Hoàng Kim Đài
|
|
Chương 55: Tro tàn[EXTRACT]Người phụ nữ nọ mở mắt tỉnh lại, vừa thấy Nghiêm Tiêu Hàn thì sợ hãi kêu lên: “Là ngươi?!”
Đoàn người của Tề vương là khách lạ hiếm thấy ở thôn Khê Sơn, hôm ấy hầu hết người trong thôn đều chạy tới xem, Nghiêm Tiêu Hàn lại càng nổi bật, khiến các thôn phụ khắc sâu ấn tượng. Cho nên nữ nhân kia ngay lập tức nhận ra hắn, sợ đến suýt khóc, run rẩy hỏi: “Ngươi….. quay lại báo thù ư? Là đám người trưởng thôn muốn hại ngươi, bọn ta không biết gì hết!”
Phó Thâm dùng gậy gạt gạt đống lửa, nói xen vào: “Ngươi run như cầy sấy thế kia, trông đâu có giống ‘Không biết gì hết’.”
Phó Thâm tuy tướng mạo anh tuấn, nhưng khí thế quá mạnh, là kiểu vừa nhìn đã biết không chọc nổi, mà tướng mạo Nghiêm Tiêu Hàn lại rất lừa người, chỉ cần hắn không chủ động gây sự, thì hắn có thể giả làm người hiền lành nho nhã một cách hoàn mỹ.
Thấy Phó Thâm xướng mặt trắng trước, Nghiêm Tiêu Hàn đành phải đóng vai mặt đỏ, cất lời an ủi: “Chồng ngươi là do ta vớt từ dưới sông lên đấy, ngươi đừng sợ, không phải ta tìm tới để báo thù đâu.”
(Trong Kinh kịch, người mang mặt nạ đỏ đại diện cho nhân vật chính trực trung thành, còn mặt nạ trắng là độc ác gian trá.)
Nghe hắn nói vậy, phụ nhân kia mới hoàn hồn, giơ tay áo lau mặt, bò qua đỡ trượng phu mình dậy, vỗ lưng, lau miệng mũi cho hắn. Nàng vừa làm vừa nhớ tới tình cảnh trước khi bị đánh ngất, lòng bi thương khôn xiết, òa khóc nức nở.
Hai người không ai can ngăn, yên lặng nghe tiếng khóc thảm thiết của nàng.
Từ tối qua đến giờ, nàng đã khóc không biết bao nhiêu lần, trơ mắt nhìn chồng mình bộc phát bệnh hiểm nghèo, bị người trong thôn ném vào giữa sông, đêm đó sau khi về nhà liền mắc dây lên xà nhà, chuẩn bị treo cổ. May mà Phó Thâm luôn âm thầm theo dõi nhất cử nhất động của nàng, kịp thời ra tay đánh ngất nàng mang đi, mới không để nàng tự tử thành công.
Có lẽ là cảm nhận được thiện ý từ trong sự chờ đợi lặng lẽ của bọn họ, một lát sau, tiếng khóc của phụ nhân kia dần ngừng lại, nàng ngước đôi mắt đỏ ngầu quan sát hai người một lượt, quỳ mọp xuống hành đại lễ với bọn họ: “Đại ân đại đức, chẳng thể báo đáp.”
Nghiêm Tiêu Hàn nghĩ thầm đây vẫn là một người hiểu chuyện, bèn xua tay nói: “Việc nhỏ thôi mà, không cần phải làm vậy. Ta có một số việc muốn hỏi ngươi, ngươi chỉ cần thành thật trả lời là được.”
Phụ nhân kia nói: “Biết gì thiếp sẽ nói hết, tuyệt đối không dám dối gạt ân công.”
Sau một lần trở về từ cõi chết, phụ nhân kia đã chẳng còn lưu luyến gì với thôn Khê Sơn nữa, hỏi gì nàng đều đáp nấy, tiết lộ toàn bộ bí ẩn trong thôn.
Thôn Khê Sơn có hơn trăm hộ gia đình, đa phần là tộc nhân họ Điền, nam tử bị ném xuống sông tên là Điền Thành, phụ nhân họ Âu, là người từ thôn khác gả đến đây.
Theo Âu thị kể, thôn Khê Sơn dựa núi gần sông, mặc dù không tính là hoàn toàn tách biệt với thế gian, song rất hiếm khi có khách lạ đến. Khoảng chừng một năm trước, Thu Dạ Bạch rộ lên ở vùng Kinh Sở. Cậu con trai nhỏ của một gia đình trong thôn đi học ở huyện thành, bị bạn học dụ dỗ đến phố đèn đỏ để “mở mang tầm mắt”, xuất phát từ lòng hiếu kỳ, bất cẩn bị dính nghiện, còn nhân lúc về nhà nghỉ đem Thu Dạ Bạch chia cho bạn bè. Đến khi cha mẹ hắn phát hiện thì đứa con trai đã nghiện nặng, không thể nào cai được nữa.
Gia đình kia có chút của ăn của để, lại rất nuông chiều con trai, mới đầu không xem Thu Dạ Bạch là chuyện to tát gì, còn bảo là trong nhà có thể mua thuốc cho hắn hút cả đời. Nhưng càng nghiện nặng, nhu cầu của người hút đối với Thu Dạ Bạch lại càng nhiều. Dù trong huyện thành Quảng Phong, Thu Dạ Bạch cũng là thứ hiếm có đắt hàng, nhà bình thường cũng chưa chắc mua được, chứ nói chi đến nhà nông dân. Cho nên không bao lâu sau, gia đình kia không mua nổi thuốc nữa. Lúc cơn nghiện phát tác sẽ vô cùng thống khổ khó chịu, đứa con bị giày vò chẳng ra hình người, cuối cùng không chịu đựng nổi, trong một đêm mưa đã chạy ra khỏi nhà, đâm đầu xuống sông tự sát.
Kể thì kể vậy, nhưng thôn dân đều âm thầm đồn rằng, đứa con trai không phải tự sát, mà là trong nhà thực sự không gánh nổi cục nợ này nữa, nên mới ném hắn xuống sông, ngụy trang thành ngã sông mà chết.
Vì có vết xe đổ này, ngoại trừ vài tiểu tử nghiện thuốc từ đầu, các thôn dân còn lại đều không dám dính đến Thu Dạ Bạch, nhưng có người vẫn đỏ mắt vì Thu Dạ Bạch giá cao, bèn lén lút trồng mấy cây ở sau nhà.
Biến cố phát sinh vào mùa thu năm ngoái. Có một hôm, một đạo sĩ tha phương đi ngang qua thôn, vì trên đường gặp mưa to, không có chỗ trú, nên liền vào thôn xin tá túc. Thôn dân nhiệt tình tiếp đón ông ta, cho ông ta ở lại một căn phòng trống trong thôn, còn mang cơm nước chiêu đãi.
Nửa đêm hôm ấy, trùng hợp trong thôn có người lên cơn nghiện, tình hình rất nghiêm trọng, gây động tĩnh ồn ào, kinh động đến người cả thôn. Đạo sĩ kia bị đánh thức, cũng ra ngoài xem, thấy trong cơn mưa xối xả có một người máu me be bét đang lăn lộn trên mặt đất, liền xông lên ấn vào mấy huyệt vị, khiến người kia lập tức ngất đi, rồi bảo thôn dân khiêng hắn về nhà.
Đạo nhân kia am hiểu chút dược lý, vừa nhìn đã biết tình trạng của hắn là do Thu Dạ Bạch gây nên. Nhưng gia đình người nghiện không có tiền mua thuốc, trong thôn tuy trồng Thu Dạ Bạch, nhưng chế thuốc cũng cần thời gian, đạo nhân nhận ơn huệ của thôn dân, sinh lòng trắc ẩn, không biết đi vào trong phòng làm cái gì, lúc đi ra, tay cầm theo một bọc giấy, trong bọc là một ít bột phấn màu nâu, bảo bọn họ tạm thời dùng thứ này để thay thế.
Đạo nhân có lòng tốt, nhưng xưa nay “Tài bất lộ bạch”, “Hoài bích kỳ tội”, đều là những bài học xương máu.
(Tài bất lộ bạch: không được để lộ của cải ra ngoài. Hoài bích kỳ tội: trích từ câu “Thất phu vô tội, hoài bích kỳ tội”, nghĩa là kẻ thất phu vô tội, nhưng vì mang ngọc mà có tội. Hai câu này ý nói có tài năng hay của cải thì chớ lộ ra, kẻo rước họa vào thân.)
Có thôn dân biết xem hàng, nhận ra đây là “Bạch Lộ Tán” tinh chế ngàn vàng khó cầu. Bấy giờ ở huyện Quảng Phong đã có câu “Một lạng Thu Bạch một lạng vàng”. Bọn họ thấy đạo nhân kia lấy ra nửa lạng Thu Dạ Bạch, nghĩ trên người ông ta còn giấu nhiều hơn nữa. Những người này thấy hơi tiền liền nổi máu tham, đợi mọi người về nhà nghỉ ngơi rồi, bèn lén lút chạy đến chỗ ở của đạo nhân, cầm đao chém chết ông ta.
Phó Thâm nghe đến đó, không biết nhớ tới cái gì, tay phải bỗng khẽ run rẩy.
Nghiêm Tiêu Hàn lặng lẽ nắm chặt tay y.
Thôn dân tìm thấy trên người đạo nhân kia có một khối Thu Dạ Bạch to bằng nắm đấm của phụ nữ, màu sắc trong suốt thuần túy, tựa như hổ phách, một góc dính máu, càng khiến nó toát lên một vẻ diễm lệ khác. Giá trị của khối Thu Dạ Bạch này vượt qua hoàng kim có trọng lượng tương đương, mấy kẻ nọ mừng thầm trong bụng, cẩn thận cất nó đi, sau đó nhân lúc tối trời mang thi thể đạo nhân kia ra khỏi làng, ném vào giữa sông.
Một đạo sĩ vân du, vô gia vô nghiệp, biến mất cũng sẽ chẳng người nào để ý.
Đêm ấy, thôn dân thôn Khê Sơn trong đêm đen tĩnh lặng nghe tiếng đao phủ chém xuống, máu tươi tung tóe, nghe tiếng người hô to cười lớn, nhưng không một ai dám ngăn cản.
Tối nay, bọn họ đều là kẻ vờ ngủ, gọi không tỉnh.
Nước sông cuộn trào, cuốn đi thi thể chết oan, bạch cốt chồng chất hòa cùng chuyện cũ năm xưa, chìm xuống đáy hồ tăm tối bên ngoài miếu Hồ Tiên.
—— Song báo ứng thực sự chỉ mới bắt đầu.
Mấy kẻ cướp được Thu Dạ Bạch sợ tùy tiện mang ra sẽ khiến người khác hoài nghi, sau khi bàn bạc, quyết định chia nhỏ khối Thu Dạ Bạch đem bán. Ai ngờ bọn chúng còn chưa kịp làm gì, một kẻ trong số đó bỗng mắc bệnh lạ, đầu tiên là sốt cao kéo dài, ho khan, gầy đi nhanh chóng, hoa mắt ù tai, tiếp đó trên người bắt đầu xuất hiện các loại nốt đỏ mụt đỏ, thậm chí da thịt thối rữa, sống không bằng chết.
Thế vẫn chưa xong, không lâu sau đó, những kẻ tham gia vào cuộc hành hung đêm hôm ấy đều xuất hiện triệu chứng tương tự.
Các thôn dân bắt đầu hoảng loạn, nhưng giết người cướp của là đại tội thập ác bất xá, kẻ bao che cũng chịu tội liên quan, trưởng thôn không dám báo quan, đành phải triệu tập các bô lão trong dòng họ cùng nhau thương nghị. Có một tộc lão biết thỉnh thần, bèn làm pháp ở từ đường, mời được tổ tiên của Điền thị nhập vào người. “Tổ tiên” bảo rằng thôn dân thấy hơi tiền nổi lòng tham, mưu hại giết người, oan hồn chết uổng không yên nghỉ được, hóa thành ác quỷ đòi mạng, đây là trời phạt, kẻ ác phải chuộc tội, kẻ đồng lõa phải xoa dịu oán hận.
Câu chuyện quỷ thần báo ứng này miễn cưỡng lừa được những thôn dân đang kinh hoảng, trưởng thôn sai người chuẩn bị đồ cúng, lại tập hợp mấy thôn dân, đặt những hung thủ nhiễm bệnh lên xe hoa, phỏng theo nghi thức cúng tế hà bá thời cổ, ném tội nhân vào trong nước, xoa dịu oán khí của người đạo sĩ chết oan.
Cúng tế xong, lòng các thôn dân vẫn còn sợ hãi, cũng thả khối Thu Dạ Bạch ấy vào giữa sông, cứ tưởng lần này đã gió êm sóng lặng rồi, nhưng chẳng bao lâu sau, lại có người xuất hiện triệu chứng giống y như đúc!
Oan hồn dưới đáy sống vẫn chưa buông tha cho bọn họ.
Một bước sai, ngàn bước sai, vì bù đắp sai lầm, các thôn dân đã phạm vào càng nhiều sai lầm không thể tha thứ. Tất cả mọi người là châu chấu trên cùng một sợi dây, đừng ai hòng nhảy ra một mình.
Từ đó, thôn làng tựa chốn thế ngoại đào nguyên này biến thành địa ngục không lối thoát, mỗi khi có người xuất hiện bệnh trạng, sẽ bị thôn dân vứt xuống sông. Ngày qua ngày, dòng sông giống như một cái miệng lớn mãi mãi không biết thỏa mãn, sớm muộn cũng phải nuốt chửng tất cả mọi người vào trong.
Đất trời chìm trong đêm tối, chỉ có ngôi miếu đổ nát này le lói chút ánh lửa trân quý.
Phó Thâm im lặng rất lâu. Nghiêm Tiêu Hàn nhớ tới thiên lôi đêm ấy bổ nát tượng thần, có lẽ thật sự có thiên ý sâu xa chỉ dẫn, nếu không nhờ có luồng sét kia, sau khi nghỉ ở miếu Hồ Tiên, bọn họ sẽ đi thẳng tới Kinh Châu, không nán lại lâu trong cái thôn nhỏ này, càng không phát hiện bí mật bị người cả thôn che giấu kín kẽ.
Trong truyền thuyết về miếu Hồ Tiên, hồ ly vì dự báo lũ lụt mà bị trời phạt, vậy lần này, có phải cũng là nó đang cảnh báo, bảo bọn họ điều tra rõ chân tướng, phòng tránh sóng triều cuồn cuộn sắp sửa ập đến?
“Chẳng phải ác quỷ đòi mạng gì hết, mà chính là ôn dịch. Có lẽ bởi vì hung phạm dính phải máu của đạo nhân kia, cho nên mới mắc phải căn bệnh tương tự, rồi lây cho những người khác trong thôn.” Phó Thâm lạnh lùng nói, “Nhân quả tuần hoàn, tự tạo nghiệt không thể sống.”
Nghiêm Tiêu Hàn hỏi Âu thị: “Bệnh của chồng ngươi đã vô phương cứu chữa, chỉ có thể chờ chết, ngươi thì vẫn còn rất nhiều năm để sống. Thôn Khê Sơn xảy ra chuyện, một khi quan phủ tra ra, không ai có thể chạy thoát được. Song ngươi đã gặp được hai người bọn ta, bọn ta có thể mở một đường sống, giúp ngươi tự tìm cách mưu sinh, ý của ngươi thế nào?”
Âu thị chực khóc: “Thiếp và chồng kết tóc phu thê, mấy năm ân tình, nào dám vứt bỏ, xin ân công giơ cao đánh khẽ.”
Phó Thâm thấy nàng đáng thương, đang định nhận lời lại bị Nghiêm Tiêu Hàn liếc mắt ngăn lại: “Bệnh của hắn sẽ truyền nhiễm, dù có đáng thương cũng không thể để hắn sống sót ra ngoài được.”
Hắn không hạ thấp giọng, Âu thị cũng nghe được rõ ràng. Lòng nàng tràn đầy tuyệt vọng, nhưng không lay chuyển được Phi Long vệ tâm địa sắt đá, nàng bị Phó Thâm kéo ra ngoài cửa, trơ mắt nhìn Nghiêm Tiêu Hàn tìm củi khô và vải màn để châm lửa. Một lát sau, khói đặc bốc lên trời, miếu Hồ Tiên hóa thành một biển lửa.
Âu thi ngây ngốc ngồi quỳ trên đất, lệ đã khóc cạn, viền mắt đỏ ngầu, cuối cùng không nhỏ được giọt nước mắt nào nữa.
Phó Thâm ném một túi tiền không nhẹ vào lòng nàng, nhàn nhạt nói: “Con đường của ngươi vẫn còn dài, đến nơi khác mà tìm cuộc sống mới, một ngày nào đó sẽ quên được hắn.”
Nói rồi, y liền quay người cùng Nghiêm Tiêu Hàn tiến vào trong màn đêm thăm thẳm.
Âu thị nắm chặt túi tiền trong tay, trong con ngươi phản chiếu ánh lửa đỏ rực, không biết qua bao lâu, nàng mới thì thào nói: “Không quên được…..”
Sau kiếp làm sao có đường sống? Nó chỉ có thể lưu lại một đống tro tàn cháy rụi, khiến người bị bỏ lại từ đây sống trong cái bóng nhạt mờ.
(Kiếp hậu dư sinh: nghĩa là người may mắn sống sót sau tai nạn. Ở đây ý nói kiếp đã qua nhưng mạng thì chẳng còn nữa.)
✿Tác giả có lời muốn nói: Ok, căn bệnh lạ kia là tôi bịa ra thôi, đừng kiểm chứng nha, moah moah nà ~
|
Chương 56: Rời đi[EXTRACT]Lặng yên cả quãng đường.
Khi trở lại quán trọ, đóng cửa thắp đèn rồi, Phó Thâm tắm xong liền ngồi ngẩn ngơ trên ghế, một lát sau Nghiêm Tiêu Hàn mới đi ra, ôm y từ phía sau, cằm đặt trên mái đầu ẩm nước của y, thấp giọng hỏi: “Không vui à?”
Phó Thâm ngoắc lấy ngón tay hắn, cảm thấy mình sầu đến độ sắp rụng tóc luôn rồi: “Thế này gọi là gì nhỉ? Ta không giết Bá Nhân, Bá Nhân lại vì ta mà chết.”[1]
Nghiêm Tiêu Hàn chỉ nói “Ừm”.
Phó Thâm chờ câu sau của hắn, nhưng chờ mãi mà chẳng thấy động tĩnh gì, liền ngửa mặt lên: “Ngươi không có gì muốn nói cả sao?”
Nghiêm Tiêu Hàn hờ hững đáp: “Ngươi nghĩ ta sẽ nói gì?”
Phó Thâm: “Nói ta mềm yếu, thích đi gánh tội, chuyện gì cũng ôm đồm vào người.”
Nghiêm Tiêu Hàn cười nhẹ: “Nếu trong lòng ngươi đã biết rõ thì ta cần gì phải nói nhiều. Ta không muốn nói mấy cái đó.”
Phó Thâm: “Vậy thì là cái gì?”
“Nơi này không phải kinh thành, không có một cái phủ Tĩnh Ninh hầu cho ngươi lật.” Nghiêm Tiêu Hàn nói với vẻ cười trên nỗi đau của người khác, “Hầu gia chi tiền hào phóng, chỉ lo làm việc thiện mà không nhớ đó là toàn bộ lệ phí trên người ngươi à?”
Phó Thâm: “…….”
Đúng là không nghĩ tới thật!!!
“Có bao nhiêu tiền cũng chẳng đủ với cái kiểu tiêu xài này…… Tục ngữ nói đúng thật, một xu tiền cũng làm khó anh hùng,” Nghiêm Tiêu Hàn giả vờ cảm thán: “Có điều hầu gia nhổ một cọng lông tơ cũng to hơn cái đùi của tại hạ, chắc hẳn sẽ không chịu khom lưng chỉ vì mấy đấu gạo đâu, nhỉ?”
Phó Thâm híp mắt, tỏa ra sát khí: “Ngươi lại còn vênh váo cơ à?”
“Trước khác nay khác,” Nghiêm Tiêu Hàn thản nhiên nói, “Giờ trừng mắt với ta cũng vô ích thôi, chi bằng ngươi cầu xin ta, biết đâu ta lại đồng ý cho ngươi mượn một ít?”
Phó Thâm xem như đã tự thể nghiệm cái gọi là Đông Quách tiên sinh và sói, con sói đuôi to lấy oán trả ơn này lại còn cười hệt như hồ ly tinh, ghé đến tai y khẽ hôn một cái, buông lời dụ dỗ: “Hoặc là, ngươi có thể bán thân….”
(Tích xưa kể rằng Đông Quách tiên sinh cứu một con sói thoát chết, nhưng con sói mất dạy không những không mang ơn mà còn đòi ăn thịt ổng, may có ông lão thợ săn đi qua xử gọn con sói. Câu chuyện về Đông Quách tiên sinh và con sói thường được dùng để nói về việc làm ơn những lại mắc oán:v)
“Không bán thân,” Ngón tay Phó Thâm quấn quanh lọn tóc buông xuống của hắn, quay đầu chạm vào môi hắn một cái, “Chỉ cướp tiền.”
Nghiêm Tiêu Hàn thở dài thườn thượt có vẻ rất chi là khổ não, hắn khom người bế y lên giường, bất đắc sĩ nói: “Vậy thì tiện thể cướp “sắc” luôn đi.”
Mãi đến khi sắc trời bên ngoài tờ mờ sáng, tiếng thở dốc trong màn mới dần nhỏ đi. Phó Thâm mệt đến độ vừa ngả đầu liền ngủ, trước khi chìm vào mộng đẹp, ý nghĩ cuối cùng của y là hoài nghi có phải mình đánh rơi đầu óc ở miếu Hồ Tiên, không đem về hay không.
Cướp sắc cái con khỉ, cuối cùng chẳng phải vẫn bị Nghiêm Tiêu Hàn ăn sạch sành sanh đó sao! Thế này rốt cuộc khác bán thân ở chỗ nào!
Tối hôm trước lăn qua lăn lại muộn quá, hôm sau Nghiêm Tiêu Hàn hiếm khi mới cùng Phó Thâm ngủ nướng. Lúc hắn mở mắt thì Phó Thâm còn chưa tỉnh, dáng vẻ ngủ say nhiều thêm một phần ôn thuần so với bình thường, thân thể cũng mềm, khiến người ta cầm lòng không đặng muốn vươn tay nhéo mặt y một cái. Nghiêm Tiêu Hàn nhìn chăm chú một hồi mà y vẫn chưa tỉnh, tính cảnh giác giảm mạnh, có thể thấy thật sự đã mệt lắm rồi.
Nghiêm Tiêu Hàn thương y vất vả cho nên cố nhịn không đi trêu chọc người ta, hắn lặng lẽ rời giường, sau khi rửa mặt liền đi ra ngoài, trước tiên đến tiền trang huyện Quảng Phong gửi tin cho Tề vương, hẹn gặp mặt ở Kinh Châu, sau đó rút chút bạc, bỏ cẩn thận vào một túi tiền khác.
Trên đường về quán trọ, có một con phố bán toàn điểm tâm sáng, Nghiêm Tiêu Hàn chọn mua chút đồ ăn, khi xách về quán trọ vẫn còn nóng. Phó Thâm ngửi mùi bánh bao thịt thơm phức, mơ màng tỉnh giấc, ôm chăn ngồi dậy: “Mộng Quy?”
“Ừ.” Nghiêm Tiêu Hàn bưng một chậu nước nóng tới, ngồi ở mép giường lau mặt cho y, “Hôm nay dậy muộn, ăn chút đồ lót bụng trước đã, bữa trưa lát nữa hẵng dùng.”
Phó Thâm ngả nghiêng dựa vào vai hắn, cơ thể mang theo hơi ấm của chăn, cất giọng khàn khàn: “Ngươi đến tiền trang à?”
Động tác của Nghiêm Tiêu Hàn không dừng lại: “Phải. Sao đoán được vậy?”
Phó Thâm uể oải cười nói: “Người sực mùi tiền.”
Nghiêm Tiêu Hàn cố ý chơi xấu, tay luồn vào trong chăn, bóp bóp cái nơi nào đó không thể nói ra: “Ngươi cầm tinh con gì thế hả? Vừa mới tỉnh ngủ, ta thấy cái đuôi còn chưa thu về đúng không……”
Hai người lại quấn quít một hồi, Phó Thâm cuối cùng cũng tỉnh hẳn, chỉnh lý xong xuôi liền ngồi ở bàn ăn. Lúc ở kinh thành có một đám hạ nhân bên cạnh, ai nấy đều phải ra vẻ “Ăn không nói ngủ không nói”, giờ trong phòng chỉ có hai bọn họ, chẳng cần nhiều lễ nghi rườm rà làm gì. Phó Thâm nuốt một hớp cháo, nói: “Ngươi định bao giờ lên đường đến hội hợp với Tề vương?”
Nghiêm Tiêu Hàn bóc một quả trứng vịt muối đưa cho y: “Ngày mai đi. Việc ở thôn Khê Sơn đã giải quyết, nhiệm vụ này xem như hoàn thành một nửa rồi, còn lại phải xem quan phủ xử lý thế nào. Ngươi thì sao? Đi theo ta hay hồi kinh?”
Phó Thâm chọc một miếng mỡ bóng nhẫy, nghe vậy thì nhướn mày, hỏi ngược lại: “Nghiêm đại nhân, ta là gia quyến ngươi mang theo ra ngoài à?”
“Chẳng lẽ không phải?” Nghiêm Tiêu Hàn không buông tha một cơ hội nào để thể hiện thân phận của mình, hắn nhấn mạnh, “Đúng là ‘gia quyến’ còn gì.”
Dáng vẻ này của hắn khác xa ngày thường, vừa nghiêm túc vừa ngốc nghếch, lại còn có điểm đáng yêu, lòng Phó Thâm mềm nhũn: “Được rồi, lão gia, ngay cả mặt nạ ta cũng ném rồi, chắc chắn không thể nào gặp người ngoài được, hay là ngươi nhét ta vào túi mang tới Kinh Châu?”
Nghiêm Tiêu Hàn vừa nghe giọng điệu giễu cợt của y liền biết y không đùa, hắn nói một cách không cam lòng: “Cứu người cứu cho trót, tiễn Phật tiễn đến Tây, ta nghiện thuốc còn chưa khỏi mà ngươi lại muốn đi.”
Phó Thâm nói: “Ta thiếu nợ ngươi hả? Chữa cho ngươi đã là tốt lắm rồi. Với cả cơn nghiện của ngươi đã sớm khống chế được rồi, thế mà từ sáng đến tối chỉ biết làm nũng chơi xấu.”
Ngữ khí kia mặc dù là trách cứ, nhưng tâm ý cưng chiều dung túng lại rõ mồn một, Nghiêm Tiêu Hàn bị y mắng mà sướng rơn cả người, không giả vờ ấm ức nữa, mà vô cùng tự giác hỏi han ân cần: “Vậy sắp tới ngươi định đi đâu? Về Bắc Yến sao?”
“Ngày Thuần Dương đạo nhân chết, ta có nói muốn bắt đầu điều tra từ Tây Nam,” Phó Thâm nói, “Nếu đã đi đến đây rồi, vậy thì tiện đường qua đó luôn.”
Nghiêm Tiêu Hàn lập tức căng thẳng, nói quả quyết rằng: “Không được, ngộ nhỡ Tây Nam thực sự là đầu nguồn của Thu Dạ Bạch, ngươi một thân một mình quá nguy hiểm……”
Phó Thâm nói: “Lần trước chúng ta nói đến chuyện hồi mùa hè, sau đó ta suy nghĩ một chút, tuy rằng lúc ấy bệ hạ rõ ràng đang nhắm vào Bắc Yến thiết kỵ, nhưng đối với quân đóng giữ tứ phương, đây cũng là một lời cảnh cáo không nhỏ. Tây Nam nhiều năm qua đã tự thành một thể, lại có một quận vương khác họ, ông ta còn là bộ hạ cũ của Bắc Yến, nếu như cho rằng Thu Dạ Bạch là chiêu mà Tây Nam dùng để phản kích triều đình thì cũng có lý. Về điểm này, ông ta và ta là người trên cùng một chiếc thuyền, sẽ không làm gì ta đâu, không cần phải kiêng kỵ.”
Một khi đã ra quyết định, Phó Thâm chỉ thông báo có lệ thôi, chứ chưa bao giờ thương lượng với người khác. Nghiêm Tiêu Hàn biết tính y, cảm thấy không thay đổi được gì, đành phải đáp ứng: “Phía kinh thành thì sao, ngươi đã sắp xếp xong rồi ư?”
“Cáo ốm dưỡng thương, tìm một kẻ giả làm ta.” Phó Thâm thản nhiên nhoẻn miệng, “Hoàng thượng hiện tại chắc cũng chẳng hơi đâu mà quan tâm ta —— Ông ta cũng đang bệnh nặng mà.”
Hôm sau, hai người chuẩn bị xong lương khô và lộ phí, rời khỏi quán trọ, cưỡi ngựa lao về hướng Kinh Châu.
Phó Thâm muốn đến Tây Nam, sau khi chia tay Nghiêm Tiêu Hàn ở Kinh Châu liền đi tiếp về phía Tây, Nghiêm Tiêu Hàn thì một mình cưỡi ngựa vào thành, đến thẳng quan dịch nơi Tề vương dừng chân.
Lần nữa gặp lại, Nghiêm Tiêu Hàn bị Thu Dạ Bạch hành hạ trong thời gian ở huyện Quảng Phong nên hao gầy đi nhiều. Tề vương nhìn dáng vẻ tiều tụy của hắn, liền biết hắn không nói dối, lại nghe hắn kể lại chuyện ở thôn Khê Sơn, nói đến những thảm trạng khiến người ta nghe mà kinh hãi, Tề vương tràn đầy căm phẫn, vỗ bàn đứng dậy: “Người sống tế quỷ…… Thiên hạ còn có hạng ngu dân dốt nát gan to bằng trời thế này sao!”
Nghiêm Tiêu Hàn nói: “Thu Dạ Bạch gieo hại khắp nơi, không riêng gì thôn Khê Sơn, việc thuế lương thực ở Kinh Sở giảm thu cũng liên quan tới nó. Quan địa phương biết mà không báo, bách tính nhổ lúa trồng thuốc, điện hạ nên dựa vào án này để quét sạch tệ nạn, cấm tiệt Thu Dạ Bạch.”
Mấy ngày nay nhóm người Tề vương ở Kinh Sở cũng không nhàn rỗi, lời Nghiêm Tiêu Hàn nói hắn đều nắm chắc trong lòng, chỉ thiếu một sợi ngòi pháo là thôn Khê Sơn thôi. Một khi vụ án này báo lên triều đình, quan trường Kinh Sở nhất định sẽ bị càn quét tan tác.
Trước khi bọn họ rời kinh, hoàng hậu bị ban chết, thái tử thất sủng, mà phụ thân của thái tử phi Sầm thị lại là Sầm Hoằng Phương – tiết độ sứ Kinh Sở, có thể suy ra, sau vụ án Kinh Châu này, thái tử chắc chắn sẽ bị phế.
Tề vương lập tức triệu tri phủ Kinh Châu tới gặp, truyền lệnh xuống dưới, đêm đó thôn Khê Sơn bị tóm gọn, toàn bộ thôn dân bị áp giải suốt đêm đến nha môn huyện Quảng Phong để thẩm vấn, tri huyện Quảng Phong cai trị không nghiêm, chức quan khó bảo toàn. Để có thể cho Tề vương một câu trả lời, tri phủ Kinh Châu không dám để bọn họ tiếp tục âm thầm điều tra nữa, liền đánh bạo mời Tề vương và Phi Long vệ hợp tác với quan viên Kinh Châu, cùng nhau đến huyện Quảng Phong bàng thính thẩm tra.
Tề vương đang nóng giận, cũng muốn tận mắt nhìn kẻ ác đền tội, Nghiêm Tiêu Hàn lo trong số thôn dân vẫn có người mang bệnh, sợ xảy ra sự cố nên khéo léo khuyên nhủ, nhưng Tề vương vẫn nhất quyết muốn đích thân tới. Nghiêm Tiêu Hàn chẳng còn cách nào, đành phải cùng hắn trở về huyện Quảng Phong một chuyến.
Mọi người ra khỏi cửa quan dịch đúng vào lúc người đi đường rất đông, khắp nơi đều ầm ĩ, trong khi thị vệ chỉnh đốn đội ngũ, Nghiêm Tiêu Hàn nghiêng người đưa lưng về phía phố lớn, bỗng cảm thấy có người va nhẹ vào lưng hắn.
Mới đầu hắn nghĩ đó là ăn trộm, bèn theo bản năng vươn tay ra sau, nhưng lại bắt hụt. Ngay sau đó một cái túi nhỏ liền rơi vào tay hắn, một giọng nói trầm thấp truyền đến từ phía sau: “Vị đại nhân này, đồ của ngươi đánh rơi.”
Nghiêm Tiêu Hàn quay phắt đầu lại, suýt chút nữa rớt cả cổ.
Người nọ mặc đồ đen toàn thân, đầu đội nón rộng vành, che khuất nửa gương mặt, chỉ lộ ra khuôn cằm và chiếc cổ thon gầy, thấy hắn nhìn sang, người nọ khẽ nhoẻn miệng cười, cũng không chào hỏi, chỉ lặng lẽ lui vào dòng người, thoáng chốc đã chẳng thấy bóng dáng.
Nghiêm Tiêu Hàn: “……”
“Đại nhân,” Tiếng gọi của thủ hạ kéo hồn hắn trở về, “Có thể xuất phát rồi ạ.”
Nghiêm Tiêu Hàn gật đầu qua loa đáp lại, tung người lên ngựa, trên đường liền mở cái túi kia ra nhìn, bên trong đầy ắp kẹo hoa quế trong suốt lấp lánh.
Không phải y đến Tây Nam rồi sao?!
Giữa ban ngày ban mặt, dưới con mắt bao người, thế mà lại làm cái chuyện trao nhận lén lút này, thật đúng là ——
Thật đúng là….. khiến người ta không biết nên yêu y thế nào cho đủ.
******
★Chú thích:
[1]Ta không giết Bá Nhân, Bá Nhân lại vì ta mà chết: ý nói người vô tội vì mình mà bị liên lụy.
Xuất phát từ điển cố về Vương Đạo – một đại thần thời Đông Tấn. Chu Nghĩ, tự Bá Nhân, từng giúp Vương Đạo thoát chết, nhưng Vương Đạo không biết việc này mà còn hiểu lầm rằng Chu Nghĩ hại mình và oán hận Chu Nghĩ. Sau này tướng Vương Đôn từng hỏi Vương Đạo nên đề bạt Chu Nghĩ làm chức gì, Vương Đạo không trả lời. Vương Đôn lại hỏi có nên giết Chu Nghĩ không, Vương Đạo cũng im lặng, Vương Đôn bèn giết Chu Nghĩ. Sau này Vương Đạo biết chuyện Chu Nghĩ từng giúp mình, mới khóc than rằng: “Ta không giết Bá Nhân, Bá Nhân lại vì ta mà chết”.
|
Chương 57: Nhung nhớ[EXTRACT]Trên con đường từ Kinh Bắc đến Quỳ Châu, một con ngựa gầy rảo bước không nhanh không chậm, nam nhân trên ngựa đội nón che nắng, vừa cưỡi ngựa xem hoa, miệng vừa nhai bánh vừng thơm giòn.
Chỉ chốc lát sau, một bọc bánh vừng đã cạn sạch, y lấy ra một bình nước từ trong túi, dốc ừng ực mấy ngụm lớn, tặc lưỡi chê bai: “Cái quái gì thế này, chát muốn chết.”
Chính là Phó Thâm.
Hai ngày trước y và Nghiêm Tiêu Hàn chia tay ở ngoại thành Kinh Châu, sau khi đi được hai dặm, y liền cố ý quay lại chỉ để đứng ở cửa trạm dịch trêu ghẹo người ta một phen. Lúc mua kẹo hoa quế y tình cờ thấy bên cạnh có bánh vừng, bèn nổi hứng mua một bọc, định ăn vặt trên đường.
Bây giờ nghĩ lại, bản thân y chẳng hề thích ngọt, dăm ba tháng mới ăn một miếng đường, mua bánh vừng hoàn toàn là vì lúc đó bị mùi kẹo hoa quế làm mụ mị đầu óc.
Từ Kinh Châu đến Quỳ Châu – trung tâm Tây Nam cũng không xa, đi nhanh thì chỉ cần ba ngày, nhưng Phó Thâm lại đi suốt sáu ngày. Đã nhiều năm rồi y không được vô lo vô nghĩ, tự do tự tại đi thong dong giữa đất trời như thế này. Tuy còn trẻ, nhưng gần nửa đời đều xua vịt lên giá, bận rộn tối mặt, kêu đánh kêu giết, đừng nói kiều thê mỹ thiếp quan to lộc hậu này nọ, một năm còn chẳng về nhà được mấy chuyến ấy chứ.
(Xua vịt lên giá: ý tương tự câu “Không trâu bắt chó đi cày”, buộc ai đó làm việc không hợp với khả năng. Người ta hay treo ổ lên giá cho gà nhảy lên đẻ, nhưng con vịt thì không nhảy được, ý là thế.)
Hành trình Kinh Châu làm cho y và Nghiêm Tiêu Hàn cũng thay đổi rất nhiều, có lẽ cuối cùng cũng tìm được nơi gửi gắm và chốn về, rõ ràng trong chốn trần thế dài đằng đẵng này, không chỉ có mình y cô độc bước đi.
Có lúc trong tiệm trà quán rượu ở hương trấn ven đường, Phó Thâm có thể nghe được một ít tin tức về Kinh Châu, chẳng hạn như sau khi vụ án thôn Khê Sơn xảy ra, quan phủ phái người xuống hồ vớt được mười mấy bộ thi thể. Nghe nói trong cái hồ kia chẳng hề có tôm cá, chỉ có một loại rong có thể dùng thi thể làm chất dinh dưỡng, cuốn chặt lấy những cái xác đó, khiến chúng lơ lửng ở trong nước, như thể một rừng xác chết chẳng thấy ánh mặt trời.
Còn có người kể là khâm sai đại nhân từ kinh thành tới, trên đường gặp mưa to, phải ngủ đêm ở miếu Hồ Tiên, chợt có một tiểu hồ đi vào trong mộng, biết nói tiếng người, kể lể oan tình, khâm sai tỉnh lại liền lấy làm lạ, tìm đến thôn Khê Sơn theo lời hồ ly nói, phá được một đại án.
Phó Thâm nghe mà cười thầm, nghĩ bụng “Hồ ly thuyết” chẳng phải là “Hồ thuyết” à?
(Ở đây ảnh chơi chữ từ “Hồ” đồng âm, Hồ ly thuyết = hồ ly nói = húlishuō; Hồ thuyết = nói bậy bạ linh tinh = húshuō.)
Tám phần mười là tiên sinh kể chuyện nào đó trong thành Kinh Châu thấy bên hồ có ngôi miếu Hồ Tiên, cho nên tiện mồm bốc phét ra.
“Tiên sinh kể chuyện” Nghiêm Tiêu Hàn bị nhắc tới, nghiêng đầu hắt xì một cái, ngòi bút rung lên làm quẹt một vệt mực trên tờ giấy trắng tinh, bản tấu viết được một nửa giờ xem như bỏ đi.
Hắn ném bản tấu chương nọ đi, đổi sang tờ giấy mới. Tri phủ Kinh Châu làm việc cũng xem như nhanh chóng, chỉ sáu ngày đã thẩm tra xong vụ án, chuyển khẩu cung, vật chứng và hồ sơ lên cho bộ Hình giải quyết, khoảng chừng hai ngày là đến được kinh thành. Hắn không nhắc đến Phó Thâm ở trong tấu chương, chỉ nói là bọn họ suýt nữa bị sét đánh ở miếu Hồ Tiên, bởi vậy nên tình cờ đi vào thôn Khê Sơn. Nghiêm Tiêu Hàn nghe về truyền thuyết của miếu Hồ Tiên, hoài nghi đây là lời chỉ điểm của thần linh, cho nên sau khi tiễn Tề vương đi bèn quay lại thôn Khê Sơn tra xét. Mặc dù hắn trúng phải Thu Dạ Bạch nhưng vẫn may mắn chạy thoát. Tóm lại là nhờ ông trời phù hộ, bọn họ rốt cuộc thành công tra ra chân tướng, khiến kẻ ác phải đền tội.
Nghiêm đại nhân mặt không đổi sắc mà nói hươu nói vượn, xong xuôi bèn sai thủ hạ mang tấu chương đến kinh thành. Bên phía Tề vương hẳn cũng cần dâng tấu chương, song vì khâm sát sứ Phi Long vệ có quyền tấu thẳng lên ngự tiền, hai người không chung một đường, cho nên Nghiêm Tiêu Hàn cũng không đi hỏi nhiều.
Hắn đi tới trước cửa sổ, nhìn cây xanh um tùm ngoài cửa, chậm rãi thở dài một hơi, cảm giác tay mình đang phát run, vì vậy bèn lấy một viên kẹo đặt ở đầu lưỡi.
Mùi hoa quế ngọt lành tràn ra, có lẽ do ảnh hưởng từ cơn nghiện, hắn cảm thấy mình chưa từng nhớ một người đến thế, nhớ đến nỗi tim nhói đau.
Bọn họ chỉ mới xa nhau sáu ngày mà thôi.
Phó Thâm lại lần nữa thể hiện khả năng dự đoán hơn người của mình. Cơn nghiện của Nghiêm Tiêu Hàn vẫn chưa hoàn toàn dứt bỏ, mặc dù không nghiêm trọng, nhưng Phó Thâm đi rồi, hắn chẳng còn ai chăm nom, lúc phát tác trở nên vô cùng vất vả. May mà còn có túi kẹo hoa quế kia, xem như để lại cho hắn một chút an ủi. Nghiêm Tiêu Hàn tập thành thói quen dùng kẹo để cai nghiện, nhưng đối với thân thể đã ăn quen bén mùi thì chẳng khác nào muối bỏ biển, thống khổ trên cơ thể kết hợp với thống khổ về tâm hồn, khiến hắn có lúc muốn trực tiếp bỏ mặc Tề vương, một mình chạy tới Tây Nam.
Chỉ mong sao vụ án ở Kinh Châu nhanh kết thúc, khi nào về kinh thành rồi, không chừng hắn có thể tìm một nhiệm vụ để đến Tây Nam một chuyến.
Ý nghĩ rất tốt, nhưng hiện thực tàn khốc nói cho hắn biết: Nghĩ hay quá đấy.
Chưa đến hai ngày, đặc sứ từ trong kinh mang theo thánh chỉ đến Kinh Châu, trước hết tước bỏ chức quan của tri phủ, tri huyện và các quan viên có liên quan, chờ đợi xử lý, sau đó ra lệnh áp giải những thủ phạm ở thôn Khê Sơn vào kinh, cuối cùng còn có một đạo đặc chỉ dành riêng cho Tề vương và Nghiêm Tiêu Hàn.
Từ tháng ba tới nay, Bạch Lộ Tán liên tục xuất hiện, tạo thành thảm họa, đầu tiên là kinh thành, sau đó là Kinh Châu. Lúc trước trong vụ án Kim Ngô vệ, Nghiêm Tiêu Hàn đã từng dâng tấu, xin hoàng đế hạ lệnh điều tra Bạch Lộ Tán ở khắp nơi để tránh hậu hoạn, không ngờ đó lại thành lời tiên tri.
Nguyên Thái đế vẫn chưa bệnh đến mức hồ đồ, Thu Dạ Bạch đã tràn lan ảnh hưởng đến cả thuế lương thực Kinh Sở. Phía Đông Kinh Sở chính là vùng Hồ Quảng Lưỡng Giang, đó là kho lúa của thiên hạ, tài phú trọng địa, nếu tiếp tục làm ngơ thì những nơi này e cũng khó tránh khỏi độc thủ. Vậy nên Nguyên Thái đế ban một đạo thánh chỉ khác, lệnh cho Tề vương và Nghiêm Tiêu Hàn xong nhiệm vụ thì không cần hồi kinh, mà dọc theo Trường Giang đi về hướng Đông, tuần tra vùng Giang Nam, cần phải quét sạch nạn Thu Dạ Bạch, cho phép tùy cơ ứng biến, tiền trảm hậu tấu.
Như thể sấm sét đoàng đoàng giáng xuống giữa trời quang, tâm nguyện tan nát và nước mắt lệ nhòa của Nghiêm đại nhân liền bay theo gió xuân ấm áp nơi đất Kinh Châu.
Tây Nam, Quỳ Châu.
Phó Thâm cưỡi con ngựa gầy lững thững đi vào thành, nơi đây nhiều người Hán sống xen lẫn với các tộc Miêu và Bạch Đẳng, cảnh sắc phong tình khác hẳn vùng Trung Nguyên. Phó Thâm vốn đã nghĩ rất nhiều cách để gặp Tây Bình quận vương, nhưng khi đến cổng vương phủ rồi, y lại quên sạch toàn bộ ý nghĩ lúc trước, nghênh ngang đi đến phòng gác, tay nâng mũ, hơi cúi đầu, nói: “Cảm phiền thông báo, tại hạ muốn gặp Tây Bình quận vương.”
Tục ngữ có câu, tể tướng môn tiền thất phẩm quan. Phòng gác của phủ quận vương mặc dù không có cái kiểu nịnh bợ chó giữ cửa giống ở kinh thành, song Phó Thâm từ đầu tới chân đều rặt một vẻ nghèo túng, lại còn đội nón rộng vành, trông không giống như có thân phận qua lại được với lão gia nhà bọn họ. Gác cổng lạnh nhạt ngước mắt lên, đưa tay nói: “Danh thiếp.”
(Tề tưởng môn tiền thất phẩm quan: ý nói người gác cổng nhà tể tướng có địa vị như quan thất phẩm. Bởi muốn yết kiến tể tướng thì phải nhờ gác cổng thông báo, cho nên quyền lực của bọn họ không nhỏ.)
Phó Thâm đã thấy hạ nhân kiểu này nhiều rồi, y lấy một thỏi bạc vụn từ túi ra, bỏ vào lòng bàn tay thô ráp của gác cổng, cười bảo: “Không có danh thiếp, ngươi chỉ cần thưa là quân y Đỗ Lãnh của Bắc Yến tới chơi.”
Gác cổng áng chừng thỏi bạc trong tay, mặt thoáng hiện vẻ vui mừng, thái độ vẫn kiêu căng như cũ, song giọng điệu lại dịu đi: “Ngươi chờ ở đây, ta vào thông báo cho vương gia.”
Chẳng bao lâu sau, người nọ trở ra với vẻ mặt căng thẳng, bấy giờ không dám ho he gì nữa, cúi đầu khom lưng mời Phó Thâm vào trong, dẫn y đến phòng khách ở chính viện phía Tây.
Trong phòng có người đang chờ y. Tây Bình quận vương Đoàn Quy Hồng nay đã gần đến thiên mệnh chi niên, song nhờ bảo dưỡng tốt nên vóc người cao lớn rắc chắn, gương mặt vẫn như thưở tráng niên, ông ta nhìn chằm chằm người áo đen mang nón rộng vành, đôi mày kiếm nhíu lại, ngờ vực nói: “Ngươi là ai?”
(Thiên mệnh chi niên là 50 tuổi, dựa theo câu nói của Khổng Tử: “Ta 15 tuổi chí ở học hành, 30 tuổi có thể tự lập, 40 tuổi không còn nghi hoặc, 50 tuổi biết được mệnh trời, 60 tuổi ta biết điều phải trái, 70 tuổi tâm theo ý mình, có thể làm một cách tùy ý nhưng lại không vượt quá quy tắc.”)
Phó Thâm bỏ nón xuống, khuôn mặt lộ ra, nở nụ cười khách khí mà thành khẩn với ông: “Mạo muội quấy rầy, mong vương gia chớ trách.”
Đoàn Quy Hồng: “…….”
Ông đầu tiên là sững sờ, sau đó lập tức bảo tất cả hạ nhân lui ra, đóng chặt cửa sổ, lông mày như xoắn lại với nhau: “Phó tướng quân đột nhiên giá lâm hàn xá, có gì chỉ giáo?”
“Không có gì chỉ giáo cả,” Phó Thâm kéo ghế ngồi xuống, “Vương gia không cần phải xa cách như thế, ngài là trưởng bối của ta, cứ gọi tên tự của ta là được.”
Tầm mắt Đoàn Quy Hồng hướng xuống, nhìn chằm chằm vào chân y: “Ngươi…… Kính Uyên, ngươi không ở kinh thành dưỡng thương mà lại đến Tây Nam làm gì?”
Phó Thâm vén vạt áo lên, cho ông xem giày của mình, ung dung nói: “Thương tích đã ổn rồi. Còn vì sao ta lại xuất hiện ở đây…… Chẳng phải ngài rõ hơn ta sao?”
Ánh mắt Đoàn Quy Hồng đanh lại, khí thế uy nghiêm, đối mặt với Phó Thâm, hai người không ai chịu nhường ai. Ông ta lạnh lùng nói: “Ngươi đang nói cái gì?”
“À, không đúng, ngài hẳn chỉ biết ta đang ở Kinh Châu thôi,” Phó Thâm vỗ đùi, “Ôi trí nhớ của ta, chỉ bảo với Đỗ Lãnh là ta muốn đến Kinh Châu tìm Nghiêm Tiêu Hàn, mà quên nói cho hắn là ta còn định tiện đường đến Quỳ Châu một chuyến.”
Y mỉm cười nói: “Sao vậy, vương gia có vẻ không muốn tiếp đón tại hạ cho lắm nhỉ?”
Đoàn Quy Hồng im lặng chốc lát, không chơi lá mặt lá trái với y, mà hỏi thẳng: “Ngươi phát hiện từ bao giờ?”
Nụ cười trên gương mặt Phó Thâm không phai đi, song trong mắt y hoàn toàn không có ý cười, giọng nói thậm chí còn ẩn chứa sự lạnh lẽo khó nhận ra: “Ta phát hiện không ít, vương gia đang nói đến việc nào? Là việc bố trí Đỗ Lãnh đến bên cạnh ta, hay là phái Thuần Dương đạo nhân ám sát hoàng thượng ở Vạn Thọ yến?”
“…….Hay là, cố ý phát tán Thu Dạ Bạch ở Kinh Sở, ý đồ lật tung bàn cờ, khiến vùng Giang Nam hoàn toàn hỗn loạn?”
Mỗi câu nói của y đều tựa như một con dao, đâm thẳng vào ranh giới trầm mặc khoan nhượng của Đoàn Quy Hồng.
Tây Bình quận vương dẫn binh nhiều năm, tính cách cương nghị nghiêm túc, những năm qua mặc dù khá biết cách tiết chế, nhưng đó cũng phải xem là với ai, ấy thế mà Phó Thâm vẫn cứ hồn nhiên không hay biết, muốn liều lĩnh nhổ cọng râu hổ này.
Đoàn Quy Hồng nghiến răng nói: “Phó Thâm, ngươi không sợ…… hôm nay không ra khỏi cánh cửa này được ư?”
“Ôi, vậy chẳng phải khéo quá sao. Hôm nay ta vốn cũng không định ra khỏi cánh cửa này,” Phó Thâm hùng hồn nói, “Ta một thân một mình đi đến Quỳ Châu, lộ phí chẳng nhiều nhặn gì, đang lo không có chỗ ở, muốn xin ở nhờ bảo địa của quý phủ mấy đêm, không biết vương gia có đồng ý hay không?”
Đoàn Quy Hồng: “……”
Ông ta nói câu nào liền bị Phó Thâm chặn họng câu đấy, tuy Phó Thâm tới không có địch ý, song ông vẫn cảm giác mình sắp ngất đến nơi, khó khăn lắm mới nguôi bớt lại, thử nói một cách hòa nhã: “Nếu ngươi đã biết những chuyện này, thì ngươi hẳn cũng rõ rằng, ta không phải muốn hại ngươi.”
Phó Thâm nói: “Đương nhiên. Không thì hôm nay ta đã chẳng xuất hiện ở chỗ này.”
Vẻ mặt Đoàn Quy Hồng hơi dịu đi, ông ta ngồi xuống đối diện y: “Việc ta làm chẳng là gì so với hành động của hoàng đế đối với Bắc Yến thiết kỵ.”
“Chủ soái của Bắc Yến đang ngồi ngay trước mặt ngài đây,” Phó Thâm lạnh lùng nói, “Tuy ta què rồi, nhưng vẫn chưa chết đâu. Vương gia, ngài muốn báo thù thay cho Bắc Yến quân, vậy đã hỏi ý ta chưa?”
|
Chương 58: Vô thường[EXTRACT]Phó Thâm lật mặt như lật sách, đánh cho Đoàn Quy Hồng trở tay không kịp, vẻ mặt vừa mới thả lỏng của Tây Bình quận vương lập tức cứng lại. Một hồi lâu sau, ông ta vất vả lắm mới kiềm chế được kích động muốn bóp chết Phó Thâm ngay tại chỗ, hừ giọng nói: “Lúc bản vương làm quân hiệu lực ở Bắc Yến thì ngươi vẫn còn là đứa nhóc vừa ra đời thôi đấy.”
Phó Thâm đáp lễ: “Lúc ta tiếp quản Bắc Yến quân thì ngài đã đến Tây Nam nuôi cá được mấy năm rồi đấy.”
Hai người đối mặt, ánh mắt tóe lửa điện, cùng quay đầu đi, đồng thời trong lòng thầm phỉ nhổ đối phương.
Đoàn Quy Hồng nghĩ thầm: “Nhãi con không biết trời cao đất rộng.”
Phó Thâm nghĩ thầm: “Lão già cậy già lên mặt.”
Chỉ những lúc thế này mới thấy người như Nghiêm Tiêu Hàn đáng phục cỡ nào, khi hai kẻ nóng tính không chịu nhường nhau, cần phải có một người khôn khéo đứng ra hóa giải mâu thuẫn thay bọn họ, để cho cuộc đối thoại tiếp tục tiến hành.
Đáng tiếc Nghiêm Tiêu Hàn không ở đây.
Phó Thâm thầm hít sâu, cố dẹp tâm hỏa, trong lòng nhiều lần nhắc nhở mình tới để tìm chân tướng, không thể phí thời gian để tức giận với lão già cổ hủ độc đoán không biết lý lẽ này được, y miễn cưỡng quay mặt sang, cho ông ta một bậc thang đi xuống: “Vương gia dành tình cảm sâu đậm cho Bắc Yến quân, thật là đáng quý.”
(“Cho người khác bậc thang” nghĩa là khi người ta rơi vào tình huống khó xử, mình có những lời nói, hành động để họ thoát khỏi sự lúng túng đó.)
Đoàn Quy Hồng hầm hừ thuận dốc xuống lừa, nói: “Bắc Yến thiết kỵ là do tay chúng ta dựng nên, xét về bối phận, ngươi còn phải gọi ta một tiếng thúc thúc.”
(Thuận dốc xuống lừa: nghĩa là mượn cớ để xuống đài, ý chỉ một việc đã được sắp đặt sẵn rồi, chỉ cần một cái cớ để thực hiện cho hợp lý thôi.)
Phó Thâm thầm mắng: “Lão già này, lại còn được đằng chân lên đằng đầu.”
Ngoài miệng lại nói cứng ngắc: “Ồ. Nghe nói ngài và tiên phụ trước đây tình cảm như huynh đệ.”
Đoàn Quy Hồng lại lắc đầu: “Không phải.”
Phó Thâm: “Hả?”
“Ta nói xét về bối phận, là xét từ thời tổ phụ của ngươi, tức Dĩnh quốc công đời trước.” Đoàn Quy Hồng chậm rãi nói, “Khi tiên đế còn tại triều, Phó công giữ chức tiết độ sứ Lĩnh Nam, từng phụng mệnh đi dẹp phản loạn Bách Việt ở Lĩnh Nam. Sau đó quân triều đình toàn thắng, khi dẫn người tiêu diệt phản quân, Phó công phát hiện một đứa bé trong loạn quân. Theo lệ của triều đình, nếu bắt được quân đảo chính Bách Việt, người lớn thì giết chết ngay lập tức, trẻ con dưới mười tuổi thì thiến sau đó đưa vào cung làm nô.”
“Đứa bé mà Phó công bắt được mới mười một tuổi, hết sức gầy yếu, Phó công thấy nó đáng thương, động lòng trắc ẩn, không nỡ khiến đứa trẻ này trở thành vong hồn dưới đao, liền tha cho nó một mạng, thả nó tự tìm đường sống.”
Ông ta nói tới đây, Phó Thâm đã đoán được đại khái đoạn sau.
Đoạn Quy Hồng cũng nhận ra, liền thản nhiên thừa nhận: “Tên thật của ta là Phùng Dị, vốn là người Bách Việt, được Phó công cứu giúp nên mới trở về từ cõi chết. Năm mười lăm tuổi sửa tên đổi họ đến đầu nhập dưới trướng Phó công, hầu hạ bên cạnh, xông pha chiến đấu, Phó công coi ta như con ruột, đặc biệt đề bạt bồi dưỡng. Năm Nguyên Thái thứ hai, Thát Chá xâm phạm biên giới, Phó công chuyển sang làm tiết độ sứ Cam Châu, ta đi theo hộ tống, cùng Bá Tồn, Trọng Ngôn rong ruổi thảo nguyên, chống trả man di.”
Bá Tồn là tên tự của Phó Đình Trung, Trọng Ngôn là tên tự của Phó Đình Tín.
“Năm Nguyên Thái thứ năm, Phó công cưỡi hạc về Tây, đúng vào lúc Tây Nam không yên, trước khi lâm chung, ngài dâng biểu đề bạt ta làm chủ tướng quân dẹp Tây, dẫn quân bình định Tây Nam.” Đoàn Quy Hồng thở dài nói, “Lời phó thác lúc lâm chung, nào dám phụ lòng, sau lần đó ta vẫn luôn canh giữ ở Tây Nam, không ra ngoài nửa bước. Mãi đến mùa hè năm ngoái, hoàng thượng nổi lòng tham muốn phái giám quân sứ đến quân trấn giữ biên cảnh tứ phương, sau đó ngươi lại gặp mai phục ở ải Thanh Sa, ta mới hiểu ra, triều đình bây giờ, đã chẳng còn là triều đình năm xưa nữa.”
“Vương gia,” Phó Thâm lên tiếng cắt lời ông, “Hai năm trước Đỗ Lãnh gia nhập Bắc Yến quân, huống hồ ta đoán tai mắt ngầm của ngài ở Bắc Yến quân không chỉ có mình hắn, giờ ngài lại bảo mùa hè năm ngoái mới bắt đầu có ý nghĩ, có phải hơi chậm không vậy?”
Đánh giá của thế nhân về Phó Thâm đa phần là anh dũng thiện chiến, sát phạt quả quyết. Đánh giá kiểu này nghe nhiều rồi, có lúc sẽ khiến người ta cảm giác rằng Tĩnh Ninh hầu giỏi chiến đấu đấy, nhưng chẳng qua chỉ là một võ phu mà thôi, đầu óc chưa chắc linh hoạt khôn khéo như những tay già đời trong chốn quan trường, tuy đánh không lại, nhưng vẫn có thể dùng trí.
Đoàn Quy Hồng và Phó Thâm tiếp xúc không nhiều, chỉ mới gặp mặt hai lần, hiểu biết về y phần lớn đến từ những lời đồn đãi truyền miệng, hơn nữa ông ta lớn tuổi, luôn cảm thấy tiểu bối vẫn chưa trưởng thành, vậy nên trong lòng luôn có mấy phần xem thường.
Nhưng ông ta quên mất rằng, Phó Thâm mười tám tuổi lĩnh quân xuất chinh, nếu như không đủ thông minh, không có thủ đoạn, thì sao có thể trấn áp được những lão tướng cũ tự cao vì kinh nghiệm? Đừng nói ứng phó ngoại địch, y có thể đững vững gót chân trong người phe mình hay không cũng đã là vấn đề.
Phó Thâm năm lần bảy lượt vạch trần sơ hở trong lời nói của ông ta, không chừa cho vị “Thúc thúc” này một chút mặt mũi nào. Đoàn Quy Hồng bị câu hỏi trúng tim đen của y dồn vào ngõ cụt, không đường thối lui, rốt cuộc cũng rút lại sự khinh thường, dần coi y là một đối thủ ngang hàng: “Ngươi đã sớm biết Đỗ Lãnh là người của ta?”
Phó Thâm cười khiêm tốn: “Cũng chẳng lâu lắm. Có điều hắn không có gì nguy hiểm, chỉ thi thoảng truyền tin tức thôi, y thuật vẫn không có vấn đề gì, cho nên ta giữ hắn lại.”
Người đứng đầu một phương cài nội ứng ở bên cạnh chủ soái một quân đội khác, nhìn kiểu gì cũng thấy bụng dạ khó lường, việc này nếu là người khác thì tuyệt đối không dễ bỏ qua. Nhưng trong lòng Phó Thâm hiểu rõ về Đoàn Quy Hồng, lão già này chính là vịt chết mạnh miệng. Đỗ Lãnh đến Bắc Yến quân chủ yếu là vì giúp y, vậy nên Phó Thâm mới mở một mắt nhắm một mắt, cho hắn lưu lại đến tận bây giờ.
“Tay trong của vương gia ở phương Bắc có hai kẻ trọng yếu, một là Đỗ Lãnh, một là Thuần Dương đạo nhân, sau vụ phục kích ở ải Thanh Sa, hẳn là Đỗ Lãnh mật báo nên Thuần Dương đạo nhân mới tìm được mũi tên gãy trước người của ta. Dù nói thế nào, chuyện này vẫn phải cảm ơn vương gia.”
Đoàn Quy Hồng nói: “Nếu ngươi đã biết hoàng thượng kiêng kỵ ngươi, thậm chí còn không ngần ngại giết ngươi, vậy vì sao còn cứu lão ta ở Vạn Thọ yến? Nghĩa không quản tiền, từ chẳng chưởng binh, mềm yếu thì sớm muộn gì cũng hại chết ngươi.”
Phó Thâm than thở: “Khi cần đến ta thì nói ‘Nhân nghĩa’, lúc chẳng cần ta thì lại bảo ‘Mềm yếu’, ta nhân hay từ, không phải chuyện ngài nói miệng là có thể quyết định được.”
“Ngươi…..” Đoàn Quy Hồng nổi giận nói, “Con không giống cha!”
Lời này hoàn toàn chẳng có lực công kích gì đối với Phó Thâm, y ung dung đáp: “Đúng thế, quả thực không giống.”
Đoàn Quy Hồng tức tối ngồi một lát, bỗng nhiên nói: “Ngươi không giống phụ thân ngươi, mà giống nhị thúc ngươi hơn, đúng không?”
Phó Thâm: “Có lẽ?’
Đoàn Quy Hồng nói: “Chẳng phải ngươi đến để hỏi ta về chuyện Thu Dạ Bạch sao? Được thôi, ta sẽ kể cho ngươi một câu chuyện cũ.”
Phó Thâm ra dấu “Mời nói.”
Câu chuyện cũ mà Đoạn Quy Hồng kể xảy ra vào năm Nguyên Thái thứ tư, cùng thời điểm Bắc Yến quân và người Đông Thát giao chiến.
Mùa thu năm ấy, Phó Đình Tính bất cẩn bị trúng tên độc của thích khách Thát tộc, trọng thương khó đi, suýt nữa mất mạng, lúc đó toàn quân đều bó tay, thậm chí thái y mời tới từ kinh thành cũng không cứu vãn được. May mà Cam Châu cách không xa Y Châu – nơi người Tây Thát quần cư, hai bên luôn qua lại hữu nghị, có một du y Tây Thát có chút giao tình với Đoàn Quy Hồng, dựa trên tâm thái “Lấy ngựa chết làm ngựa sống”, Đoàn Quy Hồng liền mời ông ta đến khám cho Phó Đình Tín.
Đông Thát và Tây Thát vốn là đồng tộc, vì chiến loạn nên mới bị ép chia làm hai bộ lạc, du y Tây Thát mà Đoàn Quy Hồng mời tới quả nhiên nhận ra loại độc này.
Trên thảo nguyên có một loài bọ cạp màu xanh, cực kỳ hiếm có khó tìm, đuôi của nó chứa kịch độc, tên là “Bích Nguyệt”. Tuy du y không tìm được thuốc giải, nhưng ông ta từng thấy một loại thảo dược do thương đội Thiên Phương mang tới, đóa hoa trắng tinh như tuyết, quả sau khi nghiền ra sẽ cho thứ nước giống như sữa bò, người Thiên Phương từng dùng loại thuốc này để cứu chữa đồng đội bị trúng độc của bọ cạp sa mạc. Ông ta giúp Đoàn Quy Hồng liên hệ với một thương nhân Thiên Phương. Sau nhiều lần, Đoàn Quy Hồng cuối cùng cũng nghe được tên của loại thảo dược này, cũng tìm được cây và hạt giống ở Nam Cương theo lời chỉ dẫn của thương nhân Thiên Phương nọ. (Thiên Phương là các nước Ả Rập thời xưa.)
Loại thảo dược cứu Phó Đình Tín một mạng, chính là Thu Dạ Bạch.
Thu Dạ Bạch vô cùng kỳ lạ, nếu chỉ uống nước quả thì sẽ có thể gây mê giảm đau, giải mọi loại độc rắn hay bọ cạp, khả năng gây nghiện lại rất nhỏ; mà nếu dùng sau khi bào chế, nó sẽ biến thành “Bạch Lộ Tán” khiến người ta mắc nghiện. Hơn nữa người trường kỳ hút Thu Dạ Bạch, cơ thể sẽ sinh bệnh biến từ bên trong, một số ít người còn nhiễm phải một loại bệnh giống như ôn dịch, không cách nào trị tận gốc, chỉ có thể chờ chết mà thôi.
Đáng sợ hơn chính là, một khi loại thảo dược này bén rễ, chu vi xung quanh sẽ không có lấy một ngọn cỏ, Thu Dạ Bạch tại Nam Cương đều sinh trưởng ở khe đá trong thâm sơn, dân bản xứ xem nó là độc thảo, nếu nhìn thấy sẽ lập tức nhổ cỏ tận gốc, dùng lửa thiêu hủy hoàn toàn thì mới có thể ngăn chặn nó lan tràn trên quy mô lớn.
Đoàn Quy Hồng nói: “Năm Nguyên Thái thứ năm, A Lạp Mộc bộ của Đông Thát bị diệt toàn bộ.”
Tim Phó Thâm bỗng nảy thịch, y truy hỏi: “Vương gia có ý gì?”
“Trọng Ngôn không hề mềm yếu như ngươi tưởng đâu,” Đoàn Quy Hồng lạnh lùng nói, “Ngươi cho rằng lĩnh binh làm tướng, chỉ học nhân từ từ ông ấy là đủ rồi sao?”
Sau khi khỏi hẳn, Phó Đình Tín lấy toàn bộ số hạt giống thảo dược mà Đoàn Quy Hồng thu thập được, phái người bí mặt lẻn vào đồng cỏ của A Lạp Mộc bộ, phân tán với số lượng lớn. Mấy tháng sau, Thu Dạ Bạch nảy mầm sinh trưởng, đồng cỏ của A Lạp Mộc bộ diệt sạch chỉ trong một ngày, đàn dê tử vong hàng loạt. Phó Đình Tín còn bắt được một nhóm người Đông Thát, bắt bọn họ uống nước trộn máu tươi của người nhiễm bệnh rồi thả về bộ lạc. Rất nhiều người của A Lạp Mộc bộ nhiễm phải dịch bệnh, bị Bắc Yến thiết kỵ kéo đến càn quét, cuối cùng diệt tộc.
Nợ máu trả bằng máu.
“Trong truyền thuyết của người Thát tộc, biểu tượng của ôn dịch là “cỏ Vô Thường”, tức Thu Dạ Bạch.” Đoàn Quy Hồng lạnh nhạt nói, “Bây giờ ngươi đã biết vì sao Thát tộc hận người nhà họ Phó các ngươi đến thấu xương chưa?”
Đoạn lịch sử này không được truyền rộng, thứ nhất là bởi liên quan đến cơ mật, thêm nữa là vì nó gây tổn hại hòa khí, cho nên ngay cả sử quan cũng không dám hạ bút. Phó Thâm và người Đông Thát dây dưa nhiều năm, y cũng từng nghe nói đến “cỏ Vô Thường”, cứ tưởng nó chỉ là một truyền thuyết, không ngờ thứ này lại thật sự tồn tại.
Trong lãnh địa của A Lạp Mộc bộ, biển lửa thiêu đốt suốt mấy ngày mấy đêm, đóa hoa lay động của “cỏ Vô Thường” bị ánh lửa nuốt chửng, mà bóng tối của nó thì lại vĩnh viễn bao trùm cả thảo nguyên.
Đoàn Quy Hồng nói: “Loại cỏ này được người Thiên Phương phát hiện đầu tiên, đặt tên là “Để Dã Nhĩ”, nghĩa là “Thôi miên”, mà trong thổ ngữ Nam Cương, nó có tên là “Tát Nội Phục”, nghĩa là ——“
“Thần chết say ngủ.”
✿Tác giả có lời muốn nói: Tiếp theo tác giả chuẩn bị cho Nghiêm đại nhân và Phó tướng quân xa nhau một thời gian, khoảng chừng 5-6 chương; độc giả nào chỉ muốn xem hỗ động thì có thể để dành đọc sau, chú ý tên chương và tóm tắt nhé, bao giờ gặp nhau sẽ ghi rõ.
PS: Cá nhân tôi cảm thấy không ngược lắm đâu (lần lượt phát kẹo an tâm).
|
Chương 59: Tỏ lòng[EXTRACT]Nhất tướng công thành vạn cốt khô, đằng sau những bức tranh công thần treo cao trên Hoàng Kim đài và Kỳ Lân điện, có những ánh lửa chập chờn lay dộng, có vô số vong hồn khóc lóc thét gào.
(Nhất tướng công thành vạn cốt khô: thành công của một vị tướng đều phải đánh đổi bằng tính mạng của hàng vạn binh sĩ.)
Phó Thâm than thở: “Đúng là tạo nghiệt.”
Đoàn Quy Hồng suýt nữa tức ngã ngửa, ông cả giận nói: “Hai phe đối chọi, ngươi không chết thì ta vong, ngươi cảm thấy bọn chúng đáng thương, thế sao không nghĩ đến những dân chúng vô tội bỏ mạng dưới tay Thát tử! Ngươi mềm yếu như vậy, tương lai sao có thể làm đại sự được!”
“Ồ?” Phó Thâm kéo dài giọng, “Bảo vệ quốc gia, người không phạm ta ta không phạm người, chẳng phải đã làm được rồi sao? Vương gia đang nói tới đại sự gì vậy?”
“Ngươi!” Đoàn Quy Hồng nghẹn lời, chỉ tiếc rèn sắt chẳng thành thép, tức giận chỉ vào mũi y mà mắng: “Ăn cháo đá bát, hoàng thượng hận không thể khiến ngươi chết ở ải Thanh Sa mà ngươi còn muốn thay lão thủ vệ biên cương? Dù trấn giữ một phương, tự lập làm vương cũng còn hơn đứng dưới trướng lão, ngươi có hiểu hay không?!”
“Trấn giữ một phương, tự lập làm vương.” Phó Thâm lặp lại tám chữ này, “Giống như vương gia sao?”
Y hỏi một câu vô dụng rồi thẳng thắn nói tiếp: “Xứ Tây Nam trời cao hoàng đế xa, bách tính các tộc sống trộn lẫn, độ trung thành với trung ương có hạn, ngài ở kinh doanh Tây Nam nhiều năm, cây to rễ sâu, dù hoàng thượng phái người đến kiềm hãm cũng sẽ bị ngài dễ dàng giải quyết. Ở thành Quỳ Châu, ta thường thấy trong quán xá ven đường có khách thương dị tộc An Nam, Chân Tịch, bao năm qua Tây Nam thông thương vãng lai với ngoại bang, thu nhập chắc chắn thừa sức cung cấp cho quân đội Tây Nam nhỉ?”
(Trời cao hoàng đế xa: nghĩa là ở nơi xa vắng thì không đạt được quyền lực bề trên.)
Sắc mặt Đoàn Quy Hồng hơi thay đổi.
“Càng chưa nói đến cái thứ thần chết gì đó trong tay ngài,” Phó Thâm nói, “Làm ăn một vốn bốn lời. Nếu thật sự mở sạp hàng ở Giang Nam, vàng ròng bạc trắng sẽ theo Trường Giang chảy ngược vào trong túi của lão gia ngài, đừng nói là tự lập làm vương, lúc đó dù ngài có muốn tự lập làm đế, cũng chẳng ai ngăn cản được ngài.”
Đoàn Quy Hồng lạnh lùng nói: “Nói bậy nói bạ.”
Phó Thâm trông thì có vẻ đã nắm chắc trong lòng, song kỳ thực không phải vậy, y biết Đoàn Quy Hồng nể tình trưởng bối nên mới không ra tay với mình, nhưng Tây Bình quận vương hành sự quỷ quái, Phó Thâm cũng không đoán được ông ta rốt cuộc muốn làm gì. Nhỡ may ông ta mưu đồ tạo phản, còn nhất định phải kéo Phó Thâm xuống nước cùng, vậy thì sẽ khó lắm đây.
Phó Thâm suy nghĩ một chút rồi nói: “Vương gia vừa kể cho ta chuyện cũ thảo nguyên, nói nhị thúc từng dùng cái thần chết gì gì đó khiến A Lạp Mộc bộ bị diệt sạch. Vậy sao sau này khi trấn giữ Yến Châu, ông ấy không dùng chiêu này với người Chá?”
Đoàn Quy Hồng ngẩn ra vì câu hỏi của y, sau một hồi chần chừ mới nói: “Khi Trọng Ngôn ở Bắc Yến thì bọn ta đang ở Tây Nam, nên cũng không biết.”
Phó Thâm gật đầu: “Ồ, bởi vì ngài ‘đang ở Tây Nam’.”
Đoàn Quy Hồng nhận ra sự ám chỉ trong mấy chữ nhấn giọng của y, trong khoảnh khắc thậm chí có loại ảo giác như mọc gai ở sau lưng, cơ bắp toàn thân đều căng cứng.
“Vương gia tốn cả buổi trời ở đây với ta, thế mà chẳng có lấy một câu nói thật,” Phó Thâm lắc đầu, không biết là đang cười ai, “Nếu ngài không nói rõ ngọn nguồn cho ta, vậy để ta nói hộ ngài đi.”
“Tiên phụ và tiên thúc mất sớm, ta còn chưa kịp rèn luyện trong quân cùng bọn họ được bao lâu thì đã bị ép đến chiến trường Bắc Cương. Nói ta không giống cha quả thực không sai, ta chẳng hề giống ông ấy chút nào. Ngoại trừ chút da lông thô thiển học được từ thúc phụ, cái bản tính nóng nảy của ta đều hình thành từ bảy năm ở Bắc Cương.”
Y thu lại nụ cười: “Cho nên vương gia ạ, đừng hi vọng ta nghe một câu chuyện là có thể biến thành ‘người nhà họ Phó’ như kỳ vọng của ngài. Đôi tay ta từng chém vô số người Man, chưa bao giờ vọng tưởng chết rồi có thể chuyển sinh cực lạc, phải xuống địa ngục thì sẽ xuống địa phục, người khác cũng như vậy, ‘Xác chết hai người, máu chảy năm bước’ là đủ rồi, kẻ nào tạo nghiệt thì kẻ ấy gặp báo ứng, kéo theo người không liên quan làm gì?”[1]
Đoàn Quy Hồng nói: “Vì bản thân lão ta mà khiến trung lương nuốt hận, cho dù có gặp báo ứng thì cũng chẳng đủ trả lại nghiệt mà lão tạo ra.”
Phó Thâm không lập tức tiếp lời, y im lặng chốc lát, mới thấp giọng than thở: “Vương gia…… Lê dân có tội gì.”
Đoàn Quy Hồng cũng trầm mặc.
Thiên tử giận dữ, xác chết trăm vạn, máu chảy ngàn dặm —— Nhưng trăm vạn người chết oan đó có lỗi lầm gì đâu?
Những binh lính chết ở ải Thanh Sa, những thường dân chết dưới tay Thuần Dương đạo nhân, những dân chúng vô tội chết vì Thu Dạ Bạch ở thôn Khê Sơn huyện Quảng Phong…. Bọn họ vì cớ gì mà phải chết?
Ông trời không thuận ý thì lũ hạn châu chấu, người bề trên không thuận ý thì đồng hoang phơi xương trắng, ngàn dặm chẳng tiếng gà[2]. Thứ dân nhỏ bé, nuôi sống gia đình đã là không dễ, đầu đội bao tầng trời, nửa cuộc đời gian lao, chỉ cần một tai họa bất ngờ là có thể hủy diệt tất cả.
Thời điểm mạng người quý giá, một cơn giận là có thể khiến trăm vạn người máu chảy xác trôi, thời điểm mạng người rẻ mạt, thì y chính là một trong trăm vạn người đó.
Nhờ đầu thai tốt, Phó Thâm không trở thành “một người trong vạn người” kia, nhưng y cũng không muốn làm kẻ “vạn dặm mới có một”, giữa giết người và bị giết, y muốn đi con đường thứ ba.
“Kính Uyên.” Đoàn Quy Hồng bỗng lên tiếng.
Bấy giờ ông ta không giận dữ, cũng chẳng trách cứ, chỉ bình thản gọi tên y, như thể cuối cùng cũng thu lại lớp vỏ ngụy trang, lộ ra bên trong cứng rắn lạnh lẽo như bàn thạch.
“‘Lê dân có tội gì’. Câu này, thúc phụ ngươi cũng từng nói.”
Năm Nguyên Thái thứ tư, Phó Đình Tín bị thương, Đoàn Quy Hồng đi tìm thuốc giải để trị độc cho ông, đồng thời, Đoàn Quy Hồng còn biết được chỗ đáng sợ của loại thực vật này từ vu y Nam Cương. Đúng lúc chiến sự biên quan căng thẳng, quân Hán và kỵ binh Thát tộc bất phân thắng bại, Đoàn Quy Hồng muốn dùng kế đánh úp để phá giải cục diện bế tắc, bèn tìm Phó Đình Tín để thương lượng, muốn dùng loại thảo dược này để hủy diệt đồng cỏ của A Lạp Mộc bộ, kết hợp thêm cả dịch bệnh, một khi hậu phương chao đảo, ắt hẳn có thể giáng một đòn mạnh cho Thát tộc.
Phó Đình Tín cảm thấy cách này quá tàn nhẫn thâm độc nên nhất quyết không đồng ý, Đoàn Quy Hồng đi tìm Phó Kiên, lại bị dạy bảo cho một trận. Ngay lúc ông ta liên tục gặp đả kích, cho rằng cách này là bất khả thi, Phó Đình Trung lại tìm tới ông ta, cả hai cùng nhau bí mật quyết định kế hoạch này.
Mùa xuân năm sau, đồng cỏ của A Lạp Mộc bộ bị Thu Dạ Bạch xâm chiếm, dịch bệnh bùng phát, toàn bộ bộ tộc rơi vào khủng hoảng, Phó Đình Trung dẫn quân xuất kích, đại thắng kỵ binh Đông Thát ở núi Đại Thanh, quân Hán thậm chí còn thâm nhập phúc địa thảo nguyên, suýt nữa đánh hạ vương thành của người Đông Thát.
Sau trận chiến đó, khi Đoàn Quy Hồng đắc ý khoe khoang công trạng với Phó Đình Tín, Phó Đình Tín chỉ nói một câu “Lê dân có tội gì”.
Mùa thu cùng năm, Phó Kiên lâm bệnh ở Cam Châu. Trong lúc ốm đau, ông dâng một bản tấu lên cho triều đình, đề bạt Đoàn Quy Hồng làm tướng quân quân chinh phạt phía Tây, đi tới Tây Nam dẹp loạn.
Hành động này đến nay vẫn bị rất nhiều người cho là Phó Kiên bài trừ dị kỷ, muốn lưu quân quyền Bắc Yến quân cho con trai mình. Chỉ có bản thân Đoàn Quy Hồng tự biết, ngày ấy Phó Kiên gọi ông đến trước giường bệnh, bảo rằng mình chẳng sống được lâu nữa, lệnh cho ông phải ở trước giường tuyên thề, mang Thu Dạ Bạch về Tây Nam, trông giữ cẩn thận, tuyệt đối không được để một cây nào lọt vào Trung Nguyên.
Ông ngơ ngẩn nghe Phó Kiên nói: “Thiên hạ yên ổn, thịnh thế trăm năm, thành do tay con, bại do tay con. Mặc dù con không mang họ Phó, nhưng trong xương tủy lại là người nhà họ Phó chúng ta.”
“Ta chinh chiến tứ phương, đánh giặc suốt nửa đời, chỉ có một tâm nguyện chưa thành, đó là muốn ngắm nhìn nhân gian thái bình, bây giờ…… đành giao lại cho con.”
Lão tướng quân ban cho ông mệnh lệnh cuối cùng. Đoàn Quy Hồng rưng rưng dập đầu lạy ba lạy trước giường bệnh, sau khi tiễn đưa Phó Kiên, đợi mọi việc kết thúc, ông liền theo đại quân triều đình đi tới Tây Nam.
Từ khi Tây Nam bình định vào năm Nguyên Thái thứ sáu đến nay, ông đã canh giữ suốt hai mươi năm.
Trong hai mươi năm, Phó Đình Trung bị người Thát ám sát, Phó Đình Tín tử trận sa trường, Phó Thâm nhận lệnh xuất binh đến Bắc Cương giữa lúc nguy cấp, ông ở Tây Nam, nhưng chưa một ngày nào quên được cỏ úa cát vàng ngút ngàn nơi phương Bắc.
Mấy năm đầu Phó Thâm mới đến Bắc Cương, Đoàn Quy Hồng thấy chiến sự ngừng dần, phương Bắc trở về yên bình, còn tưởng rằng trải qua mười mấy năm trắc trở gập ghềnh, câu “Nhân gian thái bình” kia cuối cùng cũng thực hiện được.
Nhưng sau đó, ông phát hiện mình nghĩ lầm rồi.
Bắc Yến thiết kỵ truyền qua ba đời trong tay người nhà họ Phó, Nguyên Thái đế là người đầu tiên ngồi không yên.
Người nhà họ Phó đều chết sớm, Nguyên Thái đế thì lại là một hoàng đế sống lâu, ông ta trơ mắt nhìn người nhà họ Phó hết đời này đến đời khác tiếp nhận ấn soái, đi tới sa trường, Bắc Yến quân ngày càng hùng mạnh, chủ soái ngày càng trẻ tuổi, mà ông ta thì ngày càng già yếu. Quay đầu nhìn đám long tử long tôn của mình, chẳng có lấy một người kinh tài tuyệt diễm, xứng làm chủ của một trung hưng.
Cứ tiếp tục thế này, thì mười mấy năm sau, hai mươi mấy năm sau, thiên hạ này có còn là thiên hạ của nhà bọn họ hay không?
Trước khi Nguyên Thái đế lệnh cho Phó Đình Nghĩa kế thừa tước vị, đổi sang phong Phó Thâm làm Tĩnh Ninh hầu, Đoàn Quy Hồng đã cảm thấy hoàng thượng kiêng kỵ và đề phòng vị thống soái mới của Bắc Yến thiết kỵ.
Năm xưa Nguyên Thái đế và Phó Kiên quân thần tương đắc, là bởi vì triều đình bất ổn, chiến sự phương Bắc còn phải dựa vào ông; ưu đãi Phó Đình Trung và Phó Đình Tín rất nhiều, là bởi vì huynh đệ hai người đồng tâm hiệp lực, còn có Túc vương tham gia một phần trong đó; mà bây giờ ông ta dám liên tiếp ra tay với Phó Thâm, chỉ đơn giản là bắt nạt y còn trẻ dễ uốn nắn, mà Dĩnh quốc công hiện tại thì là một tên phế vật luôn muốn mọc cánh thành tiên, có xảy ra chuyện cũng chẳng giúp đỡ được gì.
Để phòng vạn nhất, Đoàn Quy Hồng phái Đỗ Lãnh đến bên cạnh Phó Thâm. Khi ý đồ của hoàng đế ngày một rõ ràng, Đoàn Quy Hồng rốt cuộc cũng thất vọng với cái gọi là “Nhân gian thái bình” rồi. Ông cuối cùng cũng hiểu, chỉ cần ngai vàng còn có người ngồi, thì người nhà họ Phó, và cả chính ông, sẽ vĩnh viễn chẳng thể nào thoát khỏi “thiên mệnh”.
“Thần chết say ngủ” bị phong giữ suốt hai mươi năm ở Tây Nam được người thủ vệ đánh thức, từ vùng duyên giang Kinh Sở chảy về phía Đông, cắm rễ trong núi non Giang Nam tựa như u linh, trải rộng trên đất những đóa hoa trắng tinh.
Tây Bình quận vương kể xong, chậm rãi thở ra khí đục mắc ứ trong lồng ngực, nói: “Ta giám thủ tự đạo, phụ lời phó thác, tương lai xuống dưới suối vàng, chẳng còn mặt mũi nào gặp lại Phó công nữa.”
(Giám thủ tự đạo: đánh cắp thứ mình canh giữ, trông coi.)
Là người đầu tiên mang họ khác được phong làm quận vương, vì một lời giao phó mơ hồ, mà cố thủ Tây thùy suốt hai mươi năm. Phó Thâm biết ông ta đã làm ra rất nhiều chuyện sai lầm, nhưng lại chẳng thể nào đứng ở vị trí cao hơn mà khiển trách ông.
Cũng như năm ấy Phó Đình Tín nói với Đoàn Quy Hồng “Lê dân có tội gì”, giờ đây đổi thành Phó Thâm, y cũng chỉ có thể nói một câu như vậy mà thôi.
Bởi vì y biết mình cũng chẳng vô tội.
Trên đời này tội danh khiến người ta bất đắc dĩ nhất, một là “Có lẽ có”, một là “Mang ngọc mắc tội”, một nữa là “Ta không giết Bá Nhân, Bá Nhân lại vì ta mà chết.” (Mấy cái điển tích này mình đều từng chú thích, mấy bạn có thể search trong trang nhà mình để tìm nhé, mình lười cop lại quá =v=)
Phó Thâm chán chường nói: “Ta cũng chẳng có mặt mũi nào mà gặp ông ấy, hay là chúng ta cùng đến trước mộ ông ấy thắt cổ đi.”
Đoàn Quy Hồng không để ý đến lời trào phúng của y: “Nếu đã nói đến nước này rồi, vậy ta cũng cho người biết ngọn nguồn. Ngươi biết ta đang ở Tây Nam, xa ngoài tầm với, khó mà lập thành thế lực quy mô ở kinh doanh. Thuần Dương đạo nhân có thể đứng vững chân ở kinh thành, đều là nhờ một người nhiều lần giúp đỡ.”
Lòng Phó Thâm bỗng chùng xuống: “Là ai?”
✿Tác giả có lời muốn nói:
[1] 《Đường sư bất nhục sứ mệnh》trong sách giáo khoa cấp hai, vốn xuất xứ từ 《Chiến quốc sách》.
[2]《Cảo lý hành》của Tào Tháo.
Editor: Tình hình kiểu này chắc ko hoàn được trong tháng 10 đâu bà con ạ =_=.
|