đã hỏng trong nhà. Cái lán nhỏ vừa là xưởng mộc, vừa là nơi chứa đồ chất đầy bàn ghế giường tủ nhà thiên hạ, cái mới cái cũ ngổn ngang. Ông Tạm Mộc cả nể, hứa với người ta nhiều quá, đêm nào cũng phải thức làm khuya.
Thị Tạm mấy hôm nay không ra chợ làng nữa mà cơm nắm muối vừng theo vợ chồng người anh trai mang bánh chưng ra tận huyện. Chợ tết từ đầu tháng chạp đã nhộn nhịp lắm, ngày nào cũng mở chứ không phải đợi đến rằm đến tháng. Thị Tạm đi mấy chuyến thấy có lời gấp mấy lần buôn bán cò con quẩn quanh, mừng lắm, bỏ tiền mua mấy yến nếp trắng thượng hạng, lại thêm đậu xanh, thịt lợn, lá dong, củi lửa,... bắc một cái nồi lớn cạnh lán mộc của ông Tạm, sai năm đứa con ngày đêm canh chừng.
Ông Tạm Mộc nhờ ánh lửa ấy, chỉ cần thắp thêm ngọn đèn dầu lạc để gần bên, có thể đục đẽo cho đến khi mệt rũ thì lăn ra ngủ.
Đường từ làng ra huyện mất đến mấy ngày cả đi cả về, nên mỗi khi thị Tạm về lấy thêm bánh mang bán thường ở nhà một đên, cả gia đình quây quần bên bếp lửa hồng, tiếng bào tiếng đục, tiếng củi lép bép cháy, tiếng cười nói, kể chuyện, cả tiếng la khóc của bọn trẻ làm không khí gia đình thật đầm ấm hạnh phúc.
Đến ngày hăm ba tết, ông Tạm Mộc mới làm hết hai phần ba số việc đã nhận. Thế mà vẫn có người đến nhờ. Ông Tạm Mộc sợ thất hẹn với người nên không muốn nhận thêm. Nhưng những người tới đặt muộn thường là người nghèo khó, có khi họ vác tới cả cái giường mà chân đã mục ruỗng, chỉ e đêm giao thường vợ chồng đang ngủ thì sập, lại giông cả năm. Những nhà khó khăn như thế, không làm giúp cho thì ông áy náy lắm.
Đến tối hôm ấy, ông Tạm Mộc đang bào lại cái bàn cũ nhà hàng xóm, trời mưa rả rích suốt cả canh giờ. Khuya lắm rồi, chỉ còn con Mẹo, đứa con cả của ông, ngồi co ro canh lửa, những đứa nhỏ hơn đã đi ngủ hết. Thấy con Mẹo cũng gà gật chực ngủ, ông Tạm Mộc thương con, nói nhỏ: - Vào ngủ đi con, để thầy trông cho.
Con Mẹo cả mừng, vâng một tiếng rồi lẹt xẹt vào nhà.
Ông Tạm Mộc làm một mình ngoài sân hồi lâu, bất chợt một cơn gió mạnh thổi thốc tới. Cơn gió này khí lạnh khác thường, nó khiến cả cái bếp lửa đang cháy leo lét và ngọn đèn dầu đặt cạnh ông đều tắt lịm. Trong chốc lát, đến cả tiếng cóc nhái cũng im bặt, bóng đêm bao trùm không gian.
Ông Tạm Mộc vội lấy bùi nhùi ra châm lại lửa. Ngọn đèn dầu vừa được thắp lên, ông giật mình nhận ra cách mình chưa đầy một thước, một ánh mắt kỳ dị đang trân trân nhìn ông không chớp.
Đôi mắt ấy mỏng như sợi chỉ mà đờ đẫn vô hồn trên một khuôn mặt trắng bợt bạt. Ánh mắt ấy nửa như nhìn ông, lại nửa như nhìn một vật gì đó ở cách xa lắm. Thân hình người ấy dong dỏng cao, trùm trong tấm áo đen. Hắn đứng bất đọng như một pho tường. Ngay cả trong cơn gió mạnh, dường như vạt áo hắn cũng không hề lay động.
Từ trong nhà, con chó Mực nhà ông phóng vọt tới người lạ mặt sủa rối rít. Hắn dường như không để ý tới con Mực, vẫn chăm chú nhìn ông Tạm Mộc.
Hắn nói: - Ông là thợ mộc làng này?
Giọng hắn bình thản, câu nói chậm đến mức gần như rời rạc từng từ. Ông Tạm Mộc thoáng thấy sóng lưng mình lạnh toát.
Ông đáp, giọng hơi run run: - Vâng.
Người đó nói: - Ông đóng quan tài được chứ?
Ông Mộc vốn mơ hồ thấy sự ma quái trong con người này, đêm hôm khuya khoắt lại nghe hắn nhắc tới hai từ "quan tài" thì càng hoảng sợ, nhất thời chưa thể mở miệng ngay. Người kia cũng không đợi ông trả lời, chỉ lạnh nhạt đưa cho ông một mảnh giấy.
Ông Tạm Mộc dồn hết can đảm, run run nói: - Thưa, tôi không biết đọc, với lại tôi đã nhận nhiều việc quá rồi, không nhận thêm được nữa.
Người đối diện ông mặt vẫn không biểu lộ chút cảm giác nào, nhìn ông một hồi rồi nói: - Gỗ Ngọc Am, dài một ngũ(1), rộng một ngũ, cao hai xích(2), dày một tấc(3). Không được sập ván dưới ba tháng. Ba hôm nữa ta tới lấy. Ông cần bao nhiêu cứ nói.
Ông Tạm Mộc giật mình. Ông đã vài lần đóng quan tài cho những đám hiếu trong làng, nhưng chưa bao giờ ông thấy có người yêu cầu mình đóng một cái quan tài hình dạng như thế. Thông thường quan tài có chiều rộng chỉ hai xích, đến hai xích rưỡi đã là loại quá to rồi, đằng này hắn muốn đóng quan tài có chiều rộng đến một ngũ. Như thể quan tài ấy rộng bằng một cái phản, quả là dị thường. Người chết nằm trong quan tài áy, chẳng phải là quá thoải mái ư?
Lại thêm, hắn đòi quan tài ấy phải làm bằng loại gỗ Ngọc Am tuyệt phẩm, có thể tự phát hương thơm, khiến cho mộ phần người được táng luôn phảng phất mùi gỡ. Thứ gỗ ấy ông Tạm Mộc mới chỉ được nghe nói, chứ chưa thấy bao giờ. Chẳng nhữn thế, một tay thợ như ông làm sao có thể vừa đóng quan tài vừa tính được thời gian sập ván?
Ông Tạm Mộc thấy sự kỳ quái toát ra từ người đối diện, bấc giác run lẩy bẩy nói: - Chỗ tôi không có gỗ Ngọc Am, cũng không tính được thời gian sập ván như ông nói. Tôi chỉ là anh thợ mộc đi sửa bàn đóng ghế thôi, mong ông thương cho.
Ông Tạm Mộc nói rồi hướng về phía người kia vái lia lịa.
Con Mực đã ngừng sủa, không gian yên ắng khiến ông Tạm Mộc càng thấy hãi hùng.
Người kia không thèm chú ý tới dáng vẻ sợ hãi của ông Tạm Mộc, hỏi: - Quanh đây có nơi nào đóng quan nữa không
Ông Tạm Mộc đáp: - Như ông yêu cầu thì có lẽ phải lên phủ mới có thứ gỗ ấy. Tôi không quen đóng quan, xin ông bỏ qua cho, việc này quá sức tôi…
Người kia đáp: - Không được, thế muộn quá.
Hắn thờ thẫn nhìn ông Tạm Mộc rồi nói: - Vậy ông dùng gỗ nào cũng được, chỉ có điều, không được sập ván dưới ba tháng.
Ông Tạm Mộc toan nói thêm nhưng người kia đã phất tay đưa cho ông một nén vàng nhỏ. Ông đang lúc hoảng sợ, tay tựa như bị người kia thôi miên, chỉ biết đưa tay nhận lấy.
Người kia lại nói: - Nhớ đấy, dài một ngũ, rộng một ngũ, cao hai xích, dày một tấc. Dưới ba tháng không được sập ván. Ba hôm nữa ta tới lấy.
Nói rồi người kia quay mình bỏ đi, chẳng mấy chốc đã lẫn trong màn đêm dày đặc.
* * *
(1): 1 ngũ = 2cm. (2): 1 xích = 40cm. (3): 1 tấc = 4cm
|
- Thầy, thầy ngủ quên ngoài này à?
Tiếng gọi của con Mẹo làm ông Tạm Mộc chợt tỉnh giấc. Đứa con gái lớn đang lay lay vạt áo ông.
Trời bấy giờ đã rãng tỏ. Bên cạnh ông, cái đèn dầu không ai cơi bấc đã tắt lịm, bếp bánh chưng cũng đã nguội tàn. Hẳn là ông đã ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Hẳn là người tối qua chỉ là một giấc mơ. Ông Tạm Mộc thở phào nhẹ nhõm, vươi vai rất dài dù người vẫn còn mệt mỏi sau nhiều đêm thức muộn.
Chợt vợ ông từ cổng đơn đả đi vào, bọn trẻ con thấy mẹ về chợt ùa ra đòi qua. Thị chia cho chúng mấy thẻ mía mập mạp trong cái thúng thị mang theo.
Ông Tạm Mộc chờ cho sự nhốn nháo lắng bớt rồi mới hỏi thị Tạm: - Sao bà về giờ này? Đi suốt đêm à?
Thị Tạm đáp: - Năm nay được mùa lớn, dân tình giàu có sắm sửa nhiều lắm, trên phủ tấp nập như có hội, chợ mở suốt đêm, hàng bán ra loáng cái đã gần hết, bác Dĩm bảo bác ấy ở lại trông hàng, tôi đi cùng xe với bác Thìn về lấy thêm bánh.
Vợ chồng Thìn Diễm chính là người anh trai và chị dâu thị Tạm. Thị Tạm vốn tính đanh đá chua ngoa không sợ ai bắt nạt lại có thâm niên bán ở chợ làng nhiều năm nên giỏi tính toán, mới lên bán có mấy hôm đã thấy lời lớn.
Thị hớn hở nói với các con: - Chúng mày ăn mía xong vào mang bánh ra cho u.
Nói rồi quay lại đơn đả hỏi chồng: - Sắp xong chưa ông?
Ông Tạm Mộc đáp: - Chưa, còn ngổn ngang lắm.
Thị Tạm lại nói: - Đừng nhận thêm nữa, làm sao kịp, mang tiếng ra đấy!
Ông Tạm Mộc nhớ lại giấc mơ đêm qua, trong lòng thoáng cười mình nhát gan. Chợt thị Tạm hỏi: - Mà ông cầm cái gì thế kia?
Ông Tạm Mộc còn ngái ngủ, thấy vợ hỏi mới xòe bàn tay ra trước mặt. Cả hai vợ chồng đều giật mình. Trên tay ông là một nén vàng.
Ông Tạm Mộc cả kinh vội ném nén vàng ấy xuống mặt sân. Vợ ông vừa ngạc nhiên thấy chồng mình trong người có vàng, lại thấy ông hốt hoảng ném đi như thế còn ngạc nhiên hơn. Thị toan nhặt vội nén vàng lên nhìn cho kỹ, ông Tạm Mộc thét lớn: - Đừng!
Thị Tạm nhìn chồng sửng sốt, chưa hiểu đầu đuôi thế nào. Chợt nhận thấy giọng con Mẹo: - Thầy, con Mực chết rồi.
Ông Tạm đưa mắt nhìn về phía góc sân, thấy năm đưa con ông đang xúm xít một góc, đứa nào đứa nấy nhớn nhác. Thị Tạm chưa cần biết chó chết hay mèo què, nhanh tay nhanh chân nhặt nén vàng bỏ vào bên mình.
Ông Tạm Mộc chạy vội đến chỡ bọn trẻ, thấy đúng là con Mực đang nằm cứng đơ bất động trên đấy, dớt dãi đầy miệng, mắt trược ngược, đỏ au. Thân hình nó cứng đờ lạnh ngắt, chết tự bao giờ. Ông Tạm Mộc nhớ lại tối qua trong giấc mơ, con Mực ấy còn hăng hái sủa người lại mặt, bây giờ đã là cái xác không hồn, ông tái mặt kinh hãi. Một hồi lâu sau, ông mới run run quát con: - Thằng Tẩn, con Mẹo, mang con Mực ra sông vứt. Làm nhanh đi.
Ông quay lại ba đứa nhỏ, nạt: - Còn chúng mày ra trông bếp, nhanh!
Thằng Tẩn ngẩn người hỏi bố: - Sao không thịt hả thầy?
Người làng ấy có thói quen ăn thịt chó. Chó được thui lên rồi chế thành nước, luộc, xào, rựa mận… tới bảy món ngon, rất là khoái khẩu. Nhà nào có chó chết thường đem ăn. Giả mà thương quá thì cũng cho hàng xóm chứ cũng không mấy khi mang thả trôi sông như thế. Hôm nay lại là hai tư tháng chạp, gần cuối tháng mà trời đông rét căm cẳm, cả nhà quây quần bên nồi rựa mận mà ăn với bánh đa thì thực là lạc thú trần gian.
Thị Tạm cũng thấy lạ lùng, vì trước giờ ông Tạm Mộc khoái nhất dồi chó, thị đang định hỏi thì ông Tạm Mộc kéo tay thị vào trong nhà, vừa đi ông vừa nói nhỏ: - Bà ra đây tôi nói cái này.
Bọn trẻ con không biết đang có sự lạ xảy ra, chỉ thấy việc bố mẹ kéo tay nhau, có đứa reo lên: - A, thầy nắm tay u, thầy nắm tay u, lêu lêu…
Thị Tạm thấy con mình hét tướng như thế thì thẹn quá, vùng tay ông Tạm Mộc ra, gắt: - Có chuyện gì thế?
Ông Tạm Mộc hổn hển kể lại chuyện tối qua. Thị Tạm vốn là người mê tín, rất tin chuyện quỷ thần, nghe chồng kể xong thì thị hãi quá, ngồi bệt xuống đất, kêu lên: - Chết rồi, chết rồi, làm thế nào bây giờ?
Ông Tạm Mộc đã bình tĩnh hơn, nói với thị Tạm: - Bà sang nhà cô Hậu, mời cô tới đây.
Cô Hậu vốn là con ông đồ Tín trong làng. Cô từ nhỏ đã có căn, không lấy chồng, mười tám tuổi đã vào nghề bói toán. Xung quanh cô lắm chuyện đồn đại, nhất là việc trước đây lão xã trưởng tên Tốn để ý cô, muốn rước cô Hậu về làm lẽ. Lão Tốn tuổi ngót chục tuần, cũng hơn bố cô cả chục tuổi, Cô Hậu kiên quyết từ chối mặc dù ông bà Tín sợ lão Tốn nên hơi thuận ý.
Không rõ diễn biến sau đó thế nào, chỉ biết một hôm dân làng phải vớt xác lão Tốn trôi lềnh bềnh dưới sông, mặt mày tím tái, mắt mở trừng trừng như vừa thấy gì kinh hãi lắm. Ai cũng ngờ rằng cô Hậu sai âm binh dìm chết lão Tốn. Kể từ ngày ấy, tiếng đồn về cô Hậu không ngừng lan rộng. Những lời đồn, nhất là về những chuyện kỳ quái, thì một khi lan ra, sợ kỳ dị càng tăng gấp bội.
Lúc ấy nhà cô Hậu ở rìa làng, gần nghĩa địa. Người ta đồn rằng cô có cả âm binh theo hầu, đoán việc là trúng, giải việc là thông. Trong vòng mấy chục dặm quanh làng Việp, không ai không biết tiếng cô.
Người ta nhờ cô nhiều nhưng cũng sợ cô nhiều. Cô Hậu vì thế mà lánh ra ở gần bãi tha ma, có ý cách xa chỗ đông đúc. Ngôi nhà của cô Hậu, theo nhiều người nói, là do âm binh dựng lên, chẳng có đinh hay mộng gì mà rường kèo vì cột vẫn gắn kết được vững chãi lắm. Lại thêm mái ngói đỏ tươi, cả chục năm rồi vẫn không có rêu mốc bao giờ. Chưa có ai trong làng bước chân vào nhà ấy, ai cần gặp cô đều phải chờ đến ngọ, đứng từ ngoài mà cô kêu ơi ới, chỉ sợ ma bắt.
Thị Tạm cũng như mọi người, đứng gọi cô một hồi, khản cả giọng mới thấy cô ra. Người đàn bà ấy chưa tới ba lăm, gương mặt trắng trẻo đầy đặn. Cô Hậu lại không phải làm việc nặng, quanh năm sống nhờ tiền lễ của thiên hạ, được trắng mặc trơn nên càng tươi đẹp. Trai làng nhìn vào không ít gã đem lòng ngưỡng mộ dù chẳng ai dám đùa cợt với cô.
Nhìn thấy cô, thị tạm hớt hải kể lại chuyện tối qua. Một là thị không nhìn thấy tận mắt, chỉ được chồng kể lại, hai là thị có khiếu kể chuyện, thành ra câu chuyện được thêm thắt rất bài bản, càng trở nên ma quái. Cô Hậu nghe xong, cùng với thị Tạm tới nhà khổ chủ.
Hai người đàn bà vừa bước vào cổng, bỗng cô Hậu đứng khựng lại, nhìn trân trân vào một bụi rậm. Vốn dĩ hàng rào nhà ông Tạm Mộc chỉ là một hàng bụi rậm. Chỗ cô Hậu nhìn chăm chăm cũng chính là một phần bụi rậm ấy. Thị Tạm và ông Tạm Mộc thấy thái độ cô Hậu bất thường thế, toan hướng mắt nhìn theo. Chợt thấy cô Hậu ngã nhào xuống đất, ngất xỉu. Thị Tạm hãi quá chùng chồng dìu cô Hậu vào nhà.
Qua một hồi lâu, cô Hậu mới tỉnh lại, mặt mũi cô xanh lét như bị cảm gió, mồ hôi toát ra như tắm. Cô chẳng nói chẳng rằng, đi thẳng ra cổng không quay lại chào một câu. Thị Tạm hoang mang chạy theo hỏi hết câu này đến câu khác mà cô Hậu vẫn nín thinh. Cho đến khi bước vào cổng nhà mình, cô mới quay lại dặn: - Hắn bảo gì cứ thế mà theo, không được sai một ly.
Nói rồi cô đi nhanh vào nhà, đóng vội cổng lại.
Thị Tạm thấy nét hoảng hốt trên mặt cô Hậu, thầy phù thủy nổi tiếng khắp vùng mà hoang mang vô cùng.
Thị Tạm về nhà thì thấy chồng đang ủ rũ ngồi trên phản. Thị lặng lẽ ngồi bên cạnh. Hai vợ chồng lo âu nhìn nhau chưa biết tính thế nào.
Qua mấy canh giờ như thế, ông Tạm Mộc lòng như lửa đốt, lại chợt nhớ cô Hậu có nhìn thấy vật gì đó trong bụi rậm, ông vội chạy về phía ấy, tìm kiếm. Tạm một lúc, thoáng thấy trong bụi có một vật màu đen, ông Tạm Mộc bèn run rẩy nhặt lên xem xét.
Đó là một miếng gỗ nhỏ bằng hai bàn tay, được bọc trong một tấm vải đen. Tấm gỗ ấy có khắc thô lậu một hình người. Tấm vải đen che kín thân thể người hình nhân ấy. chỉ chừa lại đôi mắt được vẽ rất vội. Mắt hình nhân là hai nét rất mảnh bằng mực tàu.
Hai nét mực ấy giống hệt như đôi mắt của người tới vào tối qua.
* * *
|