Sát Phá Lang
|
|
Sát Phá Lang Tác giả: Priest Biên tập: Yển Độ dài: 128 chương chính văn + 6 phiên ngoại Thể loại: niên hạ, dưỡng thành, giả tưởng, không gian, cơ giáp, thiên chi kiêu tử, HE, ngược chó độc thân. Nhân vật chính: Cố Quân, Trường Canh.
Sát phá lang là một câu truyện rất hấp dẫn và đáng đọc. Tiết tấu và nội dung của câu truyện đều được xây dựng hết sức hợp lý và dù truyện khá dài, mình không hề cảm thấy mệt mỏi hay nhàm chán suốt quá trình đọc truyện, mà mình không hề lướt nhanh qua một chữ nào cả. Tất cả những tình huống thắt và gỡ nút được đặt ra đều được miêu tả rất cụ thể, rõ ràng nhưng không kém phần sắc sảo, khiến mình vừa thích thú vừa cảm phục tác giả. Những tranh đấu cung đình và những khung cảnh chiến tranh nảy lửa đều cực kỳ đáng đọc vì mức độ hoành tráng cũng như tinh tế của chúng. Những câu chuyện thâm cung bí sử của cung đình được kể lại cũng rất cuốn hút và thú vị, không chỉ gây tò mò mà còn khiến người ta cảm thấy đau xót cùng tiếc nuối tới tận tim gan. Có một số đoạn trích vô cùng hay và cảm động về tình cảm của những người sống ở nơi cung đình tranh đấu ấy dành cho nhau đã giúp mình biết thêm một chút gì đó sâu kín mà mình nghĩ rằng không sống vào thời đại đó thì chúng ta cũng không thể thấu hiểu hay phán xét hết được.
Thêm vào đó, ngoại trừ hai nhân vật chính được xây dựng tỉ mỉ, tuyến nhân vật thứ chính (Thẩm Dịch, Liễu Nhiên, Trần Khinh Nhứ, Lý Phong,…) và nhân vật phụ cũng đều là những con người rất thú vị với thế giới nội tâm riêng. Mỗi người đều có tính cách và những lý tưởng riêng của bản thân mình để theo đuổi, dù đó là một vị quan tài giỏi nhưng sinh nhầm gia đình, một vị tướng kiên trung nhưng thiếu phần khôn khéo, thậm chí là một vị vương phía đối địch với suy nghĩ điên cuồng… Tất cả bọn họ đều là những mảnh ghép riêng rẽ và đặc biệt, nhưng khi xếp lại với nhau thì lại thành một bức tranh đầy màu sắc vô cùng hoàn hảo. Mình đảm bảo sẽ có những nhân vật phụ làm các bạn nhớ mãi không thôi.
Văn án lừa tình
“Chắc người đầu tiên đào ‘tử lưu kim’ lên từ dưới lòng đất, sẽ vĩnh viễn không ngờ đến, hắn đào ra lại là một ‘bát’ thế đạo ăn thịt người.”
“Cuộc đời trẫm, chẳng qua là một trò lừa đảo tham lam ghê tởm, việc này trong lòng mọi người đều biết rõ, chỉ là không thể nói toạc ra mà thôi.”
“Trò lừa này bắt đầu từ đâu? Là từ trên cánh buồm sáng rực của đại thuyền phiên bang đầu tiên vượt trùng dương, từ dưới đôi cánh dang rộng của cự diên(1) đầu tiên bay lên giữa gió lốc, hay là sớm hơn nữa – khi hàng dải đồng cỏ trên đại địa Bắc man bị tử lưu kim như nét mực đốt thành một biển lửa…”
“… Hoặc là lúc trẫm… ta lần đầu gặp Cố Quân giữa băng tuyết ngập trời.”
Ôn nhu hiền huệ bệnh kiều(2) niên hạ công vs củi mục mù điếc thụ (tin ta đi =w=)
Phi chủ lưu steampunk(3) =w=
Chuyện quan trọng nói ba lần:
Lên sàn trước chính là công!
Lên sàn trước chính là công!
Lên sàn trước chính là công!
… Nhưng xét trên tổng thể thì đây không phải là chủ công văn. =w=
…
Chú thích:
1. Cự diên là một loại thuyền sẽ xuất hiện và được giải thích rõ hơn trong chương 2.
2. Bệnh kiều tức yandere.
3. Steampunk là một nhánh của khoa học viễn tưởng, chủ yếu tập trung vào các máy móc động cơ hơi nước, ra đời vào khoảng thế kỷ 19, thời kỳ cách mạng công nghiệp, rất phổ biến trong những năm 80 – 90 của thế kỷ 20.
[Review] Sát Phá Lang dongyu86@WPress
Sát Phá Lang – tên nghe mạnh mẽ ngông cuồng, sóng gió cũng như chính cuộc đời Trường Canh vậy.
Bắt đầu từ những ngày lưu lạc nơi biên thùy xa xôi, thiếu niên tên Trường Canh nào có ngờ rằng cuộc đời mình sẽ có ngày ngoặt một bước lớn như vậy? Bị chính mẹ mình xa cách ghét bỏ, tình mẫu tử vốn nên có lại lạnh lẽo như người dưng nước lã; duyên phận đẩy đưa hay định mệnh sắp sẵn mà gặp mặt người ấy dưới trời tuyết trắng xóa…
Trường Canh hẳn cũng cho rằng, cuộc đời y định trước sẽ thay đổi chính là lúc được Cố Quân cứu về từ miệng sói.
✺
Truyện của Pi đại chưa từng khiến mình thất vọng, luôn vô cùng chất lượng. Mà truyện ấn tượng nhất của chị đối với mình – cho tới giờ – chính là Sát Phá Lang.
Ngòi bút tinh tế dụng tâm dường như vẽ lên một bức tranh giang sơn khói lửa bụi mù, giữa chiến hỏa tranh chấp lại chấm phá những điểm ngọt ngào mà dư vị đọng mãi không tan.
Nhân vật chính của truyện là Cố Quân và Trường Canh, một đại soái khinh cuồng tiêu sái với một vương gia cơ trí thâm sâu mà lắm khi lại cố chấp như một đứa trẻ.
Trường Canh là tứ hoàng tử lưu lạc bên ngoài, được tiên đế ủy cho Cố Quân nhận làm con nuôi. Thân là con trai nuôi, lại ôm ấp niềm vọng tưởng vi phạm luân thường với nghĩa phụ của mình suốt bao năm, y phải kiên trì, phải kiềm chế, cũng phải cố chấp bao nhiêu cho đủ với từng ấy năm câm lặng? Đọc truyện, chính là một quãng thời gian từ thời niên thiếu Trường Canh trưởng thành trước tuổi, cho đến khi lang bạt giang hồ bốn phương, tích lũy trí tuệ và căn cơ, rồi chuyển mình thành Nhạn vương quyền khuynh triều thế thâm sâu khó dò.
Trong suốt những năm ấy, kể cả những ngày ít ỏi được sống chung một mái nhà với vị nghĩa phụ quanh năm đi lại nơi biên cảnh hay những năm qua lại giao thiệp với bằng hữu giang hồ, trong lòng Trường Canh chưa có giây nào không nghĩ đến Cố Quân. Vị đại soái này bước vào đời y, đầu tiên là khiến y nhớ mãi không quên mùi thuốc nhàn nhạt trên người, sau đó qua năm tháng, Cố Quân đã thật sự trở thành một phần trong lòng Trường Canh, cắt không được bỏ không được. Mà Trường Canh coi Cố Quân như ánh dương trong đời y, cũng không muốn cắt bỏ một phần sinh mệnh mình.
Gây ấn tượng với mình, không chỉ là tài suy tính bày kế của Pi đại, âm mưu thủ đoạn lồng ghép với cách cầm quân đánh giặc cực kì hợp lý, mà còn là cách chị thể hiện tình cảm của hai nhân vật xuyên suốt những sự kiện chính ấy. Cách kể tự nhiên như nước xuôi dòng, không gắng gượng tô đậm mà lại từ từ tích tụ thành dấu ấn để trong lòng người đọc.
Không thành dấu ấn sao được, khi cái tình vừa cố chấp vừa dịu dàng, lại chu toàn nghĩ suy cho người kia được mô tả xúc động và thành tâm đến vậy?
Trường Canh rủ rỉ: “Nếu ta sinh ra sớm hai mươi năm, sẽ bế trộm ngươi đi, thả trong cẩm tú mà chăm bẵm.”
Không chỉ một lần Trường Canh tỏ ra tiếc nuối vì mình sinh muộn mất mười năm. Y chứng kiến Cố Quân vất vả ngược xuôi vì việc quân, bận rộn hiếm khi nào nghỉ ngơi vì gìn giữ biên cương Đại Lương, trong lòng vừa lo vừa xót. Trường Canh vừa muốn san sẻ giúp đỡ gánh nặng quân vụ không để mình Cố Quân ôm hết, lại vừa hận mình không chui ra sớm vài năm, để có thể nhìn thấy Cố Quân niên thiếu nét cười như gió xuân, mong cùng người đó trải qua những tháng ngày non nớt ngây ngô.
Cố Quân: “Cô nói đi, bất kể thế nào ta đều chấp nhận được, chỉ cần ta còn sống một ngày, y điên hay ngốc ta đều quản đến cùng.”
Trường Canh bị hạ Ô Nhĩ Cốt, vừa như thuốc độc vừa như máu huyết y từ khi mới lọt lòng. Ô Nhĩ Cốt như rắn độc ẩn sâu trong nội tâm, khiến cho chủ thể trở nên đa nghi mẫn cảm, trong lòng không bao giờ được bình an, lại hành hạ bằng ác mộng mỗi lần nhắm mắt, dần dà sẽ khiến đầu óc phát điên. Thế nhưng Trường Canh lại là ngoại lệ, bản tính trầm tĩnh kiên định, không chỉ sống được sau khi bị hạ độc, còn suôn sẻ lớn lên đến khi thành Nhạn vương công lao trời biển, suốt ngày mưu tính ngược xuôi hòng vực dậy giang sơn bị xâm chiếm gần nửa.
Thật ra thì người gián tiếp khiến Ô Nhĩ Cốt trong y rục rịch phát tác chính là Cố Quân, thế nhưng chính Cố đại soái cũng là người kìm được bệnh của y. Cố Quân thương Trường Canh, nguyện ngày nào còn sống thì sẽ giữ cho cho y tỉnh táo; ngược lại, Trường Canh lại trân trọng Cố Quân như chính sinh mệnh mình, để y không phải nhọc lòng lo lắng, cũng cố hết sức giữ cho bản thân tỉnh táo bình tĩnh.
Mỗi người nghĩ cho nhau một chút, hy sinh cho nhau nhiều chút, như thể cam nguyện dâng cả mạng mình cho đối phương, tình thâm sâu đậm như vậy hỏi có ai không rung động? ( ◡‿◡ ♡)
✺
Nói cho ngắn gọn, có hai điều hay nhất trong truyện này mình muốn nói đến. Một là tài xoay chuyển thế cục rất khéo léo hợp lí của Pi đại, hai là tình nghĩa trong truyện. Không chỉ là cái tình giữa hai người yêu nhau, còn là cái tình tận trung với nước, không tiếc hy sinh thân mình của binh lính Đại Lương trước chiến trận. Từ chút tình trong quá khứ vừa khiến người ta nhớ thương vừa mỏng manh gần như không có, đến cách hành xử chí tình chí nghĩa, tin tưởng tuyệt đối giữa tướng lĩnh với nhau.
☆ ☆ ☆ Thêm tí điểm cộng cho truyện nè ( ̄▽ ̄) Truyện dịch cực kì mượt nhé, xem rất dễ hiểu mà đọc lên nghe còn hay nữa chứ =)) Tuy là có một số chỗ bạn Yển giữ nguyên Hán việt không dịch ra hơi bất tiện một tẹo, nhưng mình nghĩ để như vậy thì thêm tí không khí cho truyện lắm (≧◡≦)
À btw, truyện tuy là cổ trang nhưng có thêm tí giả tưởng cơ giáp máy móc hoạt động bằng hơi nước như hồi thế kỷ 18-19 ý ~
|
Yandere hiền huệ công vs củi mục mù điếc thụ
Chương 1: Biên thùy
Trong thành Nhạn Hồi ở trấn nhỏ vùng biên thùy có một “dốc núi Tướng Quân”, tên nghe rõ là uy phong, nhưng kỳ thực chỉ là một đống đất be bé, nghển cổ lên là có thể nhìn qua đỉnh.
Dốc núi Tướng Quân vốn không phải là từ xưa đã có, mà nghe đâu là mười bốn năm trước, khi Huyền Thiết tam đại doanh đệ nhất thiết kỵ của Đại Lương Bắc phạt, dẹp yên mười tám bộ lạc man tộc, khải hoàn quay về theo đường Nhạn Hồi thành, đã xếp xó phế giáp ở đây, tạo thành một ngọn núi nhỏ, sau đó cát bụi phong sương, gió táp mưa sa, nó liền trở thành dốc núi Tướng Quân.
Dốc núi Tướng Quân là một dốc núi hoang, chẳng trồng trọt được gì, ngay cả cỏ dại cũng vắng bóng, yêu đương vụng trộm cũng không có cái che, trụi lủi tọa lạc nơi đây, chẳng biết có thể dùng làm gì. Các cụ già đều bảo đây là do Huyền Thiết doanh sát nghiệt quá nặng, lệ khí bức người mà ra. Lâu ngày, đám lưu manh vô công rồi nghề liền lấy đây làm nguyên mẫu, thêu dệt ra hàng loạt truyền thuyết ma quỷ ở biên thùy, rồi dần dà cũng chẳng còn ai dám tới đó nữa.
Xế chiều hôm nay, lại có hai đứa nhãi mười mấy tuổi chạy tới dưới dốc núi Tướng Quân.
Hai đứa này một cao gầy, một mập lùn, ghép lại y hệt như một đôi bát đũa biết đi vậy.
Đứa cao gầy ăn mặc theo kiểu bé gái, nhìn kỹ mới biết là bé trai, nhũ danh Tào Nương Tử. Do thầy tướng số nói nó vốn là mệnh nữ bị đầu thai nhầm, chỉ sợ ông trời còn muốn kêu về đầu thai lại, gia đình lo nó sống không lâu, nên vẫn nuôi như con gái.
Đứa mập lùn là tiểu nhi tử nhà Cát đồ tể, nhũ danh Cát Bàn Tiểu, người cũng như tên, được bao bọc bởi một lớp mỡ phú quý. (Bàn là béo)
Hai đứa cùng thò đầu dòm dốc núi Tướng Quân, có điều là sợ truyền thuyết ma quỷ lộng hành nên chẳng đứa nào dám đến gần.
Cát Bàn Tiểu tay cầm cái ống đồng “thiên lý nhãn”, thò đầu cố gắng nhìn về hướng dốc núi Tướng Quân, miệng lẩm bẩm: “Ngươi nói mặt trời cũng lặn rồi mà còn chưa chịu xuống núi, đại ca ta thật là… Đó gọi là gì nhỉ – à, là thượng điếu tích cốc!”
Tào Nương Tử: “Đó gọi là huyền lương thích cổ(1), đừng nói nhảm nữa, mau đưa thiên lý nhãn cho ta!”
Nha đầu dỏm này thường xuyên kịch giả làm thật, tiếc rằng phương hướng có chút vấn đề, khuê tú đâu chưa thấy, ngược lại y hệt mụ đàn bà chanh chua, đặc biệt khoái dùng đôi móng gà cào người ta.
Nó vừa thò tay thì lớp mỡ của Cát Bàn Tiểu liền nhức nhối, vội chắp tay dâng thiên lý nhãn, dặn đi dặn lại: “Ngươi nhớ cẩn thận, nếu làm hỏng, nhất định cha ta sẽ tẩn ta thành nhân bánh đó.”
“Thiên lý nhãn” là cái ống tròn làm bằng đồng, xung quanh khắc “ngũ bức”(2), bên trong có một mảnh lưu ly trong suốt, chụp lên mắt thì thỏ cách mười dặm hơn cũng có thể nhận ra đực cái.
Cái của Cát Bàn Tiểu khá tinh xảo, do tổ phụ từng làm lính trinh sát để lại.
Tào Nương Tử cầm món đồ mới mẻ trong tay cả buổi, giơ lên dòm sao trời: “Rõ thật!”
Cát Bàn Tiểu nhìn theo tầm mắt nó, chỉ dạy: “Ta biết, đó gọi là sao Hôm, còn có tên khác là ‘sao Trường Canh’, giống tên đại ca ta, Thẩm tiên sinh từng dạy, ta vẫn còn nhớ đây.”
Tào Nương Tử bĩu môi: “Ai là ‘đại ca ngươi’? Ngươi xem người ta có thèm để ý tới ngươi không? Dày mặt đuổi theo người ta đòi nhận đại ca, thật đê tiện… Ôi, từ từ, ngươi xem kia có phải là y không?”
Cát Bàn Tiểu nhìn theo hướng ngón tay nó, thấy đúng thế thật.
Chỉ thấy một thiếu niên cầm kiếm cúi đầu chậm rãi từ trên dốc núi Tướng Quân đi xuống, Cát Bàn Tiểu lập tức giống như không sợ chuyện ma quỷ gì nữa, lao tới như một tia chớp(3): “Đại ca, đại ca!”
Nó chạy quá nhanh, đến chân dốc núi Tướng Quân thì bị vấp thứ gì đó, lăn lông lốc xuống dưới chân thiếu niên kia.
Cát Bàn Tiểu mặt đầy bụi đất ngẩng đầu lên, chưa thèm bò dậy, trước tiên nịnh nọt cười ngây ngô, nhăn nhó nói: “Hì hì, đại ca, đệ chờ huynh ở đây cả ngày rồi.”
Thiếu niên tên Trường Canh im lặng lùi về suýt nữa giẫm trúng chân Cát Bàn Tiểu.
Mỗi lần nhìn thấy Cát Bàn Tiểu là trong lòng y đều cảm thấy thật thần kỳ, cho rằng vị Cát đồ tể giết ngàn con heo kia trời sinh có Hỏa nhãn kim tinh, từng ấy năm mà vẫn chưa coi nhi tử như heo để làm thịt. Nhưng Trường Canh tính tình ổn trọng, miệng rất tích đức, bất kể trong lòng nghĩ gì, đều không mở miệng tổn thương người ta.
Trường Canh rất có phong thái đại ca đỡ Cát Bàn Tiểu dậy, lại phủi bụi đất giúp nó: “Chạy cái gì, coi chừng ngã đần ra giờ! Tìm ta có việc gì à?”
Cát Bàn Tiểu: “Trường Canh đại ca, ngày mai cha huynh và mọi người sẽ về rồi, chúng ta không đi học nữa, huynh đi cướp nhạn thực với bọn đệ đi! Nhất định có thể đánh bọn Lý tiểu hầu tử tè ra quần!”
Cha Trường Canh là Từ bách hộ(4) – không phải cha ruột.
Hồi mới hai ba tuổi, Trường Canh theo quả phụ Tú Nương đến nơi này nhờ vả thân thích, ai ngờ thân thích dọn nhà đi mất từ lâu, không tìm được. Vừa vặn gặp Từ bách hộ quan binh của Nhạn Hồi vợ cả mất sớm, không có con cái, ông ta thích Tú Nương, liền cưới về làm vợ kế.
Từ bách hộ dẫn người xuất quan, thu cống phẩm hàng năm của người man, chỉ một hai hôm nữa là sẽ về thành.
Biên thành bần khổ, trẻ nhỏ cũng không có quà vặt gì, các tướng sĩ mỗi lần nạp cống trở về đều thuận tay ném ít pho mát và thịt khô của người man ra ven đường, dẫn đến đám trẻ con tranh nhau cướp đoạt, đây gọi là “cướp nhạn thực”.
Đã là “cướp”, đám nhóc con khẳng định không tránh khỏi đánh nhau, nhưng chỉ cần chưa què cụt thì người lớn sẽ không quản, thế là chúng kéo bè kết đảng như đánh nhau thật.
Chuyện như vậy, nếu ai có thể kéo Trường Canh đến nhập bọn, thì tương đương với đứng trên thế bất bại.
Trường Canh từ nhỏ đã chăm chỉ tập võ – biên thùy nhiều quân hộ, hài đồng tập võ vốn không ít, chẳng qua luyện công phu phải chịu khổ, nên phần lớn tiểu hài đều luyện tùy tiện lơ là không đến nơi đến chốn, chỉ có Trường Canh kể từ khi bắt đầu học kiếm, ngày nào cũng một mình lên dốc núi Tướng Quân luyện tập, nhiều năm qua khổ luyện không ngừng, nghị lực kinh người.
Hiện giờ tính cả tuổi mụ còn chưa đầy mười bốn, mà Trường Canh đã có thể dùng một tay cầm trọng kiếm hơn sáu mươi cân, tuy rằng trong lòng có chừng mực, chưa từng tham dự các cuộc ẩu đả của bọn nhãi ranh, nhưng mấy đứa này vẫn đều hơi sợ y.
Trường Canh nghe xong chẳng để tâm, cười nói: “Ta bao nhiêu tuổi rồi mà còn giành giật nhạn thực gì đó?”
Cát Bàn Tiểu chưa chịu buông tha: “Đệ đã nói với Thẩm tiên sinh rồi, Thẩm tiên sinh cũng đã gật đầu, mấy ngày này cho chúng ta nghỉ.”
Trường Canh chắp tay sau lưng thong thả bước đi, trọng kiếm thi thoảng đập vào cẳng chân, không để ý tới mấy lời con nít của Cát Bàn Tiểu.
Y đọc sách hay không, luyện kiếm hay không đều quyết định bởi chính y, chẳng liên quan đến việc tiên sinh cho nghỉ hay chăng.
Cát Bàn Tiểu: “Hơn nữa, Thẩm tiên sinh nói mình phải đổi thuốc cho Thập Lục thúc, mấy ngày tới có thể cũng phải đi xa chọn mua thảo dược, không có ở nhà. Huynh đâu có chỗ đi, chi bằng đi theo bọn ta, chứ cả ngày luyện kiếm có gì vui đâu?”
Câu này rốt cuộc lọt vào lòng Trường Canh, y lập tức khựng lại, hỏi: “Thập Lục không phải mới từ Trường Dương quan trở về à, sao lại bị bệnh rồi?”
Cát Bàn Tiểu: “A… hình như vậy, y đó giờ đâu khỏe mạnh gì.”
“Thế ta đi thăm y,” Trường Canh phất tay đuổi hai cái đuôi nhỏ, “Mau về nhà đi, sắp tối rồi, trễ giờ cơm coi chừng cha ngươi lại đánh cho.”
Cát Bàn Tiểu: “Ôi, đại ca, việc kia…”
Trường Canh chẳng có hứng thú nghe nó lải nhải “việc này” “việc kia” không thôi. Nam hài tử tuổi này, hơn một tuổi cũng là hơn, đầu óc và suy nghĩ khác nhau rất nhiều, nên Trường Canh đã không thể chơi với bọn Cát Bàn Tiểu nữa.
Y cậy mình vóc cao chân dài, chớp mắt đã đi xa.
Tiểu Bàn Tử uổng công một chuyến, không mời được người, thất vọng thở dài, quay đầu lại trừng mắt nhìn Tào Nương Tử: “Ngươi không chịu nói gì hết!”
Tào Nương Tử khuôn mặt đỏ bừng, ánh mắt mơ màng, bộ dáng vênh mặt hất hàm sai khiến Cát Bàn Tiểu ban nãy đã sớm mất sạch, ôm ngực như thiếu nữ hoài xuân: “Trường Canh đại ca của ta đi lại nhìn cũng đẹp hơn người khác.”
Cát Bàn Tiểu: “…”
Không bao giờ có thể dẫn tên mất mặt này ra ngoài nữa.
“Thẩm tiên sinh” và “Thập Lục thúc” mà Cát Bàn Tiểu nói là một đôi huynh đệ, rất có uyên nguyên với Trường Canh.
Hai năm trước, Trường Canh còn nhỏ, một mình trốn ra ngoài thành chơi, không cẩn thận lạc đường gặp đàn sói, suýt nữa bị tha đi, may gặp huynh đệ Thẩm thị du lịch đến đây.
Thẩm tiên sinh dùng thuốc bột đuổi bầy sói đói, cứu cái mạng nhỏ của y. Sau đó hai huynh đệ ở lại Nhạn Hồi tiểu trấn, Từ bách hộ cho họ thuê khu viện để trống của nhà mình, cảm động trước ân cứu mạng nên không lấy tiền.
Huynh trưởng tên Thẩm Dịch, là một thư sinh thi mãi chẳng đỗ, tuy chưa già nhưng tâm sĩ đồ đã tuyệt, an phận thủ thường làm ẩn sĩ ở cái vùng khỉ ho cò gáy này, láng giềng đều khách khí gọi y là “Thẩm tiên sinh”.
Trừ làm ẩn sĩ, Thẩm tiên sinh còn kiêm nhiệm các chức như đại phu, viết hộ thư từ câu đối, tây tịch tiên sinh(5) cùng “Trường Tý sư”. Y hết sức đa tài đa nghệ, biết trị thương cho người, còn biết đỡ đẻ cho ngựa, ban ngày ở nhà mở tư thục, dạy đám thiếu niên học hành, buổi tối đuổi các học trò đi, là có thể xắn tay áo sửa chữa máy móc động cơ hơi nước, cương giáp và đủ các loại khôi lỗi(6), thêm vào chi phí sinh hoạt, lánh đời mà bận thấy sợ. Thẩm tiên sinh cái gì cũng biết, vừa biết kiếm tiền vừa giỏi lo cho gia đình, nhóm lửa nấu cơm cũng rất có nghề, giỏi giang cực kỳ, bởi vậy huynh đệ kia không có việc làm, đành phải chuyên môn phụ trách phá của – huynh đệ của Thẩm tiên sinh tên là “Thẩm Thập Lục”, nghe nói là từ nhỏ thân thể không khỏe, gia đình chỉ sợ nuôi không nổi, bởi thế không đặt tên cho, do đẻ ngày mười sáu tháng Giêng nên bèn lấy “Thập Lục” làm tên luôn.
Thẩm Thập Lục từ sáng đến tối không học hành cũng chẳng làm việc, lọ dầu đổ không biết dựng lên, ngay cả nước cũng chưa bao giờ thấy gánh, không phải đi lang thang thì là uống rượu, không học vấn không nghề nghiệp, cơ hồ chẳng có một chút ưu điểm nào.
Trừ ngoại hình đẹp.
Ngoại hình thật sự rất đẹp, lão thọ tinh trong trấn chính miệng giám định, nói ông ta sống sắp chín mươi tuổi rồi mà chưa từng thấy nam nhân nào chỉn chu như vậy.
Đáng tiếc dù đẹp hơn cũng vô dụng – Thẩm Thập Lục hồi nhỏ từng một lần bị bệnh nặng, sốt hỏng cả người ra, mắt chắc cũng chỉ có thể thấy rõ trong vòng hai thước, cách mười bước thì ngay cả nam nữ cũng không phân biệt nổi. Y lại còn nặng tai, nói với y một câu cũng phải đứng sát mà gào lên, ngày ngày đi qua cửa nhà Thẩm gia, cách một bức tường cũng có thể nghe thấy Thẩm tiên sinh nho nhã lễ độ kia gào thét như chó điên.
Nói tóm lại, Thẩm Thập Lục là một con ma ốm vừa điếc vừa mù.
Với điều kiện của y, vốn nên là một tiểu bạch kiểm được trời ưu ái, tiếc thay ở trấn nhỏ biên thùy này không phải quỷ nghèo thì là thần nghèo, cho dù thiên tiên tới cũng chẳng ai bao nuôi nổi.
Theo phong tục địa phương, lúc đại ân đại đức không gì báo đáp được, sẽ kết nghĩa nhận người thân, có con cháu thì con cháu nhận, không có con cháu thì tự mình nhận.
Huynh đệ Thẩm thị cứu Trường Canh khỏi miệng sói, là ân nhân cứu mạng, Trường Canh như một lẽ đương nhiên nhận một trong hai người làm nghĩa phụ.
Thẩm tiên sinh học hành đến hỏng cả đầu óc, một mực nói không hợp lý cũng không hợp pháp, không dám nhận, ngược lại là huynh đệ y Thập Lục gia thống khoái, đương trường đổi giọng gọi “nhi tử” luôn.
Cứ thế, tên Thẩm Thập Lục vô công rồi nghề chiếm được món lợi to, nếu mai kia con ma ốm chơi bời lêu lổng này nghèo khổ, Trường Canh sẽ phải dưỡng già và lo tang ma cho.
Trường Canh quen đường băng qua viện của mình, từ cửa hông ra ngoài rẽ một chỗ là đến nhà Thẩm tiên sinh.
Thẩm gia tổng cộng hai tên đàn ông độc thân, ngay cả con gà mái cũng không có, đương nhiên chẳng cần kiêng dè ai. Y trước nay đến đi tùy tiện, cửa cũng không cần gõ.
Vừa vào viện, mùi thuốc và tiếng huyên thều thào liền đập thẳng vào mặt.
Thẩm tiên sinh đang ở trong viện cau mày sắc thuốc. Y là một thanh niên bộ dáng thư sinh, mặc trường sam cũ, chưa già, nhưng luôn cau mày, có một thân thanh hàn nồng nặc mùi khói lửa.
Tiếng huyên từ trong nhà vẳng ra, cái bóng cao ráo của người thổi huyên bị ngọn đèn u ám chiếu lên khung cửa bằng giấy, hiển nhiên người này tài nghệ chẳng ra sao, cũng không nghe ra là điệu gì, thường xuyên có một hai âm thổi không kêu, tiếng huyên tậm tịt, đượm nỗi thê lương và mệt mỏi kỳ dị.
Nói đây là tiếng nhạc thì có thể hơi gượng ép, Trường Canh lắng tai thưởng thức một chút, cảm thấy nếu nhất định phải khen, thì chỉ có thể khen là y khóc tang rất du dương.
Thẩm Dịch nghe thấy tiếng bước chân liền cười với Trường Canh, sau đó quát người trong buồng: “Tổ tông, hạ miệng lưu tình đi, nghe mắc đái quá, Trường Canh đến rồi!”
Vị thổi huyên kia nhắm mắt bịt tai, mà với thính lực của y, có khả năng là thật sự không nghe thấy đâu.
Thẩm tiên sinh mặt mày xanh xám.
Trường Canh cảm thấy người thổi huyên vẫn rất khỏe mạnh, không như bị bệnh, liền hơi yên tâm, hỏi: “Ta nghe Cát Bàn Tiểu nói tiên sinh đổi thuốc cho Thập Lục, y sao vậy?”
Thẩm tiên sinh nhìn màu thuốc, tức giận nói: “Không sao, đổi mùa thôi, bốn mùa dùng các loại thuốc khác nhau, con ma ốm này yểu điệu khó chiều lắm – A đúng rồi, ngươi tới vừa khéo, hôm nay không biết y kiếm đâu ra một món đồ chơi, còn tính sáng mai đưa qua cho ngươi đấy, mau vào xem thử đi.”
—
Huyền lương là treo lên xà nhà. Thời Đông Hán, có một chàng trai trẻ tên Tôn Kính, chăm chỉ hiếu học, luôn đóng cửa học hành từ sớm đến khuya rất ít nghỉ ngơi, có khi đến nửa đêm rất dễ ngủ gật. Để không ảnh hưởng việc học tập, Tôn Kính đã nghĩ ra một cách, chàng tìm một sợi dây thừng, một đầu cột vào tóc mình, đầu kia cột lên xà nhà, như vậy lúc đọc sách mệt ngủ gật chỉ cần cúi đầu là dây thừng sẽ kéo tóc làm đau da đầu, chàng sẽ do đau đớn mà tỉnh táo học tiếp, sau đó chàng rốt cuộc trở thành chính trị gia tiếng tăm lừng lẫy.
Thích cổ là đâm vào đùi. Tô Tần thời Chiến quốc là một chính trị gia nổi danh, nhưng lúc trẻ học vấn không cao, đến rất nhiều nơi cũng chẳng ai để ý, cho dù có hùng tâm tráng chí cũng không được trọng dụng, vì thế ông ta hạ quyết tâm phấn đấu học hành. Do thường xuyên đọc sách đến đêm khuya, lúc mệt mỏi buồn ngủ sẽ dùng cái dùi chuẩn bị sẵn đâm vào đùi, như vậy cảm giác đau đột nhiên xảy đến sẽ khiến ông ta tỉnh táo, tiếp tục học bài.
Cả câu này dùng để hình dung khắc khổ học tập. Tuy nhiên Cát Bàn Tiểu lại nói là thượng điếu (treo cổ) và tích cốc (tức không ăn ngũ cốc, một cách dưỡng sinh của người xưa).
Ngũ bức là họa tiết hình 5 con dơi.
Nguyên gốc tác giả dùng cổn địa lôi, tức một tia chớp hình tròn.
Bách hộ là một chức trong quân đội, trên là thiên hộ và vạn hộ.
Tây tịch chỉ gia sư, còn Trường Tý sư sẽ được giải thích rõ hơn trong chương 3.
Khôi lỗi là con rối, tuy nhiên trong truyện này dịch là rối thì cũng không đúng lắm. Thôi thì đành để nguyên vậy, các bạn đọc từ từ sẽ hình dung ra thôi.
|
Chương 2: Nghĩa phụ
Edit: Yển
Trường Canh thuận tay bưng bát thuốc đã sắc xong vào phòng tiểu nghĩa phụ.
Trong phòng Thẩm Thập Lục chỉ thắp một ngọn đèn nhỏ tù mù, quầng sáng bằng hạt đậu, hệt như đom đóm vậy.
Y đang ngồi dựa cửa sổ, hơn nửa khuôn mặt chìm dưới ánh đèn, chỉ hơi lộ ra một tẹo, đại khái là sắp ngủ rồi. Thẩm Thập Lục không đội mũ, tóc tai bù xù, dưới khóe mắt và vành tai đều có một nốt ruồi chu sa nhỏ, như dùng kim châm ra, tí tẹo ánh đèn trong nhà đều bị y thu cả vào hai nốt ruồi ấy, cơ hồ lóa mắt người.
Ngắm người dưới đèn, có thể tăng thêm ba phần nhan sắc.
Ai cũng thích cái đẹp, thế nên dù đã nhìn quen rồi, Trường Canh vẫn không nhịn được ngừng thở. Y nhanh chóng chớp mắt một cái, như muốn làm nốt chu sa chói mắt ấy văng ra khỏi tầm nhìn, hắng giọng, âm thanh cao lên: “Thập Lục, uống thuốc đi.”
Thiếu niên đang vỡ giọng, nói chuyện với kẻ điếc dở này hơi tốn sức, cũng may lần này Thẩm Thập Lục nghe thấy, tiếng huyên khiến người ta vãi đái kia dừng ngay lại.
Thẩm Thập Lục híp mắt mới thấy rõ Trường Canh đứng ở cửa: “Không biết lớn nhỏ kêu ai thế?”
Kỳ thực y cũng chỉ hơn Trường Canh bảy tám tuổi, vẫn chưa lập gia đình, và đại khái cũng hơi biết về bản tính bùn loãng không thể trát tường của mình, đã chuẩn bị tâm lý sẵn sàng lẻ loi một mình không cưới nổi vợ, nay chẳng dễ dàng gì đụng trúng thằng con hời khỏi cần nuôi, chỉ hận không thể bám dính lấy, thành thử khi không luôn thích lôi thân phận “cha” ra cường điệu một phen.
Trường Canh không thèm để ý, cẩn thận bưng bát thuốc đến trước mặt y: “Nhân nóng mà uống đi, uống xong thì mau nằm xuống nghỉ ngơi, không còn sớm nữa đâu.”
Thẩm Thập Lục bỏ huyên xuống, nhận bát thuốc: “Đồ vô ơn, làm con ta không tốt sao? Uổng công ta tốt với ngươi như vậy.”
Y uống thuốc rất ngoan, hiển nhiên đã quen rồi, uống một hơi cạn sạch, lại nhận nước tráng miệng Trường Canh đưa hớp hai ngụm, đoạn xua tay không cần nữa: “Hôm nay bên Trường Dương quan có họp chợ, ta bèn mang về một món thú vị cho con, lại đây.”
Nói xong, Thẩm Thập Lục khom lưng, lục lọi lung tung trên bàn đọc sách. Y không nhìn rõ, chóp mũi thiếu điều cọ lên bàn, Trường Canh bất đắc dĩ đành phải nói: “Tìm cái gì vậy? Để ta tìm cho.”
Tiếp đó lại không nhịn được cằn nhằn: “Ta lớn rồi, người không dưng cứ lôi về một đống đồ chơi con nít cho ta làm gì?”
Rảnh thế chi bằng bớt gây chuyện, để ta có thời gian học thêm một chút hữu dụng – khúc sau chạy một vòng trong lòng, khi sắp đến miệng lại cảm thấy hơi tổn thương người ta, Trường Canh bèn thôi không nói ra.
Thẩm Thập Lục là một kẻ chơi bời lêu lổng, tự mình lãng phí thời gian thì thôi, lại còn luôn lôi Trường Canh đi chung, không phải rủ đi chợ thì là kéo đi cưỡi ngựa, có một lần không biết còn nhặt từ đâu về một con “chó con” cho y nuôi – lần ấy Thẩm tiên sinh sợ tái cả mặt, hóa ra tên mù này chẳng phân biệt được chó với sói, ôm về hẳn một con sói non.
Từ bách hộ quanh năm vắng nhà, lại là người chất phác, tuy rất tốt với Trường Canh, nhưng không thường chuyện trò, tính ra thì trong hai năm mười hai mười ba tuổi quan trọng nhất này, hình như Trường Canh toàn đi theo nghĩa phụ ất ơ Thẩm Thập Lục thôi.
Từ một đứa trẻ ranh thành một chàng thiếu niên ngọc thụ lâm phong, phải có bao nhiêu định lực mới có thể cam đoan mình không bị Thẩm Thập Lục dạy hư?
Trường Canh quả thực không dám nhớ lại.
Trời sinh tính y không ham chơi, mọi việc đều có kế hoạch riêng, chấp hành cũng hết sức nghiêm khắc, không thích người khác quấy rầy, thế nhưng thường xuyên bị Thẩm Thập Lục làm phiền đến phát cáu vô cùng.
Nhưng thường chẳng cáu được lâu, bởi vì Thẩm Thập Lục thật sự thương y như con ruột chứ không hề chỉ chiếm lợi ngoài miệng thôi.
Năm ấy Trường Canh bị bệnh nặng, Từ bách hộ vắng nhà như thường lệ, đại phu đều nói hung hiểm, cũng là tiểu nghĩa phụ bế y về nhà, ngày đêm không nghỉ mà trông nom y suốt ba ngày liền.
Mỗi lần đi ra ngoài, vô luận gần xa, vô luận đi làm gì, Thập Lục nhất định sẽ mang về cho Trường Canh một ít quà vặt hoặc đồ chơi, Trường Canh không ham mấy món này, nhưng không thể không cảm động khi y luôn nhớ đến mình.
Tóm lại, mỗi ngày gặp Thập Lục, can hỏa của Trường Canh sẽ mạnh vô cùng, nhưng không thấy y thì lại luôn bận lòng. Nhiều lúc Trường Canh cũng nghĩ, tuy Thẩm Thập Lục vai không thể gánh, tay không thể vác, văn chẳng thành, võ chẳng tựu, nhưng về sau chưa chừng sẽ có ai mắc lừa coi trọng ngoại hình y thì sao?
Tiểu nghĩa phụ tương lai cũng sẽ cưới vợ sinh con, như vậy có con ruột rồi, y còn nhớ đến đứa con nuôi này không?
Nghĩ tới việc này, trong lòng Trường Canh liền khó chịu không tả nổi. Y tìm được một cái hộp vuông trên bàn Thập Lục, tạm thời dẹp hết những suy nghĩ lung tung trong đầu, thiếu hứng thú mà đưa cho Thẩm Thập Lục: “Cái này à?”
Thẩm Thập Lục: “Cho con đấy, mở ra xem đi.”
Không chừng là cái ná, hoặc một gói pho mát, nói chung là chẳng phải thứ nghiêm túc – Trường Canh mở ra mà không hề chờ mong, thuận miệng càu nhàu: “Dư dả cũng phải tiết kiệm một chút, hơn nữa ta…”
Ngay sau đó, thấy rõ thứ trong hộp, y lập tức ngậm miệng, mắt phút chốc trợn tròn.
Trong hộp lại là thiết oản khấu!
“Thiết oản khấu” kỳ thực là một bộ phận của khinh giáp trong quân, chỉ quấn một vòng trên cổ tay, cực kỳ thuận tiện, bởi vậy cũng thường xuyên bị tháo ra dùng riêng. Thiết oản khấu rộng tầm bốn tấc, bên trong có thể giấu đến bốn thanh tiểu đao, đao chế bằng công nghệ đặc thù, mỏng như cánh ve, còn gọi là “tụ trung ty”.
Nghe nói trong nháy mắt tụ trung ty tốt nhất bị cái chốt trong thiết oản khấu bắn ra, có thể chia đôi sợi tóc cách xa mấy trượng.
Trường Canh kinh hỉ hỏi: “Cái này… người kiếm đâu ra vậy?”
Thẩm Thập Lục: “Suỵt – đừng để Thẩm Dịch nghe thấy, cái này không phải đồ chơi đâu, y nhìn thấy lại cằn nhằn – con biết dùng không?”
Thẩm tiên sinh đang tưới hoa trong viện, y nào có lãng tai, người trong nhà nói gì y đều nghe rõ mồn một, đúng thật là hết cách với cái tên điếc chuyên lấy mình đo người này.
Trường Canh từng đi theo Thẩm Dịch học cách tháo cương giáp, thuần thục đeo thiết oản khấu, bấy giờ mới phát hiện chỗ đặc thù của vật này.
Tụ trung ty chế tác không dễ, dân gian rất ít có, quá nửa thiết oản khấu ngoài chợ đều là hàng cũ trong quân tuồn ra, kích cỡ đương nhiên cũng là của nam tử trưởng thành, nhưng cái Thẩm Thập Lục mang về rõ ràng nhỏ hơn một cỡ, vừa vặn thích hợp cho người thiếu niên.
Trường Canh ngây người, Thẩm Thập Lục liền biết y muốn hỏi gì, rì rì nói: “Ta nghe người bán nói đây là hàng lỗi, không có khiếm khuyết nào khác, chỉ là kích cỡ hơi nhỏ, mãi chẳng có ai hỏi mua, bấy giờ mới bán rẻ cho ta. Ta cũng chẳng dùng làm gì, thôi thì con cầm lấy mà chơi, có điều phải cẩn thận, đừng làm người khác bị thương.”
Trường Canh hiếm khi vui mừng ra mặt: “Đa tạ…”
Thẩm Thập Lục: “Tạ ai?”
Trường Canh thống khoái kêu: “Nghĩa phụ!”
“Có sữa chính là mẹ, đồ khốn nạn!” Thẩm Thập Lục cười, bá vai Trường Canh tiễn ra ngoài: “Mau về nhà đi, tháng cô hồn không được lang thang ở bên ngoài giữa đêm hôm khuya khoắt.”
Trường Canh nghe thế mới nhớ, thì ra hôm nay là rằm tháng Bảy.
Y theo đường cửa hông quay về nhà mình, trong chớp mắt sải bước vào cửa, đột nhiên cảm thấy đoạn huyên Thẩm Thập Lục thổi hơi quen tai, tuy điệu lạc đi tít mù tắp, nhưng ngẫm lại cẩn thận thì thấy mang máng có điệu “Tống Tây” khi dân gian than khóc đưa tang.
“Có hợp không?” Trường Canh nghĩ thầm.
Thẩm Thập Lục tiễn Trường Canh về, cúi đầu tìm một lúc lâu, mới miễn cưỡng nhìn thấy hình dáng cánh cửa, liền cẩn thận cất bước tới đóng.
Thẩm tiên sinh đang chờ trong viện mặt không biểu cảm đưa tay đỡ khuỷu tay y, dẫn y vào nhà.
Thẩm tiên sinh: “Thiết oản khấu rèn từ huyền thiết tốt nhất, ba thanh tụ trung ty bên trong là do Thu Thiên Lâm đại sư tự tay rèn, từ sau khi đại sư chết thì thành tuyệt bản… Hàng lỗi hả?”
Thập Lục không tiếp lời.
Thẩm tiên sinh: “Được rồi, đừng giả câm vờ điếc với ta – Ngươi muốn coi nó như con thật sao?”
“Đương nhiên là thật, đứa trẻ này nhân nghĩa, ta thích,” Thập Lục rốt cuộc lên tiếng, “Vị kia đại khái cũng có ý này – Nếu tương lai có thể cho thằng bé làm con thừa tự của ta, những người đó sẽ yên tâm, nó cũng sống tốt hơn nhiều, chẳng phải lưỡng toàn sao?”
Thẩm tiên sinh trầm mặc một hồi rồi thấp giọng nói: “Đầu tiên ngươi phải để nó đừng hận ngươi đã – Ngươi không lo lắng chút nào sao?”
Thẩm Thập Lục cười cười, vén vạt trường bào đẩy cửa vào nhà.
Y vẻ mặt vô liêm sỉ, nói: “Những kẻ hận ta nhiều lắm rồi.”
Đêm nay, đèn trôi trên sông, hồn về quê cũ.
Chưa đến canh năm, Trường Canh đã thức dậy trong cảnh toàn thân khô nóng, sống lưng rịn một tầng mồ hôi mỏng, khố cũng ướt sũng.
Mỗi một thiếu niên khi sắp sửa trưởng thành, đều phải trải qua một lần kinh hoảng thất thố như vậy – cho dù trước đó có người dẫn dắt.
Nhưng Trường Canh không kinh hoảng cũng chẳng thất thố chút nào, y phản ứng dửng dưng, chỉ ngồi yên giây lát trên giường, rồi đứng dậy dọn dẹp qua loa, trên mặt có vẻ chán ghét không dễ phát hiện. Y ra ngoài gánh một thùng nước lạnh, lau chùi một lần từ đầu đến chân thân thể mới trưởng thành, lấy quần áo gấp gọn đặt bên gối đem thay, uống một hơi cạn sạch trà từ đêm trước, như thường lệ bắt đầu buổi học ngày hôm nay.
Trường Canh không biết người khác là thế nào.
Về phần y, kỳ thực không hề gặp mộng xuân gì, y chỉ mơ thấy một trận tuyết to có thể làm người ta chết cóng ở quan ngoại.
Gió hôm ấy như thổi đám lông trắng tung lên, vô tình thốc qua người, máu trong vết thương chưa kịp chảy ra đã đóng băng, tiếng gầm gừ của đàn sói dần lại gần, nhưng khứu giác không nhạy chẳng ngửi thấy mùi tanh, vừa hít thở liền sặc hơi lạnh thấu xương mang theo vị ngòn ngọt mằn mặn, Trường Canh tứ chi cứng ngắc, phế phủ như thiêu, còn cho là mình sẽ bị nuốt cả thi cốt trong đại tuyết.
Nhưng không hề.
Lúc tỉnh lại, Trường Canh phát hiện mình được một người dùng áo ngoài bọc trong lòng mà bế đi.
Y nhớ người ấy vạt áo trắng như tuyết, ngực thoang thoảng mùi thuốc đăng đắng xa xăm, thấy y tỉnh lại cũng chẳng hỏi gì cả, chỉ lấy một bầu rượu ra cho y uống một ngụm.
Trường Canh không biết đó là rượu gì, sau này y cũng chẳng còn được nếm lại, chỉ nhớ Thiêu Đao Tử ở quan ngoại cũng không mạnh như vậy, nó như một ngọn lửa, xuôi yết hầu chảy xuống, chỉ một ngụm đã đốt cháy huyết dịch toàn thân y.
Người ấy chính là Thập Lục.
Giấc mộng quá rõ nét, đôi tay Thập Lục bế y trong mộng phảng phất còn dán trên người. Đến bây giờ Trường Canh vẫn không sao hiểu nổi, người ấy chẳng phải là ma ốm ư? Giữa băng thiên tuyết địa đáng sợ như vậy, sao lại có đôi tay vững vàng hữu lực đến thế?
Trường Canh cúi đầu nhìn thoáng qua thiết oản khấu trên cổ tay, không biết thứ này làm bằng vật liệu gì, dán trên người một đêm vậy mà chẳng ấm lên chút nào. Nhờ cảm giác lành lạnh của kim loại, Trường Canh lẳng lặng chờ trái tim và dòng máu xao động của mình bình tĩnh lại, y mỉm cười, ném phăng ý nghĩ vớ vẩn “mộng xuân gặp nghĩa phụ” này, sau đó đốt đèn đọc sách như thường lệ.
Bỗng nhiên, phương xa truyền đến tiếng “ù ù”, mặt đất và nhà cửa đều chấn động theo, Trường Canh thoáng sửng sốt, lúc này mới nhớ ra, tính thời gian, thì hẳn là “cự diên” Bắc tuần sắp về rồi.
“Cự diên” là một con thuyền lớn dài hơn năm nghìn thước, lưng thuyền có hai cánh, do ngàn vạn “hỏa sí” tạo thành, lúc cự diên cất cánh, tất cả “hỏa sí” cùng phun ra hơi nước, tựa non tựa triều, tựa sông tựa mộng, bên trong mỗi một “hỏa sí” đều đốt tử lưu kim to bằng cái bát, giữa khói sóng mênh mang lóe ra ánh sáng nhạt màu đỏ tía, thoạt nhìn như vạn gia đăng hỏa vậy.
Kể từ mười bốn năm trước Bắc man cúi đầu tiến cống, vào ngày mười lăm tháng Giêng hàng năm, đều có hơn mười chiếc cự diên từ các đại trọng trấn biên thùy xuất phát Bắc tuần, đều tự đi một tuyến đường đã định, uy nhiếp ngàn dặm, có thể thấy rõ mỗi một chút dị động của người man.
Trừ uy nhiếp và tuần tra, cự diên còn phải phụ trách áp tải cống phẩm hàng năm của các bộ lạc Bắc man về triều, chủ yếu là “tử lưu kim”.
Một chiếc cự diên chở đầy tử lưu kim gần trăm vạn cân, ngay cả tiếng bước chân trở về cũng nặng nề hơn lúc đi vài phần, cách hai ba mươi dặm cũng có thể nghe thấy hỏa sí phun khói ù ù.
Cự diên Bắc tuần tháng Giêng xuất phát, đi nửa năm liền, lưu Hỏa(1) mới trở về.
—
Thất nguyệt lưu hỏa xuất xứ từ bài Thất Nguyệt của Khổng Tử, đại ý là tháng 7 sao Đại Hỏa hạ thấp xuống. Ý ở đây là cự diên Bắc tuần từ tháng 1 đến tận tháng 7 mới về.
|
Chương 3: Danh tướng
Tổ tiên Từ gia để lại ít đất đai, Từ bách hộ lại là quân hộ, sống ở địa phương cũng rất không tệ, trong nhà có chút tài sản, liền nuôi một bà đầy tớ già làm mấy việc linh tinh như nấu cơm quét tước.
Đợi đến khi sắc trời hơi hửng sáng, lão trù nương Từ gia mới chậm chạp làm xong điểm tâm, đến gõ cửa thư phòng Trường Canh: “Thiếu gia, phu nhân hỏi cậu có đến phòng bà ăn hay không.”
Trường Canh đang tập trung tinh thần luyện viết chữ theo mẫu, nghe vậy động tác cầm bút dừng lại, trả lời theo thói quen: “Không, mẹ thích thanh tĩnh, ta không đi quấy rầy đâu, phiền bà nói với mẹ ta một tiếng, cứ bảo nhi tử vấn an.”
Lão trù nương không bất ngờ với câu trả lời của y, vì đối đáp mỗi ngày giữa mẫu tử này giống như chỉ làm lấy lệ, chẳng có gì mới mẻ cả.
Kể cũng lạ kì, theo lý thì Từ bách hộ chẳng qua là cha kế, Trường Canh và Tú Nương mới là mẫu tử ruột, nhưng chỉ có mấy ngày Từ bách hộ ở nhà, đôi mẫu tử ruột này mới ngồi ăn cơm cùng bàn, sớm chiều thăm hỏi, giả bộ từ hiếu, hòa thuận vui vẻ, chỉ cần nam chủ nhân vừa đi là họ sẽ lạ hơn cả người lạ, chẳng ai thèm để ý tới ai, ở trong cùng một viện, vậy mà Trường Canh ngay cả cửa chính cũng không đi, mỗi ngày đều qua cửa hông chạy sang cách vách, hai mẹ con mươi bữa nửa tháng cũng chưa chắc đã gặp mặt một lần.
Ngay cả đợt bệnh nặng mất nửa cái mạng của Trường Canh năm trước, Tú Nương cũng chỉ thờ ơ đến ngó qua, chẳng hề để ý tới việc đứa con duy nhất này sống hay chết.
Cuối cùng vẫn là Thập Lục gia bế đi chăm sóc.
Lão trù nương luôn hoài nghi Trường Canh không phải con ruột của Tú Nương, nhưng nhìn ngoại hình thì hai mẹ con lại rất giống nhau, hẳn nhiên có quan hệ huyết thống.
Huống chi, nếu không phải con ruột, một nữ nhân nhu nhược như Tú Nương, lưu lạc tha hương, thân mình còn khó bảo vệ, vì sao phải dẫn theo đứa trẻ đó?
Căn bản không nói thông nổi.
Một lát sau, lão trù nương xách hộp đựng cơm tới, nói với Trường Canh: “Chắc hôm nay lão gia sẽ về thành, phu nhân dặn thiếu gia nhớ về sớm.”
Trường Canh hiểu ý bà ta là gì, Từ bách hộ trở về, họ lại phải giả vờ mẫu từ tử hiếu, liền gật đầu đáp một tiếng: “Biết rồi.”
Ánh mắt y dừng trên hộp cơm, bỗng nhiên, Trường Canh nhìn thấy trên quai dính một sợi tóc dài, tay vốn đưa ra lập tức rụt về.
Tóc lão trù nương đã bạc trắng, sợi tóc đen nhánh mềm mượt này đương nhiên không phải của bà lão, Từ bách hộ vẫn chưa trở về, trong nhà cả chủ lẫn bộc, tổng cộng ba người, không phải trù nương thì đương nhiên là của Tú Nương rồi.
Trường Canh bị bệnh sạch sẽ một cách kỳ quái – con chê mẹ ruột.
Ở cách vách, bảo y ăn cơm thừa trong bát nghĩa phụ đã dùng cũng được, nhưng vừa về nhà, chỉ cần là thứ Tú Nương từng chạm thì một miếng y cũng không đụng vào.
Lão trù nương biết tính nết kỳ lạ này, vội dè dặt lấy sợi tóc kia đi, cười xòa nói: “Đây là phu nhân không cẩn thận làm rơi lên thôi, món bánh này ra khỏi nồi chưa có ai động vào cả, cậu cứ yên tâm.”
Trường Canh hết sức lễ phép nở nụ cười với bà lão: “Không sao, hôm nay ta vừa vặn có vài vấn đề muốn thỉnh giáo Thẩm tiên sinh, để lát nữa ta đến chỗ nghĩa phụ ăn luôn.”
Nói xong, y rốt cuộc không nhận hộp cơm, kẹp sách vở trên bàn vào nách, cầm trọng kiếm treo ở cửa sau mà đi ra ngoài.
Trong viện, Thẩm tiên sinh đang xắn tay áo bận rộn bôi dầu cho mấy cương giáp đã tháo ra.
Cương giáp là do quan binh thủ thành đưa tới. Thực ra quan binh Nhạn Hồi cũng có “Trường Tý sư” chuyên môn tu sửa cương giáp quân dụng, chỉ là trong quân có quá nhiều mũ giáp nên luôn làm không xuể, họ liền chia bớt việc cho Trường Tý sư dân gian.
“Trường Tý sư” là những người sửa chữa cương giáp, hỏa cơ, cả ngày tiếp xúc với mấy thứ bằng sắt, xem như là một người thợ tay nghề. Thế nhưng trong mắt lão bách tính thì Trường Tý sư chẳng khác lắm với đánh chó sửa chân cắt tóc, đều thuộc về “hạ cửu lưu”(1), dù cho làm nghề này không lo cơm áo, song cũng chẳng vẻ vang lắm.
Thẩm tiên sinh là người đọc sách, chẳng biết vì sao lại có sở thích kỳ lạ này, không chỉ rảnh rỗi tự mình loay hoay, còn thường xuyên dùng tay nghề kiếm chút đỉnh tiền, rất ảnh hưởng tới sự văn nhã.
Mà Thẩm Thập Lục bất cẩn chui vào trong giấc mơ của thiếu niên kia đang vô công rồi nghề duỗi đôi chân dài ngồi trên bậc cửa, toàn thân dặt dẹo dựa khung cửa như không xương, bên cạnh để một bát thuốc không – y uống xong cũng chẳng biết đi rửa.
Thập Lục lại vươn vai, lừ đừ vẫy tay gọi Trường Canh, phân phó: “Nhi tử, đi lấy bầu rượu cho ta.”
Thẩm tiên sinh tay toàn dầu máy, mồ hôi nhễ nhại bảo Trường Canh: “Mặc xác y đi, đã ăn chưa?”
Trường Canh: “Vẫn chưa ạ.”
Thẩm tiên sinh liền quay đầu sang Thập Lục gào lên: “Sáng dậy đã nằm đó chờ ăn! Không thể làm chút việc hả? Đi vo ít gạo, nấu vài bát cháo đi!”
Thẩm Thập Lục nghiêng đầu, điếc vừa đủ, chậm rì rì nói: “Hả? Cái gì?”
“Để ta,” Trường Canh riết cũng thành quen, “Vo gạo gì?”
Lần này Thập Lục gia nghe thấy, hàng mày dài nhướng lên, nói với Thẩm tiên sinh: “Bớt sai trẻ con đi, sao không tự mình đi nấu hả?”
Thẩm tiên sinh nhã nhặn này ngày ngày bị tên đệ đệ bại gia khốn nạn kia chọc giận khiến Tam muội chân hỏa bốc lên đầy mặt: “Không phải đã nói là thay phiên sao? Nam tử hán đại trượng phu, ngươi không nghe thấy thì thôi, nói chuyện còn chẳng bao giờ giữ lời là thế nào!”
Thẩm Thập Lục giở lại chiêu cũ, lại “không nghe thấy”, hỏi: “Y đang sủa cái gì vậy?”
Giả bộ giống hết sức.
Trường Canh: “…”
Kỳ thực làm kẻ điếc cũng rất tiện.
“Tiên sinh nói…” Trường Canh vừa cúi đầu, liền đụng trúng ánh mắt trêu đùa của Thập Lục, chỉ tích tắc cảnh trong giấc mơ đêm hôm trước lại lướt qua trước mắt, y thình lình phát hiện thì ra mình không phải là không chút động lòng.
Họng Trường Canh đột nhiên hơi khô, y vội cố gắng định thần lại, mặt không biểu cảm nói: “Lão nhân gia người nên ngồi yên đi, đừng có sáng sớm đã phí tâm chơi xấu.”
Thẩm Thập Lục hôm nay còn chưa kịp uống rượu, chút lương tâm ít ỏi cuối cùng không bị ngâm thành hèm rượu, y cười tít mắt kéo tay Trường Canh, mượn lực đứng dậy, thân mật vỗ đầu thiếu niên, rồi khập khiễng đi vào bếp.
Y vậy mà thật sự chuẩn bị làm việc – Thập Lục gia trăm năm khó được một lần có thể làm chút việc, hiếm thấy vô cùng, có thể so với đá nở hoa luôn ấy chứ.
Trường Canh vội đi theo, chỉ thấy nghĩa phụ khệnh khạng bốc đại mấy nắm gạo, ném hết vào nồi, sau đó ào ào đổ nước, khiến bọt nước văng tung tóe, kế đó y tự hạ thấp địa vị thò hai ngón tay khuấy một cái, lấy ra vẩy vẩy cho khô, tuyên bố: “Vo xong một nửa rồi, Thẩm Dịch, tới thay phiên đi!”
Thẩm tiên sinh: “…”
Thẩm Thập Lục tiện tay xách bầu rượu trên bàn bếp, ngửa đầu dốc một ngụm, như mây bay nước chảy, chuẩn xác không lầm.
… Đôi khi Trường Canh hoài nghi, y ngay cả “mù” cũng chỉ là làm bộ thôi.
Chắc Thẩm tiên sinh phục rồi, không thèm đấu tranh vô nghĩa nữa, hùng hùng hổ hổ dùng bồ kết rửa sạch tay, chạy vào bếp hấp bánh và bắt đầu thu dọn đống lộn xộn Thập Lục vứt lại.
Trường Canh cho Thẩm tiên sinh xem từng tờ giấy mà mình viết lúc sáng sớm, Thẩm Dịch xem xong bình luận xong, Trường Canh liền bỏ giấy vào bếp, giúp đỡ nhóm lửa.
“Chữ viết rất tiến bộ, gần đây bỏ không ít công sức nhỉ,” Thẩm tiên sinh nói: “Ta thấy ngươi phỏng theo là Trường đình thiếp của An Định hầu Cố Quân?”
Trường Canh: “Vâng.”
Thập Lục đang ngồi chơi xơi nước bên cạnh nghe vậy bất ngờ quay đầu sang, trên mặt thoáng qua dị sắc.
Thẩm tiên sinh không ngẩng đầu: “An Định hầu mười lăm lĩnh binh, một trận chiến thành danh, mười bảy làm thống soái, phụng mệnh Tây chinh, trên đường đi qua ngoài thành Tây Lương, gặp di tích cổ nhân, tiền triều cảnh vật như xưa, mà giang sơn đã trăm năm, cảm xúc dâng lên cầm bút viết ‘Trường đình phú’, vốn là viết xong thì thôi, không ngờ bị bọn nịnh hót bên cạnh trộm lưu lại, khắc lên bia đá – kể ra thì nét chữ của Cố Quân là do Mạch Sâm tiên sinh hồng nho đương thời một tay dạy dỗ, quả có chỗ đáng học hỏi, chỉ là lúc viết Trường đình thiếp, y còn trẻ, lại là thiếu niên đắc chí, không khỏi có chút không biết trời cao đất dày, chưa đủ hỏa hầu. Ngươi đã luyện chữ, có nhiều cổ thiếp như vậy không chép, vì sao phải chép của người thời nay?”
Trường Canh cuộn tờ giấy đã viết đầy chữ, không hề tiếc rẻ nhét vào bếp: “Ta từng nghe kể, Huyền Ưng, Huyền Giáp, Huyền Kỵ tam đại Huyền Thiết doanh, ở trong tay lão Hầu gia dẹp yên mười tám bộ lạc Bắc man, sau truyền đến dưới trướng tiểu Hầu gia, lại khiến hãn phỉ Tây Vực cúi đầu – Không phải là ta thích nét chữ của y, ta chỉ muốn biết, nét chữ do bàn tay nắm tam đại Huyền Thiết doanh lưu lại là như thế nào.”
Cái muôi trên tay Thẩm tiên sinh vô thức khuấy trong nồi, ánh mắt lại tựa hồ đã bay xa, một lúc lâu mới chậm rãi nói: “An Định hầu họ Cố tên Quân, tự Tử Hi, là độc tử của trưởng công chúa của tiên đế và lão Hầu gia, thuở nhỏ cha mẹ mất sớm, được kim thượng thương hại, nuôi trong cung, còn đặc biệt ban cho tập tước, vốn trời sinh là người nhàn rỗi phú quý, lại phải đến Tây Vực ăn cát, anh hùng hay không thì ta không biết, nhưng chỉ sợ đầu óc không được tốt lắm.”
Thẩm tiên sinh mặc trường sam cũ giặt đến bạc màu, trên chéo áo còn dính dầu mỡ từ cương giáp, cổ đeo cái tạp dề mốc meo – nhà không có phụ nữ, hai huynh đệ này sống với nhau, chẳng kẻ nào ra gì, tạp dề kia không biết có phải là chưa từng giặt hay không mà sớm chẳng còn nhìn thấy màu nền, khoác trên người trông thật chẳng ra làm sao.
Chỉ có khuôn mặt ấy đường nét rõ ràng.
Thẩm Dịch mũi cao thẳng, lúc không nói cười, khuôn mặt nghiêng gần như uy nghiêm lãnh đạm, mí mắt y run nhẹ, bỗng nhiên thốt ra: “Từ sau khi lão Hầu gia đi, Huyền Thiết doanh công cao chấn chủ, khiến bên trên nghi kị, lại thêm trong triều nịnh thần hoành hành…”
Thập Lục vẫn không lên tiếng chợt mở miệng cắt ngang: “Thẩm Dịch.”
Hai người ở cạnh bếp cùng nhìn y, Thập Lục đang đăm đăm dòm một tấm mạng nhện nho nhỏ trên khung cửa.
Thập Lục uống rượu không lên mặt, càng uống sắc mặt càng trắng, một chút cảm xúc đều thu vào trong mắt, chẳng nhìn thấy rõ.
Y thấp giọng: “Đừng nói bậy bạ.”
Huynh đệ Thẩm thị bình thường cực kỳ không biết lớn nhỏ, kẻ làm huynh đệ bất kính huynh trưởng, huynh trưởng cũng chiều huynh đệ như gì, ngày ngày cãi nhau om sòm từ sớm đến khuya, thế nhưng tình cảm rất tốt.
Trường Canh chưa bao giờ nghe thấy Thập Lục nói chuyện bằng giọng điệu cứng nhắc này.
Y trời sinh mẫn cảm, không rõ nội tình, liền cau mày thật sâu.
Thẩm Dịch cắn chặt răng một thoáng, ý thức được Trường Canh đang quan sát mình, bèn miễn cưỡng thu lại cảm xúc, cười nói: “Coi như ta lỡ lời – nhưng phỉ báng triều đình chẳng phải là thức nhắm lúc trà dư tửu hậu sao? Ta chẳng qua tùy tiện nói một chút.”
Trường Canh nhận thấy bầu không khí xấu hổ, liền thông minh chuyển hướng đề tài, hỏi: “Thế trong mười năm từ Bắc phạt đến Tây chinh, Huyền Thiết doanh về ai quản?”
“Không ai quản cả,” Thẩm Dịch nói, “Sau khi Bắc phạt, Huyền Thiết doanh một độ trầm tịch, kẻ thì đi, kẻ thì chết, trong quân còn lác đác vài lão nhân, phần lớn cũng nản chí ngã lòng. Sau mười mấy năm, tinh binh ngày trước đã sớm đổi một thế hệ khác, trang bị nhiều năm chưa từng thay mới cũng đều hỏng hóc hết cả, cho đến vài năm trước Tây Vực phản loạn, triều đình không còn biện pháp, mới để An Định hầu nhận nhiệm vụ lúc lâm nguy, bắt đầu lại Huyền Thiết doanh – Nói là Cố soái tiếp quản Huyền Thiết doanh, chi bằng nói là y ở Tây Vực một lần nữa mài giũa ra một đội quân tinh nhuệ. Nếu có cơ hội, ngươi trái lại có thể học nét chữ của y hiện tại.”
Trường Canh sửng sốt: “Chẳng lẽ Thẩm tiên sinh từng nhìn thấy nét chữ về sau An Định hầu viết?”
Thẩm Dịch cười nói: “Tuy rằng hiếm thấy, nhưng phố phường thỉnh thoảng cũng lọt ra một hai tờ, đều tự xưng là hàng thật, có điều là thật hay giả thì ta cũng không biết.”
Y vừa nói vừa thổi khói trắng, bưng đồ ăn lên bàn, Trường Canh biết điều tới giúp đỡ, khi bưng cháo đi lướt qua Thẩm Thập Lục, lại bị con ma ốm kia bắt lấy bả vai.
Trường Canh lớn nhanh hơn thiếu niên bình thường, thân hình cao to hơn hẳn bạn cùng lứa, dù cho xương và thịt chưa đủ, chiều cao lại sắp đuổi kịp tiểu nghĩa phụ rồi, thế nên vừa hơi ngẩng đầu đã nhìn vào mắt Thập Lục.
Thập Lục kỳ thực có đôi mắt hoa đào rất điển hình, nhưng chỉ khi ánh mắt y rời rạc nhìn khắp nơi mới nhận ra, bởi vì khi tầm mắt y ngưng tụ, trong đôi đồng tử ấy phảng phất có một đôi vực sâu mây mù che phủ, đen kịt không thấy rõ.
Trong lòng Trường Canh lại giật mình, y hạ giọng, cố ý dùng cách xưng hô bình thường mình không hay dùng: “Nghĩa phụ, sao vậy?”
Thập Lục hờ hững nói: “Trẻ con chơi giỡn, không nên suốt ngày muốn làm anh hùng, anh hùng có kết cục nào tốt đẹp không? Con chỉ cần cả đời ăn no mặc ấm, không sầu lo gì, thì chính là cuộc sống tốt nhất rồi, cho dù túng thiếu nhàn tản một chút cũng không hề gì.”
Thẩm Thập Lục giả câm vờ điếc thì nhiều, hiếm khi mới nói vài câu tiếng người, nhưng vừa mở miệng đã hắt nước lạnh vào Trường Canh.
Một kẻ tàn phế dở mù dở điếc như y, đương nhiên không có chí lớn, nhuệ khí cũng không nốt. Nhưng những lời nhụt chí kiểu được ngày nào hay ngày nấy như vậy, người thiếu niên làm sao nghe lọt nổi?
Trong lòng Trường Canh phần nào không thoải mái, bởi vì cảm giác như bị coi thường vậy, y tức giận nghĩ thầm: “Đều chơi không như ngươi thì tương lai ai nuôi gia đình qua ngày? Ai chăm lo cho ngươi cơm ăn áo mặc? Đúng là đứng nói chuyện không đau lưng mà!”
Y tránh tay Thập Lục, nói lấy lệ: “Đừng lộn xộn, coi chừng cháo nóng làm bỏng bây giờ.”
—
Trung Quốc xưa chia thân phận làm cửu lưu – chín loại, chia rõ hơn thì có thượng và hạ cửu lưu, tu cước tức sửa chân là dùng kéo cắt móng hoặc các vết chai ở bàn chân.
|
Chương 4: Cự diên
Thẩm gia không chú trọng “ăn không nói ngủ không nói”, vừa ăn cơm, Thẩm tiên sinh vừa giảng “Đại học” cho Trường Canh, giảng một hồi mất luôn trọng điểm, lại xen cả “cách bảo dưỡng cương giáp trong mùa đông” vào. Bản thân y là một người theo học phái Tạp Gia, cứ nhớ gì nói nấy, có một lần không biết thế nào mà còn hào hứng giảng cách phòng và chữa trị dịch ngựa, khiến ngay cả kẻ điếc là Thập Lục gia cũng nghe không nổi nữa, bắt y ngậm miệng lại.
Ăn xong nói xong, Thẩm tiên sinh còn chưa thỏa mãn mà dọn dẹp bát đĩa, nói với Trường Canh: “Hôm nay ta phải sửa xong số trọng giáp này, bọn họ chẳng bao giờ chịu bảo dưỡng, làm các khớp rỉ sét hết. Buổi chiều có khả năng ta còn phải đi một chuyến để hái ít thảo dược, bọn Cát Bàn Tiểu đều xin nghỉ đi chơi rồi, ngươi thì tính thế nào?”
Trường Canh: “Ta lên dốc núi Tướng Quân luyện…”
Chữ “kiếm” còn chưa nói ra, vừa quay đầu lại đã thấy Thẩm Thập Lục treo thiết kiếm của y trên tường, tuyên bố: “Nhi tử, đi, cự diên có thể sắp vào thành rồi, chúng ta đi chung vui nào.”
Trường Canh bất lực: “Nghĩa phụ, ta vừa nói với Thẩm tiên sinh…”
Thẩm Thập Lục: “Cái gì? Con nói to lên xem nào.”
Giỏi, lại tới nữa.
Cự diên đến rồi lại đi, năm nào cũng như năm nấy, Trường Canh chẳng thấy có gì mới mẻ để xem, nhưng còn chưa kịp phản đối thì Thập Lục đã không nói năng gì nửa kéo nửa lôi mà đẩy y đi ra ngoài.
Hoàng hôn mùa hạ trời chưa hết nóng, quần áo mặc trên người đều mỏng, Thập Lục dán cả người lên lưng Trường Canh, mùi thuốc thoang thoảng như ẩn như hiện phút chốc bao phủ Trường Canh, giống hệt như trong giấc mơ vậy.
Trường Canh bỗng dưng cảm thấy không được tự nhiên, liền lặng lẽ cúi đầu tránh né tiểu nghĩa phụ, bịt mũi quay đầu đi, làm bộ hắt xì.
Thập Lục cười tủm tỉm trêu ghẹo: “Có người nhớ con rồi. Là tiểu cô nương mặt tròn nhà Lão Vương sao?”
Trường Canh rốt cuộc không nhịn được hơi sầm mặt, cứng nhắc nói: “Nghĩa phụ đùa với vãn bối như vậy có thích hợp không?”
Thẩm Thập Lục còn khuya mới để tâm, cợt nhả: “Không thích hợp sao? À, ta trước kia chưa từng làm cha ai, nên không biết chừng mực thế nào, lần sau nhất định ta sẽ chú ý.”
Ai mà nghiêm túc với Thẩm Thập Lục thì nhất định bị y chọc tức bốc khói.
Trường Canh hất tay tên lưu manh muốn bá vai mình, dẫn đầu đi ra ngoài.
Thẩm tiên sinh ở đằng sau dặn dò: “Thập Lục, ngươi nhớ về sớm bổ củi đấy!”
Thẩm Thập Lục đi như bôi dầu dưới chân, không biết xấu hổ nói: “Không nghe thấy, tạm biệt!”
Trường Canh bị y đẩy chạy chầm chậm, hỏi: “Người rốt cuộc điếc từ khi nào vậy?”
Thẩm Thập Lục chỉ cười không đáp, vẻ mặt cao thâm khó lường.
Lúc này hai người vừa vặn đi qua cửa chính nhà Trường Canh, cánh cửa “két” một tiếng chợt mở ra.
Một nữ nhân váy dài màu trắng đi ra, Trường Canh thấy nữ nhân ấy, vẻ mặt bực bội pha lẫn bất đắc dĩ và nổi cáu tức thì sững lại.
Y giống như bị giội một gáo nước lạnh từ đầu tới chân, ánh mắt vừa nãy còn dằn cơn giận lập tức trống rỗng, cả sự giận dữ lẫn sức sống cùng biến mất tăm.
Nữ nhân chính là Tú Nương, mẹ Trường Canh trên danh nghĩa.
Tú Nương không còn trẻ, mỹ mạo lại chưa mất nửa phần, đứng trong nắng mai, tựa như một bức phác họa mỹ nhân nhàn tĩnh u nhiên vậy.
Nữ nhân như thế, dù là một quả phụ, cũng thật sự không nên hạ mình gả cho một bách hộ con con trong một trấn nhỏ ở biên thùy.
Tú Nương gật đầu sửa lại vạt áo, dịu dàng chào hỏi Thẩm Thập Lục: “Thập Lục gia.”
Thẩm Thập Lục chỉ lưu manh với Thẩm Dịch, vừa đụng tới nữ nhân thì y tức khắc lắc mình biến thành một phiên phiên quân tử. Y hơi nghiêng người, không nhìn thẳng mặt Tú Nương, nho nhã lễ phép chào hỏi: “Từ phu nhân, ta đưa Trường Canh ra ngoài giải khuây.”
“Làm phiền quá,” Tú Nương cười mỉm không lộ răng, kế đó quay sang Trường Canh, nhẹ nhàng dặn dò: “Hôm nay phụ thân con về, nếu đi ra ngoài, nhớ mua một hộp son về cho mẹ.”
Tiếng nói chuyện nhẹ như muỗi, hà một hơi cũng bay mất, nhưng Trường Canh còn chưa kịp trả lời thì Thẩm điếc đã đáp trước: “Ôi, phu nhân cứ yên tâm.”
Trường Canh: “…”
Lúc này, Trường Canh mới đại khái tìm được một chút về quy luật điếc của nghĩa phụ – lời Thẩm Dịch nói y nhất loạt không nghe thấy, những người khác nói thì phải xem có thích nghe hay không, về phần các đại cô nương tiểu tức phụ, cho dù là muỗi cái vo ve một tiếng, y cũng có thể nghe không sót một chữ nào.
Ham ăn biếng làm thì đã đành, còn là một kẻ sắc hoại nữa chứ!
Câu “bên ngoài vàng ngọc, bên trong thối rữa”, y như là lượng thân làm cho riêng y vậy.
Khi cự diên trở về, lũ trẻ chờ nhặt nhạn thực cùng mười dặm tám thôn lân cận chạy tới xem náo nhiệt tụ tập ở cổng thành, vừa đông người, liền có kẻ có óc kinh doanh đến bán thức ăn, dần dần hình thành một cái chợ quy mô không nhỏ, dân bản địa gọi là “chợ Nhạn Tử”.
Thẩm Thập Lục chưa bao giờ biết xem sắc mặt người ta – nhìn thấy cũng làm bộ không thấy.
Y giống như không hề nhận thấy tâm trạng đứa con nuôi không tốt, hào hứng chạy tới chạy lui trên Nhạn Tử chật ních người, gặp cái gì cũng rất hứng thú.
Trường Canh tâm trạng bực bội, lại còn phải theo sát y không rời một tấc, thường xuyên lưu ý không để y bị lạc.
Mấy năm nay thế đạo không tốt, lão bách tính đều nghèo, buôn bán trên chợ phần lớn là sản vật nông gia, đồ ăn thức uống đều chẳng có gì ngon, buồn chán muốn chết.
Đều nói cuộc sống khó khăn là do chiến tranh, thuế má năm sau nặng hơn năm trước. Nhưng kỳ thực trước đây cũng có chiến tranh, đánh xong một trận còn có thể nghỉ ngơi một thời gian, ấy thế mà mấy năm nay không biết cớ làm sao, mọi người giống như chưa bao giờ được nghỉ xả hơi vậy.
Tính ra chẳng qua hai mươi năm, Đại Lương trước là Bắc phạt, sau lại Tây chinh, trở thành đại quốc, tứ phương triều bái, uy nghi đến nhường nào?
Thế nhưng lão bách tính ngày càng nghèo, cũng thật là kì lạ thay.
Trường Canh đi lang thang chán gần chết, chỉ muốn ngáp dài, mong tên nhà quê Thẩm Thập Lục gặp cái gì cũng tò mò này sớm hết hứng, sớm cho y về, y thà đi làm trợ thủ cho Thẩm tiên sinh còn hơn.
Thẩm Thập Lục mua một bọc đậu nướng muối đen sì, vừa đi vừa dùng tay bốc ăn, sau đầu như có mắt, thò một tay chuẩn xác nhét một hạt đậu muối vào miệng Trường Canh.
Trường Canh bị bất ngờ, không cẩn thận liếm phải ngón tay đối phương, trong cơn hoảng loạn y cắn luôn trúng lưỡi mình, tức khắc bật máu, đau quá thét lên một tiếng, phẫn nộ trừng Thẩm Thập Lục đại họa này.
“Hoa tàn còn nở lại, niên thiếu chẳng quay về.” Thẩm Thập Lục không quay đầu lại, nhón một hạt đậu giơ lên nhắm ngay hướng thái dương. Đôi tay y thật là đẹp, thon dài trắng nõn, như đôi tay công tử thế gia, vốn nên cầm sách hoặc nhón cờ, chẳng hợp chút nào với hạt đậu nướng đen sì.
Thẩm Thập Lục ra vẻ ông cụ non: “Chờ trưởng thành là con sẽ biết, thời thiếu niên của một người chỉ được tí tẹo như hạt đậu, chớp mắt là qua, cả đời cũng không quay lại được, đến lúc đó con sẽ hiểu mình đã phí hoài bao nhiêu năm tháng.”
Trường Canh: “…”
Thật sự là y vô luận thế nào cũng không nghĩ thông, sao Thẩm Thập Lục có thể dày mặt nói người khác “phí hoài năm tháng” cho được.
Đúng lúc này, đám đông ở gần cổng thành đột nhiên reo hò.
Cho dù là mù dở, cũng có thể nhìn thấy “cự diên” đáp xuống nơi chân trời đằng xa.
Vô số hỏa sí chĩa lên trời, tất cả khói trắng đồng loạt tạo ra ngàn tầng vân sơn, hơi nước như một đám bông từ cửu trùng lăng tiêu rơi xuống.
Sau đó, một con thuyền khổng lồ lờ mờ hiện ra giữa khói sóng mênh mang, tám con giao long hùng vĩ ở đầu thuyền trông cứ như thật, chúng chiếm giữ hai bên hông thuyền, bễ nghễ vô song rẽ mây mà đến.
Thẩm Thập Lục thoạt đầu sửng sốt, đoạn y chợt nghiêng tai, nốt ruồi chu sa trên vành tai tựa hồ lóe ánh đỏ, y nhíu mày, khẽ lẩm bẩm: “Sao năm nay thuyền lại nhẹ như vậy?”
Nhưng xung quanh toàn là tiếng ù ù đinh tai nhức óc của cự diên cùng tiếng người la hét huyên náo, một tiếng nói thầm thoáng như thở dài này nhanh chóng biến mất tăm, ngay cả Trường Canh theo sát bên cạnh y cũng không nghe thấy.
Lũ trẻ con bắt đầu bưng cái giỏ trúc nhỏ của mình, chen lấy đùn đẩy tranh vị trí, chờ đón nhạn thực.
Trên thành, một tốp quan binh xếp hàng chạy chậm ra, binh truyền lệnh đứng đợi lệnh sau “đồng hống” cao ba trượng.
“Đồng hống” như một cái loa to đặt ngược, nằm ngang trên tường thành, bên ngoài có một vòng rỉ đồng xanh biếc, rỉ loang lổ đẹp mắt, như là chạm hoa vậy.
Binh truyền lệnh kia hít sâu một hơi, nhắm ngay một đầu đồng hống, lên giọng, âm thanh từ “đồng hống” khổng lồ truyền ra, được khuếch đại mấy chục lần, vang vọng như chuông lớn vậy.
“Nhạn về, mở – sông – ngầm -“
Hai hàng quan binh theo lệnh nắm những bánh xe bằng gỗ khổng lồ trên thành lâu, đồng thời quát to một tiếng. Họ cởi trần lộ ra gân cốt, đồng loạt dùng lực, bánh xe gỗ trên cao “cót két” quay, một con đường lớn bằng đá tảng dưới thành lâu chia ra làm đôi, vô số bánh răng khớp nhau bắt đầu quay tròn, gạch ở hai bên phân thành hai đường rút đi ngược nhau.
Đại địa đã nứt ra, để lộ con sông ngầm sâu thẳm, chảy qua cả Nhạn Hồi tiểu trấn.
Binh truyền lệnh thổi lên tiếng kèn đùng đục ngân nga, truyền ra từ đồng hống, xuyên thấu hết thảy vang vọng mà đi.
Trên cự diên cũng đáp lại một tiếng kèn dài, tiếp đó vô số hỏa sí đồng thời phát lực, hơi nước chung quanh như mây mù vờn trên đỉnh núi phụt ra một cách điên cuồng – nó chuẩn bị hạ xuống rồi.
Đợt “nhạn thực” đầu tiên rắc xuống tung tóe như thiên nữ rải hoa, lũ nhóc bên dưới phát điên, nhao nhao vươn tay tranh đoạt.
Đáng tiếc, đoạn đường rải nhạn thực không hề dài, cự diên nhanh chóng đáp xuống con sông ngầm, vững vàng đậu trên mặt nước trước mắt mọi người.
Thân thuyền uy nghiêm, ánh sáng nhạt của kim loại đượm khí sát phạt khó tả rõ, tiếng kèn từ trên thuyền truyền đến bi tráng lạ lùng, vọng mãi không thôi, cả Nhạn Hồi trấn đều bị cộng hưởng tiếng “ù ù” ấy, như những vong hồn ngàn năm trên sa trường nhất tề tỉnh lại hòa chung tiếng hát vậy.
Cự diên chậm rãi xuôi con sông ngầm vào thành, nước chảy ào ào, binh truyền lệnh lại cao giọng hô một tiếng.
“Tắt – đèn -“
Hỏa sí ở hai cánh cự diên theo đó tắt phụt, không trung phả đến mùi khét như sau khi đốt pháo. Cự diên xuôi dòng, giao long quanh thân thuyền phảng phất ngưng trệ ở đồ đằng nào đó trong dòng thời gian, mang theo thần tính yêu tà.
Trường Canh chen chúc trong đám đông chăm chú nhìn cự diên dần đến gần, dù ngoài miệng nói không muốn đến, và quả thật cũng từng xem rất nhiều lần cự diên quay về, nhưng khi đối mặt y vẫn phải chấn động vì thân hình của vật khổng lồ ấy.
Cự diên Bắc tuần còn như thế, vậy Huyền Thiết tam đại doanh lợi khí quốc gia, lại sẽ là phong thái ra sao?
Thiếu niên bị nhốt trong một góc xa xôi chật hẹp của Nhạn Hồi tiểu trấn, quả thực ngay cả nghĩ cũng không nghĩ ra.
Cự diên tới gần, hơi nóng của hỏa sí đã tắt hất vào mặt, Trường Canh theo bản năng túm người bên cạnh, dặn dò: “Cự diên đến rồi, bên này đông người quá, chúng ta lui lại một chút đi.”
Không ai trả lời, y chẳng túm được gì, Trường Canh quay đầu phát hiện nghĩa phụ phiền phức kia không biết từ khi nào đã mất tăm.
|