Quỷ Thoại Liên Thiên
|
|
Chương 24: Tiệc vườn đào dưới trăng (Hạ) Phía sau cánh cửa phòng ngủ, mọi thứ vẫn rất bình thường, máy vi tính dừng lại ở cảnh cuối cùng khi hai diễn viên chính ôm nhau, nam cười đến tận mang tai, nữ khóc đến sắp trôi mascara. Trong phòng ngủ có một toa lét riêng, cửa sổ và cửa mở ra ban công đều bị bịt kín lại. Có vẻ đúng như lời Lục Tử nói, trông bên ngoài thì giống như một căn nhà dân bình thường, nhưng bên trong chẳng khác nào một ngân hàng cỡ nhỏ.
Bạch Dực ngồi lên giường vỗ vỗ gối vài cái, sau đó có vẻ thỏa mãn mà đặt đầu xuống nằm luôn, không buồn cởi cả áo ngoài. Tôi trông chừng anh ta có vẻ muốn ngủ tới nơi, liền kéo tay anh dậy cau mày nói: "Thần kinh anh bị đơ hay là thực sự không sợ quỷ thế? Đã biết trong phòng có cái gì đó mà còn dám ngủ tỉnh bơ vậy?"
Bạch Dực kéo ngược lại một cái, làm tôi ngã luôn lên giường nằm cạnh anh ta, tiếp theo nhanh như chớp kéo chăn đắp cho tôi rồi bình thản nói: "Cứ đắp chăn kín cả người thì còn sợ gì nữa, nếu không thì để tôi ôm cậu ngủ nhé?"
Thực sự đoán không ra đầu óc anh ta làm bằng cái gì? Bộ trùm chăn kín đầu thì sẽ không bị quỷ bắt chắc? Vậy bao nhiêu người chết trên giường đó là vì cái gì? Tôi gạt cánh tay ôm hờ bên thắt lưng mình của anh ta ra, định ngồi lên. Nhưng đột nhiên lại cảm thấy sau lưng có một cái gì đó cồm cộm, tôi vặn lưng, đưa tay ra sau kiểm tra, chạm vào thì thấy nó là một cái hộp giấy, tôi ngạc nhiên, cái gì đây nhỉ? Tò mò lấy ra nhìn thử... chết tiệt! Tên khốn Lục Tử kia dám nói cái giường này sạch sẽ?! Vậy chứ cái hộp bao cao su này nằm đây làm gì? Để tối thổi lên làm bong bóng chơi chắc?!
Bạch Dực nhìn bàn tay run run nắm chắc cái hộp giấy của tôi bèn hỏi nó là cái gì, tôi liền vung tay ném thẳng nó vào góc phòng, trùm chăn kín đầu bực tức trả lời: "Kẹo ngọt, anh không thích ăn đâu."
Tôi quá sợ không dám đưa lưng về phía Bạch Dực ngủ, nên đành xấu hổ mà day mặt lại đối mặt với anh ta. Tuy có hơi khó xử, nhưng ít ra nếu có chuyện gì xảy ra thì còn kịp gọi đối phương. Tới đây tự nhiên nhớ lúc còn nhỏ tôi cũng rất nhát, hay trốn trong ổ chăn của bà nội mà ngủ, không dám đưa lưng lại mà lúc nào cũng xoay mặt về phía bà mà ngủ. Giống như chỉ cần nhìn thấy một gương mặt quen thuộc thì có cảm giác an tâm hơn vậy.
Dần dần tôi cảm thấy mắt nặng trịch xuống, bất giác cũng nhắm mắt lại ngủ. Nhưng tôi ngủ rất chập chờn, vẫn căng thẳng căng tai lên nghe ngóng động tĩnh xung quanh. Bạch Dực ở bên cạnh ngủ say đến không biết trời đất gì nữa, tôi thực sự bội phục anh ta, thần kinh cứ như dân sao Hỏa ấy, sau này nếu không làm giáo viên nữa có thể cân nhắc đi làm nghề trông nhà xác được.
Ngoại trừ tiếng máy điều hòa rì rầm thổi gió và tiếng thở đều đặn của Bạch Dực, xung quanh vắng lặng như tờ. Tinh thần căng thẳng của tôi nhờ đó cũng bắt đầu thả lỏng ra, tự dỗ mình là chỉ cần có hai người ở đây thì thứ kia sẽ không dám xuất hiện... sau đó, bậm bậm môi kéo kéo chăn, yên tĩnh chìm vào giấc ngủ.
Ban ngày có lẽ suy nghĩ cùng lo lắng quá nhiều, nên ban đêm nằm mơ rất hỗn loạn, có hoa đào, có tiệc rượu, có người thứ ba đang đứng đối diện...
...Dường như tôi cũng đã nhập vào tiệc rượu nọ, mùi hương rượu thơm nồng, hòa cùng mùi hương của hoa đào. Xuyên qua tầng tầng hoa đào phô sắc thắm, thoáng như nhìn thấy một khuôn mặt tươi cười đẹp như hoa. Từ Vị vươn tay vẫy vẫy, nụ cười kia càng thêm nở bừng diễm lệ. Nhưng khi nàng còn đang tươi cười nhìn Từ Vị thì ông đã đột ngột xoay người đi, gương mặt tươi cười dần dần hòa làm một cùng gương mặt của mỹ nữ trên bức tranh dán trên tường phòng khách, ánh mắt không còn trong trẻo mà ngập đầy một loại oán độc, một loại oán hận của trăm năm cô độc.
Tôi muốn bước xuyên qua tầng tầng hoa đào mà đi về phía đó để xem người nọ là ai, nhưng cành cây xung quanh đột ngột như có sự sống, tự động quấn chặt lấy thắt lưng, nhìn cây cối xung quanh hoa đào đã rụng hết, chỉ còn những cành cây khô cằn trơ trụi. Bên tai vang lên một khúc nhạc xưa ai oán như khóc như than. Từ từ, chậm rãi, tôi bắt đầu có cảm giác trở lại, từ trong mộng mị thoát dần ra thế giới bên ngoài, cảm thấy ôm chặt lấy tôi không phải là cành cây, mà là một đôi tay...
Bàn tay đó đang... cởi thắt lưng quần của tôi! Đầu tôi như nổ "bùm" một tiếng, lập tức hét lên: "Lão Bạch khốn kiếp, anh định làm gì tôi?!"
Nhưng ngay lúc đó, Bạch Dực cũng cùng lúc ngẩng đầu lên, giận dữ chất vấn: "Cậu định làm gì tôi vậy?!"
Chúng tôi mở to mắt nhìn nhau, thứ xuất hiện ở đó làm tôi sợ tới mức suýt chút nữa cắn phải đầu lưỡi mình! Giữa chúng tôi là một nữ nhân mặc y phục toàn trắng, mẹ ơi! Gương mặt của nó cứ như bị tạt axit vậy, lam nham lở nhở, gần như bị tàn phá toàn bộ; tôi chỉ nhìn thấy phân nửa gương mặt của nó, nhưng trông nó cứ như một thi thể nằm sõng sượt giữa hai chúng tôi vậy, đôi mắt nhìn chằm chằm lên trần nhà, khóe miệng nhếch lên thành một nụ cười oán độc. Đây rõ ràng là gương mặt tôi đã nhìn thấy trong mơ, chỉ trừ việc nó đã bị hủy hoại tan nát rồi.
Tôi và Bạch Dực cùng đồng thời lăn một vòng lao xuống khỏi giường, mà đáng chết nhất là, quần của tôi bị nó cởi phân nửa, tuột xuống tới đầu gối nên căn bản là chạy không được, chỉ đành buông người ngã lăn xuống đất, vai lại đạp xuống sàn đau thấu tới óc. Tôi nhăn nhó thầm nghĩ: cứ té thế này thêm vài cú nữa chắc xương bả vai của tôi nát bấy mất...
Hiển nhiên là Bạch Dực cũng không khá hơn tôi bao nhiêu. Tôi không khỏi mắng thầm: Mẹ nó, bộ nữ quỷ này cô đơn lâu quá nên đàn ông nào cũng muốn sao? Chết tiệt, cứ tưởng chỉ có nam quỷ mới háo sắc, ai ngờ nữ quỷ mà háo sắc lên thì còn quá hơn, một mình nó mà muốn cả hai chúng tôi?
Chờ chúng tôi lấy lại tinh thần nhìn lại trên giường thì hoàn toàn không còn nữ quỷ đâu nữa. Tôi nhìn sang Bạch Dực ở bên kia giường, anh ta trông còn thảm hơn tôi, hai hàng cúc áo đã bị mở bung ra hết, cũng may quần vẫn còn ở đúng vị trí, anh ta nhìn tôi dùng hai tay giữ quần, vẻ mặt vẫn bình tĩnh như không hề cảm thấy xấu hổ.
Tôi chớp thời cơ kéo lại quần, không khỏi tự cảm thấy bản thân quá mức chật vật. Vừa vất vả xốc lại quần, tôi vừa hỏi Bạch Dực: "Chết tiệt, nó biến đâu mất rồi?! Con nữ quỷ này quá đáng thật, còn trơ trẽn hơn cả mấy con nhỏ ngoài tiệm mát xa nữa!"
Bạch Dực vuốt vuốt mặt hỏi tôi: "Cô ta có làm gì cậu không?"
Tôi lắc đầu: "Không có, may mà tôi cảnh giác, vừa thấy có ai nắm lấy quần của mình là lập tức tỉnh lại ngay. Nếu không thì..."
Trông Bạch Dực rõ ràng có vẻ trấn tĩnh hơn tôi nhiều, chỉ bình tĩnh đứng đó vuốt cằm suy nghĩ cái gì đó, thậm chí còn không buồn cài lại cúc áo. Tôi nhìn dáng vẻ thản nhiên như không của anh ta mà hỏi: "Vậy anh cũng không sao chứ...? Thiệt tình, nữ quỷ đó quả thực quá sức xấu xí mà, vậy mà Lục Tử còn khen là một mỹ nhân! Cái mặt của nó quả thực có thể đem ra làm ví dụ cho hậu quả của việc tạt a xít chứ chẳng chơi!"
Bạch Dực hơi ngẩn ra rồi nói: "Đâu có, mặt cô ta rất bình thường mà, đâu có gì kinh khủng đâu?"
Tôi nghe thế lập tức ngừng tay ngơ ngác nhìn anh ta, sau đó vừa huơ chân múa tay làm điệu bộ vừa giải thích: "Không mà, tôi nhìn thấy rõ ràng là một khuôn mặt da chảy xệ hết cả xuống, mắt mũi đều méo mó vặn vẹo kia!"
Bạch Dực cũng không cãi lại, giữa chúng tôi rơi vào một không khí trầm lặng, chúng tôi chỉ chăm chú nhìn nhau hồi lâu, cuối cùng Bạch Dực chậm rãi nói: "Tiểu An, nếu như sợ thì tuyệt đối đừng nhìn lên trần nhà."
Tôi nghe mà ù ù cạc cạc, trần nhà? Mà thói đời là càng bảo người ta đừng làm gì đó thì người ta lại càng phản xạ làm theo ngay, vì thế tôi... bất giác ngẩng đầu nhìn lên, sau đó, là sợ tới mức chỉ kịp hét lên một tiếng the thé, cả người nhất thời sụm xuống sàn. Hèn gì mà nữ quỷ biến mất nhanh như vậy, hóa ra là nó đang dán sát người trên trần nhà, dưới ánh trăng bàng bạc, má ơi, gương mặt của nó quả thực là kinh dị vượt quá mức chịu đựng của con người! Một nửa xấu đến kinh khủng, một nửa thanh tú mỹ lệ, xấu và đẹp chen lấn vặn vẹo giành giật nhau trên khuôn mặt của nó, hèn gì mà Bạch Dực lại nói là mặt nó không có gì đáng sợ.
Nữ quỷ trông giống hệt một con thằn lằn to, dán sát vào trần nhà. Ánh mắt một hồi thì ôn hòa dịu dàng, một hồi thì oán độc tàn bạo, cả hai loại cảm xúc trái ngược nhau cũng đang quay cuồng trên nét mặt nó.
Bạch Dực nín thở chờ đúng thời cơ thuận lợi, nhảy phóc một cái vượt qua mặt giường chạy tới bên cạnh tôi. Tôi vội ôm chặt lấy cánh tay anh ta lùi lại phía sau vài bước.
Nữ quỷ dường như đang dùng hết sức để khống chế chính bản thân mình, qua một hồi lâu, vẻ cổ quái trên mặt nó cũng dần dần dịu đi, tuy một bên mặt vẫn rất ghê người, nhưng ánh mắt của nó đã bình tĩnh nhu hòa trở lại, chỉ có điều là dường như nó rất sợ chúng tôi, vẫn dán sát trên trần nhà mà không dám xuống.
Nó sợ sệt e dè nhìn chúng tôi, vẻ mặt giống hệt như một thiếu nữ yếu đuối thơ ngây. Tôi lắc đầu than thầm, ta mới là người bị ngươi dọa đến suýt phát khóc đây này, vậy mà nhìn ngươi thì cứ như chính ngươi mới là nạn nhân vậy!
Miệng nó không hề cử động, nhưng âm thanh vẫn phát ra, nó nói: "Xin các vị đừng làm hại ta, ta cũng rất khổ sở."
Bạch Dực nhăn nhăn mặt nói: "Chúng ta không muốn làm gì ngươi cả, chỉ có ngươi đã dọa cậu nhóc này sợ phát khiếp lên thôi."
Nghe thế, nó liền quay bên mặt nham nhở lại phía tôi, tôi lập tức nhìn ra chỗ khác, tuy nói là không bao giờ được phép chê một cô gái là xấu xí, nhưng vị này... thật sự quá ngưỡng chịu đựng của tôi rồi.
Nó lại nhìn sang Bạch Dực, chúng tôi và nó cứ thế nhìn nhau một lúc, sau đó nó chậm rãi phát ra tiếng: "Ta không phải người, cũng không phải quỷ... ta là một vết mực mà Văn Trường tiên sinh đã để lại."
Tuy có thuyết nói rằng vạn vật đều có khả năng biến thành tinh thành mị, nhưng chẳng lẽ cả mực tàu cũng có thể sao? Tôi nghi ngờ nhìn sang Bạch Dực, anh ta bèn gật đầu xác nhận: "Đúng, thứ này không phải quỷ, mà là mị. Thực ra chỉ cần có hình người, ví dụ như được vẽ lại trong tranh chẳng hạn, qua thời gian dài tích lũy năng lượng mặt trời mặt trăng là có thể hóa thành mị. Mà phương pháp nhanh nhất để mị có thể thành tinh là hấp thu tinh khí của đàn ông, cho nên mới có câu nói là trong cõi người thì đàn ông là háo sắc nhất, mà trong cõi yêu thì mị là háo dâm nhất. Vì thế sức khỏe của bạn cậu mới mau chóng xuống dốc như vậy, nếu cậu ta không nhận ra sớm thì coi chừng mất mạng hồi nào không hay rồi."
Tôi ngơ ngác hỏi thêm: "Nhưng trong bức tranh đâu có người thứ ba nào đâu, vậy nó lấy đâu ra hình người mà hóa thành mị?"
Nữ mị giải thích: "Những nét bút trong tranh đưa qua lại họa thành một cây hoa đào, những cành cây dọc ngang vô tình họa thành một gương mặt người, đó chính là bản thể của ta. Ta chỉ dựa vào nó để có thể được giải thoát khỏi bức tranh đã giam cầm ta suốt mấy trăm năm nay."
Nó âm trầm nói tiếp: "Văn Trường tiên sinh cực kỳ yêu thích vẽ tranh, cũng thích kết giao với những văn nhân nhã sĩ nào biết thưởng thức tranh của ông ấy. Ông ấy chưa bao giờ câu nệ hay bó buộc hình thức, cho nên phong cách vẽ tranh cũng cực kỳ đặc thù. Thực ra... người thứ ba mà Văn Trường tiên sinh nâng chén mời rượu chính là người nào đang thưởng thức bức tranh đó đấy. Ta... bất quá chỉ là một mị quỷ ngẫu nhiên mà thu được chút linh khí mà thôi."
Tôi vừa nghe lập tức vỡ lẽ, cảm thán Từ Vị quả không hổ là thiên tài trăm năm chỉ có một. Bố cục tinh tế mà thông minh như thế, e là ngay cả những họa sĩ hiện đại cũng khó lòng mà nghĩ tới, huống chi là vào một thời kì mà lễ giáo phong kiến nghiêm khắc như thời của ông.
Ý nghĩa sâu sắc của bức tranh này chính là sự đồng điệu đồng hoan của tác giả bức tranh cùng với người ngắm tranh, còn nữ mị chỉ là một sự hình thành ngẫu nhiên do nét mực tạo thành. Vậy lẽ nào có thể hiểu là, tất cả những chuyện này xảy ra chỉ là bởi vì nữ mị mang lòng ghen ghét đối với những người thưởng thức tranh như chúng tôi? Cho nên mới sinh ra ý định tấn công?
Bạch Dực nhìn nữ mị: "Nhưng cho dù là như vậy đi nữa thì ngươi cũng cần gì phải biến thành cái dạng này? Chỉ cần bức tranh này còn, thì ngươi vẫn còn có thể tiếp tục sống trong tranh, không bao giờ biến mất kia mà?"
Nữ mị thấp giọng nghẹn ngào nói: "Bởi vì ta đã đợi trong rừng hoa quá lâu quá lâu rồi... Đã lâu như vậy, Văn Trường tiên sinh đã sớm không còn trên nhân thế nữa, nhưng không có một ai, ngay cả chính tiên sinh, nhận ra trong bức tranh còn có một người là ta, một người vẫn kiên nhẫn chờ đợi giữa tán hoa đào, vẫn chờ, chờ người kia quay đầu lại nhìn thấy, chờ người kia nâng chén lên mời ta, mà không phải là những kẻ sẽ nhìn vào bức tranh này... Nhưng mà..."
Tôi thở dài một hơi, không tưởng tượng nổi câu chuyện này quả thực lại giống như một câu chuyện tình Liêu Trai như thế. Lại hỏi: "Vậy sao ngươi lại đi trêu chọc Lục Tử làm gì?"
Ánh mắt nữ mị thoáng chút ngại ngùng, nó nói: "Thương tiên sinh có tài hoa, hơn nữa nếu có thể hướng dẫn hắn một chút, hắn có thể giúp ta thực sự trở thành người thứ ba trong bức tranh. Ta không muốn chỉ làm một cái bóng tạo thành vì nét mực nữa. Mà nếu thực sự không được, vậy ta sẽ hấp thu hết tinh khí của hắn, ta muốn..."
Đột nhiên gương mặt của nó vặn vẹo đi, cả cơ thể nó cũng bắt đầu run lẩy bẩy. Bạch Dực cũng cảm thấy không ổn, bởi vì anh ta dùng cơ thể của mình che chắn trước người tôi. Cả hai chúng tôi chằm chằm nhìn nữ mị đang càng lúc càng trở nên quái dị kia, ánh mắt nó thoắt cái trở nên vô cùng tàn ác, cảm giác của cả người nó cũng thay đổi hẳn. Vẻ mặt nó càng lúc càng nóng nảy, cả người cong lên, tỏa ra một làn sương đen đặc như mực lan, trần nhà màu trắng trong phút chốc bị nhuộm thành một màu đen loang lổ.
Nó đột nhiên hét lên: "Ta muốn biến thành người! Ta muốn người kia nhìn ta! Ta không phải là mực! Ta là người!!!"
Bạch Dực thì thầm với tôi: "Xem ra cô ta không khống chế được bản thân nữa rồi, nếu không còn cách nào khác thì có lẽ chúng ta phải hủy bức tranh đi thôi, cô ta cũng sẽ biến mất cùng bức tranh luôn!"
Tôi giật thót người, hủy tác phẩm của Từ Vị?! Vậy vấn đề không còn là ngồi tù hay không ngồi tù nữa đâu, mà là trực tiếp bị xử bắn đó!
Tôi run run nói: "Lão Bạch, anh nghĩ biện pháp khác để nó bình tĩnh lại không được sao, chỉ cần nó đừng kích động là được, có gì từ từ thương lượng mà! Chứ hủy tranh... nghiệp chướng lắm!"
Nữ mị bắt đầu kích động lắc đầu như điên, những nơi tóc nó quệt qua đều để lại những vết mực dài, từ người nó mực đen cũng nhỏ xuống long tong, nhuộm đen khắp cả cái giường. Cảm giác cả người nữ mị cứ như một nghiên mực to, liên tục sóng sánh tràn mực ra ngoài vậy.
Bạch Dực thở dài não nề: "Cậu nghĩ có thể giữ cô ta nổi sao? Có lẽ bây giờ chỉ có Từ Vị tái thế mới khống chế được cô ta mà thôi!"
Nói đến Từ Vị tôi đột nhiên tỉnh cả người, đúng vậy, vì sao nó không hề dám đặt chân vào gian phòng đang đặt bức tranh chứ! Bởi vì nó không muốn, hay nói đúng hơn là không dám nhìn Từ Vị! Tôi lật đật níu Bạch Dực lại thì thào: "Anh xem có thể giữ chân nó được bao lâu?"
Anh ta nghiêm túc suy nghĩ một lát rồi trả lời: "Chỉ ba phút, không lâu hơn được nữa đâu."
Tôi gật đầu: "Hay lắm, anh giúp tôi cầm chân nó ba phút, tôi sẽ có cách cho nó bình tĩnh lại!"
Nói xong tôi lập tức xoay người chạy về phía cửa phòng, Bạch Dực dường như cũng đã hiểu ra ý của tôi, anh ta lập tức xông lên trước yểm trỡ, nữ mị điên cuồng quất tóc tới, mái tóc đen dài như một sợi roi mảnh. Tôi nhìn lại phía sau, Bạch Dực đã bị đám tóc đó quấn chặt, tôi sợ tới mức chạy ù té nhanh về phía phòng làm việc, trong lòng thầm cảm thán: hóa ra anh đảm bảo với tôi ba phút là thời gian mà một người có thể nín thở trước khi chết ngạt! Đổng Tồn Thụy[2] thật nha!
Tôi hấp tấp đá bung cửa phòng làm việc, lao như chớp tới bên bức tranh, nâng cả tấm gỗ nặng muốn chết đang giữ bức tranh lên. Bởi vì trong tay là vật phẩm cấp quốc bảo nên tôi không dám chạy quá nhanh, chợt nghe Bạch Dực bên kia gào lên: "Còn lề mề cái gì đó! Mau tới không tôi bị bóp cổ chết bây giờ!!!"
Ý thức được là Bạch Dực đang gặp nguy hiểm, tôi cũng bất chấp bản vẽ trong tay có thể bị hư hại gì hay không, mạng người dù sao vẫn quan trọng hơn, huống chi, đây lại chính là mạng của Bạch Dực chứ! Tôi phóng trở về phòng ngủ, vừa kịp nhìn thấy Bạch Dực đã bị trói chặt thành một cái kén bằng tóc đen thùi. Tôi giơ cao bức tranh lên, chạy thẳng về phía nữ mị. Nữ mị đang phát cuồng, vừa nhìn thấy bức tranh thì cứ như nhìn thấy kính chiếu yêu, lập tức thét lên một tiếng chói tai, cả mái tóc kinh khủng cũng lập tức rụt hết lại.
Bạch Dực thở hổn hển lảo đảo bước sang chỗ tôi, chúng tôi vẫn xoay cho bức tranh chiếu thẳng vào nữ mị, nó dần dần trở nên an tĩnh lại, chỉ lắc đầu điên cuồng không dám nhìn thẳng vào Từ Vị trong tranh, làm đám mực nước trên người tí tách rỏ xuống sàn.
Nó bi ai khóc lóc: "Tiên sinh, u u, tiên sinh đừng nhìn ta, ta không muốn người nhìn thấy bộ dạng này của ta... Ta không muốn thành người nữa, ta bỏ cuộc..."
Tôi đột nhiên có một loại ảo giác, như thể trong tay tôi lúc này không phải là một bức tranh của Từ Vị mà là một pho tượng phật vậy. Tiếng rên rỉ của nữ mị càng lúc càng thê lương, nó ở trong bức tranh lâu đến vậy, kỳ thực đơn giản chỉ là mong tác giả của bức tranh quay lại nhìn mình một lần. Đáng tiếc hoa rơi hữu ý, nước chảy vô tình. Thê thảm như nó lúc này, thật khiến người ta không nhịn được phải cảm thấy thương tâm.
Bạch Dực nhẹ nhàng nói: "Tích niên kim nhật thử môn trung, nhân diện đào hoa tương ánh hồng, nhân diện bất tri hà xứ khứ, đào hoa y cựu tiếu đông phong. Bài thơ này, Từ Vị có bao giờ ngâm qua chưa?"
Nữ mị nghe Bạch Dực hỏi thế, đột ngột ngơ ngẩn cả người quay lại nhìn bức tranh, sau đó dường như chìm sâu vào hồi ức.
Bạch Dực nhìn nó, chậm rãi tiếp tục nói: "Ngươi thực sự cho rằng vài nét bút của Từ Vị chỉ là để vẽ hoa đào thôi sao? Với tài năng của ông ấy, không có khả năng 'lỡ tay' tạo ra ngươi. Ông ấy vẽ bề ngoài là hoa đào, nhưng thực ra là muốn vẽ ngươi ẩn trong hoa đào đó! Sao ngươi có thể nói ông ấy không để ý tới ngươi kia chứ?!"
Nữ mị vừa nghe thấy những lời ấy, lập tức như vừa nghe sét đánh ngang tai, đã mấy trăm năm rồi, chưa từng có ai nói cho nàng biết những lời này, nàng vẫn chỉ biết oán hận với người thứ ba đang đứng ngoài thưởng thức tranh, mà thật không ngờ tài hoa của tiên sinh lại tinh diệu tới mức đó, tinh diệu tới mức khiến nàng vừa ái vừa hận suốt mấy trăm năm.
Dần dần, dung mạo của nàng bắt đầu thay đổi, một nửa mặt nham nhở dần dần khôi phục lại diện mạo ban đầu, thanh lệ như hoa xuân, nàng phiêu nhiên hạ xuống từ trần nhà, hướng về phía bức tranh. Dường như đang đáp lại tiếng gọi từ phía Từ Vị, nàng nhẹ nhàng cất tiếng hát, lần đầu tiên tôi có thể bình tĩnh nghe cho đến hết khúc, là một khúc "Xuân giang hoa nguyệt dạ".
Nàng dần dần chìm hẳn vào bức tranh, ngay khi cơ thể nàng và bức tranh nhập vào nhau, tôi đột nhiên nhìn thấy Từ Vị đưa tay ra đỡ lấy bàn tay nữ mị. Tôi lập tức run tay, nhưng may mà vẫn còn nhờ đây là bức tranh có giá trị tới mức nào, nếu nó thực sự rớt xuống đất thì có lấy mạng ra cũng đền không nổi.
Rốt cuộc mọi thứ cũng trở về yên tĩnh, chúng tôi cùng đi vào phòng làm việc nhẹ nhàng đặt bức tranh lại trên bàn, chỉ sợ có gì sơ suất. Sau đó, tôi ngồi phịch xuống ghế, uống cạn chén trà để qua đêm lạnh ngắt, quay sang Bạch Dực hỏi: "Có thật là Từ Vị đã cố tình vẽ nàng ta không?"
Bạch Dực liếc nhìn sang tôi lạnh lùng đáp: "Cậu nghĩ tôi là Từ Vị chắc? Sao tôi biết được, nhưng mà lời nói dối thiện ý đó đã cứu mạng hai chúng ta đấy. Bằng không cứ để cô ta lang thang bên ngoài thêm ít lâu nữa, hấp thu thêm một ít tinh khí là có thể hoàn toàn thoát khỏi bức tranh hóa thành tinh rồi!"
Tôi nhất thời tự nhiên cảm thấy thương cảm cho nữ mị kia, chỉ vì một bài thơ cổ cùng với mấy lời giải thích lừa tình của Bạch Dực mà lại quay trở về với bức tranh nơi đã giam giữ mình suốt mấy trăm năm nay. Nhưng nghĩ kỹ lại thì cuối cùng rõ ràng Từ Vị đã đưa tay ra với nàng, cho nên có lẽ giả thiết trên cũng thực sự có lý.
Mà dù sao đi nữa thì nhân diện hay đào hoa cũng chỉ chờ đợi những tài tử tài hoa lại hữu tình như Từ Vị mà thôi, những kẻ phàm phu tục tử như chúng tôi làm sao mà hiểu được. Nghĩ tới đây, lại đột nhiên cảm thấy bài thơ Đường kia như có thêm một tầng nghĩa nữa, nhân diện đúng là không biết đã đi đâu mất, nhưng chẳng phải hoa đào năm ấy vẫn tiếp tục nở rộ chờ đợi Thôi Hộ trở lại hay sao? Mà biết đâu, giữa tán hoa đào cười trước gió xuân đó lại chẳng có một yêu mị cũng si tình biết mấy?
Sáng sớm ngày hôm sau, Lục Tử đến rất sớm, lúc vào nhà còn lấm la lấm lét như sợ cả hai chúng tôi đều bị quỷ vật chết rồi vậy. Vừa thấy hai chúng tôi còn sống, hắn lập tức thở phào nhẹ nhõm. Nhưng khi vừa vào phòng ngủ, sắc mặt hắn lại lập tức hóa thành xấu hổ, sau đó quay lại quan sát chúng tôi một cách quái dị một lúc, trầm mặc cả nửa ngày mới bật ra một câu: "Tiểu An, sao giường ngủ đầy chất dịch gì đó màu trắng như thế...?"
Chúng tôi cả đêm không bật đèn, hơn nữa cái giường vốn đã bị nữ mị rảy mực ướt hết, cũng không còn chỗ ngủ, cho nên cả đêm đều ngồi trong phòng làm việc, cho tới khi Lục Tử tới. Vì thế khi nhìn đám mực đen đêm qua tự nhiên biến thành màu trắng thì cũng cực kỳ ngạc nhiên. Ánh mắt Lục Tử chợt chuyển sang hộp bao cao su bị bóp nát vứt trong góc nhà, đột nhiên kinh hoàng quay phắt lại nhìn chúng tôi, chằm chằm nhìn một cách đánh giá, như thể mới vừa quen tôi ngày đầu vậy.
Tôi bị hắn nhìn tới mức nổi da gà, liền hỏi: "Lục Tử, xảy ra chuyện gì? Có vấn đề gì sao?"
Dường như đột nhiên ý thức được cái gì, hắn lập tức giật nảy người phản ứng lại: "Không có gì, không có gì. Ha ha, cùng lắm thì để tớ thay bộ drap mới là xong ấy mà, hèn chi cậu hỏi kỹ là chăn nệm có sạch sẽ hay không kỹ như vậy, ai mà biết... Tiểu An cứ yên tâm, tớ không có kỳ thị gì đâu, thời này chuyện đó cũng phổ biến lắm mà..."
Tôi nghe hắn nói mà cứ như lạc trong sương mù, nghĩ thầm, tên khùng này đang lảm nhảm gì vậy? Bèn quay lại Bạch Dực, chỉ thấy trong mắt anh ta cũng đột nhiên toát ra một thứ cảm xúc gì đó rất quái dị, tôi hỏi thành tiếng: "Anh có biết tên khùng này đang nói cái gì không?"
Bạch Dực nhẹ nhàng vỗ vỗ vai tôi: "Không có gì, được rồi, người cậu còn... đau không?"
Nghe anh ta hỏi mới nhớ ra, đánh nhau với nữ mị lâu như vậy, trên người toàn là vết thâm tím, tôi liền gật gật đầu: "Đau chứ, đêm qua kịch liệt như vậy, cả người tôi lúc này toàn là vết bầm không!"
Lục Tử lập tức lắp bắp hỏi: "Tiểu... Tiểu An, hóa ra, hóa ra cậu là cái người, người, người ở dưới... sao?"
Tôi liếc nhìn hắn, đang định mở miệng hỏi mới sáng sớm ra đã nói nhảm cái gì vậy, nhưng Bạch Dực đã nhanh miệng xen vào trước: "Ừ, đêm qua không đơn giản, kịch liệt cực kỳ. Cậu cũng đừng hỏi nữa, có nói cậu cũng không hiểu đâu, chỉ có hai chúng tôi hiểu rõ mà thôi. Còn bức tranh, tôi đảm bảo từ nay không còn vấn đề gì nữa, cậu cứ yên tâm mà phục chế."
Tôi cũng gật đầu: "Ừ, Lục Tử cậu cứ yên tâm đi, nhưng mà chuyện tối qua..."
Lục Tử lập tức gật đầu lia lịa: "Yên tâm yên tâm, chuyện của hai người tớ sẽ không hé răng với ai đâu, tớ vẫn còn biết điều lắm mà! Chỉ là thật không ngờ..."
Lục Tử quả nhiên là người thông minh lại hiểu chuyện, loại chuyện này có nói ra cũng không có ai tin, ai lại nghĩ rằng mực trong tranh có thể hóa thành mị kia chứ? Dù sao thì chuyện cũng đã kết thúc rồi còn gì, coi như giúp được ông bạn cũ một ơn huệ to. Trong lòng thoải mái, tôi cũng toét miệng cười: "Vậy là tốt rồi, vậy tụi này không làm phiền nữa, nói thật, cả đêm tớ không được ngủ..."
Lục Tử tự nhiên nhìn tôi một cách thật thương cảm: "Cậu thật không dễ dàng nhỉ..."
Bạch Dực vỗ vỗ lưng tôi, ý bảo đã đến lúc về, không nên quấy rầy công việc của Lục Tử nữa, dù sao hắn cũng đã rất trễ so với kế hoạch rồi, chỉ có nước làm ngày làm đêm mới mong hoàn thành bức vẽ đúng hạn mà thôi.
Bạch Dực cũng dùng uy tín của mình mà cam đoan nữ mị sẽ không quay trở lại nữa. Thấy Lục Tử gần như rạp sát đất cảm ơn rối rít, anh ta cũng không hề khách khí mà nhân dịp nã của hắn mấy cuốn sách cổ có giá trị. Lục Tử tiếc nuối đưa sách cho chúng tôi, mặt nửa cười nửa mếu mà rằng: "Sách này cũng là đồ cổ đó, bản này lại là bản duy nhất, anh phải giữ gìn cẩn thận đó nha, một đống tiền của người ta đó..."
Bạch Dực nhanh chóng nhận sách, gật đầu rồi kéo tay tôi ra cửa, tại cửa, Lục Tử tiễn chúng tôi bằng cặp mắt lo lắng, còn nói riêng với tôi: "Tiểu An, nếu thực sự đau quá thì nhớ bôi thuốc mỡ, đừng có cố chịu..."
Tôi vỗ vỗ vai hắn: "Tớ đâu có yếu ớt tới vậy đâu, nói cho cậu biết, chuyện này tớ quen rồi, chẳng sợ nữa đâu. Không có việc gì hết, gặp lại sau."
Bạch Dực nghe đoạn đối thoại của chúng tôi, chẳng biết vì sao mà đột nhiên phì cười, anh ta cố nhịn mà nói: "Vậy, ha ha, chúng tôi cáo từ. Mong cậu sớm thành công với bức tranh."
Lục Tử ngơ ngác đứng ở cửa, máy móc vẫy vẫy tay, nét mặt chỉ có một từ: kinh hoàng.
...
Mọi chuyện như thế là kết thúc. Lục Tử phục chế bức tranh rất thành công, ông chú nhà hắn bán bức tranh cho một thương nhân Hoa kiều, mức giá cao tới nỗi nghe nói ông chú hắn cười tươi tới mức trẻ ra thêm mấy tuổi.
Nhưng thương nhân kia cũng là một người có lòng, mua được tranh rồi lập tức tặng cho viện bảo tàng, nói là muốn cống hiến cho nền văn hóa cổ, coi như tấm lòng của một đứa con Hoa Hạ. Trên TV quảng cáo về bức tranh này suốt một thời gian dài, nào là tác phẩm thất truyền của Từ Vị, nào là bố cục tinh tế, phóng túng vượt xa tư tưởng hiện đại. Bởi vì là người phục chế nên cũng có một thời gian Lục Tử rất nổi tiếng trên truyền hình.
Nhìn hắn cười toe toét tự hào như thế xem ra nữ mị cũng khôn còn quay lại tìm hắn nữa. Tôi và Bạch Dực vẫn sống một cuộc sống bình lặng như cũ, ngoại trừ việc nhờ tôi thuyết phục mà anh ta bắt đầu chính thức giữ chân nấu ăn trong nhà thì không còn thay đổi nào nữa. Bất quá bữa ăn dạo này ngon hơn rất nhiều.
Có một ngày tôi nhận được điện thoại của Lục Tử, mời chúng tôi tới tham quan bức tranh, nói để đánh giá xem hắn phục chế tranh thế nào, đồng thời cũng muốn nói lời cảm ơn. Tôi quay lại hỏi Bạch Dực, anh ta cũng gật đầu: Ừ thì đi.
Thế là chúng tôi hai người đến viện bảo tàng, ông bảo vệ vẫn còn nhận ra chúng tôi, chính là người chứng kiến chúng tôi suýt đánh nhau lần trước. Chúng tôi nhìn một vòng, sau đó chuyên chú đi tìm Lục Tử.
Lục Tử mặc một thân áo tàu, trông như Thành Long vậy, thấy chúng tôi, hắn vội vàng xun xoe chạy tới đón, mang chúng tôi tới khu triển lãm tranh, vừa đi vừa tự hào khoe khoang, nào là bức tranh được hắn phục chế sinh động rực rỡ ra sao, nào là ngay cả các lão chuyên gia cũng phải gật gù khen ngợi thế nào... còn khen là tay nghề có thể sánh ngang cùng Từ Vị vân vân.
Tôi âm thầm khinh bỉ hắn nói quá lời, nhưng lúc đi tới trước bức tranh, mới nhận ra tên khốn này quả thực có cơ sở để mà tự mãn. Nếu không được nhìn thấy nguyên bản bức tranh trước kia có thể không biết, nhưng sau khi đã cầm trong tay tờ giấy rách nát kia rồi bây giờ nhìn lại bức tranh hoàn chỉnh trước mặt, mới thấy nó quả thực rực rỡ, phần được sửa chữa vẽ lại hoàn toàn hòa thành một thể với phần nguyên bản. Có thể thấy tay nghề của Lục Tử quả thực rất cao.
Người tham quan rất nhiều, Lục Tử nhanh chóng bị giới truyền thông kéo sang một bên, bỏ lại tôi và Bạch Dực vừa ngắm tranh vừa tấm tắc khen ngợi. Đột nhiên bên cạnh chúng tôi có một cậu bé đứng nhìn tranh, sau đó chỉ vào giữa tán hoa đào: "Ba, ba coi kìa, có phải ở đây có một tiên nữ rất xinh đẹp không!"
Cậu bé có lẽ được cha mẹ mang đi xem triển lãm tranh để tài bồi tâm hồn nghệ thuật, cậu hồn nhiên nhìn bức tranh, trong tranh, giữa rừng hoa đào um tùm nở rực, có vài nét bút phác họa thành dung mạo một thiếu nữ mỹ lệ nhu hòa, hoa đào lộng lẫy xung quanh tựa như trang sức trên tóc nàng. Từ Vị đang ôn nhu mời thiếu nữ uống rượu, hai người nhìn nhau, nhân diện hoa đào, như từ muôn năm trước, vẫn hoàn động nhân mỹ lệ.
Tiệc vườn đào dưới trăng - Hoàn
[1] Một truyện ngắn kinh dị của Stephen King, kể về một căn phòng bị ma ám trong khách sạn, được Mikael Håfström chuyển thể thành phim điện ảnh năm 1997, được biết đến ở Việt Nam dưới cái tên "Căn phòng bí ẩn"
[2] Anh hùng dùng thân mình lấp lô cốt của Trung Quốc =.= Ý bạn An là bạn Bạch thiệt là cảm tử quân ~
|
Chương 25: Thủ hồ (Nhất) Trò chơi là một thứ không cần phải dốc nhiều tâm huyết cho lắm, có thể đắm mình trong một thế giới tưởng tượng mà cảm nghiệm một chút hưng phấn của cuộc sống tiếu ngạo giang hồ. Mặc dù trong trò chơi chúng tôi có thể là một nhóm anh hùng hào kiệt võ công cao cường ngày đêm rong ruồi sa trường hành hiệp trượng nghĩa, nhưng ngoài đời bất quá cũng chỉ là một đám nghiện game đến mắt mũi lờ đờ ở trong phó bản mà đánh trang bị cùng kinh nghiệm mà thôi.
Tôi có tổ chức một nhóm nhỏ chuyên đánh phó bản, là đoàn ong thợ chuyên gom trang bị cho cả công hội, suốt ngày vì công hội - cũng tức là ong chúa - mà liều mạng lăn qua lăn lại các phó bản. Mà Lục Tử dạo này tự nhiên thân thiết hơn với chúng tôi, cũng bắt đầu tham gia vào công hội. Hơn nữa, khác với tầng lớp cùng đinh chúng tôi toàn là phải vất vả luyện account từ đầu, hắn rất thoải mái bỏ tiền ra mua một account trên mạng, thậm chí không hề biết một khái niệm nào để chơi game mà đã hùng hổ đi kiếm những người có đẳng cấp cao để gây sự lên mặt anh hùng, làm hại tôi lúc nào cũng phải ra mặt xin lỗi giùm, xấu hổ không biết để đâu cho hết. Thực sự tôi không có khả năng suốt ngày đi theo kèm hắn, cho nên nhân lúc đoàn ong thợ thiếu một chân, tôi bèn lôi ngay hắn vào trám chỗ trống.
Nhưng đó có thể coi là sai lầm lớn nhất của tôi cũng không chừng, khiến một bữa nọ tôi phát điên tới mức suýt chút nữa là giang tay đập nát cái máy vi tính của Bạch Dực. Tên Lục Tử khốn kiếp này đã đần tới một cảnh giới mà tôi không sao hiểu nổi, tên khùng đó, ai đời vất vả lắm mới đánh xong một con boss cỡ bự mà cứ đứng trơ ra đó nhìn, để một thanh bảo kiếm cấp anh hùng cứ thế biến mất trước mắt mọi người. Mặc kệ chúng tôi hò la gào thét thúc giục, hắn vẫn cứ giữ nguyên tư thế đánh boss mà không chịu nhặt đồ. Tôi bất lực hét to một tiếng trước cái máy vi tính, làm Bạch Dực giật nảy người phải chạy tới hỏi tôi có làm sao không.
Tôi ôm đầu, nhìn trừng trừng vũ khí cực phẩm kia vẫn ở lại phó bản, còn cả đội đều bị tống ra ngoài, sau đó không chờ nói chuyện với Lục Tử qua cửa sổ chat nữa mà trực tiếp lao tới điện thoại, điên cuồng bấm số, rồi điên cuồng gào thét: "Mẹ kiếp! Tên khốn nhà ngươi muốn đùa với bọn ông chắc?! Vũ khí cực phẩm tới mức đó có khi mấy tháng nữa cũng đừng hòng mà đào ra được... Sau này đừng hòng ông đây cho ngươi đi phó bản chung nữa!!!"
Lục Tử im thin thít bên kia đầu dây điện thoại hồi lâu, cuối cùng phun một câu: "Thì ai biết đâu, cứ tưởng đánh boss xong là xong luôn chứ, có ai bảo tớ đánh xong phải chờ lượm đồ đâu. Tại lúc đó tớ mắc quá, phải chạy vào toa lét gấp..."
Mắt tôi trợn to tới mức muốn lồi hẳn ra ngoài, một vũ khí cấp anh hùng đó nha, đó là thứ mà bao nhiêu người chơi đều mơ mà không có được đó nha...! Lúc này tự nhiên tôi cảm thấy cảm thông sâu sắc cho những người trong hiện thực vì một món vũ khí bí mật nào đó mà đánh nhau loạn xà ngầu. Vì lúc này tôi cũng đang điên tiết lên đây, chỉ còn thiếu điều thổ huyết nữa mà thôi.
Bạch Dực lắc đầu nhìn tôi, lạnh lùng nói: "Cấm thổ huyết ra tường, bằng không tự mà đi quét sơn lại!"
Tôi quay lại trừng mắt với anh ta, bên kia điện thoại Lục Tử líu ríu nói: "Ôi dà, cần gì phải điên lên như thế, chỉ là mấy thứ không có thật thôi chứ gì! Ở đâu có bán, tớ mua trả lại là xong, ha!"
Tôi cắn răng rít vào điện thoại: "Mua! Làm quái gì có chỗ nào bán mà mua, hả!"
Bên kia đầu dây im lặng một chốc, cuối cùng nói tiếp như chột dạ: "Hay vầy đi, tớ có hai phiếu nghỉ dưỡng ở khu du lịch hồ Thủ Nguyệt, bao ăn bao ở, còn câu cá miễn phí, ăn hải sản miễn phí, hơn nữa xung quanh hồ còn rất nhiều di tích lịch sử đặc sắc, nghe nói vẫn còn con hào bảo vệ thành từ thời Xuân Thu Chiến Quốc cơ đấy. Tớ tặng cho cậu với anh Bạch Dực, coi như xin lỗi vụ này, OK?"
Tôi lúc này đang bốc hỏa, đâu có nghe vào chữ nào, thầm nghĩ chỉ bằng hai cái vé mà đòi bỏ qua? Cho nên quát vào điện thoại: "Tên khốn kia, ngươi cho là đây là chuyện cá nhân chắc? Có biết làm việc tập thể là cái gì không? Có biết vì thanh kiếm này mà bao nhiêu người chết trong phó bản, chỉ mỏi mắt trông chờ chúng ta đoạt được nó hay không?! Chỉ bằng hai cái vé đi hồ Thủ Nguyệt mà coi như là xong sao hả?!"
Nhưng khi tôi chuẩn bị ngắt điện thoại thì Bạch Dực đã nhẹ nhàng tiếp lấy ống nghe, nói nhỏ với Lục Tử cái gì đó. Tôi bực tức ngồi phịch xuống ghế, vừa nhìn thấy tin là công hội khác đã đoạt được thanh kiếm kia thì lập tức tắt màn hình.
Sau đó quay lại hỏi Bạch Dực: "Tên ngốc kia nói gì với anh đó?"
Bạch Dực bình thản đáp: "Tôi nói với hắn là hai cái vé chúng ta nhận, hai ngày cuối tuần sẽ đến đó chơi."
Vừa nghe thế, tôi đã nổi trận lôi đình với Bạch Dực: "Ai cho anh nhận! Anh đi thì đi, tôi thèm vào! Chỉ cần nhìn thấy thằng ngốc đó là lại cảm thấy tức cho thanh kiếm rồi..."
Bạch Dực mặc kệ tôi tự khóc tự rống một hồi, cuối cùng mới nhàn nhạt cắt ngang chỉ bằng một câu: "Chỉ vì một thanh kiếm giả mà khóc lóc lăn lộn, có điên không? Chẳng thà tới chỗ đó câu cá, tuần sau có cá ăn dần còn thực tế hơn!"
Tôi day day trán, nghe tới đồ ăn thì cơn tức cũng xẹp đi quá nửa, liền hỏi anh ta: "Vậy anh biết câu cá không?"
Anh ta khẽ nhếch miệng cười: "Chút chút."
Ha, chỉ mới xem phim thôi chứ gì, vậy mà đã khoe khoang với tôi rồi, để tôi chống mắt lên xem "chút chút" của anh là thế nào!
Thứ bảy hôm ấy, khí trời tươi tắn khác thường, bầu trời trong xanh cao vời vợi chỉ gợn vài đám mây nhỏ. Hồ Thủ Nguyệt rất lớn, mặt nước trong suốt, nhìn ra xa có thể trông thấy từng cánh chim chao nhanh trên mặt nước bắt cá. Đây là một hồ nước ngọt, cho nên cá tôm rất dồi dào lại to ngon, có thể coi là một chốn đất lành "hồ rộng tám trăm dặm, tôm cá bắt không hết".
Ở đây đời đời đều sống dựa vào hồ, nuôi cá nuôi tôm vẫn là nghề chính của cư dân nơi đây, làm du lịch chỉ là một ngành phụ mà thôi. Tôi không biết hóa ra Bạch Dực lại thích câu cá như vậy, hay nói đúng hơn, hình như mọi sở thích của anh ta đều có hơi bất thường. Bất quá nếu anh ta cam đoan có thể câu đủ cá ăn cho cả tuần sau thì tôi cũng mở to mắt mà trông chờ, nếu không được thì càng có cơ hội chọc anh ta một phen chứ gì!
Thật không ngờ tên khốn Lục Tử cũng dám vác mặt tới, vừa nhìn thấy hắn thì mắt tôi đã trợn lên tức giận, đối với tôi, hắn coi như đã trở thành tội nhân thiên cổ từ lâu, thấy hắn cười cầu tài chạy tới, tôi chỉ hận không thể lấy cần câu đâm cho hắn mấy nhát. Nhưng mà vé là vé của hắn, tiền là hắn bỏ ra, tôi cũng chỉ có thể nhịn. Vì thế đành xách cần câu quảy giỏ theo sau Bạch Dực, không thèm nhìn tới hắn nữa, dù sao thì bữa trưa nay cũng là hắn mời.
Thật ra câu cá là một loại hình giải trí rất thích hợp để rèn luyện tính kiên nhẫn, cực kỳ phù hợp cho những người cả ngày chỉ thích ngồi một chỗ trầm tư không cần nhúc nhích. Truyền thuyết kể rằng Ngũ Tử Tư đời Xuân Thu đặc biệt thích câu cá, từ câu cá mà lĩnh ngộ ra không ít mưu lược binh pháp. Nhưng ngoài ra thì ngày xưa, câu cá vẫn chỉ được coi như là một nghề như bao nghề khác, trông chờ vào sự độ lượng của ông trời để kiếm tiền độ nhật.
Đó chính là những suy nghĩ của tôi khi mặt trời dần dần đứng bóng, tôi buồn chán ngồi nhấp nhổm trên cái ghế tựa nông choẹt chỉ ngồi được nửa cái mông, nhấp nhấp cần câu, ánh mắt dần đờ đẫn cả ra. Về sau thì cả cái cần câu cũng lặng đi không nhúc nhích được nữa. Ngồi đồng suốt cả một buổi sáng mà tôi chỉ câu được vài con cá nhép đáng nhét kẽ răng cho mèo, không có lấy một con nào xứng đáng được coi là "có thu hoạch".
Tôi chống cằm, khẽ lắc lắc cái cổ mỏi nhừ, vô tình liếc sang xô đựng cá của Bạch Dực ngồi cạnh bên, lập tức hiểu ngay tại sao trong xô của mình chỉ có mấy con cá mini như vậy, là vì bao nhiêu cá to đều chui hết vào xô của anh ta rồi, trời ạ! Tôi hừ một tiếng đảo mắt nhìn anh ta một cái, anh ta liếc sang cái xô của tôi, khóe miệng nhếch lên một chút, không nhầm vào đâu được, là một nụ cười khẩy tự kiêu tự đại.
Tôi nhất thời mất hoàn toàn hứng thú ngồi câu cá, vì cho dù có ngồi thêm nửa ngày nữa chắc cũng chỉ được mấy con cá cho mèo ăn là cùng, chẳng lẽ phải làm giống như tên ngốc giàu có Lục Tử, ra chợ mua vài con cá thật to về nhét vào xô để cứu vớt thể diện?
Mà nhắc tới Lục Tử mới nói, tên khốn này căn bản không tới đây để câu cá mà là để câu gái! Chỉ trong vòng nửa tiếng đồng hồ ngắn ngủi mà đã làm quen ngay được với một cô em bốc lửa ngồi bên bờ sông trò chuyện, cần câu gác thẳng lên ghế, trong xô nước trong leo lẻo, cả một con cá con cho mèo ăn như tôi cũng không có. Dù sao vé câu cá lần này là hắn mua, tôi cũng không cần tiếc tiền, không muốn câu cá thì thôi, đi dạo quanh hồ một chút. Lúc này đang là tiết Vũ Thủy, tuy cây cối vẫn còn chưa nảy mầm hết, nhưng một số loại cây cũng đã bắt đầu đâm những chồi non mịn màng đầu tiên, trong không khí tản mát một mùi hương tươi mát của buổi đầu xuân. Lạnh thì vẫn còn lạnh, nhưng lại khiến người ta cảm thấy nhẹ nhàng khoan khoái, như vừa hít đầy buồng phổi hương bạc hà mát lạnh vậy.
Bạch Dực thấy tôi đứng lên, liền cười hỏi: "Không câu nữa à?"
Tôi lắc lắc hai chân tê cứng, xua xua tay với anh ta: "Cá to cá nhỏ đã chui hết vào xô của anh rồi, tôi còn câu cái gì? Anh cứ tiếp tục câu, tôi đi dạo một lúc."
Bạch Dực gật đầu, lại chuyên chú ôm cần câu, vừa lúc tôi nói dứt lời thì anh ta lại giật lên một con cá bông lau to nữa. Nhìn thấy thế, những tay câu cá lão luyện ngồi bên cạnh cũng giật mình, đứng bật dậy bưng xô của mình đi chỗ khác. Tôi âm u nhìn anh ta, lòng thầm nghĩ: lẽ nào là thần câu cá tái thế?
Khi tôi lấy lại tinh thần chuẩn bị đi, Bạch Dực chợt lên tiếng: "Lúc đi dạo nhớ đừng tới quá gần hồ. Ở đây... hình như không sạch sẽ lắm."
Tôi quay lại ngờ vực nhìn anh ta, rồi lại nhìn ra mặt hồ phẳng lặng xa xa, hệ sinh thái ở đây rất tốt, cảnh sắc tứ bề liễu rủ hoa mọc, bốn phía là nhà cửa của nông dân, khói bếp lượn lờ, mặt nước phản chiếu ánh sáng lung linh, khoe màu xanh trong suốt. Gió nhẹ khẽ thổi, mặt nước khẽ gợn. Một quang cảnh tràn đầy tình thơ ý họa như vậy mà anh ta bảo là không sạch sẽ?
Thế nhưng ở chung với nhau bao nhiêu lâu như vậy, tôi bắt đầu biết chú ý tới những điều Bạch Dực căn dặn, vì tuy những gì anh ta nói không bao giờ mang bằng chứng khoa học mà toàn là những chuyện quái dị ma quỷ không, nhưng những loại chuyện này xuất hiện ở chỗ chúng tôi cũng chẳng phải mới ngày một ngày hai. Vì thế tôi cũng bất giác mà lâm vào suy tư, tâm cũng trầm xuống lo lắng.
Bước trở về bên cạnh anh ta, tôi ngồi xuống hỏi: "Lão Bạch, anh nghĩ chỗ này có thứ gì đó... không bình thường sao?"
Cơ thể anh ta vẫn duy trì một tư thế câu rất thả lỏng, đôi mắt chăm chú quan sát cần câu, chỉ có cái miệng khẽ động: "Đúng vậy, nhưng chỉ cảm thấy một loại oán khí u uất không thể giải thích thôi. Tuy nó rất nhạt, nhưng mà... tôi cũng không biết nữa..."
Tôi lắc đầu đứng dậy, nếu Bạch Dực không cảm thấy rõ ràng, thì có lẽ lần này là thần hồn nát thần tính rồi. Phỏng chừng là do lão Phan hói dạo này bắt anh ta phải chủ nhiệm một lớp, cho nên làm anh ta phiền muộn một thời gian dài, tâm tình cũng không được tốt lắm, nhìn cái gì cũng thấy oán khí...
Anh ta quay lại nhìn vẻ mặt nghi ngờ của tôi, cười cười: "Cứ đi dạo đi, lúc này là ban ngày chắc cũng không có gì lạ lùng đâu. Tôi câu thêm một lát, tuần sau có thêm đồ ăn."
Nghe anh ta nói thế, tôi cũng cảm thấy nhẹ nhõm hơn, vẫy vẫy tay tiến về phía bờ hồ phía tây.
Hai tay đút túi áo, tôi đi dạo lăng quăng dọc theo bờ hồ thoai thoải, chợt nhận ra từ lúc vào đại học dường như chưa hề có thời gian dạo mát thư thái thế này. Ban đầu tôi còn tưởng khu này giống như những khu du lịch sinh thái khác, nhưng tới rồi mới biết, làng này vẫn là một làng làm nông chính hiệu. Nghề chính của dân trong làng vẫn là đánh cá nuôi tôm. Nhưng chỉ vì dạo này mô hình "làng du lịch" đang thịnh vượng, nên cán bộ trong thôn cũng hô hào vận động mọi người biến làng thành khu du lịch, chứ thực ra, gần như toàn bộ làng vẫn giữ nguyên những nét vốn có của nó, thậm chí còn có nhà cuốc vài khoảnh ruộng nhỏ, trồng rau củ quả nữa. Có thể nói, ngoại trừ dịch vụ cho câu cá và ít nhà trọ quán ăn ra thì còn lại đều không có gì thay đổi. Đương nhiên, loại khu du lịch nguyên sơ này giá tiền cũng dễ chịu hơn rất nhiều so với những khu du lịch chuyên nghiệp khác.
Tuy nói là nói vậy, nhưng đi bộ giữa một vùng không gian quê kiểng thân thuộc, cộng với tiết trời mát mẻ thanh tân buổi đầu xuân, cho nên ngược lại khiến người ta cảm nhận được cảm giác vui vẻ nhẹ nhàng của cái thuở "tháng hai nước hồ xanh, mọi nhà chim xuân hót" xa xưa. Tôi hít sâu đầy lồng ngực, ngẩng đầu nhìn những cành liễu xanh rủ xuống sát mặt nước hồ, chim én có lẽ cũng sắp về, nhắc đến chim én, lại nhớ tới bác Tôn trong căn biệt thự cổ kia, không biết mùa xuân năm nay, hương hồn của ông ấy và tiểu thiếu gia nhà ông ấy có thể nhìn thấy chim én hay không?
Tôi chậm rãi đi hết con đường ngoạn cảnh, thấy phía trước còn một con đường trải dài típ tắp hướng vào rừng, nhưng lại bị mấy bức tường bằng nhựa ngăn lại. Tôi nheo mắt nhìn sang, xuyên qua tầng tầng cây rợp bóng phía trước dường như nhìn thấy một loại bia đá nào đó, màu đá xám trắng loang lổ ẩn dưới tàng cây xanh mướt trông có vẻ cực kỳ huyền bí, nếu không phải thị lực tôi vốn hơn người thì đã không trông thấy rồi. Đột nhiên nhớ tới lời Lục Tử nói ở làng này có nhiều di tích lịch sử lâu đời, vì thế tôi bèn ôm lòng hiếu kỳ, quyết định phá rào, vượt qua bức tường chắn mà bước sâu vào trong rừng.
Tôi cúi lom khom người cố vượt qua những bụi cây um tùm dày đặc để tiến đến bên cạnh tấm bia, phát hiện nó đã sứt mẻ gần hết, trên mặt bia có thể thấy mơ hồ vết khắc, còn lại đều mờ mịt, kể cả con thần thú khắc trên đỉnh bia cũng trông không ra là con gì. Tôi dùng tay xoa xoa mặt bia, một vài hàng chữ khắc hằn vào đá hiện ra, nhưng hình như là văn tự cổ, tôi nhìn không hiểu, hơn nữa chỉ có vài hàng ngắn ngủi, xem chừng cũng không phải là người nào quan trọng. Trải qua bao nhiêu năm tháng như vậy, có lẽ cả dòng họ của người này cũng đã quên mất sự tồn tại của tấm bia rồi. Cũng cảm thấy có chút bi thương, nhưng quả thực, không phải mộ của hào kiệt anh hùng, thì không hoa dâng cũng chẳng rượu cúng. Tôi dạo qua phía sau tấm bia, bất chợt phát hiện trên mặt bia có rất nhiều vết cào của dã thú, dường như là động vật linh trưởng, vết tích rất sâu, giống như có rất nhiều loài thú hoang cùng tới đây cào móng vậy. Trừng trừng nhìn những vết cào hồi lâu, tôi bắt đầu cảm thấy lo lắng: chẳng lẽ ở đây có dã thú thường lui tới? Vậy mà còn dám hình thành khu du lịch? Không sợ khách du lịch gặp tai nạn chết người sao?
Ngay khi tôi đang cảm thấy lo lắng cho vấn đề an toàn ở khu du lịch này, đột nhiên từ phía sau lưng truyền tới những tiếng khóc than đau khổ bi ai, dường như là từ bờ sông cách đó không xa. Tôi cau mày, thầm nghĩ chẳng lẽ vừa nhắc Tào Tháo Tào Tháo tới liền sao, thực sự có người rơi xuống sông?! Vì vậy cũng nhanh chân bước vội ra phía bờ sông đàng trước xem thử. Tôi đưa tay gạt cành cây chắn lối, bước tới một chỗ bờ nước cạn, nhìn thấy rất nhiều dân làng đang vây thành một vòng tròn chật cứng, có vài người đang đỡ một thiếu phụ trung niện đang khóc lóc kêu gào tới mức muốn lả đi, tiếng khóc la rợn người lúc nãy là từ bà ta. Tôi hiếu kỳ xen vào đoàn người, dường như bọn họ đang cực kỳ hoảng loạn nên thậm chí không hề nhận ra là tôi là người lạ, không có ai tới ngăn cản tôi cả.
Tôi cúi xuống thoáng nhìn, sau đó lập tức giật nảy người kinh hoàng, hóa ra là một xác người chết đuối, mà không ngờ chỉ là một đứa bé con. Không biết lúc còn sống đứa bé này trông thế nào, nhưng lúc này cái đầu của nó đã trương phồng lên bằng hai đầu người bình thường, da đã chuyển thành màu tím đen, mắt mũi đều biến dạng không còn trông ra hình người nữa, dường như khi chết nó rất sợ hãi hay rất kinh hoàng về cái gì đó; vẻ mặt của nó cực kỳ dữ tợn, giống như đang cố hết sức mà hít lấy không khí. Hai bàn tay nắm chặt như thể đang muốn giữ lấy vật gì đó, tay chân đều cong lại cứng ngắc. Thân thể của nó cũng phồng to ra, y phục tả tơi lại gần như bị thân thể trướng lên xé rách hết. Có lẽ đã chết được một thời gian khá lâu rồi, toàn bộ thi thể như một miếng bọt biển hút nước căng phồng, tỏa ra một mùi tanh lờm lợm.
Dù sao tôi cũng không phải pháp y, đang đi dạo lại tự nhiên gặp phải một thi thể đáng sợ như vậy, đương nhiên không kịp chuẩn bị tâm lý, dạ dày lập tức cuộn lên, tôi hấp tấp bịt chặt miệng, luống cuống lui lại phía sau vài bước, trong lòng tuy không phải không cảm thấy thương tiếc cho đứa bé bị tai nạn, nhưng cũng không khỏi cảm thấy có hơi... xui xẻo, vì sao lại gặp phải loại chuyện này vào cuối tuần. Khi tôi đang gấp gáp lui bước, chân chợt đạp lên một cái gì đó cồm cộm khiến cả người thoáng chốc lảo đảo. Tôi vội vàng bám lấy cây cối xung quanh, cúi đầu nhặt một thứ từ dưới đất lên, nó là một thứ trông có vẻ rất cổ quái, dường như là một thứ đồ bằng đá có hình chữ nhật hơi cong lên quanh mép, trông có vẻ xưa cũ lắm rồi, bên trên nhìn kỹ còn có một ít hoa văn hình mây cuộn, có vẻ là một loại đồ cổ nào đó. Nhưng một thứ thế này vì sao lại rơi bên hồ? Có quan hệ gì với đứa bé đã chết hay không? Tôi lật qua lật lại nó trên tay, dùng ngón chà chà mặt trên, có thể trông thấy trên mặt khối chữ nhật có hai chữ triện nho nhỏ. Tôi không phải chuyên gia về lãnh vực này, nên quyết định mang về cho Bạch Dực và Lục Tử xem thử. Một người là giáo viên lịch sử, một người là dân buôn bán cổ vật chuyên nghiệp, chắc chắn sẽ biết đây là thứ gì.
Ngay lúc tôi chuẩn bị đi, chợt vô tình liếc nhìn qua bờ hồ, bất thần phát hiện trong bụi cỏ lau dày bên hồ có một thứ gì đó đang động đậy, bởi vì vừa bị dọa cho sợ phát khiếp nên tôi cũng không chắc có phải mình hoa mắt hay không, bèn dụi dụi mắt nhìn kỹ lại, quả thực giữa đám cỏ lau có một đôi mắt hung ác đang trừng trừng nhìn sang, một thứ gì đó có gương mặt đầy lông đen thui đang lạnh lùng nhìn tôi chằm chằm, nó khẽ lay động theo dòng nước, cứ như đang nổi lềnh bềnh trên đó vậy. Thoáng chốc tôi cảm thấy sợ run cả người, nhưng vẫn không dám chắc, liền kéo kéo mấy người đứng gần đó nhất mà hỏi: "Các vị nhìn coi, có phải trong đám cỏ lau có cái gì đó đang chuyển động không?"
Bọn họ ngẩng đầu nhìn về hướng tay tôi chỉ, nhưng nhìn một lúc vẫn không thấy con quái vật lúc nãy đâu, quả thực giống như tôi đã nhìn thấy ảo giác vậy. Vì thế mọi người đồng loạt quay lại nhìn tôi, ánh mắt căm tức như thể vừa bị trêu chọc, dường như đứa bé đã chết là thân thích của bọn họ, bọn họ đang thương xót lại đột nhiên bị một người xa lạ như tôi chen vào chọc tức, vì thế bao nhiêu tức giận đau thương đều chuyển hết lên người tôi, có vài người đã bắt đầu hầm hè xông tới, tôi sợ hãi lùi lại, thật sự nếu không mau chóng giải thích thì có khi đám người này sẽ xông vào đánh tôi một trận cho hả dạ mất.
Tôi vội vàng hoa chân múa tay, dùng mọi khả năng mình có để miêu tả lại thứ vừa nhìn thấy lúc nãy, vừa nghe tôi kể lại đầu đuôi, những người đó chợt thay đổi hẳn sắc mặt, ánh mắt căm tức bất chợt hóa thành một loại vừa kinh hoàng vừa lo sợ. Tôi ngơ ngác dừng tay nhìn bọn họ, lòng nghĩ sao những người này có thể thay sắc mặt còn nhanh hơn cả Jim Carrey[1] thế không biết? Vì thế có chút chột dạ mà e dè hỏi: "Tôi... tôi nói sai cái gì sao...?"
Người phụ nữ đang khóc thê thảm trên mặt đất chợt choàng dậy kéo tay tôi, kích động kêu gào: "Cậu chạy mau! Đừng tới đây nữa! Chạy đi! Nếu không cậu sẽ bị khỉ nước lôi đi bây giờ! Giống... giống như con tôi vậy... Thủ hồ gia gia ơi! Xin ngài thương xót... đừng... đừng kéo người xuống nước nữa...!" Nói xong bà lại giãy mạnh thoát khỏi tay những người dân làng đang giữ chặt mình, chỉ thẳng vào mặt bọn họ mà mắng: "Chỉ tại các người! Các người bị tiền làm mờ mắt! Thủ hồ gia gia đã không muốn cho bất kỳ ai được tới mé tây hồ, vậy mà các người còn đòi mở cái khu du lịch chó má này! Giờ thì hay rồi, Thủ hồ gia gia nổi giận rồi, sớm muộn gì ngài cũng lôi cả cái làng này xuống hồ, đi làm khỉ nước hết!!!"
Nói xong lại giậm chân khóc lóc thảm thiết, tôi vội lùi về phía sau mấy bước, ngạc nhiên nhìn bà ta, một đám người nhanh chóng kéo bà ta ra chỗ khác, lúc tôi còn nghi hoặc bất an nhìn theo thì một người đeo kính, ra vẻ là cán bộ thôn đã tiến tới vuốt mồ hôi trên trán mà nói với tôi: "Cậu đây đừng sợ, thím hai nhà họ Trương là mẹ của đứa bé vừa mới mất, cho nên tinh thần có hơi kích động chút thôi."
Tôi ngoái nhìn người phụ nữ nọ, bà vẫn sụp người bên cạnh xác chết, cái đầu lắc qua lắc lại theo một cách thật điên cuồng, lại nhớ tới thứ quái vật nấp trong bụi lau lúc nãy, tôi chợt cảm thấy có một cảm giác thương xót kỳ lạ đối với đứa bé nằm chết ở kia: "Sao đứa bé này lại tự nhiên chết đuối được, hay là tại công tác giữ an toàn của các vị còn chỗ hở?"
Vừa nhắc tới vấn đề an toàn, ông ta lập tức trở nên khẩn trương, vội nhìn tôi mà xua xua tay: "Không có không có, làng này sống dựa vào hồ lâu nay kia mà, chỗ nào dành cho khách du lịch tham quan đều có lan can phòng hộ hết, còn chỗ này vốn chỉ là chỗ cho ngư dân neo thuyền đánh cá thôi..." Sau đó ông ta nhìn tôi chằm chằm, nghi ngại hỏi: "Mà cậu đây... hổng phải phóng viên chớ?"
Hóa ra ông cán bộ này sợ phóng viên đăng chuyện có người chết đuối ở chỗ này lên báo, nên tôi lập tức lắc đầu: "Tôi không phải phóng viên, chỉ là du khách tới đây tham quan thôi."
Ông ta an tâm gật đầu, sau đó thở dài nói tiếp: "Mà đám trẻ con ở đây, có đứa nào không biết bơi đâu chớ, sinh ra bên hồ, lớn lên trong hồ mà. Nhất là thằng con này của thím hai nữa, bơi giỏi như cá vậy, chúng ta ai cũng gọi nó là con rái cá con[2] Tiểu Trương Thuận. Vậy mà một đêm mấy bữa trước, nó thay ba nó đi thu lưới cá, tới giờ chưa thấy về. Ai mà ngờ lại chết đuối bỏ mình chớ, mãi tới hôm nay nó nổi lên mới biết... chắc là do thủy triều đánh dạt vào đây."
Tôi vẫn còn hơi lấn cấn về cái tên "khỉ nước" mà lúc nãy người phụ nữ kia nhắc tới, liền hỏi thăm: "Vậy hai cái tên 'khỉ nước' với 'Thủ hồ gia gia' mà thím hai họ Trương nhắc tới là cái gì vậy?"
Ông ta cười khẩy trả lời: "Ôi dào, toàn là mớ mê tín dị đoan của đám ngư dân ven hồ thôi ấy mà! Nói cái gì mà người chết đuối đều biến thành thủy quỷ, tìm cách tha người khác xuống sông chết thay để bản thân được đi đầu thai vân vân. Còn 'Thủ hồ gia gia' gì đó cũng chỉ là truyền miệng mà thôi, gì mà như là đại yêu quái thống lĩnh đám thủy quỷ ở trong hồ này vậy đó! Hà hà, cậu đây người thành phố, chắc cũng không tin ba cái thứ nhảm nhí này đâu hả!"
Tôi cũng cười cười gật đầu, nhưng trong lòng thì cực kỳ sợ hãi. Thực ra cái tên "khỉ nước" tôi cũng từng nghe qua, là cách gọi dân gian của thủy quỷ, hay có nơi còn gọi là móc câu nước. Người Trung Quốc không thích nhắc tới từ "quỷ", nên dùng những cái tên giàu hình tượng khác để thay thế, ví dụ như khỉ nước, là vì bề ngoài của loại quỷ này cũng lông lá đen thùi như khỉ thật vậy, nhưng thực ra là do linh hồn những người chết đuối biến thành. Theo ghi chép trong "U minh lục"[3], thứ này thời cổ đại gọi là "thủy trùng", có nơi gọi là "thủy tinh". Chúng có khả năng biến hóa, có thể biến thành đủ thứ khác nhau, dụ dỗ những người không phòng bị ra sát mép nước, sau đó nắm cổ chân họ kéo thẳng xuống đáy sông hồ, mạnh không thể chống lại nổi. Chỉ cần bước lên bờ là bọn chúng lập tức hóa thành yếu ớt, còn không bằng một đứa bé. Nhưng khi ở dưới nước, thì chúng là những u hồn lệ quỷ thuộc loại kinh khủng nhất. Lúc này tôi chỉ nghĩ, đừng nói là nó đã "chấm" tôi, chọn tôi làm người chết thay đó nha...
Cán bộ thôn thấy tôi không phải phóng viên, cũng chẳng giống công an, huống chi tôi chết hay sống hoàn toàn không liên quan gì tới ông ta, mà ông ta cũng là loại người chẳng thèm tin có thần có quỷ, cho nên cũng không thèm quan tâm gì tới tôi nữa mà quay lại lo trấn an dân làng. Tôi liếc mắt nhìn thím Trương, thấy bà ta đang nhìn tôi một cách cực kỳ sợ hãi, làm như tôi sắp chết giống như con bà ta rồi vậy. Tôi bị ánh mắt đó làm cho rùng mình, xương sống lạnh cứng, liền rủa thầm một câu rồi lập tức rời khỏi bến nước, trong lòng cực kỳ hối hận vì đã đến đây.
[1] Diễn viên hài hình thể người Canada.
[2] Nguyên tác là "giống như cành cây trôi trên sóng", ý là bơi giỏi và tự nhiên, cho nên Lục Mịnh chuyển thành thế này cho dễ hiểu.
[3] Là tập tiểu thuyết thời Nam triều Tống (420 ~ 589) kể lại những chuyện quái dị. Bao gồm 20 cuốn, do Lưu Nghĩa Khánh (403 ~ 444) biên soạn.
|
Chương 26: Thủ hồ (Nhị) Khi tôi trở lại khu câu cá, Bạch Dực đã đứng lên xếp cần câu, nhìn xô cá đầy nhóc, tâm tình tôi mới thoải mái hơn một chút, vì chí ít Bạch Dực có thể nấu mấy món rất ngon với đám cá này. Tham ăn có thể nói là tật xấu lớn nhất của tôi, chỉ cần nghĩ tới đồ ăn là không còn lo lắng như lúc nãy nữa. Anh ta vẫy vẫy tay với tôi, ý bảo tôi tới giúp, tôi liền xắn tay áo tiến tới định giúp anh ta xách xô cá, nhưng vừa tới gần thì anh ta đã bịt mũi nhíu mày nhìn tôi: "Tiểu An, đi đâu về mà cả người lại có mùi tanh tanh thế?"
Tôi kéo góc áo lên mũi ngửi ngửi, quả nhiên nghe thấy mùi đất ngai ngái, tôi ngạc nhiên suy nghĩ, rõ ràng sáng nay mới tắm, sao cơ thể lại bốc mùi... đành vùng vằng cãi lại: "Cả người anh cũng đầy mùi cá đó thôi, ai mà nhận ra anh làm nghề giáo viên nữa, chẳng thà xuống đây đổi nghề làm ngư dân cho rồi!"
Anh ta không tin, bèn dí sát mũi vào cổ tôi ngửi ngửi. Lúc này Lục Tử đang cao hứng bừng bừng trở về, nhìn thấy hai chúng tôi, tự nhiên mặt lại nghệt ra như vừa nhìn thấy phim người lớn không dành cho con nít vậy, quay đầu lập tức đi thẳng. Tôi vội vàng hét lên sau lưng hắn: "Lục Tử, chạy đi đâu đó! Quay lại mau!"
Hắn vừa nghe tôi gọi liền do dự một chốc rồi mới quay lại, lúc tới cạnh chúng tôi còn cợt nhả một câu: "Ây da, người ta sợ làm phiền hai người mà!"
Tôi càng nghĩ càng cảm thấy tên ngốc này dường như đã hiểu nhầm cái gì đó, liền liếc hắn nói: "Quấy rối cái gì, tôi còn sợ quấy rối cậu kia... người đẹp kia đâu?"
Hắn không mang người đẹp về, dừng tay giữa chừng? Hình như có hơi không giống tác phong trước giờ của Lục Tử lắm. Nhưng hắn chỉ xua xua tay nói: "À, về với chồng người ta rồi! Còn để lại cho tớ số điện thoại của cô ta nữa cơ, để tớ lúc nào rảnh rỗi thì gọi."
Tôi rùng mình hỏi: "Phụ nữ có chồng mà nhà ngươi còn dám động thủ? Không sợ chồng người ta tìm tới đánh cho què chân à?!"
Hắn đáp như đùa cợt: "Yên tâm yên tâm, tớ tự biết chừng mực. Thôi đi ăn cơm đi, coi như tớ tạ lỗi với các anh em. Tớ đặt bàn sẵn luôn rồi."
Lục Tử vươn người tới định kéo chúng tôi tới nhà hàng, nhưng vừa dí sát mặt tới gần người tôi thì đột nhiên cau mũi hỏi: "Tiểu An, bộ vừa đánh rắm hay sao mà thối quá vậy?"
Tôi lập tức đập cần câu lên đầu hắn, phẫn nộ nói: "Có mà nhà ngươi đánh rắm ấy, ăn nói gì mà thô bỉ thế hả!"
Lục Tử lại vươn người tới nghe nghe, sau đó sờ sờ mũi nói: "Không phải... trên người cậu đúng là có một mùi hôi hôi... nhưng mùi này tớ đã ngửi thấy ở đâu rồi ấy nhỉ..."
Mắt Bạch Dực chợt lóe lên, đột nhiên hỏi: "Có phải cậu đang cầm cái gì đó không?"
Bọn họ nhắc tới tôi mới nhớ ra, trong túi còn cục đá kia còn gì. Vì thế vội vàng lôi nó ra, cặp mắt Lục Tử vừa nhìn thấy nó lập tức đã trợn to lên, nhìn chằm chằm vào khối đá mà hít hà: "Oa, cừ thật! Đây hình như là một khối kiếm cách[1] bằng ngọc đó nha!"
Nói xong lập tức nhét lại cục đá vào túi tôi, nhìn trước nhìn sau một hồi không thấy có ai để ý tới, mới thì thầm: "Tiểu An, đây là đồ cổ đó, cậu kiếm đâu ra được vậy?"
Tôi kể lại sơ lược chuyện lúc nãy cho bọn họ nghe, nghe xong, cả hai đều hơi cúi đầu như suy nghĩ, sắc mặt Bạch Dực càng thêm nghiêm nghị khác thường, đây cũng chính là nguyên nhân làm tôi cảm thấy sợ. Vì mỗi lần anh ta tỏ ra căng thẳng, là câu chuyện lại có xu hướng phát triển theo hướng xấu ngay.
Cuối cùng cũng chính Lục Tử là người phá vỡ sự im lặng nặng nề giữa chúng tôi, hắn cắn cắn môi dè dặt nói: "Kỳ lạ thật... một vật thế này sao lại xuất hiện trong một làng chài bình thường như vầy được? Nếu nó đúng là bảo vật văn hóa thì sẽ không bị đối xử lạnh nhạt thế này đâu... Nếu không phải tớ nhìn cổ vật quen rồi thì căn bản nhìn không ra nó là một khối ngọc nha... Thôi bỏ qua đi, đi ăn trước cái đã. Ở đây tai vách mạch rừng, nếu có người biết chúng ta tìm được thứ quý giá như vậy thì coi chừng bị bắt nộp lên bây giờ."
Tôi nhìn sang Bạch Dực ra ý hỏi, nhưng thấy anh ta vẫn cau mày im lặng, trong lòng tôi vẫn cảm thấy lo âu, nhưng ít ra ngay lúc này cũng chưa có chuyện gì quái dị phát sinh, nên cũng gật đầu mà đáp: "Đúng vậy, đi ăn cái đã. Lúc về phòng rồi sẽ từ từ nghiên cứu lại sau."
Nhà hàng thực ra cũng là chỗ chúng tôi ở trọ, nói cho đúng ra là một biệt thự nhỏ của một hộ nông dân. Tầng dưới cùng dùng làm nhà ăn, mấy gian phòng trên lầu cho khách du lịch thuê. Có rất nhiều hộ gia đình ở đây chọn cách kinh doanh này, vừa phục vụ chỗ nghỉ vừa phục vụ cơm nước, đồ ăn thì đều là những món ăn làm từ chính nông sản địa phương, ví dụ như canh gà ta, cơm chiên tôm, cá hấp vân vân. Ăn xong rồi khách có thể lên lầu nghỉ ngơi, rất tiện lợi. Gian phòng của chúng tôi ở vị trí tốt, mở cửa sổ ra có thể nhìn thấy mặt hồ trước mặt.
Nhưng bao nhiêu tâm tư của chúng tôi đều để hết ở chỗ khối ngọc và chuyện quái dị lúc nãy, nên không còn lòng dạ nào thưởng thức hương vị của món ăn. Hơn nữa trên người tôi vẫn bám theo cái mùi khó ngửi đó, cũng không muốn ở lâu trước mặt người khác để người ta phải dị nghị, cho nên cả ba vội vàng ăn cho xong bữa cơm, sau đó lập tức lên lầu. Vào phòng đóng cửa lại rồi, Lục Tử húng hắng vài tiếng rồi nói: "Tiểu An, đem thứ kia ra đây xem nào."
Quả thực mùi hôi kỳ lạ kia toát ra từ chính khối ngọc, còn phảng phất một mùi máu tanh rất nặng hòa cùng mùi đất gai gai mũi, thực sự rất khó nghe. Lục Tử lấy ra một cái hộp nhỏ, bên trong có vài cái bàn chải nhỏ và khăn lau, là thứ mà hắn thường dùng để chùi con dấu. Hắn vừa cẩn thận nâng niu khối ngọc trong tay vừa nói với chúng tôi: "Đây đúng là cái mùi đặc thù của đồ cổ. Nhất là ngọc, để càng lâu thì ngọc càng tỏa ra một mùi hôi khó ngửi, cho nên rất nhiều kẻ làm giả cổ vật thường ném những khối ngọc còn mới vào bồn cầu để làm giả thành ngọc xưa. Nhưng loại thủ pháp vụng về đó thường không qua mắt được dân chuyên nghiệp."
Tôi thử để sát mũi vào ngửi ngửi, hèn gì mà Bạch Dực vừa nghe đã biết tôi đang giữ cái gì trong người. Quả nhiên thứ này có vẻ rất nhiều tuổi đây, chờ Lục Tử lau sạch nó xong là có thể biết nó là cái gì.
Lục Tử cầm bàn chải nhỏ, tỉ mỉ chải từng chút một dọc theo những vân hoa văn. Bạch Dực cũng ngồi bên cạnh chăm chú nhìn, vừa khi một góc hoa văn lộ ra là anh ta đã lặng lẽ nói: "Thứ này thuộc thời Ngô quốc."
Lục Tử làm việc rất cẩn thận chu đáo, trong lĩnh vực này hắn quả thực là chuyên gia. Hắn nhìn qua hoa văn, cũng gật đầu: "Đúng vậy, khối kiếm cách bằng ngọc này là của Ngô quốc. Hoa văn này đúng là loại hoa văn thịnh hành thời cuối Xuân Thu, đầu Ngô. Cái âu khai quật được trong kho tàng Tư Đồ ở thành phố Đan Dương tỉnh Giang Tô năm 1976 cũng mang những hoa văn đan chéo nhau phức tạp giống thế này.
Hắn dùng bàn chải chải sạch khối ngọc xong, rồi dùng vải mềm chà nhẹ qua, khối ngọc liền hiện ra ánh sáng nguyên bản của ngọc cổ, đó là một màu giống như màu đá Moldavite[2], giữa sắc xanh lục sậm vằn vện những vằn màu đen mảnh, hình chữ nhật bo tròn ở hai đầu. Một đầu có đục lỗ, dùng để tra chuôi kiếm vào, chính giữa mặt ngọc có khắc hai chữ triện "Câu Nguyệt", nét chữ mạnh mẽ khí khái. Nếu có thêm cả chuôi lẫn lưỡi kiếm, chắc chắn không phải là một thanh kiếm tầm thường. Nếu có thể cầm trong tay một thanh kiếm như thế ra trận, thì quả là một hình ảnh cực kỳ oai phong!
Lục Tử đặt khối ngọc lên bàn, Bạch Dực lập tức cầm lên, lấy tay miết nhẹ lên chữ khắc trên mặt ngọc mà kích động thì thầm: "Trên này khắc hai chữ 'Câu Nguyệt' này! Chẳng lẽ đây chính là thanh kiếm 'Câu Nguyệt cổ kiếm' đã thất truyền từ lâu của Ngô quốc hay sao?!"
Lục Tử vừa thu dọn mọi thứ đi ướng nước, nghe Bạch Dực nói thế thì lập tức phun hết nước ra mà ho khan, tôi sợ hắn phun nước lên khối kiếm cách, vội vàng kéo hắn lại. Hắn kích động nắm chặt hai tay tôi mà phun nước bọt như mưa lên mặt tôi: "Có lầm không vậy chứ!! Chẳng lẽ... chẳng lẽ chính là thanh kiếm lưỡi vàng chuôi ngọc mà Ngô vương Phù Sai đã dùng để bức tử Ngũ Tử Tư hay sao?!!!"
Hắn vừa nói thế, tôi cũng lập tức sợ ngây người, quên mất cả nước miếng phun phèo phèo trên mặt mình mà ngây ra nhìn khối kiếm cách bằng ngọc trong tay Bạch Dực. Tục truyền Ngô vương có một thanh "Câu Nguyệt cổ kiếm", cùng với thanh "Vương giả chi kiếm" của Việt vương Câu Tiễn hợp thành một đôi hi thế bảo kiếm được xưng là "Thiên hạ xưng bá thành vương". Thanh kiếm của Câu Tiễn được gọi là "Thành vương", còn Câu Nguyệt được gọi là "Thủ quốc". Ngô vương Phù Sai dùng nó để bức tử Ngũ Tử Tư, sau đó khi Việt quốc tấn công Ngô quốc thì bóng dáng của Câu Nguyệt cũng theo loạn lạc mà bị phủ mờ trong suốt chiều dài lịch sử, không còn ai biết tung tích. Nghe kể rằng những bậc vương giả có được thanh kiếm này trong tay, sau khi chiếm được thiên hạ rồi, sẽ được kiếm phù trợ cho được thiên hạ thái bình, thịnh thế muôn đời, thiên thu vạn đại.
Ba người chúng tôi đều lặng người đi bàng hoàng, cuối cùng vẫn là tôi e dè lên tiếng trước: "Thứ này... thực sự là một bộ phận của thanh cổ kiếm đó sao? Nói vậy thì phải chăng... thanh kiếm vẫn còn lưu lạc gần đâu đây?"
Bạch Dực đẩy gọng kính, nheo nheo mắt nhìn khối kiếm cách mà trả lời: "Cũng khó nói, nhưng tôi có cảm giác cái này và tấm bia đá cậu nhìn thấy cùng với chuyện khỉ nước nhất định có liên quan. Thế này đi, Lục Tử, cậu ở đây giữ kiếm cách, Tiểu An, dẫn tôi ra chỗ tấm bia đá xem sao."
Tôi lập tức gật đầu, nghĩ ở một làng chài bé nhỏ hẻo lánh như thế này mà lại có thể có một phát hiện chấn động đến thế, cũng thực sự có chút hứng khởi. Nhưng bên cạnh đó là một loại bất an không gạt đi nổi, trực giác nói cho tôi biết, chuyện này không đơn giản như vậy.
Còn Lục Tử trước hết vẫn là một thương nhân, hắn lập tức suy nghĩ theo góc độ của một vụ buôn bán, vừa nghe tới tấm bia đá đã lập tức nói: "Hai người đi xem đi nhé, có thể tấm bia đó cũng có giá trị, nếu thực sự có liên hệ với thanh kiếm này là tôi lập tức gọi người tới bán liền, tới lúc đó không quên tiền hoa hồng cho hai người đâu!"
Khi chúng tôi quay lại bên hồ, trời đã ngả về chiều, khu du lịch đầy những đôi trai gái nắm tay nhau đi dạo quanh hồ ngắm phong cảnh, nhưng chúng tôi không còn lòng dạ nào ngắm hoàng hôn, chỉ mải miết đi về phía tây. Quả nhiên khu vực đó là một "điểm mù" an ninh của khu du lịch này, cho tới bây giờ vẫn không có ai tới canh gác. Chúng tôi cúi gập người chui vào bụi cây, từ đây có thể thấy rõ chỗ nước cạn nơi phát hiện xác chết ban ngày. Thi thể đã được đem đi, nhưng theo tập tục của ngư dân ở đây, vẫn để lại một cây nến sáp ong, bốn phía bày đầy những vật dụng lúc sinh tiền của người chết, với ý nghĩa là để dẫn hồn phách lưu lạc trong nước quay về, tránh cho người chết biến thành khỉ nước.
Hồ nước róc rách tiếng nước triều đều đặn dâng lên rồi lại hạ xuống, nghe như hơi thở của thiên nhiên. Triều dâng rồi triều dạt, có lẽ tấm bia đá kia đã chứng kiến cả ngàn năm thủy triều lên xuống thế này rồi nhỉ. Tôi nhìn mặt hồ một cái, sau đó quay đi bước theo Bạch Dực tới chỗ bia đá. Đột nhiên nghe anh ta khẽ hô lên một tiếng: "Thấy rồi."
Tôi bước nhanh tới, quả thực là tấm bia đá vô danh tôi đã nhìn thấy ban ngày. Bạch Dực phủi hết lá cây bám trên mặt bia, quan sát một lúc rồi nói: "Quả nhiên là đồ có từ thời nhà Ngô."
Tôi hỏi: "Trên đó viết những gì vậy? Sao chỉ có vài dòng ngắn ngủi thế?"
Bạch Dực mím chặt môi nhìn tấm bia một lúc lâu khiến tôi càng tò mò, giục anh ta mau nói.
Ánh mắt Bạch Dực có hơi kỳ lạ, anh ta quay sang tôi lặng lẽ nói: "Tấm bia này thực ra là do người chết làm cho chính mình."
Tôi ngẩn người ra, cái gì cơ? Tự lập bia cho mình? Kẻ đó biết mình sắp chết nên tự lập bia cho mình sao?
Tôi gãi gãi đầu chỉ vào tấm bia: "Thì trước hết anh cứ dịch tấm bia này ra cho tôi nghe xem nào, sao kẻ đó chỉ ghi lại cho chính mình có vài hàng như vậy? Cổ nhân luôn luôn coi trọng hậu sự, một tấm bia sơ sài thế này không hợp với lễ giáo lúc đó chút nào!"
Bạch Dực vuốt dọc những dòng chữ khắc mà khẽ đọc: "Nó viết là 'Sĩ vi tri kỷ giả tử, thiên cổ nhất hận, duy hữu thủ nguyệt'."
Văn học cổ luôn luôn là điểm yếu của tôi, suy nghĩ mãi mà tôi vẫn không biết tấm bia nói thế là có ý gì, đành quay qua hỏi Bạch Dực: "Anh hiểu kẻ này muốn nói gì không? Tôi chỉ biết câu 'Sĩ vi tri kỷ giả tử, nữ vi duyệt kỷ giả dung'[3] thôi à..."
Bạch Dực khẽ cười cốc đầu tôi một cái: "Bậy bạ, cái gì mà 'nữ vi duyệt kỷ giả dung' ở đây? Câu đầu đúng là có ý là 'kẻ sĩ chết vì tri kỷ'. Còn 'thiên cổ nhất hận', tôi cũng không biết là hận gì, 'duy hữu thủ nguyệt' có hai cách hiểu, cách thứ nhất là chỉ cái hồ Thủ Nguyệt này, cách hiểu thứ hai là chỉ thanh kiếm Câu Nguyệt."
Người thời cổ thường lời ít mà ý nhiều, phần nhiều là để cho người nghe tự suy ngẫm, dựa vào chính khả năng của mình mà lãnh hội. Nếu có ngộ tâm, tất sẽ tự hiểu người ta đang nói cái gì, còn nếu không có ngộ tâm, thì xin lỗi, có nhìn đám chữ đó tới mức thổ huyết cũng đừng hòng hiểu ra. Tuy không thể hiểu hết câu này có ý gì, nhưng xem ra chắc chắn có liên quan nào đó tới Câu Nguyệt cổ kiếm.
Bạch Dực thấy đám chữ này cũng không cung cấp được thêm cái gì cho chúng tôi, liền bước ra phía sau tấm bia xem thử. Tôi càng không hiểu gì, vì thế liền quay ra phía sau lưng nhìn lại chỗ nước cạn nơi thi thể được tìm thấy, nhưng lại đột nhiên phát hiện ngọn nến sáp đã... biến mất, chỉ để lại những vệt sáp trắng nhạt. Trên mặt cát lưu lại một loạt dấu chân ướt sũng, nhìn là biết tuyệt đối không phải dấu chân người, mà cứ như những dấu chân vịt khổng lồ vậy.
Tôi cảm thấy mặt mình tê rần lên, vội vã xoay người gào lên với Bạch Dực: "Lão Bạch lão Bạch, ngọn nến mất tiêu rồi!"
Bạch Dực ngẩng đầu lên khỏi mặt sau tấm bia, đột nhiên anh ta cũng trừng to mắt, thoáng cái kéo lấy tay áo tôi giật mạnh lại, kéo tôi về phía sau tấm bia. Vì lực kéo quá mạnh, mặt tôi liền đập thẳng vào mặt đá, tôi chỉ cảm thấy mũi đau thốn lên, đau tới mức rên rỉ: "Anh bị mắc cái chứng gì vậy, mũi tôi bị đập gãy bây giờ!"
Nhưng Bạch Dực không thèm để ý tới, chỉ nhanh như chớp nhảy phắt ra chặn trước mặt, kéo tôi ra phía sau lưng mình. Tôi bưng chặt mũi nhìn lên, vừa kịp thấy một cái bóng đen nhoáng cái chui vào trong rừng cây dày đặc, tốc độ cực nhanh. Bạch Dực chỉ cẩn thận quan sát bốn phía, âm trầm nói với tôi: "Chỗ này không an toàn, về thôi!"
Không cần anh ta phải nói tôi cũng biết chỗ này lành ít dữ nhiều, thứ đen thùi lúc nãy rất có khả năng chính là vị khỉ nước ban sáng, đúng là bám dai như đỉa vậy. Tôi bỏ bàn tay đang bịt mũi ra, nhìn thấy một màu đỏ ghê người của máu tươi, nghĩ thầm, Bạch Dực đúng là ra tay quá mạnh, nếu anh ta mà cố tình một chút thì không chừng cả cái mặt tôi cũng dẹp lép mất rồi. Anh ta nhìn gương mặt của tôi, cũng có hơi hối hận, liền lấy trong túi quần ra một cái khăn tay chuẩn bị giúp tôi lau mũi. Nhưng tôi vội vàng ngăn bàn tay anh ta lại, cầm lấy cái khăn tự mình lau. Anh chàng này mạnh tay như vậy, bây giờ mà lau một cái dám cái mũi của tôi cũng rớt ra theo quá. Tôi lườm anh ta một cái, bưng mũi nói: "Về trước cái đã, hiện tại không phải là lúc quan tâm tới vấn đề mặt mũi, có xấu đi chút cũng còn hơn là xuống hồ làm khỉ nước!"
Trên đường trở về tôi vẫn bưng chặt mũi, Bạch Dực lẽo đẽo theo phía sau. Những người trên đường nhìn mặt tôi, tưởng tôi vừa bị ai "dạy dỗ", đều chỉ trỏ thì thầm với nhau. Tôi cúi thấp đầu, thầm mắng cả mười tám đời tổ tông nhà Bạch Dực tơi tả.
Một người đàn ông trung niên tiến tới từ phía xa, tôi nhận ra ông ta là một trong số những ngư dân ban sáng. Ông ta tiến thẳng tới trước mặt tôi, thấy phía sau tôi còn có thêm một người, hơi ngây ra một chút, thế nhưng lại lập tức đi tiếp. Trên thắt lưng của ông ta có cột một sợi dây xô gai màu trắng, bởi vì người chết là đứa nhỏ trong nhà, nên người lớn không cần mang vải tang màu đen mà chỉ cần cột một sợi dây trắng bên hông, biểu thị trong nhà có trẻ con qua đời là được.
Ông ta vội vàng nói với tôi: "Cậu nhóc, đừng ở lại đây nữa, sớm muộn gì cũng gặp xui cho coi. Tui biết cậu không tin, nhưng khỉ nước ở chỗ này khá với những chỗ khác, có thể lên tận trên bờ mà tha người xuống nước đó, tất cả những ai đã trông thấy nó đều sẽ bị nó kéo xuống nước hết đó!"
Tôi nhìn ông ta, cảm thấy có thể tìm hiểu được nhiều điều từ người này, bèn lén nháy mắt với Bạch Dực một cái rồi làm ra vẻ ngây thơ nói với ông ta: "Đại ca, không phải tôi không tin, nhưng mà anh nói chuyện cũng mập mờ quá đi. Tôi không hiểu gì hết, mà khỉ nước là cái gì?"
Ông ta nhìn chúng tôi một chút rồi thở dài: "Hai người không phải người trong thôn, không biết khỉ nước lợi hại tới mức nào đâu. Thằng con nhà tui trước khi gặp nạn cũng nhìn thấy khỉ nước, sau đó mới bị nó lôi xuống hồ. Nhất là những lúc thủy triều, đám khỉ nước ở đây cứ như trúng ma, đều chực chờ bên mặt nước, thấy ai là kéo người đó xuống hồ cho chết đuối liền. Những lúc thủy triều lên xuống, làng này không ai dám ra hồ bắt cá cả. Ai... chúng ta đều biết, bị khỉ nước lôi đi rồi là thế nào cũng phải trở thành một trong số chúng... thương cho con tui..."
Bạch Dực đứng bên cạnh chăm chú lắng nghe, tới đây đột nhiên chen vào hỏi: "Vậy vùng này có truyền thuyết gì về cái hồ này không? Càng xưa càng tốt!"
Ông ta suy nghĩ một chút rồi trả lời: "Những chuyện cổ ở đây nói chung đều là về cái hồ này, nhưng chuyện xưa nhất... có lẽ là chuyện kể là ngày xưa đã từng có một quý tộc nhảy xuống sông tự vận, không ai biết lai lịch của người đó ra sao, nhưng nghe đồn ông ta biết pháp thuật, tự sát rồi cũng không có cá tôm nào dám rỉa xác của ông ta, hơn nữa... hình như là ông ta còn ôm theo một thanh kiếm nhảy xuống hồ nữa."
Tôi và Bạch Dực quay phắt lại nhìn nhau, cảm thấy có đầu mối, vì thế hỏi ông ta kể chi tiết hơn. Người đàn ông gãi gãi tóc suy nghĩ rồi kể: "Ông nội tui bảo, thân thế của người này rất đặc biệt, nghe nói ông ta chết rất trẻ, lúc chết lại ôm oán hận quá lớn, oán khí không tan nổi, cho nên biến thành Quỷ Vương của thủy quỷ, mà cả thanh kiếm của ông ta cũng rất đáng sợ. Thủy quỷ đều phải nghe lệnh ông ta, mà cái vị 'Thủ quốc gia gia' này đặc biệt không thích người ta tới mé tây hồ, kẻ nào dám tới lập tức sẽ bị khỉ nước bắt đi hết. Cho nên chỗ đó biến thành chỗ cấm của làng này. Nhưng sau thời cải cách văn hóa, khách du lịch bắt đầu tìm tới, ban ngày chúng tui cũng bạo gan vài lần tới câu cá. Nhưng gần đây thì đám khỉ nước càng lúc càng hung tợn khác thường, hình như là do oan hồn của vị gia gia này quấy phá, tụi tui cũng cúng cho hồ rất nhiều lần, nhưng không ăn thua gì. Thằng con tui tối bữa trước ra mé tây hồ rồi cũng không còn trở về nữa..."
Bạch Dực hỏi tiếp: "Vậy các vị có biết người này là người thời nào, tên gì không?"
Ông ta chậc chậc lưỡi đáp: "Cái đó thì không biết, nghe nói là người trước cả thời Tần Thủy Hoàng, tên gọi... không biết tên là gì, nhưng tụi tui đều gọi ông ta là 'Thủ quốc công', những cái khác... quả thực không biết."
Tôi xem chừng không còn hỏi thêm được gì nữa, bèn chào hỏi qua loa rồi cùng Bạch Dực về phòng trọ. Dọc trên đường, Bạch Dực đều rất trầm tư như đang suy nghĩ rất lung, lúc chúng tôi vào phòng, thấy Lục Tử vẫn đang nghiên cứu khối kiếm cách bằng ngọc kia. Chúng tôi vừa vào cửa, hắn đã đứng dậy hỏi có thu hoạch gì không.
Tôi tự rót cho mình một ly nước, kể lại chuyện ông ngư dân kia đã nói cho hắn nghe. Hắn gõ gõ lên bàn, thở dài: "Tư liệu như vậy vẫn còn quá ít, chẳng biết thêm được gì cả."
Bạch Dực lắc đầu: "Chưa chắc, hai người suy nghĩ thử xem, Phù Sai bức tử Ngũ Tử Tư rồi, sau đó bảo kiếm có thể rơi vào tay ai? Một thứ quan trọng như vậy, Ngô vương Phù Sai có ngốc đến mấy cũng không thể giao vào tay người ngoài. Cho nên chắc chắn lúc đó giữ kiếm phải là thân tín, hoặc là trực hệ của Ngô vương."
Chính xác, nghe rất có lý. Tôi gật đầu, đồng ý với ý kiến của Bạch Dực: "Nói đúng lắm, vậy người nào có thể vừa là thân tín của Phù Sai lại vừa biết pháp thuật nhỉ?"
Lục Tử cắt ngang: "Không thể tin theo lời ông ngư dân kia nói mà nghĩ rằng người đó nhất định phải biết pháp thuật, làm sao có chuyện hoang đường tới mức đó được. Người thời cổ thường cho những hiện tượng tự nhiên dị thường đều là pháp thuật cả, nếu cậu bây giờ mà quay vể thời cổ đại móc ra một cái bật lửa là lập tức tất cả mọi người, coi chừng cả lão hoàng đế cũng phải quỳ xuống trước mặt cậu nữa là."
Tức là, ngoại trừ khối kiếm cách cộng với một câu chuyện truyền khẩu không đầu không đuôi thì chúng tôi không có gì khác trong tay cả. Kỳ thực, điều làm tôi quan tâm nhất chỉ là làm sao để không bị khỉ nước lấy mạng mà thôi, vì nếu như lời ông ngư dân kia nói là thực, bất kỳ ai nhìn thấy khỉ nước đều phải chết, vậy chẳng phải tôi chết chắc rồi sao?
Bạch Dực nhìn thấu lo lắng trong lòng tôi, liền vỗ vỗ vai khuyên nhủ: "Tôi cảm giác chuyện này vẫn chưa ngã ngũ, hơn nữa chỗ này cũng xa hồ, khỉ nước không thể nào dám tới tận đây mà tìm cậu được đâu, cùng lắm thì mai chúng ta về thành phố, lẽ nào nó có thể đuổi theo cậu tới tận đó?"
Nhưng lần này thì ngay cả những lời bảo đảm của Bạch Dực cũng không làm tôi bớt lo hơn chút nào. Trong lòng dường như luôn luôn có một tảng đá khổng lồ đè nặng, không sao nhẹ nhõm được. Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ, trời đã tối đen lại, mặt hồ ánh lên một sắc xanh sẫm pha đen huyền ảo, một vầng trăng tròn trặn lửng lơ giữa bầu trời không gợn áng mây. Một khung cảnh tĩnh tại đẹp đẽ đến thế, vậy mà lúc này nhìn lại không hiểu sao cứ cảm thấy có hơi quỷ dị.
Chợt từ xa truyền tới từng đợt thanh la xập xòe cộng với tiếng tụng kinh đều đều của hòa thượng. Ngoài bến sông, ngư dân đang tổ chức lễ cúng cho đứa trẻ vừa chết, bọn họ đốt một đống quần áo mà nó thường mặc khi còn sống bên bờ sông, từ xa vẫn có thể nghe thấy mùi cháy khét lẹt.
Tiếng khóc của người phụ nữ ban sáng lại lần nữa vang lên thảm thiết. Tôi bắt đầu thực sự phát sợ, tay run run vội vã đóng cửa sổ lại, bất an quay lại ngồi lên ghế, ỉu xìu nói với hai người còn lại: "Tôi mặc kệ hết, sáng mai chúng ta về đi! Bọn khỉ nước này thực sự quá đáng sợ mà, tính mạng quan trọng hơn thanh kiếm kia nhiều!"
[1] Kiếm cách là một khối (thường là) hình chữ nhật nằm ở vị trí giữa chuôi kiếm và lưỡi kiếm, có tác dụng bảo vệ tay.
|
Chương 27: Thủ hồ (Tam) Bạch Dực mân mê chén trà trong tay, không nói gì; Lục Tử tuy có vẻ như muốn ở lại tìm tung tích của thanh cổ kiếm, nhưng nhìn dáng vẻ lo sợ của tôi cũng không dám ép. Đột nhiên ánh mắt Bạch Dực như lóe lên, dường như tự đắc vì đã nghĩ ra cái gì đó vậy, nhưng sự biến hóa này chỉ xẹt qua đáy mắt anh ta rất nhanh rồi nhanh chóng biến mất, trở lại vẻ lạnh nhạt như cũ, trước sau vẫn không mở miệng.
Tôi vốn định hỏi anh ta đã nghĩ ra cái gì, nhưng anh ta đã khéo léo dùng ngón trỏ của bàn tay đang cầm chén mà đặt nhẹ lên môi, ý bảo tôi đừng lên tiếng. Để không cắt đứt dòng suy nghĩ của anh ta, tôi cũng đành nhịn mà im lặng, chờ anh ta suy nghĩ cẩn thận đâu ra đó rồi chắc chắn sẽ giải thích. Buồn chán, tôi bèn lơ đãng nhìn ra ánh lửa xa xa ngoài cửa sổ, nghĩ thầm, quả nhiên là những người sinh ra bên hồ, lớn lên trong hồ, cuối cùng cũng gửi thân xác lại trong hồ, đó cũng có thể coi như một sự trở về. Tôi thở dài một hơi, u ám nhìn lướt qua mặt hồ đen đặc rộng lớn. Đột nhiên, giữa mặt hồ, tôi nhìn thấy... một cái bóng người trắng toát!
Lòng tôi trong phút chốc hoảng lên, thân hình của kẻ nọ rất mờ nhạt, ánh trăng chiếu lên người hắn làm thành một đường viền nhàn nhạt. Tôi không khỏi nghi ngờ, người này biết phép đi trên mặt nước hay sao? Bởi vì trông cái bóng thực sự như đang lướt trên mặt nước, nhưng vẫn hoàn toàn không làm cho mặt nước xao động, toàn bộ thân hình như tĩnh lại, kéo theo không khí xung quanh hắn cũng như ngưng đọng theo.
Một ý nghĩ toát ra trong đầu tôi, người này rất có thể chính là "Thủ quốc công" mà ông ngư dân ban chiều đã nhắc tới, nghĩ vậy, tự nhiên cảm thấy một cảm giác khao khát mãnh liệt muốn nhìn thấy hắn tận mắt, làm như nếu nhìn thấy người này thì có thể giải được hết mọi bí ẩn vậy. Mặc kệ hắn là thiện hay ác, là thần hay quỷ, thà tìm thấy hắn trước còn hơn chờ hắn tới tìm, không phải sao!
Để nhìn thấy rõ hơn, tôi vội vã tiến ra trước cửa sổ, nhìn chằm chằm vào cái bóng trên mặt hồ, cái bóng như được phủ mờ bởi tầng tầng ánh trăng huyền ảo. Đột nhiên tôi có cảm giác thật muốn, thật sự muốn lao đầu ra khỏi cửa sổ... bàn tay tôi đã nắm lên bờ cửa, nhưng khi tôi vừa mở rộng cửa ra, thì từ bên ngoài, một cái bóng đen thùi đã chồm lên. Khỉ nước! Nó nhe răng trợn mắt nhìn tôi, tròng mắt đỏ rực như máu. Tôi giật người lùi lại, nó đã xô mạnh vào vai tôi mà nhảy xổ vào phòng. Đang lúc cả đám người chúng tôi còn đang trở tay không kịp, trong phòng lại đột ngột... cúp điện! Lục Tử và Bạch Dực đều la lên. Chuyện xảy ra nhanh như một cái chớp mắt, ba người chúng tôi căn bản không kịp động đậy, vì ánh sáng bất thình lình biến mất nên chúng tôi cứ như ba kẻ mù, tôi vội vã giơ giơ tay ra trước hốt hoảng gọi: "Bạch Dực, Lục Tử! Hai người đâu rồi!"
Đột nhiên cảm thấy đụng phải một người, tôi tưởng là Bạch Dực, liền vội vàng nắm lấy tay người đó, nhưng chạm vào rồi mới thấy, đây tuyệt đối không thể là Bạch Dực được, vì tay áo hắn dài thượt, không phải quần áo của người hiện đại, mà cả người hắn lại ướt đẫm, cứ như... cứ như vừa bước lên từ dưới hồ vậy!!!
Tôi giật tay lại rút lui liền mấy bước, đụng phải ghế, lập tức ngã nhào xuống. Đôi mắt dần dần quen với bóng tối, tôi bèn nhìn chằm chằm vào bóng người đang đứng cạnh cửa sổ kia. Hắn mặc một chiếc áo dài thượt, rộng thùng thình, một tay đang vươn ra về phía tôi, lòng bàn tay mở rộng như đang đòi vật gì đó. Tôi lập tức hiểu ngay, hắn đang đòi lại khối kiếm cách ngọc! Đột nhiên cả người bị ai đó ôm chặt lấy, kéo về phía sau, tôi mất đà ngã vào lồng ngực người ấy. Nhìn lại thì phát hiện là Bạch Dực, trong lòng lập tức yên tâm, liền run run chỉ cho anh ta thấy người bên cửa sổ kia: "Hắn... dường như muốn lấy lại khối kiếm cách hay sao ấy!"
Lục Tử thì đang co người trốn dưới gầm bàn, cả người hắn run tới mức khiến cho cả cái bàn cũng run bắn theo, trong miệng liên tục lẩm nhẩm A di đà phật. Nhưng vấn đề là khối kiếm cách ngọc trên bàn đã không còn ở đó nữa, lẽ nào con khỉ nước lúc nãy đã cướp đi rồi sao? Chợt nghe Bạch Dực từ sau lưng nhẹ giọng thì thầm: "Thứ đó trong tay tôi, yên tâm đi."
Tôi mếu máo nói: "Chi bằng...chi bằng trả lại cho người ta đi, chúng ta còn giữ nó thì còn không được bình an!"
Cái bóng kia vẫn giữ nguyên tư thế như trước, không thèm động đậy. Toàn thân hắn tỏa ra một thứ hơi lạnh tiêu điều u tịch, ánh trăng chiếu xuyên qua người hắn, hắt lên mặt đất chút ánh sáng lờ mờ. Bạch Dực đỡ tôi đứng dậy, người kia cũng như một con rối, xoay người theo động tác của chúng tôi, cánh tay vẫn giơ ra, dường như hắn biết khối ngọc kia đang nằm trên tay Bạch Dực vậy.
Kỳ thực, so với bóng người không biết tên tuổi này, tôi còn sợ con khỉ nước không biết đang lẩn lút ở đâu trong phòng kia hơn. Nó không biết đang trốn trong xó xỉnh nào, bởi vì Bạch Dực không hề mở cửa phòng, cho nên nó cũng cứ thế giảo hoạt mà giấu mình trong bóng tối, chờ cơ hội nhảy ra.
Tôi liếm liếm đôi môi khô khốc, hỏi: "Ngươi... ngươi là ai?" Giọng nói khàn tới mức ngay cả tôi nghe thấy cũng giật cả mình.
Bóng người vẫn không hề lay động, cũng không thèm trả lời, từ người hắn có thể cảm thấy một loại khí độ lãnh ngạo đến cực điểm. Bạch Dực phía sau cũng bắt đầu thở gấp, có thể thấy ngay cả anh ta cũng bắt đầu lo lắng. Đúng lúc này, Lục Tử đột ngột hét to lên một tiếng, như thể vừa bị ai đó tóm được vậy. Tôi vừa nhìn thấy thì tim cũng gần như ngừng đập, con khỉ nước kia không dám ra tay với chúng tôi, mà lại chọn đúng Lục Tử thân cô thế yếu để tấn công, bọn quỷ này, quả thực là quá hiểm độc mà!
Lục Tử dường như bị bóp cổ, tiếng la trở nên gián đoạn lại khò khè, tôi lo lắng quay sang Bạch Dực: "Không ổn rồi! Lục Tử sắp chết tới nơi rồi, chi bằng chúng ta trả thứ đó lại cho hắn đi, cầu xin hắn cho chúng ta một con đường sống!"
Bạch Dực chỉ suy nghĩ trong chốc lát, một tay cẩn thận ôm chặt lấy tôi, tay còn lại nắm khối kiếm cách ném thẳng ra ngoài cửa sổ. Chỉ nghe Lục Tử hét thảm một tiếng, con khỉ nước lông lá đen ngòm kia đã nhảy phắt ra khỏi cửa sổ, bóng người màu trắng cũng thoáng cái biến mất.
Ba người chúng tôi ngồi phịch xuống đất thở hổn hển, mãi một lúc lâu sau khi có người tới gõ cửa mới hoàn hồn lại. Đứng trước cửa là ông chủ quán trọ, ông ta nói cầu dao tổng không biết bị ai chơi ác đóng lại, cho nên cả nhà trọ mới bị cúp điện. Lại nghe tiếng chúng tôi hét trên này nên lên xem thử, vừa nói xong thì gian phòng cũng đúng lúc sáng lên. Chỉ có một cái ghế ngã chỏng chơ trên sàn, Lục Tử thì cuộn tròn người dưới bàn, bưng cái cổ ra sức thở hào hển.
Tôi vội vàng lên tiếng giải thích với ông chủ đang há hốc miệng ngạc nhiên: "Bạn của tôi lúc nhỏ gặp tai nạn, cho nên bây giờ cứ mỗi lần cúp điện đột ngột là lại như vậy đó, đây là một loại bệnh tâm lý thôi, không sao hết!"
Ông chủ nghe thế cũng gật đầu: "Là vậy sao, thật không phải, đột nhiên xảy ra chuyện này tui cũng rất xin lỗi, có cần tụi tui đưa bạn cậu tới bệnh viện không?"
Tôi vội vã xua tay: "Không, không cân đâu ạ, cậu ta chỉ cần nghỉ ngơi một lát là khỏi ngay ấy mà. Bác cứ đi lo công chuyện đi, ở đây không còn gì phải lo nữa đâu."
Ông chủ lo lắng nhìn lại Lục Tử thêm một lần nữa, nhưng không nói thêm gì mà vội vã rời đi. Tôi lập tức đóng chặt cửa, nói với Bạch Dực: "Thứ kia có được khối ngọc rồi, chắc sẽ không quay lại nữa đâu nhỉ?"
Lục Tử đã bắt đầu bình thường trở lại, hắn lảo đảo đứng lên bước tới ngồi phịch xuống ghế, bưng ngực thều thào: "Đúng đó, trả lại cho hắn là đúng, có chủ nhân hung ác như vậy, thứ kia mà mang về cũng chỉ mang tới tai họa thôi..."
Bạch Dực trầm mặc nhìn chúng tôi hồi lâu, mãi sau mới thản nhiên nói: "Tôi chưa trả thứ đó lại cho hắn."
Chúng tôi vừa nghe tháy, liền trợn mắt lên nhìn anh ta, không sao tin nổi, giọng của Lục Tử cũng run lên: "Ối đại ca ơi! Sao anh còn giữ lại cái thứ gây tai họa này làm cái gì!!! Anh đâu phải là loại người vì nghĩa mà quên mạng đâu hả? Hả?!"
Tôi cắt ngang màn quỷ rống của Lục Tử, vì biết Bạch Dực làm thế chắc chắn có lý do của anh ta, cho nên tôi chỉ cố gắng giữ bình tĩnh mà hỏi: "Lão Bạch, anh giữ lại thứ này làm gì? Dù sao nó cũng đâu có quan trọng với chúng ta lắm?"
Bạch Dực lấy khối kiếm cách từ trong túi quần ra mà đáp: "Nếu trả lại nó rồi, coi chừng không quá ba ngày sau chúng ta đều phải ra ma hết, ai cũng chạy không thoát. Chỉ có giữ nó lại mới có đường sống."
Bạch Dực nói thế tôi mới sực nhận ra, người này thực sự sẽ không cho chúng tôi được sống sót. Vì sao hắn lại không để ai bước chân tới mé tây hồ? Vì sao đứa bé kia lại bị khỉ nước tha xuống chết đuối? Cách giải thích duy nhất là vì đứa bé đó chính là người đầu tiên bắt được khối kiếm cách. Cho nên nó phải chết. Mà người kế tiếp giữ kiếm cách trong tay là tôi liền biến thành mục tiêu truy sát của khỉ nước. Vì kẻ đó muốn giữ kín bí mật của cổ kiếm, cho nên ra sức phong tỏa mọi tin tức dẫn tới kiếm, nếu chúng tôi còn sống thì tức là mối đe dọa vẫn còn. Cho nên, chỉ có cách tốt nhất để giữ bí mật, đó là khiến cho ba người chúng tôi vĩnh viễn câm miệng, vì người chết là loại người duy nhất sẽ không bao giờ để lộ bí mật ra ngoài.
Lòng tôi lạnh toát, bất giác quay lại nhìn Bạch Dực. May có anh ta, may mà anh ta nghĩ ra, không bị tình huống nguy hiểm tức thời làm bối rối tinh thần, bằng không nếu lúc nãy giao ra lá bùa hộ mệnh duy nhất này rồi thì tiếp theo đúng là chỉ còn có nước chờ chết.
Lục Tử rốt cuộc cũng hiểu ra tình hình, thở dài một tiếng nói: "Vậy bây giờ chúng ta phải làm sao? Chẳng lẽ cứ ở đây chờ người kia quay lại tính sổ? Hắn mà biết chúng ta lừa hắn, đảm bảo sẽ không để chúng ta yên lành rời khỏi đây đâu!"
Bạch Dực ngẩng đầu nhìn mặt hồ ngoài cửa sổ, đáp: "Cho nên chúng ta phải chủ động đi tìm hắn, ra điều kiện!"
Nguyên cả đêm đó chúng tôi không sao chợp mắt nổi, Lục Tử nắm chặt khối khai quang cổ ngọc mà sư phụ hắn cho trong tay, niệm kinh lầm rầm cả đêm. Tôi ngồi canh bên cửa sổ, dùng cây móc áo chặn chặt cửa sổ lại, không cho khỉ nước phá cửa xông vào. Bởi vì tôi có cảm giác, lũ khỉ nước này vẫn giữ được trí thông minh của con người, chỉ hình dạng bên ngoài là bị biến đổi mà thôi. Đã là như thế thì những trò như cạy cửa sổ chắc chắn cũng không thể không biết.
Nhưng đáng lo nhất lại chính là Bạch Dực, cả đêm anh ta nắm khối kiếm cách trong tay, không biết suy nghĩ gì mà trầm tư, mặt mày nghiêm trọng kinh khủng. Lục Tử mấy lần gọi, nhưng anh ta đều không nghe thấy. Tôi xua xua tay với Lục Tử, ra hiệu cho hắn đừng làm phiền Bạch Dực. Bởi vì tình huống lúc này của chúng tôi, ngoại trừ trông cậy vào khối ngọc trong tay anh ta để cứu mạng thì không còn cách nào khác.
Một đêm ngủ không yên, phương đông đã hửng sáng tự lúc nào. Ánh trăng trút xuống những lớp sáng nhạt cuối cùng, dần dần bị thay thế bởi những tia nắng chói lọi của vầng thái dương. Ánh sáng ban ngày có hơi chói mắt, tôi động đậy cơ thể, gãi gãi đầu tỉnh giấc, hóa ra cuối cùng vẫn là trụ không được, ngủ thiếp đi tự lúc nào. Trên người tôi đắp cái áo khoác của Bạch Dực, anh ta vẫn đang ngồi bên bàn mà nhìn chằm chằm khối kiếm cách trong tay, tròng mắt đỏ quạch, dường như cả đêm không ngủ.
Lục Tử còn nằm yên trên giường ngủ say như chết, miệng há hốc ngáy khò khò, trong tay còn nắm chặt khối ngọc của hắn không dám buông. Tôi lắc lắc cái cổ cứng đờ, bước tới hỏi Bạch Dực: "Thế nào? Có biện pháp gì chưa?"
Anh ta thấy tôi đã tỉnh, liền cầm lại áo khoác của mình, sờ sờ cằm mà nói: "Xem ra muốn giải quyết dứt điểm thì buộc phải tới bên hồ một lần nữa. Khối ngọc này thế nào cũng phải tra lại cho hắn, nhưng chúng ta cũng phải buộc hắn hứa không được làm hại chúng ta mới được. Nếu không có ngày chết chìm trong bồn rửa mặt nhà mình mất."
Chúng tôi thực sự không ham muốn thứ này, dù sao với tôi mà nói cả câu chuyện này chỉ là một lần gặp chuyện không may mà thôi, nếu như được lựa chọn tôi thà không bao giờ bước chân tới chỗ này. Nghĩ đến đây, tôi lại không khỏi lườm cái kẻ đầu sỏ gây chuyện kia một cái.
Bạch Dực nhìn tôi, bình thản nói tiếp: "Biện pháp của tôi lúc này cũng chỉ dựa trên sự suy đoán, cho nên chắc chắn là có nguy hiểm. Tỉ lệ thành công có khi chỉ có 50%, cho nên tôi định chuyện này để một mình tôi giải quyết được rồi, cậu về trước với Lục Tử đi. Nếu như..."
Tôi lập tức chặn ngang không cho anh ta nói nữa. Lại bắt đầu cái bệnh anh hùng cá nhân rồi, đây có phải là chuyện cá nhân của anh ta đâu? Đã nguy hiểm như vậy thì càng cần phải có người giúp đỡ chứ? Hơn nữa chẳng lẽ anh ta cho rằng tôi về nhà sẽ an toàn sao? Nếu lỡ mà anh ta thất bại, tôi vẫn như cũ chết đuối trong bồn rửa mặt chứ ích gì? Vì thế, tôi kiên quyết hăm he: "Tôi không quay về, tôi ở lại với anh! Thằng nhóc Lục Tử này nhát lắm, đá cậu ta về trước đi!"
Bạch Dực lắc đầu: "Lần này tôi quả thực không dám cam đoan là có thể bảo vệ tốt cho cậu, nếu chẳng may... chẳng may cậu xảy ra chuyện gì... tôi... tôi làm sao ăn nói với cha mẹ cậu...?"
Tôi trừng mắt với anh ta một cái, anh ta khinh tôi là con nít lên ba sao? Vì thế cố tình nói bằng một giọng nặng nề hơn: "Đừng nói loanh quanh, muốn chê tôi vô dụng thì cứ nói thẳng đi! Tôi thì tôi nói thật nhé, anh nghĩ tôi không muốn chạy chắc?! Nhưng vấn đề ở đây là nếu anh thất bại thì tôi có thể chạy đi đâu nào? Hung tinh đêm qua anh cũng thấy rồi đó, anh xem chạy thoát nổi không?!"
Anh ta khẽ nhún vai, ý nói tôi cũng có lý. Suy nghĩ một chút, cuối cùng anh ta nói: "Cậu nói phải, vậy cậu ở lại đi, nhưng phải nghe theo lời tôi đấy."
Tôi vội vã gật đầu. Anh ta nhìn tôi thở dài một tiếng, lắc lắc đầu nói: "Ngày hôm trước lúc mới tới đây tôi đã nhận thấy ở đây có một luồng oán khí rất nhạt, nhưng lại thấy phong thủy không có vấn đề nên cũng không dám chắc. Nhưng nay xem ra, đúng là không có lửa làm sao có khói."
Anh ta mân mê khối kiếm cách ngọc trong tay, tư lự một chút rồi nói tiếp: "Thực ra chúng ta đều có thể đoán được, tất cả cũng chỉ là vì kẻ đã nhảy xuống hồ tự tử kia, mà tấm bia đá trong rừng có lẽ chính là thứ cuối cùng hắn lưu lại trước khi chết." Dừng một chút, anh ta tiếp lời: "Hắn chết thì ôm theo thanh cổ kiếm này, vậy chắc hẳn phải là quý tộc Ngô quốc, hơn nữa nhất định có quan hệ tới Ngũ Tử Tư."
Tôi hoàn toàn hiểu được cách suy luận của Bạch Dực, đích xác là nếu Phù Sai vẫn còn giữ Câu Nguyệt cổ kiếm trong tay thì chắc chắn thiên hạ cũng không rơi vào tay Câu Tiễn."
Tôi nói: "Trên tấm bia nói hắn là 'sĩ vi tri kỉ giả tử', lẽ nào hắn là vì Ngũ Tử Tư mà nhảy hồ tự vẫn? Mà ôm theo Câu Nguyệt cổ kiếm là vì để trả thù Ngô vương nghe lời gian thần dèm pha mà hãm hại trung lương?"
Bạch Dực lắc đầu: "Cái này không biết, nhưng nếu hắn có thể chết vì tri kỉ thì có thể coi như một người nghĩa sĩ. Cần phải đến đó để xem xem hắn rốt cuộc vì nỗi khổ gì mà giữ hồ này lâu đến vậy còn không tan nổi oán khí, nói không chừng đó mới là cơ hội cứu mạng của chúng ta."
Tôi sửng sốt nhìn anh ta, cuối cùng cũng hiểu hết, tất cả những gì Bạch Dực suy đoán nãy giờ đều chỉ là dựa trên một tiền đề, đó là kẻ dưới hồ kia phải là một con quỷ "lương thiện". Phải đi bàn bạc với một con quỷ "có nhân nghĩa", "có tính người" để hi vọng nó mở cho chúng tôi một con đường sống... Thảo nào mà Bạch Dực muốn tôi về nhà trước, nhiệm vụ này... thật sự quá sức, cho dù là đối với bất kỳ ai.
Bạch Dực nhìn ra suy nghĩ của tôi, xấu hổ húng hắng ho, rồi đến bên giường lay lay Lục Tử dậy. Tên khốn Lục Tử này thật xấu nết ngủ, há hốc miệng ra chảy nước miếng đầy mặt. Bị Bạch Dực đẩy, hắn lăn người một cái, dựng phắt dậy gào thét trong vô thức: "Có khỉ nước! Có khỉ nước tới!!!"
Tôi tát cho hắn một cái vào ót, hắn làm mất mặt tôi quá, chẳng còn nhỏ nhít gì mà sao nhát gan thế không biết! Tôi thở dài nói: "Lục Tử, tôi và anh Bạch Dực bàn xong rồi, cậu về nhà trước đi, ở đây để kệ tụi tôi tự xử lý."
Hắn cuối cùng cũng tỉnh táo ra, ngồi lại trên giường chùi chùi nước miếng mà nói: "Hai người liệu giải quyết nổi không? Nếu không được thì tớ có biết một ông đạo trưởng Long Hổ Sơn, hay là thỉnh ổng xuống giúp hai người một tay?"
Bạch Dực lắc đầu: "Nước xa không cứu được lửa gần, huống chi có thỉnh ông đạo trưởng đó tới có khi cũng chỉ là hại người ta bị kéo xuống nước thôi. Loại chuyện này nên tự giải quyết thì hơn."
Lục Tử cúi đầu ngẫm nghĩ một chút, cuối cùng nói: "Thôi được, tớ ở lại đây cũng không giúp được gì, vầy đi, để tớ trở về tra tìm tư liệu về cái hồ này đã, cho dù có phải quật ba thước đất cũng phải biết chuyện về cái hồ quỷ này!" Nói xong không thèm đánh cả răng, chỉ lau lau cái mặt vài cái rồi mặc quần áo biến mất. Nhìn theo bóng lưng của hắn, tôi thực sự không biết hắn là nóng lòng muốn tra tư liệu, hay là vội vàng đào tẩu đây...
|
Chương 28: Thủ hồ (Tứ) Sau khi Lục Tử bỏ chạy rồi, trong phòng chỉ còn tôi và Bạch Dực. Anh ta mặc áo khoác, bước ra mở cửa sổ, tiếng chim hót ríu rít liền tràn vào phòng. Tôi loay hoay chuẩn bị vài thứ, mà thực ra là cũng không biết phải mang theo cái gì, vì thế hết nhét cái này vào lại bỏ cái kia ra, chờ Bạch Dực ra rồi cùng đi. Bạch Dực quay lại nhìn tôi, bật cười: "Cậu mang theo nhiều thứ thế làm gì?"
Tôi ra sức nhét một cái cờ lê sắt to vào túi xách, ngẩng đầu đáp: "Chuẩn bị chứ làm gì, vậy chừng nào chúng ta đi kiếm người kia?"
Anh ta nhìn tôi lắc đầu đầy vẻ bất đắc dĩ, dở khóc dở cười mà nói: "Muốn gặp cũng phải chờ đến tối, chứ ban ngày ai mà thèm ra cho cậu gặp. Tôi chuẩn bị đi câu cá đây, muốn đi cùng không?"
Tôi xấu hổ bỏ cái cờ lê ra, mặc áo khoác theo Bạch Dực xuống nhà ăn. Ban ngày người qua lại rất tấp nập, nào là ngư dân giăng lưới đánh cá, nào là những sạp hàng bán đồ lưu niệm nho nhỏ tranh nhau mở cửa. Cảm giác sợ hãi thấp thỏm cũng tan đi ít nhiều nhờ vào bầu không khí náo nhiệt đầy sức sống này. Bạch Dực có vẻ cực kỳ bình tĩnh, gần như không có vẻ gì là bị chuyện đêm qua dọa, kiếm cách cuối cùng vẫn là nằm lại trên người tôi, vì theo Bạch Dực nói, nếu thực sự cuối cùng mà thất bại thì cứ cầm chắc khối ngọc mà cao chạy xa bay, dựa vào chuyện đêm qua cũng có thể thấy, chỉ cần trong tay chúng tôi có ngọc thì hắn không thể trực tiếp uy hiếp tới chúng tôi được, coi như là một cơ hội cuối cùng.
Chỉ nhìn vẻ bề ngoài thì dường như chúng tôi là hai du khách nhàn nhã đi câu cá như mọi người, thế nhưng có trời mới biết sắp tới có thể xảy ra những chuyện kinh khủng gì. Giữa đám dân làng có mấy người thắt dải xô trắng bên thắt lưng, tất cả bọn họ đều cố tình tránh mặt chúng tôi, đến nhìn còn không dám nhìn, làm như sợ bị xui vậy.
Hồ nước vẫn trong suốt hữu tình, Bạch Dực vẫn câu cá thần sầu như cũ. Nhưng tôi không có hứng quan sát, chỉ cúi đầu ra sức suy nghĩ để mong có thể tìm ra cách gì trong mớ bùi nhùi này chăng, nhưng vẫn không có kết quả gì.
Tôi đột nhiên cảm thấy sự yên tĩnh lúc này mới là đáng sợ nhất, đó là một cảm giác hoàn toàn bất lực trước một thế lực vô hình, một loại phó mặc cho số trời. Thời gian trôi qua chậm khủng khiếp, mang theo một cảm giác áp lực kỳ lạ, khiến tôi càng lúc càng cảm thấy như bản thân bị đè bẹp dưới một khối sợ hãi cùng bức bí. Dạ dày tôi chẳng hiểu vì sao mà tự nhiên nhói đau, Bạch Dực thấy tôi biến sắc, vội lo lắng hỏi tôi làm sao vậy.
Tôi không muốn cho anh ta thấy sự yếu đuối của mình, chỉ vì chút áp lực này mà đau dạ dày, liền cắn răng nói: "Không sao cả."
Anh ta buông cần câu nói: "Vào trong đình ngồi đi, ngoài này gió lớn. Dù sao còn lâu mới tới tối."
Tôi gật đầu. Mặt hồ đang phẳng lặng chợt gợn gió, mặt nước chập chờn dâng cao lên, nhưng ngư dân ở đây dường như đã quen với hiện tượng này, nên vẫn thản nhiên gỡ lưới, không thèm để ý tới sóng gió. Gió cuốn theo những hạt nước li ti từ mặt hồ hất tung lên trời, khiến không khí càng thêm ẩm ướt. Nhiều du khách đều đứng dậy thu thập đồ dùng quay về nhà trọ, tôi cùng Bạch Dực cũng thu dọn bước vào căn nhà gỗ nhỏ dùng làm chỗ cho khách nghỉ chân trước nhà trọ. Nơi này thực ra là một căn đình nhỏ, tên đặt cũng cực kỳ phong vận cổ xưa: "Chấp thủ đình". Bên trong có quầy bán một ít đồ ăn lặt vặt. Nhìn thấy nó, tôi mới nhớ cả ngày hôm nay chưa ăn gì, thảo nào dạ dày lại đau. Bèn tới quầy bán hàng, mua một đĩa bánh bao, ăn một cái, cảm giác cả người đều ấm áp hẳn lên.
Nhưng khi tôi quay lại định hỏi Bạch Dực có muốn ăn không thì đột nhiên phát hiện, anh ta đã biến mất đi đàng nào rồi! Lòng tôi hoảng lên, lập tức dáo dác nhìn xung quanh tìm kiếm, lại bất thình lình nhìn thấy bóng Bạch Dực đang chạy thẳng về phía hồ, dường như đã nhìn thấy cái gì đó vậy. Tôi sốt ruột, vội buông đĩa bánh bao xuống, xốc ba lô trên lưng rồi xông ra ngoài đuổi theo.
Gió gào thét mạnh mẽ, tiếng sóng cuộn ào ạt trên hồ tạo thành một thanh âm tràn đầy cuồng nộ lẫn đe dọa. Tôi chạy dọc theo bờ sông thoai thoải, không thèm quan tâm đã đụng phải bao nhiêu người trên đường đi. Nhưng dần dần thể lực của tôi cũng cạn kiệt, đành nửa ngồi nửa đứng trên đất mà thở hồng hộc. Chờ một lúc cho lại sức, tôi gạt mồ hôi lạnh trên trán, muốn tiếp tục chạy theo thì mới nhận ra, Bạch Dực đã hoàn toàn biến mất.
Tôi nhất thời cảm thấy cả sự tồn tại của mình cũng như chao đảo bất an. Vì Bạch Dực rất hiếm, rất hiếm khi bỏ tôi lại một mình. Chỉ khi nào nhìn thấy cái gì đó cực kỳ khẩn cấp, cực kỳ nguy hiểm mới có thể khiến một người bình tĩnh như Bạch Dực phải hốt hoảng. Lúc này chỉ còn có một mình, đột nhiên sự bất an tràn lên. Tôi đứng lên, nhìn bốn phía. Chỗ này là đầu cùng của khu du ngoạn, xung quanh không có bóng khách du lịch. Ngay khi chuẩn bị quay lưng chạy về, tôi lại thấy bóng dáng Bạch Dực đứng bên cạnh tấm bia đá dưới tàng cây trong rừng, trong lòng tôi ngạc nhiên, anh ta tới đó làm gì nhỉ?
Nhưng lúc này đã tìm được anh ta, lòng tôi cũng nhẹ nhõm không ít, vội nghiêng người nhảy qua hàng rào bảo vệ tiến tới bên cạnh Bạch Dực. Cảm giác dưới chân bùn đất ướt nhơm nhớp, nên mãi một lúc sau tôi mới lép nhép lê người tới được. Bạch Dực đang đứng trước tấm bia, xoay lưng lại phía tôi, nên tôi không nhìn thấy vẻ mặt anh ta lúc này, nhưng đoán rằng cuộc chạy việt dã lúc nãy của anh ta phải có lý do chính đáng, nhưng khi tôi vừa định đưa tay kéo tay Bạch Dực về phía mình, chợt từ phía sau... truyền tới một tiếng hét to của Bạch Dực?! Trong tích tắc, mồ hôi lạnh túa ra ướt đầm trán. Giọng nói phía sau là của Bạch Dực, vậy... vậy bóng lưng trước mặt tôi đây là... ai?!
Bạch Dực vẫn không ngừng gọi to sau lưng, nhưng đầu óc tôi lúc này đã mụ mị cả ra, căn bản không nghe được anh ta đang nói gì! Chỉ biết đần người ra đứng chính giữa, giữa hai người Bạch Dực! Thân ảnh đang đưa lưng về phía tôi chợt bắt đầu run lên. Tôi giật thót mình, cảm giác như có một dòng điện vừa truyền vào người mình, từ miệng hắn truyền ra một giọng nói hoàn toàn không giống chất giọng thanh lãnh của Bạch Dực. Tôi cảm thấy, như để đáp lại chất giọng đó, từ bốn phía trong rừng cây có rất nhiều thứ đang sột soạt, sột soạt bò tới. Từng bóng từng bóng đen thui lướt qua, tốc độ nhanh như ma quỷ, trước khi tôi kịp hoàn hồn thì một con khỉ nước đã nhanh như chớp lao vút từ trong bụi cây ra, nhảy xổ vào người tôi. Gần như cùng lúc đó, tôi cũng bị Bạch Dực từ phía sau lưng nhảy tới xô té lăn ra đất. Tôi bị đè dưới người anh ta, cả mặt đập xuống đất, miệng đầy bùn đất. Tôi hốt hoảng nhìn lại phía sau, đúng là Bạch Dực, đang lo lắng nhìn tôi. Tôi lập tức ngẩng lên nhìn về phía tấm bia đá, phát hiện "Bạch Dực" đứng trước đó vẫn không hề động đậy, chỉ có rất nhiều, rất nhiều nước đang tràn ra dưới chân hắn, hắn lúc này giống như một cái bình chứa đầy nước.
Bạch Dực vội kéo tôi dậy, dường như rất ái ngại cho cái mặt đầy bùn của tôi, nhưng hoàn cảnh hiện tại không phải lúc lo lắng chuyện bẩn sạch, Bạch Dực giả trước mặt chúng tôi vẫn không có động tĩnh. Vì thế Bạch Dực liền nháy mắt với tôi một cái, chúng tôi chậm rãi từ từ lùi về phía sau từng chút một, ánh mắt tôi không hề rời khỏi bóng lưng trước mặt, phát hiện từ người hắn toát ra một loại cảm giác bi ai vì xuống dốc nào đó. Từ trong rừng phát ra một tiếng hú của khỉ nước thê lương rợn cả người, khắc sâu vào màng não của tôi, tựa như tiếng rên rỉ cầu cứu cuối cùng của một linh hồn vừa đọa vào lòng nước thẳm.
Tôi run bắn lên, nắm chắc khối kiếm cách ngọc trong túi, thấp giọng hỏi Bạch Dực: "Sao anh bảo ban ngày hắn không ra được kia mà!"
Bạch Dực rõ ràng cũng rất ngạc nhiên, anh ta đã đánh mất vẻ bình thản thường ngày, giọng nói cũng hơi run lên: "Người này thực sự điên rồi, hắn căn bản là không muốn sống nữa mà, muốn xuất hiện ban ngày một lần là tiêu hao biết bao nhiêu nguyên khí chứ!"
Từ kẻ nọ thoát ra một tiếng thở dài, như thể đã biết ván cược cuối cùng của mình cũng đã thất bại rồi vậy. Nhưng hắn quả thực quá nguy hiểm, nói như Bạch Dực thì khác nào hắn đã chuẩn bị tinh thần cùng chúng tôi đồng quy vu tận? Loại quỷ cực đoan tới mức này tôi cũng mới thấy lần đầu. Nếu hắn là con người thì cũng là một kẻ cảm tử! Tôi e dè nói: "Lão Bạch, anh cho rằng chúng ta có bao nhiêu phần trăm có thể thoát ra ngoài an toàn?" Tôi không phải không sợ, nhưng chẳng hiểu vì sao lúc này lại cảm thấy điềm tĩnh đến thế. Dường như càng nguy hiểm, con người càng bình tĩnh hơn thì phải? Hay là... đây chính là cảm giác chờ chết...?
Bạch Dực chỉ im lặng chốc lát, sau đó thở dài, làm như đã quyết định xong một điều vô cùng khó khăn vậy. Anh ta gật đầu, nói: "Thứ này đã không còn bao nhiêu năng lực của ngày trước nữa, có lẽ toàn bộ nguyên hồn của hắn vốn là bám trên thân kiếm, cổ kiếm bây giờ không được toàn vẹn, cho nên chỉ bằng chút oán khí hiện nay của hắn cũng không đủ để duy trì sức mạnh." Nói xong, anh ta không lùi lại nữa mà ngược lại, quyết định kéo tay tôi tiến về phía trước. Tôi vẫn rất sợ, chỉ để mặc cho Bạch Dực kéo cả người mình tới.
Con quỷ vẫn đứng đưa lưng về phía chúng tôi, nhưng dường như hắn đang kiêng kị cái gì, vì hai bờ vai càng run dữ dội hơn. Trong lòng tôi có hơi lo lắng, nhưng vẫn để ý chặt bọn khỉ nước lẩn lút xung quanh. Con quỷ này dường như không thể tấn công chúng tôi trực tiếp, cho nên mối đe dọa lớn nhất chính là lũ khỉ nước đang chực chờ xông lên này.
Thế nhưng điều không ngờ nhất là, lũ khỉ nước vừa nhìn thấy con quỷ kia thất thế là từng bước từng bước, bộ dạng vô cùng nôn nóng, nhe nanh múa vuốt tìm cách xiết chặt vòng vây xung quanh hắn, rống từng hồi tức giận. Thanh âm của chúng chói tai tới mức tôi phải nổi hết da gà. Thấy cảnh đó, tôi ngạc nhiên nên kéo tay Bạch Dực hỏi: "Lũ khỉ nước này không phải thuộc hạ của hắn sao? Sao lại có cảm giác như chúng có thâm thù đại hận với hắn vậy?"
Bạch Dực lạnh lùng nhìn xung quanh, vẻ mặt cực kỳ nghiêm túc. Anh ta nói: "Đương nhiên là thâm thù đại hận rồi, đám khỉ nước này kỳ thực chỉ hận không thể cắn chết người này ngay lập tức mà thôi, hắn hại những linh hồn bị chết đuối không được siêu sinh, vĩnh viễn phải ở lại làm khỉ nước bảo vệ cái hồ này cho hắn. Nói theo cách của người phàm trần chúng ta là chế độ độc tài, quan ép dân làm phản đó mà."
Tôi không hề quan tâm tới cuộc khởi nghĩa nông dân của đám quỷ này, lúc này mạng sống là quan trọng nhất, vì thế bèn nói với Bạch Dực: "Nhân cơ hội chúng nội chiến với nhau, chúng ta chạy mau!"
Nhưng Bạch Dực làm như không nghe thấy, chỉ kéo tôi tới sát bên người, sau đó quay sang nói với con quỷ kia: "Hiện tại, nếu ngươi muốn an toàn thoát hiểm chỉ có cách là lấy lại khối kiếm cách ngọc này mà thôi, đúng không?"
Nam quỷ nghiêng người gật đầu, cho dù bị nhiều khỉ nước vây quanh như vậy mà trông hắn vẫn không có vẻ hốt hoảng nhiều cho lắm, ngược lại có một loại khí phách thấy chết không sờn, khiến tôi không khỏi cảm thấy kính phục vị Quỷ Vương này.
Nhưng vừa nghĩ thế thì một con khỉ nước đã nhảy xổ ra, liều mạng xông tới định cắn hắn. Con quỷ phản ứng cực nhanh, lách mình một cái tránh sang một bên, sau đó ánh đao trên tay hắn lướt qua, con khỉ nước liều lĩnh đã bị hắn chém đứt đầu. Cái đầu vẫn còn nguyên vẻ hung dữ, cái miệng há hốc như muốn rống lên, nhưng tiếng rống đã bị tắc nửa chừng trong cổ họng chỉ còn phát ra một tiếng "hộc" đau đớn, sau đó nó rất nhanh biến thành một bãi nước đen ngòm, đồng thời cả người con khỉ nước cũng tan chảy, chỉ còn một ít nước loang trên đất.
Đám khỉ nước xung quanh nhìn thấy đồng loại chết thảm, đều kêu gào thảm thiết, nhưng không có con nào dám xông lên nữa. Mặc dù tôi phải nói rằng, tuy Quỷ Vương này võ công rất cao, chỉ một cái vung tay đã lấy đầu một con khỉ nước, nhưng nếu cả đám cùng xông lên thì mặc kệ hắn có là Độc Cô Cầu Bại đi nữa cũng chỉ có thể bị xé thành từng mảnh mà thôi.
Bạch Dực chỉ liếc nhìn đám nước một cái, không hề tỏ ra sợ hãi giống tôi, trong mắt kiên định thêm vài phần, như thể những phán đoán trước đây của anh ta nay đã được xác thực vậy. Bạch Dực trấn tĩnh quay lại kẻ kia nói: "Đã như vậy, cả hai bên chúng ta đều là tiến thoái lưỡng nan, chúng ta trả thứ kia lại cho ngươi, nhưng ngươi phải thả chúng ta đi, đối với chúng ta mà nói thứ kia bất quá chỉ là một cục đá mà thôi."
Tôi thật không ngờ Bạch Dực dám ra điều kiện một cách thẳng thừng như vậy, nhưng hiển nhiên nam quỷ có vẻ rất cân nhắc những lời này, hắn cúi đầu suy tư một chút rồi lên tiếng, giọng nói của hắn còn rất trẻ, nhưng ngữ điệu cực kỳ cổ quái, nếu không phải đang ở trong hoàn cảnh này thì chắc tôi đã phá lên cười, nhưng lúc này, từng lời từng chữ của hắn đều quyết định vận mạng của chúng tôi.
Thế nhưng điều kỳ quái nhất là tiếng nói của hắn dường như phát ra từ tấm bia đá, chứ không phải từ chính cái bóng của hắn, hắn lạnh lùng nói: "Trả thần vật cho min.[1]"
Tôi nghe như hắn đang diễn tuồng, nhưng cũng may là còn hiểu được, nếu hắn mở miệng, tức là còn cơ hội thương lượng với nhau. Vì thế tôi cũng tiếp lời: "Thần vật mà ngươi nhắc tới phải chăng chính là khối kiếm cách bằng ngọc trên thân Câu Nguyệt cổ kiếm?"
Hắn gật đầu, từ từ xoay người lại, khi tôi nhìn thấy khuôn mặt của hắn, hắn đã không còn mang dáng dấp Bạch Dực nữa, mà là mặc một thân trường bào trắng toát, bên hông thắt đai lưng theo kiểu người cổ đại. Trên đầu hắn đội lễ quan phục sức kiểu thời Xuân Thu, hai sợi tua thả hai bên, cột lại dưới cổ. Gương mặt hắn có thể nói là còn rất trẻ, dường như còn nhỏ hơn tôi vài tuổi, nhưng tại thời cổ đại có lẽ đã qua tuổi nhược quán[2], chỉ có điều trên gương mặt trẻ trung là vậy mà lại mang theo một vẻ tang thương không thể hiểu nổi. Tay phải hắn cầm một thanh kiếm mục nát hoen gỉ như đồng nát, thực sự không dám tin đó chính là thanh kiếm đã chém đứt đầu con khỉ nước lúc nãy. Hắn lạnh lùng nhìn chúng tôi, nhưng khi nhìn sang Bạch Dực, đột nhiên cả người hơi sững lại, rõ ràng là giật mình. Nhưng cũng rất nhanh khôi phục lại vẻ bình thản ngạo nghễ trong mắt.
Cơ thể hắn vẫn tiếp tục rĩ nước, đất xung quanh đã bị hắn làm cho ướt sũng. Bạch Dực lạnh nhạt nói với hắn: "Ngươi chính là con trai út của Phù Sai, Ngô Cô Miệt phải không."
Tôi vừa nghe lập tức sững sờ, đứng trước mặt tôi đây chính là đứa con cuối cùng của Ngô vương Phù Sai từ mấy ngàn năm trước ư? Như vậy, hắn chính là vương tử của Ngô quốc rồi?
Hồn ma nghe thấy có người gọi đúng tên của mình bèn hơi run lên, nhưng dù vậy thì hắn vẫn đĩnh đạc mà đứng yên, trong tay nắm chặt thanh Câu Nguyệt cổ kiếm đã loang lổ. Hắn nhìn chúng tôi, trong mắt ẩn ẩn hoài niệm, bắt đầu lên tiếng kể cho chúng tôi nghe một câu chuyện có từ thời Ngô quốc.
Ngô vương lúc đó điên đảo vì Tây Thi, tin tưởng gian thần mà tước hết mọi quyền hành của Ngũ Tử Tư. Còn hắn tuy là vương tử của Ngô vương, nhưng lại không phải là trưởng tử, không có bao nhiêu quyền hành, cuối cùng chỉ biết trơ mắt nhìn vị thầy học đáng kính của mình là Ngũ Tử Tư bị tước hết binh quyền, sau đó lại bị bức tử, thi thể cũng bị quấn vào chiếu đem vứt xuống sông. Hắn lúc đó không quyền không thế, tuy muốn cứu thầy, nhưng cũng không có cách nào lay chuyển nổi quyền lực của đám gian thần, không có cách nào cảnh tỉnh được phụ vương đã bị tửu sắc làm mờ mắt.
Hắn nghĩ tới những lời cuối cùng của Ngũ Tử Tư, rằng ông còn thì Ngô quốc còn, ông mất thì Ngô quốc vong, lại nhìn quê hương lay lắt như ngọn đèn trước gió, vận mệnh quốc gia sắp mất, vì vậy vừa mang tang thầy, vừa sắp mất nước, hai chấn động nặng nề đối với vị vương tử trẻ tuổi của nhà họ Ngô--rốt cuộc, hắn đã mang theo hi vọng cuối cùng, Câu Nguyệt cổ kiếm mà nhảy xuống sông tự vận. Hắn mong muốn có thể bảo vệ được thanh kiếm này dưới hồ, bảo vệ trụ cột cuối cùng của quốc gi, dùng thần binh lợi khí giữ lấy mong ước cuối cùng, lưu lại ranh giới thiên lý mà các bậc tiền nhân đã dày công chiếm giữ.
Hàng trăm hàng ngàn năm sau đó, hắn vẫn một mình thủ giữ một khoảng hồ mênh mông, giữ kiếm, đó đã trở thành ký thác cuối cùng của linh hồn hắn. Dần dần, linh hồn hắn và kiếm đã hòa thành một thể, mà tất cả những oan hồn chết đuối trên sông, vì oán khí thiên cổ không tán tích tụ trong kiếm mà đều không thể siêu sinh, vĩnh viễn hóa thành khỉ nước làm con rối cho hắn điều khiển. Khỉ nước có được linh khí từ kiếm, có thể theo thủy triều mà lên bờ. Hắn dùng lũ khỉ nước này để bảo vệ cho giang san Ngô quốc đã sớm tan thành mây khói từ lâu. Trong mắt hắn, đất này vẫn là đất Ngô, mà hắn, vẫn là vương tử của nó. Chỉ bất quá, sự bi ai của hắn bị thời gian làm cho méo mó, đã sớm biến thành oán khí. Mà oán khí cũng trở thành bức tường bảo vệ cuối cùng cho bảo kiếm, bất kỳ ai thấy được, hay cầm được bảo kiếm trong tay đều bị vị vương tử lãnh khốc này kéo xuống hồ chết chìm, lại tiếp tục hóa thành khỉ nước, bảo vệ cho thanh kiếm.
Tôi cảm thấy có chút bi ai đối với hắn, nhưng vẫn không thể không đề phòng, bởi vì sự tàn khốc của hắn không khỏi làm tôi lạnh cả xương sống. Chỉ bởi vì một thanh kiếm hoen gỉ, hắn đã giết không biết bao nhiêu người từng tiếp xúc với kiếm, ngay cả đứa bé vừa qua đời không bao lâu kia. Tôi kéo tay Bạch Dực từ từ lùi lại phía sau, tìm một vị trí dễ bỏ chạy nhất. Nhưng giọng nói cũng bất giác mà ôn hòa hơn nhiều, tôi nói với hắn: "Nếu ngươi muốn bảo vệ cổ kiếm, ta có thể dùng chính mạng mình ra đảm bảo sẽ không bao giờ để lộ tin tức kiếm đang ở đây đâu. Thứ đó vĩnh viễn là của ngươi."
Vừa nói tôi vừa nhìn Bạch Dực, thấy anh ta gật đầu. Bạch Dực cũng quay sang nói với vương tử: "Thứ kia là của ngươi, ta dám dùng linh hồn mình mà đảm bảo. Ngươi cứ tiếp tục bảo vệ quốc gia của riêng ngươi, hoàn thành mộng anh hùng đi."
Quỷ vương tử nghe thấy Bạch Dực đảm bảo, lúc này mới gật đầu, chìa lòng bàn tay ra, có vẻ như muốn cùng chúng ta đạt thành khế ước. Trong lòng tôi không khỏi có chút ấm ức, vì sao lời của Bạch Dực thì lại đáng tin như thế, mà lời tôi nói lại không có kí lô nào là sao?!
Bạch Dực lấy khối kiếm cách ngọc từ tay tôi, hướng về phía người kia mà ném sang, lần này là ném thật. Tôi nhìn theo khối ngọc bay một đường vòng cung, cuối cùng rơi vào lòng bàn tay người kia. Hắn vừa nắm được nó trong tay, lũ khỉ nước xung quanh liền như nhìn thấy cái gì đó cực kỳ kinh khủng mà nhốn nháo bỏ chạy hết vào trong hồ, vừa chạy vừa nhìn theo chúng tôi rống lên đầy oán hận. Nhưng không có con nào dám can đảm ở lại. Ngô Cô Miệt vẫn chăm chú cầm khối ngọc trong tay, nhìn theo đám khỉ nước đang hốt hoảng bỏ chạy, dần dần trên gương mặt tái nhợt của hắn chảy xuống một dòng nước mắt, run rẩy lên tiếng: "Ta chỉ muốn trở thành một anh hùng giống như các tổ phụ, bắn rơi thiên hạ, bá nghiệp ngàn thu. Nhưng mà nay, chỉ còn là một oan hồn, ta đã chờ ở đây quá lâu rồi... cũng mệt mỏi quá rồi, cuối cùng, vẫn không sao trở thành một anh hùng được. Thế nhưng ta không thể buông tay, đã không còn buông tay được nữa. Chúng nó chỉ có thể cùng ta bảo vệ cái hồ này, cho dù phải mang theo oán hận nặng nề tới mức nào đi nữa, ta vẫn phải tiếp tục trấn thủ ở đây! Thanh kiếm này, ta sẽ không để cho nó xuất hiện lần thứ hai trên đời này nữa!"
Nói xong gương mặt của hắn bắt đầu biến đổi, gương mặt vốn thanh tú đột nhiên trũng xuống, dần dần tan chảy hết chỉ để lộ bộ xương vàng ệch bên trong, tóc cũng biến từ màu đen sáng thành khô vàng như cỏ cháy, từ người hắn tràn ra một mùi xác chết rất khó ngửi, cuộn lại với nhau thành một lớp sương mù đen đặc bao quanh người. Nhưng ánh mắt của Ngô Cô Miệt vẫn cao ngạo điềm tĩnh như cũ, hắn nắm chắc thanh kiếm trong tay, nhìn chúng tôi chăm chú như thể nhắc cho chúng tôi nhớ về lời hẹn ước. Dần dần bàn tay nắm thanh kiếm cũng hóa thành một lớp xương khô. Bảo kiếm thoát khỏi tay, rơi xuống nền đất ẩm.
Bạch Dực nhìn hắn bằng một cái nhìn phức tạp, cuối cùng, mở miệng nói: "Thanh kiếm này vĩnh viễn thuộc về ngươi, sẽ không ai trong chúng ta lấy nó đi đâu, bởi vì thời này không còn cần anh hùng nữa."
Cuối cùng, vị vương tử Ngô quốc chỉ còn là một bộ xương khô được bọc trong y phục. Lời hứa cuối cùng của hắn là sẽ không tìm tới chúng tôi nữa. Tôi nghi ngờ nhìn sang Bạch Dực, nhưng chỉ thấy anh ta gật đầu: "Hắn cho dù đã chết thì vẫn là một vị vương tử, đồng thời, còn là một anh hùng rất cố chấp với lý tưởng của mình."
Đúng là như thế, cho dù đã biến thành quỷ, hắn vẫn mang theo một bản tính cao ngạo trời sinh. Ta không hiểu sự ngạo mạn này là vì cái gì, nhưng dù sao hiện giờ hắn cũng chỉ còn là một làn khói xanh, để lại bảo kiếm xác xơ nằm chỏng chơ trên đất. Nhưng chúng tôi vẫn phải tuân thủ theo đúng lời hứa với hắn, nếu không chẳng biết lúc nào sẽ bị hắn kéo chân chết đuối, biến thành khỉ nước vĩnh viễn không thể siêu sinh nữa.
Bạch Dực bước sang, cầm lấy cả bảo kiếm lẫn kiếm cách, dùng sức ném mạnh nó vào hồ, kiếm rơi vào trong hồ, vang lên một tiếng rung kỳ lạ rồi từ từ chìm vào lòng nước. Tôi không biết liệu có ngày nào nó còn có thể nhìn thấy ánh mặt trời lần nữa hay không, nhưng chí ít nó còn có một người vì nó mà không quản ngày đêm thủ hộ. Vì bảo kiếm, linh hồn cô độc đáng thương đó sẽ không biết còn muốn thủ hồ đến bao giờ. Hay cũng có thể, từ đầu kiếm đã không cần có người bảo vệ, vì với kiếm mà nói, thế giới này có biến hóa ra sao căn bản cũng không có gì quan trọng.
Tôi ngơ ngẩn nhìn mặt hồ hồi lâu, thình lình bị Bạch Dực gõ lên đầu một cái. Còn chưa kịp hiểu chuyện gì đang xảy ra đã nghe anh ta tức giận mắng: "Thấy bóng người là lập tức chạy bổ sang, bảo cậu ngốc, chi bằng bảo cậu không có đầu óc còn đúng hơn!"
Tôi vuốt vuốt chỗ bị cốc, nhìn dáng vẻ tức giận của Bạch Dực, hóa ra chỉ là vì chuyện này. Tôi lườm anh ta một cái nói: "Đương nhiên phải đuổi theo chứ, lỡ như anh xảy ra chuyện gì thì chẳng lẽ tôi phải một mình gánh chịu sao!"
Khóe mắt Bạch Dực hơi giật giật, chuyện này rất hiếm khi xảy ra, muốn một kẻ mặt đơ như anh ta nổi giận cũng cần phải có tài năng lớn. Tôi tiếp tục nói: "Mà lẽ nào thấy bóng dáng của tôi anh lại không chạy theo sao?"
Nghe thấy tôi nói thế, Bạch Dực tự nhiên nghẹn lời. Tôi đột ngột nhớ ra, vội vàng nói với Bạch Dực: "Chết bà, tôi bỏ lại đĩa bánh bao mua hơn mười tệ ở chỗ đình rồi! Tôi còn chưa kịp ăn mấy cái mà!!!"
Nói xong lập tức kéo Bạch Dực chạy về, trong lòng chỉ nghĩ đến bánh bao nên chỉ nghe loáng thoáng Bạch Dực nhẹ nhàng nói: "Nếu tôi không buông tay, cậu sao có thể chạy thoát khỏi tôi chứ!"
Tôi quay lại nhìn vẻ mặt thản nhiên của anh ta mà nhăn nhó nói: "Ừ thì tôi chạy không thoát, nhưng nếu bánh bao của tôi mà mất là anh đền cho tôi đấy, chạy nhanh lên!" Bạch Dực bị tôi lôi theo đột nhiên trở tay cầm lấy tay tôi, nhẹ giọng bật cười, tăng tốc độ kéo tôi cùng chạy về phía căn đình ban nãy.
Thủ hồ - Hoàn
[1] Ở đây nguyên tác là "ngô", là cách xưng hô của giới quý tộc thời xưa tại Trung Quốc, Lục Mịnh cố tình thay bằng "min", là cách xưng hô cổ của người Việt. (Truyện Kiều có câu "Thôi thôi cướp sống chồng min đi rồi" của Hoạn Thư)
[2] Tức khoảng 20 tuổi. Ngày xưa còn tính cả tuổi ta, cho nên 20 tuổi ngày xưa chỉ chừng 18, 19 bây giờ.
|