Hoàng Kim Đài
|
|
Chương 60: Kinh biến[EXTRACT]Đoàn Quy Hồng không có tật xấu thừa nước đục thả câu, ông nói thẳng: “Là Phó Đình Nghĩa.”
Như một cái búa tạ từ trên trời ầm ầm giáng xuống, đập cho Tĩnh Ninh hầu từ mặt đất sụt lún xuống dưới lòng đất. Phó Thâm trố mắt kêu lên: “Ai cơ?”
Y hoài nghi Đoàn Quy Hồng đang gạt mình, không thì là y gặp ảo giác rồi.
“Dĩnh quốc công. Tam thúc của ngươi.” Đoàn Quy Hồng cuối cùng cũng dọa được Phó Thâm một phen, chẳng hiểu sao còn có chút đắc ý, “Không ngờ đúng không?”
Phó Đình Nghĩa, tam gia phế vật nổi tiếng kinh thành, gà mái bay ra từ ổ phượng hoàng, quý tộc trung niên trầm mê tu tiên, cửa lớn không ra cửa nhỏ chẳng bước còn hơn cả tiểu thư khuê tú, sống đến tận giờ mà vẫn chưa chết đói, đều là nhờ đầu thai tốt.
Ngay đến cả Phó Thâm cũng chẳng có bất cứ kỳ vọng nào với ông, ai mà ngờ đại án chấn động kinh thành còn có phần ông nhúng tay vào?
“Ông ấy…… Bao nhiêu năm qua, ông ấy cầu tiên vấn đạo chỉ là vỏ bọc, kỳ thực vẫn luôn âm thầm liên hệ với ngài?”
Phó Thâm tuy kinh ngạc nhưng đầu óc thì vẫn đủ dùng, Đoàn Quy Hồng chỉ điểm một câu, đã đủ cho y suy đoán được đại khái đầu đuôi sự việc. Thanh Hư quan ở kinh thành có tiếng linh nghiệm, Phó Đình Nghĩa lại là người say mê đạo thuật, ông ra vào Thanh Hư quan, đương nhiên sẽ không khiến người ta hoài nghi. Mà Bạch Lộ Tán và tẩu thuốc mà Thuần Dương đạo nhân cần cũng có thể đưa đến tay Phó Đình Tín trước, sau đó ông lại chuyển giao cho Thuần Dương đạo nhân, lão ta là một đạo sĩ, nếu liên tục liên hệ với Tây Nam thì sẽ dễ lộ sơ hở, nhưng đối với phủ Dĩnh Quốc công mà nói thì chuyện này không thành vấn đề…… Thảo nào lúc trước nhóm người Nghiêm Tiêu Hàn điều tra kiểu gì cũng không phát hiện nguồn dược vật là từ tay Thuần Dương đạo nhân.
“Tam thúc của ngươi giấu tài nhiều năm rồi.” Đoàn Quy Hồng nói: “Hành động của Thuần Dương ở kinh thành phần nhiều là dựa thế của ông ấy, ta và tam thúc ngươi liên hệ, cũng là chuyện sau khi ngươi đến Bắc Cương.”
Phó Thâm lại nổi giận một cách hiếm thấy, sắc mặt y sa sầm: “Có giấu tài thì cũng nên đi lo chuyện tu tiên của ông ấy đi chứ! Cứ nhất định phải dính vào mấy việc tồi tệ này, đây là mất hết lương tâm hay là chê phủ Dĩnh quốc công sụp chưa đủ nhanh?”
“Kính Uyên.” Đoàn Quy Hồng bình tĩnh nói, “Ngươi cũng nghĩ giống người kinh thành, đều cảm thấy ông ấy có thể có ngày hôm nay, hoàn toàn là nhờ đầu thai tốt, đúng không?”
“Đúng cái gì mà đúng!” Phó Thâm giận dữ nói, “Ông ấy làm gì mà chẳng được? Tu tiên cũng chả ai ngăn ông ấy! Ta vất vả lắm mới kéo được phủ Dĩnh quốc công ra khỏi đống phiền phức, ông ấy thì lại lao đầu nhảy vào hố lửa, bộ bị nghiện hả!”
“Ngươi om sòm cái gì,” Đoàn Quy Hồng cau mày bảo, “Ngươi không hiểu tam thúc của ngươi đó thôi. Lúc mẹ ông ấy mang thai ông ấy thì bị động thai sinh non, cho nên sức khỏe tam thúc ngươi từ nhỏ đã không được tốt, đại ca và nhị ca ông ấy cũng nhường nhịn đệ đệ, sợ ông ấy va vấp xảy ra chuyện gì nên không dám cho ông ấy tập võ. Ta từng gặp ông ấy vài lần, hồi bé ông ấy gầy gò nhỏ con, không thích nói chuyện, suốt ngày ru rú trong nhà không ra khỏi cửa.”
“Sau đó Bá Tồn và Trọng Ngôn đều đến Bắc Cương, một mình ông ấy lớn lên ở kinh thành, văn võ đều chẳng giỏi giang, nhưng bên trên còn có hai người huynh trưởng bản lĩnh; kết quả hai vị huynh trưởng lần lượt qua đời, cũng may lại có cháu ruột che chở ông ấy.”
“Kính Uyên, ngươi gánh vác trọng trách quen rồi, không cảm thấy đó là gánh nặng, nhưng đối với tam thúc ngươi, đây vốn phải là trách nhiệm của ông ấy. Ông ấy dù gì cũng là trưởng bối của ngươi, không bảo vệ được cho ngươi, ông ấy vẫn luôn cảm thấy hổ thẹn.”
Phó Thâm mơ hồ nhận ra sự cô đơn ẩn trong lời nói của ông, bỗng chốc hiểu được nỗi hổ thẹn mà Đoàn Quy Hồng không nói ra, cũng như của Phó Đình Nghĩa.
Y nhất thời đơ người.
Phó Thâm đi đến bây giờ không dựa dẫm vào ai, từ lâu đã quen đối mặt với gian lao, bởi vì biết sẽ không có ai che mưa chắn gió cho y, trốn tránh chẳng có tác dụng gì. Mà kể từ khi Phó Đình Tín qua đời, những năm tháng bám lấy trưởng bối nhõng nhẽo của y đã vĩnh viễn trôi qua, sống đến cái tuổi này, dù là giả vờ, y cũng chẳng giả được cái vẻ được người khác cưng chiều chăm bẵm có thể dễ dàng khom lưng cúi đầu, biến mình thành một vãn bối cần được chiếu cố.
“Được rồi, ngừng lại đi, không cần phải thế,” Phó Thâm lầm bầm, “Ai mà thèm chứ, ta đâu có thiếu người thương yêu, cả đống tuổi rồi mà còn chơi cái trò thiết hán nhu tình……. Không thấy sến súa hả?” (Thiết hán nhu tình: mạnh mẽ kiên cường mà vừa có sự dịu dàng tình cảm.)
Đoàn Quy Hồng: “……”
Cái đồ da dày thịt béo sát phong cảnh, người thế này thì có gì đáng mà thương!
“Sau này nhờ ngài chuyển lời tới ông ấy, bảo ông ấy hãy mau dừng lại đi,” Phó Thâm một tay đỡ trán, miễn cưỡng đổi sang giọng điệu không quá nóng nảy, “Ta tự có tính toán riêng, không cần hai vị phải đích thân mạo hiểm. Xin hãy rủ lòng thương, xem như thương xót tiểu điệt, đừng khiến ta ngoài bận tâm Bắc Yến quân ra lại còn phải phân tâm lo lắng cho hai vị, được không?”
Người xuất thân từ Bắc Yến quân bọn họ luôn có một sự bộc trực và đồng cảm lạ kỳ, vậy nên khi Phó Thâm dùng thân phận chủ soái Bắc Yến quân nói chuyện thẳng thắn, y chẳng chút khách khí với Đoàn Quy Hồng, dù cho thân phận của Tây Bình quận vương còn cao hơn y; mà bây giờ không nói chuyện công, Phó Thâm tự xưng là “Tiểu điệt”, Đoàn Quy Hồng còn thấy không dễ chịu hơn cả y, ông nói cứng ngắc: “Được.”
Hai người lúng túng im lặng chốc lát, Đoàn Quy Hồng vội đằng hắng một tiếng, để che giấu sự gượng gạo, ông nói sang chuyện khác: “Ngươi ăn cơm chưa? Nếu chưa thì đêm nay chúng ta uống mấy chén nhé?”
Phó Thâm gật đầu sao cũng được, bỗng nhớ tới gì đó: “Vương gia, Thu Dạ Bạch…..”
“Một khi ôn dịch lan tràn thì sức người sẽ không thể khống chế được,” Đoàn Quy Hồng cười khổ nói, “Thu Dạ Bạch cũng giống như vậy. Dù từ nay về sau ta không tiếp tục để Thu Dạ Bạch lọt ra ngoài nữa, nhưng số lượng đã truyền đi vẫn sẽ không ngừng sinh sôi, giờ mới nhớ dập tắt đầu nguồn thì đã muộn rồi.”
Phó Thâm nói: “Sau khi án Kinh Sở xảy ra, triều đình sẽ tăng cao chú ý tới Thu Dạ Bạch, ta đoán không bao lâu nữa sẽ ban bố pháp lệnh, cấm nhân dân lén lút gieo trồng Thu Dạ Bạch. Số lượng đã tung ra ngoài thì không khống chế được nhưng kỹ thuật điều chế Bạch Lộ Tán thì vẫn nằm trong tay vương gia, đúng không?”
Đoàn Quy Hồng gật đầu, Phó Thâm nói: “Nếu như ngài thu tay lại, nhân gian có được thái bình hay không thì ta không dám chắc, nhưng nếu ngài không thu tay, nhân gian nhất định không được thái bình. Bên nào nặng bên nào nhẹ, mong vương gia hãy suy xét.”
Bạch Lộ Tán tuy vẫn chưa trở thành nguồn tiền quan trọng nhất của Tây Nam, nhưng nó lại có hiệu quả thần kỳ, muốn Đoàn Quy Hồng hạ quyết định chấm dứt nhanh như vậy là bất khả thi. Phó Thâm cũng không hối thúc ông, chỉ nhắc vậy rồi thôi. Hai người uống rượu cả đêm, Phó Thâm bị Tây Bình quận vương lôi kéo lải nhải chuyện cũ Bắc Yến quân suốt nửa buổi tối, đầu váng mắt hoa ngã lên chiếc giường trong khách phòng, cảm thấy mình đã đánh giá cao độ thận trọng của Đoàn Quy Hồng rồi.
Khi sắc trời tờ mờ sáng, bên ngoài bỗng vang lên tiếng sấm, Phó Thâm vốn ngủ rất say, nhưng chẳng biết vì sao, tiếng sấm này lại như truyền từ tai đến tận trong tim, y đột nhiên mở mắt, tim đập điên cuồng chẳng rõ nguyên do.
Hai mươi chín tháng tư, kinh thành về đêm.
Trong hoàng thành lặng ngắt như tờ, các cung đều đóng chặt cửa nẻo, mấy cung nữ thái giám run rẩy ngồi rúc trong góc cung điện, chỉ có Dưỡng Tâm điện đèn đuốc sáng trưng, Tấn vương Tôn Duẫn Thuần mặc áo giáo, phía sau là đội ngũ tạo thành từ Nam Nha thập vệ và tinh binh phủ Tấn vương, đối diện với Bắc Nha cấm quân trước điện.
Tay Ngụy Hư Chu giữ trường đao, trợn tròn mắt: “Cung cấm trọng địa, không có chiếu thì không được tiến vào, Tấn vương điện hạ muốn phạm thượng tác loạn sao?”
Tôn Duẫn Thuần cười khẩy: “Chó giữ cửa mà cũng dám sủa bậy trước mặt bổn cung à, cút mau!”
Dưới ánh lửa chiếu rọi, gượng mặt Ngụy tướng quân lạnh như sắt, sau lưng bị mồ hôi thấm đẫm một mảng lớn. Giờ Tuất Tấn vương dẫn binh kéo thẳng vào từ Thừa Thiên môn, trước tiên đến Đông cung giết chết thái tử, sau đó xông đến Dưỡng Tâm điện. Nam Nha thập vệ đều theo phe Tấn vương, trong cung không nhận được chút tin tức gì. Khi bọn chúng tiến vào Huyền Phúc môn thì Ngụy Hư Chu mới hay tin, vội vàng mang theo Bắc Nha cấm quân đến hộ giá, cuối cùng ngăn cản đội ngũ của Tấn vương ngay trước Dưỡng Tâm điện.
Tấn vương tính toán kỹ càng, Nam Nha phản bội, chỉ dựa vào Bắc Nha cấm quân thì không chống trả được bao lâu, Ngụy Hư Chu mặc dù không sợ chiến, nhưng khách quan mà nói, chính hắn cũng cảm thấy Tấn vương tám, chín phần mười sẽ thành công.
“Ai ở bên ngoài?”
Cửa điện từ từ mở ra, giọng nói già nua uy nghiêm vang lên trong màn đêm xen lẫn ánh lửa, thân ảnh Nguyên Thái đế xuất hiện ở cửa Dưỡng Tâm điện: “Tấn vương, ngươi muốn làm gì?”
Tôn Duẫn Thuần tiến lên một bước: “Thái tử Tôn Duẫn Lương âm mưu phản nghịch, ý đồ bất chính. Nhi thần nhìn thấu mưu đồ, e sợ sinh biến nên lập tức dẫn binh tiến cung hộ giá. Bây giờ phản tặc đã đền tội nên tới đây để thông báo cho phụ hoàng.”
Ở đây người tinh tường đều biết thái tử chẳng qua chỉ là một con quỷ xui xẻo chết oan, Tấn vương làm xong hết thảy, thậm chí còn có thể nói những lời nghĩa chính từ nghiêm sáo rỗng này mà mắt không chớp tim không nhảy.
Nguyên Thái đế nói: “Phản tắc đã chết, ngươi hồi phủ đi.”
Bàn tay sau lưng Tấn vương ra dấu, một quan viên áo tím lập tức tiến lên, quỳ lạy tại chỗ, nói: “Thái tử thất đức, đã bị Tấn vương tru diệt. Đất nước bất ổn, lòng người muốn yên, mong bệ hạ suy xét, truyền ngôi cho Tấn vương, thuận theo nguyện vọng thiên nhân.”
“Thôi Cảnh.” Nguyên Thái đế lạnh lùng liếc hắn, nói: “Cấm quân đâu?”
“Phụ hoàng, nhi thần khuyên người nên từ bỏ hi vọng đi,” Dưới ảnh lửa chập chờn, nụ cười của Tôn Duẫn Thuần trông vô cùng vặn vẹo, khiến người ta liên tưởng đến con rắn độc đang thè lưỡi: “Nam Nha chư vệ đều đã theo bản vương, đừng nói tên tâm phúc Nghiêm Tiêu Hàn của người không có ở đây, cho dù hắn có mặt ở đây, thì Bắc Nha cấm quân cũng chẳng đủ sức đánh một trận đâu.”
Hắn cố ý dừng lại một chốc, cất giọng nói: “Quân Đường Châu đang trên đường đến kinh cần vương rồi, mong phụ hoàng hãy sớm định đoạt!”
Tôn Duẫn Thuần vừa dứt lời, một tiểu thái giám đã loạng choạng chạy vào từ ngoài cửa cung, mũ lệch cả đi, hổn hển bẩm: “Bệ hạ! Bệ hạ! Sứ giả từ kinh doanh báo cáo, có mấy vạn nhân mã đang hướng tới kinh thành, Uông thống lĩnh đang mang Nhuệ Phong doanh và Liệt Lôi doanh đi ngăn cản.”
Nguyên Thái đế nghe tin sét đánh này, lảo đảo lùi về sau một bước, kinh hãi ngã vào vòng tay đỡ của thái giám bên cạnh.
Ba mươi tháng tư, ngoài Lương Khẩu quan của Bắc Yến.
Xe ngựa từ Ô La Hộ bộ của Chá tộc xếp thành hàng dài ở hẻm núi, mùa xuân phương Bắc tới chậm, tuy đã rạng sáng nhưng vẫn còn rất lạnh, quan binh thủ quan mặc áo dày, lau nước đọng trên mi mắt, há miệng ngáp một cái, nói thầm: “Năm nay đến sớm thật.”
Người Chá hộ tống xe ngựa tươi cười đi tới, móc từ tay áo ra một viên trân châu khổng lồ, nhét vào tay quan binh nọ.
Binh sĩ nọ sững sờ, không nhận mà đẩy tay gã lại: “Tướng quân của chúng ta không nhận mấy thứ này, cầm về đi.”
Chá tộc mấy năm trước gây rối bất thành, bị Bắc Yến thiết kỵ xử lý mấy bận, hiện tại năm nào cũng nạp cống cho Đại Chu. Ô La Hộ bộ có nhiều đông châu, theo lệ thì cứ tháng năm – sáu hàng năm sẽ tiến cống đông châu đến kinh thành một lần. Năm nay, còn chưa tới tháng năm mà bọn họ đã tới rồi, binh sĩ phụ trách kiểm tra cống phẩm mặc dù lấy làm lạ, song cũng không nghĩ nhiều, hắn đi tới trước xe ngựa, dùng mũi đao vén tấm bạt phủ trên rương hàng, nói: “Mở rương ra.”
Mấy người Chá tươi cười leo lên xe ngựa, tháo dây, xốc nắp rương lên.
Một tiếng huýt vang lên, dọa chim muông trong rừng bay tán loạn.
Nắp rương mở ra, bên trong không phải đông châu, mà là đao kiếm sáng loáng!
Người Chá hộ tống cống phẩm đều là bính lính được huấn luyện bài bản, chúng rút đao từ trong rương ra, cùng xông lên. Giữa tiếng chém giết khiến người ta kinh hãi, binh sĩ Bắc Yến từ chối trân châu bị đâm thủng ngực, ngửa mặt ngã xuống nền đất bụi mù.
Bàn tay lạnh cứng của hắn khó khăn dịch chuyển, rút từ bên hông ra một cây pháo hoa, run run kéo kíp nổ ——
“Phập” một tiếng, gã người Chá phát hiện ý đồ của hắn, xoay tay bồi thêm một đao, lưỡi đao sắc bén chọc thủng huyết nhục, đâm xuyên trái tim hắn.
Đồng thời, tín hiệu báo địch tấn công bay vút lên không trung, nổ tung thành pháo hoa màu máu, phản chiếu trong con ngươi dần trợn lên của hắn. Thân thể binh sĩ Bắc Yến quân kia co rúm lại, hai mắt nhìn trời, phun ra ngụm khí lạnh cuối cùng từ trong lồng ngực.
Ngày ba mươi tháng tư năm Nguyên Thái thứ hai mươi sáu, trong lúc lâm triều, Nguyên Thái đế Tôn Tuần lệnh cho thái giám tuyên đọc thánh chỉ, truyền ngôi cho Tấn vương Tôn Duẫn Thuần.
Cùng hôm ấy, Ô La Hộ bộ của Chá tộc lợi dụng thời điểm vận chuyển đông châu, đánh lén quân đóng giữ Lương Khẩu quan của Bắc Yến, không lâu sau đó, một lượng lớn quân đội Chá tộc xuôi Nam tràn vào, Bắc Yến thiết kỵ khẩn cấp điều binh tiếp viện, hiểm cảnh Bắc Cương bảy năm về trước lại lần nữa tái diễn.
|
Chương 61: Đi ở[EXTRACT]Đại Chu khai quốc hơn trăm năm, Tôn Duẫn Thuần không phải một trong những, mà là hoàng đế xui xẻo nhất trong lịch sử.
Ngày đầu tiên hắn lên làm hoàng đế, không bái thái miếu, không làm đại điển, văn võ bá quan chưa kịp phản ứng, ngay cả long ỷ cũng chưa ngồi nóng thì đã nhận được tin khẩn Bắc Cương gửi tới.
Ngay sau đó, hàng xóm cũ ào ào tràn tới như ong vỡ tổ.
Ô La Hộ bộ của Chá tộc đánh lén Lương Khẩu quan, Khất Liệt bộ và thuộc quốc phía Đông Bắc là Bột Hải quốc liên quân với nhau, phát binh tấn công hai châu Bình, Kế, Thát tộc mới bị giáo huấn năm ngoái giờ lại ngóc đầu trỗi dậy, xâm chiếm các châu Đồng, Du, ép sát phòng tuyến phía Tây của Bắc Yến là Nguyên Châu. Bắc Yến thiết kỵ bị hai đầu kiếm chế, tình hình vô cùng nguy cấp.
Ngày mùng ba tháng năm, Kế Châu báo nguy.
Ngày mùng năm tháng năm, thành Kế Châu bị phá, Bình Châu cấp báo, Đồng Châu và Du Châu ở Tây Bắc cầu viện Bắc Yến quân.
Ngày mười hai tháng năm, thành Bình Châu bị phá, chủ tướng Túc vương tử trận, các châu huyện phụ cận không thể chống trả, thủ quan canh giữ đầu hàng, quân địch cách kinh thành chỉ còn ngàn dặm, mà quân Đường Châu đáng lẽ phải trên đường chống địch, nhưng vì giúp Tôn Duẫn Thuần soán ngôi nên còn đang ở ngoài kinh thành giằng co với kinh doanh.
Ngày mười ba tháng năm, quân Ninh Châu phản bội, phòng tuyến Tây Bắc bị phá.
Thát tộc và Chá tộc bắt tay nhau, lần lượt hướng tới kinh sư từ hai đường Đông Tây, Bắc Yến thiết kỵ bị kẹp ở giữa, thành thế cô lập, trong triều thì loạn xà ngầu, đừng nói là điều tập lương thảo kiểm kê chiến bị, ngay cả hoàng đế rốt cuộc là ai bọn họ cũng chẳng rõ nữa là.
Ngày mười lăm tháng năm, Phó Thâm phóng ngựa ngày đêm, cuối cùng cũng về đến đại doanh ngoài thành Yến Châu.
Bắc Yến quân canh giữ đại doanh trông thấy y thì suýt nữa bật khóc, Phó Thâm gấp rút lên đường nên tâm lực mệt mỏi, ngay cả sức giơ tay ra đỡ cũng chẳng có, y vào đại một doanh trướng rồi ngồi xuống, lời ít ý nhiều: “Rót cho ta cốc nước, còn tướng quân nào đang ở trong doanh trại thì gọi tới gặp ta.”
Tướng lĩnh nhận lệnh rời đi, Phó Thâm nhân lúc rảnh rỗi liền nhắm mắt dưỡng thần, vừa duỗi dài hai chân. Từ cẳng chân y trở xuống đã không còn tri giác, xương cốt toàn thân như muốn rớt ra, người đầy bụi bặm, gương mặt tiều tụy, phủi ống tay áo một cái là rơi ra hai lạng đất.
Y ở Tây Năm hay tin Tấn vương ép vua thoái vị, còn chưa kịp ngạc nhiên thì đã nhận tin Lương Khẩu quan bị tập kích. Lần này Phó Thâm thực sự không thể ngồi yên, Đoàn Quy Hồng khuyên y nên chờ thêm tin tức, không chừng chỉ là gây rối bình thường thôi. Nhưng Phó Thâm vừa nghe nói Ô La Hộ bộ mượn cơ hội vận chuyển đông châu để đánh lén, liền lập tức nghĩ ngay tới hộp đông châu máu me loang lổ mà Du Kiều Đình đưa cho y hồi đại hôn năm nay.
Đây là lời khiêu khích trắng trợn mà người Chá tộc gửi đến, man di không hết lòng gian, đã sớm có dự mưu rồi.
Đoàn Quy Hông thấy y nóng lòng, bèn nói: “Mặc dù trên danh nghĩa ngươi là thống soái Bắc yến, nhưng quân vụ đều đã giao cho người khác rồi, trời sập thì cũng có người cao chống lấy, ngươi quên mất chân mình bị thương thành ra thế nào rồi sao? Trở lại có ích gì, chẳng lẽ ngươi định đích thân ra trận giết địch chắc?”
“Ta chỉ mới gãy chân,” Phó Thâm nén giận, mặt không đổi sắc, nói, “Cho dù chỉ còn một hơi tàn, ta cũng phải bò đi.”
“Đó là đồng bào của ta. Vương gia, tiên phụ tiên thúc có ý nghĩa thế nào trong lòng ngài, thì các huynh đệ Bắc Yến quân đối với ta cũng giống như vậy.”
Đoàn Quy Hồng ngẩn ra, sau đó nói: “Ngươi muốn về thì tùy ngươi vậy. Nhưng ta sẽ không quan tâm chút nào đến triều đình Đại Chu đâu, sau này dù Bắc Yến nguy cấp, Tây Nam cũng không phát binh giúp đỡ, ngươi nghĩ cho kỹ đi.”
“Vốn cũng chẳng trông chờ gì ở ngài,” Phó Thâm giương mắt thoáng nhìn, lạnh nhạt nói, “Vương gia cứ quản cái mảnh đất nhỏ của mình cho tốt là được rồi.”
Trong lúc đi từ Trung Nguyên tới phía Bắc, tin Bình Châu bị phá, Túc vương tử trận truyền ra, y bất ngờ suýt ngã khỏi ngựa, lòng đau như cắt, cổ họng tanh ngọt, bỗng phun ra một ngụm máu.
Năm ấy Phó Đình Tín rơi vào trùng vây, kiệt sức chết trận, Túc vương cả đời không thành thân, xin được đến Bình Châu, đó là nơi gần trú quân Bắc Yến và biên cảnh nhất. Những năm qua, ông chưa một ngày quên được Phó Đình Tín.
Bây giờ, sau bao năm thiên nhân cách trở, bọn họ cuối cùng cũng có thể gặp lại dưới suối vàng.
Ngụm máu kia rơi vào lòng bàn tay y, Phó Thâm đau đớn nhắm chặt mắt lại.
Cái chết của Túc vương chạm trúng vào nỗi sợ hãi lớn nhất trong lòng y, quãng đường này mệt mỏi, Phó Thâm luôn không dám nghĩ Nghiêm Tiêu Hàn mà biết được tin này thì sẽ phản ứng ra sao. Bắt đầu từ khoảnh khắc quyết định tới phía Bắc thay vì Kinh Sở, y biết mình lại lần nữa bỏ lại Nghiêm Tiêu Hàn ở phía sau.
Năm ấy lỡ mất nhau còn có thể lấy cớ rằng tình chưa chớm nở, nhưng giờ tâm ý đã tỏ tường, y còn có thể vờ rằng mình chẳng có ràng buộc, một người ăn no cả nhà không đói nữa sao?
Ngộ nhỡ…… Y cũng chết ở chiến trường Bắc Cương giống như Phó Đình Tín, vậy Nghiêm Tiêu Hàn phải làm sao bây giờ?
“Tướng quân!”
Du Kiều Đình xồng xộc vén rèm lao đến trước mặt Phó Thâm như một trận gió cuốn, hắn gào khóc kêu ca: “Tướng quân thân mến của ta ơi, sao ngài còn trở lại vậy chứ?”
Phó Thâm uể oải ngồi thẳng người: “Đừng nói nhảm nữa, kể tình huống cụ thể cho ta.”
Du Kiều Đình lau đi giọt nước mắt không tồn tại, ngồi xuống bên cạnh y: “Kể ra thì dài lắm…….”
Phó Thâm nghe xong quá trình cung biến và tình hình trận chiến, giơ tay xoa mi tâm, thở dài thườn thượt.
Dù Kiều Đình thấy sắc mặt y không tốt, chần chừ nói: “Tướng quân?”
“Thời gian quá chuẩn,” Phó Thâm nói, “Tấn vương vừa mới đoạt vị thì Lương Khẩu quan liền bị tập kích, dù hắn có xui đến đâu thì cũng không thể xui đến mức này được, Tấn vương tám, chín phần mời là rơi vào bẫy của đối phương, bên cạnh hắn nhất định có nội ứng của ngoại quốc, trước tiến gây nội loạn rồi thừa lúc vắng mà vào.”
“Bột Hải quốc luôn luôn an phận, nhiều năm qua chưa từng hỗn loạn, bây giờ lại dấy binh tạo phản với Chá tộc, chỉ e cũng nắm chắc mới dám ra tay. Quân Đường Châu lại càng kỳ quái, tiết độ sứ Đường Châu Dương Úc vừa mới bị bắt, bọn chúng liền vội vã vứt bỏ thái tử tìm đến Tấn vương, ngươi cảm thấy đây là ruồi mất đầu đâm loạn, hay là bọn chúng đang cố ý diễn kịch để lừa gạt tên ngốc Tấn vương kia?”
Du Kiều Đình tán thành: “Không sai, hắn chính là một tên ngu ngốc.”
Trước khi Phó Thâm mắng người, hắn nhanh chóng nói bổ sung: “Không riêng gì quân Đường Châu, quân Ninh Châu cũng trực tiếp phản rồi, hiện tại phòng tuyến hai nơi Đông Bắc, Tây Bắc đã thất thủ, chúng ta bị kẹp ở giữa. Ô La Hộ bộ có vẻ quyết tâm muốn dồn chết Bắc Yến quân, chỉ cần chúng ta không rút ra được, Khất Liệt bộ và Bột Hải quốc sẽ lập tức đánh đến kinh thành.”
Phó Thâm: “Phải. Thát tộc cũng có ý đồ này, bảy năm trước nhận bài học xương máu, không dám giao tranh chính diện với Bắc Yến thiết kỵ, nếu như chỉ dùng một nhóm người kéo dài thời gian với chúng ta, tránh đi Bắc Yến quân xuống tay với nơi khác, vậy thì dễ đánh hơn nhiều.”
Du Kiều Đình: “Bây giờ chúng ta bị bọn chúng liên thủ kìm kẹp, tạo thành cục diện bế tắc, nếu đánh một bên thì bên khác sẽ lập tức phản công.”
“Đều biết Bắc Yến quân là tường đồng vách sắt,” Phó Thâm lẩm bẩm, “Ban đầu ta trao trả binh quyền hai châu Cam, Ninh cho triều đình, hoàng thượng sợ bộ hạ cũ vẫn có liên hệ nên đã điều chuyển mấy vị tướng quân cũ đến chỗ ông ta. Mấy năm nay Bắc Yến vững chắc, nhưng nó là phòng tuyến biên cảnh dài nhất, đâu đâu cũng có sơ hở……”
“Là hoàng thượng muốn cô lập Bắc Yến trước, không nhờ ông ta, Thát tộc và Chá tộc cũng chẳng làm được trò này.”
Gieo gió gặt bão là gì? Chính là thế này đây.
Nguyên Thái đế lo lắng quân quyền Bắc Yến quá mạnh, lo lắng Phó gia phát triển, lo lắng trăm năm sau con cháu không ngồi vững được trên ngai vàng, vì vậy liền phá tanh bành Bắc Yến quân, khiến Phó Thâm trở thành kẻ nửa tàn phế.
Kết quả thì sao?
Quân Ninh Châu phản bội, man di ồ ạt xâm chiếm, ông ta bị chính con trai mình đạp xuống khỏi ngai vàng, thằng con ngu ngốc của ông ta còn dẫn sói vào nhà, mở cửa cho giặc, đặt kinh thành dưới móng vuốt sài lang.
Du Kiều than thở: “Đúng là tự hủy trường thành……”
“Khi từ Quỳ Châu trở về, ta nhìn thấy rất nhiều người dẫn theo gia đình trốn đến phía Nam.” Phó Thâm: “Tình hình kinh thành hiện nay thế nào?”
Du Kiều hạ thấp giọng, dè chừng thốt ra hai chữ: “Dời đô.”
“Ta cũng đoán là thế,” Phó Thâm nói, “Kinh thành cách Bắc Cương quá gần, đánh đến cửa nhà cũng chỉ mất dăm ba ngày. Chúng ta không thể phân thân, trong tay Tấn vương chỉ có một Nam Nha cấm quân, còn chưa đủ nhét kẽ răng người ta. Kinh thành không thủ được, sớm muộn cũng phải di chuyển.”
Du Kiều Đình: “Vậy chúng ta……?”
“Chúng ta chặn ở chỗ này, bọn họ còn có thể kéo dài thêm chốc lát,” Phó Thâm nói, “Để xem Tấn vương quyết đoán thế nào. Sớm chuẩn bị gom binh lực, phá vòng vây, trở ra ngoài.”
Du Kiều Đình còn tưởng y muốn huyết chiến đến cùng, kinh ngạc nói: “Tướng quân?”
“Tấn vương là cái thá gì chứ,” Phó Thâm hừ lạnh, “Bản hầu là người có gia thất, không phản đã là nể mặt hắn lắm rồi, còn đòi ta phải bán mạng sao? Cứ nằm mơ giữa ban ngày đi.”
Phó Thâm đã đánh giá cao vận may của Tôn Duẫn Thuần. Ngày mười tám tháng năm, quân địch đến Mật Vân, hợp binh với quân Đường Châu, kinh doanh vất vả lui thủ. Tấn vương điện hạ xui xẻo rốt cuộc chọc giận mọi người, bị tả thần võ vệ Vệ tướng quân Tào Phong Thầm vung kiếm giết chết, Bắc Nha cấm quân nhanh gọn quét sạch đảng Tấn vương, bêu đầu Tấn vương và gian tế Chá tộc trên đầu thành thị chúng.
Nguyên Thái đế đến thái miếu, bỏ mũ dập đầu, khóc cáo tông miếu, sau đó thăng triều, lệnh cho thái giám tuyên chỉ, dời đô đến Trường An. Giờ Ngọ hôm sau, cấm quân hộ tống Nguyên Thái đế ra khỏi Thanh Tiêu môn, trốn đến Thục Trung lánh nạn.
Ngày thứ hai, Phó Thâm ở Yến Châu nhận được thánh chỉ cuối cùng của Nguyên Thái đế do Phi Long vệ gửi đến, trên thánh chỉ chỉ có năm chữ —— “Đi hay ở tùy khanh”.
Ngày mười chín tháng năm, kinh thành đại loạn, quan lại lẫn dân chúng hốt hoảng chạy trốn, tắc nghẽn mấy con đường.
Ngày hai mươi tháng năm, kinh doanh tháo lui, ngoại địch vào triều.
Giang Nam, Lâm An.
Mấy ngày trước.
“Phụ hoàng đã truyền ngôi cho Tấn vương……” Tề vương giận đến phát run, đi lại mấy vòng ở trong phòng, hét lên: “Người đâu, chuẩn bị ngựa! Bản vương muốn lập tức hồi kinh!”
“Điện hạ hãy bớt giận,” Nghiêm Tiêu Hàn đứng ở bên cạnh tức khắc lên tiếng khuyên nhủ, “Xin ngài chớ vội, Tấn vương có thể giết chết thái tử, bắt hoàng thượng truyền ngôi cho hắn, vậy thì trong tay nhất định có tinh binh, bây giờ ngài trở về mà không có chuẩn bị thì chẳng khác nào tự chui đầu vào lưới, theo thần thấy, chi bằng cứ yên lặng xem biến, rồi hẵng tính toán sau.”
Tề vương chỉ là nhất thời máu nóng thượng đầu, bị Nghiêm Tiêu Hàn ngăn cản, hắn cũng dần tỉnh táo lại, bảo với người hầu: “Đi thăm dò tin tức ở kinh thành, trong cung có dị động gì thì lập tức cấp báo cho bản vương.”
Sau đó Nghiêm Tiêu Hàn không chỉ một lần nghĩ rằng, nếu như có thể quay ngược thời gian, hắn nhất định sẽ cho mình một cái bạt tai trước tiên, nuốt cái câu “Yên lặng xem biến” kia về. Tề vương sống hay chết thì liên quan quái gì đến hắn, cứ để đám hoàng tử tranh đấu nhau, ngai vàng ai thích thì đi mà ngồi, miễn là hắn có thể trở về kinh thành, trở về bên cạnh tướng quân nhà hắn.
Nghiêm Tiêu Hàn không ngờ được rằng, hắn yên lặng xem biến, cuối cùng thứ hắn chờ được lại là nước mất nhà tan, non sông tàn lụi, phân ly đằng đẵng.
|
Chương 62: Ngư nhạn[EXTRACT]Mùa hạ năm Nguyên Thái thứ hai mươi sáu, phản tặc đại phá kinh sư.
Nguyên Thái đế hốt hoảng chạy đến phía Tây, văn võ bá quan và nội quyến, cùng với một bộ phận bách tính kinh thành đi theo đoàn người của Nguyên Thái đế về phía Tây hướng đến đất Thục, một bộ phận khác thì dẫn người nhà đi về phía Nam trốn đến vùng Kinh Sở, Hoài Nam.
Bắc Yến thiết kỵ thu lại phòng tuyến, từ Tây tuyến đột phá vòng vây xông ra, trên đường thì đụng độ quân Ninh Châu. Bắc Yến quân bụng đầy lửa giận đánh bại phản quân Ninh Châu, Phó Thâm tự tay giương cung, bắn chết thủ lĩnh phản quân, hai tướng sĩ Bắc Yến nhân lúc trời tối trăng mờ, trèo lên đầu thành Ninh Châu, treo đầu kẻ kia trên cổng thành.
Một trận lập uy, Bắc Yến thiết kỵ vẫn hung tàn như xưa, những nơi đi qua, không kẻ nào dám đối đầu. Đầu tháng bảy, Bắc Yến quân và Cam Châu quân hợp lực tại Võ Uy, Phó Thâm vừa thu nạp tàn quân các nơi ở Tây Bắc, một lần nữa chỉnh đốn quân đội, vừa dùng Cam Châu làm cứ điểm, khai hoang đồn điền, nghỉ ngơi lấy sức, chờ đợi phản kích.
Phòng tuyến phương Bắc đã phá, ba tộc Thát, Chá, Bột Hải không bị ngăn cản, đánh thẳng một mạch đến phúc địa Trung Nguyên, một nửa giang sơn rơi vào tay ngoại địch, triều đình không còn tồn tại. Dưới thế cuộc ấy, tiết độ sứ Hoài Nam Nhạc Trường Phong tiên phong cử binh kháng địch, chặn quân Bột Hải từ sông Hoài tiến về phía Bắc, ngăn man di xuôi Nam. Theo sát sau đó, Tây Bình quận vương Đoàn Quy Hồng xưng “Tây Nam lấy tự vệ làm trọng”, chỉ tiếp nhận bách tính chạy nạn tới phương Bắc, không xuất binh cần vương. Có tiền lệ của hai vị này, tiết độ sứ các nơi cũng dồn dập làm theo, lấy đất Kỳ Sở làm ranh giới, tự thành một thể, mạnh ai nấy làm, ngoại trừ chống đỡ ngoại địch, đều ước định không quấy nhiễu lẫn nhau.
Thấy Đại Chu sắp chia năm xẻ bảy, vận nước khó giữ, mùa thu cùng năm đó, Tề vương Tôn Duẫn Đoan tự xưng đế ở Kim Lăng tự, tôn Nguyên Thái đế làm thái thượng hoàng, lấy quốc hiệu là Chu, đổi niên hiệu thành “Trường Trì”, định đô ở Kim Lăng, chiêu cáo thiên hạ.
Ngày đăng cơ, tiết độ sứ Giang Nam, tiết độ sứ Kinh Sở, tiết độ sứ Lĩnh Nam, tiết độ sứ Phúc Kiến và thủy sư Đông Hải đồng thời dâng biểu, ủng hộ lập tân đế, các quan viên cũ từ phương Bắc lưu vong đến và học sĩ có danh vọng ở Giang Nam cùng nhau tụ hợp, Trường Trì đế chưa bổ nhiệm tể tướng, mà phỏng theo lệ cũ thời Nguyên Thái, mở ra Duyên Anh điện, cùng trọng thần quyết định quốc sự.
Nghiêm Tiêu Hàn hộ tống Tề vương từ Kinh Sở đến Giang Nam, đầu tiên là ngăn cản không để Tề vương hồi kinh, sau đó lại hòa giải với tiết độ sứ các nơi, dốc lòng dốc sức lập nên triều mới, một tay nâng đỡ Tề vương đăng cơ xưng đế, luận công đủ để phong hầu bái tướng, nhưng hắn lấy lý do trước đây mình bị nhiều người chỉ trích, tình nguyện làm một công thần ở hậu trường. Song Trường Trì đế vẫn cho hắn làm thống lĩnh cấm quân, đặc biệt cho phép tham dự Duyên Anh điện nghị sự, xem là phụ tắc đắc lực, vô cùng nể trọng.
Nói là không trâu bắt chó đi cày cũng được, lành làm gáo vỡ làm muôi cũng được, Nghiêm Tiêu Hàn bị ép đến cực hạn, thể hiện tiềm lực vô tận, cuối cùng còn làm việc vĩ đại ngăn cản sóng dữ.
Các thần tử Giang Nam còn có thể chấp nhận được, những cựu thần từng ngoài sáng trong tối mắng Nghiêm Tiêu Hàn thì xem như mở rộng tầm mắt. Nghiêm Tiêu Hàn đứng vững ở hai triều mà không đổ, từ quyền thần gian nịnh lắc mình biến hóa, trở thành công thần lâm nguy không loạn, phò tá chủ mới. Tên chó săn này không chỉ giỏi tâm cơ thủ đoạn, mà vận khí cũng rất khá!
Bất luận người ngoài phỏng đoán thế nào, trải qua sóng gió lần này, hình tượng của Nghiêm Tiêu Hàn càng ngày càng gần với “Quyền thần tâm cơ sâu kín”. Ở quá khứ dù chân tình hay giả ý thì ít nhất gương mặt hắn còn thường mang nụ cười, dù giả vờ thì cũng phải giả như ôn hòa; bây giờ thì hoàn toàn trút bỏ hình tượng cũ, trở nên uy nghiêm lạnh lùng hơn, khí thế nội liễm, hỉ nộ khó lường, hơn nữa còn luôn ẩn chứa vẻ u ám như có như không, khiến người ta không dám tới gần.
Triều thần cũ vốn có hiềm khích với hắn, nhóm tân quý thì chưa quen hắn, bởi vậy, Nghiêm Tiêu Hàn lại như trở về Nguyên Thái triều, một lần nữa bị mọi người cô lập.
Nghiêm đại nhân được sủng tín vô cùng chẳng có chút cảm giác gì với lời xoi mói và những cái lườm nguýt của đồng liêu, dù sao hắn cũng quen rồi, lời đàm tiếu chỉ như gió thoảng bên tai mà thôi. Hắn hao tâm tổn trí trù tính vì Trường Trì đế, dốc hết sức lực thúc đẩy tân triều, vốn cũng không phải vì gây dựng thành tựu trong cái thời buổi loạn lạc này. Chỉ là thời cuộc như vậy, tình thế ép người, nếu như Trường Trì đế mãi không tìm được chốn lập thân, thì một hoàng tử lưu lạc bên ngoài, sau này hoặc là bị đem ra là hoàng đế bù nhìn, hoặc đơn giản bị giết chết. Mà đám tùy tùng chẳng có giá trị như hắn, đương nhiên càng không có kết quả tốt đẹp gì.
Nghiêm Tiêu Hàn không muốn bị kẻ khác quản chế, càng không muốn vứt mạng mình ở Giang Nam.
Mấy ngày nay ở Giang Nam, có lúc hắn tỉnh giấc giữa đêm, chăn đơn gối chiếc, mưa thu lạnh lất phất ngoài cửa sổ, tay hắn với tới chiếc giường nhỏ trống trải đặt bên cạnh, nhưng lại chẳng bắt được gì, lại còn nhận lấy một trận khí lạnh ùa vào. Mỗi lần như thế, hắn lại cảm thấy mình như thể tái phát cơn nghiện, lòng tràn ngập tư vị khó chịu khô thể nói ra, tựa như có một con sâu cứ gặm nhấn trái tim hắn từng chút từng chút cho đến khi cạn hết, chỉ dư lại một cái xác trống rỗng biết đi.
Mong mà không được còn đáng sợ hơn cả đau đớn đơn thuần, Nghiêm Tiêu Hàn nằm mộng cũng muốn mình mọc ra hai cánh, một đêm bay qua ngàn sông vạn núi.
Nhưng Phó Thâm ở nơi nào?
Hắn biết kinh thành đã phá, biết Nguyên Thái đế chạy về phía Tây, cũng biết Bắc Yến thiết kỵ thành công phá vòng vây, nhưng hắn không biết Phó Thâm rốt cuộc đi nơi nào —— Ở lại Tây Nam sao? Hay là trở về Bắc Yến, rồi lại theo Bắc Yến quân đến những nơi khác?
Chẳng có một câu một lời, từ sau khi từ biệt ở Kinh Sở, bọn họ hoàn toàn mất liên lạc.
Nghiêm Tiêu Hàn đã hỏi rất nhiều quan chức tướng từ đến từ bến Nam kinh thành, cũng từng nỗ lực hỏi thăm tin tức từ Tây Nam, thậm chỉ bỏ nhiều tiền phái người từ đất Thục đi đến phía Bắc, muốn tìm kiếm tung tích Phó Thâm, nhưng đến nay vẫn không có bất kỳ hồi âm nào.
Giữa bọn họ cách đại địa Trung Nguyên đang rơi vào tay ngoại địch, mà như cách cả một thế giới.
Lao tâm lao lực và nỗi lòng dồn nén khiến hắn mắc chứng mất ngủ, Nghiêm Tiêu Hàn thường tỉnh giấc lúc nửa đêm, tỉnh rồi cũng không ngủ tiếp được, cứ trợn mắt đến tận hừng đông, sau đó lại gắng gượng bò dậy để vào tảo triều. Cũng may hắn còn trẻ, cơ thể chịu được khổ sở, có lúc thực sự vất vả không chịu được nữa, liền tìm hộp kẹo để sẵn trên bàn, ăn mấy viên kẹo hoa quế.
Biện pháp này kỳ thực chẳng có tác dụng gì, ngay cả an ủi tâm lý cũng ngày càng ít, bởi vì bọc kẹo ban đầu đã ăn hết từ lâu rồi, kẹo mới mua mặc dù ngọt ngào tinh trí, hương quế nức mũi, nhưng mùi vị lại không giống ban đầu.
Ngày ấy ngoài cửa quán trọ, giữa dòng người vội vã, Phó Thâm lén đưa cho hắn một bọc kẹo hoa quế, từ đó tới nay, hắn chẳng thể tìm được thứ kẹo ngọt như thế nữa.
Ngoại thành Cam Châu.
Tây Bắc cuối thu quang đãng, trời cao vời vợi, dưới bầu trời xanh là đồng ruộng mênh mông bát ngát. Phó Thâm và Du Kiều Đình mỗi người bưng một bát canh thịt dê nóng hổi, ngồi xổm trên bờ ruộng nhìn mọi người thu hoạch lúa mì, chẳng giữ ý tẹo nào, nhìn từ đằng sau, trông rất giống hai tên chăn dê.
Du Kiều Đình lắp bắp: “Hầu gia, hai tướng quân to đùng như chúng ta, ngồi chồm hổm ở chỗ này có hơi khó coi nhỉ?”
Phó Thâm giễu cợt: “Nhập gia tùy tục, chỉ ngươi mới cần mặt mũi thôi.”
Du Kiều Đình: “Ngài thế này thật là tục quá…..”
Phó Thâm ngước mắt, liếc hắn một cái: “Canh thịt dê có ngon không?”
Du Kiều Đình: “Ngon.”
“Ngon mà còn không chặn nổi miệng ngươi à?” Phó Thâm nói, “Đừng có lải nhải nữa, phiền quá đi mất.”
Du Kiều Đình thoáng chốc hiểu ngay, hắn xấu xa cười hỏi: “Còn đang nhớ cái vị nhà ngài đấy à? Chẳng phải phía Nam mới có tin tức còn gì, tân đế đăng cơ, hắn là công thần, đang ở chốn Giang Nam yên bình làm thống lĩnh cấm quân, ngài có gì mà không yên lòng chứ?”
Phó Thâm thật muốn đạp cái tên Du Kiều Đình vô liêm sỉ cười trên nỗi đau của người khác này xuống bờ ruộng, nhưng bên cạnh y hiện tại không có ai khác để tâm sự chuyện tình yêu tình ái, cho nên đành phải bóp mũi nhẫn nhịn: “Một người phương Nam, một người phương Bắc, không biết đến bao giờ mới có thể gặp nhau, ngươi nghĩ ta có buồn hay không?”
Du Kiều Đình cười bảo: “Cái này cũng dễ thôi, đằng nào mùa xuân sang năm ngài cũng dự định xuất binh mà, đến lúc đó đánh thẳng đến Kim Lăng, không phải là gặp được sao?”
“Nói làm như chúng ta có thể đến được Kim Lăng ấy,” Phó Thâm uể oải nói, “Man di chiếm cứ khu vực Trung Nguyên từ sông Hoài đổ về phía Bắc, cách Kim Lăng mười vạn tám ngàn dặm, ngươi đánh thử cho ta xem nào.”
Du Kiều Đình thấp giọng nói: “Ta thấy tân hoàng dựng triều đình nhỏ ở Giang Nam cũng náo nhiệt lắm, chỉ sợ sau này chúng ta liều mạng ở phương Bắc, mà phương Nam thì chẳng gấp gáp chút nào đâu.”
Phó Thâm nghe xong lại càng rầu. Ở Võ Uy, y sắp xếp quân Cam Châu và tàn binh các nơi ở Tây Bắc vào Bắc Yến thiết kỵ, quân quyền nắm chắc, không hề thua kém Đại Chu triều ở Giang Nam. Nhưng Phó Thâm tuyệt đối không thể cầm binh tự lập, Bắc Yến quân cống hiến cho đất nước đã nhiều năm, cho nên xem chuyện khôi phục Trung Nguyên là lẽ đương nhiên.
Song bọn họ nghĩ như vậy, không có nghĩa là tiết độ sứ độc lập ở các nơi và triều đình Giang Nam cũng nghĩ như vậy.
Kinh sư được bảo vệ bởi ba tầng phòng tuyến Bắc Yến thiết kỵ, kinh doanh và cấm quân mà còn bị ngoại di đánh chạy tè ra quần, chỉ bằng lực lượng của Bắc Yến quân, phải cần đến bao nhiêu năm mới đoạt lại được Trung Nguyên từ tay ngoại tộc? Mà dù có đoạt lại được, thì Nam Bắc làm sao hợp hai lại làm một đây? Ai là chính thống? Lúc ấy Bắc Yến quân sẽ bị đặt ở vị trí nào?
Lo xa và buồn gần cứ chồng chất tầng tầng lớp lớp trong tim y, mà tim Phó Thâm thì có hạn, nhất thời bị đè cho không thở nổi. Y thở dài thườn thượt, ngẩng đầu nhìn trời, trùng hợp trên trời có một cặp chim nhạn sóng đôi bay qua.
Phó Thâm nheo mắt lại, áng chừng khoảng cách, nhét cái bát không vào tay Du Kiều Đình, đứng dậy lấy trường cung trên lưng xuống, lùi về sau mấy bước, rút tên căng dây, giương cung ngắm bắn.
Mũi tên bay vút lên trời cao, mấy giây sau không trung truyền đến tiếng gào thét, một con chim nhạn từ trên trời rớt thẳng xuống, rơi cách chỗ bọn họ không xa.
Không đợi Phó Thâm tự mình đi nhặt, người nông dân bên kia đã thay y mang chim nhạn tới. Con chim bị thương vẫn còn sống, một bên cánh bị tên cắm xuyên, không ngừng giãy dụa trong tay Phó Thâm. Du Kiều Đình ngó đầu nhìn, cất lời khen: “Không tệ, rất béo tốt.”
“Không phải để ngươi ăn đâu,” Phó Thâm một tay xách cung, một tay xách nhạn, quay người đi về, “Bảo Đỗ Lãnh đến chỗ ta một chuyến, mang thuốc trị thương theo.”
“Hả?” Du Kiêu Đình ngơ ngác, “Để làm gì?”
Phó Thâm không buồn quay đầu lại: “Bảo Đỗ Lãnh trị thương cho nó. Chẳng phải nó muốn bay về phương Nam sao? Tiện thể giúp ta một việc luôn.”
Du Kiều Đình: “Cái gì?”
“Từng nghe đến ngư nhạn truyền thư bao giờ chưa? Đáng tiếc bản hầu không có dung nhan trầm ngư lạc nhạn, đành phải động võ vậy.” Nói rồi, Phó Thâm suy tư một chút, cảm thấy mình muốn nhờ vả chim nhạn mà còn đả thương nó, thế này có hơi quá đáng, vì thế y bèn giơ con chim nhạn trong tay lên, thành khẩn nói với nó: “Nhạn huynh, xin lỗi nhé.”
(Ngư nhạn truyền thư: Người xưa viết thư cho nhau lên tơ lụa, gấp thành hình cá chép. Cũng có người buộc thư vào chim nhạn để nó gửi cho người ở xa. Cho nên từ “Ngư nhạn”, “Hồng nhạn” hay “Nhạn túc” được dùng để chỉ thư tín.)
Chim nhạn: “……”
Du Kiều Đình bị bỏ ở chỗ cũ, tay còn bưng hai cái bát: “……”
Tĩnh Ninh hầu bị tẩu hỏa nhập ma hả, cuối cùng cũng điên rồi sao?
Đông chí, Kim Lăng.
Hôm nay tan tầm hơi muộn, lúc chạng vạng Nghiêm Tiêu Hàn mới đi ra khỏi cung. Hôm nay là đông chí, sau khi nghị sự ở Duyên Anh điện, bệ hạ dựa theo phong tục kinh thành, đặc biệt bảo Ngự Thiện phòng làm canh thịt dê sủi cảo, ban thưởng cho chúng thần. Mấy lão thần từ phương Bắc nâng bát mà nước mắt tèm nhem, Trường Trì đế tức cảnh sinh tình, cũng không kìm được mà rơi mất giọt nước mắt. Quân thần bắt tay khóc lóc, bốn vị học sĩ xuất thân từ Giang Nam đứng bên cạnh làm bộ an ủi vài câu, đến tận khi Trường Trì đế thu nước mắt thì mọi người mới giải tán.
Nghiêm Tiêu Hàn như bị nước nóng dội bỏng phế phủ, bước đi trên con đường dài ẩm lạnh, cảm thấy đau vô cùng mà cũng lạnh vô cùng. Hắn không muốn hồi phủ, cứ đi lang thang không mục đích ở trên đường, lững thững đi một hồi lâu, chẳng biết sao lại đi đến khu chợ còn chưa tan, vai bỗng bị người nào va phải.
Một người chạy lướt qua bên cạnh hắn, hô lớn: “Cho ta xem! Cho ta xem với!”
Phía trước cách đó không xa có một nhóm người tụ tập, vây quanh một sạp hàng, không biết đang xem chuyện gì náo nhiệt. Nghiêm Tiêu Hàn thính tai, nghe được nam nhân to giọng nhất trong đám người đó nói: “……Ta săn được chim nhạn ở ngoài thành, không ngờ trên chân nó còn buộc một miếng lụa có chữ viết, đây có khi nào là ‘Ngư nhạn truyền thư’ mà người xưa hay nói không!”
Trong đầu như có sợi dây đàn bị gảy vang, lòng Nghiêm Tiêu Hàn xao động, bỗng sinh ra mấy phần hiếu kỳ, kìm lòng không đặng đi lên phía trước nhìn kỹ. Hắn cao lớn, đứng ở ngoài đám người vẫn nhìn thấy trên thớt đặt một con nhạn chết, trong tay nam tử cầm một miếng lụa được gập làm bốn, khoa khoang với mọi người: “Ai cũng biết nhạn Bắc bay về phương Nam, bây giờ tin tức Nam Bắc không thông, có lẽ là người ở phương Bắc cố ý dùng nó để truyền tin chăng?”
Có người ồn ào nói: “Trên đó viết cái gì? Mở ra cho mọi người xem đi!”
Nam tử kia nói: “Không được! Không được! Đây là vật hiếm…..”
“Con nhạn này bao nhiêu tiền?” Nghiêm Tiêu Hàn bỗng lên tiếng, “Tính cả miếng lụa này nữa, ta mua.”
Đám người xem náo nhiệt lập tức nhường đường cho hắn, nam tử kia thấy hắn mặc quần áo hoa quý, khí độ bất phàm, biết mình gặp được kẻ lắm tiền rồi nên bèn nói: “Năm lượng bạc!”
Nghiêm Tiêu Hàn lấy ra một túi tiền, nhìn cũng chẳng thèm nhìn, trực tiếp ném vào ngực nam tử nọ. Người kia áng chừng một chút liền biết giá trị không nhỏ, lập tức hớn hở mặt mày, luôn miệng nói tạ ơn, cung kính dùng hai tay dâng miếng lụa cho hắn. Nghiêm Tiêu Hàn nhận lấy, không mở ra xem mà bỏ vào trong tay áo. Đám người vây xem thấy hắn không định để lộ thì vô cùng tiếc nuối, đành ai về nhà nấy. Nghiêm Tiêu Hàn quay người rời khỏi sạp hàng, phía sau có người hầu xách con nhạn kia theo.
Đi thẳng một mạch đến chỗ không người, bàn tay nắm chặt miếng lụa mới buông lỏng ra, lòng bàn tay hắn toàn là mồ hôi lạnh. Nghiêm Tiêu Hàn một lần nữa nhắc nhở mình đừng ôm vọng tưởng, “Bắc nhạn” và “Bắc Yến” hài âm với nhau chỉ là trùng hợp thôi, hồng nhạn đưa thư chẳng qua là điển cố bị lạm dụng, nhất định hắn điên rồi nên mới xao động nhất thời, mua cái thứ không có ý nghĩa này. (“Nhạn” và “Yến” đều đọc là yàn.)
Nhưng hắn quá cần một vật xưa chốn cũ để gửi gắm tương tư, cho dù đó chỉ là một hình ảnh giả tạo.
Yên tĩnh một hồi lâu, nhịp tim của hắn dần chậm lại. Nghiêm Tiêu Hàn do dự mãi, dựa theo tâm thái đâm lao phải theo lao, hắn cắn răng nhắm mắt, cuối cùng run rẩy rút miếng lụa trắng ra khỏi tay áo, cẩn thận mở theo nếp gấp.
Từ Bắc đến Nam, con nhạn kia không biết đã bay bao lâu, lụa trắng buộc trên chân đã nhuốm bẩn, chữ bị thấm ướt, trên mặt lụa loang lổ vết mực đã khô.
Dù mơ hồ, nhưng hắn vẫn có thể nhận ra mấy chữ viết không hợp quy chỉnh này, bởi vì trên mặt lụa chỉ có sáu chữ ——
“Vợ ta có bình an không”.
|
Chương 63: Lãnh cung[EXTRACT]Hắn sống hơn hai mươi năm, đến bây giờ mới biết thì ra thế gian thật sự tồn tại một câu nói, vài con chữ, cũng đủ làm ruột gan người ta đứt thành từng khúc.
Nghiêm Tiêu Hàn hoảng hốt nghĩ: “Đây là viết cho mình sao?”
Hắn như một người chết sắp chết cóng giữa trời tuyết, khi gần kề tuyệt vọng, bỗng nhiên nhìn thấy chút ánh sáng le lói, bất kể là ảo giác hay ma trơi, đều như bắt được sợi tơ nhện cứu mạng cuối cùng.
Chữ viết đã loang lổ, không nhận ra được đặc điểm gì, nhưng Nghiêm Tiêu Hàn vẫn nhìn chằm chằm sáu chữ kia, ánh mắt sáng rực như thể muốn đốt ra lỗ trên miếng lụa trắng ấy. Nếu như Phó Thâm ở đây, có lẽ sẽ nhận ra được, trạng thái bất thường của hắn giống hệt triệu chứng nghiện thuốc hồi ở thành Quảng Phong.
Cơn nghiện thuốc mà Thu Dạ Bạch mang đến đã cai được từ lâu, nhưng cơn nghiện từ trong tim mà Phó Thâm dưỡng ra lại ngày một nặng thêm.
Gió lạnh thấu xương, dần dần, nỗi lòng sôi trào bị gió rét thổi lặng, Nghiêm Tiêu Hàn thở một hơi thật dài, bả vai căng cứng thả lòng, cơ thể bỗng nhiên lảo đảo, thiếu chút nữa nhũn chân té xuống đất. Hắn vội vịn tường đứng vững, bấy giờ mới kinh ngạc phát hiện tiết trời giá lạnh, mà mình lại đổ mồ hôi ướt đẫm lưng.
Hắn cẩn thận gập miếng lụa trắng kia lại rồi cất đi, như thể lấy được một chút ấm áp và sức mạnh từ trong đó, chậm rãi đi về phía dinh thự của mình.
Chỉ chớp mắt, đã đến năm mới.
Vì năm ngoái chiến loạn nổi lên khắp nơi, thời cuộc rối ren, đất nước nguy nan, cho nên năm nay tất cả nghi thức chúc mừng trong cung đều giản lược. Trường Trì đế tế trời cầu chúc, hạ chỉ miễn giảm thuế lương thực năm đó của Giang Nam, đại xá cho thiên hạ. Mùng sáu tháng giêng, chiêu nghi Tiết thị có thai, đây là đứa trẻ đầu tiên trong cung nghênh đón trong tân triều tân niên, là một điềm báo may mắn, Trường Trì đế vô cùng mừng rỡ, phong Tiết thị làm Thục phi, hậu thưởng cho phụ huynh và người nhà.
Nghiêm Tiêu Hàn nghe được tin này thì trong lòng rất không thoải mái, bèn bí mật gọi thái giám hầu hạ bên cạnh hoàng hậu tới để hỏi. Hiện tại trên danh nghĩa hắn là thống lĩnh cấm quân, thực tế vì hoàng đế không có ai khác dùng được, nội thị thiếu đại hoạn quan tọa trấn, ngoại sự vẫn phải nghe theo lệnh của Nghiêm Tiêu Hàn. Hắn chẳng khác nào đại quản gia cho hậu viện của hoàng đế, vừa phải quản lý gia đinh, vừa phải quản lý tì nữ, hắn hết sức bất đắc dĩ, nhưng chẳng thể làm gì được.
Lúc kinh thành bị phá, Tề vương phi Phó Lăng mang theo đứa con vẫn còn quấn tã, hữu kinh vô hiểm chạy trốn tới Giang Nam dưới sự bảo vệ của gia đinh vương phủ và phủ Dĩnh quốc công. Khi Trường Trì đế vừa đăng cơ, Phó Lăng liền được sắc phong làm hoàng hậu hậu cung. Tình cảm của hai vợ chồng vốn rất tốt, nhưng tân triều mới lập, để lôi kéo sĩ tộc Giang Nam, Trường Trì đế nạp thêm mấy nữ nhi thế gia làm phi tần, hậu cung vốn vắng vẻ nhanh chóng biến thành chiến trường nảy lửa. Tính tình hoàng hậu ngoài mềm trong cứng, không giỏi tranh đấu, bị lạnh nhạt mấy lần, đế hậu cũng dần xa cách.
Mới đầu Nghiêm Tiêu Hàn còn không chú ý tới chuyện tranh đấu chốn hậu cung, nhưng cuối năm ngoái, Cao Dương công chúa do hoàng hậu sinh ra bỗng nhiên phát sốt nổi đậu mùa, bệnh tình nguy kịch, suýt nữa không qua khỏi, hoàng hậu cũng vì thế mà lâm bệnh nặng một hồi. Sau khi biết tin, Nghiêm Tiêu Hàn liền cho người âm thầm điều tra nghe ngóng, bắt được một cung nữ trong cung của hoàng hậu lén lút truyền tin cho phi tần khác. Sau khi tra hỏi, cung nữ kia thú nhận mình từng dùng khăn từ ngoài cung để lau tay cho công chúa, lời khai trình lên ngự lãm, Trường Trì đế nổi cơn thịnh nộ, cuối cùng lại phạt nhẹ, chỉ đày phi tần kia vào lãnh cung cho xong chuyện.
Từ dạo ấy, Nghiêm Tiêu Hàn mới biết hoàng hậu ở trong cung trải qua cuộc sống như thế nào. Dĩnh quốc công Phó Đình Nghĩa mặc dù cũng trốn đến Giang Nam, nhưng ông ta luôn không dính khói lửa nhân gian, chỉ tính là một kẻ “có còn hơn không”, Phó Lăng không có nhà ngoại đủ cường thế làm hậu thuận, hơn nữa lại là chủ của hậu cung, đương nhiên trở thành đối tượng cho biết bao phi tần tranh nhau khiêu khích.
Không lâu sau, phi tần nọ bỗng dưng treo cổ tự vẫn trong lãnh cung. Sau lần đó, mỗi tháng Nghiêm Tiêu Hàn đều dành chút thời gian để hỏi thăm tình hình của hoàng hậu. Hắn chẳng hề cố gắng né tránh, thậm chí không ngại người khác hỏi, hắn và Phó Thâm là người một nhà danh chính ngôn thuận, cho muội muội của Phó Thâm một chỗ dựa cũng là chuyện đương nhiên.
Khỏi cần nói nhiều, chỉ nhờ một hành động ấy thôi, tháng ngày của Phó Lăng ở trong hậu cung liền lập tức dễ chịu hơn nhiều.
Phụ thân của Tiết thị là một trong bốn học sĩ Giang Nam tham dự Duyên Anh điện nghị sự, nàng cũng là người được sủng ái nhất trong hậu cung. Hậu cung vẫn chưa có trưởng tử, bây giờ Tiết thị đang có thai, nếu là con gái thì tốt, ngộ nhỡ sinh ra trưởng tử thì tuyệt đối không phải tin tốt đối với những cựu thần của Nguyên Thái triều. Nghiêm Tiêu Hàn đã hỏi thái giám, nghe nói hoàng hậu chỉ buồn bã chứ không có ý nghĩ gì khác, hắn cũng thay nàng phòng họa, căn dặn đám hạ nhân phải cẩn thận hơn, chớ để kẻ xấu hãm hại.
Nhưng sự đời khó liệu, vào tiết hoa triêu mười hai tháng hai, trong cung đột nhiên xảy ra chuyện, nghe nói Tiết Thục phi bị xô ngã trong vườn hoa, bất hạnh sẩy thai, đứa bé không giữ được.
Người đụng phải Tiết Thục phi là cung nữ quét tước trong cung hoàng hậu, khi bị thẩm vấn thì không chịu hé răng một lời, chỉ quỳ mọp xuống đất hành đại lễ với hoàng hậu rồi đâm đầu vào cột tự sát.
Lần này hoàng hậu dù có trăm cái miệng cũng không bào chữa nổi, có lý cũng chẳng thể nói. Trường Trì đế nổi giận, song dù gì cũng còn tình cảm phu thê nên không phạt nặng mà chỉ hạ lệnh cấm túc hoàng hậu một tháng, bế cung kiểm điểm, sự vụ hậu cung tạm thời do Tịnh phi quản lý.
Tịnh phi là một con rối, gia thế không hiển hách, từ lâu đã nương nhờ vào Thục phi.
Trường Trì đế không hẳn không biết hoàng hậu có thể là bị hãm hại, nhưng hắn không cần chân tướng. Đứng đằng sau Tiết thị chính là sĩ tộc Giang Nam, nửa bầu trời của tân triều, Trường Trì đế còn trông cậy những người này ra sức vì hắn, mà Phó gia đứng sau hoàng hậu thì lại là một cái xác rỗng. So sánh hai bên, bên nào nặng bên nào nhẹ, vừa nhìn là biết ngay. Vì đại cục, hắn chỉ có thể lựa chọn hi sinh hoàng hậu.
Nhưng hắn quên mất rằng, trong triều còn có một “người nhà họ Phó” không mang họ Phó.
Mười bốn tháng hai, ngày thứ hai hoàng hậu bị cấm túc, Tiết thục phi đang dưỡng bệnh thì bị người lôi từ tẩm cung vào lãnh cung. Khu viện này cũ nát, ít ai lui tới, nàng bị người dùng khăn chặn miệng, tóc tai tán loạn, ú ớ giãy dụa, bị hai thái giám cường tráng ném vào một căn phòng trống.
Đây là chỗ ở của phi tần đã hãm hại công chúa, cô ta chết rồi, cung nữ thái giám sợ nơi này xúi quẩy nên không dám tự tiện đi vào. Mấy tháng không người quét dọn, mạng nhện phủ dày, đình viện mọc rêu, Tiết Thục phi bị ném xuống nền đất bẩn thỉu lạnh lẽo, gương mặt xinh đẹp dính một tầng bùn bẩn, trông vô cùng chật vật.
Nàng là thiên kim tiểu thư được nuông chiều, chưa từng chịu khổ sở thế này, hiện tại vừa kinh vừa sợ, không thể cầu cứu, nước mắt lập tức tuôn rơi.
Trong tầm mắt mơ hồ, bên ngoài dường như có người cản ánh sáng, tiếng bước chân nhẹ mà vững tiến từ xa tới gần, lát sau, một đôi giày đen dừng lại ở trước mắt nàng, bên trên truyền đến giọng nam trẻ tuổi trầm thấp: “Chính là ả ta?”
Thái giám bắt người mang khuôn mặt dữ tợn, song lại đặc biệt cung kính với người này: “Bẩm đại nhân, đúng là Tiết thị.”
Người kia khẽ đáp “Ừm”, lướt qua nàng đi về phía trước. Trên sảnh đã có sẵn một cái bàn lau khô cho hắn, góc áo đỏ sẫm vén lên, hắn kéo một chiếc ghế thái sư ra, ngồi xuống trước mặt Tiết thị, sai khiến hạ nhân: “Đỡ ả ta lên, lấy vải trong miệng ra.”
Chiếc khăn trong miệng Tiết thị được lấy ra, nàng vừa khóc vừa thở dốc, cố nhịn đau bò dậy, đến khi nhìn rõ người đang ngồi ngay ngắn phía trước, nàng lại bất giác ngẩn ra.
Số lượng nam nhân nàng từng gặp tuy có hạn, nhưng ai nấy đều trẻ tuổi phong lưu, tướng mạo không tầm thường, mà người này là người tuấn mỹ nhất mà nàng gặp từ nhỏ đến giờ.
Gương mặt hắn trầm tĩnh, khi không cười cũng có một cảm giác dịu dàng chân thành, thấy Tiết thị nhìn mình đến xuất thần, khóe mắt hắn hơi cong lên, hỏi: “Ngươi có biết ta là ai không?”
Tiết thị bừng tỉnh, cảm thấy kinh sợ, vội vàng cúi đầu, ngập ngừng nói: “Không….. Không biết.”
“Bản quan họ Nghiêm, phụng mệnh thống lĩnh cấm quân, có chút giao tình với Tiết thượng thư cha ngươi.”
Ba chữ “Nghiêm” và “Cấm quân” này như một chậu nước đá giội thẳng xuống đầu, lòng Tiết thị tức khắc lạnh ngắt, trong đầu chỉ còn dư lại hai chữ: Xong rồi.
Từ sau lần công chúa gặp chuyện, suýt nữa bỏ mạng, phi tần hậu cung đều có phần thu mình lại, kính nể hoàng hậu hơn —— không phải tôn kính hoàng hậu, mà là e sợ chỗ dựa sau lưng nàng, cái người đã giết phi tần ám hại công chúa.
Cận thần đắc lực của thiên tử, thống lĩnh cấm quân, một trong những điện thần tham dự Duyên Anh điện, Nghiêm Tiêu Hàn.
Thời Nguyên Thái triều, Phi Long vệ hoành hành không cố kỵ, quyền khuynh triều chính, khiến người ta nghe mà biến sắc. Người này chính là thống lĩnh Phi Long vệ, nghe nói hành sự khó lường, thủ đoạn tàn nhẫn, chẳng biết đã hãm hại bao nhiêu trung lương, nhưng vẫn mãi sừng sững không đổ, thậm chí ở tân triều vẫn được Trường Trì đế trọng dụng.
Ngỡ ngàng qua đi, chỉ còn lại sợ hãi, Tiết thị hoảng hốt trốn về phía sau, run rẩy nói: “Ngươi định làm gì?”
“Thục phi nương nương,” Hắn ung dung hỏi ngược lại, “Bản quan đến vì chuyện gì, chẳng phải trong lòng ngươi đã biết rồi sao?”
“Ta không biết!” Tiết thị cố gắng trấn định, mạnh miệng nói, “Ngoại thần lén lút xông vào cấm cung là tử tội, ngươi dám động thủ với ta, không sợ hoàng thượng truy cứu sao?”
Nghiêm Tiêu Hàn nói: “Bản quan phụng mệnh hộ vệ cấm cung, đương nhiên không thể ngồi yên xem ả đàn bà tâm địa rắn rết như ngươi khi quân phạm thượng, đây là việc nằm trong phận sự, nằm trong chức trách. Trông dáng vẻ nương nương thì hẳn là từng nghe nói về bản quan, nếu đã biết ta là ai thì hẳn phải rõ rằng, đừng nói là ngươi, mà cho dù cha ngươi có ở đây thì bản quan cũng dám bắt.”
Tiết thị run giọng nói: “Ngươi…… Ta là phi tử của hoàng thượng, không tới phiên ngươi xử lý…… Ta muốn gặp hoàng thượng!”
Nghiêm Tiêu Hàn như thể nghe được chuyện cười gì vậy, hắn chế giễu: “Ta gọi ngươi một tiếng nương nương mà ngươi thật sự nghĩ mình là nương nương đấy à?”
Hắn tuy cười như trong mắt lại lấp lóe sát ý, lạnh lùng nói: “Hãm hại hoàng hậu, mưu hại hoàng tự, ngươi tưởng hôm nay ngươi có thể sống sót ra khỏi cánh cửa này được hay sao?”
“Ngươi là người của hoàng hậu, tại sao ngươi lại giúp ả ta?” Tiết thị rốt cuộc bị hắn dọa tới bật khóc, kêu gào lộn xộn, “Ả ta cho ngươi cái gì, ta đều có thể cho ngươi! Ngươi ——“
“Bởi vì nàng ta mang họ Phó.” Nghiêm Tiêu Hàn nhẹ nhàng cắt lời nàng, “Ngươi vu oan hoàng hậu vào tiết hoa triêu, phạm vào kiêng kỵ của ta, phải chết.”
Tiết hoa triêu? Liên quan gì đến tiết hoa triêu?
Tiết thị ngơ ngác, trong số những thái giám khoanh tay đứng hầu bên cạnh, có một người xuất thân từ phương Bắc, nghe đến “Tiết hoa triêu” liền lập tức hiểu ra: Ôi, đó chẳng phải là ngày mà năm ngoái vị đại nhân này và Tĩnh Ninh hầu thành hôn hay sao?
Phó hầu gia hiện tại không rõ tung tích, hoàng hậu là em gái ruột duy nhất của ngài ấy, chẳng trách Nghiêm đại nhân lại tức giận đến thế, Tiết thị cũng đúng là xui xẻo, lại chọc đến hắn.
Từ lúc đến Giang Nam, Nghiêm Tiêu Hàn ít khi tiễn người ta đến Tây Thiên, nhưng mỗi lần tình cờ ra tay thì lại ngày càng độc ác bất thường. Kiểu phát tiết này kỳ thực cũng chẳng có tác dụng gì, chỉ là bị đâm vào vảy ngược, hắn đau thì kẻ phạm tội cũng đừng hòng dễ chịu.
Thái giám nâng một dải lụa trắng trong tay, tiến lên, nhỏ giọng nói: “Nương nương, mời.”
Tiết thị nhìn Nghiêm Tiêu Hàn với vẻ không dám tin, nhìn đến sắp rách cả mí mắt mà người kia lại chẳng buồn ngó đến nàng, mà nhìn nhằm nhằm vào một khóm hoa trắng ngoài cửa sổ, không biết đang suy nghĩ điều gì.
Thấy nàng chậm chạp bất động, thái giám nói: “Nếu ngươi nương nhất quyết không chịu tự mình động thủ thì nô tài đành tiễn người lên đường vậy.”
Nghiêm Tiêu Hàn bấy giờ mới xoay đầu lại, khẽ nói: “Ta nghe nói ngươi xuất thân danh giá, thưở nhỏ đọc đủ thứ thi thư, hơn nữa còn giỏi ca múa, từng có thầy tướng phán rằng ngươi mệnh cách cao quý, nhất định sẽ có một tấm chồng tốt.” Nói đến đây, hắn không khỏi cười lạnh: “Khắp thành Kim Lăng đều đồn đãi như vậy, chắc là nương nương cũng tin, còn tưởng mình là một Vệ Tử Phu tiếp theo ấy nhỉ.”
(Vệ Tử Phu là hoàng hậu tại vị lâu nhất của triều Hán, được Hán Vũ đế sủng ái hết mực nhưng cuối đời bị hãm hại mà chết.)
“Dải lụa trắng này đã là nể mặt ngươi rồi,” Nghiêm Tiêu Hàn chống tay ghế đứng lên, từ trên cao nhìn xuống nàng, điềm nhiên nói, “Nương nương tốt nhất nên tự giác một chút đi, nếu còn không biết tốt xấu nữa thì bản quan sẽ biến ngươi thành một Thích phu nhân tiếp theo đấy.”
Tiết thị như bị rắn độc nhìn chằm chằm, sởn cả gai ốc. Nàng biết chút thi văn, từng đọc sách sử, lập tức hiểu được lời uy hiếp của Nghiêm Tiêu Hàn, cũng biết hôm nay mình hết đường trốn thoát, chắc chắn sẽ phải chết.
Sủng cơ của Hán Cao Tổ là Thích phu nhân, sinh được con trai là Lưu Như Ý, nhờ vào thánh sủng mà mấy phen suýt thay thế được thái tử Lưu Doanh. Cao Tổ băng hà, Lưu Như Ý bị Lữ hậu triệu vào cung giết chết, còn mẹ là Thích phu nhân thì bị chặt tay chân, móc mắt, cắt tai, chuốc thuốc câm, bắt ở trong nhà xí, đặt tên là “Nhân trệ”.
Giữa Thục phi và hoàng hậu, không đơn thuần là tranh đấu hậu cung mà còn tranh đoạt ngôi vị thái tử tương lai, là cuộc chiến âm thầm giữa cựu thần phương Bắc và tân quý Giang Nam.
Nghiêm Tiêu Hàn phất tay áo bỏ đi.
Năm Trường Trì thứ nhất, mười bốn tháng hai, Tiết Thục phi hậu sản phát điên, thần trí hỗn loạn, treo cổ tự vẫn trong lãnh cung.
Đêm hôm ấy, sao băng rơi như tuyết, Trường Thu cung vội vàng gọi thái y đến bắt mạch, chẩn thấy hoàng hậu Phó thị có thai, trên dưới triều đình, ai cũng cho là điềm lành.
Editor: Vừa cày xong một ít Stranger From Hell thì ko buồn ngủ, cũng chẳng muốn học hành gì, tự dưng nổi hứng dậy edit:))
|
Chương 64: Gặp lại[EXTRACT]Nghiêm Tiêu Hàn vừa xử lý Tiết thị xong thì Trường Trì đế liền nhận được tin tức, nổi trận lôi đình, sai người gọi hắn tiến cung, định phạt nặng một phen.
Hắn là một ngoại thần, thế mà dám giết sủng phi của hoàng đế ở ngay dưới mắt hoàng đế, phụ thân của sủng phi này còn là đồng liêu làm quan cùng triều với hắn. Bất kể nhìn từ phương diện nào, Nghiêm Tiêu Hàn lúc này đã hoàn toàn vượt quá giới hạn, ấy vậy nhưng hắn lại chẳng mảy may sợ hãi, mà còn bình tĩnh tiến cung, miệng nói “Bệ hạ vạn tuế”, nghiêm chỉnh hành lễ với Trường Trì đế.
Trường Trì đế đang giận dữ nên không cho ngồi ngay như bình thường mà cố ý mặc kệ hắn quỳ trên điện, lạnh lùng nói: “Nghiêm Tiêu Hàn, ngoại thần tự tiện đi vào hậu cung, bức tử hậu phi, ngươi thật to gan!”
Nghiêm Tiêu Hàn quỳ ngay ngắn: “Thần có tội, xin bệ hạ hãy tước bỏ chức thống lĩnh cấm quân của thần, giáng làm thứ dân.”
“Ngươi!” Tim Trường Trì đế nảy thình thịch, hắn vốn định răn dạy Nghiêm Tiêu Hàn một trận, khiến hắn đừng có không đặt vua vào trong mắt, trắng trợn không kiêng dè như vậy nữa, sau đó nhẹ nhàng cho việc này lắng xuống, giơ cao đánh khẽ, giống như cách xử sự xưa nay của hắn. Nhưng không ngờ Nghiêm Tiêu Hàn lại quyết liệt đến thế, vừa tới đã đòi quẳng gánh về nhà.
Mặc dù có khuyết điểm như vậy, nhưng Nghiêm Tiêu Hàn lại là người cật lực ra sức vì Trường Trì đế vào lúc hắn chán nản nhất, một tay nâng đỡ hắn lên ngai vàng. Tân triều mới lập, sự tận hiến của tiết độ sứ các nơi cũng là do Nghiêm Tiêu Hàn kêu gọi được, trên danh nghĩa hắn chỉ là thống lĩnh cấm quân, nhưng thực tế “đại thần thứ chín” trên Duyên Anh điện mới là vị trí thực sự của hắn. Nghiêm Tiêu Hàn không dựa dẫm hai bên, thay hoàng đế khống chế sự cân bằng giữa cựu thần phương Bắc và tân quý Giang Nam, giúp triều đình tiếp tục yên ổn vận hành. Bây giờ hắn muốn từ chức về nhà, Trường Trì đế là người đầu tiên không đồng ý.
Sau một hồi giận dữ, Trường Trì đế nặng nề thở dài, bất đắc dĩ nói: “Nghiêm khanh, ngươi…… Thôi, chuyện từ chức đừng nhắc lại nữa. Ngồi đi.”
Nghiêm Tiêu Hàn ngoài mặt không lộ vẻ gì, trong lòng lại thầm cười lạnh.
Con chẳng giống cha.
Nguyên Thái đế quá cường thế, ép cho mấy đứa con trai hoặc là phản nghịch, hoặc là mềm yếu. Thái tử đầu cơ trục lợi, tên ngốc Tấn vương kia thì khỏi cần nói, Trường Trí đế miệng cọp gan thỏ, nhìn có vẻ khôn khéo nhưng kỳ thực lại nhu nhược, không có chủ kiến, dễ bị xao động bởi lời bên tai, còn dễ có mới nới cũ.
Kẻ như thế chính là điển hình của “bần tiện năng di, phú quý năng dâm, uy vũ năng khuất”, ngày trước bên cạnh có phụ thân và huynh trưởng cường thế, hắn có thể yên tĩnh đóng vai một vương gia an phận thủ thường, nhưng khi cần hắn một mình gồng gánh thì cột sống của hoàng đế bệ hạ lập tức nhũn liền.
(Mạnh Tử định nghĩa bậc đại trượng phu là người “bần tiện bất năng di, phú quý bất năng dâm, uy vũ bất năng khuất”, tức là nghèo hèn mà không đổi lòng, giàu sang mà không dâm loạn, uy vũ mà không khuất phục. Ở đây thì ngược lại:)))
Hoàng đế có tính cách như vậy, trên triều đình chủ yếu thần cường là khuynh hướng tất nhiên. Cho nên dù Tiết thị đang được sủng ái, Nghiêm Tiêu Hàn vẫn dám đưa cho ả một dải lụa trắng. Từ trước khi động thủ hắn đã sớm dự liệu được kết quả rồi: Nếu Trường Trì đế có thể vì Tiết thị mà khiến hoàng hậu chịu oan ức, thì đương nhiên cũng có thể vì níu giữ trọng thần như Nghiêm Tiêu Hàn mà nhẹ nhàng bỏ qua cái chết của Tiết thị.
“Trẫm biết hoàng hậu chịu oan ức,” Trường Trì đế thở dài thở ngắn, lo lắng khôn cùng, “Nhưng trẫm cũng đâu có làm gì nàng, chỉ cấm túc mà thôi, sau này sẽ an ủi bù đắp. Ngươi thì lại trực tiếp khiến Tiết thị tự sát, tương lai Tiết ái khanh hỏi tới thì ngươi muốn trẫm phải trả lời thế nào đây?”
Kẻ tình nguyện vì phu nhân mà ủy khuất bản thân như Nghiêm đại nhân hoàn toàn không thể hiểu nổi cái kiểu suy nghĩ của hoàng thượng. “Cấm túc” nói dễ nghe thật đấy, hắn vì sủng phi mà khiến hoàng hậu mất hết tôn nghiêm, thế mà còn bảo “Đâu có làm gì nàng”? Nếu con của Tiết thị thật sự là hoàng hậu giết thì hắn sẽ làm thế nào?
Nghiêm Tiêu Hàn ngồi trên ghế, im lặng đọc thầm mấy câu tâm kinh, ổn định tâm hỏa, cố gắng nói một cách ôn hòa: “Bệ hạ, ngài là bậc cửu ngũ, nắm quyền sinh sát, không cần phải giải thích với bất cứ kẻ nào.”
Trường Trì đế im lặng một chốc, do dự nói: “Thế nhưng Tiết Thăng…..”
“Bệ hạ, Tiết đại nhân vì sao đưa con gái vào cung, vì sao lại ngấm ngầm sai người tung hô Tiết thị mệnh cách cao quý, ngài còn không nhận ra ý đồ của ông ta sao?” Nghiêm Tiêu Hàn trầm giọng nói: “Đúng là ngài coi trọng thế gia Giang Nam, nhưng Tiết thượng thư lại muốn biến triều đình thành triều đình Giang Nam. Bệ hạ đừng chỉ nhìn trước mắt, Đại Chu sở hữu non sông tứ phương chứ không phải chỉ có một mình Giang Nam. Tương lai ngài còn phải khôi phục Trung Nguyên, lấy lại kinh sư, mới không phụ sự kỳ vọng tha thiết của muôn dân thiên hạ, không thẹn với tổ tiên xã tắc.”
Trường Trì đế quả nhiên lộ vẻ dao động, bấy giờ hắn đã quên mất chuyện Nghiêm Tiêu Hàn mạo phạm đi quá giới hạn, tâm tư hoàn toàn bị Nghiêm Tiêu Hàn dẫn dắt: “Sao trẫm lại không muốn Bắc phạt cơ chứ, chỉ là tân triều chưa đứng vững, binh mã lương thảo tiền bạc, hoàn toàn chẳng có gì cả, lấy cái gì mà Bắc phạt đây?”
“Đây không phải vấn đề lớn, lúc trước mấy vị tiết độ sứ đều đã cam kết, nếu triều đình muốn giành lại Trung Nguyên, bọn họ đương nhiên xuất binh hiệp trợ,” Nghiêm Tiêu Hàn nói, “Tuy nhiên nếu triều đình muốn xây dựng một đội quân mạnh thì không thể chỉ dựa vào tiết độ sứ được, mà còn….”
“Mà còn cái gì?” Trường Trì đế hỏi.
Nghiêm Tiêu Hàn chần chừ một chốc rồi mới thấp giọng nói: “Bệ hạ, tiết độ sứ cầm binh chẳng khác mấy những phiên vương đóng giữ một phương. Nếu như sau này thật sự giành lại được Trung Nguyên, triều đình cũng cần có đầy đủ binh mã để tạo uy hiếp với các tiết độ sứ.”
Hắn ngừng câu chuyện, bất giác nhớ tới Bắc Yến thiết kỵ, và cả thống soái của bọn họ nữa.
Trường Trì đế rất tán thành, gật đầu nói: “Nói có lý, việc này không nên chậm trễ, trong lòng ngươi đã có trù tính chưa? Hôm sau trình tấu lên cho ta.”
Nghiêm Tiêu Hàn đứng dậy phục mệnh. Trường Trì đế biểu hiện đúng như hắn dự đoán: “Nếu trong tay trẫm có một đội quân mạnh như Bắc Yến thiết kỵ thì lo gì không giành được Trung Nguyên! Đáng tiếc Tĩnh Ninh hầu……”
Hắc lắc lắc đầu, tiếc nuối ngưng lời.
Từ lúc tiến cung đến giờ lòng Nghiêm Tiêu Hàn vẫn luôn thấy mỉa mai thay, lúc này rốt cuộc không nhịn được nữa, nhẹ nhàng xen vào một câu: “Nếu Tĩnh Ninh hầu ở đây, thì dù lá gan của Tiết thị có to đến mấy đi nữa cũng không dám khiêu khích hoàng hậu.”
Trường Trì đế tỏ vẻ ngượng ngùng, buồn bực nói: “Được rồi, trẫm không ngờ tình cảm của Nghiêm khanh và Tĩnh Ninh hầu lại tốt đến vậy, đáng để ngươi năm lần bảy lượt nói giúp hoàng hậu.”
Nghiêm Tiêu Hàn suy tư chốc lát, cảm thấy hắn và Phó Thâm cũng không thể cứ giả vờ bất hòa mãi được, hai người sớm muộn gì cũng sẽ quang minh chính đại sánh bước bên nhau, bây giờ thành thật với Trường Trì đế dù sao cũng tốt hơn sau này mắc cái tội danh “khi quân”.
Hắn chắp tay nói: “Bệ hạ cho phép thần bẩm báo. Thần được thái thượng hoàng ban hôn, bên trong đó còn có ẩn tình khác.”
Trường Trì đế quả nhiên bị khơi dậy lòng hiếu kỳ: “Nói nghe xem.”
Nghiêm Tiêu Hàn đổ tội cho thái tử quá cố, mỹ hóa một chút nguyên nhân Nguyên Thái đế ban hôn, nói hai năm rõ mười. Trường Trì đế nghe rất nhập tâm, kinh ngạc nói: “Phụ hoàng thế mà lại….. Nói như vậy là ngươi và Tĩnh Ninh hầu cũng không có tình cảm phu thê thật, mà chỉ là vì binh quyền Bắc Yến nên mới luôn chăm sóc y?”
Nghiêm Tiêu Hàn ngầm ám chỉ: “Bệ hạ, thương tích ở chân của Tĩnh Ninh hầu cả đời cũng khó khỏi được, không thể dẫn binh mãi, vậy mà Bắc Yến thiết kỵ vẫn luôn nằm trong sự khống chế của y. Y chỉ có mình hoàng hậu nương nương là em gái ruột, nếu ngài đối xử tử tế với hoàng hậu, không dùng thủ đoạn gì nữa thì Bắc Yến thiết kỵ đương nhiên là một trợ lực lớn cho triều đình.”
Trường Trì đế vẫn truy hỏi: “Ngươi và Phó Thâm rốt cuộc là sao?”
“…..” Nghiêm Tiêu Hàn không ngờ hoàng thượng chính sự thì không màng, mà chuyện gia đình nhà hắn thì lại cực kỳ để ý, đành phải nói: “Bệ hạ, thần là đoạn tụ bẩm sinh, đời này không có con cái được. Tĩnh Ninh hầu trẻ tuổi oai vũ, thần muốn binh quyền trong tay y, tiện thể làm phu thê cùng y, hai điều này không xung đột với nhau.”
Tuy yêu đấy, nhưng tình yêu có hạn, quyền thế so với tình yêu còn nặng hơn, song nếu trừ bỏ điểm ấy thì về tổng thế vẫn là yêu.
Lời miêu tả của hắn gần như là phiên bản của Trường Trì đế. Trường Trì đế đồng cảm lây, cũng nghe được lời cam kết “không có con cái” ẩn ý của hắn, thỏa mãn vì sự thức thời của hắn, lòng cảnh giác hơi buông lỏng, không truy cứu chuyện Tiết thị nữa, độ lượng phất tay nói: “Không có gì, ái khanh lui ra đi.”
Nghiêm Tiêu Hàn cúi người hành lễ, che giấu nụ cười lạnh trong lòng.
Như thể chứng nghiệm lời Nghiêm Tiêu Hàn nói, chẳng bao lâu sau, phương Bắc truyền đến tin tức, Bắc Yến thiết kỵ đóng giữ ở Cam Châu phát binh đến Ninh Châu, phản quân Ninh Châu xui xẻo lại lần nữa bị Bắc Yến quân như mãnh hổ sổ lồng càn quét sạch sẽ. Năm ngày sau, Bắc Yến quân thu phục toàn bộ Ninh Châu.
Theo dòng chiến báo của tiết độ sứ các nơi gửi đến tân triều phía Nam, còn có một phong thư do chủ soái Bắc Yến, Tĩnh Ninh hầu Phó Thâm đích thân viết.
Lúc lâm triều, bàn tay giấu dưới áo của Nghiêm Tiêu Hàn run lẩy bẩy, nhưng không ai chú ý tới sự khác thường của hắn, cũng chẳng ai quan tâm trên lá thư đó viết gì.
Trong cơn kinh ngạc tột độ, tất cả mọi người đều đang tiêu hóa một sự thật: Phó Thâm trở lại rồi.
Chỉ nhìn nét chữ sắc bén như kiếm kia mà như thấy được vị Phó tướng quân luôn đi ngược dòng nước, có thể xoay chuyển tình thế ấy. Sau đại nạn, y là người đầu tiên giương cờ hiệu cần vương, người đầu tiên thu phục Ninh Châu, người đầu tiên chiêu cáo tứ phương, xin tiết độ sứ các nơi phát binh, cùng nhau chống ngoại địch, giành lại Trung Nguyên.
Binh mã trong thiên hạ, chỉ có Bắc Yến thiết kỵ từ đầu chí cuối vẫn luôn thực hiện bốn chữ “Bảo gia vệ quốc”.
Dù là triều đình Giang Nam tự xưng chính thống cũng chưa chắc có sức hiệu triệu mạnh như y. Chưa đến nửa tháng, tiết độ sứ các nơi dồn dập hưởng ứng, Hoài Nam, Tương Châu lần lượt phát binh, đẩy lùi phòng tuyến của quân đội Thát Chá tới phía Bắc sông Hán. Bắc Yến thiết kỵ có Phó Thâm tọa trấn, thế như chẻ tre, nhanh chóng thu phục được các châu huyện ở phía Tây Trường An.
Tháng tư, triều đình Giang Nam xuất binh, chia làm hai đường tiến đến phía Bắc, một đường cùng quân Hoài Nam tiến đánh Từ Châu, một đường cùng quân Tương Châu và quân Bắc Yến bao vây Trường An.
Ngày mười sáu tháng năm, trấn Đường Lê dưới chân núi Kê Minh.
Nơi đây chỉ có một toán quân Thát tộc nhỏ, Bắc Yến quân chẳng tốn bao nhiêu công sức đã quét sạch. Gần trấn Đường Lê có một con sông lớn rất sâu, tên là sông Tử Dương, chảy về hướng Đông đổ vào sông Hán. Phó Thâm mang theo một đội kỵ binh đi tuần tra một vòng dọc con sông, xác định không có tàn quân mai phục, lúc đang nhìn về phía xa chợt thấy trong rừng cây đối diện có bóng người lay động, dường như có tiếng vó ngựa hướng đến bờ sông, vì vậy y vèn vẫy tay gọi một binh tốt đến: “Vòng tới đối diện thăm dò một chút, xem xem là ai.”
Tiểu binh nọ đang định nhận lệnh rời đi, phía đối diện lại như không kịp đợi, đã có người thúc ngựa đi ra khỏi rừng cây trước. Phó Thâm nghe tiếng liền quay đầu lại, vừa định lấy cung tên thì bỗng nhiên chạm mắt với người ở bờ bên kia.
Đầu y như có tiếng chuông “Coong coong” vang lên.
Nghiêm Tiêu Hàn ở phía đối diện đứng ngây ra như khúc gỗ, vô thức kéo cương ngựa, chiến mã hí dài, suýt chút nữa quăng hắn xuống.
Hắn bị rút hết ba hồn bảy vía, như thể bị mộng du, ngơ ngác há miệng, nhưng lại không phát ra bất kỳ âm thanh nào.
Phó Thâm hoàn toàn dựa vào một chút lý trí, hai chân khẽ kẹp bụng ngựa, tới gần bờ sông, vừa định gọi một tiếng để xác nhận thân phận thì Nghiêm Tiêu Hàn như du hồn ở phía đối diện đã thúc ngựa đến bờ, đi mấy bước về phía giữa sông. Sau đó ngựa sợ nước sâu không dám đi tiếp nữa, hắn liền trực tiếp nhảy xuống, thành thục trút bỏ đồ nặng trên người, lao vào dòng nước xiết.
Khỏi cần xác nhận, ngu thế này, ngoại trừ vị kia nhà bọn họ thì sợ là thế gian này chẳng tìm thấy người thứ hai.
Phó Thâm điên tiết: “Nghiêm Mộng Quy! Ngươi muốn chết hả?”
Y nhảy xuống ngựa, vọt tới bờ sông, hét lên với một tướng sĩ bên cạnh: “Lấy dây thừng đến đây!”
Cũng may bây giờ vẫn chưa phải mùa hè, sông không có nước dâng, kỹ năng bơi của Nghiêm Tiêu Hàn cũng khá tốt, khi bơi tới giữa sông thì túm được dây thừng mà Phó Thâm quăng tới, được kéo lên trên bờ. Hắn đã tiêu hao hết khí lực, lồng ngực phập phồng kịch liệt, không thể nói chuyện, ngay cả thở thôi cũng khó khăn, song lại nhìn chằm chằm vào Phó Thâm như điên, trong mắt đầy tơ máu, đỏ như sắp rỉ máu.
Phó Thâm còn chưa kịp mừng rỡ thì đã bị hắn dọa. Y chưa từng thấy hành động điên rồ như vậy, lời mắng đã trào đến yết hầu, ai ngờ y vừa mới động đậy thì Nghiêm Tiêu Hàn đột nhiên nhào tới, mang tấm thân ướt dầm dề, ôm chặt lấy y như thể sợ y chạy mất.
Cơn giận ngút trời thoáng chốc biến thành một làn khói trắng vô lực.
“……”
Phó Thâm nhắm chặt mắt, đầu óc trống rỗng, hồi lâu sau, mới giơ tay ôm lấy tấm lưng đang khẽ run của hắn, năm ngón siết chặt.
Y nghe thấy giọng nói của mình cũng đang run rẩy.
“Ta ngày nhớ đêm mong…… giờ cuối cùng cũng thật sự gặp được.”
|