Sát Phá Lang
|
|
Chương 120: Hi vọng
Tào Xuân Hoa sau khi nhận được Lâm Uyên mộc điểu không dám trì hoãn, lập tức bàn giao công việc trong tay, nhanh chóng lên đường đến trú địa Lưỡng Giang.
Vừa tới gần nơi đóng quân, Tào Xuân Hoa liền cảm thấy sự túc sát từ không trung ẩm ướt âm lãnh hất thẳng vào mặt, ẩn ẩn lộ ra mùi khói thuốc súng, hắn không tự chủ được thẳng lưng lên, hát hò cũng chẳng màng, cũng không nháy mắt đưa tình nữa, cố ra vẻ đàng hoàng. Chỉ thấy nơi đây trạm gác nghiêm ngặt, tất cả quan binh trong ca trực ngay cả một lần châu đầu ghé tai cũng không có, bốn bề yên ắng không một tiếng động, chỉ có chỗ luyện binh theo lệ ở không xa hò hét rung trời.
Tào Xuân Hoa dụi mắt, nhất thời còn tưởng mình lại nhìn thấy một Huyền Thiết doanh.
Vừa tới gần nơi đóng quân, liền có vệ binh trong ca trực chặn hắn lại, Tào Xuân Hoa không dám đùa giỡn dưới quân uy của Cố Quân, vội theo quy củ lấy ra lệnh kiện thông hành của Sở quân cơ. Tốp vệ binh kia trung bình chẳng qua mười tám mười chín tuổi, sau khi kiểm tra lệnh kiện không có vấn đề, vừa không nịnh nọt cũng không thất lễ, một người bước ra khỏi hàng, dẫn hắn đến soái trướng, Tào Xuân Hoa ngoảnh đầu nhìn lại, chỉ thấy đội vệ binh vừa nãy chớp mắt đã bù vào vị trí trống, chẳng hề nhìn ra chỗ hổng.
Vệ binh dẫn đường trước hơi ngại ngùng, sau nghe nói Tào Xuân Hoa từng đi theo Cố Quân trị Bắc man, bấy giờ mới mở máy hát: “Người Tây Dương không kiếm chác được gì từ tay Đại soái, chiến trường chính diện đánh không thắng, mấy ngày nay vẫn đi quanh mấy cảng khẩu Lưỡng Giang, không ngừng đến gây rối, ta nghe bách phu trưởng nói, khả năng là muốn so vốn liếng với chúng ta. Đại nhân, chẳng phải đều nói Đại Lương triều ta đất rộng của nhiều à, vì sao người Tây Dương cũng lắm tiền như vậy?”
“Đừng kêu đại nhân, ta cũng chỉ là một chân sai vặt thôi,” Tào Xuân Hoa xua tay, lại tiếp tục, “Những việc này ta cũng không hiểu, có điều từng nghe Đỗ công nói vài câu, ngươi xem chiến thuyền của họ, đều là chuyên môn thiết kế để ra viễn hải và đánh hải chiến, năm đó cảng Giang Nam và cảng Đại Cô không phải bị một phát pháo nổ tung sao? Quân ta còn như vậy, nói chi tới các tiểu quốc chật hẹp trên biển, họ san bằng một chỗ liền triệt để ‘xơi’ chỗ ấy, đoạt lấy vật tư bản xứ, mở nhà xưởng trong nước không mở được, bắt tù binh làm việc cho họ, vắt cạn xương máu – lâu dần, tự nhiên có tiền thôi.”
Vệ binh im lặng chốc lát, dẫn Tào Xuân Hoa một mạch đến trước lều của Cố Quân, thân vệ ở cửa đi vào báo, vệ binh trẻ tuổi nọ liền lợi dụng giây lát này, nói với Tào Xuân Hoa: “Đại nhân, trước kia ta từng nghe lão binh nói đến trú quân thủy quân Lưỡng Giang quá khứ, nói khi họ ở dưới tay Triệu tướng quân, bạc nhiều việc ít, luyện binh hằng ngày cũng thoải mái hơn trú quân nơi khác, lúc không trực còn có thể lên bờ dạo bước dưới hạnh hoa yên vũ, liền cảm thấy mình sinh không gặp thời, nếu là thời thái bình, không chừng cũng có thể thành một ‘quân gia’ cơ.”
Tào Xuân Hoa quay đầu lại nhìn gã, tiểu vệ binh kia hơi xấu hổ cười nói: “Hôm nay nghe ngài nói như vậy, mới cảm thấy mình kiến thức hạn hẹp, người cầm được đao kiếm, thiết nghĩ luôn may mắn hơn heo chó bị lùa đi.”
Chính lúc này, thân binh soái trướng đi ra nói: “Tào công tử, Đại soái mời ngài vào.”
Tào Xuân Hoa định thần lại, cất bước đi vào soái trướng, vừa nhìn liền thấy trên mũi Cố Quân đeo một mảnh kính lưu ly đặc biệt cợt nhả, điêu hoa đủ các kiểu sau tấm kính lấn lướt hơn hẳn, từ mũi chạy thẳng vào tóc mai, cơ hồ che khuất non nửa khuôn mặt y, không giống kính lưu ly, trái lại giống mặt nạ hơn.
Tào Xuân Hoa ngẩn người, phản ứng đầu tiên trong lòng là “mắt Đại soái sao vậy”.
Nhưng trong soái trướng đang bàn chính sự, Tào Xuân Hoa nhất thời không dám tiến lên quấy rầy.
Thẩm Dịch và Diêu Trấn đều có mặt, Diêu Trấn đang đọc một phong thư của người Tây Dương: “Đám Tây đó nói chúng là dựa trên mong muốn hữu bang hài hòa, hết sức chân thành đến hỏi ý, liệu có thể vạch bốn quận Giang Nam vào khu qua lại, cho phép trú quân tự trị, bảo vệ lợi ích của Dương thương, ngày sau nên trở thành ràng buộc trong thông thương hải vận của song phương… A, chúng còn nói mình yêu mảnh đất này, không muốn để đất đai màu mỡ phải chịu chiến tranh tàn hại nữa.”
Thẩm Dịch: “Ngày hôm qua còn ba quận, sao hôm nay lại thêm một nơi rồi?”
Diêu Trấn nhìn y vẻ bất đắc dĩ: “Có thể là vì ‘rất yêu’ chăng?”
“Yêu con mẹ nó.” Cố Quân trên mặt đeo kính lưu ly vừa nhã nhặn vừa cợt nhả, lời nói lại không giống người lương thiện, “Yêu cái đếch gì? Đến lượt bọn chúng yêu chắc?”
Thẩm Dịch: “…”
Quả thực không cách nào tiếp lời.
Tào Xuân Hoa nhất thời không nhịn nổi, bật cười thành tiếng.
Thẩm Dịch vội vẫy tay gọi hắn: “Tiểu Tào đến rồi! Chờ ngươi đã lâu, mau tới đây nói với tiên sinh, ‘rắn sắt’ của chúng ta khi nào có thể dựng xong?”
“Ôi trời, Thẩm tiên sinh ngài kêu thật khó nghe… sắp rồi,” Tào Xuân Hoa nhẹ nhàng trả lời, “Chúng ta không thiếu nhất chính là nhân thủ làm việc, phía Bắc mấy đoạn cơ bản đã xong, đoạn phía Nam này thì tốt hơn, vào đông cũng không cần nghỉ, đến lúc đó mấy bộ phận vừa nối vào, là xe hơi nước có thể chạy từ kinh kỳ đến bờ sông. Ta nghe Đỗ công nói, nếu thuận lợi, nhanh nhất là trước cuối năm có thể hoàn thành – Đúng rồi, sao Đại soái lại đeo kính lưu ly thế?”
“Đẹp chứ?” Cố Quân cười với hắn, khóe mắt như hoa đào kia quả thực muốn bay lên, mặt dày vô sỉ nói, “Hôm trước rơi vỡ một cái, lần này tìm người thay khung khác, chuyên môn mời danh thủ phủ Dương Châu tự mình điêu, thật sự không nỡ giấu cái đẹp, đành phải đeo mỗi ngày cho mọi người ngắm.”
Thẩm Dịch đau dạ dày nói: “Đại soái à, ngài cứ cất đi thì tốt hơn, mắt đám nhục thể phàm thai chúng ta thật sự không hợp với cái đẹp như vậy đâu.”
Cố Quân phớt lờ y, xoay mặt sang để Tào Xuân Hoa nhìn rõ các hướng, ăn nói lung tung: “Nếu thật sự không xong thì ta sẽ đích thân ra trận dùng mỹ nhân kế, trăm vạn hùng binh e là không đối phó được, nhưng hai ba vạn chung quy không thành vấn đề, phải chứ Tiểu Tào?”
Tào Xuân Hoa thoắt cái đỏ bừng mặt.
Thẩm Dịch và Diêu Trấn đều quay mặt đi, quả thực không thể nhìn thẳng.
“Ngươi tới đúng lúc lắm,” Cố Quân nhảy lên, quàng vai Tào Xuân Hoa mặt đỏ tới mang tai, đẩy hắn đến trước sa bàn, “Ta vừa vặn có chút việc không phải ngươi thì không thể, muốn nhờ người đi một chuyến, giúp ta nhé.”
“Mỹ nhân kế” khác người của Cố đại soái đối với người Tây Dương hữu dụng hay không thì chưa biết, chỉ biết với Tào Xuân Hoa là rất dùng được, mặt hắn tức khắc đỏ hơn, gáy mướt mồ hôi, cảm thấy bất kể Cố Quân nói gì hắn đều có thể đáp “được được được”.
Chờ tới khi choáng váng ra khỏi soái trướng, Tào Xuân Hoa mới giật nảy mình – khoan đã, không phải Nhạn vương phái mình tới trông nom Đại soái à?
Sao hắn vừa mới dừng chân, dăm ba câu đã bị Đại soái lừa đến biên cảnh Tây Nam rồi?
Ban nãy Cố Quân còn đặc ý bảo hắn là việc này cơ mật, đi ra soái trướng là nát trong bụng, ngay cả Sở quân cơ cũng không được báo lên…
Bảo hắn trở về phải ăn nói làm sao!
Thẩm Dịch tự mình sắp xếp cho Tào Xuân Hoa thất hồn lạc phách, bấy giờ mới quay lại tìm Cố Quân. Diêu Trấn đã về, trong soái trướng đèn đuốc tối om, Cố Quân gác chân lên ghế đẩu, hai tay khoanh trước ngực, chẳng biết đang nghĩ gì – từ sau khi bắt đầu không nghe thấy, y thiếu rất nhiều phiền nhiễu khi mắt nhìn tứ lộ tai nghe bát phương, rất dễ tập trung vào mạch suy nghĩ của mình.
Gió lạnh lùa vào khi Thẩm Dịch đẩy cửa tiến vào kinh động y, Cố Quân lúc này mới ngẩng đầu lên: “Sắp xếp xong chưa?”
Thẩm Dịch gật đầu, hỏi: “Rốt cuộc là ngươi thật sự muốn dùng Tiểu Tào, hay sợ hắn báo tin cho Nhạn vương điện hạ?”
“Ta là người công tư bất phân như vậy?” Cố Quân nhướng mày, song không đợi Thẩm Dịch áy náy xin lỗi, y lại nói, “Đều có.”
Thẩm Dịch: “…”
Thật là chưa thấy ai phân công tư như vậy.
“Chúng ta vừa khai chiến, trong triều tất nhiên sinh biến, với tình hình của y vốn không nên quá nhọc lòng, tình huống hiện giờ cũng là bất đắc dĩ, đừng để y phân tâm thêm vì chút sai lầm nhỏ ở chỗ ta. Ngoài ra, chuyện của Tiểu Tào quả thật cũng phải tìm một người cơ biến và đáng tin đi xử lý,” Cố Quân nói, “Không phải lão đầu đối diện cảm thấy mình men biển đánh tới rất trâu sao? Ta sẽ cho lão xem khác biệt của tướng và soái.”
Thẩm Dịch bị những lời này chia làm đôi: Bên trái là cựu bộ Huyền Thiết doanh, hận không thể đi theo chủ soái máu chảy đầu rơi, bên phải lại bị Cố Quân chân tâm thành ý khoác lác không ngượng làm buồn nôn đến nổi da gà – một lần nữa không thể đáp được, đành phải cầu xin: “Tử Hi, cho dù ngươi mù, có thể thay một mảnh kính lưu ly bình thường không?”
Cố Quân mặc giáp chỉnh trang chuẩn bị ra ngoài tuần doanh – chủ soái mỗi ngày đích thân tuần doanh như điểm danh, cũng là nét đặc sắc của đại doanh Lưỡng Giang, cho dù y mù.
“Không,” Y nghiêm trang đáp, “Ta phải noi theo Lan Lăng vương.”
Thẩm Dịch cảm thấy tên khốn nạn này điều mình đến e không phải để phân ưu, mà hoàn toàn là để trêu ghẹo!
Từ sau khi đến Giang Nam, Tào Xuân Hoa chỉ kịp viết một phong thư cho Trường Canh, nói Cố soái mỗi ngày bận bịu quân vụ và bắt nạt Thẩm tiên sinh, không có gì là không tốt, sau đó chẳng còn tin tức gì nữa, cũng không biết là bị Cố Quân sai đi làm việc, hay “vui đến quên cả nước Thục” rồi. Trường Canh nhớ tới bệnh dại trai của tên này, trong lòng hoàn toàn không ghen là không thể, song vừa ghen vừa yên tâm – không có tin tức chính là tin tức tốt, có thể khiến Tào Xuân Hoa từ sáng đến tối bận dại trai, có lẽ bên phía Cố Quân quả thực thong dong như lời Liễu Nhiên hòa thượng nói.
Mà cùng lúc đó, Trần Khinh Nhứ trước Trùng dương đã đến kinh thành.
Trường Canh ở Sở quân cơ làm liên tục hơn một tháng, hiếm khi xin phép nửa ngày trở về tiếp đãi nàng.
Khi lần đầu nghe Cố Quân gửi thư nói tìm được bản dập “thần nữ bí thuật” ở chỗ Gia Lai Huỳnh Hoặc, trong lòng Trường Canh thực sự thấp thỏm không yên một thời gian, có cảm giác như khi lão yêu tinh trong trần thế liên tục trốn trốn tránh tránh nghe nói mình có thể biến thành phàm nhân vậy. Nhưng sau khi về kinh, y vừa như mưa rào gió giật chuẩn bị bày mưu, vừa như đi dây thép mà ứng phó các loại chính địch, thật sự có phần không lo được việc khác, cho đến lúc này gặp Trần Khinh Nhứ, mới nhặt tâm tư cũ lên.
Trần Khinh Nhứ chưa bao giờ thích kéo dài, vừa thấy Trường Canh, chưa kịp chào hỏi đã nói ngay một câu: “Chữa được.”
Chỉ hai chữ, đóng đinh Trường Canh tại chỗ một lúc lâu, cho đến khi một hơi nén trong ngực dùng hết rồi, y mới chậm rãi thở ra, bình tĩnh xoi mói: “Ngoan tật ra khỏi bụng mẹ không lâu đã ăn sâu bén rễ cũng có thể chữa à?”
Trần Khinh Nhứ gật đầu: “Có thể.”
Tay Trường Canh giấu trong ống tay rộng của triều phục co giật mạnh một phát, giọng điệu vẫn bình tĩnh bức người: “Người ta nói tà thần là đem máu thịt hai người hợp làm một, ta đây từ nhỏ chính là hai người, làm sao… Trần cô nương cũng có thể tách ra à?”
Trần Khinh Nhứ hiếm thấy mỉm cười: “Thời gian phải hơi dài, chỉ sợ điện hạ phải chịu khổ một chút.”
Trường Canh thấp thỏm hỏi: “Thế Tử Hi…”
Trần Khinh Nhứ: “Trong bí thuật thần nữ có ghi chép liên quan, nhưng cách dùng thuốc không giống với chúng ta, ở chỗ ta còn rất nhiều thứ cần khảo chứng, phải chờ ta chỉnh lý rõ ràng đã.”
Trường Canh hít sâu một hơi, tim đập sắp làm vỡ ngực, nhất thời quên cả trời trăng, quay đầu muốn đi ra ngoài, hận không thể lập tức cho Cố Quân biết, đi hai bước lại đột ngột dừng chân, đập đầu mình một phát, nghĩ: “Hồ đồ, không thể cho y biết, chiến trường đao kiếm không có mắt, trong lòng y vừa buông lỏng, vạn nhất xảy ra chuyện gì thì làm thế nào?”
Nhưng không nơi chia sẻ, Nhạn vương điện hạ liền lén làm một việc khiến người ta khá đỏ mặt, y thu xếp cho Trần cô nương, buổi tối quay về hầu phủ, rúc vào phòng Cố Quân mà viết một phong thư, sau đó không gửi đi, hong khô dè dưới gối của Cố Quân.
Như vậy vẫn chưa đã nghiền, y lại lôi ra hết thư từ Cố Quân từng viết mà mình âm thầm cất kỹ, nằm trên giường nhớ lại một lần tất cả những lời người nọ từng nói, tự tìm vui mà tự mình viết một phong “hồi âm” của Cố Quân, đóng kịch một vai vui vẻ hết sức.
Liên tiếp vài ngày sau đó, Trường Canh ban ngày gặp Phương Khâm, cũng thấy thuận mắt hơn không ít.
Đáng tiếc cuộc sống của Phương Khâm lại không dễ chịu lắm.
Mấy ngày nay, tấu sớ buộc tội Nhạn vương trên bàn Lý Phong chất dày cả hai thước, nếu cẩn thận lật xem, sẽ cảm thấy Nhạn vương quả thực động một tí là phạm lỗi, dù đi trên đường ho một tiếng cũng có kẻ tố tư thế y ho khi quân phạm thượng. Song hình thành đối lập rõ ràng là, từ Sở quân cơ trở xuống một đám tân quý trong triều không biết là bị sự vụ liên lụy, hay dứt khoát ngủ đông, sửa lại thái độ đối chọi gay gắt trước đó, bắt đầu đơn phương thoái nhượng.
Thái độ của Lý Phong chính là không có thái độ, đặc biệt là gặp phải mấy kẻ cậy già lên mặt nhắc tiên đế thậm chí nhắc Vũ đế.
Đối với tình huống kiểu này, sốt ruột nhất không phải Sở quân cơ như đi trên băng mỏng, mà là Phương Khâm.
Phương Khâm kỳ thực vạn phần phản đối hành vi ùa lên này: “Trong lòng Hoàng thượng rõ như gương, chư vị, thời điểm thế này hùng hổ dọa người, không sợ mất thánh tâm à?”
Lập tức có kẻ trả lời: “Phương đại nhân mở miệng ra là thánh tâm, tầm nhìn không khỏi hạn hẹp, nhớ năm ấy tiên đế chẳng qua cũng chỉ là con của một Quận vương không nổi bật trong tông thân bàng chi Lý gia, dựa vào đâu mà thuận lợi nhập chủ cung cấm? Năm đó ủng hộ tiên đế, tổ ta lực bài chúng nghị, một ngựa làm đầu, công lao cao cỡ nào? Đan thư thiết khoán còn cúng trong nhà ta, hiện giờ con cháu họ muôn đời ngồi vững giang sơn rồi, liền muốn điểu tận cung tàng à?”
Lại một kẻ nói: “Thực sự bức chúng ta đến đường cùng, thì cứ mời linh vị tiên đế ra, chẳng lẽ thiên tử dám gánh tội lỗi tày trời, coi nhẹ tổ tông lập pháp sao?”
Phương Khâm hít sâu một hơi, quát khẽ: “Xin chư công nói năng cẩn thận!”
Mọi người nể mặt hắn, nhất thời không lên tiếng, song thần sắc lại là không hề thoải mái tiếp thu.
Thế tộc công khanh Đại Lương, không liên quan gia chủ chức quan lớn nhỏ, chỉ xuất thân cũng có thể đem gia phổ đập vỡ mặt người ta, tổ tiên phần nhiều có quan hệ thông gia, cường cường liên thủ, đời đời phân tranh chặt chẽ với quyền lực hoàng thất, gia tộc có thể phồn vinh đến nay, ít nhất mỗi một đời đều đứng đúng chỗ, dần dà, liền có chút ảo giác “nhớ năm xưa Hoàng thượng đều do nhà ta một tay nâng đỡ”.
Bình nhật họ cảm thấy Phương gia có thể diện, bằng lòng nghe hắn một lời, nhưng khi thật sự cãi nhau, Phương gia tuy ẩn ẩn đứng đầu thế gia, lại rất khó chân chính hữu hiệu áp chế ai – mọi người đều là thân thích, chẳng ai cao quý hơn ai, dựa vào đâu mà thứ liên quan đến cái đầu trên cổ mình và lợi ích bản thân phải do Phương gia làm chủ?
Phương Khâm đành phải hiểu chi dĩ tình, động chi dĩ lý nói: “Hoàng thượng thích đao to búa lớn, không chấp nhận được nhất là người khác khiêu chiến thiên uy, lần này quân Tây Dương xâm chiếm quy mô lớn, không khỏi khiến ngài nhớ tới chuyện năm đó kinh thành bị bao vây, nếu nói lúc trước ngài còn hơi do dự, hiện tại khẳng định là quyết tâm phải đánh tiếp trận này, chúng ta tội gì đi gây chuyện vào lúc này để mang tiếng hại nước hại dân? Ta cũng mong chư công đặt mình vào đó mà suy nghĩ một chút!”
Hắn thở dài, giọng lại dịu đi: “Nếu có thể nhịn qua đợt này, chờ đánh giặc xong, đến khi ấy quốc vô chiến sự, Sở quân cơ tất nhiên đứng trước nguy cơ cải tổ hoặc xóa bỏ, những người đó vị tất cam tâm, nhất định có động tác, đến lúc đó chẳng lẽ Hoàng thượng không nhìn ra tay họ đã thò quá dài? Mọi người ngẫm lại lệnh kích trống, lệnh dung kim năm ấy, sẽ biết trong lòng Thánh thượng chân chính là tính thế nào, lúc này bắt đầu dùng đám tiện dân thương hộ này, chẳng qua là kế tạm thời, chờ chúng vô dụng rồi, Thánh thượng sẽ còn che chở sao? Chỉ sợ đến lúc đó ngay cả Cố Quân cũng phải ngoan ngoãn nộp lại Huyền Thiết hổ phù, Sở quân cơ con con không thể một tay che trời mãi được.”
Phương Khâm tự cho là mình đã nói hết nước hết cái, phân tích cặn kẽ.
Song vương công quý tộc ở đây, không phải ai cũng biết nhìn phía trước – vị ban nãy phát ngôn bừa bãi nói nhà mình có đan thư thiết khoán mở miệng hỏi: “Phương đại nhân nói có lý, nhưng quá lý tưởng, ngài nói đánh giặc xong? Xin hỏi khi nào có thể đánh giặc xong? Một hai năm là hắn, một hai mươi năm cũng là hắn, chẳng lẽ chúng ta đều bấm bụng chịu đến khi đất vàng lấp qua đầu?”
Kỳ thực Phương Khâm chẳng ưa gì đám ô hợp này, trong đám người này có một đống chuột cống quốc gia không hề có kiến thụ, luôn tự cho là siêu phàm, bị bắt thóp cũng thật sự đáng kiếp, nhưng lại không thể biểu đạt ra – bởi vì thứ giúp hắn tụ những người này lại căn bản là lợi ích, mỗi ngày hô hào lý tưởng lớn “vì nước vì dân” đến vang dội cũng không ai đếm xỉa.
“Chúng ta đừng nói dỗi, đánh một hai mươi năm thật thì quốc lực gì cũng hao hết, khỏi cần người khác, Hoàng thượng sẽ không đáp ứng, tuyệt đối không thể lâu như thế.” Phương Khâm đành phải thay cách nói khác, “Ta nói với chư vị một câu từ tận đáy lòng, với thân phận của Nhạn vương, quả thật chỉ cần y không mưu phản, không ai có thể trí y vào chỗ chết, nhưng với uyên nguyên gia thế của chư vị, chỉ cần Hoàng thượng tại vị một ngày, chỉ cần chúng ta không tự loạn trận cước – ai có thể lay được gốc rễ của chúng ta?”
Lời này còn dễ nghe hơn “Ngươi không tìm chết không ai có thể giết chết ngươi” – tuy rằng là một ý – cũng gãi trúng chỗ ngứa của đám công khanh này, Phương Khâm không hổ là thế gia đệ nhất nhân của Đại Lương, chu toàn với đám này vài thập niên, đã dạn dày kinh nghiệm.
Quả nhiên, nhờ hắn chạy qua chạy lại, triều đình thái bình hơn rất nhiều, nhân mã hai phái dường như tạm thời chấm dứt chiến tranh, tất cả mâu thuẫn đều chuyển dời xuống dưới gầm bàn, nội bộ Đại Lương đón chào sự yên bình ngắn ngủi vài tháng.
Suốt hơn ba tháng-
Sau đó một sự cố khiến Phương Khâm kiếm củi ba năm thiêu một giờ đã xảy ra.
|
Chương 121: Lắc lư
Mùng tám tháng Chạp, Cố Quân bí mật sai sứ viếng thăm Đông Doanh và chư đảo Nam Dương, đến lúc này, tiền tuyến đã giằng co hơn ba tháng, chiến tuyến đã có trong sự cò cưa không ngừng của song phương liên tục kéo dài và mở rộng, chiến hỏa từ hai bên Trường Giang lan tận đến mười ba quận Giang Nam, thậm chí lan sang Lưỡng Quảng.
Hàng loạt trú dân khốn thủ cố thổ không chịu qua sông bắt đầu tự tổ kiến dân binh, trường tý sư dân gian lưu lạc các nơi tuy không có tử lưu kim, lại nghĩ mọi cách dùng than đá và thuốc nổ thô sơ thay thế, cũng đúc rất nhiều kiểu võ trang dân gian không được đẹp lắm.
Thế là, Linh Xu viện tuyên bố thành lập phân viện ở các nơi, trao đổi truyền thụ kỹ thuật ngoài công nghiệp quân sự cơ mật cao độ.
Mà ảnh hưởng càng sâu xa do chiến tranh mang đến cũng dần dần trồi lên mặt nước.
Phương Khâm tuyệt đối không ngờ rằng, phá tan sự yên bình trong triều đình không phải đảng Nhạn vương, mà là hai viện thanh lưu-
Năm này gặp đúng đợt thi Hương ba năm một lần của Đại Lương triều, do chiến sự mà bị cắt ngang giữa chừng, sau đó lại kéo dài một thời gian, quế bảng tận đến tháng Chạp mới có, thành một tờ “mai bảng”, bị thư sinh các nơi nói đùa là “mốc bảng”. (Cả 2 đều là mai, mai đầu là hoa mai, mai sau là nấm mốc)
Yết bảng chưa đến ba ngày, phủ Thiểm Tây liền có tú tài tự sát một cách ly kỳ, quan viên bên dưới không dám để xảy sự cố vào thời điểm quan trọng này, cố hết sức không trình báo lên, ai ngờ ém chẳng được mấy hôm, vào lúc đại triều hội tan liền có người chặn ngay cửa Ngự sử đài cáo ngự trạng.
Nguyên do việc này nói đến cũng khá dài dòng.
Nhạn thân vương hai lần xuống Giang Nam, chém vô số cái đầu, tạo ra lại trị nghiêm khắc nhất, khiến Đại Lương từ thời Nguyên Hòa phong trào tham hủ bắt đầu ngày càng nghiêm trọng bớt lại chốc lát. Sau đó chiến loạn mấy năm liền, đến cả hoàng cung đại nội cũng thắt chặt chi phí, quan bổng đành phải giảm tới giảm lui theo, đã thế phong hỏa phiếu kia còn tuyết thượng gia sương, móc nối chặt chẽ với lại trị khảo hạch… chẳng khác nào vừa đóng nguồn vừa mở dòng, quan viên Đại Lương trăm năm qua chưa bao giờ khó sống như vậy.
Có câu từ cần kiệm vào xa hoa dễ, từ xa hoa quay về cần kiệm khó, lúc sự tình liên quan đến gia tài bạc triệu, sẽ chẳng còn ai cảm thấy “quốc gia hưng vong thất phu hữu trách”.
Nhưng sống khổ cũng chẳng có cách gì – không ai dám nhận lễ, ai cũng biết sau lưng phú thương là Nhạn vương, không chừng lễ nào nhận không đúng sẽ thành bùa đòi mạng; quân phí không ai dám động, thuế phí sau cải cách nhất thời không động được, khoản cứu tế càng khỏi cần đề cập, đầu đám Dương Vinh Quế chỉ sợ vẫn chưa thành xương khô đâu.
Vừa vặn lần này thi Hương không được coi trọng lắm, cả nước đều đang bận rộn đánh giặc kiếm tiền, chẳng ai quản đám thư sinh bách vô nhất dụng này, liền lập tức có kẻ nảy sinh mưu đồ trên đây.
Kết quả là nhổ củ cải lôi cả bùn lên, tạo ra một vụ đại án gian lận liên quan chín tỉnh, chấn động cả nước.
Phương Khâm vất vả lắm mới áp chế được đám gậy chọc cứt lúc nhúc bên cạnh, chưa được mấy hôm an ổn, liền bị tấu chương của hai viện như tuyết rơi ập xuống đầu.
Kiểu nhân vật đặc thù như hai viện thanh lưu bất đồng với Nhạn vương, đảng Nhạn vương trước nay cần thiết thực, làm gì cũng có mục đích, tranh quyền đoạt thế có trật tự, rất nhiều hành vi có thể đoán trước. Nhưng đám thanh lưu mắt cao hơn đầu, coi công danh lợi lộc là cặn bã này rất nhiều lúc lại hoàn toàn là “tố vì thích tố” – đây là nghề của họ, danh vọng cá nhân chung một nhịp thở với tố ngã bao nhiêu người.
Công tử ca gia thế hiển hách rất ít vào hai viện, bởi thế đám quái thai này hầu hết xuất thân sĩ tử hàn môn. Mà khoa cử gian lận đụng vào lại vừa vặn là lợi ích của sĩ tử hàn môn.
Chó điên hai viện lâu lắm rồi không cắn ai nhất thời như tập thể bị giẫm đuôi, xù lông sủa điên cuồng, mỗi ngày đều đang chửi bới, đổi đủ cách chửi, ép Lý Phong nghiêm tra, dáng vẻ như tra không hài lòng là dàn hàng đâm đầu chết trên cột bàn long của đại điện luôn vậy.
Sư yên tĩnh ngắn ngủi mà giả dối bị đập tan.
Đại quan chín tỉnh, không biết bao nhiêu quan hệ rắc rối khó gỡ bị cuốn vào, trong đó thậm chí bao quát em trai không nên thân của Phương Khâm.
Ấu tử trưởng tôn đều là mệnh căn của lão đầu, ngay cả Phương đại học sĩ lâu không hỏi thế sự cũng bị kinh động, Phương Khâm đối với ai đều có thể hư dĩ ủy xà, nhưng với cha ruột lại không thể, thế là đầu to lên gấp đôi.
Không đợi Phương Khâm nghĩ ra đối sách, lần này Hoàng thượng chẳng biết có phải là cố ý hay không, mà trực tiếp nhảy qua Đại lý tự và Đốc sát viện, giao vụ án cho Sở quân cơ, do Giang Sung chủ đạo điều tra, những người khác chỉ phối hợp.
Giấy sắp sửa không gói được lửa.
Phương Khâm tuy xuất thân trong cẩm tú, trước kia lại luôn muốn chói lọi ngàn thu, không chịu hoàn toàn vô sỉ thông đồng làm bậy; vì thế, hắn trước là vứt bỏ Lữ Thường cả gan uy hiếp hắn, sau lại vứt bỏ lão ngu xuẩn thuần chủng Vương Quả, trước mắt rốt cuộc đến nông nỗi không thể vứt nữa – mẹ ruột còn ốm liệt giường ngay cách vách kìa.
Phương đại nhân trấn an xong người này, lại phải khai báo với người kia, ra cửa còn có một đám chờ hắn quyết định, có thể nói là sứt đầu mẻ trán, chỉ sau một đêm mà khóe miệng đã rộp hai chỗ. Vừa mới khóc một trận với lão mẫu thân, Phương Khâm đã nghe nói lại có người tới cửa, hắn mặt trầm như nước day ấn đường, lạnh lùng phân phó: “Cứ nói ta không có ở nhà, đuổi đi.”
Hạ nhân im như thóc mà đi, một phụ tá lén lút tiến lại, thấp giọng hỏi Phương Khâm: “Đại nhân có phiền não trong lòng ư?”
Phương Khâm tức giận nhìn hắn một cái, may mà tu dưỡng cực tốt, mau chóng thu lại thần sắc âm trầm, chậm rãi nói: “Thư sinh tạo phản ba năm không thành, lần này từ khi xảy ra chuyện đến lên kinh thành cáo ngự trạng cũng quá nhanh rồi, thực sự như là có người hộ tống… Lý Mân kia bề ngoài ra vẻ trời quang trăng sáng, chỉ dám đâm lén dưới gầm bàn, hạng mặt và lòng đều đen này, cũng chỉ có thể giấu Hoàng thượng thôi.”
Phụ tá lại hỏi: “Trong lòng đại nhân có kế hoạch chưa?”
Phương Khâm đang rất bực – phàm là hắn có thể biết trước, dù chỉ là trước một ngày, ít nhiều cũng có thể có đường xoay xở, nhưng tốc độ bùng nổ việc này thật sự quá nhanh, Hoàng thượng biết còn sớm hơn hắn, khiến hắn rơi vào một hoàn cảnh rất khó xử.
Phương Khâm thở dài: “Khó lắm, Nhạn vương là hạng hổ lang, một khi cắn được cổ con mồi, hắn sẽ không nhả ra.”
Phụ tá nọ nhẹ nhàng cười nói: “Đại nhân, tôi nghe người ta nói cải cách của Nhạn vương điện hạ chưa từng triệt để hoàn thành, còn có hàng trăm điều đang tranh luận ở trong triều, tôi thấy hắn đã quá nóng vội, bước đi này quả là thông minh bị thông minh hại.”
Phương Khâm dừng chân, nghe ra người bên cạnh có ý ra vẻ khôn ngoan. Phương phủ nuôi rất nhiều phụ tá, nhưng đại đa số chỉ chơi cờ bàn suông với lão đầu Phương đại học sĩ kia, có thể nói chuyện trước mặt Phương Khâm thì không được mấy, hiếm khi bắt được một cơ hội, đương nhiên liền muốn xuất đầu.
Phương Khâm vuốt râu: “Sao lại nói thế?”
Phụ tá nọ thấy cơ hội đến, dốc hết những lời chuẩn bị sẵn: “Hiện giờ việc đã đến nước này, phản án chỉ sợ là không có cơ hội, sao ta không rút củi dưới đáy nồi? Trực tiếp nghĩ mọi cách hủy tân lại pháp của Nhạn vương?”
Phương Khâm còn tưởng hắn có cao kiến gì, nghe vậy mau chóng chặt đứt hi vọng may mắn trong lòng, lạnh lùng nói: “Khoa cử gian lận ở các đời đều là trọng tội mất đầu sung quân, liên quan gì đến lại pháp cũ mới?”
Phụ tá thủng thỉnh cười nói: “Đại nhân, một người tham ô là tham ô, một người gian lận là gian lận, nhưng hiện giờ liên lụy chín tỉnh, vô số trọng thần lún sâu chân, đây là ngẫu nhiên sao? Hoàng thượng cũng sẽ nghĩ, đằng sau nhất định có nguyên nhân. Vì sao đám trọng thần triều đình này cùng hung cực ác như thế? Bởi vì mấy năm nay quả thật không dễ sống, lưu dân không dám không thu xếp, sưu cao thuế nặng không dám không nộp, quân phí không dám không chi, chỉ tiêu phong hỏa phiếu không dám không hoàn thành.”
Đuôi lông mày Phương Khâm nhích nhẹ: “Phong hỏa phiếu lưu thông tương đương với vàng bạc, việc này năm đó sau khi Giang Nam xảy ra chuyện đã quy định rõ ràng, ngươi định nói thế nào?”
“Lưu thông tương đương với vàng bạc, không có nghĩa là có thể nộp lên triều đình thay vàng bạc,” Phụ tá lắc đầu, nói, “Thêm nữa, rất nhiều phú thương Giang Bắc là từ phía Nam chạy tới, dân phong khai hóa khá sớm, Trung Nguyên thậm chí vùng Tây Bắc thì khác, người ta không nhận là không nhận, nếu quan phủ cưỡng chế, lại gặp phải điêu dân một gào khóc, hai náo loạn, ba thắt cổ, lỡ xảy ra sự cố, triều đình lại vấn trách, rốt cuộc là ai động một tí là phạm lỗi, lâm uyên lý băng? Đại nhân nghĩ xem, nếu thực sự liều mạng bất chấp giá nào, việc này có lẽ còn đường vãn hồi, dù tam lão gia bị cách chức, chỉ cần thế lực Phương gia còn đó, tương lai vị tất không thể Đông Sơn tái khởi.” (Lâm uyên lý băng: như đứng trước vực sâu, như đi trên băng mỏng, xuất xứ từ Kinh Thi)
Phương Khâm nghe thế trầm ngâm không nói gì.
Phụ tá thấp giọng nói: “Đại nhân, thế sự khó liệu, chúng ta chờ đánh giặc xong mới lật lại chuyện cũ, bên phía Nhạn vương đương nhiên sẽ không thể không nghĩ đến. Vào những lúc thế này không được nói ‘không tranh là tranh’ gì đó, không chủ động tiến quân, thì chỉ có thể bị họ bức tử – học trò hôm nay lắm lời, mong đại nhân đừng chê trách, cáo lui.”
Mười sáu tháng Chạp, tuần phủ Thiểm Tây một trong các chủ mưu vụ án khi bị thẩm tra, quả nhiên đương đình khóc hu hu, kể lể hạt địa mình nghèo nàn, phong hỏa phiếu khó mở rộng, chỉ có thể do quan phủ địa phương tự mua, đã thế bên trên còn liên tiếp hạ ba đợt chỉ tiêu, không hoàn thành nổi, chỉ có thể vay mượn khắp nơi, lại thật sự không có thu nhập gì, khổ không để đâu cho hết, mới không thể không ra hạ sách này.
Lời này vừa ra, như một hòn đá kích khởi ngàn tầng sóng, đám tội thần muôn miệng một lời, triệt để kéo đảng Nhạn vương bàng quan xuống nước, cũng có kẻ lưu manh nói xằng nói bậy: “Nói người ta khoa cử gian lận là gián tiếp mua quan bán chức, thế đem khảo hạch lại trị móc chung với phong hỏa phiếu, lại có khác gì bán quan bán tước?”
Tết này trôi qua trong hỗn chiến, thành thử chẳng ai màng ăn một miếng sủi cảo an tâm.
Cuối cùng, Sở quân cơ không thể không dâng tấu thỉnh tội, chính thức tuyên bố xóa bỏ điều khoản liên quan đến phong hỏa phiếu trong tân lại pháp, đồng thời tạm dừng việc bán phong hỏa phiếu.
Song chiến sự đang gay cấn, không khỏi một lần nữa xảy ra tình cảnh triều đình không có tiền dùng, Sở quân cơ lại thừa cơ đề xuất đình chỉ việc đúc bạc bản triều, học theo chính sách của người Tây Dương ở vùng bị họ chiếm và “giao tử” của tiền triều, do Long An ngân trang các nơi cho vay “bạc thế” đặc thù thay vàng bạc tiền đúc, cũng nghĩ một loạt tân quy trình lên cùng tấu thỉnh tội. (Giao tử là một loại tiền giấy phát hành thời Tống)
Long An ngân trang lẫn Ban vận hà đều thuộc phạm vi quyền lực và trách nhiệm của Sở quân cơ, chỉ cần tân quy có thể thực thi, “giao tử sắt” hay “thông bảo giấy” mọi người đều không có ý kiến, nhưng tuyệt đối không thể do Sở quân cơ nắm giữ trong tay.
Vì thế lúc này, đường sắt hơi nước sắp sửa thành hình xảy ra vấn đề trong dự liệu.
Mấy đoạn nam bắc cơ bản đã nối xong, chỉ còn một đoạn chính giữa, nối thông là đại công cáo thành, nhưng đoạn cuối cùng này lại kéo dài hơn một tháng không dám khởi công, vấn đề xảy ra trên đất đai.
Hầu hết đất đai dọc tuyến đã dự lưu tốt, nhưng một đoạn dài như vậy không thể nào tất cả đường đi qua đều là đất vô chủ, nguyên thuộc về tư nhân thì sẽ do Ban vận hà ra mặt, mua lại từ chủ đất ban đầu theo giá thị trường, đồng thời cho một vài trợ cấp phương diện khác – như là giảm miễn thuế phí vân vân. Cũng có người không muốn bán sản nghiệp tổ tiên, triều đình liền dùng cách thuê lại, viết khế ước thuê mướn, trả tiền thuê mỗi năm.
Bắt đầu từ thời Nguyên Hòa, triều đình Đại Lương đã chú trọng nhân chính, nghiêm khắc với quan viên văn võ, với hương thân dân gian lại đều rất khách khí, chính bởi vì quá khách khí, trong khế ước thuê mướn này có một sơ hở trí mạng – chỉ nói thời hạn thuê, không nói nguyên chủ không muốn cho thuê nữa thì phải làm sao.
Đại khái cũng không ngờ sẽ có người hủy khế ước của triều đình.
Mà đoạn đường cuối cùng còn lại vừa vặn là một mảnh đất lớn cho thuê, nguyên chủ là đại địa chủ, trong nhà còn có việc làm ăn khác, vốn đã thương lượng xong, tuy chưa dựng đến nơi đây, nhưng tiền thuê đã thanh toán, nào ngờ người này đột nhiên đổi ý, trả tiền lại không thiếu một xu. Người này tuy không quan không chức, nhưng rất có máu mặt, lại có quan hệ họ hàng với triều đình Triệu quốc, hắn vừa trả như vậy, xung quanh chẳng ai dám làm mất mặt hắn, ai nấy đều né không gặp Ban vận hà, khiến ray hơi nước thay đổi tuyến đường cũng không kịp, phải vòng một vòng lớn đổi đường mới được.
Do ray hơi nước đình trệ, Cố Quân liên tiếp viết mấy phong thư hỏi ngày hoàn thành, cuối cùng trình tấu lên thẳng Lý Phong, nói tiền tuyến vật tư không theo kịp, còn tiếp tục như vậy thì y sẽ bị ép co cụm chiến tuyến.
Ấu đệ của Phương Khâm vẫn chưa gột sạch tội, lúc này, Phương đại học sĩ rốt cuộc biểu đạt rõ ràng sự bất mãn với nhi tử “nhìn trước ngó sau”, “thủ đoạn không đủ”.
Vị từng là bán triều tọa sư này cùng một thời gian làm hai việc.
Đầu tiên, lão bí mật hội kiến ngoại sự quan triều đình bàn bạc với sứ tiết Tây Dương, khéo léo ám chỉ quốc lực Đại Lương lúc này có lẽ không đủ để đánh lâu dài với Tây Dương, đánh tiếp cũng là hao tài tốn của, lưỡng bại câu thương, có công lớn không phải đồ tể đánh nhau, mà là người cuối cùng có thể thúc đẩy việc đàm hòa, trả sự thái bình thanh minh cho giang sơn.
Ngoại sự quan từng là học trò của Phương đại học sĩ, dè dặt hỏi: “Lão sư, nếu Hoàng thượng quyết tâm muốn đánh, chúng con làm thần tử phải thúc đẩy thế nào?”
“Vậy phải xem ngươi nói với người Tây Dương thế nào.” Phương đại học sĩ tiên phong đạo cốt ý tứ sâu xa nói, “Họ muốn không ngoài là lợi ích, ngươi nói họ nguyện ý tiếp tục đánh tới chết với Cố Quân, hay nguyện ý lui một bước, phối hợp với phái chủ hòa trong triều ta, sớm ngày ngưng chiến hữu hảo? Hoàng thượng và triều đình muốn thể diện, nếu người Tây Dương thực sự có thành ý, nhường thể diện cho, chúng ta cũng sẽ không keo kiệt, ngươi nói có phải không? Không có tiền tuyến chiến sự làm cớ, ta không tin Hoàng thượng sẽ mặc cho bọn Nhạn vương tiếp tục làm xằng làm bậy.”
Đuổi ngoại sự quan như mới tỉnh mộng đi rồi, Phương đại học sĩ lại nhờ phu nhân đi mời một người – bà vú của Hoàng đế Long An, năm xưa sau khi xuất cung vinh dưỡng từng một độ khá được Phương phu nhân quan tâm.
Lý Phong rất có tình cảm với bà vú của mình, vốn đang bàn chính sự với Trường Canh, nghe nói bà vú trình thẻ bài tiến cung thăm hoàng hậu đau ốm lâu ngày, liền vội vàng dặn dò Trường Canh, xong xuôi chạy đến hậu cung.
Trường Canh chậm rãi rời cung đi ra ngoài, cả hoàng cung chìm trong hoàng hôn, ngàn vạn ngói lưu ly ẩn đi kim quang, rìa còn dính ít vụn băng không dễ phát hiện, có vẻ vô cùng bất cận nhân tình.
Trời lạnh như vậy, mà kinh hoa nóng đến thế.
Gần đây tiền tuyến ngày càng căng thẳng, thư từ của Cố Quân cũng giảm theo, chuyện gẫu lan man cơ bản không thấy, thi thoảng gửi phong tư tín cũng chẳng qua dăm ba câu.
Trường Canh chậm rãi thở ra một hơi, ngơ ngác đứng một lúc dưới tường cao màu son, nghĩ thầm: “Ngày kia chính là mười sáu tháng Giêng rồi.”
Mà sương mù bao phủ trên giang sơn thủy chung còn chưa rẽ mây nhìn thấy mặt trời.
Dù rằng y đang từng bước một trù mưu, kết quả kia đã ngày càng gần, nhưng trong lòng y vẫn không khỏi chốc chốc lại lo sợ.
Lúc này, một đội thị vệ đi qua, thấy y liền tiến lên chào: “Vương gia.”
Trường Canh không lên tiếng, cùng hai thị vệ kia trân trân nhìn nhau một lát, đột nhiên như trúng ma chướng cất bước đi ngay.
“Ta muốn gặp Cố Tử Hi.” Y nghĩ, “Muốn ngay bây giờ.”
|
Chương 122: Mộng hồi
Trong cuộc đời con người, luôn có nhất thời chốc lát, trong lòng không còn gì khác ngoài một ý nghĩ hoang đường vô lý do nào đó, dục vọng mạnh mẽ như có thể xơi hết thần hồn, mặc cho lý trí ở ngoài đầu óc liều mạng thò móng vuốt cào cửa cũng có thể ngó lơ.
Giống như rất nhiều năm về trước, Cố Quân ở Tây Bắc man hoang sốt đến mụ mị đầu óc, tâm vô tạp niệm nghĩ phải từ nhiệm, lang bạt thiên nhai.
Giống như rất nhiều năm về sau, Trường Canh từ trong cung cấm gió nhẹ cuốn tuyết cắm đầu đi ra, tâm vô tạp niệm muốn gặp Cố Quân xa cách ngàn dặm.
Trường Canh cắm đầu chạy về hầu phủ, hai thiết khôi lỗi tận trung chức thủ ở cửa quay người lại, im lặng nhìn y chằm chằm. Chạm tầm mắt phiếm ánh tím của khôi lỗi kia, y thình lình dừng bước.
Trường Canh như vừa tỉnh khỏi giấc chiêm bao cùng hai quái vật bằng sắt kia đối mặt rất lâu, rốt cuộc chậm rãi định thần lại khỏi trạng thái gần như tẩu hỏa nhập ma. Y khẽ thở dài một tiếng, giơ tay chạm cánh tay lạnh lẽo của thiết khôi lỗi, chầm chậm cúi đầu, khom lưng, phun ra một hơi khói trắng tích tụ.
Ngày xưa phân phân tụ tụ, cũng có khi bốn năm không gặp nhau một lần, tựa hồ đều chẳng khó khăn như lúc này, chính Trường Canh cũng không biết là mình càng sống càng mong manh, hay là đối với Cố Quân ngày càng tham lam vô độ, trong lòng y tựa như có một sợi tơ, từ khi Cố Quân đột nhiên viết thư nói nhớ mình liền bắt đầu căng lên.
Mỗi một trận đại chiến kinh tâm động phách phía Nam gửi chiến báo về kinh, sợi dây ấy sẽ kéo căng hơn, mà mỗi khi thế cục trong triều trở nên càng hiểm ác, càng phức tạp hơn, sợi tơ lòng ấy sẽ lại lần nữa kéo căng thêm, cho đến ban nãy, nó đột nhiên đứt lìa mà không hề báo trước.
Lúc này, cổng chính mở ra từ bên trong, đi ra là Hoắc Đan thống lĩnh gia tướng hầu phủ.
Hoắc Đan thấy Trường Canh dáng vẻ kỳ lạ, lấy làm kinh hãi: “Vương bá đang bảo ta đi tìm ngài, điện hạ, ngài sao vậy?”
Trường Canh vành mắt hơi đỏ, lại vẫn điều chỉnh ra nụ cười mỉm bằng tốc độ nhanh nhất, đứng thẳng dậy phủi hoa tuyết trên người: “Không có gì, đi vội nên hơi choáng thôi. Vương bá tìm ta có chuyện gì?”
Hoắc Đan là người thô lỗ, nghe vậy cũng không nhận ra dị thường, vừa tiến lên đỡ y vừa thấp giọng rỉ tai: “Có một vị khách không tiện lộ diện, nói là có việc gấp bẩm báo, y không thể đến Sở quân cơ cầu kiến, đành phải tìm tới hầu phủ.”
Vị khách này là một nam tử độ ba tư ba lăm, Trường Canh không biết, nhưng khẳng định từng gặp ở nơi nào rồi, trông hơi quen mắt. Y vừa nhanh chóng điều chỉnh trạng thái tâm lý hỗn loạn, vừa cố gắng nhớ lại thân phận của khách.
May là người nọ tự mình chủ động tiến lên cho biết: “Hạ quan phó đốc sứ đoàn ngoại sự Lưu Trọng, tham kiến Vương gia.”
“Sứ đoàn ngoại sự” là do một đám theo phái chủ hòa từ đầu đến đuôi của Binh bộ không biết móc nối với Hồng Lư tự thế nào mà liên thủ tạo ra, bởi sợ chọc giận Hoàng đế Long An, ngay cả “sứ đàm hòa” cũng không dám gọi, đành phải dở ngô dở khoai mang danh hào “ngoại sự đoàn”, giương cờ hiệu “một văn một võ”, lấy lý do chó má ra tiền tuyến “thông qua đường khác đuổi địch”, thuần túy là muốn kiếm chuyện với Cố Quân thôi.
Trường Canh nhíu mày, vừa gặp mặt ấn tượng với người này đã rất xấu, ngại mất phong độ nên không biểu hiện ra, chỉ hờ hững gật đầu nói: “Lưu đại nhân sắp đi sứ, đêm khuya tới chơi, có việc gì quan trọng à?”
Lưu Trọng đột nhiên lui một bước quỳ xuống, một tay giơ lên trời nói: “Những lời hôm nay hạ quan nói nếu có nửa câu giả dối, nhất định bị sét đánh, phụ mẫu dù ở dưới cửu tuyền cũng không được an bình.”
Trường Canh nghiêng người tránh nửa bước: “Lưu đại nhân làm gì vậy? Mau đứng lên.”
Lưu Trọng không chịu: “Vương gia có biết chính đốc đoàn ta, người lãnh đạo trực tiếp của hạ quan, từng là học trò của Phương đại học sĩ năm đó?”
Trường Canh đương nhiên biết, chẳng những biết, còn ghê tởm một thời gian, nếu không phải gần đây hết cách phân thân, thật chỉ hận không thể lần lượt bắt hết đám gian nịnh thúc đẩy ngoại sự đoàn ra lăng trì.
“Xin Vương gia cho ta bẩm.” Lưu Trọng nhanh chóng thuật lại một lần những lời Phương đại học sĩ âm thầm dặn dò ngoại sự sứ cho Trường Canh, lại nói, “Việc này hiện tại chỉ có mấy tâm phúc của chính đốc biết, hạ quan bất tài, liệt vị trong đây.”
Trường Canh dùng ngón tay gõ chiếc bàn con bên cạnh: “Đại nhân đêm khuya tới chơi hầu phủ, không phải hành vi của tâm phúc đâu nhỉ?”
Lưu Trọng thi lễ sâu: “Hạ quan nguyên quán Hàng Châu, thân sinh phụ mẫu mất sớm, từ nhỏ đi theo trưởng bối trong tộc mà lớn lên, sau đó du học tứ phương, cũng từng nhiều phen làm phụ tá trong dòng dõi công hầu, nhân duyên tế hội, hợp duyên Phương gia đại gia, tiến cử ta nhập sĩ, tất nhiên là ơn tri ngộ khó mà báo đáp.”
Trường Canh hơi nhướng mày.
“Hạ quan từ nhỏ có một thanh mai trúc mã, hai trẻ vô tư, vốn đã đính hôn, chưa kịp gả đi,” Lưu Trọng cúi đầu rất thấp, vai co lại, “Vốn định công thành danh toại hồi hương cầu cưới, ai ngờ chưa đợi đến ngày này, đột nhiên bị cường lương xâm phạm…”
Lưu Trọng cúi đầu lau mặt, khấu đầu thật mạnh: “Người chết mặc dù đã rồi, nhưng kẻ sống luôn khó nguôi ngoai, tạ Vương gia thương hại.”
Trường Canh khe khẽ thở dài: “Lưu đại nhân đứng lên rồi nói.”
Hai người mật đàm rất lâu, lúc tiễn Lưu Trọng đi, trên đường đã có tiếng điểm canh, Trường Canh đứng ở cửa một lát, bóp mạnh trán, nghiêng đầu nói với Hoắc Đan: “Làm phiền thống lĩnh đi xem Trần cô nương đã ngủ chưa, nếu vẫn chưa ngủ, thì mời nàng ấy đến một chuyến.”
Trần Khinh Nhứ gần đây vẫn tạm trú ở hầu phủ, chuẩn bị bắt tay vào thử trị liệu Ô Nhĩ Cốt cho Trường Canh, nhưng đây sẽ là một quá trình rất lâu dài, Nhạn vương luôn không được rỗi rãi, mươi bữa nửa tháng chưa chắc có thời gian trở về một chuyến.
Trần Khinh Nhứ vừa gặp Trường Canh, liền cảm thấy sắc mặt y rất khác thường, hỏi: “Điện hạ, suy nghĩ càng nhiều, thì càng không dễ khống chế mình, có phải gần đây ngài quá mệt rồi không?”
Trường Canh cười khổ một tiếng, y kích hóa mâu thuẫn sớm, kỳ thực rất nhiều việc chưa kịp chuẩn bị xong, mỗi một bước đều nguy hiểm, không biết khi nào sẽ hụt chân trên vách đá dốc đứng.
Nhưng y không còn thời gian.
Y sợ địch nhân sẽ không cho y thời gian, sợ Cố Quân chỉ nói chuyện tốt không nói chuyện xấu, ở nơi y không nhìn thấy chịu nỗi khổ mà y không hay biết.
Trường Canh: “Trần cô nương nếu tiện, không ngại bắt đầu thi châm từ hôm nay.”
Trần Khinh Nhứ sửng sốt: “Quá trình có thể sẽ rất thống khổ, điện hạ ban ngày bận rộn triều chính, có chịu được không?”
Trường Canh lắc đầu: “Không biết, nhưng ta luôn có cảm giác không tốt lắm, mấy bữa nay áp chế ngày càng lực bất tòng tâm, cứ coi như không phá thì không xây được đi.”
Một canh giờ sau, Trường Canh ý thức được rằng, mình chung quy vẫn xem nhẹ “thống khổ” theo như lời Trần Khinh Nhứ nói.
Trần Khinh Nhứ bưng một bát thuốc đến trước mặt y, chuẩn bị ngân châm sẵn sàng.
Trường Canh đưa tay nhận lấy: “Đây là cái gì?”
“Chờ điện hạ không còn bị Ô Nhĩ Cốt vây hãm nữa, ta sẽ chép phương thuốc cho ngài,” Trần Khinh Nhứ nói, “Có điều trước khi uống tốt nhất là ngài đừng hỏi.”
Trường Canh: “…”
Không biết là vì sao, trong ấn tượng của y, thứ liên quan đến vu độc của người man đều phiếm mùi xác chết âm trầm, nghe lời này, Trường Canh tức khắc sinh ra rất nhiều liên tưởng không tốt, lập tức không truy hỏi nữa, cố hết sức cuộn đầu lưỡi lên, bịt mũi một hơi uống cạn.
Trần Khinh Nhứ cúi người đốt một cây an thần tán, lãnh hương yên tĩnh khuếch tán ra trong phòng, nàng ngồi xếp bằng cách y ba bước, nghiêm túc nói: “Điện hạ, sau khi ta bắt đầu thi châm, ngài phải liên tục giữ vững linh đài tỉnh táo, nếu không sẽ không ai có thể đánh thức ngài, ta nói như vậy ngài hiểu chứ?”
Trường Canh gật đầu.
Trần Khinh Nhứ: “An thần hương này cháy hết thì ta sẽ bắt đầu, điện hạ hãy dùng thời gian một nén nhang này để thanh tâm, loại bỏ tạp niệm.”
Mới đầu không hề có cảm giác, Trần Khinh Nhứ hạ châm ổn mà chuẩn, tay chân rất nhanh nhẹn, Trường Canh chỉ nhắm mắt dưỡng thần, bỗng nhiên, một cảm giác lành lạnh tràn ngập sợ hãi bò lên sống lưng – như là nỗi sợ hãi khi nhìn người ta giơ hung khí lên mà không thể trốn tránh, chỉ có thể nhắm mắt chờ chết, cơ sau lưng y không tự chủ được co giật, mặc dù không thể động đậy, lại có động tác tránh né theo bản năng.
Trần Khinh Nhứ lập tức không châm nổi nữa, thần sắc nghiêm trọng hẳn: “Điện hạ.”
Trường Canh cảm thấy như có một cái roi vô hình quất lên lưng y, trong tai toàn tạp âm, tiếng chửi rủa của nữ nhân đã mất hơn mười năm vang lên.
Xen lẫn trong cơn ác mộng lâu năm ấy, tiếng Trần Khinh Nhứ hòa với an thần tán đâm vào tai y: “Điện hạ, đây là hầu phủ, ngài nghe thấy ta nói chứ?”
Trường Canh giật mình, dùng hết toàn lực hơi gật đầu.
Trần Khinh Nhứ cắm cây ngân châm tiếp theo, cây an thần hương thứ hai đã cháy hết, nàng liếc nhìn đồng hồ Tây Dương trên bàn: “Đây mới chỉ là bắt đầu, điện hạ có cần thêm thời gian thích ứng không?”
Trường Canh cắn nhẹ đầu lưỡi: “Không, tiếp tục đi.”
Trần Khinh Nhứ không thừa lời nữa, hạ châm như bay, ảo giác vừa rút đi một lần nữa ngóc đầu trở lại, những đau đớn lúc nhỏ Tú Nương gây ra nhất nhất tái hiện trên người y.
Trần Khinh Nhứ thần sắc căng thẳng, nàng nhìn thấy một vết sẹo cũ trên xương quai xanh của Trường Canh đột nhiên vô cớ sưng đỏ lên, một dòng máu nhỏ chảy ra, mạch máu như mạng nhện dưới da nứt ra hai bên, trông cực kỳ dữ tợn.
“Điện hạ, Nhạn vương điện hạ!” Trần Khinh Nhứ gọi một tiếng.
Trường Canh không hề phản ứng.
Trần Khinh Nhứ không dám tiếp tục, bỗng nhiên, khóe mắt nàng trông thấy chân giường treo một bộ thiết kiên giáp, trông có vẻ lâu năm, hiện tại cương giáp trong quân đã thay đổi kiểu dáng từ lâu. Trần Khinh Nhứ chợt nhớ ra, năm đó khi cùng Trường Canh nói đến bệnh trạng của Ô Nhĩ Cốt, y tựa hồ vô tình nhắc tới, lần đầu tiên thoát khỏi ác mộng, là nhờ Cố Quân treo một bộ giáp trên người mình ở đầu giường.
Trần Khinh Nhứ đảo trường tụ qua, thiết kiên giáp phát ra tiếng va chạm lanh lảnh, tiếng kim thạch quét qua căn phòng yên tĩnh, hô hấp càng lúc càng dồn dập của Trường Canh đột nhiên dừng lại.
Trước mắt y có trùng trùng ma chướng, trước tiên là bị nhốt trong thân thể mình lúc nhỏ – trâm cài tóc sắc lẻm, hỏa côn nung đỏ, roi ngựa dơ dáy, đôi tay sắc như kìm sắt của nữ nhân… Mà cuối hết thảy, có một Cố Quân mặc một nửa cương giáp, cách nhiều năm, im lặng nhìn y chăm chú.
Trường Canh nhìn người ấy chằm chằm như phao cứu mạng, khó khăn duy trì một chút tỉnh táo, không biết qua bao lâu, ảo giác như yêu ma quỷ quái xung quanh mới dần dần rời xa, Trường Canh kiệt sức rã rời định thần lại, thấy an thần hương trên bàn đã cháy hết, Trần Khinh Nhứ đang gom ngân châm lại.
Bấy giờ y mới phát hiện, mình lại có thể động đậy rồi.
Trần Khinh Nhứ: “Cảm giác thế nào?”
Trường Canh hoạt động tay mình một chút, thấy trên cánh tay không biết từ khi nào có thêm rất nhiều vết trầy nhỏ, đã nhanh chóng kết vảy, hơi ngứa. Y thử nắm tay lại: “Hình như lại bò ra một lần nữa.”
Sau khi Trần Khinh Nhứ đi, Trường Canh gục xuống ngủ ngay, bao nhiêu năm qua, giấc ngủ của y như một mặt hồ lặng sóng, một hòn đá cũng có thể phá tan, ngoại trừ mất máu hôn mê, y rất ít ngủ say giấc như vậy, cũng lần đầu không gặp ác mộng.
Y mơ thấy một tháp theo dõi cao chót vót, xa xa có ánh lửa, doanh địa thủ vệ nghiêm ngặt, có cảm giác gối giáo chờ sáng, một đội tướng sĩ tuần doanh trở về đang kéo cương ngựa, đột nhiên, người cầm đầu ngoảnh lại nhìn về hướng y, vậy mà là Cố Quân, trên mặt đeo tròng kính lưu ly còn lòe loẹt hơn mặt nạ, viền bạc và huyền giáp tôn nhau lên, nhìn y cười bỡn cợt.
Trong mộng, Trường Canh bật cười nói: “Ăn mặc kiểu gì thế?”
Cố Quân trên lưng ngựa giơ một tay, cánh tay sắt đốt tử lưu kim chạy động lực nhẹ nhàng kéo y lên lưng ngựa, ôm y từ đằng sau, kề tai cười nói: “Trong quân tịch mịch, dụ dỗ thêm mấy tiểu mỹ nhân ấy mà.”
Người trong mơ không giỏi che giấu ý nghĩ nhỏ nhặt trong lòng mình, biết rõ y chỉ đang đùa, Trường Canh lại vẫn sinh ra một chút tủi hờn không nói ra lời: “Ta ở kinh thành cả đêm khó yên, chỉ sợ đi nhầm một bước, mỗi ngày chỉ ngóng trông nghe thấy đôi câu vài lời từ ngươi, mà mãi chẳng đợi được.”
Cố Quân bất đắc dĩ nói: “Điện hạ, ngươi lặn lội tới đây chính là để làm nũng?”
Trường Canh nghe thế, cho rằng y nói đúng, rất muốn giống trong thoại bản dân gian, gây sự với Cố Quân một phen, song lúc cần dùng sách mới hận thiếu sách, tài nghệ chẳng ra gì, nhất thời hơi tắc tị, không biết phải gây từ đâu. Cố Quân lại giơ tay tháo kính lưu ly, nghiêng đầu hôn mặt y một cái: “Ngươi không thích, thì ta sẽ không đeo nữa.”
Sáng sớm, Trường Canh tỉnh dậy trong tiếng sáo đáng sợ của Cố Quân, y mê hoặc bò dậy dụi mắt, cứ cảm thấy ma âm tựa hồ còn lảng vảng trong tai, thống khổ xoa xoa đôi tai nhức mỏi, khóe môi lại không nhịn được cong lên.
Đây thật là giấc mộng đẹp mỹ mãn nhất đời y.
Có khúc nhạc thiên địa kinh quỷ thần khiếp của Cố Quân làm bạn, cho dù phía trước thật sự toàn là đầu trâu mặt ngựa, y cũng có thể không sợ hãi gì.
Trường Canh không biết là, đêm hôm trước ở tiền tuyến, lúc Cố Quân tuần doanh trở về, đột nhiên có cảm giác phía sau có ai đó đang nhìn mình. Y không tự chủ được ngoảnh đầu lại, vừa vặn làm rơi kính lưu ly, lần này thấu kính không hỏng, trái lại viền hoa điêu mài tỉ mỉ kia bị kiên giáp làm mẻ một góc, đành phải buồn bực thừa nhận thứ này đẹp mà dỏm, thay loại bình thường.
Hôm sau Thẩm Dịch nghe chuyện, chỉ y mà chê cười một trận: “Không chừng là lộ thần tiên nào thấy ngươi huênh hoang nên ngứa mắt đấy.”
“Thế thì thần tiên quản rộng thật,” Cố Quân nói không biết ngượng, “Không chừng là thấy ta anh tuấn tiêu sái, gấp gáp muốn làm vợ ta thôi.”
Thẩm Dịch: “…”
Không đợi Thẩm tướng quân ói hết cơm ăn từ tối qua, liền có tướng sĩ đến báo: “Đại soái, sứ giả ngài phái đến Đông Doanh có hồi âm rồi.”
Cố Quân: “Cầm vào đây.”
Tiếp tế của quân Tây Dương có một số là dưới sự phối hợp của người Đông Doanh đưa từ ngoại hải tới, trong chiến tranh, Đông Doanh dường như luôn nhúng vào, song lại giảo hoạt không chịu lộ mặt, ngay cả năm ấy Liễu Si dẫn mười mấy võ sĩ Đông Doanh ngụy trang thành hòa thượng mưu đồ bắt cóc Hoàng đế Long An – cũng là xuất phát từ tư oán cá nhân hắn, người Đông Doanh không chân chính đứng ra đòi lại công bằng cho hắn.
Thẩm Dịch: “Nói thế nào?”
Cố Quân lắc đầu: “Nói là rất lễ ngộ, nhưng thái độ mập mờ, sứ giả vừa muốn nói chính sự, thì kẻ có thể quản sự liền trốn tránh không gặp, tìm một đám vũ nữ mặt trắng tiếp khách… Người Đông Doanh có tính toán riêng trong lòng, nếu người Tây Dương có thể cắm rễ trên quốc thổ ta, họ sẽ được ăn ké một miếng thịt thối, nhưng nếu quân hạm Tây Dương bại lui, họ ngày sau vẫn là láng giềng với ta, bởi vậy vừa xuất lực vừa không muốn hoàn toàn đắc tội chúng ta.”
Thẩm Dịch nhíu mày nói: “Lấy lòng cả hai bên, thứ gì vậy?”
“Thứ tốt.” Cố Quân cười nói, “Họ lưỡng lự như vậy thì ta an tâm rồi, cứ chờ xem, có đại dụng đấy.”
Thẩm Dịch lắc đầu: “Chúng ta hơi chờ không được nữa rồi, phía Nam chiến tuyến kéo quá dài, tử lưu kim quá căng, cho dù là ngươi điều phối, cũng không khỏi có lúc không theo kịp, hơn nữa ta lo lắng tiếp tục đánh như vậy thì trong triều sẽ có tạp âm.”
Thần sắc Cố Quân nhạt đi.
Thẩm Dịch lại nhắc nhở: “Ta nghe nói triều đình cho rằng chúng ta không nên chỉ cắm đầu đánh, nên ‘đánh một gậy cho một quả táo’, gần đây đang tổ kiến một đám ngoại sự sứ mới, nếu đám này thật sự mang côn bổng đến tặng táo thì thôi, chỉ sợ là đặc biệt đến gây phiền phức.”
Cố Quân trầm ngâm giây lát: “Khi nào đến?”
“Chắc cũng khởi hành rồi,” Thẩm Dịch trả lời, “Không quá mười ngày nửa tháng – Tử Hi, ngươi muốn làm gì?”
|
Chương 123: Rạng đông
Hai quân Đại Lương và Tây Dương giằng co rất lâu ở tiền tuyến, song phương không ai chịu thoái nhượng, giao thủ các chiến dịch lớn nhỏ vô số trận, tổng thể cơ bản là ngang sức ngang tài, chẳng ai làm gì được ai.
Ngày mười sáu tháng Giêng, một loạt chiến hạm hải giao Đại Lương xuất phát từ rạng sáng, thần không biết quỷ không hay rời cảng, trong tình huống vật tư đã bắt đầu căng, lại lần nữa chia ra một phần nhân mã, im ắng đi men theo sông.
Lúc ấy nắng mai chưa lên, Thẩm Dịch trong bóng đêm nói với Cố Quân: “Ngươi như vậy không khỏi quá mạo hiểm.”
Cố Quân không để ý, chỉ ông gà bà vịt nói: “Buổi sáng kêu người nấu cho ta bát mì, phải đập một quả trứng gà vào.”
Thẩm Dịch bận đến chóng mặt, nghe thế chẳng hiểu gì hết, hồi lâu mới nhớ ra hôm nay là ngày gì, lẩm bẩm: “Ngươi còn rất rảnh rỗi đó.”
Y thấp giọng phân phó thân binh bên cạnh vài câu, sau đó lại tiếp tục lải nhải không buông tha: “Lúc trước không phải nói ít nhất cũng chờ đường ray lắp xong à, nếu đường ray riêng cho tử lưu kim thật sự thông, đến lúc đó phần thắng của chúng ta sẽ lớn hơn nhiều, ngươi động thủ bây giờ, vạn nhất hai bên phối hợp hơi có vấn đề, vậy thì… mạo hiểm quá!”
“Hiểm trung cầu phú quý,” Cố Quân mặt không đổi sắc nói, “Ta đây một trang nam tử phong nhã hào hoa, cần gì phải cẩn thận dè dặt như lão già đối diện?”
Thẩm Dịch nghe y lại không nói tiếng người, cả giận nói: “Cố Tử Hi!”
Cố Quân thở dài, thoáng nhìn phương Bắc, thị lực của y lúc này đã không thể xuyên qua thiên sơn vạn thủy.
“Quý Bình,” Cố Quân thấp giọng nói, “Nếu kinh thành suôn sẻ, chúng ta sớm đã bất chiến nhi khuất nhân chi binh, ngươi nói là chiến dịch này mạo hiểm lớn, nên tiếp tục kéo dài, kéo tới khi trong triều sinh biến mạo hiểm lớn hơn?” (Bất chiến nhi khuất nhân chi binh nằm trong Binh pháp Tôn Tử, nhường quân địch để họ tự mất khả năng chiến đấu, hòng giành chiến thắng.)
Thẩm Dịch ngẩn ra, á khẩu không trả lời được, y là tướng quân phụ trách một phương, chỉ cần bài binh bố trận, không cần suy xét bố cục tứ cảnh, cũng không cần lo âu Đại Lương năm mươi năm tới liệu có còn binh họa hay không.
“Lần này vô luận thế nào chúng ta cũng phải hạ một thành trước khi phái chủ hòa mở miệng, một khi cho họ cơ hội mở miệng, không biết sẽ bị họ kéo dài tới khi nào. Một tiếng trống tinh thần hăng hái, hai tiếng suy, ba tiếng kiệt, cho dù nghỉ ngơi lấy lại sức, cũng không thể quá dăm ba năm, nếu không đám thiên hoàng quý trụ Bắc đô sẽ dần dần lành sẹo quên đau, chờ thế hệ chúng ta chết hết, hậu nhân sẽ cho rằng nửa giang sơn phía Nam từ đầu đã là song phương cùng trị,” Cố Quân liếc Thẩm Dịch một cái, nói, “Mạo hiểm một lần là đáng giá, đến lúc đó ta sẽ để Huyền Thiết hổ phù lại cho ngươi, vạn nhất… thì ngươi nhanh chóng thu gom binh lực còn thừa, không cần hoảng loạn, lập tức điều động Huyền Thiết doanh lâm thời chi viện, người Tây Dương tối đa là có năng lực trên sông nước, lên đất bằng không có gì đáng sợ, chúng ta còn đường xoay xở.”
Thẩm Dịch nhíu mày sắp ra nếp nhăn.
Chính lúc này, binh tướng lo bếp núc nấu mì xong bưng lên, người bên dưới nấu cho Đại soái vô cùng tỉ mỉ, mì trường thọ từng sợi kích cỡ đều đều, trứng cũng vừa chín tới, nước ra nước thịt ra thịt, còn có sợi măng ngấm đầy nước thịt chìm nổi trong đó.
Cố Quân nhận lấy ăn vài miếng, đột nhiên hỏi: “Sao không có rau xanh?”
Thẩm Dịch ngạc nhiên nói: “Không phải ngươi không ăn à?”
“Ta bảo không ăn khi nào…” Cố Quân làu bàu một câu, và đại vài miếng, vẫn cảm thấy trong bát mì này thiếu cái gì đó, y ở tại chỗ suy tư một hồi, chợt tỉnh ngộ.
Thì ra cái gọi là ngày sinh và ngày tết, kỳ thực đều chẳng qua là sinh ra vì người ta, có một người sẵn lòng vào ngày như vậy tổ chức một “nghi thức” nho nhỏ cho y, là đang đổi cách để bày tỏ “ta đặt ngươi trong lòng”.
Tư vị trong đây kỳ thực đều giấu ở câu nói đè dưới bát mì, mà không phải là mấy miếng thức ăn không mặn không nhạt này.
Năm ngày sau, Cố Quân chính thức nhận được danh sách ngoại sự đoàn, xem qua rồi đưa Thẩm Dịch, hời hợt phân phó: “Nhìn thấy chưa, chỉ có thể chuẩn bị động thủ thôi.”
Thẩm Dịch không còn cách nào khác, chỉ đành tòng mệnh.
“Để phòng vạn nhất, Quý Bình, ta phải dặn dò ngươi mấy câu – nếu thật sự có chuyện gì, ngươi hãy thay ta tọa trấn trung quân, trên đất liền ngươi có sức đánh một trận với người Tây Dương, nhưng nhớ không được xuống nước, ngươi quá thiếu kinh nghiệm thủy chiến, không phải đối thủ của lão già đó.” Cố Quân nói, lại lấy ra bốn phong thư đã viết sẵn ở trong soái trướng, “Nếu như đại thể không có sai sót, gửi phong chiến báo thứ nhất về kinh thành, nếu thiên mệnh không thương, chúng ta thực sự có bất trắc, vậy thì gửi phong thứ hai, để Sở quân cơ toàn lực phối hợp bổ cứu, đừng quên kèm thêm một bản tấu thỉnh tội, đóng dấu Huyền Thiết hổ phù, trách nhiệm một mình ta gánh là được… Hai phong sau là tư tín, phong thứ ba gửi Trường Canh trước, để y ổn định, chờ sự tình yên ổn, nếu có cơ hội, ngươi lại đưa phong thứ tư cho y.”
Thẩm Dịch cả giận nói: “Ngươi đang dặn dò hậu sự à?”
“Bổn soái cần vì mấy con khỉ đột Tây Dương mà dặn dò hậu sự?” Cố Quân chẳng hề để ý nhướng mày nói, “Đây gọi là suy nghĩ chu toàn, đến lúc đó ta cũng đỡ phải viết lần nữa. Quân lệnh như núi, đừng nói nhảm nữa, cút đi làm việc đi!”
Đêm hôm sau, thủy quân Đại Lương đột nhiên gây sự, gióng trống khua chiêng xâm phạm trận địa quân Tây Dương, song phương đánh sắp quen rồi, vừa đối mặt thì lập tức mắt long sòng sọc. Quân Tây Dương tuy bất ngờ, vẫn nhanh chóng tổ chức phản công, vừa bắt đầu đã cảm thấy thủy quân Đại Lương lần này hung mãnh khác thường.
Nhã tiên sinh khoác áo choàng ngay ngoài áo ngủ, vô luận thế nào cũng nghĩ không thông là cái gì khiến Cố Quân đột nhiên muốn phá vỡ trạng thái tiền tuyến giằng co, theo tin tức trước mắt họ nhận được, trong Đại Lương không nên có cơ hội như vậy.
Cố Quân lần này cả quá trình thăm dò theo lệ cũng bỏ bớt, giống như căn bản không quan tâm tình hình trữ phối của quân địch, trực tiếp lên trọng pháo, “hải ô tặc” bắn ra như mưa, chủ hạm Tây Dương không kịp đề phòng trúng mấy phát, mé sườn mới sửa xong lại chìm xuống, cơ hồ tê liệt.
Trên chủ hạm Tây Dương nhất thời hỗn loạn.
“Không được hoảng, đừng hoảng!” Nhã tiên sinh lôi một cái đồng hống tới, “Đều ở tại chỗ đợi lệnh! Đoản giao lập tức tập kết, ngăn họ lại… Bệ hạ!”
Giáo hoàng chậm rãi bước ra, đi lên sàn tàu nhìn ra bên ngoài theo thiên lý nhãn.
“Bình tĩnh nào.” Ngài thấp giọng phân phó.
Thủ lĩnh cao tuổi này như có thần lực có thể trấn an lòng người, chỉ một câu nhẹ nhàng, thuyền viên và vệ binh lộn xộn xung quanh tức thì đều im lặng, chờ ngài ra lệnh.
“Quy mô thuyền tiên phong của đối phương ước chừng chỉ hơn một nửa bình thường một chút, xung phong dữ dội như vậy, không phải phong cách của Cố Quân,” Giáo hoàng thấp giọng nói, “Vì sao?”
Nhã tiên sinh miễn cưỡng kiềm chế cảm xúc: “Người Lương quá điên cuồng rồi, tôi thấy họ không giống xung phong, mà giống cá chết lưới rách lần cuối hơn.”
Giáo hoàng vừa cho lính truyền lệnh điều chỉnh đội hình hạm đội hộ vệ, vừa lắc đầu: “Không hợp lẽ.”
Nhã tiên sinh nhíu mày suy tính rất lâu, thình lình nói: “Đúng rồi! Tôi nhớ mấy hôm trước bệ hạ nhận được tin tức tới từ địch doanh báo rằng đoàn ngoại sự sắp đến tiền tuyến, liệu có phải liên quan đến việc ấy không?”
Giáo hoàng: “Ý ngươi là, nội chính của người Lương xuất hiện vết rạn, có kẻ muốn thỏa hiệp để kết thúc cuộc chiến tranh này?”
“Có chứng cứ vững chắc,” Nhã tiên sinh nhanh chóng nói, “Ngài nghĩ xem, chúng ta từng tính ra thời gian hỏa xa Đại Lương lắp xong thông xe, lúc ấy bệ hạ còn nói, sau khi họ kiến thành cả tuyến đường, chúng ta sẽ rất bị động, không phải còn từng lập mấy phương án phá hoại tuyến đường sao? Nhưng dựa theo suy tính của chúng ta, tuyến đường sắt này vô luận thế nào cũng nên dựng xong từ trước cuối năm ngoái rồi, thậm chí có thể đã bắt đầu chạy thử, nhưng họ đến bây giờ vẫn không một chút động tĩnh, chứng minh nội bộ quả thật đã xảy ra vấn đề!”
Giáo hoàng khoanh tay trước ngực, một ngón tay cọ nhẹ cằm, lúc này, tiên phong của Cố Quân đã như một thanh đao nhọn đâm xuyên qua phòng tuyến chiến hạm Tây Dương, đằng đằng sát khí rẽ sóng lao đến.
Đội hộ vệ Tây Dương bao vây chủ hạm thành một quả cầu kiên cố, ưng giáp dự trữ phóng ra khỏi chủ hạm, từ trên cao lao xuống tấn công như mưa.
“Nếu là tôi,” Nhã tiên sinh vẫn tiếp tục, “Tôi sẽ cho chủ hạm lui lại, cấp tốc tạo ra một vòng vây, dẫn nhánh tiên phong này vào, bọc đánh tiêu diệt, họ tuyệt đối không trụ được quá lâu trước lửa đạn mạnh như vậy, một khi đứt liên hệ với phía sau, ắt sẽ chết ở đây!”
Giáo hoàng lẳng lặng hỏi ngược lại: “Ngươi cho là Cố Quân sẽ phạm sai lầm cấp thấp kiểu này?”
Nhã tiên sinh: “…”
“Trước khi lên chiến trường, việc quan trọng nhất ngươi phải làm là hiểu rõ đối thủ – Truyền lệnh, co cụm hai cánh, phòng ngự làm chính, chuyển dời về hướng Đông Nam, lập tức gọi viện binh.” Giáo hoàng vừa ra lệnh đâu vào đấy, vừa nói với Nhã tiên sinh, “Nếu ngươi thật sự từng nghiêm túc nghiên cứu mấy án lệ kinh điển Cố bình định phản loạn ở Đông Hải, bắt sơn phỉ ở Tây Nam, xét lại mấy lần giao thủ của chúng ta với y ở phương Bắc, nên có một chút hiểu biết sơ lược về Cố Quân, khi tư nguyên trên tay y thực sự nằm trong liệt thế, chẳng những y sẽ không để ngươi nhìn ra, còn có thể thiên y vô phùng kéo Huyền Thiết doanh chỉnh túc đến trước mặt ngươi, khiến ngươi sợ vỡ mật… Người Lương họ gọi đây là ‘hư tức là thực, thực tức là hư’.”
Nhã tiên sinh không đồng ý, nhưng ngoài mặt không dám phản đối, đành phải nói theo Giáo hoàng: “Vâng, bệ hạ.”
“Ngươi nhìn đi, đây chỉ là mồi nhử thôi.” Giáo hoàng cười nói, “Chúng ta hãy kiên nhẫn, kéo lưỡi câu của y chạy xa một chút, là mau chóng có thể chân chính nhìn thấy át chủ bài trong tay y.”
Đúng lúc này, lính truyền lệnh chạy tới báo: “Bệ hạ, đội quân hạm thứ nhất thứ hai và thứ ba không ở trên cảng, mà đang đi ‘nhiệm vụ viễn hải’, ngài xem…”
“Nhiệm vụ viễn hải” là chuyên môn đi hộ tống tiếp ứng thuyền vật tư của thánh địa.
Giáo hoàng không hề quay đầu lại nói: “Hẳn là họ còn chưa đi xa, lập tức gọi về, dọc tuyến ‘viễn hải’ rất an toàn, hộ tống chút vật tư này không cần tới ba hạm đội, đối phó túc địch thân ái cần phải có kính ý và thành ý.”
“Vâng!”
“Quay về! Thu hai cánh vào!”
“Hạm đội hộ vệ điều chỉnh hướng Đông Nam, chú ý tốc độ-“
“Ưng! Tạm thời rút về. Chủ hạm hạ tất cả tấm thép phòng ngự xuống, rẽ nước chạy.”
Cả hạm đội Tây Dương cấp tốc tụ tập thành một đại vật khổng lồ chặt chẽ, hạm đội hộ vệ vật tư mới xuất cảng nhanh chóng quay về, như hổ rình mồi dõi theo hải quân Đại Lương lao tới như không sợ chết, kết thành phòng vệ vững chắc.
Mỗi lần đều là Cố Quân giữ chân người Tây Dương, lần này tình huống đột nhiên thay đổi, biến thành người Tây Dương dùng phòng vệ dày giữ tiên phong Đại Lương lại tìm kiếm khắp nơi một chỗ hạ miệng.
Hai khắc sau, nhánh quân tiên phong như chó điên của Đại Lương rốt cuộc chậm lại, hiển nhiên là đã kiệt sức.
Giáo hoàng: “Jacob, ngươi xem.”
Ngài chưa dứt lời, đã thấy một loạt hạm đội tiếp ứng và tiếp tế xuống từ ba đường, át chủ bài Đại Lương rốt cuộc không giấu được nữa, trong bóng đêm nhe răng nanh dữ tợn.
Nhã tiên sinh giật nảy mình – nếu ban nãy thực sự theo lời mình, lập tức bao vây xơi tái tiên phong của Đại Lương, hai cánh bên ta thiếu ba nhánh hạm đội lập tức sẽ bị địch nhân kéo giãn làm yếu, sẽ dễ dàng bị người Lương mai phục xuyên thủng xé rách!
“Ta nói rồi,” Giáo hoàng nhìn hắn hơi trách cứ, “Chỉ có hiểu rõ địch nhân, ngươi mới có thể biết cơ hội của mình chân chính ở chỗ nào – Tất cả hạm đội chuẩn bị phản kích! Nhân lúc họ chưa ‘đứng vững’, giáng một gậy ngay đầu!”
Ngài vừa dứt lời, lửa đạn Tây Dương liền như sóng thần đẩy ngang ra, ba lộ bộ đội chủ lực của Đại Lương vừa đối mặt liền tổn thất nặng nề, họ thậm chí chưa kịp bắn trả một phát pháo, chiến hạm hải giao trên cùng đã lũ lượt bị đánh chìm.
Thoạt nhìn, lần cung cấp hữu hiệu này cơ hồ tiêu diệt gần một phần tư sinh lực bộ đội chủ lực của thủy quân Đại Lương.
Hạm đội thủy quân Tây Dương sục sôi, bắt đầu từ ngày Cố Quân tọa trấn Lưỡng Giang, họ chưa từng được lợi lớn như vậy trên tay y!
Song bản thân Cố Quân lại không phẫn nộ và sứt đầu mẻ trán như trong tưởng tượng.
Lúc này, trên một hải giao cỡ trung không hút mắt trong thủy quân Đại Lương, Cố Quân thủng thỉnh nhìn hàng loạt “chiến hạm” của mình bị đánh chìm, mắt cũng không chớp mà nói với thân vệ bên cạnh: “Ngươi xem, ta đã nói gì? Biết người biết ta, lão già đó đánh một trận có thể chuẩn bị mười mấy năm, chắc là từng rất dụng tâm nghiên cứu về ta.”
Nếu lúc này là ban ngày, có lẽ người Tây Dương sẽ dễ phát hiện chỗ đặc biệt của những con thuyền bị đánh chìm hơn.
Thuyền đều trống không, giống một loại hình thái khác của “hải ô tặc” hơn.
Đây vẫn là chủ ý dở hơi của đám cổ hủ Linh Xu viện – gom lại chiến hạm bị hỏng ở tiền tuyến, sau đó phỏng tạo hệ thống động lực của hải ô tặc, dọn sạch cả hạm thuyền, loại chiến hạm chỉ có xác này cực nhẹ, dùng chút ít động lực là có thể tự động trượt rất xa trên mặt nước, tuy không có tác dụng gì, lại là lợi khí thêm thanh thế dọa người.
Cố Quân phái ra một phần thủy quân, thực sự trực tiếp lên chiến trường, tất nhiên bị người Tây Dương nhìn ra sinh hoài nghi, bởi vậy bèn dùng cách này múa hờ một thương.
“Nếu họ có thể bị thắng lợi nhất thời làm mê muội đầu óc thì càng tốt,” Cố Quân vắt chân chữ ngũ ngồi đó, “Tản ra, nhớ lấy, nhiệm vụ của chúng ta hôm nay là giữ chân kẻ địch.”
Thân binh liếm môi: “Đại soái, ‘bên kia’ có thể theo kịp không?”
“Không dám nói chắc, không theo kịp chính là vận số của ta đã tận,” Cố Quân cười khẽ một tiếng, “Chú ý cơ động.”
Trên chủ hạm Tây Dương, Nhã tiên sinh quả nhiên mừng rỡ đến mụ mị, đáng tiếc bên cạnh có một Giáo hoàng bệ hạ, hắn chưa dám hí hửng thái quá.
Hơn nữa hắn mau chóng phát hiện, nhánh thủy quân Đại Lương xuất sư bất lợi này không hề dễ đối phó, người Lương sau khi ngựa mất móng trước đã cấp tốc điều chỉnh, phong cách tác chiến như lưu manh của Cố Quân lại ra trận, khiến người Tây Dương sứt đầu mẻ trán, biến trận chiến vốn nên là lấy nhiều đánh ít thành tình cảnh gần như ngang sức ngang tài.
Chủ lực hai quân đánh từ nửa đêm đến tận tảng sáng hôm sau-
Khi tia nắng đầu tiên xuyên qua mặt biển, cách cục chiến trường trải qua một đêm chiến đấu hỗn loạn trong bóng tối đột nhiên lộ ra dưới ánh mặt trời.
Trên chủ hạm Đại Lương, thân binh hớt hải nói: “Đại soái, bên kia vẫn chưa có tin tức, chúng ta triệt đi, tiếp tục như vậy thì vị trí chủ hạm sẽ bị lộ, chúng ta không có đại thiết quái nổ kiểu nào cũng không chìm như của họ, ngài không thể lấy thân mạo hiểm được!”
Cố Quân vuốt nhẹ tròng kính lưu ly: “Yên tâm đi.”
Đúng lúc này, Giáo hoàng đột nhiên dúi thiên lý nhãn vào tay Nhã tiên sinh: “Con thuyền hiệu Ngô Việt kia! Đó chắc chắn là chủ hạm quân địch, Cố Quân nhất định ở trên đó, hạ nó!”
Lửa đạn dày đặc chuyển dời theo một tiếng ra lệnh của Giáo hoàng, chủ hạm có Cố Quân ở trên nhất thời không thể tránh né.
Thân binh: “Đại soái!”
Chỉ mành treo chuông, bốn năm đoản hạm trong tình huống Cố Quân chưa hề hạ lệnh tranh nhau lao ra, lấy thân hạm của mình chặn trước chủ hạm, lập tức uỳnh một tiếng.
Khuôn mặt Cố Quân chợt căng thẳng, lúc này, một thủy binh lảo đảo lao vào: “Đại soái, chúng ta không trụ được nữa!”
Cố Quân hơi nheo mắt.
“Đại soái!”
“Không sao, không cần hoảng… Hậu đội đổi thành tiền đội, giữ chân họ một lúc,” Cố Quân thấp giọng phân phó, “Từ…”
Một câu chưa nói xong, đột nhiên, không trung truyền đến tiếng ưng kêu, âm thanh ấy chói tai như tiếng còi cảnh báo, ngay cả Cố Quân dở điếc cũng nghe thấy.
Cố Quân quay phắt đầu lại.
Đó là ám hiệu của Thẩm Dịch phụ trách tổng quản lý trên bờ cho y – bên kia đắc thủ rồi!
Thân binh hơi sửng sốt, sau đó nhảy cẫng lên: “Ưng của chúng ta!”
Cố Quân: “Đưa thiên lý nhãn cho ta.”
Thân binh liếm đôi môi khô khốc: “Đại soái, chúng ta…”
“Cẩn thận!”
“Uỳnh” một tiếng-
Đúng lúc này, một viên đạn lạc xuyên qua khe hở của tàu hộ vệ, đánh thẳng vào phần đuôi chủ hạm Đại Lương, cả chiến hạm hải giao rung mạnh, bụi mù và hỏa hoa tóe lên.
Trong cảnh huyên náo, một mảnh kính lưu ly bay đi, nát bét.
Ngày hai mươi tư tháng Giêng, đoàn ngoại sự ăn cứt cũng chẳng kịp nóng còn chưa đến tiền tuyến, đêm hôm khuya khoắt Lý Phong đã bị chiến báo khẩn cấp từ tiền tuyến đánh thức trước.
Huyền Thiết hổ phù đóng dấu – tiền tuyến đại thắng!
Bố trí của Cố Quân nửa năm qua mới thấy đầu mối, không biết từ khi nào y đã phái người về Nam đến Nam Dương, âm thầm xúi giục chư đảo Nam Dương bị quân Tây Dương chiếm, mai phục phần lớn binh lực ở biên cảnh Tây Nam.
Đêm ngày hai mươi mốt tháng Giêng, thủy quân Đại Lương dùng một phần bộ đội chủ lực đột tập quân địch trên chiến trường chính diện, lợi dụng sự cẩn thận dè dặt của tướng lĩnh quân địch, hãm chân binh lực địch, đồng thời đoàn chiến hạm hải giao mai phục tại biên cảnh Tây Nam càn quét chư đảo Nam Dương, nội ứng ngoại hợp tiêu diệt thế lực Tây Dương chiếm cứ ở đây, sau đó lập tức phát binh, tiệt tuyến tiếp viện viễn dương của địch, thần không biết quỷ không hay bóp cổ đối phương!
Ai nói đường đường thủy quân Đại Lương đánh không được chiến dịch viễn hải?
Chiến báo rất ngắn gọn, chỉ nói kết quả, tình hình cụ thể và thương vong không nhiều lời.
Sau chiến dịch này, quân Tây Dương chật vật lui đến hải vực Đông Doanh, dân binh các nơi thừa cơ phát động tập kích quân địch trong khu vực, nửa giang sơn phía Nam nổ đến nở hoa tứ phía, là ánh rạng đông đầu tiên của tiền tuyến trầm tịch lâu ngày.
Lý Phong cơ hồ nhảy cẫng lên, nửa đêm canh ba mặc quần áo muốn mở đại triều hội.
Đoàn ngoại sự cái cứt, có thể đánh người Tây Dương cuốn gói về quê, thì một hạt cát cũng không cho họ mang đi.
Nội thị vây quanh hắn, từ sau khi Chúc Chân Nhỏ chết, bên cạnh Lý Phong đã thay vài người, đều không hợp ý lắm, lúc này hầu hạ hắn cũng là một lão nhân, không lắm lời, coi như thông minh: “Chúc mừng bệ hạ, có Cố soái, ngày thu hồi Giang Nam sắp tới rồi!”
Lý Phong cười “ha ha”, nói năng cơ hồ lộn xộn: “Trẫm xuống dưới cửu tuyền nhìn chung không cần lo lắng khó lòng ăn nói với liệt tổ liệt tông nữa, thật vậy.”
Lý Phong thọt đã lâu như bôi dầu dưới chân lao ra ngoài, đi đến nửa đường, vừa bị gió sớm thổi, thì đầu óc nóng lên của Hoàng đế Long An rốt cuộc nguội lại, vẻ vui mừng cũng hơi tối đi.
Đúng rồi, trận chiến này đại thắng, sau đó thì sao?
Không ít chính lệnh Sở quân cơ thi hành đều giương cờ hiệu “lấy chiến làm đầu”, các đại thế gia ngoại trừ mỗi ngày lôi đan thư thiết khoán ra để cậy già lên mặt với mình, chính là chỉ muốn đình chiến.
Nếu nói trước đây Lý Phong còn có chút do dự với chiến và hòa, thắng lợi này của Cố Quân đã thêm lợi thế cho một bên, làm cán cân trong lòng hắn nghiêng hẳn về một phía.
“Đám thế gia môn phiệt này ngày càng táo tợn, ngay cả đại chiến cũng có thể can thiệp.” Hoàng đế im lặng nghĩ bụng, “Có rắp tâm gì?”
Lý Phong dừng bước, không đầu không đuôi nói với nội thị: “Nhũ mẫu Triệu thị của trẫm mấy năm rồi không vào cung, ngươi còn nhớ bà ta chứ?”
Nội thị không rõ lắm, cúi đầu đáp một tiếng: “Nghe nói Triệu phu nhân hiện giờ dưới gối chỉ có một nữ nhi, còn làm việc trong cung, nhận Phương tam công tử làm nghĩa tử, dạo trước thường xuyên trình thẻ, chắc là đến cầu tình.”
Lý Phong “À” một tiếng, hơi hạ mắt: “Vương tử phạm pháp còn đồng tội với thứ dân, năm đó Ngụy vương hạ ngục như thường, cũng không thấy ai đứng ra nói một câu công bằng, sao nhi tử những nhà này trái lại kẻ nào cũng quý báu?”
Nội thị nghe ra một chút sát ý, dè dặt nhìn Lý Phong một cái, nhất thời không dám lên tiếng.
Mồ hôi nóng đầy đầu Lý Phong bị gió lạnh thổi, hắn ôm ngực, ho khẽ vài tiếng, nội thị vội đem một tấm hồ cừu choàng cho hắn.
Thái tử thất tuế khán lão, người cũng thông minh, nhưng tính cách quá hiền lành nhu nhược, không giống mình lắm, ngược lại giống tiên đế Nguyên Hòa hơn, mà thời Nguyên Hòa là quang cảnh ra sao?
Lý Phong hiện giờ vẫn nhớ rõ – tiên đế luôn cảm thấy đế vị của mình danh bất chính ngôn bất thuận, dựa vào đây lại dựa vào kia, ngay cả quân quyền cũng không thể khống chế trong tay, cho dù Cố gia chỉ còn một đứa trẻ choai choai, ông vẫn mặc cho Huyền Thiết hổ phù chết người kia truyền lưu bên ngoài, một chút việc bằng mắt muỗi cũng phải hỏi ý kiến kẻ này kẻ khác, động chút là vỗ về nói tình cảm, nuôi một đám sâu mọt quốc gia, cơ hồ phá sạch của cải sung túc Vũ đế để lại.
Lý Phong mất mười năm, vẫn chưa thể dọn xong đống lộn xộn tiên đế bỏ lại.
Lý Phong hai năm nay càng cảm thấy mình lực bất tòng tâm, hắn không muốn để nhi tử rơi vào quẫn cảnh của phụ thân năm đó.
Nhưng với tình trạng trước mắt, hắn lại nên tin tưởng ai đây?
Nhạn vương ư?
“Không cưới vợ”, “không sinh con”, “nguyện làm Thương Quân tuẫn quốc tộ” nọ kia toàn là bản thân Nhạn vương nói, thiên hạ còn đầy những lời dễ nghe hơn, đám loạn thần tặc tử kia lúc chứng cứ chính xác cũng còn khóc lóc nói mình vì nước vì dân có nỗi khổ trong lòng, Lý Phong cố nhiên có thể bị lay chuyển nhất thời, nhưng lâu ngày có thể để hắn bình tĩnh lại.
Lý Phong trước mắt che chở Trường Canh, là vì hắn cũng nhìn thấy giá trị của cuộc cải cách này, có một điểm Nhạn vương nói đúng, chế độ và quy tắc mới là quan trọng nhất, vô luận Nhạn vương muốn thay đổi thành thế nào, xã tắc lỗ chỗ thương tích quả thật đang phát triển theo hướng tốt hơn, Lý Phong hi vọng mượn tay Nhạn vương giải quyết sạch sẽ triệt để căn bệnh trầm kha của tiền triều, mai kia để lại cho Thái tử một xã hội sáng sủa.
Song đồng thời, hắn tuyệt đối không thể giao nhi tử nhu nhược vào tay đệ đệ sát phạt quyết đoán này, nếu có một ngày hắn phải đi theo tiên đế, người đầu tiên hắn cần xử lý là Nhạn vương, và người thứ hai chính là Cố Quân.
“Không đi nữa, hồi cung, sáng sớm mai lại triệu, chờ trời sáng, ngươi gọi Thái tử tới một chuyến.” Lý Phong bỗng nhiên không đầu không đuôi phân phó.
Nội thị hoang mang, không biết vừa nãy còn đang nói chuyện Triệu thị, sao Hoàng thượng trầm mặc một hồi lại sang đến Thái tử.
“Còn nữa,” Lý Phong lại nói, “Bản tấu ta mang về đâu? Lấy đến ta xem.”
Tấu chương kia là Từ Lệnh viết, một chương trình về cải cách Quốc Tử học, ý tưởng không thành thục lắm, thậm chí hơi non nớt, nhưng không sao, có thể ném cho Sở quân cơ phối hợp hoàn thiện. Cả triều đều đang náo loạn muốn giết người chém đầu nghiêm trị gian lận khoa cử, cũng chỉ có mấy thư sinh như vậy còn có thể nghĩ đến chuyện sau này.
Nếu như có thể, Lý Phong cũng giống một người cha bình thường, hi vọng có thể che chở cho nhi tử tuổi nhỏ thêm vài năm, cố gắng để nó ở hậu cung chơi dế cỏ, nhưng ai biết được thời đại phong vân tế hội này sẽ còn xảy ra chuyện gì?
Tinh mơ hôm sau, tin tức tiền tuyến Lưỡng Giang đại thắng đập thẳng xuống đầu, thế lực các phương đều còn chưa kịp có phản ứng với kết quả bất thình lình.
Lý Phong trên đại triều hội lần đầu tiên lập trường rõ ràng mà cương quyết thi hành hai tân chính:
Thứ nhất, đồng ý với “tân chính Long An” của Sở quân cơ về việc hủy phong hỏa phiếu, sửa đổi chính sách đúc tiền.
Thứ hai, trên nguyên tắc đồng ý chương trình cải cách Quốc Tử học do nhóm người Từ Lệnh hai viện liên danh yêu cầu, chỗ chưa hoàn thiện trong đó, lệnh cho Sở quân cơ dẫn đầu, Lễ bộ Quốc Tử giám cùng hai viện chung tay chỉnh sửa.
Đồng thời, Lý Phong ở trên đại điện lôi Giang Sung và Linh Xu viện ra quở mắng một trận, yêu cầu lập tức tăng tốc tiến độ điều tra án gian lận chín tỉnh, tất cả những kẻ liên can, bất luận xuất thân, nhất loạt nghiêm trị không tha, và giao trách nhiệm cho Linh Xu viện lập tức nghĩ cách mở rộng tuyến đường ray hơi nước từ kinh thành đến Giang Nam, tuyệt không thể cho người Tây Dương đường nghỉ xả hơi, không được lãng phí thắng lợi lần này, họ phải một tiếng trống làm tinh thần hăng hái thêm mà thắng tiếp.
Trước lúc hạ triều, Lý Phong tuyên bố quyết định cuối cùng của mình – Thái tử mười một tuổi chuẩn bị vào triều nghe chính sự.
|
Chương 124: Chung cuộc (thượng)
Đây là lần đầu tiên Hoàng đế Long An thái độ luôn mập mờ biểu đạt rõ lập trường phá cựu lập tân của mình trên đại triều hội, trước đó chưa hề lộ ra nửa chữ với bất cứ ai, không riêng gì đảng Phương Khâm, đến cả Sở quân cơ cũng hoàn toàn không hiểu.
Giang Sung hoang mang nhìn Nhạn vương một cái, thầm nghĩ: “Ngô hoàng uống nhầm thuốc à?”
Trường Canh không hề xuất hiện dị sắc trên mặt, lập tức đứng ra không mặn không nhạt vỗ mông ngựa. Tuy y chơi trò quyền mưu, nhưng trời sinh có tiên khí của kẻ ngoài vòng giáo hóa, ngay cả tư thế vỗ mông ngựa cũng hết sức sủng nhục bất kinh, hoàn toàn là bộ dáng đã thông đồng nhất trí với Lý Phong.
Lập tức có kẻ biến sắc.
Trong lòng Lý Phong biết Nhạn vương cố ý mượn thế mình, văn võ cả triều thì đang ôm mưu toan riêng, song điều này không hề quan trọng, hắn có thể bắc thang cho Nhạn vương, thì cũng có thể bắc thang cho bất cứ một ai.
Lần này Lý Phong dùng hai chính lệnh đẩy Sở quân cơ lên nơi đầu sóng ngọn gió, chỉ muốn xem mấy kẻ lôi đan thư thiết khoán của tiên đế ra nói có làm gì được vị Nhạn vương giữa chừng xuất gia, cả đời chỉ từng kêu một tiếng “phụ hoàng” này hay không.
Ngày hôm ấy chốn kinh hoa lại định trước là một đêm không ngủ.
Trong Sở quân cơ, Giang Sung nói nhỏ với Trường Canh: “Vương gia, làm thế nào đây, chúng ta cứ theo kế hoạch ban đầu chứ?”
Trường Canh không chút do dự nói: “Rèn sắt nhân khi còn nóng.”
Giang Sung nhìn Trường Canh một cái thâm sâu, lại hỏi: “Vương gia, nếu ép căng quá, họ chó cùng rứt giậu thì làm thế nào?”
Trường Canh quay đầu nhìn hắn, ý tứ sâu xa nói: “Ta sợ chính là họ không rứt giậu. Hàn Thạch huynh, huynh biết câu hữu dụng nhất mà đời này ta từng học là câu gì chứ?”
Giang Sung tự dưng cảm thấy hãi hùng khiếp vía.
Trường Canh nói: “Ra trận, ai không muốn chết thì chết trước.”
Trên đường rời Sở quân cơ về nhà, Trường Canh vừa vặn đụng phải xa giá của Phương Khâm, liền phân phó Hoắc Đan: “Nhường Phương đại nhân đi trước đi.”
Hoắc Đan vâng dạ, lát sau lại chạy về báo cáo: “Vương gia, Phương đại nhân nói không dám thất lễ, đã nhường đường rồi.”
Trường Canh vén màn xe, nho nhã lễ độ chắp tay chào Phương Khâm, hai người hòa khí đi qua nhau, giống như chưa từng muốn một mất một còn.
Trường Canh dựa xe, thầm nghĩ nếu mình đổi chỗ cho Phương Khâm, tốt xấu gì cũng sẽ nhịn qua thời điểm căng thẳng này, đợi đến khi tân quý trong triều chớp nhoáng chiếm lĩnh tài chính giao thông, căn cơ bất ổn lại khuếch trương quá nhanh mà đẩy một phát, sau đó chỉ cần im lặng chờ Lý Phong ra tay là được rồi – vương công quý tộc như mạng nhện trong triều này, khắp nơi đều là cố sự, khắp nơi đều có thế lực, nếu chịu từ từ chờ thời, chờ đến hậu chiến, sẽ có cả tá cơ hội khôi phục chế độ cũ.
Trường Canh còn biết với sự ổn thỏa của Phương Khâm, trong lòng hắn nhất định cũng nghĩ như vậy.
Thế nên, dù có phải lôi mọi người cùng đi trên dây, cũng tuyệt đối không thể để hắn bình tĩnh đợi được cơ hội này.
Phương Khâm nhìn theo xa giá Nhạn vương đi xa, mới phân phó gia nhân đi tiếp. Xung quanh hoàng hôn bao phủ, chậm rãi tiến vào đêm dài đằng đẵng, hắn tựa hồ mang máng nhìn thấy đại thế như động mạch kia, tựa nước chảy mà cuồn cuộn đổ qua trước mặt. Song hắn vô lực ngăn trở, đê dài vạn dặm dưới chân hắn là do cát bụi chất thành, trông thì uy vũ hùng tráng, thực tế không chỗ mượn lực, là tình đời vô biên đang làm ngược lại hắn.
Quay về Phương phủ, trong phủ theo thường lệ đã có khách chờ đợi, Phương đại học sĩ chẳng thiết tu tiên cầu đạo nữa, tự mình tiếp đãi ở tiền sảnh. Phương Khâm vừa vào cửa thì mọi người đều đứng hết dậy, thần sắc khác nhau mà nhìn hắn.
Trong lòng Phương Khâm lại có dự cảm xấu: “Cha, sao vậy?”
Phương đại học sĩ mặt trầm như nước nói: “Nghĩa muội ngươi hôm nay ở trong cung va chạm trung cung bị tội, vừa mới bị cấm túc, không cho phép thân nhân thăm viếng.”
Phương lão phu nhân có mối quan hệ rất tốt với Triệu thị nhũ mẫu của Hoàng thượng, như đùa giỡn mà để tam đệ của Phương Khâm nhận Triệu thị làm nghĩa mẫu, vốn trong đây chẳng có chuyện gì liên quan đến Phương Khâm, chỉ là để tỏ ra thân cận khách khí, trước mặt người ngoài cũng gọi con gái Triệu thị đang làm trong cung là “nghĩa muội”.
Phương Khâm ngạc nhiên hỏi: “Vì sao?”
“Vì sao? Chẳng cần nguyên do gì cả,” Phương đại học sĩ chậm rãi nói, “Nhớ năm ấy kim thượng gọi Cố Quân là ‘thúc’, từ nhỏ tình cảm sâu đậm, cũng chẳng qua một lời bất hòa liền hạ ngục, huống chi là chúng ta – kim thượng khắc bạc quả ân, vô tình vô nghĩa, thật sự khiến người ta lạnh lòng.”
Phương Khâm suy tính nhanh chóng, tức thì quay đầu phân phó gia nhân: “Lập tức cho người truyền tin đến Triệu quốc công, bảo hắn đừng giở trò ấu trĩ kiểu này nữa, hãy biết điều đi.”
Hắn vừa nói thế, mọi người liền ồ lên, tức khắc có kẻ đứng ra dị nghị: “Phương đại nhân, sao ngươi lại thò tay ra ngoài rồi?”
Phương Khâm lờ người khác đi, chỉ nhìn chằm chằm Phương đại học sĩ mà nói: “Cha, người còn chưa nhận ra sao, Hoàng thượng không phải là tiên đế, mọi sự chỉ có thể thuận theo y, nếu khiến y cảm thấy mình bị bức bách, tất nhiên sẽ bị dội ngược, chúng ta chỉ muốn diệt trừ đảng Nhạn vương, khiêu chiến Hoàng thượng có ích lợi gì?”
Không đợi Phương đại học sĩ mở miệng, Phương Khâm lại tiếp tục giận dữ nói: “Con cũng rất muốn bảo vệ tam đệ, nhưng nếu tiếp tục như vậy, thì bị cuốn vào sẽ không chỉ là một tam đệ. Ở đây đều là người mình, ta nói một câu không dễ nghe, các ngài thực cho là Triệu quốc công chính mông mình cũng lau sạch rồi sao? Nếu để Nhạn vương bắt được thóp mà mượn đó tấn công, đến lúc ấy chỉ có thể bị động hơn! Chỉ là một đường ray xe lửa, ngài không cho dựng, ngoại trừ hơi cản chân Lý Mân thì còn tác dụng thực tế không? Cố Quân nói động binh là động binh như thường, khiến đoàn ngoại sự cũng chẳng kịp tới tiền tuyến! Các ngài còn có thể làm gì? Cắt đứt tiếp viện tiền tuyến, bán nước luôn à?”
Trong lòng hắn khó chịu rất lâu rồi, nay rống hết ra, ngay cả cha ruột cũng chẳng thèm nể nang, mọi người im lặng chốc lát, sau đó một kẻ nói: “Thế chẳng lẽ Phương đại nhân định bấm bụng nhịn?”
Phương Khâm: “…”
Hắn phát hiện ra là mình quả thật chẳng tài nào nói thông với những người này, đặc biệt là sau khi Phương đại học sĩ một lần nữa xuất sơn.
Chắc hẳn khi thứ gì đó vận số sắp tận, không hề là mưa rào gió giật vì nguyên do bên ngoài. Trong thế gia như nấm của đại quốc mênh mông, mỗi họ chẳng cần nhiều, nếu một thế hệ có một kẻ có thể đỉnh môn lập hộ, không cần tài năng xuất chúng, không cần văn trị võ công, chỉ cần đầu óc rõ ràng, đủ tự mình biết mình, hiểu mình nên làm gì và không nên làm gì – như vậy nhờ vào mấy đời tích lũy, đảng Nhạn vương dù ba đầu sáu tay cũng tuyệt đối không leo lên đầu họ được.
Phương Khâm nhìn xung quanh, không lời nào để nói mà cười khẩy một tiếng, phất tay áo bỏ đi.
Phương đại học sĩ hạ mắt ngồi ngay ngắn lại, vuốt râu nói: “Khuyển tử không nên thân, để chư vị chê cười rồi.”
Một vị công khanh sắp xuống lỗ bên cạnh nói: “Nhị công tử tài hoa hơn người, chỉ là suy cho cùng hơi trẻ tuổi khí thịnh.”
Với tuổi tác của Phương Khâm, thực sự không thể nói là “tuổi trẻ khí thịnh”, Phương đại học sĩ lại ý tứ sâu xa mà lắc đầu: “Quả thật, khi Vũ đế tại vị nó còn nhỏ, không trải qua những việc đó, thiếu chút rèn luyện. Ta thấy có một số thứ đừng nên để bọn tiểu bối biết, tránh để chúng lo trước lo sau, dễ hỏng việc. Các lão huynh đệ năm đó đưa tiên đế lên hoàng vị còn ở đây, trở về gom con cháu các nhà một chút, có lẽ còn có sức thành sự… Có điều bất hiếu tử kia nói cũng đúng, bảo Triệu quốc công sắp tới dẹp bớt mấy thủ đoạn trẻ con đó đi, một kích không thể tất sát, thì phí sức làm gì? Chỉ tổ bị cười chê.”
Song Nhạn vương không cho Triệu quốc công cơ hội bớt lại.
Ngày hôm sau, trước là Linh Xu viện dâng tấu tuyên bố xe hơi nước đã trải qua thử nghiệm nghiêm mật, mọi sự đã sẵn sàng, ngôn từ khẩn thiết mời Hoàng đế Long An đích thân đi xem. Lý Phong vui vẻ dẫn Thái tử tới, còn tự mình ngồi một đoạn đường, kết quả là sau khi về cung không đợi sự hưng phấn mới mẻ qua đi, lại nhận được tấu giục đường ray từ Diêu Trấn, thành công chất thêm nôn nóng trong lòng hắn.
Chất đến tối, Ngự sử đài đưa tới cọng cỏ cuối cùng châm bùng lửa giận của Hoàng thượng.
Ngự sử đài tố Triệu quốc công không biết quản kẻ dưới, dung túng gia quyến biển thủ, hạ giá cướp đoạt ruộng đất của nông dân, mấy tội trạng liền.
Ban vận hà và Linh Xu viện chung tay phụ trách đường ray hơi nước vội vàng hùa theo. Hàng loạt nhân sĩ cố ý đẩy thuyền theo sóng bám sát đằng sau, mau chóng làm tình hình trở nên căng thẳng, thế lực Nhạn vương nhân mấy năm chiến loạn phát triển lộ ra một góc núi băng, con đường thăng chức từ cuối thời Vũ đế bắt đầu dần dần chật ních bị y nạy ra một góc.
Trình báo chiếm đất phi pháp các nơi liên tiếp đổ tới như có dự mưu, cuối cùng liên lụy đến vấn đề chiếm đất phi pháp tồn tại đã lâu ở Đại Lương.
Lập tức có mấy kẻ xem náo nhiệt không ngại to chuyện đứng ra yêu cầu thanh tra toàn cảnh-
Dĩ nhiên, đề nghị vớ vẩn này bị Lý Phong bác bỏ, Lý Phong dù còn muốn ra oai phủ đầu thế gia thì cũng phải từ từ từng bước, hắn một lần còn chưa đủ rộng miệng như vậy.
Song con chim đần xuất đầu là Triệu quốc công này là không chạy thoát được, chưa đến mấy hôm đã bị bắt, sau đó lại liên lụy cả đám con cháu môn khách chó cậy thế chủ, lúc áp giải xét nhà người vây xem thậm chí trèo lên tường kiễng chân ngó vào, người kể chuyện của Vọng Nam lâu hai ngày đã soạn xong một bộ mới, rất được ủng hộ.
Thái tử mới bắt đầu nghe chính sự đã gặp vụ án lớn như vậy, tiểu thiếu niên được thêm một phen kiến thức, trợn mắt há mồm mà nhìn, mở mang hơn rất nhiều.
Lúc sắp hạ triều, Nhạn vương vẫn không tỏ thái độ đột nhiên hỏi: “Thái tử điện hạ thấy thế nào?”
Tiểu Thái tử được Lý Phong bảo vệ rất tốt, hồn nhiên ngây thơ, bụng dạ chưa sâu, từng phụng mệnh Lý Phong “thỉnh giáo” tứ hoàng thúc, nghe Trường Canh hỏi liền không cần nghĩ ngợi buột miệng nói luôn lời người ta dạy: “Hàn Phi có nói, ‘Quân vô thuật tắc tế vu thượng, thần vô pháp tắc loạn vu hạ*’, quốc gia yên ổn nhờ vào pháp luật, người có hiền ngu trung gian, sự có thị phi đúng sai, nếu pháp luật không rõ ràng, tất khiến bè đảng hoành hành, tiểu nhân hoành hành, thế… người cầm quyền chẳng phải là không quản nổi nữa?” (*Vua không có thuật thì sẽ bị thần tử lừa dối, thần tử không có phép tắc ràng buộc ắt loạn)
Giọng trẻ con ấy còn non nớt, như một học trò nhỏ bị lôi dậy trả lời câu hỏi của sư phụ, nói xong còn tràn trề chờ mong nhìn Trường Canh.
Trường Canh chỉ cười không nói gì, Lý Phong thì đanh mặt quát to một câu: “Học vẹt còn khoe khoang cái gì, mau quay về học hành đàng hoàng, không được lười biếng.”
Thái tử không dám lên tiếng, đành phải cúi đầu đáp vâng, nhưng lời trẻ con này lại là người nói vô tâm người nghe hữu ý.
Kẻ suy bụng ta ra bụng người, cho dù nhìn thấy một đứa trẻ choai choai, cũng sẽ cảm thấy người này lắm tâm cơ, câu nào cũng đầy ẩn ý như mình.
Đêm ấy, những lời này của Thái tử mười một tuổi không chân mà chạy khỏi thâm cung, Phương đại học sĩ giấu Phương Khâm, triệu tập đám lão sài lang từng ủng lập tiên đế lại, tách mỗi một giọt nước bọt của Thái tử ra phân tích một lần, hiểu được ý của Lý Phong.
“Ba đời rồi,” Phương đại học sĩ cười gằn nói, “Thiên ân khó với, chắc hẳn chư vị cũng đã nhận ra, Hoàng thượng để Thái tử nghe chính sự, là quyết tâm muốn mạng đám lão già chúng ta.”
Một người khác nói: “Khi đó nếu không phải Vương quốc cữu làm rối, chúng ta mưu tính thích đáng, không chừng Nhạn vương hiện giờ đã vì xáo trộn huyết thống hoàng thất mà bị tước vương vị, đày đến thâm sơn cùng cốc rồi. Dã chủng nơi nào bò ra cũng dám trèo lên đầu chúng ta diễu võ dương oai, Phương huynh, nên đoạn không đoạn, tất bị loạn.”
Mặt Phương đại học sĩ căng lên đường nét sắc bén, lão chậm rãi nhìn chung quanh, thấp giọng nói: “Chư vị không ngại viết lời trong lòng vào tay.”
Nhiều năm trước, đám âm mưu gia dã tâm bừng bừng này từng tụ lại, xòe bàn tay mỗi người ra, viết trên đó chính là tên của tiên đế Nguyên Hòa, lúc này họ đã gần đất xa trời, lớp chết lớp già, một lần nữa tụ lại, xòe lòng bàn tay hom hem nhăn nheo-
“Thanh quân trắc.”
“Thanh quân trắc.”
“Thanh quân trắc, hoàng trưởng tử không mẹ.”
…
“Năm xưa Túc vương trên đường giả bệnh, là lão hủ trước đó được tin hắn tính âm thầm vào kinh, bèn thỉnh lệnh của trưởng công chúa, để Bắc đại doanh chặn lại, lấy danh ‘mưu phản’ bắt hắn, đẩy tiên đế thượng vị, thành tựu một phen được làm vua thua làm giặc.” Phương đại học sĩ thấp giọng thì thào rất khẽ, “Hiện giờ tình hình trong kinh thành chư vị cũng nhìn thấy rồi, tiên hạ thủ vi cường như thế nào, người nào dùng được, chắc hẳn hôm nay đến đây, chư công đã có kế hoạch.”
Phương đại học sĩ không hề là nóng đầu, lão biết lần này không có người của Cố gia đứng ở bên họ, muốn điều động Bắc đại doanh là không thể. Mà từ lần trước Ngự lâm quân Lưu Sùng Sơn làm loạn, biên chế Ngự lâm quân cũng đã có điều chỉnh rất lớn, phàm từ bách hộ trở lên, phải trải qua thẩm tra chặt chẽ, xác nhận gia thế trong sạch, quân công hàng thật giá thật, chặn một số kẻ lợi dụng sơ hở, đồng thời phân hai bộ song hướng quản lý, kiềm chế lẫn nhau, không can thiệp chuyện của nhau, nghiêm phòng trong Ngự lâm quân có kẻ một tay che trời, phạm thượng tác loạn.
Phàm là việc có lợi tất có hại, thế gia Đại Lương chia văn võ, võ tướng cũng có dòng dõi công hầu, song phần lớn đều suy bại, nếu không thời Nguyên Hòa đã chẳng thiếu người đến mức để một đứa trẻ choai choai lĩnh binh. Đám con cháu danh tướng dựa bóng tổ tiên này, nếu văn không thành võ không tựu, sẽ giống Lưu Sùng Sơn đi cửa sau vào Ngự lâm quân, qua vài năm có tư lịch, sẽ tìm một cái cớ kiếm quân công, một bước lên mây.
Sau nhiều năm va chạm, giữa đám lính thiếu gia và tướng sĩ chân chính này đã hình thành hình thái đặc biệt nào đó, song phương nể mặt nhau, vừa có thể cam đoan sức chiến đấu, vừa kiêm cố quan hệ và thể diện.
Tiếc thay, sự cân bằng này từ sau khi Ngự lâm quân làm phản, đã bị Lý Phong phá hủy.
Một đạo pháp lệnh của người thượng vị trong cơn kích phẫn có lẽ tự cho là tỉnh táo, lúc ấy cũng không ai nhắc nhở Lý Phong đang giận dữ, để hắn phá hỏng mộng thăng quan của đám thiếu gia kinh thành.
Thiếu gia nhà ai không phải được nuông chiều từ bé? Ai có thể cam tâm cả đời làm một quân hộ con con?
Đắc tội thiếu gia không đáng sợ, quan trọng là, Đại Lương triều trước đây trọng võ khinh văn, tổ tông lưu lại một đặc quyền – kẻ quân công phong tước có thể nuôi gia tướng, giữ lại một phần võ trang, đồng thời che chở đời sau, khi nguy nan có thể làm đạo chiến lực cuối cùng của quốc gia, khi bọn Lưu Sùng Sơn Lữ Thường phản loạn, Phương Khâm chính là dùng chiến lực này để níu chân phản quân, kéo dài tới khi Bắc đại doanh đến.
Phương đại học sĩ nhìn bốn phía, nói: “Cố Quân tăng binh Tây Nam, đồng thời lại gây chiến ở Đông Hải, người khả dụng rất thiếu, trước mắt người của hắn toàn đang trấn thủ tứ cảnh, Bắc đại doanh lại không truyền triệu không được vào. Lý Mân là hạng mua danh trục tiếng, không thích nhiều người bên cạnh, đi đến đâu cũng chỉ dẫn theo một lão già, nghe nói công phu cưỡi ngựa bắn cung của hắn không tệ, nhưng chẳng qua khoa chân múa tay vài lần trên thành lâu, chắc hẳn cũng chẳng bóp được mấy cây đinh, muốn diệt trừ hắn không khó – chỉ là không biết chư vị muốn ‘ám thanh’ hay ‘minh thanh’?”
Bên cạnh có người hỏi: “Xin hỏi Phương công, ám như thế nào, minh như thế nào?”
Chỉ nghe vị đại học sĩ tài mãn nửa triều này mặt không đổi sắc nói: “Nếu muốn ám, chỉ cần mời khoảng hai ba mươi tử sĩ, nhân đêm mai phục trên đường Lý Mân hạ triều, tiệt sát hắn, hủy hết chứng cứ, lúc này gió êm sóng lặng, không giải quyết được gì, Hoàng thượng cũng chẳng có biện pháp. Nếu muốn minh… Vậy thì cần phải để Hoàng thượng biết, ai là trung thần lương tướng, giang sơn xã tắc của y là do ai bảo vệ, loạn thần tặc tử là bị bắt như thế nào – và trữ quân ai đảm đương được.”
“Việc này… Phương công, minh chỉ sợ không dễ.” Mở miệng là con trai Bình Ninh hầu một trong ba hầu tước kinh thành năm ấy, lão Hầu gia sớm qua đời, kẻ này béo ục ịch, đi cũng rất mất sức, một năm chẳng biết ra cửa mấy lần, hoàn toàn không giống hậu duệ danh tướng, đầu óc lại rõ ràng đến bất ngờ, lúc này chậm rãi nói, “Chưa bàn đến lúc động thủ nên tránh né Ngự lâm quân và cấm vệ thế nào, chỉ nói vạn nhất đắc thủ, với tính tình thà làm ngọc vỡ còn hơn ngói lành của Hoàng thượng, y sẽ không truy cứu đến cùng sao? Bắc đại doanh quả thật đã chết sạch bọn cứng đầu, hiện tại ngoan ngoãn không truyền triệu không được vào, vậy nếu Hoàng thượng trong cơn giận dữ thật sự truyền triệu thì sao? Dù họ ở xa, cấm vệ trong cung và Ngự lâm ngoài cung thì sao? Đảng Lưu Sùng Sơn Lữ Thường làm phản đến nay phong ba còn chưa qua, chỉ sợ không dễ dàng đâu.”
“Trong cung không phải nơi nào cũng có cấm vệ, Ngự lâm quân càng không phải nơi nào cũng vào được, nửa tháng sau đại thọ Hoàng thượng, năm nay tiền tuyến Đông Hải Lưỡng Giang có tin chiến thắng, Lễ bộ nịnh hót tất sẽ nhân thời cơ này đề xuất làm to, cơ hội sẽ rất nhiều,” Phương đại học sĩ hờ hững nói, “Về phần Hoàng thượng sau đó phát tác…”
Nói đến đây, lão dừng lại, cười khà khà, mí mắt hẹp dài hơi cụp nâng lên: “Vậy thì đành phải khiến y ‘phát tác không nổi’… Sao nào, chư công thực sự cho rằng không còn Lý Mân thì Hoàng thượng sẽ dễ dàng bỏ qua cho chúng ta? Lời của Thái tử hôm nay lúc lâm triều chư vị cũng đều nghe thấy rồi, Thái tử là một đứa trẻ ranh, biết gì quốc gia đại sự, những lời đó là ai dạy? Mới mười một tuổi, mà mở mồm ra là ‘pháp bất dung tình’, ‘trừ bè diệt đảng’, đương đình chỉ dâu mắng hòe, thiếu mỗi chỉ mũi chúng ta nói rặt một lũ tiểu nhân, chư vị nên quyết mà không quyết, chẳng lẽ muốn đợi ngày sau Thái tử đăng cơ, ban cho một trượng bạch lăng?”
Lời ấy không hề mập mờ, ly kinh phản đạo mà kinh thế hãi tục. Phương đại học sĩ không hổ là lão thần từng đưa tiên đế Nguyên Hòa lên đài, to gan lớn mật, không hành động thì thôi, vừa xuất sơn liền làm lớn, nói thẳng “Hoàng đế không làm thì làm hoàng hoàng đế”, “Thái tử không nghe lời, thì đổi đại ca đã mất mẹ đến làm con rối”. (Hoàng là vua nhưng hoàng hoàng là lo sợ)
Bình Ninh hầu nghẹn họng trố mắt rất lâu, hơi cà lăm đưa ra vấn đề chết người kia: “Thế… Cố Quân há chịu để yên?”
“Đoàn ngoại sự còn ở trên đường, đều đã an bài xong rồi,” Phương đại học sĩ cười khẽ một tiếng, “Tiền tuyến, phiên bang tặc khấu như hổ rình mồi, sứ đoàn – thế nào, thiên thời địa lợi như vậy, chẳng lẽ chư vị không nhớ hai mươi năm trước từng xảy ra chuyện gì?”
Một cơn bão đang ấp ủ ngay trung tâm, nhưng Nhạn vương trong tâm bão lại tựa hồ không hề hay biết, vẫn mỗi ngày điểm danh đúng giờ, dốc hết sức thi hành tân chính.
Còn mới vui vẻ nhận được một phong thư đến từ Cố Quân.
Phong thư này Cố Quân gửi thẳng về nhà, hoàn toàn là một phong thư nhà, lúc Hoắc Đan đưa y, đôi mắt đột nhiên sáng lên của Trường Canh làm Hoắc thống lĩnh đỏ bừng mặt.
“Y còn có ba đầu sáu tay hay sao?” Trường Canh vừa giơ phong thư kia lên nhắm ngay hướng ánh sáng, thật cẩn thận cách bao thư xem nội dung bên trong, vừa nửa thật nửa giả phàn nàn với Hoắc Đan, “Vừa đối phó người Tây Dương, vừa có nhàn tình dật trí, bảo ta phải nói gì đây.”
Hầu phủ chưa bao giờ có “nữ chủ nhân” trên ý nghĩa truyền thống, Hoắc bá hộ vệ cận thân này mơ hồ biết chút gì đó, song đến nay vẫn khó mà thích ứng, đặc biệt không cách nào cùng vị “chủ nhân còn lại” này thảo luận thư nhà của Đại soái. Nghe Nhạn vương nói vậy, hắn cảm thấy vai diễn của mình từ thống lĩnh gia tướng biến thành một ma ma lắm mồm, đành phải hết sức ngượng ngùng đứng đó, làm một cây cột nhà đỏ bừng mặt.
Từ khi khai chiến tới nay, đây là lần đầu tiên Cố Quân gửi một phong thư nhà dày như vậy cho Trường Canh, Trường Canh nhất thời không nỡ mở, cầm phong thư vuốt tới vuốt lui, để lên mũi khẽ ngửi một vòng, phảng phất có thể ngửi thấy một chút mùi của người phương xa, vẻ mặt mê mẩn.
Máu trên mặt Hoắc Đan sắp chảy ra lỗ chân lông, hắn cà lăm nói: “Vương, Vương gia, ngài… ngài làm gì thế?”
Trường Canh quét mắt nhìn hắn một cái, giống như cảm thấy bộ dáng đỏ mặt tới mang tai của Hoắc Đan đặc biệt thú vị, liền cố ý trêu: “Hôm qua nằm mơ còn mơ thấy nghĩa phụ ta, nửa đêm tỉnh dậy không ngủ được nữa, xem như đã một lần biết thế nào là ‘trằn trọc’, kết quả là hôm nay liền nhận được thư của người, ngươi nói có khéo không?”
Hoắc Đan: “…”
Ba chữ “nghĩa phụ ta” khiến hắn rùng mình, Hoắc Đan vô cùng đau đớn mà nghĩ: “Tiểu Hầu gia làm việc gì thế này? Sao càng lớn càng không ra gì! Đây là muốn lão soái và công chúa dưới cửu tuyền tức đến sống lại mà!”
Trường Canh lén nở nụ cười, đang định lấy tiểu đao mở phong thư, đột nhiên, một con Lâm Uyên mộc điểu lao vào – ngày ấy Lưu Trọng đến quy phục, Trường Canh không tin tưởng hắn lắm, phái hai người của Lâm Uyên các một minh một ám đi theo đến Lưỡng Giang, minh giả trang tiểu tư Lưu gia, liên lạc giữa Lưu Trọng với kinh thành, ám là một vị cao thủ, bám đuôi đoàn sứ tiết tra xét các loại dị động, tùy thời truyền tin về kinh thành.
Trường Canh vội cất phong tư tín của Cố Quân vào lòng, mở mộc điểu ra xem trước.
Giây lát sau, y cười gằn một tiếng – có một số kẻ nghĩ còn rất chu toàn.
|