Dị Giới Chi Nông Gia Kí Sự
|
|
Chương 25: Ruộng đất[EXTRACT]Phương Tằng đắc ý nói: “May mà cữu ra tay nhanh, lập tức mượn bạc của chưởng quầy Trần đến nha môn làm công văn, sau có vài người muốn mua còn ra giá bảy tám lượng một mẫu. Cữu hỏi người môi giới, bình thường ruộng tốt như vậy phải bảy lượng một mẫu, ca nhi nhà người bán giờ có bầu, gả cũng tốt, hai cụ vội vàng đi nên mới bán giá đó, làm cho cữu cữu ta được lời.” Phương Trí Viễn nói với Phương Tằng: “Là cữu cữu người hiền gặp lành, như vậy sang năm chúng ta có thể trồng một quý lúa, không cần phải mua gạo nữa, có thể tiết kiệm rất nhiều tiền.” Phương Tằng thấy Phương Trí Viễn còn nhỏ tuổi đã biết suy nghĩ, vừa lòng nói: “Tốt thì tốt thật, nhưng chỉ có hai người chúng ta, cữu chỉ sợ không kịp trồng sáu mẫu ruộng, không biết có cần cho thuê đi một ít không, mầm móng thì chúng ta ra nhưng không cần tự làm, chia năm năm cũng đủ chúng ta ăn.” Phương Trí Viễn biết cữu cữu sợ hắn mệt, nếu theo ý cữu cữu hắn thì nhất định muốn tự trồng, sáu mẫu ruộng chia đi một nửa, trừ những nhà không có sức lao động thì nhà bình thường nào cũng không nỡ. Nếu cữu cữu muốn tự trồng thì việc trong nhà và cả việc ngoài đồng hắn đều phải giúp đỡ. Phương Trí Viễn tự nhận không phải trẻ con mười tuổi chân chính, tất nhiên hắn biết tầm quan trọng của lương thực đối với nông dân. Tuy nhà hắn bây giờ không lo ăn mặc, nhưng cữu cữu hắn còn chưa đón dâu, sau này hắn cũng phải đỉnh môn lập hộ, không ngại có nhiều tiền. Vì thế, hắn nói: “Cữu cữu, chúng ta tự trồng đi. Một mẫu ruộng vốn cũng không được nhiều thóc, chia một nửa lại còn nộp thuế thì cũng không còn mấy. Nếu chính mình trồng thì có thể còn nhiều hơn, dù bán hay là tự ăn thì cũng tiết kiệm tiền.” Phương Tằng cười nói: “Hổ tử, con nói cũng có lý, nhưng trong nhà chỉ có hai người chúng ta, sáu mẫu hơi nhiều, nếu đang vụ mùa mà ông trời không nể tình, không thu kịp thì lỗ lớn. Hơn nữa, bảo cữu cữu săn nai bắt thỏ thì không sao, nhưng nếu bảo đi trồng trọt thì không bằng mấy lão nông được. Với lại từ thôn ta đánh xe sang Lưu gia thôn cũng mất hơn nửa canh giờ, chuyển lương thực cũng không tiện, mượn chỗ phơi nhà người khác cũng khó.” Nghe lo lắng của Phương Tằng, Phương Trí Viễn nghĩ nghĩ, nói: “Cữu cữu, cữu xem thế này được không. Chúng ta cứ trồng trước, đến vụ mùa thì mượn những người nhàn rỗi làm giúp. Lưu gia thôn hay thôn ta cũng không ít người không có ruộng, ra giá thu một mẫu ruộng bao nhiêu tiền là được. Còn việc chuyển lúa, đầu tiên là mướn sân phơi ở Lưu gia thôn, nếu không được thì con với cữu cữu cùng đi chuyển về, con nghĩ nhiều nhất một ngày là xong. Như vậy tính ra cũng không tốn mấy tiền, nếu đã mua ruộng, sau này trồng còn nhiều, cữu cữu cũng coi như là luyện tập trước, quen tay hay việc, dần dần sẽ giỏi thôi.” Phương Tằng thật đúng là không ngờ còn có thể làm như vậy, nhưng năm trước vụ mùa mọi người đều là mấy nhà kết phường làm, hoặc là họ hàng, bạn bè nhà mình đến giúp đỡ nên anh cũng không nghĩ ra việc mượn người làm giúp. Trong thôn đất ít người nhiều, có nhiều nhà cũng chẳng có mấy ruộng, quanh năm suốt tháng cũng chẳng kiếm được mấy đồng, nếu anh muốn thuê người thì cũng không phải không có khả năng. Hơn nữa, nếu người trong thôn tự ái cao, anh còn có thể mượn người ở Lưu gia thôn, tính tiền theo mẫu, cũng không sợ bọn họ cố ý kéo dài công việc. Trong lòng Phương Tằng vốn không nỡ cho thuê ruộng, giờ nghe Phương Trí Viễn an bài gọn gàng như vậy, anh thấy cũng rất tốt, bèn nói: “Như vậy thì sang năm chúng ta sẽ vất vả đấy. Đến lúc đó, cữu đến nhà Lâm Tín mua mạ, sáu mẫu đất cùng lắm mười ngày là cấy xong.” Phương Trí Viễn tiếp lời: “Vậy con có thể học với cữu, sau này con cũng cần ra đồng, nhân dịp này luyện tập luôn.” Phương Tằng vốn định ngăn cản nhưng không nói ra lời. Ở nông thôn, trẻ con lớn như Phương Trí Viễn cũng coi như là một lao động bé, thường sẽ được cha dắt xuống ruộng dạy dỗ. Nghĩ đến sau này Phương Trí Viễn cũng phải ra đồng, vậy học trước cùng anh cũng tốt, hơn nữa anh cũng sẽ chú ý không để Phương Trí Viễn mệt. Vậy nên anh đáp: “Được, đến lúc đó chúng ta cùng đi. Hổ tử, cữu cữu vốn muốn đợi từ từ, mua khoảng tám mẫu ruộng, giờ gặp may mua được sáu mẫu. Con còn nhỏ, chưa lập hộ cho nên không ghi tên con được. Cữu cữu nghĩ như thế này, cậu cháu chúng ta cũng không phải người ngoài, vậy một người ba mẫu, sau này nếu mua thêm cũng mỗi người một nửa, con không được chối. Đúng ra thì cữu đã cực có lời rồi, con còn không đồng ý, trong lòng cữu cũng không thoải mái.” Lời từ chối của Phương Trí Viễn nghẹn trong họng. Hắn biết Phương Tằng đối với hắn rất tốt, muốn chia sản nghiệp cho hắn, chờ sau này hắn thành gia lập nghiệp có gia sản của riêng mình, không thì không an tâm, mà trong nhà kiếm tiền thường là do hắn ra chủ ý, Phương Tằng ra sức lực, Phương Tằng càng cảm thấy tiền này hẳn là phần lớn thuộc về Phương Trí Viễn, giờ chia như vậy là để tránh sau này vì tiền bạc mà xảy ra chuyện không vui. Phương Trí Viễn nghĩ sau này hắn còn có biện pháp kiếm tiền, giờ nói rõ cũng tốt, cữu cữu an tâm mà hắn có gia sản của riêng mình thì cũng cảm thấy kiên định hơn. Dù sao, kiếp trước nhìn nhiều việc vì tiền bạc mà người thân, bạn bè trở mặt, trong lòng hắn vẫn có bất an. Không bằng ngay từ đầu liền tránh cho tình huống như vậy xảy ra, được rồi, hắn thừa nhận hắn vừa thực dụng vừa ích kỉ, vĩnh vieenc không so được với sự quanh minh lỗi lạc của Phương Tằng. Phương Tằng cũng chỉ là thông báo cho Phương Trí Viễn biết một tiếng, trong lòng đã quyết đoán từ lâu. Có ruộng, Phương Tằng cảm thấy lưng mình càng thẳng, anh và cháu ngoại mỗi người có ba mẫu đất, ở Lâm gia thôn cũng coi như là nhà bình thường. Nhớ đến a ma anh vì hai khối núi mà người cả đời không muốn thiếu nhân tình của ai như ông phải chấp nhận lời ra tiếng vào của cả thôn, cũng chỉ là muốn cho anh có ít ruộng đất, sau này dễ lấy phu lang. Nghĩ như vậy, Phương Tằng cảm thấy hơi khó chịu, a ma anh rõ ràng là một người tốt, nhưng chỉ vì cha anh mất dớm, để nuôi nấng anh và ca anh, một người đỉnh môn lập hộ tất nhiên cần phải mạnh mẽ, vậy nhưng lại bị nói thành ma ma ác độc. Nếu a ma anh còn sống, biết trong nhà có nhiều ruộng như vậy thì không biết sẽ vui vẻ đến mức độ nào nữa. Đại Tráng, Tiểu Tráng tỉnh ngủ. Đại Tráng tự mặc quần áo, còn giúp Tiểu Tráng mặc. Hai đứa đều mặc áo khoác bông, ấm thì ấm thật, chỉ là hơi lòa xòa. Một lớn một nhỏ nắm tay nhau đi ra, nhìn tròn xoe, đặc biệt là Tiểu Tráng bị cổ áo bông che mất cằm, nhìn như trẻ con mặc trộm quần áo người lớn, nhìn đã biết là a ma nó vì để cho nó có thể mặc lâu vài năm, cố ý làm rộng. Phương Tằng đã mấy ngày không gặp Đại Tráng, giờ nhìn thấy hai bảo bối từ trong phòng cháu ngoại mình đi ra liền biết là hai đứa vừa tỉnh ngủ. Nhìn Tiểu Tráng đi không tiện, Phương Tằng một tay ôm lấy Tiểu Tráng, bế nó vào bếp. Đại Tráng đi sau Phương Tằng, còn rất ra dáng ca ca mà cầm tay Tiểu Tráng. Còn hai ngày nữa là đến tết, Phương Tằng định ngày mai đi xem ruộng mới mua nên hôm nay muốn làm mấy món ăn tết. Nhà bọn anh không làm bánh mật và mứt trái cây, làm bánh mật khá phiền phức, Phương Tằng đưa năm cân gạo nếp nhờ Lâm Chính gia làm hộ, giờ ăn cá viên Phương Trí Viễn làm, Phương Tằng mới nhớ ra nhà anh cũng chưa làm đậu phụ viên và thịt viên, nên nghĩ cùng làm luôn với mứt trái cây. Thịt nhà Lâm Tín giết lợn cho còn đang đóng băng ở bên ngoài, Phương Tằng lấy ngâm rã đông, lại lấy đậu phụ làm khô*. Phương Trí Viễn dẫn Đại Tráng, Tiểu Tráng đứng cạnh giúp đỡ. Phương Tằng tay khỏe, băm thịt nhanh, chốc lát đã băm xong một chậu thịt, bỏ thêm gia vị và trứng, quấy đều để sang một bên. Đậu phụ bóp nát, cho thêm ít thịt bằm, cho gia vị trộn đều, Phương Tằng còn băm cả củ cải, cho trứng gà vào trộn một bồn nhỏ, sau đó bảo Phương Trí Viễn đốt bếp, đổ non nửa nồi dầu hạt cải, đợi dầu sôi liền bắt đầu chiên thịt viên*. Những năm trước Phương Tằng làm nhiều nên cũng quen, một canh giờ đã xong xuôi. Đại Tráng, Tiểu Tráng dùng danh nghĩa giúp đỡ, ngồi trong phòng bếp chờ ăn. Phương Tằng chiên xong một mẻ, hai đứa lại muốn ăn thử một ít, đến lúc Phương Tằng xong việc, bụng Đại Tráng, Tiểu Tráng căng phồng, sợ tới mức Phương Trí Viễn vừa nhìn đã vội vàng xoa bụng cho chúng. Bữa tối bốn người ăn thịt viên và canh bồ câu hầm mà Lâm Tín gia cho. Ăn xong, Phương Tằng đưa Đại Tráng, Tiểu Tráng về nhà, Phương Trí Viễn thì thu dọn bát đũa. Hôm sau, sáng sớm Phương Tằng đã đánh xe lên trấn trên trả bạc cho chưởng quầy Trần, sau khi về tới nhà, Phương Tằng dẫn Phương Trí Viễn đến Lưu gia thôn xem ruộng mới mua của hai người. Trên xe la Phương Trí Viễn mới biết được sáu mẫu ruộng này là của Lưu Bình ở Lưu gia thôn. Trước đây Lưu Bình vì nhà nghèo mà đừng ra ngoài làm ăn, sau này về quê thành gia lập nghiệp, ở Lưu gia thôn cũng coi như nhà giàu có. Chỉ tiếc rằng ông chỉ có một ca nhi, hai ông muốn giữ ca nhi ở nhà, tìm trẻ mồ côi nuôi từ nhỏ trong nhà để làm con rể. Vậy nhưng cô nhi tên Triệu Võ kia cũng giỏi giang, cưới ca nhi nhà ông xong còn mở cửa hàng ở nơi khác, lúc đi vốn muốn đón hai ông đi cùng để phụng dưỡng nhưng hai người không muốn đi. Giờ ca nhi nhà ông nhiều năm cuối cùng cũng có bầu, hai ông vội vàng đi chăm ca nhi và cháu trai chưa ra đời vậy nên mới muốn nhanh chóng bán ruộng. Lưu Bình vốn muốn bán cho người trong thôn, nhưng người có thể một lúc mua sáu mẫu đất quá ít, tách ra bán thì hai ông lại không kịp đợi, hơn nữa trong thôn cũng có người nghĩ xấu, muốn dùng giá cực thấp mua ruộng, Lưu Bình liền dứt khoát tìm người thôn khác lấy tiền rời đi, không cùng người ta cãi cọ. Ruộng của Lưu gia là ruộng nước tốt, Phương Tằng và Phương Trí Viễn đến nhà Lưu Bình, nhìn mới biết đúng là như Lưu Bình nói, sáu mẫu liền nhau, còn ngay cạnh đường lớn, sau này chuyển lương thực cũng cực thuận tiện. Phương Tằng càng nhìn càng vừa lòng. Trong ruộng nhà Lưu Bình còn đang trồng lúa mach và cải dầu, những thứ đó đáng ra thuộc về Phương Tằng, nhưng Lưu Bình đã nói với Phương Tằng để lại cho mấy nhà quen biết trong thôn, coi như là trả tình nghĩa quê nhà. Tất nhiên như vậy thì giá sẽ rẻ hơn một ít, Phương Tằng nghĩ những cây này sang năm thu hoạch cũng không làm chậm thời gian trồng lúa nên đồng ý. Phương Tằng nhìn hoa màu trên ruộng mọc rất tốt, biết ruộng này màu mỡ, trong lòng vui vẻ. Lúc anh đến cũng định đến nhà sư huynh anh chơi, tiện thể ăn một bữa cơm, vì thế còn mang theo bánh hồng, thịt lợn, đường trắng và điểm tâm, giống như đến nhà người thân. Nhà Lưu Gia cũng ở chân núi, ba căn nhà ngói lớn, một cái sân to, ở Lưu gia thôn cũng có thể coi là nhà giàu có. Phương Tằng đến thăm khiến Lưu Gia rất vui vẻ, phu lang Lưu Gia thấy nhiều lễ vật như vậy, cười càng thoải mái. Lễ nhiều người không trách, ở đâu cũng thế, phu lang Lưu gia chỉ cảm thấy Phương Tằng hào phóng, coi trọng đương gia nhà ông, cũng rất nhiệt tình với Phương Trí Viễn, lấy ra hạt dưa, điểm tâm chuẩn bị Tết, còn pha cả nước đường cho Phương Trí Viễn uống. Lưu Gia gặp Phương Tằng cũng là kể không hết chuyện, năm đó Lưu Gia nhà nghèo, anh em lại nhiều, quanh năm suốt tháng cũng không được bữa no, lúc ông hơn mười tuổi, đói quá nên chạy vào trong núi tìm thức ăn, gặp phải lợn rừng, may mắn đúng lúc cha Phương Tằng đi qua, không chỉ cứu mạng ông, còn dạy ông nghề săn thú. Chỉ riêng việc này Lưu Gia đã thấy mình phải nhớ kỹ cả đời. Cho nên về sau cha Phương Tằng đi sớm, nhưng lễ Tết hàng năm, bốn lễ Lưu Gia đều chuẩn bị đủ, đến lúc Phương Tằng lớn lên, Lưu Gia tận tình dạy anh săn thú. Phương Tằng luôn cảm kích ông, giống như nửa sư phụ, nửa sư huynh, thân cận không đủ, cung kính có thừa. Nói chuyện phiếm với Lưu Gia, Phương Tằng cũng kể cả việc mình mới mua ruộng, dù sao Lưu Gia là sư huynh anh, cũng là người ở Lưu gia thôn, có ông để ý cũng rất tốt, đây cũng là việc anh nghĩ tới đầu tiên khi mua ruộng ở Lưu gia thôn. Lưu Gia nghe Phương Tằng mua được ruộng, cực kì vui vẻ, liên tục nói được, cũng cam đoan với Phương Tằng nhất định sẽ chú ý chăm sóc giùm anh, còn nói lúc nào Phương Tằng trồng lúa ông sẽ giúp đỡ, hai sư huynh đệ càng nói càng thoải mái. Trái lại, phu lang Lưu gia nghe được lại líu lưỡi không thôi, trong thôn đều thì thầm xem ai sẽ mua ruộng nhà Lưu Bình, đều chờ mong bàn tán, sáu mẫu đất ít nhất cũng phải ba bốn mươi lượng bạc, trong Lưu gia thôn cũng hiếm có ai có thể trả. Không ngờ Phương Tằng vốn bình bình thường thường lại mua được, vừa nghĩ như thế, phu lang Lưu Gia cũng phải bội phục bản lĩnh kiếm tiền của Phương Tằng, ông biết hoàn cảnh nhà Phương Tằng, cha mất sớm, a ma nuôi hai đứa con lớn khôn đã không dễ, của cải chắc chắn là không có. Phương Tằng còn dẫn cháu ngoại về nuôi, ông vốn lo lắng Phương Tằng sẽ khó khăn, dù sao nuôi một đứa trẻ con cũng không dễ dàng, đương gia nhà ông cũng lo lắng việc cưới ca nhi của Phương Tằng. Bây giờ xem ra bản lĩnh kiếm tiền của Phương Tằng ở nông thôn chỉ sợ không ai bằng. Dễ dàng nuôi thêm cháu ngoại, lại nhìn cách chi tiêu hào phóng của anh, trong nhà chắc chắn là có tiền. Chỉ bằng năng lực này, chỉ sợ hán tử nhà mình cũng không bằng, nếu không phải nhà ông có bối phận sư huynh đệ với anh, ông cũng rất muốn gả Thu Nhi nhà mình cho Phương Tằng. Có phòng, có xe la, trên không có cha ma chồng, chỉ có một cháu ngoại sau này cũng tự lập môn hộ, như vậy xem ra, chỉ sợ hai năm sau, Phương Tằng vừa hết hiếu, chắc chắc sẽ thành con rể tốt trong mắt a ma mười dặm tám hương. Nghĩ như thế, phu lang Lưu gia nhanh chóng suy nghĩ xem thân thích nhà mình có ai xứng với Phương Tằng. Nước phù sa không chảy ruộng người ngoài, việc tốt như vậy tất nhiên là phải giành trước cho nhà mình. *** Zổ: cuối cùng cũng có beta, một tuần ko edit ngượng tay quá. Tâm trạng dạo này không được tốt. Mới đọc 2 bộ đồng nhân Đông Phương Bất Bại, công đều là Dương Liên Đình, một là kiếp sau ở hiện đại của DLĐ trùng sinh về đúng ngày bọn LHX lên Hắc Mộc Nhai, một là cả DLĐ và ĐPBB sau khi chết trùng sinh về quá khứ (DLĐ là 6t, ĐPBB là sau khi lên làm giáo chủ), tuy không thích DLĐ lắm nhưng tr cũng ngọt, yêu Đông Phương mỹ nhân chết được, dạo này hiếm có đồng nhân của mỹ nhân quá đi ~
|
Chương 26: Lưu gia[EXTRACT]Phương Tằng còn chưa biết mình thành cái bánh thơm ngào ngạt trong mắt ca nhi nhà sư huynh, lúc Lưu Gia hỏi anh định trồng sáu mẫu ruộng như thế nào, Phương Tằng bèn nói ra tính toán đã bàn bạc với Phương Trí Viễn, tiện thể cũng tìm hiểu tình huống của Lưu gia thôn, dù sao ruộng cũng ở đây, biết một ít cũng tốt. Lúc đầu Lưu Gia nghĩ rằng Phương Tằng sẽ cho thuê ruộng, dù sao cho người trong thôn thuê cũng đỡ phiền toái, trong thôn có tính bài ngoại, nếu Phương Tằng tự trồng chỉ sợ làm người khác ngứa mắt. Phu lang Lưu Gia nghe cũng không nói gì, nhưng sau đó lại có vẻ muốn nói lại thôi. Phương Tằng thấy, vội vàng hỏi: “Ca ma, ca có chuyện gì cứ nói thẳng, đệ là ca nhìn lớn lên, còn có việc gì ca không thể nói với đệ chứ.” Phu lang Lưu Gia lúc này mới nói: “Đệ tự trồng thì cũng tốt, nhưng có vài người trong thôn vẫn có ý với mảnh ruộng này, nếu không nhà Lưu Nhị cũng không bán cho người thôn khác. Nếu đệ muốn cho thuê thì phải tìm nhà nào nhiều huynh đệ ở Lưu gia thôn ấy, những người kia ngứa mắt cũng không dám làm gì, nhưng nếu đệ tự trồng, chỉ sợ bọn họ quấy rối, mấy chuyện như nhổ mạ hay làm hỏng hoa màu cũng không phải chuyện họ không dám làm.” Phu lang Lưu Gia nói ra lo lắng của mình, Lưu Gia nghe xong cũng nói: “Tuy nói thế, nhưng Phương sư đệ mua quang minh chính đại, có văn thư hẳn hoi, bọn họ cũng không thể giở trò. Hơn nữa, Phương sư đệ là thợ săn, nếu bọn họ thật sự dám giở trò, chúng ta liền đánh tới cửa, để xem họ còn dám làm xằng làm bậy nữa không.” Phương Tằng nghe hơi loạn, nói với Lưu Gia: “Sư huynh, ruộng này còn có ẩn tình gì nữa sao Huynh nói rõ cho đệ nghe, cũng đừng để đệ phải ngậm bò hòn. Rõ ràng là đệ mua ruộng, sao lại làm người khác ngứa mắt Hay là ông Lưu kia lừa đệ” Nhà Lưu Gia và Lưu Bình quen thân, vội vàng giải thích: “Không phải, không phải. Nhị đại thúc rất lương thiện, nhưng mà lương thiện lại làm cho mấy người được voi đòi tiên, càng ngày càng không biết mình là ai. Việc này cũng phải kể từ lúc ca nhi, con rể nhà nhị đại thúc ra ngoài, hai cụ không trồng được ruộng nên muốn cho thuê lấy lương thực. Mấy nhà có họ hàng hang hốc trong thôn với ông ấy đều muốn, nhưng không biết xấu hổ nhất là nhà Lưu Hưng. A ma nhà đó đến nhà nhị đại thúc vừa khóc vừa cầu, cuối cùng cũng được thuê ruộng.” Nghĩ tới việc đó, phu lang nhà Lưu Gia rất khinh thường, nói: “Nhưng đến lúc thu hoạch, nhà Lưu Hưng chỉ chịu cho nhị đại thúc ba phần lương thực. Đó là cái đạo lý gì chứ, rõ ràng đã nói là năm năm, Lưu Hưng gia lại tưởng muốn lặp lại trò cũ, đến nhà nhị đại thúc khóc lóc ầm ĩ, nói nhà mình nghèo, xin nhị đại thúc thương nhà họ. Làm như nhà nhị đại thúc không làm gì được họ, nhưng nhị đại thúc là người bọn họ lừa được chắc.” Nói đến đây, phu lang Lưu Gia cảm thấy đại khoái nhân tâm: “Nhị đại thúc liền gửi thư cho ca nhi và con rể, con rể Triệu Võ của ông cũng lợi hại, người ta còn dám ra ngoài mở cửa hàng cơ mà, dẫn một đám huynh đệ đến thôn ta, đánh tới nhà Lưu Hưng, không chỉ bắt bọn họ phải phun lương thực ra, còn bắt bọn họ bồi thường năm lượng bạc tiền mua thuốc chữa chấn kinh cho hai cụ. Hai huynh đệ Lưu Hưng bị đánh gần chết, a ma bọn họ phải ngoan ngoãn lấy tiền. Sau này bọn họ cũng không dám đến nhà nhị đại thúc, nhưng dù có thế, bọn họ vẫn cho rằng nhị đại thúc không có con trai, còn lấy nhiều tiền nhà bọn họ như vậy, tất nhiên phải để lại cho bọn họ một phần nên dù muốn mua ruộng, nhưng mỗi mẫu chỉ chịu trả ba lượng bạc.” Nhìn Phương Tằng, phu lang Lưu Gia nói: “Tất nhiên là nhị đại thúc không chịu. Lúc đầu trong thôn cũng có người muốn mua, nhưng nhà Lưu Hưng tới cửa gây chuyện, nhà kia không muốn nhiều chuyện nên không mua nữa. Huynh đệ Lưu Hưng nghĩ nhị đại thúc không bán được ruộng, bọn họ lại trả tiền, cuối cùng cũng phải bán cho bọn họ. Cũng không ngờ nhị đại thúc lại bán cho đệ, bọn họ làm giỏ trúc múc nước. Mà đệ lại là người thôn khác, ta sợ bọn họ sẽ lại giở trò.” Phương Tằng nghe phu lang Lưu Gia nói, nghĩ nghĩ: “Nếu là nhà Lưu Hưng, Lưu Vượng thì đệ có chút ấn tượng. Người nhà này cũng không có gì, mềm nắn rắn buông thôi, hình như còn bắt nạt cô nhi, góa chồng, đúng là không biết xấu hổ. Nếu hắn dám đến ruộng nhà đệ làm bậy, đệ sẽ cho hắn nếm thử xem nắm đấm của đệ lợi hại như thế nào.” Lưu Gia nghe thế, lớn tiếng nói: “Phải làm thế, hai huynh đệ Lưu Hưng, lưu Vượng đều là loại nhu nhược, giương nanh múa vuốt nhưng một đập là xìu. Hơn nữa, ở trong thôn ta cũng có chút mặt mũi, xem xem bọn hắn có thể làm được gì, ta vốn đã ngứa mắt bọn họ lâu rồi.” Phu lang Lưu Gia oán trách nói: “Mình ngươi là được chắc, Phương sư đệ còn đang ở đây đấy, hai huynh đệ nhà kia không có bản lĩnh gì, nhưng mà đường ngang ngõ tắt nhiều. Ngươi nói xem, người khôn khéo như Lưu ma ma mà đường đệ A Hòa còn không phải bị liên lụy mà chết sao. Còn có mấy ông già trong thôn kia ngươi cũng không phải không biết, càng già càng thích xen vào chuyện nhà người khác, còn không thèm nói lý, chỉ quan tâm quen lạ. Nếu Phương sư đệ bị thiệt thòi ngay thôn ta, để ta xem ngươi có mất mặt không.” Phu lang Lưu Gia nói một hơi, làm Lưu Gia hơi ngượng. Người ông có lỗi nhất là Lưu Hòa, năm đó ông cho rằng mình có thể che chở Lưa Hòa, kết quả lại, aiz! Không khí lập tức trầm xuống, Phương Tằng thấy thế vội vàng hòa giải: “không sao, ruộng nhất định là phải trồng, không thì đệ không mua tốt lại còn làm người ta chê cười. Sư huynh, ca ma, theo đệ nghĩ thì hai người và huynh đệ Lưu gia là người một thôn, có quan hệ họ hàng mang cố, làm việc gì cũng phải để ý trước sau, không thể làm quá tuyệt tình. Nhưng đệ không phải người trong thôn, cũng không có tình cảm gì mà nói, hắn dám hại đệ, mặc kệ là trực tiếp hay ngầm, đệ đều sẽ dạy dỗ hắn một trận ra trò. Hai người yên tâm, đệ sẽ không chịu thiệt đâu.” Nghe Phương Tằng nói như vậy, chồng chồng Lưu Gia nghĩ cũng thấy đúng. Bọn họ có họ có hàng với huynh đệ lưu Hưng, dù tức giận đến đâu cũng chỉ là đánh mắng một trận, nếu thật sự kiện ra quan, người trong thôn sẽ đứng ra làm người tốt, nói nhà mình không có tình có nghĩa, ngay thân thích cũng có thể làm như thế. Tiểu tử, ca nhi nhà ông còn chưa gả cưới, dù sao cũng không thể vì huynh đệ Lưu Hưng mà hỏng thanh danh, vậy nên mới cảm thấy Lưu Hưng giống như ruồi bọ, đuổi không đi, mỗi ngày làm người ta ghê tởm. Nhưng Phương Tằng lại không phải người trong thôn, kiện ra quan người trong thôn cũng không thể nói gì. Hơn nữa, nhà Phương Tằng ở Lâm gia thôn, nhà Lưu Hưng muốn đi gây chuyện cũng phải suy nghĩ kĩ. Phương Tằng có họ hàng với lý chính Lâm gia thôn, còn có cả bạn bè thân thích, làm sao có thể để nhà Lưu Hưng bắt nạt. Lúc này, Lưu Thu, ca nhi nhà Lưu Gia vội vàng chạy vào, thở hổn hển nói với a ma cậu: “A ma, a ma mau đi xem đi, Lưu ma ma muốn đánh Lưu Trang, con ngăn cũng không ngăn được.” Nói xong với chú ý tới trong nhà còn có người ngoài, mặt Lưu Thu đỏ lên, không nói gì thêm. Phu lang Lưu Gia vừa nghe, vội hỏi: “Làm sao Đang yên lành, sao lưu ma ma lại đánh A Trang, bình thường ông ấy thương A Trang như vậy mà. A Thu, con nói rõ ràng cho a ma nghe.” Vội vàng giục Lưu Thu kể chuyện. Lưu Thu nghĩ nghĩ, nói: “Hình như là Lưu ma ma phát hiện Lưu Trang lên núi săn thú, tức giận cực kì, muốn đánh Lưu Trang vì không nghe lời, dám vào trong núi.” Thực tế là hôm nay, cậu và Lưu Trang đang may vá, Lưu Trang cuối cùng cũng làm xong áo quần bông cho ông cậu. Ông cậu vừa thấy thì sắc mặt đại biến, hỏi Lưu Trang tiền mua vải ở đâu ra, có phải lại lên núi săn thú không. Lưu Trang không muốn lừa ông mình nên nói vâng. Lưu ma ma liền lập tức ném quần áo xuống đất, muốn đánh Lưu Trang vì không nghe lời. Nhưng giờ có người ngoài, Lưu Thu cũng không thể nói cụ thể như vậy. Nghe xong Lưu Thu nói, sắc mặt Lưu Gia và phu lang đều không tốt, phu lang Lưu Gia xin lỗi một tiếng rồi vội vàng dẫn Lưu Thu đến nhà Lưu Trang. Sắc mặt Lưu Gia rất khó coi, vừa bi thương vừa áy náy, dù sao Phương Trí Viễn nhìn liền cảm thấy biểu tình trên mặt Lưu Gia rất phức tạp, rất khó miêu tả cụ thể. Mà trong nhà Lưu Trang, lúc phu lang Lưu Gia đến, Lưu ma ma đã dùng chổi lông gà đánh lưu Trang mấy cái, vừa đánh vừa hỏi: “Con biết sai chưa, lần sau còn dám vào núi không!”. Lưu Trang vẫn cúi đầu, mặc cho ông cậu đánh vào người cũng quật cường không lên tiếng, chẳng qua mắt cũng đỏ rực, nhìn kĩ cũng thấy nước mắt đã sắp tràn mi. Phu lang Lưu Gia vội vàng cướp chổi trên tay Lưu ma ma. Kỳ thực Lưu ma ma đã đau lòng từ lâu, ông nhìn bộ quần áo kia liền biết dụng tâm và hiếu thuận của cháu mình. Nhưng ông đã mất con rồi, không thể mất thêm cả cháu, vậy nên mới quyết tâm dạy bảo Lưu Trang, chỉ cần Lưu Trang nhận sai là qua chuyện. Vậy nhưng tính tình Lưu Trang y như cha cậu, chuyện đã nhận định thì không bao giờ thay đổi. May mà phu lang Lưu Gia đến, Lưu ma ma mới có bậc thang mà xuống. Phu lang Lưu Gia nâng Lưu Trang dậy, may mà mùa đông nên mặc nhiều quần áo, nhìn Lưu ma ma đánh mạnh như vậy, nhưng thực ra cũng vừa phải. Phu lang Lưu Gia nói với Lưu ma ma: “Lưu a ma, ông làm gì thế. A Trang nó là đứa bé ngoan, vừa giỏi giang vừa hiếu thuận, có chuyện lớn đến đâu thì cũng từ từ nói, nếu đánh đau A Trang để xem ông có đau lòng không.” Lưu ma ma không nói lời nào, phu lang Lưu Gia cũng biết tâm sự của ông, nói với Lưu Trang: “A Trang, ma ma con lớn tuổi, lời ông nói đều vì tốt cho con thôi. Con phải nghe lời ông, ông ấy khổ một đời rồi, giờ chỉ còn có một mình con, ông sợ không muốn con lên núi cũng là để con được an toàn.” Nhìn hai ông cháu quật cường trước mắt, phu lang Lưu Gia thở dài trong lòng, nói với Lưu ma ma: “Thực ra, nói đi nói lại cũng đều trách ông nhà cháu, năm đó nếu không dẫn đệ đệ A Hòa lên núi, cũng sẽ không làm A Hòa còn trẻ mà đã mất mạng, huynh ấy còn chưa chừa, còn dẫn A Trang đi săn thú. Lưu a ma, ông yên tâm, lát nữa cháu sẽ mắng huynh ấy, sau này cháu nghĩ Lưu Trang cũng sẽ không nhờ huynh ấy dẫn lên núi nữa.” Lưu ma ma vội vàng nói: “Nhà Lưu Gia, cháu nói gì thế. A Hòa là số nó không tốt, nếu không phải tại hai thằng chó ch*t Lưu Hưng Lưu Vượng chọc phải hổ mẹ thì sao A Hòa nhà ta lại bị hại chứ. Đương gia nhà cháu cũng là tại A Hòa xin, mới tốt bụng giúp hắn, ta còn không hồ đồ, cũng sẽ không hiểu lầm người tốt.” Lưu Trang nhìn mắt ông mình ươn ướt, biết là ông nhớ tới cha mình. Tuy biết ông không cho mình lên núi là vì an toàn của mình, nhưng cậu cũng không nghĩ mình sẽ mất mạng trên núi như cha. Cha cậu khi còn sống không phải là thợ săn, mặc dù rất khỏe nhưng chưa từng đi săn, là lâm thời vào núi. Nhưng dù có thế, nếu không phải gặp phải hổ cái thì cũng không đến nỗi. Lưu Trang từ nhỏ đã có thiên phú về sức lực, học công phu luyện khí với Lưu Gia, bốn năm hán tử cũng không phải đối thủ của cậu. Cậu bắn cung cực chuẩn, sau mười tuổi chưa từng bắn lệch, đến bây giờ, dù cậu có gặp hổ mẹ, không dám nói có thể giết nó, nhưng giữ được mạng thì không thành vấn đề. Lưu Trang mỗi ngày nhìn ông cậu ra ngoài vất vả làm lụng, trong lòng rất khó chịu. Người già như ông cậu, bình thường đều là ở nhà giúp con cháu trông trẻ, làm việc nhà, nhưng ông cậu còn phải ra đồng làm việc, rảnh rỗi lại đi nấu cơm thuê, chỉ là để tích cóp của cải cho cậu, sợ cậu không xinh đẹp, sau này sẽ phải chịu khổ. Cậu muốn dùng hai bàn tay mình làm việc, để ông không vất vả như vậy. Lần trước lên trấn trên cùng Phương Tằng và Phương Trí Viễn, có được chỗ tiêu thụ con mồi tốt khiến Lưu Trang rất vui vẻ. Nếu cậu có thể kiếm tiền tức là có thể khiến ông cậu hưởng phúc sứm hơn, cho nên cậu không muốn ngừng lại. Vì thế, cậu nói với Lưu ma ma: “Ma ma, ông đừng giận con. Ông xem Lưu gia đại thúc lên núi săn thú hai mươi năm cũng không sao. Con được đại thúc dạy dỗ, hơn nữa còn cực khỏe, lên núi động vật chỉ có thể sợ con thôi. Con cam đoan sẽ không để mình bị thương. Ông lớn tuổi rồi, con không muốn để ông phải vì con mà làm lụng vất vả như vậy. Ma ma, ông xem tóc ông bạc hết rồi, buổi tối con còn thường xuyên nghe được tiếng ho khan của ông nữa.” Nghe Lưu Trang nói, Lưu ma ma biết Lưu Trang hiếu thuận, nhưng ông vẫn trầm mặt nói: “Không được, nghĩ chuyện cha con xem, nó cũng lên núi, năm đó ai mà ngờ nó vừa đi đã mất, nếu con có làm sao, còn ông già như ông sống thế nào được. A Trang, ông mệt chút cũng không sao, nhưng con không thể gặp chuyện. Chúng ta chỉ còn lại một mình con, nếu con gặp chuyện không may, ông còn mặt mũi nào đi gặp cha con.” Lưu Trang giải thích: “Ông ơi, ông yên tâm, con không đi vào sâu trong núi, chỉ đi loanh quanh bên ngoài thôi. Việc của cha năm đó một nửa là ý trời, một nửa là do người, con sẽ không gặp chuyện gì đâu mà.” Năm đó cậu còn nhỏ, chi tiết cụ thể không nhỡ rõ, nhưng sau này cũng nghe người nói qua. Lưu ma ma thấy khuyên cháu không được, rất thương tâm. Phu lang Lưu Gia thấy Lưu Trang quyết chí như thế cũng không nói gì. Mấy năm nay thân mình xương cốt của Lưu ma ma càng ngày càng không tốt, nếu cứ vất vả như vậy không biết đến lúc nào sẽ nằm xuống. Bản lĩnh săn thú của Lưu Trang, đương gia nhà ông nói thợ săn kinh nghiệm như ông ấy cũng không bằng, nếu Lưu Trang có thể thật sự kiếm tiền, sau này Lưu ma ma không còn, Lưu Trang cũng có thể sống tốt, đương gia nhà ông cũng giải quyết được một việc vẫn canh cánh trong lòng. Nghĩ như thế, ông đến phòng Lưu ma ma khuyên nhủ. Mà bên kia, sắc mặt Lưu Gia làm Phương Tằng rất tò mò, anh quan tâm hỏi: “Sư huynh, huynh sao thế Đệ thấy huynh rất để ý ông cháu Lưu a ma, ông ấy là thân thích nhà huynh sao” Nghe sự đệ nhà mình hỏi như thế, Lưu Gia thở dài một hơi, cũng là ở trong lòng quá lâu, giờ kể ra với Phương Tằng, nói rõ những chuyện sâu xa của nhà mình và nhà Lưu a ma. ** Zổ: tôi mới đọc Thời không xuyên toa cơ, khoa học gia thế kỉ 24 công x thần y cổ đại dụ thụ. May mà bạn thụ dụ chứ ko chắc ko có truyện đọc mất, bạn công đầu gỗ, độc mồm độc miệng kinh ~ truyện chủ công cũ giờ mới đọc vì không kiếm được chủ công mới, OTZ.
|
Chương 27: Chuyện xưa[EXTRACT]*cẩu huyết tới đây ~* Trượng phu của Lưu a ma là con trai cả nhà Lưu Quang, tên là Lưu Tài. Theo lý mà nói thì hai cụ Lưu Quang phải thích con trai trưởng mới đúng, nhưng sự thật thì ngược lại, con trai út Lưu Phát giỏi ăn nói hơn Lưu Quang mới được hai cụ thích hơn. Trước đây thì không sao, cũng chỉ là cho thêm một miếng bánh bột, chia nhiều một chút đồ ăn. Đến lúc cả hai trưởng thành, Lưu Tài thành thật chịu khó cưới Lưu a ma, Lưu Phát thì cưới ca nhi nhà mẹ đẻ Lưu Quang gia. So với ngoại nhân như Lưu a ma, Lưu Quang gia tất nhiên là thích cháu nhà mẹ đẻ của mình, vốn đã thiên vị giờ càng quá đáng hơn. Năm đó Lưu a ma và đương gia nhà mình chịu không ít oan ức. Cứ ngỡ sẽ mãi như vậy, nhưng Lưu Quang gia bị hai người Lưu Phát giật dây, muốn cho con trai nhà con út,cũng chính là huynh đệ Lưu Hưng, đi học tư thục. Lưu a ma nhất định không đồng ý, trong nhà toàn do nhà ông làm việc, hai người nhà Hai chỉ dùng mánh lới trốn việc, giờ cho con đi tư thục, không thể không có phần của con ông. Lưu Tài cũng không đồng ý, cho đi cũng phải là mỗi nhà một đứa, bọn ông chịu uất ức là đủ rồi, không thể để cả con ông cũng phải chịu. Kết quả là Lưu Quang gia không chịu, hai người Lưu Tài đại bùng nổ, muốn ở riêng. Cuối cùng, Lưu Tài thân là con trai trưởng vốn phải phụng dưỡng cha ma tịnh thân xuất hộ. Lưu Quang gia tuyên bố con trai út của mình hiếu thuận, sau này muốn con trai út dưỡng lão, như vậy, Lưu Tài không chỉ không có gia sản còn bị chỉ trích là bất hiếu. Lưu Quang mặc dù hơi không đành lòng, nhưng ông ta cũng thiên vị con út, liền kệ phu lang làm gì thì làm. May mà Lưu Tài và Lưu a ma chịu khó, hai năm đầu nghèo khó, sau thì càng ngày càng tốt, mua ruộng xây nhà, sống cũng đầy đủ. Mà Lưu Phát thì càng ngày càng nghèo, Lưu Quang gia thường xuyên đến nhà Lưu Tài đòi tiền, lấy đồ của nhà Lưu Tài cho nhà Lưu Phát. Đến lúc con trai Lưu Tài là Lưu Hòa mười ba tuổi, triều bình mộ binh, một hộ có hai hán tử từ mười sáu đến năm mươi tuổi thì phải có một người đi làm lính. Lúc ấy chiến sự nguy cấp, nhà nào cần đi thì bắt buộc phải đi, nếu không đi, một danh ngạch phải nộp ba mươi lượng bạc. Nhà Lưu Tài thì không sao, con trai ông chưa đến tuổi nên không cần đi. Nhưng nhà Lưu Phát lại không được, năm đó Lưu Quang gia cho Lưu Tài ra ở riêng, nhưng lại không cho con út ở riêng, nhà bọn họ phải đi một người. Lưu Quang gia không muốn cho con trai út đi làm lính, liền nghĩ đến con trai cả, đến nhà con trai cả, bảo ông đi thay danh ngạch nhà mình. Hai người Lưu Tài không muốn, hai người Lưu Quang liền đến nhà Lưu Tài vừa khóc vừa gây chuyện, người trong thôn nói nhà Lưu Tài bất hiếu. Lưu a ma muốn tiêu tiền tiêu tai, đáp ứng cho bọn họ mười lăm lượng bạc, để bọn họ nộp tiền thay người. Vậy nhưng Lưu Phát cầm tiền lại không nộp mà trốn mất, đến lúc nha dịch đến nhận người, trong nhà chỉ còn hai cụ Lưu Quang. Lưu Quang gia quỳ xuống cầu Lưu Tài, nói cha ông tuổi lớn, nếu ra chiến trường chính là có đi không có về. Lưu Tài không nhẫn tâm để cha già đi lính chịu khổ, nhưng trong nhà ra mười lăm lượng đã là cực hạn, đâu tìm ra được ba mươi lượng nữa, đành phải thay cha ra chiến trường, sau đó chết trên chiến trường. Sau khi Lưu Tài đi, cả nhà Lưu Phát liền xuất hiện, còn mua sắm nhiều đồ tốt. Hai cụ Lưu Quang không hề tức giận với Lưu Phát, Lưu a ma lúc đó mới biết là bọn họ tính kế đương gia nhà mình, bèn tới cửa đòi mười lăm lượng bạc, cũng không thèm để ý lời mắng của Lưu Quang gia, nói không trả tiền liền báo quan, nhất định phải trả bạc. Đến lúc có tin Lưu Tài hy sinh, Lưu a ma như phát điên, xách dao phay đến nhà Lưu Phát, nói sẽ chém chết cả nhà Lưu Phát, mọi người cùng nhau đồng quy vu tận, dọa cho Lưu Phát và hai cụ Lưu Quang run không ngừng, cuối cùng là do lý chính dẫn Lưu Hòa khuyên bảo, Lưu a ma muốn Lưu Phát trả ba mươi lượng bạc, nếu không Lưu a ma sẽ làm cho tất cả cùng chết. Cuối cùng, Lưu Quang gia lấy ra ba mươi lượng, không ngờ là Lưu a ma chỉ thử xem nhà bọn họ có phải thật sự tính kế nhà mình không. Giờ thấy đúng vậy, trước mặt người cả thôn, ông nói hai cụ Lưu Quang mặc cho con trai út đẩy con trai cả vào chỗ chết, rõ ràng có tiền lại bắt bọn họ bỏ tiền, ra người, tiền đó ông không dám dùng, không biết hai cụ Lưu Quang hại chết con trai cả buổi tối có thể ngủ được không. Lưu a ma quyên bạc cho tộc, hy vọng có thể để đương gia nhà ông vào từ đường, đồng thời cũng tuyên bố về sau ông và hai cụ Lưu Quang không có bất cứ quan hệ gì, sinh lão bệnh tử không liên quan, càng không có một tí quan hệ gì với Lưu Phát. Lúc đó mọi người đều cho rằng Lưu a ma đang nổi nóng, chỉ nói như thế là xong, chứ một ca nhi như ông lại thêm một đứa con nhỏ làm sao sống nổi. Không ngờ, sau này Lưu a ma gặp hai cụ Lưu Quang cũng coi như không nhìn thấy, cũng không cho con mình qua lại, lương thực dưỡng lão hàng năm cũng thôi, giống như cả đời cũng không có quan hệ gì tới nhau nữa. Không biết có phải băn khoăn việc hại chết con trai cả không, chưa đến nửa năm Lưu Quang liền đổ bệnh, lúc sắp mất muốn gặp cháu đích tôn là Lưu Hòa và Lưu a ma, người trong thôn thấy ông đáng thương bèn giúp hòa giải, Lưu a ma không mở miệng, thật sự khiến cho Lưu Quang chết cũng chưa gặp được người. Lưu Quang chết, Lưu a ma cũng không thủ hiếu, người khác hỏi, Lưu a ma chỉ nói: Ông ta không xứng! Lập tức người trong thôn liền nói Lưu a ma bất hiếu, máu lạnh. Lưu Phát biết Lưu a ma ghét hắn, không lợi dụng được Lưu a ma liền xúi giục a ma hắn bắt Lưu a ma tái giá, chiếm gia sản của ông. Hắn đã bàn xong với người ta, không ngờ bị Lưu Hòa phát hiện. Lúc đó Lưu Hòa mới mười lăm tuổi, lớn lên cao to, trong lúc giận dữ liền đánh Lưu Phát một trận. Lưu Phát bị đánh không nhẹ, Lưu Quang gia thương con, liền nói với người khác Lưu Hòa lục thân không nhận, đánh giết chú ruột, cứ như vậy thanh danh của Lưu Hòa liền không còn. Lúc đó Lưu a ma nhờ người làm mai đều không vừa lòng, bất đắc dĩ cưới Thẩm Tuyết, ca nhi của Thẩm gia thôn. Thẩm Tuyết lớn lên bình thường, chỉ là nhà nghèo, có ba huynh đệ nhưng chỉ có một hán tử. Cha mẹ y thích con trai, vì có tiền cho con trai đón dâu nên đòi Lưu a ma sính lễ rất cao, nhưng một đồng tiền hồi môn cũng không có. Lưu a ma nghĩ ca nhi cưới về không dễ, hơn nữa chính mình cũng phải chịu khổ vì ma ma ác nên rất ôn hòa với Thẩm Tuyết. Lưu Hòa đối với ca nhi của mình cũng rất tốt. Nhà mẹ đẻ Thẩm Tuyết thấy Lưu gia coi trọng Thẩm Tuyết bèn bảo Thẩm Tuyết trợ cấp nhà mẹ đẻ nhiều hơn. Thẩm Tuyết gả về đến năm thứ hai thì sinh Lưu Trang, tuy là ca nhi nhưng Lưu a ma và Lưu Hòa đều rất thích, cũng không nói gì Thẩm Tuyết. Lưu gia sống cũng vui vẻ, chỉ là Thẩm gia thường xuyên đến đòi tiền, Lưu a ma nể mặt Thẩm Tuyết cũng mắt nhắm mắt mở cho xong chuyện. Thế nhưng đến năm Lưu Trang năm tuổi, mùa màng không tốt, lương thực thu hoạch chỉ vừa đủ ăn, hơn nữa Thẩm Tuyết lại có bầu, Lưu a ma và Lưu Hòa tẩm bổ cho y mất không ít tiền, ông đỡ nói thai là tiểu tử, làm Lưu a ma và Lưu Hòa cực vui vẻ, đối với Thẩm Tuyết cũng càng tốt. Mà con trai Thẩm gia, đệ đệ Thẩm Tuyết chơi bời lêu lổng, trộm trâu nhà người khác bị bắt, người ta bắt phải bồi thường mười lượng bạc, nếu không sẽ mang con trai Thẩm gia đến nha môn lĩnh phạt. Thẩm gia chỉ có một đứa con trai, sao có thể không chịu, nhưng cũng không muốn ra tiền liền nghĩ đến Lưu gia. Lưu Hòa không phải người keo kiệt, nhưng lúc đó đúng là không có nhiều bạc như vậy. Thẩm Tuyết lại không chịu, y dùng đứa bé trong bụng uy hiếp Lưu Hòa, không cho y bạc y sẽ bỏ con. Phải nói, Thẩm Tuyết vốn được Lưu gia chiều quen, thêm tính tình ích kỷ, người nhà mẹ đẻ nịnh hót vài câu liền về bắt ép trượng phu của mình. Lưu Hòa không có cách nào khác, đồng ý ra năm lượng, bị Lưu a ma biết, mắng Thẩm Tuyết một trận, bảo y nếu muốn đưa tiền cho nhà mẹ đẻ thì cút, sau đó lại cất hết tiền bạc trong nhà. Thẩm Tuyết không dám trắng trợn ép Lưu Hòa, lại ngầm kêu ca mình chỗ này không thoải mái, chỗ kia không thoải mái. Lúc đó Lưu Gia săn được lợn rừng và nai ở sâu trong núi, bán được một số tiền kha khá, ông đang lúc huyết khí phương cương, thỉnh thoảng thích khoe khoang, bán được tiền xong, cơ bản cả thôn đều biết. Ông và Lưu Hòa là họ hàng chưa quá năm đời, chơi với nhau từ nhỏ, Lưu a ma đối với ông cũng rất tốt. Thẩm Tuyết biết chuyện liền động tâm, bắt Lưu Hòa đến nhờ Lưu Gia dẫn theo vào núi săn thú. Thẩm Tuyết nghĩ rất đơn giản, Lưu Hòa vốn khỏe hơn Lưu Gia, nếu săn thú chắc cũng không kém. Lưu Hòa không muốn đi, Thẩm Tuyết bèn dùng con trong bụng ép anh. Vì thế, anh đành phải giấu Lưu a ma đến xin Lưu Gia. Lúc ấy Lưu Gia thấy không có gì, ông lên núi quen, biết Lưu Hòa bị phu lang mình ép nên cũng đáp ứng. Mà lúc ấy huynh đệ Lưu Hưng mặt dầy đến cửa muốn cùng ông lên núi, ông vốn không muốn đồng ý nhưng bọn hắn vừa khóc vừa cầu, làm ông cũng không tiện từ chối. Bốn người chọn ngày thời tiết tốt lên núi, săn gà rừng thỏ hoang cũng thuận lợi. Đến tối, Lưu Hưng đi vệ sinh về ôm theo một con thú, Lưu Gia muốn nhìn nhưng Lưu Hưng không muốn, ông cũng không thể ép. Không ngờ ngày hôm sau bọn họ liền gặp một con hổ cái. Thì ra Lưu Hưng nhân lúc hổ mẹ không ở mà trộm đi hai con hổ con, hổ mẹ ngửi mùi đuổi tới. Bốn người sợ hãi, Lưu Gia bảo Lưu Hưng bỏ hổ con xuống, nhưng Lưu Hưng tiếc, vẫn ôm chạy. Hổ mẹ vẫn đuổi theo, Lưu Hòa không may, lúc chạy bị ngã, bị hổ vả vào đầu, lập tức chảy máu. Lưu Hưng nhìn thấy sợ, mới thả hổ con ra, bọn họ trèo lên cây mới tránh được một kiếp. Thế nhưng hổ đi thì Lưu Hòa cũng không còn thở nữa. Lúc Lưu a ma biết con trai mình chết liền hôn mê bất tỉnh. Thẩm Tuyết cũng cực kì sợ hãi, gào khóc bắt Lưu gia đền mạng. Hai huynh đệ Lưu Hưng đã trốn mất, đến lúc Lưu a ma tỉnh dậy, hỏi rõ, giận không chịu nổi, nhờ người nâng quan tài đến nhà Lưu Phát, bắt người đền mạng. Huynh đệ Lưu Hưng trốn, nhưng Lưu Phát thì không, cũng không dám trốn, sợ Lưu a ma giận dữ làm những gì, đành phải ở lại xin lỗi nhận tội, Lưu Quang gia cũng ra mặt hòa giải. Lưu a ma bất động, mang quan tài đứng trong nhà Lưu Phát. Lưu Hưng thấy trốn không được, quay về. Lưu a ma nhờ người đánh gãy một chân hắn xong mới an táng Lưu Hòa. Lưu Quang gia không biết là bị dọa sợ hay là lí do khác, mấy tháng sau cũng mất. Về đến nhà, Lưu a ma dù có tức giận với Thẩm Tuyết nhưng vẫn nói với y, chỉ cần y sinh con xong, để tang Lưu Hòa ba năm, y muốn tái giá ông cũng không cản. Vậy nhưng Thẩm Tuyết lại không đợi được, không muốn sống khổ ba năm, nhà mẹ đẻ y đã mối cho y người không tồi, nhưng mà phải gả ngay. Y nhẫn tâm bỏ đứa con đã sáu tháng trong bụng, trộm tiền bạc trong nhà chạy về nhà mẹ đẻ gả người khác. Việc này cũng là do bình thường Lưu a ma cũng hiền hòa với y, y cho rằng Lưu a ma là người nhu nhược, chỉ là độc miệng, cũng không sợ ông. Lưu a ma biết Thẩm Tuyết bỏ con, chút nữa thì không chịu nổi, nhưng nhìn Lưu Trang mới năm tuổi, vẫn còn cố sống. Ông cắn răng, đi tìm lý chính trước, dẫn người đến Thẩm gia, không những đòi lại sính lễ mà còn bắt bọn họ nhả ra những thứ mà mấy năm nay lấy của Lưu gia. Sau đó lại đến nhà mà Thẩm Tuyết vừa gả tới, đòi bắt Thẩm Tuyết về, cũng muốn cáo lên nha môn tội thông *** của Thẩm Tuyết và hán tử nhà này. Lưu a ma là ma ma của Thẩm Tuyết, Thẩm Tuyết tái giá không có sự đồng ý của ông là không được phép, không nói thì thôi, đã nói thì Thẩm Tuyết phải bị bắt về. Gia đình kia liên tục xin tha, nói là cũng không biết chuyện như vậy, bồi thường bạc cho Lưu a ma. Lưu a ma yêu cầu hán tử nhà đó đánh Thẩm Tuyết một trận trước mặt ông, sau đó cầm bạc về. Từ đó Lưu Gia vẫn canh cánh trong lòng, cũng sửa tính xúc động và khoe khoang lúc trẻ, cũng rất chiếu cố Lưu a ma và Lưu Trang, thấy Lưu Trang sức khỏe hơn người nên cũng dạy cậu săn thú. Nếu không phải tiểu tử nhà ông và Lưu Trang là họ hàng thì ông cũng muốn Lưu Trang gả về nhà mình. Nghe xong chuyện của Lưu Gia, Phương Tằng cũng thổn thức không thôi, không ngờ mệnh Lưu a ma khổ như vậy. Hai người nói chuyện cũng không nhỏ tiếng, lại quên mất Phương Trí Viễn đang ở cách vách. Phương Trí Viễn nghe xong bỗng nhiên cảm thấy rất thương Lưu Trang, chính mình có a ma tốt nhưng cha lại khốn kiếp, Lưu Trang thì ngược lại, có cha tốt lại có a ma vô lương tâm. Nhưng mà may mà bên người bọn hắn đều còn có một trưởng bối quan tâm mình. Nhưng mà, hắn nghe như thế nào lại thấy hơi quen quen, Thẩm Tuyết kia không phải là ca nhi của Lý Lực ở Lý gia thôn đấy chứ ** Zổ: không có cẩu huyết nhất, chỉ có cẩu huyết hơn, đồng bào chú ý đây không phải là cực hạn nhé, đoán đê
|
Chương 28: Lại gặp[EXTRACT]Trong trí nhớ của Phương Trí Viễn, ở Lý gia thôn cũng có một ca nhi tên là Thẩm Tuyết, gả cho Lý Lực. Ba huynh đệ Lý Lực ở cùng một chỗ, cha ma cũng còn sống. Ca nhi trước của Lý Lực chết bệnh, cũng có tin đồn là do sống ở nhà chồng khổ cực, làm lụng vất vả quá độ mới bệnh chết. Ở Lý gia thôn thì nhà Lý Lực coi như cũng được, có ruộng có nhà, nhưng cũng không được hoan nghênh ở Lý gia thôn. Người nhà đó thích trục lợn, ma cũ bắt nạt ma nới. Năm đó, lúc Phương Thăng ở quán bán đậu phụ, cha ma của Lý Lực ỷ là trưởng bối chưa qua năm đời của Lý Phú, đến chỗ Phương Thăng đòi mua chịu, nhưng mãi cũng không chịu trả tiền. Lý Phú sĩ diện thích được người nịnh hót, hơn nữa quán đậu phụ cũng không do y làm, y liền thích làm người tốt. Nhà Lý Lực không trả tiền mà láy hàng, y không chỉ không đi đòi còn bảo Phương Thăng không cần so đo nhiều như vậy. Phương Thăng tính tình mạnh mẽ, năm đầu tiên mới gả vào chưa nói gì, đến năm thứ hai thì nhất định không bán chịu, không có tiền thì không bán. Người nhà Lý Lực liền nói với Lý Phú, còn nói với người ngoài là Phương Thăng không nể mặt thân thích, không tôn trọng trưởng bối, làm Phương Thăng gặp không ít phiền toái. Phương Thăng tính quật cường, ăn mềm không ăn cứng, bọn họ càng như vậy, anh càng không phản ứng. Nhà Lý Lực không làm gì được, ngứa mắt Phương Thăng kiếm tiền, chuyên môn châm ngòi Lý Phú. Mà Phương Trí Viễn có ấn tượng với Thẩm Tuyết là vì Thẩm Tuyết là ca nhi Lý Lực cưới sau, y đối với con mà ca nhi trước sinh cũng không tốt, lại nói với người ngoài mình làm a ma kế khổ như thế nào, con riêng không chịu nghe lời. Y không sinh được con nhưng lại hà khắc với con của Lý Lực, còn thích nói xấu bọn chúng. Cơ bản là cứ gặp người đều phải nói hai đứa con xấu xa như thế nào, có thật có giả, nếu là thật thì y phóng đại mười lần, nếu là giả thì y bịa đặt sinh sự. Con út của Lý Lực thì không sao, nhưng con cả là ca nhi, bị y làm hỏng thanh danh chỉ có thể gả đi xa, gả xong bèn cắt đứt quan hệ với nhà mẹ đẻ, nói là trong nhà còn Thẩm Tuyết thì sẽ không về. Phương Thăng cũng rất chướng mắt y, không tiếp xúc gì với y. Thực ra, Thẩm Tuyết sống cũng không sung sướng gì, không sinh được con của mình, còn sống cùng cha ma chồng, tiểu thúc tử, đệ ma. Người một nhà này không ai hiền lành, a ma Lý Lực không thích Thẩm Tuyết, vì không ở riêng nên vốn phải nộp lên. Thẩm Tuyết bị Lưu a ma xử lý xong, ở Lý gia làm nhiều nhưng ăn ít, rõ ràng tuổi không lớn nhưng người đã rất già. Nhưng lúc xảy ra chuyện của Lý Phú và Phùng Mai, Thẩm Tuyết lại thường tới Lý gia, nói với Phương Thăng những lời coi như là an ủi khuyên giải, nhưng trong mắt là cười trên sự đau khổ của người khác. Sau khi hạ nhục Phương Thăng lại nói những lời thương hại và cười nhạo, rồi làm như vô tình khoe rằng mình sống tốt như thế nào. Trong trí nhớ của Phương Trí Viễn, nguyên thân căm thù nhà Lý Lực đến tận xương tủy, sau khi Phương Thăng mất, nguyên thân thấy người nhà Lý Lực đến liền đóng cửa, vì việc này mà nó còn bị Lý Phú nghe đồn thổi đánh một trận. Bây giờ nghĩ lại, Thẩm Tuyết có thể làm ra chuyện như vậy cũng không kỳ quái, mà nghe Lưu Gia nói, Phương Trí Viễn thấy Thẩm Tuyết cũng là tự làm tự chịu, chẳng thể trách ai. Vốn có một trượng phu yêu thương, một ma ma từ ái, một đứa con đáng yêu, thế nhưng tất cả bị chính tay y chôn vùi, y cũng chỉ có thể từ những người bất hạnh hơn mà cảm thấy vui vẻ, sau đó thương hại người ta, cười nhạo người ta, giống như làm như thế y mới có thể thấy cuộc sống cũng không quá khổ sở. Lưu Gia nói với Phương Tằng chuyện giấu ở đáy lòng, cũng cảm thấy dễ chịu hơn. Phương Tằng cũng không tiện bình phẩm gì, Lưu Gia thấy ca nhi nhà mình chưa về, nghĩ sau này Phương Tằng muốn làm ruộng ở thôn mình, tuy ruộng ở ven đường nhưng như thế nào cũng phải nói cho lý chính mấy câu. Vừa nghĩ như vậy, ông bèn nói với Phương Tằng: “Sư đệ, ta thấy nên mời lý chính đến nói chuyện. Dù sao, sau này đệ còn phải làm ruộng ở Lưu gia thôn, mượn sân phơi hay mướn người cũng không thể tránh lý chính thôn ta. Hôm nay nhân dịp đệ tới, mời hắn đến ăn bữa cơm, nói mấy câu. Đệ mang tới cũng không ít đồ, biếu bánh hồng và thịt cho lý chính đi, có hắn chiếu cố vẫn tốt hơn.” Phương Tằng nói: “Sư huynh nói gì thế Đệ vốn đã muốn mời lý chính, còn đang định buổi chiều nhờ sư huynh dẫn đệ đến tìm nhà, lễ đệ đã chuẩn bị rồi, còn để trên xe la chưa lấy xuống. Nếu để sư huynh ra lễ thì đệ còn ra cái gì nữa” Lưu Gia cười nói: “Được. Đệ còn được hơn sư huynh. Lúc sư huynh bằng tuổi đệ vãn còn ngơ ngơ ngác ngác, không chu đáo, ổn trọng lão luyện như đệ.” Phương Tằng nghe không thấy tự hào mà chỉ thấy chua xót. Tuổi nhỏ mất cha, trong nhà chỉ có mình anh là hán tử đỉnh môn lập hộ, nếu anh không mạnh mẽ, không chú ý cư xử thì sao có thể sống nổi. Con nhà nghèo trưởng thành sớm, chỉ có bị khinh bỉ quen mới biết cách nhìn sắc mặt người khác, chỉ có từng khổ sở mới biết lòng người dễ đổi thay. Lưu Gia thấy Phương Tằng đã chuẩn bị, bèn định dẫn Phương Tằng mang đồ đến nhà lý chính mời người. Phương Trí Viễn chưa tới tuổi xã giao, nên bị Lưu Gia mang tới nhà Lưu Trang, để ca nhi nhà ông đón tiếp. Phu lang Lưu Gia thấy Phương Trí Viễn đến, than thở trong lòng, mình đúng là hồ đồ, chỉ nghĩ đến việc khuyên Lưu ma ma lại quên mất nhà đang có khách, nếu khách là người nhỏ mọn thì chắc sẽ thầm oán đương gia nhà mình, đúng là càng già trí nhớ càng không tốt, làm việc không ra sao, không hợp cách tí nào. Ông vội vàng nói với Lưu a ma một tiếng, định dẫn Phương Trí Viễn về nhà. Lưu a ma biết nhà Lưu Gia đang có khách, cũng băn khoăn, biết vì mình mà nhà Lưu Gia chậm trễ, thấy trời không còn sớm, vội vàng nói: “Nhà Lưu Gia, cháu không ghét bỏ ta thì để ta giúp cho, nếu không mình cháu sợ không kịp.” Phu lang Lưu Gia biết tay nghề của Lưu a ma, còn đang lo nghĩ làm cơm như thế nào, giờ Lưu a ma nói như thế tất nhiên là cực kì vui vẻ đồng ý, gọi Lưu Thu dẫn Lưu Trang, dặn hôm nay ăn cơm ở nhà ông. Phương Trí Viễn tự nhận là bạn của Lưu Trang nên rất tự nhiên mà chào hỏi Lưu Trang. Nhìn đầu gối cậu có bụi xám, biết là cậu vừa quỳ trên mặt đất, lại nhìn những vết roi còn chưa biến mất trên quần áo của cậu, Phương Trí Viễn bối rối không biết nên làm gì. Lưu Trang vẫn cúi đầu, bình thường cậu cũng không hay khóc. Trước đây, cậu chưa hiểu chuyện, bị bắt nạt oan ức liền khóc, làm cho ông đến nhà người khác mắng người. Thân mình ông không tốt, mỗi lần cãi nhau xong đều khó chịu mấy ngày, dần dần, Lưu Trang cũng không khóc nữa. Thực ra, hôm nay Lưu a ma đánh cũng không nặng, ông cũng đã lớn tuổi, Lưu Trang lại đứa cháu ông yêu thương, một chút đau ấy cũng không là gì với Lưu Trang, Lưu Trang chỉ cảm thấy uất ức khó chịu. Rõ ràng mình sợ ông vất vả, cậu chỉ còn một người thân là ông, nếu ông không còn thì cậu chỉ là người cô đơn. Thế nhưng ông lại không hiểu cậu, còn đánh cậu, cậu thấy khó chịu, không muốn nói gì, nhưng nước mắt bất tri bất giác đã tràn mi. Lúc này bị Phương Trí Viễn nhìn thấy, cậu thấy không được tự nhiên và cả ngượng ngùng, nước mắt trên mặt còn chưa khô, cậu không thể ngẩng đầu, cậu không thể khóc trước mặt người còn nhỏ tuổi hơn mình. Mắt Phương Trí Viễn rất tốt, nhìn thoáng được nước mắt còn đọng trong khóe mắt Lưu Trang. Tuy đây mới là lần thứ ba gặp Lưu Trang nhưng hắn biết tính tình Lưu Trang rất kiên cường, cũng rất thích tính cách của Lưu Trang, nhưng giờ thấy Lưu Trang khóc, Phương Trí Viễn mới giật mình nhận ra, dù Lưu Trang có xử sự người lớn như thế nào thì cậu cũng mới chỉ mười hai tuổi, ở hiện đại cũng chỉ là học sinh trung học còn chạy quanh ba mẹ xin tiền tiêu vặt. Người càng kiên cường lúc lộ ra vẻ yếu ớt càng động nhân, Phương Trí Viễn cũng không ngoại lệ. Hắn tay chân vụng về, tìm cả người cũng không thấy một cái khăn để đưa cho Lưu Trang lau nước mắt. Đột nhiên hắn có chút hâm mộ Tiểu Tráng suốt ngày mang yếm hay bị hắn cười nhạo, nếu có nhóc con kia ở đây, ít nhất cũng có thể dùng yếm của nó cho Lưu Trang lau nước mắt, đỡ phải xấu hổ giương mắt nhìn như vậy. Cuối cùng Lưu Trang quay mặt đi, lúc lâu sau mới quay lại hỏi: “Phương Trí Viễn, sao hôm nay ngươi lại đến đây Đêm mai là giao thừa rồi, ngươi không cần ở nhà làm đồ ăn với cữu cữu ngươi sao” Lưu Trang cũng không biết nói gì, đành phải chọn đề tài để nói. Phương Trí Viễn lúc này mới nói: “À, cữu cữu ta hôm qua đã làm xong rồi, nhà ngươi thì sao Chắc cũng xong hết rồi chứ Cữu cữu ta mua ruộng ở thôn ngươi, là mảnh gần đường lớn ấy, của một nhà tên là Lưu Bình trong thôn, chúng ta tới đây nhìn xem thế nào, cũng biết ruộng luôn.” Lưu Trang nghĩ nghĩ nói: “Nhà ngươi nói là nhà cha của ca ca A Thanh, ta gọi ông ấy là nhị đại gia. Mảnh ruộng kia ta biết, là ruộng tốt, năm ngoái có ca ca A Thanh và ca phu Triệu Võ, một mẫu đất thu được nhiều hơn nhà người khác một phần. Chỉ tại ca ca A Thanh và ca phu Triệu Võ đi ra ngoài mở cửa hàng, muốn đón hai ông đi dưỡng dão, sau này cũng không về nên mới bán, trong thôn cũng có mấy nhà muốn mua.” Lưu Trang ở trong thôn biết huynh đệ Lưu Hưng muốn mua mảnh ruộng này, đã nói với người ngoài từ lâu rằng ruộng này chắc chắn thuộc về nhà hắn, còn gây chuyện với những nhà muốn mua ruộng, làm mọi người đều thấy phiền, ma ma cậu nói, nếu người trong thôn sợ phiền toái không mua ruộng của nhị đại gia, ông cậu sẽ lấy hết bạc trong nhà ra, cũng xin nhị đại gia cho trả dần dần, nhất định không để huynh đệ Lưu Hưng dùng thủ đoạn để hưởng lợi. Phương Trí Viễn sờ sờ đầu nói: “Vậy hả Là do cữu cữu gặp dịp, mua ruộng nhà ông ấy.” Lưu Trang vốn có ấn tượng tốt với Phương Trí Viễn, giờ càng thấy tốt thêm. Cậu ghét nhất là mấy người nhà trên danh nghĩa là nhị gia gia cậu, thấy nhà cậu chỉ có hai ông cháu liền muốn lừa gạt chiếm tiền, còn muốn cho cậu đi ra ngoài để chiếm lấy ruộng đất và nhà ở của nhà cậu, may mà ma ma lợi hại, làm cho bọn họ không dám manh động, thế nhưng mỗi ngày làm vài việc cũng khiến người ta chán ghét. Lúc hai người không biết nên nói gì thì phu lang Lưu Gia và Lưu a ma đi ra, bảo bọn họ cùng đến nhà Lưu Gia. Trên đường đi, Lưu a ma biết nhà Phương Trí Viễn mua ruộng của Lưu Bình, trong lòng vui vẻ nên rất nhiệt tình với Phương Trí Viễn. Đến nhà Lưu Gia, Lưu Gia và Phương Tằng còn chưa về, Lưu a ma đi nấu ăn, phu lang Lưu Gia giúp đỡ, Lưu Thu và Lưu Trang cũng muốn giúp nhưng bị phu lang Lưu Gia đuổi ra ngoài, để hai người ở bên ngoài với Phương Trí Viễn. May mà Phương Trí Viễn và Lưu Trang còn nhỏ tuổi, ca nhi, hán tử ở nông thôn cũng không có quá nhiều quy củ, lễ giáo. Lưu Thu là hũ nút, gặp Phương Trí Viễn chưa đến hai lần, nói chuyện cũng chưa quá ba câu, cậu nhớ mình còn có một cái khăn tay chưa thêu xong, chào hỏi Phương Trí Viễn rồi vào phòng. Lưu Thu đi, Lưu Trang cũng không thể đi, rót cho Phương Trí Viễn một chén trà, ngồi xuống, hai người liền mắt to trừng mắt nhỏ. May mà lúc này Lưu Gia, Phương Tằng và lý chính Lưu gia thôn đến, hai đứa trẻ con bọn cậu nhường chỗ. Vào sân sau, Lưu Trang lại lấy nước, lấy hạt dưa, lạc cho Phương Trí Viễn. Phương Trí Viễn nghĩ nghĩ, hỏi: “Đúng rồi, quần áo lần trước ngươi nói làm cho ma ma ngươi đã xong chưa Cho thêm lông vào vạt và tay áo trông có đẹp hơn không Ta chỉ nhìn người khác làm thế chứ cũng chư thử bao giờ, không biết có được không.” Lưu Trang vừa nghe, trong lòng trầm xuống, bộ quần áo kia còn bị ông cậu ném xuống đất. Tuy khó chịu nhưng cậu vẫn nói: “Ừ, đẹp lắm, lần sau ngươi làm quần áo có thể thử xem. Tuy ta chưa mặc nên không biết bỏ lông vào có ấm hơn bông không nhưng đúng là nhẹ hơn bông.” Lưu Trang nói cảm nhận của mình cho Phương Trí Viễn tham khảo. Phương Trí Viễn cười nói: “Vậy tốt quá, lần trước về nhà cữu cữu còn bảo ta dạy linh tinh, lừa ngươi. Ta sao có thể làm thế chứ, ta đây rõ ràng là tướng mạo đường đường, tác phong nhanh nhẹn, thiếu niên năm tốt, cữu cữu ta đúng là lo không đâu.” Phương Trí Viễn rất tự nhiên mà nói ra câu vui đùa hiện đại, nói xong mới thấy không ổn, người nơi này đều chú ý mỹ đức là khiêm tốn, những lời hắn vừa nói có thể khiến Lưu Trang thấy hắn lỗ mãng hay không Lưu Trang lại rất nghiêm trang mà đồng ý: “Ừ, ngươi đúng là rất tốt!” Tình thâm ý thiết, không thể thật hơn, lại làm cho Phương Trí Viễn thấy ngượng ngùng. Tiết tấu này không đúng nha, sao có thể như thế được May mà Lưu a ma và phu lang Lưu Gia ra gọi hai người vào ăn cơm, tránh cho Phương Trí Viễn thấy xấu hổ. Phu lang Lưu Gia là người chịu khó, đồ ăn tết đã làm xong nên Lưu a ma chỉ nấu một món cải trắng, sợi củ cải trộn, rán cá, xong bèn hâm nóng những món khác bày lên bàn. Như vậy cũng đủ mười món, ở nông thôn cũng coi như một bàn tiệc khá đầy đủ. Ba hán tử ngồi một bàn, Phương Trí Viễn không uống rượu, lại nhỏ tuổi nên ngồi ở bàn Lưu a ma. Lưu Trang ngồi bên trái hắn. Thức ăn hai bàn giống nhau, Phương Trí Viễn ăn thấy hương vị cũng bình thường, chỉ có hai món rau và cá Lưu a ma làm là hắn thích. Đáng tiếc, cũng không biết có phải vui quá hóa buồn không, ăn cá vài chục năm thế nhưng lại bị hóc xương, khiến Lưu Trang ngồi bên trái hắn lo lắng không thôi. Sau khi nuốt một miếng cơm lớn, rốt cuộc hắn cũng nuốt được xương xuống, đến lúc muốn gắp cá, phu lang Lưu Gia lại bưng đĩa cá sang một bên. Phương Trí Viễn oán niệm nhìn đĩa cá, có thể là ánh mắt quá nóng bỏng, Lưu Trang nhìn cũng cảm thấy không đành lòng. Nhìn miếng cá đột nhiên được gắp vào trong bát, Phương Trí Viễn ngây cả người, ngẩng đầu lên mới biết là Lưu Trang gắp cho hắn, hơn nữa còn là thịt ở phần bụng cá. Phương Trí Viễn lập tức cảm thán: Người tốt nha! ** Zổ: tôi đang đọc bộ “Chờ ta thành vua”, chủ công, đế thụ, anh công xuyên 2 lần, là người hiện đại xuyên về JX3 thành Thiên Sách, sau đó xuyên về thời có anh thụ, anh thụ là dân trọng sinh. Anh công đúng là mịa nó …. Moe, chuyên môn có kiểu cười =v=, kiểu như anh thụ là thái tử và hoàng đế gặp phản tặc, anh công lao ra…cứu mỗi anh thụ, sau đó nghĩ không phải ta không muốn cứu hoàng đế mà là thực sự không để ý có hoàng đế =v=, sau đó vua hỏi sao ko cứu anh bảo “hoàng thượng bảo thần bảo hộ thái tử thì thần cứu thái tử thôi chứ, thống lĩnh bảo hộ hoàng thượng lúc đó cũng đứng đó mà” OTZ. Lúc cứu anh thụ, anh công bị thương nhẹ, nhưng giả vờ ngất cho anh thụ đau lòng, không ngờ anh thụ ra dắt ngựa bảo đi báo thù cho anh công. Con ngựa liếm tay anh thụ làm anh công gào thét trong lòng là tránh ra để ông đến liếm, sau gọi thái y, anh công chỉ tay vào đùi ý bảo thái y là bảo anh bị thương đùi ko đi lại đc để đc ở phủ thái tử, không ngờ ông thái y hiểu lầm, thấy anh vỗ vào..đó nên bảo là anh liệt dương =)))))Nói chung là tôi rất sung sướng vì đọc đc tr hay cho đến khi anh công đi Nam Man làm quan, làm ở quận Giao Chỉ, có Thứ Sử, có người bản địa họ Nguyễn, mưa nhiều nắng nóng, thôi bỏ mie, tôi lạch cạch đi đọc wiki, nghĩ chắc là VN rồi, đọc tiếp theo xem sao, nói Giao Chỉ giáp biển Nam, anh công là người hiện đại nên kể tên mấy nước cạnh biển, éo có VN, chuẩn Giao Chỉ này đúng là VN rồi, lại còn nói dân phong bưu hãn, lắm dân tộc lẫn lộn, tôi éo đọc nữa. Phí cả quyển truyện.
|
Chương 29: Tết[EXTRACT]Hôm nay lúc được mời đến Lưu Lý thấy rất bất ngờ. Ông vốn nghĩ nhà Lưu Bình thế nào cũng phải bán ruộng cho người trong thôn mới đúng, không nói chuyện khác, người trong thôn đều là họ hàng, mấy trăm năm trước cũng cùng một tổ tông. Ông cũng biết mấy chuyện huynh đệ Lưu Hưng làm, nhưng huynh đệ Lưu Hưng tốt xấu gì cũng là người Lưu gia thôn, trong mắt lý chính, nếu đã bán thì bán cho người trong thôn vẫn đúng lý hơn là bán cho người ngoài vậy nên vẫn chưa nhúng tay vào. Nhưng giờ ruộng bị người thôn khác mua, đây khác gì nói thẳng ra rằng người trong Lưu gia thôn bất hòa, vô duyên vô cớ để người chê cười. Nếu là người khác, ông nhất định sẽ không ăn bữa cơm này, nhưng ông biết Phương Tằng, cháu ngoại của lão lý chính Lâm gia thôn, là một thợ săn. Thân thủ của người này thì không cần phải bàn, ông vốn không tin tin đồn Phương Tằng có chút quan hệ ở trấn trên, một người nông dân như Phương Tằng thì có bản sự gì chứ, nhưng giờ Phương Tằng vô thanh vô tức mua một lúc sáu mẫu ruộng tốt khiến ông không thể không tin rằng Phương Tằng đúng là có chút phương pháp. Cho nên lúc Phương Tằng đến nhà mời ông ăn cơm, ông cân nhắc một lúc lâu mới đồng ý. Đây không chỉ là một bữa cơm, còn là lúc ông tỏ thái độ, nếu làm nhân tình thì phải làm đến cùng nên Lưu Lý cũng rất nhiệt tình với Phương Tằng. Phương Tằng thấy thái độ của Lưu Lý cũng yên tâm, thử nói: “Lưu đại thúc, ta có một chút phiền toái, ta là người quê không có ý gì hay, Lưu đại thúc kiến thức rộng rãi, có thể ra chủ ý giúp ta không” Lưu Lý cười nói: “Có gì mà chủ ý chứ, Phương gia huynh đệ ngươi quá khiêm tốn rồi, nhưng lão đây cũng lớn hơn ngươi mấy tuổi, cũng có thể giúp ngươi tham khảo, chỉ mong Phương gia huynh đệ không chê lão đây dong dài là được rồi.” Phương Tằng khách khí vài câu rồi hỏi thẳng: “Mặc dù mua ruộng ở Lưu gia thôn, nhưng ta là người Lâm gia thôn, ta định tự mình trồng, thu lương thực thì không nói làm gì, nhưng mà thu xong thì hơi phiền toái. Gặt cả bông lúa mang về thì bất tiện, nếu ông trời nể mặt thì tốt, nhưng nếu không thì phiền toái lớn. Cháu ta lo lắng nên muốn mượn sân phơi của nhà nào ít người ở Lưu gia thôn, ta có thể trả tiền, cũng không dùng không của người ta.” Lưu Lý im lặng một lúc lâu, ông biết yêu cầu của Phương Tằng không quá đáng, còn trả cả tiền, trong thôn không ít người có sân không phơi hết, có thể cho mượn. Vậy nhưng huynh đệ Lưu Hưng trong thôn vốn lắm trò, người trong thôn có thể tránh liền tránh, Phương Tằng rõ ràng đã đắc tội huynh đệ Lưu Hưng, giờ lại tìm nhà cho Phương Tằng mượn sân, chỉ sợ người cho mượn cũng sẽ đắc tội huynh đệ Lưu Hưng. Nếu ông làm chủ việc này thì không tốt lắm, tuy huynh đệ Lưu Hưng không dám tìm ông gây chuyện, nhưng với người khác thì chưa chắc. Phương Tằng không sống ở Lưu gia thôn, nhưng có bản lĩnh có thân thủ, nếu huynh đệ Lưu Hưng gây sự với anh, Lưu Lý dám đánh cược rằng mười phần mười là huynh đệ Lưu Hưng sẽ phải trả giá. Nhưng nhà cho Phương Tằng mượn sân, đắc tội với huynh đệ Lưu Hưng thì lại ở Lưu gia thôn, nếu thỉnh thoảng gây rối một chút, sử dụng một ít thủ đoạn cũng để người hận chết, nhưng lúc người nhà đó bực bội tất nhiên oán huynh đệ Lưu Hưng nhưng cũng không còn hảo cảm với Phương Tằng, chưa chắc đã tiếp tục cho mượn. Nếu người ta không cho mượn nữa thì lại phải thông qua người giới thiệu là lý chính ông, lúc đó Phương Tằng đến tìm ông thì những việc ông làm để vun đắp quan hệ liền trở lên lãng phí. Nhưng nếu ép người ta cho mượn, sợ rằng người ta sẽ oán lây cả ông, lúc đó ông khác gì Trư Bát Giới soi gương cả trong lẫn ngoài gương đều không phải người Nhưng ông lại không thể nói rõ ra, chỉ có thể trầm mặc tỏ thái độ. Lúc này, Lưu a ma đến hỏi mọi người đã cần mang cơm chưa, nghe được Phương Tằng nói, ông lập tức mở miệng: “Phương đương gia, nếu ngươi muốn tìm sân thì cái sân lớn nhà ta ngươi thấy thế nào, đủ không” Lúc Phương Tằng đến nhà Lưu Lý có đi ngang qua nhà Lưu a ma, cũng không để ý bên trong, nhưng sân bên ngoài cũng khá rộng rãi, phơi sáu mẫu lúa cũng đủ. Hơn nữa, nhà ông cũng không xa đường lớn, cách đồng cũng gần, chuyển về đó cũng tiện. Vì thế, anh nói: “Sân nhà Lưu ma ma vừa lớn vừa rộng rãi, nếu cho cháu mượn thì không gì tốt hơn.” Lưu a ma nghe, cười nói: “Vậy thì tốt rồi, nhà ta chỉ có ba mẫu ruộng, ta thấy còn không ít chỗ để cho ngươi phơi. Nếu ngươi không ghét bỏ thì đến vụ mùa cứ mang tới nhà ta. Ta là một ma ma già, cũng không sợ người khác nói gì.” Phương Tằng nghe rất vui vẻ, cười nói: “Vậy thì không còn gì tốt hơn, cháu cảm ơn ông trước. Lưu ma ma, ông xem thế này được không, mỗi năm cháu trả ông năm trăm đồng tiền, ông đừng từ chối nhé, đến vụ mùa lúc cháu thu lương thực còn muốn nhờ ông nấu cơm giùm. Gạo mì thì cháu ra, chỉ nhờ Lưu ma ma nấu giùm cháu thôi.” Lưu ma ma vội vã xua tay, nói: “Sao có thể lấy tiền của ngươi chứ, dù có ăn cơm ở nhà ta cùng lắm cũng là thêm muôi nước, nắm gạo. Phương đương gia, ngươi quá khách khí, sao ta có thể cầm tiền của ngươi chứ. Không được, không được.” Phương Tằng giải thích: “Lưu ma ma, lúc đó cháu cũng không phải đi một mình, cháu định mướn người làm việc. Nhưng người này một ngày ăn uống cũng không ít, nếu cháu ăn không của ông thì mới là không được. Lưu ma ma, ông đừng từ chối, nếu không cháu cũng không thể không biết xấu hổ mà dùng sân nhà ông.” Nói đến mức độ này Lưu a ma mới chịu đồng ý. Trái lại Lưu Lý rất tán thành, nhà Lưu a ma vốn ghét nhà Lưu Hưng, ân oán hai nhà chất chứa đã lâu, Lưu a ma cho Phương Tằng mượn sân ngược lại còn rất tốt, cũng không lo đắc tội thêm, dù sao hai nhà đó cũng đã khổ đại cừu thâm từ lâu. Ông cũng biết Lưu a ma chắc chắn là biết huynh đệ Lưu Hưng muốn mảnh ruộng kia, Phương Tằng mua là đắc tội bọn họ mà còn tích cực giúp Phương Tằng như vậy, chỉ sợ là trong lòng càng vui vẻ ấy chứ. Nghĩ đến trượng phu và con trai Lưu a ma đều gián tiếp chết trên tay cha con Lưu Hưng, ông cũng khó mà nói điều gì, chỉ cười nói vài câu dễ nghe, cũng coi như làm nhân chứng cho hai người. Mà ở bên kia, Lưu Trang thỉnh thoảng gắp cá cho Phương Trí Viễn khiến cho hảo cảm của Phương Trí Viễn đối với Lưu Trang tăng liên tục. Đến lúc cơm nước xong, Phương Trí Viễn đã nâng Lưu Trang từ bạn bè lên hàng ngũ bạn tốt. Ăn cơm xong, Lưu Trang nhớ tới lần trước Phương Trí Viễn cho mình đùi vịt quay, trong lòng có chút băn khoăn, nghĩ lại xem nhà mình có đồ gì ngon thì tặng Phương Trí Viễn mang về, coi như có đi có lại. Nghĩ nghĩ, nhớ tới kẹo lạc và bánh đường trắng* hôm qua ông làm bèn nói với Phương Trí Viễn: “Phương Trí Viễn, ngươi đã phải về ngay chưa Có thể chờ ta một lúc ta về nhà lấy đồ được không” Phương Trí Viễn nhìn cữu cữu hắn còn một lúc nữa mới ăn xong cơm, đồng ý nói: “Ngươi có việc thì đi đi, ta cũng chưa về ngay đâu.” Lưu Trang nói: “Vậy phải chờ ta nha, ngươi đừng về trước.” Phương Trí Viễn gật đầu, cam đoan mình sẽ không về trước thêm lần nữa. Lưu Trang đứng dậy đi nhanh ra ngoài, trong nhà bếp chỉ còn một mình Phương Trí Viễn. Hắn nhàm chán ngồi trong bếp vẽ vòng tròn, mong ngóng cữu cữu mau mau ăn xong, hắn chán quá nha. Đến nhà người khác không tốt nhất là việc này, tuổi là vết thương, không thể xã giao lại còn bị đối xử như trẻ con, đúng là không chấp nhận nổi. Cữu cữu hắn chưa ăn xong thì Lưu Trang đã hổn hển chạy về, tay còn cầm một chiếc giỏ nhỏ, bên trong có hai gói giấy dầu, hình dạng không có gì đặc biệt, cũng không nhìn ra được là cái gì. Thấy Phương Trí Viễn chưa về, Lưu Trang cũng yên tâm, đưa giỏ vào tay Phương Trí Viễn, nói: “Đây là đồ ăn hôm qua ma ma ta làm, ngươi mang một ít về nếm thử xem có ngon không.” Lúc này Phương Trí Viễn mới biết Lưu Trang đi lấy đồ ăn cho mình, thấy rất cảm động, chân thành cười nói với Lưu Trang: “Ma ma ngươi làm thì chắc chắn là ngon rồi, lần sau ta cũng sẽ mang đồ nhà ta tới cho ngươi nếm thử, đến lúc đó ngươi không được chê đâu nha.” Lưu Trang gật gật đầu, hai người nhìn nhau, cùng nở nụ cười, trong mắt cả hai đều có ăn ý và tiếu ý. Phương Tằng uống một bụng rượu, đợi bay bớt mùi rượu rồi dẫn Phương Trí Viễn về nhà. Trừ tịch là ngày lễ, Phương Tằng và Phương Trí Viễn lại đi viếng mồ. Lâm a ma và Phương Thăng đều mất năm nay, theo như phong tục ở đây thì người thân phải mang đồ đến cúng bái, đốt giấy tiền vào ngày trừ tịch. Phương Tằng và Phương Trí Viễn mang theo ba món ăn, hai loại điểm tâm, đốt một nén hương. Đầu tiên Phương Tằng nói lan man không dứt ở trước mồ Lâm a ma, còn Phương Trí Viễn thì nói trước mồ Phương Thăng, bảo Phương Thăng và Lý Hổ sớm đi đầu thai chuyển kiếp, sống sung sướng. Tất nhiên, hắn cũng hứa hẹn sẽ chăm sóc tốt cho người thân của họ, ngoại trừ Lý Phú. Phương Tằng làm xong việc chỗ Lâm a ma, lại đến trước mồ ca ca anh nhìn xem, nói với trời xanh: “Ca ca, ca yên tâm, Hổ tử sống cùng với đệ. Bọn đệ mua được ruộng rồi, có ruộng sống sẽ đầy đủ hơn. Tất nhiên là ca cũng đừng lo lắng việc sau này cháu ngoại đỉnh môn lập hộ, nó có cách làm bánh hồng, dựa vào việc này cũng có thể có một phần sản nghiệp. Đợi đến lúc nó thành gia lập nghiệp, nhất định đệ sẽ bảo nó mang theo ca nhi nó thích đến cho ca nhìn.” Nói dài nói dai một lúc lâu, đến lúc về trời đã không còn sớm. Năm nay Phương gia có người mất, câu đối dán hai bên cửa không phải màu đỏ mà là màu vàng. Phương Tằng quấy hồ, Phương Trí Viễn mua câu đối mua từ trấn trên về đi phía sau anh, hai cậu cháu làm một lúc mới dán xong. Phải nhân lúc mặt trời chưa lặn để ăn cơm tối, Phương Tằng và Phương Trí Viễn chỉ có hai người, nhưng thức ăn trên bàn lại không thiếu, mười món thập toàn thập mỹ, đủ cả gà vịt thịt cá. Phương Tằng còn cố ý mua xôi gà hấp lá sen ở trấn trên, lại thêm đồ ăn tết khiến Phương Trí Viễn không biết nên ăn món nào trước. Phương Tằng uống rượu gạo do Lâm Chính gia tự ủ mà Lâm Chính mang tới, nhìn bộ dáng Phương Trí Viễn cầm đũa rối rắm liền bật cười, nói với Phương Trí Viễn: “Hổ tử, con sao thế Mau ăn đi kẻo nguội. Có muốn thử rượu gạo với cữu không” Câu cuối cùng hiển nhiên là Phương Tằng cố tình trêu chọc Phương trí Viễn. Ở hiện đại, Phương Trí Viễn là cao thủ uống rượu, một lít như ăn sáng, năm lít không xi nhê, là một cao thủ có thể làm cho một người đàn ông Mông Cổ uống say đến không biết đông nam tay bắc. Hắn dựa vào chiêu ấy mới nổi bật trong đám đông côn đồ, trở thành tiểu đệ được các lão đại thích dẫn đi uống rượu theo nhất, dần dần tiến lên. Đến nơi này, Phương Trí Viễn thực bi đát trở thành một đứa bé mười tuổi, tất nhiên là phải ngoan ngoãn tuân thủ quy củ của trẻ con. Cũng là kiếp trước uống rượu đến phát sợ cho nên đến đây cũng không có hứng thú gì với rượu. Bây giờ Phương Tằng nói ra, Phương Trí Viễn liền muốn nếm thử, nói với Phương Tằng: “Vậy cữu cữu à, con uống một chén nhỏ thử xem nha.” Phương Tằng không ngờ cháu ngoại mình cũng dám uống, lập tức nói: “Không được, con đang tuổi lớn, không được uống thương thân. Rượu này ấy hả, sau này thế nào cũng được uống.” Phương Trí Viễn oán niệm nhìn chằm chằm vào chén rượu của Phương Tằng, ánh mắt sâu thẳm. Có lẽ Phương Tằng nghĩ việc này là do mình khơi ra, sờ sờ mũi, cuối cùng dưới ánh mắt oán niệm của Phương Trí Viễn, đưa chén ra, dặn dò: “Thôi được, con nếm thử một ngụm đi, chỉ một ngụm thôi đấy.” Phương Trí Viễn lập tức cầm chén uống một ngụm, hết non nửa chén, Phương Tằng thấy thế vội vàng lấy chén về, nhìn chằm chằm cháu ngoại, chỉ sợ nó say. Phương Trí Viễn lại thấy không đã ghiền, rượu gạo này chỉ hơi cay, vào miệng còn có vị ngọt lành, độ cồn cao hơn rượu đỏ, nhưng đối với Phương Trí Viễn uống rượu như uống nước thì chẳng hề gì. Phương Tằng cháu sắc mặt cháu ngoại vẫn bình thường, cười vỗ vai Phương Trí Viễn nói: “Không tồi nha, rất ra dáng hán tử, giống cữu cữu con, tửu lượng tốt!” Trên mặt Phương Trí Viễn ngoan ngoãn, trong lòng lại nói, đây là tửu lượng tiểu gia đây uống ở hiện đại ra nha! Ăn cơm xong, đốt pháo, Phương Tằng và Phương Trí Viễn thay quần áo mới, Phương Tằng còn cho Phương Trí Viễn một phong lì xì. Phương Trí Viễn mở ra nhìn, không ngờ có tận một lượng bạc, hắn cười hì hì nhận. Châm ngôn của hắn luôn là: Quỹ đen mới là hạnh phúc của đàn ông! Hai cậu cháu đốt chậu than sưởi ấm, chuẩn bị thức đêm đón giao thừa. Đến khuya, Phương Tằng nấu sủi cảo đã bao sẵn, gọi Phương Trí Viễn đang mơ màng tỉnh ăn sủi cảo. Đêm lạnh ăn một bát sủi cảo nóng hổi, Phương Trí Viễn cảm thấy rất thoải mái, tựa vào ghế, bất tri bất giác liền ngủ mất. Hôm sau hắn tỉnh trên kháng của mình, vừa nhìn là biết hôm qua cữu cữu hắn bế hắn lên kháng. Nghe tiếng pháo kêu không dứt ở ngoài, Phương Trí Viễn cảm thấy được không khí Tết tràn ngập. ** Zổ: tôi đang đọc một bộ chủ công ngắn, hệ thống, mới đọc mấy chương đầu nhưng em hệ thống mới 5 tuổi, manh chết mất chết mất chết mất.
|