Hoàng Kim Đài
|
|
Chương 70: Giao thừa[EXTRACT]Non sông tươi đẹp rơi vào tay ngoại địch, trong mắt man di, người Hán ở Trung Nguyên là heo chó rơm rác, có thể tùy ý đánh giết. Hai năm qua phương Bắc liên tiếp gánh chịu thiên tai nhân họa, trên đường hành quân, bọn họ thường xuyên bắt gặp rất nhiều làng xóm bị thiêu hủy bởi chiến hỏa, nhà cửa bỏ không, xương cốt phơi trắng ven đường.
Như thế mà còn muốn nghị hòa, vậy thì những tướng sĩ bọn họ đổ máu ở tiền tuyến là cái gì, những bách tính đến chết vẫn hướng về vương sư đất Nam là cái gì?
Nghiêm Tiêu Hàn đi tới trước bàn, đề bút viết vài chữ lên tấu biểu, nói không nhanh không chậm: “Quả vậy, tên đã lắp lên dây, dù Kim Lăng có ầm ĩ kiểu gì thì cũng không thể rút đại quân về được. Hiện tại quyền chủ động đang nằm trong tay chúng ta, mặc kệ triều đình phía Nam, không cần để ý tới bọn họ.”
Hiện giờ chỉ bao vây Nguyên Châu thôi đã có bốn đại quân là Bắc Yến, Thiên Phục, Giang Nam, Tương Châu, tiếp đến hướng Đông, còn có tiết độ sứ ba vùng Hoài Nam, Kinh Sở, Tùy Châu tập trung quân ở Tương Châu. Ngoại trừ Giang Nam quân và Thiên Phục quân trên danh nghĩa thuộc về triều đình Giang Nam, thì những tiết độ sứ khác và tướng lĩnh địa phương đã dồn dập “tự lập tự vệ” từ trước khi tân triều thành lập. Giờ là anh hùng tạo thời thế, ai mạnh thì kẻ đó có quyền lên tiếng, các vị đại nhân Giang Nam có ra sức hô hào kiểu gì thì cũng không hữu hiệu bằng một câu mệnh lệnh của Phó Thâm.
“Đúng là hủ nho họa quốc,” Phó Thâm cảm khái một câu chẳng mấy thực lòng, rướn cổ nhìn về phía mặt bàn, “Khuya rồi còn viết gì thế?”
Nghiêm Tiêu Hàn đặt bút xuống, quay người nhấc một góc chăn che trên chân Phó Thâm, rồi lại bưng chậu gỗ ra ngoài múc nước, tiện thể đáp: “Tấu biểu cho triều đình ấy mà, không có gì đâu. Ngươi mau nằm xuống đi, kẻo lạnh.”
Khi hắn vén rèm, một làn gió nhẹ thổi vào khiến trang giấy lay động, Phó Thâm vốn không muốn nhìn lén, nhưng nhãn lực của y thực sự quá tốt, liếc mắt một cái là thấy được dòng chữ nhỏ nằm ngay ngắn trên trang giấy trắng.
Khoảnh khắc nhìn thấy, trái tim y bất chợt lệch đi một nhịp. Bối rối, thế nhưng không loạn, mà là sự thông tỏ tựa như rẽ mây thấy mặt trời.
Trên tấu biểu chỉ viết bảy chữ —— “Thà chiến tử cũng không nghị hòa”.
Khi Phó Thâm mới hồi kinh, Nghiêm Tiêu Hàn còn suốt ngày tự xưng “Gian nịnh”, vẫn luôn là chó săn triều đình bị văn nhân trong thiên hạ lên án chỉ trích, mà nay vật đổi sao dời, sau gian lao sóng gió, khí tiết dễ đổi, trung cốt dễ thay, hắn lại vẫn nằm trong số ít những người đứng thẳng hiên ngang.
Chuyện đến nước này, còn ai dám nói hắn chỉ là một tên gian nịnh xu nịnh bề trên, tàn hại trung lương?
Lát sau, Nghiêm Tiêu Hàn trở vào, Phó Thâm được bọc trong ổ chăn ấm áp, thoải mái thở ra một hơi, cất tiếng gọi: “Mộng Quy.”
“Ơi?” Nghiêm Tiêu Hàn đang rửa tay, nghe y gọi liền quay đầu hỏi: “Muốn gì nào?”
Phó Thâm: “Muốn ngươi.”
Nghiêm Tiêu Hàn bất ngờ bị đánh trúng vào tim, đơ ra một chốc rồi bật cười. Hắn lau khô tay, cởi áo trèo lên giường, nằm xuống bên cạnh Phó Thâm: “Làm gì?”
Phó Thâm nhích lại gần, thơm một cái lên chóp mũi hắn, hùng hồn nói: “Không làm gì cả, cùng phu nhân của ta làm nóng người chút, không được sao?”
Nghiêm Tiêu Hàn kéo y vào trong ngực, cúi đầu tìm kiếm đôi môi ấm của y, còn cụng y một cái như thể uy hiếp: “Còn mời gọi ta cơ đấy, ta thấy ngươi có vẻ chưa muốn ngủ nhỉ.”
Lời ngon tiếng ngọt Phó Thâm giữ trong bụng còn chưa kịp nói ra thì đã bị hắn chặn lại hết, biến thành những tiếng nghẹn ngào khe khẽ. Trong đêm đông lạnh giá, hai người càng lăn càng nóng, mãi đến khi Nghiêm Tiêu Hàn cảm thấy còn quấn quít như thế nữa thì sẽ không đè nén nổi dục hỏa, mới miễn cưỡng buông y ra. Trán Phó Thâm thấm mồ hôi, hổn hển thở dốc, lại còn cười bảo: “Ta bảo này phu nhân, ngươi hơi thừa khí huyết đấy……”
“Tại ai hả?” Nghiêm Tiêu Hàn kéo tay y vào trong chăn, than thở: “Hầu gia của ta ơi, ngài có thể nhanh chóng giành lại kinh thành được không, để ta về nhà thích gì làm đó. Chứ cứ vô tư như thế này thì ta thật sự không nhịn được mà tàn hại trung lương mất.”
Phó Thâm phát ra tiếng than nhẹ từ trong cổ họng, nghiến răng nói: “Ngươi bây giờ….. còn không phải là thích gì làm đó hả? Còn muốn lên trời hay sao?”
Đêm đông tháng chạp dài đằng đẵng, cũng có thể trôi qua cực nhanh như là đêm xuân.
Nửa đêm trời đổ tuyết rơi, Phó Thâm tỉnh lại lúc tờ mờ sáng, bên ngoài vẫn một màu đen kịt, đất trời được bao phủ trong chiếc áo bạc. Nghiêm Tiêu Hàn chắc hẳn vừa mới dậy không lâu, bên kia giường còn dư lại hơi ấm. Phó Thâm chống đầu mơ màng tỉnh dậy, liếc thấy chiếc áo lông chồn treo bên cạnh không thấy đâu nữa, liền biết hắn đã về doanh trại Thiên Phục quân trước rồi, y khoác áo xuống giường, chuẩn bị đến nhà bếp kiếm chút gì ăn, tiện thể ra ngoài tuần doanh.
Chân còn chưa chạm đất, liền nghe thấy ngoài cửa vang lên tiếng bước chân. Nghiêm Tiêu Hàn đi vào, tay cầm chiếc tô nóng hổi đặt lên bàn, dùng ngón tay ấm hồng nắm vành tai Phó Thâm, bảo: “Dậy sớm vậy, ta còn đang định trở về sẽ gọi ngươi.”
Phó Thâm chậm chạp phản ứng lại, ngồi trên giường ngước đầu nhìn hắn: “Sáng sớm mà ngươi đi đâu thế? Không về doanh trại sao?”
“Về doanh trại gì chứ,” Nghiêm Tiêu Hàn cúi người đặt một nụ hôn lên trán y, dịu dàng nói, “Quên mất hôm nay là ngày gì rồi sao? Chúc hầu gia sinh nhật vui vẻ, phúc thọ lâu dài.”
Bấy giờ Phó Thâm mới nhớ ra, hôm nay đúng là sinh nhật y. Chỉ là bình thường bận rộn quân vụ, cũng không phải tròn tuổi, cho nên chuyện này đã sớm bị y quẳng ra sau đầu. Vả lại đây là thời kỳ không bình thường, chẳng ai có lòng dạ nào đi tổ chức sinh nhật cả, cũng phải nhờ có Nghiêm Tiêu Hàn nhớ thay y.
“Cảm ơn….” Họng Phó Thâm khàn khàn, có lẽ vì mới tỉnh ngủ nên cả người có vẻ hơi mơ màng, từ ngữ cũng cứng ngắc gượng gạo: “Ngươi nhọc lòng rồi.”
Nghiêm Tiêu Hàn nhìn y ngơ ngác vì chưa từng được mừng sinh nhật, thấy vừa buồn cười vừa xót lòng, nhịn không được giơ tay xoa xoa đầu y: “Năm kia ngươi ở Bắc Yến, năm ngoái thì xa cách Nam Bắc, năm nay khó khăn lắm mới có dịp. Hiện giờ ta cũng chẳng có gì tặng ngươi được, nên đành nấu cho ngươi một bát mì chúc thọ, tay nghề kém cỏi, hầu gia nể mặt nếm thử nhé?” (Mì chúc thọ: mì ăn trong ngày sinh nhật.)
Phó Thâm gật gật đầu, nhìn trân trân vào bóng người dong dỏng đi lấy mì cho mình, lặng lẽ nghĩ thầm: “Ta chẳng cần gì hết, có ngươi là đủ rồi.”
Nghiêm Tiêu Hàn cũng không phải khiêm tốn, hắn nói mình “tay nghề kém cỏi”, mùi vị thật sự chỉ ở mức bình thường mà thôi. Có điều đừng nói chỉ là “kém cỏi”, cho dù bây giờ Nghiêm Tiêu Hàn có bưng tới cho mình một bát thạch tín đi nữa, Phó Thâm cũng có thể nuốt xuống với vẻ mặt không đổi sắc.
Ngày hôm ấy, Bắc Yến thiết kỵ và các tướng lĩnh đi tuần doanh cùng Phó Thâm đều cảm nhận được áp lực trước nay chưa từng có, Tĩnh Ninh hầu mới mấy ngày trước còn tuyên bố phải “Lấy khỏe ứng mệt”, “Địch động ta không động” bỗng như bị cái gì kích thích, lúc phân tích thế cục nói từ bố trí binh lực Nguyên Châu rồi lạc đề sang làm sao để nhanh chóng lấy lại kinh thành, trông hệt như thể nếu không thu phục toàn bộ trong vòng ba tháng thì sẽ lấy đầu bọn họ vậy.
Tiêu Tuân dùng cùi chỏ chọc chọc Du Kiều Đình, nhỏ giọng hỏi: “Có phải tướng quân bị trúng tà không?”
Du Kiều Đình trả lời với gương mặt nghiêm nghị: “Ta thấy tám phần mười là họ Nghiêm chuốc cho y một bát thuốc mê rồi.”
Phó Thâm quăng cho hai người một cái nguýt lạnh lùng: “Tối qua nhận được tin từ Giang Nam, hai tộc Thát Chá phái sứ giả đến Kim Lăng, đề xuất nghị hòa, muốn dùng Hoàng Hà làm ranh giới, chia nhau cai trị Nam Bắc, còn muốn kết hữu nghị với phe ta. Ta nghĩ chư vị đang ngồi đây, không ai muốn hàng năm cống nạp cho lũ sói con đó đâu đúng không?”
Chúng tướng lập tức thu lại vẻ cười đùa, thần sắc trở nên nghiêm túc.
“Hết năm sẽ động thủ. Chỉ cần đánh hạ Nguyên Châu và Tương Châu, kinh thành sẽ không còn bình phong nữa. Giành lại Trung Nguyên trong vòng ba tháng không phải nói suông,” Phó Thâm chỉ lên bản đồ, nghiêm mặt nói: “Các vị, mối nhục năm xưa kinh sư chiến bại, Bắc Cương thất thủ, bây giờ, phải do Bắc Yến thiết kỵ chúng ta tự tay rửa sạch.”
Mỗi năm vào giao thừa, cho dù thời cuộc gian nan, phương Bắc điêu tàn, trong thành thi thoảng vẫn có tiếng pháo thấp thoáng vang lên. Đối với phần lớn người Hán mà nói, cuộc sống dù vất vả đến đâu thì vẫn phải đón năm mới.
Ngoài thành, dưới màn trời đen kịt là vạn ngàn thiết kỵ dàn trận trùng điệp, sát ý lẫm liệt.
Không biết đêm nay ở Giang Nam đang là phồn hoa thịnh cảnh như thế nào.
Tướng lĩnh của bốn đại quân tề tụ trên khoảng đất trống, bàn bạc lần cuối trước trận chiến. Đợi bọn họ nói xong, Nghiêm Tiêu Hàn gọi một thân binh tới, chia cho mỗi người một chén rượu nóng, ngẩng đầu nói: “Rượu này vì các vị tráng hành. Mong trời cao phù hộ, trận này đại thắng.”
Toàn bộ chúng tướng nâng chén, đồng thanh hô vang giữa không trung: “Trời cao phù hộ, mở cờ đại thắng!”
Rượu mạnh chảy vào cổ họng, làm sôi trào huyết dịch toàn thân. Những người khác lần lượt trở về trong quân, chỉ có Nghiêm Tiêu Hàn hơi chậm một bước, Phó Thâm dường như nhìn thấu dự định của hắn, bèn nhíu mày cười bảo: “Còn lời gì muốn nói riêng với ta sao?”
Khóe mắt y cũng ửng hồng vì cảm giác lâng lâng say, khi cười lên không còn lạnh lùng cứng rắn như lúc thường, mà mang theo một chút nhẹ nhàng của men say. Nghiêm Tiêu Hàn biết rõ thời gian không thích hợp, không gian không thích hợp, nhưng lòng vẫn bất giác rung động vì y.
Nhìn Phó Thâm ra chiến trường là điều hắn không mong muốn nhất, song không thể phủ nhận, đây kỳ thực cũng ra dáng vẻ làm hắn nao lòng nhất.
“Đêm giao thừa, nên nói vài lời tốt lành,” Trong gió Bắc mênh mang, Nghiêm Tiêu Hàn từ xa nâng chén với y: “Mong gia quốc an định, thịnh thế thái bình.”
Phó Thâm khẽ run, lập tức rũ mi, có vẻ là thở dài, mà cũng có vẻ như đang nở nụ cười.
Y nâng chén đáp lễ, thanh âm không lớn, nhưng trong màn gió, mỗi từ mỗi chữ đều khiến Nghiêm Tiêu Hàn nghe rõ ràng.
“Mong mãi mãi nắm tay, bạc đầu cùng quân.”
Nói rồi, y dốc cạn chén rượu mạnh, phóng ngựa lao vào trong màn đêm vô tận.
|
Chương 71: Thời khắc[EXTRACT]Năm Trường Trì thứ hai, đầu năm mới, quân Hán đột kích Nguyên Châu vào đêm, đại phá man quân, giết mấy vạn địch, bắt giữ tướng soái quan lại, vương công quý tộc Thát Chá, tổng cộng hơn ba mươi người.
Tháng hai, tam quân Hoài Nam giành lại Đồng Châu.
Cuối tháng ba, bảy đại quân thế như chẻ tre, hợp lực với kinh đô và Trác Châu phụ cận phía Nam. Sau đó không lâu, tướng lĩnh bảy quân, do Phó Thâm dẫn đầu, tệ tụ lại cùng nhau để bàn cách chia quân Bắc tiến, lấy lại kinh thành.
Trong quá trình này, tiết độ sứ các nơi đều trong tối ngoài sáng thăm dò ý tứ của Phó Thâm. Cuộc chiến kinh thành đã gần ngay trước mắt, mà đánh giặc xong thì bọn họ sẽ đi về đâu, tiếp tục trấn giữ một phương hay trao trả binh quyền, quy thuận triều đình, làm một quý tộc nhàn nhã? Các tiết độ sứ tuy đều ngầm thừa nhận mình đang chiến đấu vì triều đình, nhưng không ai muốn làm không công cả, càng không muốn làm cái cầu bị rút ván.
Vết xe đổ quá nhiều, sự tín nhiệm của bọn họ với triều đình chỉ có hạn, sứ giả của hai tộc Thát Chá và Bột Hải quốc bỏ qua triều đình Kim Lăng, trực tiếp đến ngoài thành cầu kiến chủ soái Bắc Yến, lần thứ hai đưa ra yêu cầu nghị hòa.
Sứ giả cam kết ba tộc sẽ rút binh khỏi kinh thành, lui về quan ngoại, hai bên lấy trường thành làm ranh giới, không xâm phạm lẫn nhau, đồng thời cũng yêu cầu Đại Chu mỗi năm tiến cống cho ba tộc, ngoài ra cho phép bên ngoài nhập quan chăn ngựa vào đông xuân hàng năm.
Mười lăm tháng tư, mấy ngày trước khi gặp sứ giả, Phó Thâm và Nghiêm Tiêu Hàn tranh thủ lúc rảnh rỗi, đi đến Hoàng Kim đài ở ngoại ô kinh thành.
Năm ấy kinh thành bị liên quân công phá, để xả giận, và cũng để hạ nhục hoàng thất Đại Chu, binh sĩ Thát Chá liền châm lửa đốt sạch nơi này. Cung điện nguy nga chỉ còn lại ngói vỡ tường đổ, huy hoàng ngày xưa bỗng chốc hóa thành đất bụi cằn cỗi, dù Phó Thâm đã sớm chuẩn bị tâm lý, nhưng khi đến nơi, trông thấy cảnh tượng này, y vẫn phải giật mình.
Y hoảng hốt nhảy xuống khỏi lưng ngựa, lúc hạ xuống đất chân còn run run, đứng không vững, được Nghiêm Tiêu Hàn xông lên đỡ lấy: “Kính Uyên?”
“Không sao.” Phó Thâm vỗ vỗ tay hắn, giọng khàn đặc, “Ta….. Khụ, ta vào xem xem.”
Nơi này có ý nghĩ vô cùng quan trọng đối với Phó Thâm, nếu không năm đó y đã chẳng đưa Nghiêm Tiêu Hàn tới đây để bái đường. Lần theo ký ức trước kia, Phó Thâm tìm tới vị trí Kỳ Lân điện, tìm mấy vòng mới xác định được vị trí chân dung phụ tổ, y vén áo lên, chậm rãi quỳ xuống giữa đống đổ nát hoang tàn.
Nghiêm Tiêu Hàn im lặng đi theo sau y, cũng quỳ xuống.
Phó Thâm đối diện với khoảng không, cúi người xuống thật thấp, dập đầu lạy ba lạy, song không nói gì.
Trăm năm vinh quang, cứ theo một trận đại hỏa biến thành tro bụi. Những bức tranh ố vàng này, chẳng một bức nào còn sót lại, dường như những anh linh từ trần ngày xưa, quyến luyến bịn rịn, cuối cùng đã theo gió bay đi khắp tứ phương.
Bọn họ có còn đang che chở cho Đại Chu, che chở cho Bắc Yến thiết kỵ không?
Nghiêm Tiêu Hàn trông thấy đuôi mắt Phó Thâm đỏ lên, trong đôi mắt xinh đẹp kia, có sự dao động và hoang mang mà hắn rất ít khi nhìn thấy. Nghiêm Tiêu Hàn suy tư chốc lát, đứng dậy tiến đến vài bước, khuỵu gối ngồi xuống bên cạnh y, khẽ nói: “Tướng quân, có tâm sự sao? Có cần ta khuyên giải ngươi không?”
Phó Thâm ngước mắt nhìn hắn, sắc mặt không thay đổi, nhưng khóe mắt vẫn còn chút hơi nước chưa vơi đi: “Ngươi biết rồi ư?”
“Mặc dù ngươi không nói, nhưng ta là chí thân của tướng quân, đương nhiên nhận ra được.” Nghiêm Tiêu Hàn vươn tay mơn trớn khóe mắt y, “Đều viết hết trong mắt ngươi đây này.”
Phó Thâm rũ mi, dường như bật cười, lại vừa như than thở, y nói: “Không phải tâm sự, mà là phát rồ phát điên, việc ly kinh phản đạo, ngàn người lên án.”
“Ồ?” Nghiêm Tiêu Hàn nhíu mày, “Vậy cũng trùng hợp thật, bây giờ cái tên ly kinh phản đạo nhất nhì trên đời, cái kẻ bị ngàn người lên án, chẳng phải đang ở ngay trước mắt ngươi hay sao?”
Đã nói đến nước này rồi, Phó Thâm không làm gì được hắn, liền tìm một chỗ sạch sẽ ngồi xuống: “Ngươi hỏi vậy, ta cũng chẳng biết nên bắt đầu nói từ đâu nữa. Mộng Quy, ngươi còn nhớ Tằng Quảng chứ?”
Nghiêm Tiêu Hàn vừa nghe đến cái tên này liền xịu mặt xuống, bĩu môi như đứa trẻ con, nói chua chát: “Không phải thầy của Cố Sơn Lục sao. Hắn nhờ vả ngươi, ngươi lại bảo ta đi cứu Tằng Quảng.”
Phó Thâm cạn lời: “Ngươi giỏi quá nhỉ Nghiêm đại nhân, bình dấm từ đời nảo đời nào rồi mà sao vẫn chưa hết mùi chua vậy?”
“Xem hầu gia nói kìa,” Nghiêm Tiêu Hàn cong mắt gian trá, ghé sát vào y, thì thầm: “Tại hạ có giỏi hay không, chẳng phải hầu gia rõ nhất sao?”
Phó Thâm: “……”
“Không được trêu ta,” Y dở khóc dở cười nhéo mặt Nghiêm Tiêu Hàn, sau đó nghiêm mặt nói, “Nói chính sự đi. Năm đó sau khi bị tập kích ở ải Thanh Sa, ta nghĩ thông một số việc, song vẫn thấy không cam tâm.”
“Tình cảnh của Bắc Yến thiết kỵ quá gian nan. Bọn ta chiến đấu cả đời vì Đại Chu, cuối cùng lại bị người ta xem là cái đinh trong mắt, cái gai trong thịt, khiến hoàng thượng sớm hôm vất vả cân nhắc xem phải làm sao mới giết được ta. Khi ấy ta ngày ngày buồn rầu, quân vương đời này không tin ta, quân vương đời sau cũng không tin ta, từ cổ chí kim, bao nhiêu năm mới xuất hiện một vị quân chủ anh minh tài đức. Kiếp này của ta chẳng đủ trăm năm, biết phải đợi đến bao giờ, ngộ nhỡ đến chết vẫn chưa chờ được thì sao?”
Nghiêm Tiêu Hàn gật đầu: “Quả vậy, tin người khác không bằng tin chính mình. Thế chẳng phải có hai con đường sao, hoặc là tự lập làm vua, hoặc là khống chế vua sai khiến chư hầu.”
Phó Thâm bật cười: “Ta đâu có ước mơ làm hoàng đế, không phải mấy cái đó.”
Nghiêm Tiêu Hàn biết y không nói đùa, nếu như Phó Thâm thật sự có mong muốn ấy, thì khi ở Cam Châu y có thể lập thế lực khác, hoặc xa hơn chút nữa, ngay từ triều Nguyên Thái, thánh chỉ ban hôn chính là lý do sẵn có.
Nhưng y không làm vậy.
Quân tử lập thế, có việc nên làm có việc không nên làm. Chỉ cần Phó Thâm y đã nói ra, thì nhất định sẽ làm đến cùng.
“Sau đó vụ án Khuông Sơn thư viện xảy ra, ta tình cờ đọc《Tuyết Mai Am Văn Tồn》của Tằng Quảng, cảm thấy rất khai sáng.” Phó Thâm nói, “”Thiên hạ là của chung, không phải của riêng một nhà một họ”, nói nghe có vẻ kinh thế hãi tục, nhưng ngẫm lại cũng không phải vô lý.”
Phó Thâm đọc tập sách của Tằng Quảng, cảm thấy vị lão tiên sinh này tuy tuổi tác đã cao, nhưng tâm cũng thật ngang tàng, ôm trong lòng nguyện vọng hoàn mỹ như vậy. Học thuyết của Khuông Sơn phái lúc ấy hoàn toàn là lời hoang đường nhảm nhí, dù đặt ở thời thế hiện tại, thì vẫn quá “dữ”, nhưng xuyên thấu qua những con chữ, chút kỳ vọng mà lão tiên sinh gửi gắm trong đó, lại trùng khớp với suy nghĩ của Phó Thâm.
Đó là “con đường thứ ba” mà y muốn tìm.
Nghiêm Tiêu Hàn cảm thấy mình đã mơ hồ chạm tới manh mối, nhưng vẫn không bắt được trọng điểm: “Ý của ngươi là…..”
Phó Thâm đắn đo rất lâu, mới thận trọng đáp bốn chữ.
“Cùng trị thiên hạ.”
Tướng quân trấn thủ tứ phương, tiết độ sứ chưởng binh các nơi, mục thủ (quan đứng đầu một châu) giáo hóa quản lý, triều thần khuyên can phò trợ….. những người này vốn nên bôn ba lên tiếng vì bách tính, nhưng lại bị trói buộc dưới hoàng quyền, cúi đầu xưng thần với một nhà một họ “chí tôn”.
Phó Thâm từ lâu đã nản lòng với hiền quân minh chủ, cũng chưa từng nghĩ sẽ thế chỗ vào đó. Từ trong sâu xa, dường như có một quy luật nào đó trói buộc bao đời anh hùng kiêu hùng, thịnh suy hưng thế, tự có định sẵn. Phó Thâm mơ hồ cảm giác được loại “thiên đạo” này, nhưng y không thể nào nói rõ. Mãi đến ngày ấy tình cờ lật xem《Tuyết Mai Am Văn Tồn》, được câu “Thiên hạ là thiên hạ của người trong thiên hạ” phá giải mê chướng, ý nghĩ mông lung trong lòng rốt cuộc trồi lên từ lòng đất, trở thành một mầm non.
Thế nào là cùng trị thiên hạ?
Vạn dân khắp muôn phương đều có thể tham dự triều chính; chuyện quan trọng trong xã tắc, tất cả cùng giải quyết chung.
Nhưng y không chắc chắn hoàn toàn, không biết mầm non ấy cuối cùng sẽ biến thành đại thụ che chở sơn hà, hay là độc thảo di họa vạn năm.
Sau khi nghe xong, Nghiêm Tiêu Hàn im lặng thật lâu. Thái độ của hắn kỳ thực không quan trọng đến thế, hoặc phải nói là, không quan trọng bằng người khác. Trong lòng Phó Thâm biết rõ không ủng hộ, không thấu hiểu mới là thái độ bình thường, song vẫn thấp thỏm vì sự im lặng của hắn.
“Cho nên…..” Nghiêm Tiêu Hàn hoang mang lên tiếng, “Lần đó ngươi bảo ta hỗ trợ cứu Tằng Quảng ra, thật sự không phải vì thăm dò ta, mà là vì…. vì chuyện này?”
Phó Thâm: “……”
Có đôi khi y rất muốn bổ đầu Nghiêm Tiêu Hàn ra, xem xem bên trong rốt cuộc chứa cái gì.
Thấy y giận dữ, Nghiêm Tiêu Hàn lại còn vô tư cười trêu y: “Hầu gia hồi hộp đấy à? Nếu ta bảo ngươi nghị bậy nghĩ bạ thì sao, nếu ta bảo ngươi đại nghịch bất đạo thì sẽ làm sao đây hả?”
Phó Thâm đương nhiên sẽ không làm gì hắn. Nếu như Nghiêm Tiêu Hàn không thích, vậy thì sau khi giành lại kinh thành y sẽ cáo bệnh về hưu, từ bỏ công danh thành tựu, mang theo Nghiêm Tiêu Hàn từ quan quy ẩn, từ đây mắt không thấy tâm không phiền, kệ xác bọn họ thích làm sao thì làm.
Cõi đời này không có gì Phó Thâm không dứt bỏ được, ngoại trừ Nghiêm Tiêu Hàn.
“Chẳng làm sao cả.” Phó Thâm chọt chọt mặt hắn, nói, “Chẳng lẽ ta lại vì chuyện này mà ly hôn với ngươi sao?”
Nghiêm Tiêu Hàn cười, ngả lên người y, Phó Thâm ôm lấy phu nhân nặng trình trịch của mình, không biết sao mà hắn vui vậy, đang định nhắc nhở hắn đàng hoàng một chút, thì liền nghe Nghiêm Tiêu Hàn nói: “Ta cảm thấy rất tốt.”
Phó Thâm: “Gì cơ?”
“Thái thượng hoàng từng nói, ngươi là một thần tử trung với thiên hạ chứ không trung với vua,” Nghiêm Tiêu Hàn thu lại nụ cười, nghiêm túc nói, “Ngươi nói ra lời như vậy, ta không lấy làm lạ chút nào, bởi vì ngươi là Phó Kính Uyên, xưa nay chưa từng thay đổi.”
“Bất luận ngươi có tính toán gì, cho dù buông tay từ bỏ, cho dù thất bại rồi, ta vẫn sẽ ở bên cạnh ngươi. Phu thê nhất thể, vinh nhục cùng hưởng. Sau muôn đời, tên của ta và ngươi sẽ được viết cùng với nhau. Ta cảm thấy như vậy rất tốt, không có chuyện nào tốt hơn thế.”
Tim Phó Thâm đập mạnh, tức khắc cảm động.
Y lặng lẽ ôm lấy Nghiêm Tiêu Hàn, dùng lực rất lớn, như thể sợ hắn chạy mất. Y biết đời này mình sẽ không bao giờ có được may mắn như vậy nữa, sẽ không bao giờ gặp được người nào tốt hơn cả hắn.
Không biết qua bao lâu, Nghiêm Tiêu Hàn bỗng cựa nhẹ, ra hiệu bảo y quay đầu: “Ngươi nhìn kìa.”
Phó Thâm nhìn theo hướng hắn chỉ, trông thấy dưới cột nhà cháy rụi, trong khe hở gạch đá, có một đóa hoa dại nhỏ bé đang đung đưa trong gió, cánh hoa bung nở, cành lá xanh mướt, có vẻ yếu đuối mong manh giữa cảnh đổ nát, nhưng lại là thứ duy nhất bừng bừng sức sống trong cái đống tro tàn ấy.
Hai người nhìn nhau cười, ăn ý không nói lời nào, trán chạm trán, môi chạm môi.
Nào sợ kiếp hỏa chói lòa, lại đợi gió xuân năm mới.
Mười tám tháng tư, tướng lĩnh bảy quân và sứ giả ba tộc gặp mặt tại Hoàng Kim đài.
Địa điểm đặc biệt này là do Phó Thâm lực chọn, hơn nữa còn tạo được hiệu quả rất tốt. Sắc mặt các tướng lĩnh lúc nhìn thấy sứ giả nghị hòa đều chẳng tốt đẹp gì. Vẻ mặt sứ giả Chá tộc cũng không được tự nhiên lắm, nhưng dù sao bọn họ đến là để cầu hòa, đành phải vờ như không biết, miễn cưỡng ngồi xuống.
Mỗi tộc phái ra một chính sứ, một phó sứ, Nghiêm Tiêu Hàn ngồi bên dưới Phó Thâm, lạnh lùng nhìn sang, nhận thấy sứ giả Thát tộc tỏ vẻ kiêu căng, sứ giả Chá tộc là khôn khéo nhất, sứ giả Bột Hải quốc lại rất ít nói chuyện, nếu mở miệng thì cũng chỉ phụ họa sứ giả Chá tộc.
Thân sơ xa gần, vừa nhìn đã hiểu.
Chá tộc và Bột Hải quốc là sài, chỉ muốn cấu xé huyết nhục của Đại Chu; Thát tộc là lang, bọn chúng có huyết hải thâm cừu với Đại Chu, cho dù lần này tạm thời nhẫn nhục cúi đầu, nhưng sau này vẫn muốn ngóc đầu trở lại.
Hạng người tham lam và gian trá, so với nói là nghị hòa, chẳng bằng nói là thoi thóp giãy dụa, có lẽ đã nhìn ra thái độ của triều đình Giang Nam, giờ còn muốn đến chỗ bọn họ đòi hỏi.
Phó Thâm không có gì để nói nhiều với sứ giả Thát tộc, y sợ mình không kìm được lửa giận nên bèn gọi Du Kiều Đình đến ứng đối thay. Khi đến phiên sứ giả Chá tộc, y chợt nhớ tới một chuyện, liền nói với tay sứ giả nhỏ con kia: “Bản hầu quên không hỏi, Âm Đồ hãn của các vị đã có lòng muốn cầu hòa, vậy có gì để biểu thị không?”
Sứ giả Chá tộc sững sờ, không biết y định giở trò gì.
Nghiêm Tiêu Hàn đúng lúc tiếp lời: “Vì sao hầu gia lại hỏi vậy?”
“Ta nghe nói Âm Đồ hãn xưa nay là người lễ nghĩa hiếu khách,” Phó Thâm nói, “Năm ấy khi bản hầu thành hôn, hắn còn đặc biệt sai người giấu tên tới tặng quà cưới.”
Nghiêm Tiêu Hàn: “Cái gì?”
“Một hộp đông châu nhuốm máu.” Phó Thâm nheo mắt, sát khí tỏa ra, “Thật là có lòng quá ——“
Sứ giả Chá tộc bị y nhìn chằm chằm, gã run bần bật, tim chực nhảy ra khỏi cổ họng, vội nói: “Hiểu lầm thôi, nhất định là hiểu lầm……”
Phó Thâm bỗng nở nụ cười: “Người đâu.”
Y vừa cười, ánh mắt của mọi người liền tập trung lại đây. Phó Thâm nhận lấy bát gạo sống từ tay người hầu phía sau, bưng đến trước mặt đoàn lai sứ và các tướng quân, chầm chậm đổ xuống: “Chúng ta là người ngay thẳng, không nói chuyện mập mờ, Âm Đồ muốn nghị hòa, vậy thì bày tỏ thành ý đi, mỗi hạt gạo là một cái đầu người, bắt đầu tính từ nhà Âm Đồ, chừng nào góp đủ thì ta lập tức lui bình, không góp đủ thì chén gạo này, sang năm ta sẽ tự tay mang đến mộ của hắn.”
Hạt gạo trắng bóc bắn tung tóe, phát ra tiếng sàn sạt.
Trong lều tĩnh lặng như tờ.
Sứ giả Chá tộc tức đến suýt ngất: “Nực cười! Các ngươi….. Việc này căn bản không thể làm được, các ngươi khinh người quá đáng!”
Nghiêm Tiêu Hàn sâu xa nói: “Còn chưa thử mà, sao biết không làm được? Hay là các ngươi đi về thử trước xem.”
Sứ giả hai tộc khác đều ngoảnh mặt làm ngơ, nín thing không lên tiếng. Sứ giả Chá tộc tuyệt vọng ý thức được rằng, đối diện gã không còn là triều thần Giang Nam khoe khoang thân phận, giả vờ hòa hợp nữa, nơi này chỉ có một đám tướng quân bước qua núi thây biển máu, xông tới kinh thành, khi bọn họ ngồi xuống, máu trên mũi đao còn chưa khô đi.
“Giờ mới nói lý với ta à? Muộn rồi.” Phó Thâm lạnh lùng nói, “Trở về nói cho Âm Đồ, bắt đầu từ khi hắn khiêu khích bản hầu, tập kích Lương Khẩu quan, mối thù này đã kết rồi. Hận nước thù nhà, nợ máu chồng chất, trừ phi hắn chết, bằng không việc này sẽ không để yên.”
“Ngươi!”
Sứ giả Chá tộc đứng phắt dậy, đang định gây khó dễ thì sau lưng bỗng vang lên tiếng trường đao tuốt khỏi vỏ, ánh đao sáng chói lóa mắt, kề trên cổ gã lành lạnh.
Nghiêm Tiêu Hàn lộ ra một nụ cười giả dối rất đỗi quen thuộc mà gã từng nhìn thấy trên gương mặt những quan lại Giang Nam.
“Nếu không đồng ý, vậy thì chúng ta đành gặp nhau trên chiến trường thôi. Tiễn khách.”
Cuộc đàm phán này vừa mới bắt đầu liền kết thúc thất bại. Cục diện duy nhất mà Phó Thâm có thể chấp nhận được, chính là tam tộc đến từ xó nào thì cút về xó ấy đi, cút càng xa càng tốt. Mấy trăm ngàn đại quân tập trung ở Trác Châu, nắm chắc phần thắng, các tiết độ sứ trừ phi bị điên thì mới chịu đáp ứng yêu cầu có vẻ như đang thoái nhượng, nhưng thực chất là được voi đòi tiên của sứ giả Thát Chá.
Sứ giả tam tộc cong đuôi chạy mất, lát sau, trong lều chỉ còn người mình. Tiết độ sứ Tương Châu là Vương Sĩ Kỳ thấy không còn việc gì nữa, đang định rời đi, chợt nghe Phó Thâm ngồi ở trên lên tiếng: “Chư vị đại nhân hãy gượm đã, tại hạ còn có lời này ——“
Khúc đầu tiên đã hát xong, vở kịch hay này, bây giờ mới chính thức bắt đầu.
|
Chương 72: Tấu đối[EXTRACT]Năm Trường Trì thứ hai, mười tám tháng tư, chắc chắn là một ngày vĩnh viễn được lưu trong sử sách.
Thống soái Bắc Yến thiết kỵ Phó Thâm đề xướng, Thiên Phục quân sứ Nghiêm Tiêu Hàn chủ bút, tiết độ sứ Hoài Nam Nhạc Trường Phong, tiết độ sứ Tương Châu Vương Sĩ Kỳ, tiết độ sứ Kinh Sở Sầm Hoằng Phương, tiết độ sứ Tùy Châu Phương Cảo, chủ soái tân quân Giang Nam Triệu Hi Thành liên danh, chúng tướng cùng dâng《Tấu xin lập tân pháp mở rộng Duyên Anh điện》.
Tấu này còn gọi là “Tấu Hoàng Kim đài”, do bảy tướng quân cùng bàn luận viết nên, liệt kê ra mười hai chuyên điều.
Thứ nhất, trục xuất man di, giành lại kinh sư, phục hưng Đại Chu.
Thứ hai, không cắt đất, không cống nạp, không kết giao.
Thứ ba, sau khi Nam Bắc thống nhất, các quân quy về trung ương, tiết độ sứ các nơi vẫn giữ quyền “tự lập tự vệ”.
Thứ tư, xin tăng thêm ghế Duyên Anh điện nghị sự, cho phép mỗi nơi phái một văn võ thần nhập điện, quân đóng giữ tứ cảnh phái hai võ thần nhập điện, tham dự quốc sự.
Thứ năm, xin mở thương lộ buôn bán ở biên giới Bắc Cảnh, phái người phụ trách bảo vệ.
…….
Thứ mười hai, xin lập tân pháp, công bố cho thiên hạ, để trong ngoài cùng vâng theo, lấy lợi để trị, lưu truyền hậu thế.
Bản tấu này gây chấn động lớn ở triều đình Giang Nam, chọc giận tất cả văn thần, bọn họ mắng mỏ không dứt, “Cầm binh ngạo mạn” hay “Lộng quyền họa quốc” là còn nhẹ, thậm chí có nhiều lão thần xếp hàng trước cửa cung chuẩn bị tự sát khuyên can, chỉ sợ hoàng thượng đáp ứng rồi thì quốc gia suy vong, thiên hạ loạn lạc.
Nhưng không biết tên quỷ thất đức nào lại sao chép bản tấu chương kinh thế hãi tục này, đem truyền ra ngoài. Lần này dân gian cũng xôn xao theo, mấy tiết độ sứ ủng hộ triều đình Giang Nam trên danh nghĩa bắt đầu lén liên lạc với nhau, hiển nhiên là dao động bởi nội dung ghi trên bản tấu.
So sánh với triều thần phản đối kịch liệt, thì dân gian nói về chuyện này lại không hoàn toàn là bác bỏ. Từ sau khi kinh thành chiến bại, người ôm chí giành lại Trung Nguyên, thống nhất Nam Bắc chẳng phải số ít. Ngẫm lại, khi giấc mộng về vương triều cường thịnh bị gót sắt của người Man đạp nát, hoàng thất thành lập một tiểu triều đình bấp bênh ở phía Nam, không triệu tập nổi đại quân Bắc phạt, đều dựa vào Phó Thâm lên tiếng kêu gọi, tiết độ sứ các nơi xuất binh, quốc gia mới có hi vọng phục hưng. Nhiều người tuy ngoài miệng không nói, nhưng trong lòng đã bắt đầu sinh ra hoài nghi đối với “triều đình” và “quân phụ”.
Khi thiên hạ hỗn loạn, thường là lúc các tư tưởng mới, các học phái mới đua nhau xuất hiện, trong đó mặc dù không ít dị đoan tà thuyết, nhưng cũng có những lời tuyên truyền giác ngộ. Nương theo xu thế ấy, Khuông Sơn phái nổi lên, đặc biệt câu “Thiên hạ là của chung” của Hi Hiền tiên sinh Tằng Quảng là nổi tiếng nhất.
“Thiên hạ là thiên hạ của người trong thiên hạ, không phải của riêng một nhà một họ. Thiên hạ thái bình hay loạn lạc, không phải ở hưng vong của một nhà, mà là ở vui buồn của muôn dân.”
Đại nạn lần này lật đổ cả một vương triều, nhưng dưới đống tro, vẫn còn lửa tàn lấp lóe.
Thiên thời địa lời nhân hỏa đầy đủ, thời khắc nghịch chuyển này cuối cùng cũng sắp đến.
Trong lúc đại quân phương Bắc rề rà bất động, triều thần Giang Nam đầu váng mắt hoa, không bên nào chịu thoái nhượng, cục diện rơi vào bế tắc, thì tiết độ sứ Giang Nam, tiết độ sứ Lĩnh Nam, tiết độ sứ Phúc Kiến bỗng nhiên liên danh dâng tấu, xin Trường Trì đế chuẩn tấu cho bảy quân phương Bắc. Tiếp đó, đề đốc thủy quân Đông Hải cũng trình tấu. Không lâu sau, tiết độ sứ Kiến Nam đưa tới sắc chỉ của thái thượng hoàng, nói rõ rằng “Xem ý số đông, cân nhắc suy xét”.
Phó Thâm hoàn toàn không ngờ tiết độ sứ ba vùng Giang Nam lại nhanh chóng đứng ra nói giúp cho bọn họ, y vốn định thu phục kinh thành để tạo áp lực với Kim Lăng, kéo dài một tháng, không tin hoàng thượng không đáp ứng. Giờ thì càng tốt hơn, đại cục đã định, ngay cả thái thượng hoàng cũng đứng ra ủng hộ, Trường Trì đế gật đầu chẳng qua là vấn đề thời gian mà thôi.
“Đúng là lạ kỳ,” Y thảng thốt hỏi Nghiêm Tiêu Hàn, “Có phải năm Trường Trì thứ nhất ngươi chuốc thuốc mê cho bọn họ, đến bây giờ dược hiệu còn chưa hết không?”
Ở phương diện này, Nghiêm Tiêu Hàn lại rõ ràng hơn y: “Bản tấu này chỉ có lợi chứ không có hại cho các tiết độ sứ, hơn nữa thúc đẩy việc này cũng không hoàn toàn là bọn họ, mà còn có cả những phú thương giàu có sau lưng bọn họ nữa.”
“Ngươi sống ở phương Bắc lâu nên không biết nhiều về tình hình Giang Nam đấy thôi. Giang Nam thương nghiệp phồn vinh, Giang Hoài giàu có trù phú, Phúc Kiến, Lĩnh Nam hải vận phát triển. Đặc biệt là sau khi bệ hạ lên ngôi, giang sơn chỉ còn một nửa, để tăng thêm thu nhập, triều đình không những không chèn ép thương nhân, mà trái lại còn khuyến khích cổ vũ, mở rộng thương lộ; tiết độ sứ các nơi thì phải nuôi binh, cho nên càng tử tế với thương hộ.”
“Bởi vậy những thương nhân giàu có liền trở thành chỗ dựa lớn nhất của triều đình, bọn họ cũng muốn gia nhập, mà con đường làm quan thì chỉ có một. Nếu như sau này các tiết độ sứ có thể phái văn võ đại thần đến Duyên Anh điện, các thương nhân ở trung khu cũng sẽ có người phát ngôn. Liên quan đến lợi ích của bản thân, bọn họ đương nhiên ủng hộ.”
Hết thảy những thay đổi nhỏ bé hội tụ lại, cuối cùng hóa thành sóng triều vĩ đại có thể nâng thuyền, cũng có thể lật thuyền.
Mùng bốn tháng năm, Trường Trì đế truyền chỉ đến Trác Châu, chuẩn tấu.
Tháng bảy, giành lại kinh sư, tàn quân Thát Chá bại lui đến Mật Vân. Bắc Yến thiết kỵ tiếp tục lên phía Bắc quét sạch tàn quân, tháng chín, tam quan Bắc Yến quay về tay Bắc Yến thiết kỵ, phòng tuyến Bắc Cương khôi phục. Cùng năm ấy, Bột Hải quốc nội loạn, quân khởi nghĩa buộc quốc chủ thoái vị, nguyện quy thuận Đại Chu, xưng thần tiến cống, vĩnh viễn làm phiên thuộc.
Tháng mười hai, Trường Trì đế đến kinh sư, mùng một tháng giêng năm sau, tại Thái Cực điện trong sự chúc mừng của quần thần, Trường Trì đế phong thưởng cho chư tướng, sắc phong con trai Tôn Huy của hoàng hậu làm thái tử, đồng thời ban hành《Điện Nghị Pháp》.
Mùa xuân năm Trường Trì thứ ba, Phó Thâm trở thành Tĩnh quốc công, gia phong trụ quốc tướng quân. Y tuy là người đề xướng tân chế, nhưng cũng chẳng mấy đoái hoài quyền vị, vừa mới thụ phong đã lấy lý do thương tích ở chân tái phát, dâng biểu xin rời khỏi chức vụ thống soái Bắc Yến.
Từ tháng chín năm ngoái khi thu phục tam quan, Bắc Yến quân đã được Phó Thâm tổ chức lại. Toàn quân chia ra làm bốn, đóng ở bốn châu Kế, Bình, Yến, Nguyên, do bốn đại tướng Bắc Yến thống lĩnh. Phó Thâm không lĩnh binh nữa, quân vụ phần lớn chuyển giao cho Du Kiều Đình.
Lúc bẩm tấu lên, Bắc Yến thiết kỵ còn là một đội quân, kết quả sau khi tách ra, dựa theo tân pháp, mỗi người trong bốn vị tướng quân đều tương đương với tiết độ sứ một châu. Trường Trì đế vô cùng đau đầu, Phó Thâm xin nghỉ cũng không yên, khiến số lượng võ thần Bắc Yến nhập điện từ hai tăng lên thành tám.
Quân thần cò cưa nửa ngày, cuối cùng quyết định: Bốn châu Bắc Yến mỗi quân phái một người nhập điện, ngoài ra, Phó Thâm mặc dù không lĩnh binh, nhưng vẫn nhập điện với tư cách thống soái Bắc Yến quân.
Thiên Phục quân lại quy về cấm quân, Nghiêm Tiêu Hàn nhập điện với tư cách Thiên Phục quân sứ.
Đến bấy giờ, tám châu Bắc Cảnh, năm châu Trung Nguyên, sáu châu phía Nam, một châu Tây Nam, thủy quân Đông Hải, Thiên Phục quân cùng với tám vị cựu thần Kim Lăng, tổng cộng bốn mươi tám vị điện thần, trở thành trung khu mới của Đại Chu triều.
Tân chế bước đầu thành hình, đang lặng lẽ đi vào quỹ đạo, tất cả dường như đều đi theo hướng phát triển tốt nhất như trong dự đoán.
—— Ngoại trừ Tây Nam.
Tây Bình quận vương Đoàn Quy Hồng ban đầu tiên phong “tự vệ”, hơn nữa nói được là làm được, từ sau lần đó không còn bất kỳ qua lại gì với Trung Nguyên nữa. Năm ấy mọi người hết đánh trận lại nội đấu, bản thân mình còn không rảnh, ai hơi đâu mà quan tâm ông ta rốt cuộc có ý đồ gì. Bây giờ thánh giá hồi triều, tân pháp ban hành, đã sắp sửa chào đón thái bình thịnh thế, nhưng Tây Nam vẫn chẳng có bất cứ động tĩnh gì.
Trường Trì đế cũng từng phái sứ giả đến Tây Nam để đàm phán, nhưng ngay cả Đoàn Quy Hồng còn chẳng gặp được. Sau nhiều lần như vậy, thái độ của Tây Nam không cần nói cũng hiểu. Tây Bình quận vương lại còn trở mặt vờ như không quen biết, muốn đối đầu với triều đình đến cùng.
Đất nước thiếu mất một góc như thế, trong mắt Trường Trì đế đang sục sôi khát vọng vì Nam Bắc thống nhất, việc này thật chẳng khác nào khúc xương cá mắc trong cổ họng.
Cuối xuân đầu hạ, kinh thành đổ mấy trận mưa rào, bệnh cũ của Phó Thâm lại tái phát, y xin nghỉ ở nhà an dưỡng. Nghiêm Tiêu Hàn học theo, nói bệnh cũ mình mắc ở Kinh Sở cũng tái phát, xin nghỉ luôn thể.
Phó Thâm đương nhiên biết cái “bệnh cũ” hắn nói không phải bệnh đứng đắn gì, nhưng hai người bôn ba gần hai năm, giờ khó khăn lắm mới yên ổn, phải bù đắp lại những chuỗi ngày thiếu thốn tình yêu ấy. Nghĩ vậy, y cũng chiều theo hắn.
Một ngày nào đó của tháng sáu, hai người vừa ngủ trưa dậy, đang ngồi gần chậu băng mát lạnh, thân mật trò chuyện, ăn trái cây trên chiếc giường la hán, quản gia rón rén bước qua cửa, cách bức bình phong, đứng ở gian ngoài bẩm báo: “Thưa lão gia, có người trong cung đến, bệ hạ truyền Tĩnh quốc công yết kiến.”
Mặt Nghiêm Tiêu Hàn lập tức xụ xuống: “Trời nóng thế này, lỡ say nắng thì sao? Không đi.”
“Ngươi nghĩ ai cũng yếu ớt như ngươi hả?” Phó Thâm ngắt một quả nho chặn miệng hắn, vươn người xuống giường xỏ giày: “Đừng than vãn nữa, ta đi đây.”
Nghiêm Tiêu Hàn chỉ nói thế cho sướng miệng thôi, cũng không thể ôm eo không cho y đi được, đành buồn bực nhai quả nho mát lạnh trong miệng.
Nào ngờ một khắc sau, cái người vừa nói phải đi lại đột nhiên cúi người đè xuống, đầu lưỡi liếm một vòng quanh môi hắn, còn ngả ngớn hôn trộm một cái, sau đó cười nói: “Ngọt ghê.”
Nghiêm Tiêu Hàn: “Ngươi…..”
Phó Thâm nhướn mày, cất lời trêu chọc: “Đại gia à, phí qua đường đã trả rồi, giờ có thể thả ta đi được chưa?”
Cung điện cũ tại kinh thành đã có lịch sử vài trăm năm, mặc dù trải qua nhiều lần tu sửa, nhưng về cơ bản vẫn không thay đổi gì mấy. Những tòa kiến trúc xưa cũ luôn mang đến cảm giác tĩnh mịch, nơi thâm cung, cho dù bên ngoài là mùa hạ nóng bức, thì trong điện vẫn vô cùng thanh tĩnh mát lạnh.
Chỉ là hiện tại cái lạnh ấy như ngấm vào tận xương, kết hợp với vẻ mặt giông tố sắp đến của Trường Trì đế, khiến cái chân già của Phó Thâm cũng bắt đầu nhói đau.
“Bệ hạ, phương Bắc vừa ổn định, bách tính cần nghỉ ngơi dưỡng sức, tân pháp của triều đình cũng mới ban hành, xin thứ cho thần nói thẳng, hiện giờ không phải thời cơ tốt để động binh. Vấn đề Tây Nam có thể tạm hoãn một thời gian nữa, đợi triều đình khôi phục nguyên khí rồi bàn cũng không muộn.
Trường Trì đế hừ lạnh, gương mặt âm trầm, rõ ràng không nghe lọt chữ nào vào tai.
Phó Thâm không hề chuẩn bị tâm lý cho tình cảnh hiện tại này, y biết Trường Trì đế từng phái sứ giả đến Tây Nam, nhưng không biết Đoàn Quy Hồng lại khiến hoàng thượng tức giận đến mức này. Y đội nắng vào cửa, mồ hôi trên trán còn chưa khô, Trường Trì đế đã chào đón y bằng một câu: “Tây Bình quận vương sớm muộn gì cũng phản. Phó khanh, nhiệm vụ cử binh dẹp loạn lần này, trẫm muốn giao cho khanh.”
Sau khi hỏi kỹ Phó Thâm mới biết. Theo như chế độ cũ, tháng sáu là thời gian các thuộc quốc tiến cống. Mấy năm trước triều đình bận rộn đánh trận, không rảnh lo những việc này, năm nay chính thức khôi phục, mùng một tháng giêng có nhiều sứ giả ngoại quốc đến triều, mấy hôm trước có vài cống phẩm đã lần lượt đưa vào kinh. Đây vốn là việc đáng mừng, nhưng gần đây Trường Trì đế bận tâm chuyện Tây Nam, nên đặc biệt xem kỹ danh mục lễ vật do bộ Lễ trình lên.
Không xem thì không biết, xem rồi mới phát hiện ba thuộc quốc giáp giới Tây Nam là An Nam, Chân Tịch, Lâm Ấp đều không hề cống nạp, như thể đã định sẵn với nhau!
Trường Trì đế vô cùng giận dữ, lệnh cho quan viên bộ Lễ đi tra rõ xem rốt cuộc xảy ra chuyện gì, ai ngờ đặc xứ bộ Lễ còn chưa xuất phát thì sứ giả ba nước kia liền mang theo quốc thư, ung dung đến muộn.
Quốc thư viết rất chi mỹ miều, nhưng nội dung trọng điểm chỉ có một: Ba nước muốn giải trừ quan hệ tông thuộc với Đại Chu, từ nay ngang vai ngang vế, không xưng thần tiến cống cho Đại Chu nữa.
Ba mũi đao này cắm phập vào chỗ đau của Trường Trì đế, hắn vốn đang khó chịu vì việc của Tây Bình quận vương, giờ ba nước này lại tự dưng như thế, bảo không phải do Đoàn Quy Hồng xúi giục thì ai tin?
Phó Thâm trước đây không cảm thấy Trường Trì đế là một người khăng khăng cố chấp, có lẽ là ảo giác mà Nghiêm Tiêu Hàn tạo cho y, vậy nên y vẫn hi vọng có thể khuyên can được: “Xin bệ hạ cho phép thần nói. Các nước An Nam đột nhiên có hành động này, quả thực khó mà tin nổi, nhưng chưa chắc là có liên quan đến Tây Nam, triều đình đã mấy năm rồi chưa vãng lai với bên ấy, không chừng còn có ẩn tình nào khác chăng. Nếu như chưa điều tra mà tùy tiện động binh, sẽ làm ảnh hưởng đến đến phong phạm nhân nghĩa của triều ta. Xin bệ hạ nghĩ kỹ rồi hẵng làm.”
“Phó khanh,” Trường Trì đế bỗng lạnh lùng nói, “Ngươi cảm thấy trẫm còn chưa đủ khoan dung với Tây Bình quận vương ư?”
Phó Thâm vội nói: “Thần không dám.”
“Các tiết độ sứ muốn binh quyền, muốn tự vệ, muốn nhập điện, trẫm đều đáp ứng,” Trường Trì đế nói, “Nếu Tây Nam trở về Trung Nguyên thì cũng sẽ nhận đãi ngộ như vậy, tại sao lão ta lại không chịu?”
Phó Thâm lén nhìn Trường Trì đế đang sa sầm mặt, thầm thở dài trong lòng, dự cảm sắp sửa có một hồi mưa to gió lớn.
Mặc dù Đoàn Quy Hồng không đến nỗi hận hoàng thất Đại Chu thấu xương, nhưng phỏng chừng cả đời này, ông ta cũng không cúi đầu xưng thần với họ Tôn. Song Phó Thâm biết được ẩn tình trong đó, còn người khác thì không biết. Hiện tại nhìn vào tình hình giằng co giữa hai phe, quả thực giống như thể Tây Bình quận vương không muốn bị thiên tử quản thúc nữa, chuẩn bị xưng vương làm phản.
“Đoàn Quy Hồng ở kinh doanh Tây Nam đã nhiều năm, tự xưng là ‘Tây Nam vương’, lúc Trung Nguyên đại loạn, lão ta lại ở Tây Nam an ổn làm vua một cõi, những việc này trẫm đều có thể khoan nhượng,” Trường Trì đế tức giận vỗ bàn: “Trẫm nhiều lần phái sứ giả đến Tây Nam, vô cùng nể mặt lão rồi, nhưng còn lão thì sao? Lão giẫm nát mặt mũi trẫm ở dưới chân!”
Phó Thâm bất đắc dĩ: “Xin bệ hạ bớt giận.”
Trường Trì đế cười gằn: “Trẫm nhìn ra rồi, Đoàn Quy Hồng căn bản chẳng vừa thèm chút ân huệ cỏn con ấy của triều đình, lão ta đã muốn phản từ lâu. Trú đóng ở Tây Nam, nghỉ ngơi dưỡng sức, kết minh với ba nước, sau đó tự lập làm vua, xưng bá một phương, đứng ngang hàng với Đại Chu ta.”
“Nuôi hổ thành họa,” Hắn thấp giọng lẩm bẩm, “Đúng là nuôi hổ thành họa.”
“Bệ hạ,” Phó Thâm đắn đo hồi lâu, cuối cùng vẫn lên tiếng khuyên can, “Tây Bình quận vương……”
“Phó khanh không cần nói nữa.” Trường Trì đế âm trầm nói, “Trẫm biết lão ta từng thuộc dưới trướng Dĩnh quốc công đời trước, là bộ hạ cũ của Bắc Yến quân ngươi, Phó khanh hãy trở về suy nghĩ cho kỹ, đừng vì một tên loạn thần tặc tử mà tổn hại đến sự trung nghĩa của Bắc Yến quân.”
Sắc mặt Phó Thâm thoáng cứng lại, sau đó lập tức khôi phục vẻ vô cảm, y khom người nói: “Xin nghe bệ hạ giáo huấn, vi thần cáo lui.”
Bên ngoài ánh nắng chói chang, Phó Thâm mang theo cõi lòng lạnh lẽo đi ra ngoài, bị nắng nóng chiếu vào, huyệt thái dương tức thì đau như bị kim đâm. Tường cung đỏ đến chói mắt, đi chưa được mấy bước, trước mắt liền xuất hiện một quan viên vận áo đỏ còn chói mắt hơn cả tường cung, tầm mắt hai người giao nhau, cùng ngẩn ra.
Chính là Tiết Thăng Tiết đại nhân, cái vị thượng thư bộ Lại mặc dù chưa từng đối đấu chính diện, nhưng vì đủ thứ nguyên do mà oán hậu Phó Thâm sâu sắc.
Tuổi Tiết Thăng kỳ thực chẳng cao lắm, trông cũng không già, chỉ là đứng cạnh Phó tướng quân pho thần tuấn lãng, nên nom có phần tiều tụy. Hai người nhìn nhau không nói gì, không khí hết sức lúng túng, cuối cùng Tiết Thăng chắp tay với y, Phó Thâm gật đầu đáp lễ, hai người lạnh nhạt lướt qua nhau.
Ra khỏi cửa cung, xe ngựa từ nhà tới đón đang chờ ở bên ngoài. Phó Thâm còn chưa tới gần thì một người hầu đứng dưới tàng cây gần đó bỗng chạy đến trước mặt y, nhanh nhẹn hành lễ: “Kính chào quốc công gia ạ.”
Phu xe đằng kia thấy y bị ngăn cản, bèn xuống xe định đi lại đây, song Phó Thâm lại ra hiệu ngừng lại. Y cúi đầu hỏi người hầu kia: “Có việc gì?”
“Lão gia nhà tiểu nhân lệnh cho tiểu nhân chờ ngài ở đây, mời quốc công gia chiều tối nay đến Cảnh Hòa lâu uống chút rượu.” Người hầu cung kính dùng hai tay trình danh thiếp lên: “Đây là danh thiếp của lão gia nhà tiểu nhân, lão gia nói chỉ cần ngài nhìn là biết ngay.”
Phó Thâm liếc thấy bốn chữ “Khuông Sơn thư viện” kia, lập tức hiểu ngay, y lặng lẽ cất danh thiếp vào trong tay áo, gật đầu đồng ý: “Ta biết rồi. Quay về chuyển lời với lão gia nhà ngươi, đã có lòng cho mời, nếu từ chối thì bất kính.”
|
Chương 73: Nửa đêm[EXTRACT]Cảnh Hòa lâu nổi tiếng nhiều đời, đồ ăn Hoài Dương số một trong kinh. Lúc Phó Thâm đi vào, trong phòng đã có một người chờ sẵn. Cố Sơn Lục mặc thường phục, đứng dậy nghênh đón: “Tướng quân đến rồi đấy ạ, xin mời vào.”
Lần trước tiễn biệt ngoài thành, Cố Sơn Lực còn là một ngự sử nho nhỏ thế lực đơn bạc, sau một hồi chiến loạn, ở Giang Nam hắn rất được Trường Trì đế trọng dụng, thăng lên chức trưởng quan Đô Sát viện, là một trong chín đại thần ở Duyên Anh điện. Sau khi hồi kinh, hắn vẫn tọa trấn Đô Sát viện, quản lý việc xử tội trình tấu.
Lập trường của người này rất vi diệu, hắn xuất thân từ Giang Nam, nhưng không phải con cháu thế gia, thưở thiếu thiếu theo học ở Khuông Sơn thư viên, thầy là Tằng Quảng, sau đó thi đỗ khoa cử, từng bước thăng tiến trong Đô Sát viện. Trước đây Cố Sơn Lục không có tiếng tăm gì, lần đầu hắn ra mặt là trong vụ án sứ đoàn Đông Thát, kết quả vụ án sứ đoàn bỏ ngỏ, thầy của hắn lại bị tống vào đại lao, sứt đầu mẻ trán hơn nửa năm, cuối cùng Phó Thâm nhờ Nghiêm Tiêu Hàn cứu thầy hắn ra ngoài.
Vậy nên khi ở triều đình Kim Lăng, Cố Sơn Lục vẫn luôn đứng ở phe cựu thần phương Bắc, mà nhóm tân quý Giang Nam đối đãi với hắn cũng bất đồng với người khác. Sau khi về kinh thành, bọn họ nhiều lần lấy lòng, muốn lôi kéo trợ lực cho đảng Giang Nam trong Duyên Anh điện.
Các ngự sử tuy không được triều thần yêu thích, nhưng quả thực là một món lợi khí khi đối phó với kẻ địch chính trị.
Song thái độ của Cố Sơn Lục cứ luôn mập mờ, trông thì hiền lành từ tốn, nhưng lòng dạ thì chẳng thua kém cáo già. Sau khi hồi kinh hắn hầu như không qua lại với Phó Thâm và Nghiêm Tiêu Hàn, người bình thường không ngờ được hắn và hai người này từng có giao tình cũ.
Cố Sơn Lục nói: “Hạ quan thân là ngự sử, không thể lộ liễu qua lại với tướng quân, phải ra hạ sách này, mong ngài thông cảm cho. Hôm nay mạo muội mời tướng quân tới đây, chính là vì việc mà mấy ngày nay bệ hạ đang lo lắng.”
Ngón tay Phó Thâm miết ly rượu, không hề bất ngờ khi hắn đi thẳng vào vấn đề, y bình tĩnh nói: “Bệ hạ cũng tìm ngươi sao?”
“Đúng vậy,” Cố Sơn Lục rót đầy rượu cho y, “Bệ hạ muốn động binh với Tây Nam, trước hết phải có sự đồng ý của Duyên Anh điện, hiện tại bốn mươi tám vị điện thần trong có vẻ phân tán, nhưng kỳ thực đầu lĩnh chỉ có vài người, bệ hạ thăm dò từng người một là có thể nắm được đại khái thái độ của Duyên Anh điện.”
“Bệ hạ muốn để ta lĩnh binh, “Phó Thâm nói, “Ta khuyên can hết lời mà vẫn không đả động được.”
Cố Sơn Lục cười khổ, “Sáng nay lúc ta tiến cung, bệ hạ đang nổi trận lôi đình vì chuyện ba nước An Nam. Bệ hạ ngầm muốn Đô Sát viện kết tội Tây Bình quận vương, như vậy sẽ coi như có cái cớ. Hơn nữa ta thấy, Duyên Anh điện chưa chắc sẽ phản đối chuyện này đâu.”
Phó Thâm: “Nguyện nghe cho tường.”
Cố Sơn Lục nói: “Tây Nam tự lập, đối với triều đình chỉ có trăm hại mà không một lợi. Thứ nhất là nó rất gần Kinh Sở, Lĩnh Nam, nếu Tây Bình quận vương muốn mở rộng thế lực, chịu tổn thất đầu tiên sẽ là hai nơi này. Thứ hai là nó giáp với An Nam, Chân Tịch, nếu Tây Nam kết làm đồng minh với những tiểu quốc này, triều ta không chỉ khó vãng lai với các nước Nam Dương trên đất liền, mà cả hải vận cũng sẽ bị ảnh hưởng.”
“Sau khi đại quân giành lại kinh thành, triều chính lúc nào cũng phơi phới, nghe nói còn tâng ngài lên trận mây xanh, bảo Bắc Yến thiết kỵ toàn là thiên binh thiên tướng, bất khả chiến bại. Cho nên nếu đổi thành người khác lĩnh binh, có lẽ bọn họ còn phải cân nhắc, nhưng nếu là ngài lĩnh binh thì chẳng cần phải lo lắng nhiều.”
Phó Thâm chẳng có lời nào để nói, đành cười lạnh: “Thật là đánh giá cao ta quá.”
“Còn một nguyên nhân nữa,” Cố Sơn Lục nghiêm mặt nói, “Tây Bình quận vương từng là bộ hạ cũ của Bắc Yến quân, có quan hệ với ngài và phủ Dĩnh quốc công. Hẳn tướng quân cũng cảm giác được, trong triều có rất nhiều cặp mắt đang nhìn chằm chằm vào ngài, e rằng cái vị kia cũng không ngoại lệ. Trong quá trình Tây chinh, một khi phạm sai lầm…… Tình ngay lý gian, có muốn kêu cũng chẳng được.”
“Phải dùng tới trăm phương ngàn kế như vậy sao?” Phó Thâm nâng ly rượu lên, uống một hớp, tự giễu: “Nếu ta muốn làm gì thì còn cần chờ tới bây giờ chắc?”
“Cũng chính vì ngài không ‘làm gì’ cả, cho nên những người đó mới thấy bất an,” Cố Sơn Lục nói, “Tướng quân bây giờ có quyền thế và thanh danh cực cao, chờ đến lúc ngài thật sự muốn làm gì thì ai có thể ngăn cản được?”
Hắn khẽ thở dài: “Tục ngữ nói đúng, ‘Không sợ nhất vạn, chỉ sợ vạn nhất"”.
Phó Thâm chẳng biết Cố Sơn Lục rốt cuộc định mời y ăn cơm hay đặc biệt đến để chọc tức y nữa. Lúc đi ra khỏi tửu lâu, y mang theo thân thể đầy mùi rượu và một bụng tức, bị tên cướp khổ sở chờ cả buổi nào đó chặn đường kéo lên xe ngựa.
“Giỏi lắm,” Nghiêm Tiêu Hàn nghiến răng nói, “Bảo ta ở nhà chờ, còn mình thì chạy đi uống rượu với người khác.”
Phó Thâm im lặng giang hai tay, ngả người, nặng nề ôm hắn.
Tiếng uy hiếp của Nghiêm Tiêu Hàn tức khắc dịu đi, hắn vội đằng hắng, “Làm gì đó, đừng tưởng làm nũng thì hữu dụng….. Sao thế, uống rượu mà còn không vui à?”
“Mộng Quy.” Y thì thào.
Sóng này chưa lặng sóng kia đã nổi, hoàng đế đổi hai đời, nhưng vẫn đa nghi y hệt nhau. “Công cao chấn chủ” như đám mây đem quanh năm che kín trời, chỉ cần Phó Thâm còn sống trên cõi đời này, thì sẽ vĩnh viễn không thể thoát khỏi bóng đen đó.
Tiếng gọi ấy khiến trái tim Nghiêm Tiêu Hàn như bị mèo cào, hắn không cười gằn, cũng không khó chịu, mà cẩn thận nâng y lên: “Ừ, ta đây. Làm sao vậy, nói ta nghe đi, xảy ra chuyện gì?”
Phó Thâm không muốn nói chuyện, lòng y đột nhiên cảm thấy chua xót, vì vậy liền ôm Nghiêm Tiêu Hàn chặt hơn.
Thấy y không nói gì, cứ rúc trong ngực mình, dáng vẻ ấm ức đáng thương, Nghiêm Tiêu Hàn nhẹ nhàng cười, lời nói chứa đựng sự cưng chiều vô bờ: “Được rồi, không muốn nói thì đừng nói. Ngươi có mệt không? Ngủ một lát đã nhé.”
Xe ngựa xóc nảy, cái ôm ấm áp, cơn say dâng lên, Phó Thâm từ từ chìm vào giấc ngủ.
Đến nửa đêm tỉnh dậy, y phát hiện mình đã an ổn nằm trên giường, thân thể sạch sẽ khoan khoái, không có mùi rượu, bên gối truyền đến tiếng hít thở đều đều của một người khác. Nghiêm Tiêu Hàn nằm đối diện y, một tay cách lớp chăn khoát lên hông y. Dựa vào ánh sáng mông lung nhàn nhạt ngoài màn trướng, Phó Thâm có thể thấy rõ gương mặt ngủ an yên của hắn.
Người tỉnh, rượu cũng tỉnh, Phó Thâm thả chậm hô hấp, từ từ bình tĩnh lại trong đêm khuya yên ắng. Nhớ lại thông báo của Trường Trì đế và lời nhắc nhở của Cố Sơn Lục hồi chiều nay, tâm trạng không còn kịch liệt nữa.
Y thậm chí còn thấy buồn cười, năm đó Nguyên Thái đế trước ám sát sau ban hôn, đủ thứ thủ đoạn thay nhau ra trận, cái này nối tiếp cái kia, cuối cùng chẳng phải vẫn đang yên lành đó sao? Mà sao vật đổi sao dời, y đứng cao hơn nhưng lại không bằng lúc trước, chỉ vì chút chuyện cỏn con ấy mà sầu đến nỗi làm nũng với Nghiêm Tiêu Hàn?
Đều tại Nghiêm Tiêu Hàn!
Giờ Phó Thâm mới biết ở cạnh bên Nghiêm Tiêu Hàn, y thật sự an tâm, đó là một thứ cảm giác an toàn mạnh mẽ mà y chưa từng gặp ở bất kỳ người nào. Chẳng nói đâu xa, nếu là trước đây, có người ở bên cạnh, Phó Thâm uống rượu vào tuyệt đối sẽ không ngủ ngay, càng không để người ta nhấc lên nhấc xuống, thay đồ tắm rửa, làm cái gì cũng không tỉnh.
Hoàng đế chỉ mới nảy sinh ý nghĩ, muốn thực thi cần trải qua bao khâu thủ tục, chờ thực sự khai chiến thì phải đến tháng nào năm nào. Cứ giả như Duyên Anh điện đồng ý đi, nếu y lĩnh binh xuất chinh thì vẫn có thể đến Tây Nam chậm rãi thương lượng với Đoàn Quy Hồng, cùng lắm thì kéo dài một hai năm.
Chuyện này có gì mà phải sầu?
Trung nghĩa là thứ xiềng xích y dùng để trói buộc bản thân, chứ không phải gông cùm đưa cho kẻ khác để sai khiến chính mình. Phó Thâm phát hiện mình quả thực nghĩ thoáng hơn trước đây, có lẽ vì trải qua cảnh nước mất nhà tan rồi, cho nên minh tranh ám đấu trên triều đình liền có vẻ vô cùng thấp kém, như kiểu ăn no rỗi việc vậy.
Có lúc “cùng đường mạt lộ” cũng không phải thật sự không đường thối lui, mà là bởi ranh giới quá cao. Đối với Nguyên Thái đế, Phó Thâm còn có mấy phần kiêng kỵ, nhưng nếu một ngày nào đó Trường Trì đế bức y đến tình cảnh ấy, thì Phó Thâm đương nhiên không ngại suy tính vì thiên hạ, khiến hoàng thành thâm cung, vạn dặm giang sơn này thay một vị vua mới.
Y đang suy nghĩ nhập thần, lơ đãng trở mình, kết quả chút động tĩnh ấy khiến Nghiêm Tiêu Hàn tỉnh dậy, hắn mơ màng hỏi: “Kính Uyên?”
“Không có gì đâu, ngươi ngủ đi.” Phó Thâm kéo chăn lên cho hắn. Nghiêm Tiêu Hàn nhẹ nhàng “Ừm” một tiếng, dường như lại chìm vào trong mộng, nhưng không bao lâu sau, hắn lại mở mắt ra, đôi mắt thanh minh nhìn sang y: “Ngươi tỉnh rượu chưa?”
“Rồi,” Phó Thâm nhặt lấy một sợi tóc dài của hắn buông trên gối, cuốn sợi tóc vào ngón tay, “Đừng để ý đến ta, cứ ngủ đi.”
“Ngươi đã tỉnh rồi, ta còn ngủ gì nữa.” Nghiêm Tiêu Hàn khoác áo xuống giường, rót hai chén trà bưng về, hai người lặng lẽ nhấp trà nhuận cổ họng, Nghiêm Tiêu Hàn thắp đèn lên, rồi nằm trở lại giường: “Bây giờ có thể nói cho ta được chưa?”
Phó Thâm: “Cái gì?”
“Chiều nay hoàng thượng gọi ngươi tiến cung, không phải vì chuyện Tây Nam sao?” Nghiêm Tiêu Hàn ôm lấy y, “Tối nay Cố Sơn Lục tìm ngươi cũng vì chuyện đó đúng chứ? Xem quốc công gia của chúng ta sầu não chưa kìa.”
Phó Thâm mấy năm rồi không lĩnh giáo bản lĩnh của thống lĩnh Phi Long vệ, nhất thời khó mà tin nổi: “Sao ngươi biết? Lúc ta ra ngoài ngươi trốn trong túi ta đấy à?”
“Thế này có là gì,” Nghiêm Tiêu Hàn cười bảo, “Nghề cũ thôi mà.”
Vẫn giống như trước đây, không gì là không nhúng tay vào được. Nguyên Thái đế nuôi ra cái thứ gì vậy, ngay cả con trai mình cũng chạy không thoát.
Mặc dù Phi Long vệ đã bị xóa bỏ, nhưng nhóm nhân mã cũ thì vẫn còn, hơn nữa từ khi hồi kinh, phòng vệ cấm quân đều do một tay Nghiêm Tiêu Hàn nắm giữ, hắn đã sớm sắp đặt vô số tai mắt ngầm. Kể từ sau vụ Chiếu Hoàng Kim đài, Trường Trì đế sinh ra nghi ngờ với y, lại có đám Tiết Thăng ngày ngày quạt gió thổi lửa, y không còn được tín nhiệm như trước nữa. Nhưng nhân tài dưới trướng của hoàng đế chỉ có hạn, ngoại trừ Nghiêm Tiêu Hàn, không tìm được ai khác có thể chỉ huy cấm quân, thế nên buộc phải tiếp tục dùng hắn.
Làm vậy chẳng khác nào dẫn sói vào nhà, đặt yết hầu dưới răng nanh kẻ khác, muốn đóng cửa lại cũng muộn rồi.
Huống hồ Nghiêm Tiêu Hàn là ai, từ nhỏ được Đoàn Linh Lung – quyền hoạn số một Nguyên Thái triều tự tay dạy dỗ, mười mấy tuổi đã gia nhập Bắc Nha cấm quân, thị vệ ngự tiền, sau đó còn trở thành khâm sát sứ Phi Long vệ hoành hành triều chính. Mấy trò câu tâm đấu giác, mánh khóe thủ đoạn đối với hắn chỉ như ăn cơm uống nước hàng ngày, đã thành bản năng rồi.
Nhận thấy thái độ Trường Trì đế thay đổi, hắn lại càng dốc sức trong việc “dỗ dành hoàng đế”, quả nhiên, hiện giờ Trường Trì đế lúc nào cũng ôn hòa với hắn, vô cùng ỷ lại.
Phó Thâm không thể không thừa nhận, ở phương diện “lừa lọc” này, Nghiêm Tiêu Hàn quả thực giỏi hơn y nhiều lắm, đây là một bản lĩnh không thể học được. Nếu chiều nay người vào cung gặp vua là Nghiêm Tiêu Hàn, thì không chừng có thể khiến Trường Trì đế hồi tâm chuyển ý.
“Hoàng thượng rất cố nhấp về việc này, chỉ sợ sẽ không dễ dàng bỏ qua.”
Nghiêm Tiêu Hàn nghe Phó Thâm kể xong, bày tỏ cự tuyệt ý nghĩ “Hắn có thể thuyết phục Trường Trì đế”: “Tính tình hoàng thượng thế nào, đáng lẽ ngươi phải biết rồi chứ, không chịu nổi kích thích, lại hay mơ tưởng viển vông, lúc ẩn náu thì còn biết sợ, biết thu mình; nhưng một khi nắm giữ thiên hạ thì duy ngã độc tôn, cực kỳ cố chấp.”
Bình thường không đáng sợ, mắt cao hơn đầu mới đáng sợ; ngu xuẩn cũng không đáng sợ, tự cho mình thông minh mới là đáng sợ.
“Hắn không quyết đoán được như thái thượng hoàng, nhưng lại muốn học thủ đoạn của thái thượng hoàng. Hồi ở Giang Nam thì trọng dụng cựu thần phương Bắc, bây giờ để cân bằng thì lại muốn nâng sĩ tộc Giang Nam lên,” Nghiêm Tiêu Hàn nói, “Ngoài ra còn có vấn đề quốc uy rồi an nguy Giang Nam,… Trong chuyện Tây chinh, hoàng thượng có cùng lập trường với sĩ tộc Giang Nam, cho nên không khuyên nổi đâu, khuyên nhiều có khi hắn còn nổi giận với ngươi ấy chứ.”
Phó Thâm cau mày: “Không còn cách nào khác, chỉ có thể làm bậy theo ý hắn sao?”
“Trừ phi Thái Sơn sụp xuống, hoặc là trời giáng dị tượng, không thì việc này rất khó cứu vãn.” Cách một lớp áo, Nghiêm Tiêu Hàn vuốt ve bả vai y, “Cố Sơn Lục nhắc nhở có lý đấy, bây giờ ngươi đang là cái định trong mắt rất nhiều người, cho dù việc này cuối cùng có thành công hay không, bọn họ đều phải tìm cách vạch lỗi của ngươi, thậm chí mượn cơ hội để liên lụy hoàng hậu và thái tử, ngươi nhất định phải cẩn thận.”
“Ta biết rồi,” Phó Thâm thở dài nói, “Xem ra Duyên Anh điện cũng không ngăn hắn tìm đường chết được.”
“Cơm phải ăn từng miếng từng miếng, chính trị cũng phải đi từng bước từng bước, sốt ruột làm gì.” Nghiêm Tiêu Hàn vươn tay ấn mi tâm y, “Nào, đừng nhăn mày nữa, cười một cái đi.”
“Hơn nửa đêm rồi, còn nghịch gì thế?” Phó Thâm nói với bản mặt vô cảm, “Không cười đâu. Hay là ngươi cười một cái cho ta xem đi?”
“Ngoan, chỉ cười một cái thôi mà,” Nghiêm Tiêu Hàn dụ dỗ, “Hôm nay ngươi để ta khổ sở đợi cả buổi chiều, phải bồi thường một chút chứ?”
Phó Thâm bị hắn quấy mãi một hồi, sầu muộn cũng vơi đi, y vốn còn định giữ bản mặt nghiêm túc thêm một lúc nữa, kết quả lại bật cười trước, chọc chọc mảng ngực lộ ra của hắn: “Vô lại.”
Nghiêm Tiêu Hàn hùng hồn nói: “Hảo hán vô hảo thê, lại hán chiếm hoa chi.”
(Hiểu nôm na là trai tốt không lấy được vợ tốt, trai tồi thì lấy được vợ xinh như hoa.)
“Hoa chi” suýt nữa run thành cái gậy đánh chó.
Chờ Phó Thâm vất vả ổn định hô hấp, Nghiêm Tiên Hàn liền ôm cả người lẫn chăn vào trong ngực, ngang ngược tuyên bố: “Ta muốn chà đạp ngươi.”
“Ha ha ha…..”
Tình hình quả đúng như bọn họ dự liệu. Không bao lâu sau, Trường Trì đế đề xuất việc chinh phạt Tây Nam tại Duyên Anh điện, ngoại trừ biên quân Bắc Cảnh đứng về phe Phó Thâm, bốn mươi điện thần khác, bao gồm cả Nghiêm Tiêu Hàn, đều đồng ý với đề nghị của hoàng thượng.
Điều này khiến ánh mắt người ngoài nhìn hai bọn họ lại thêm một tầng thâm ý. Lúc Bắc phạt, Bắc Yến quân và Thiên Phục quân còn có vẻ đồng lòng đồng chí, giờ chưa qua bao lâu mà hai người này đã bất hòa rõ ra mặt.
Giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời, gian nịnh đúng là không thể tin tưởng được.
Mùa xuân năm sau, Tĩnh quốc công Phó Thâm dẫn mười vạn đại quân xuất binh xuôi Nam, phụng mệnh chinh phạt Tây Bình quận vương Đoàn Quy Hồng.
Lần này quân theo y xuất chinh không còn là bộ hạ cũ Bắc Yến thiết kỵ nữa, mà là một nhánh quân triều đình được mở rộng, chủ lực là quân Giang Nam do Triệu Hi Thành từng thống lĩnh thu phục Trung Nguyên.
Vẫn trên Hoàng Kim đài nơi ngoại ô kinh thành, tinh kỳ phấp phới, chiến mã hí vang.
Trường Trì đế đích thân đến ngoại thành tiễn biệt đại quân, hệt như năm xưa Nguyên Thái đế dẫn theo văn võ bá quan tiễn người tướng quân trẻ đi về phương Bắc đánh giặc, trông thì hào hùng tráng khí, mà thực tế lại hờ hững lạnh lùng.
Nghiêm Tiêu Hàn đứng cách Trường Trì đế không xa, ánh mắt lần lượt đảo qua các vị đại thần, cuối cùng dừng ở bóng lưng hơi phát tướng ra của Trường Trì đế.
Gương mặt hắn lạnh nhạt, không tỏ vẻ gì, nhưng như vậy lại càng có vẻ chân thật hơn đám quân thần đang giả vờ cảm khái kia.
Từ đằng xa, Phó Thâm đưa mắt nhìn lại, ánh mắt hai người chạm nhau giữa không trung, Nghiêm Tiêu Hàn nhẹ nhàng gật đầu một cái.
Hắn mơ hồ cảm giác được, dưới lớp mũ giáp kiên cố, người kia dường như đang nở nụ cười.
Đêm trước ngày hành quân, Nghiêm Tiêu Hàn nói với Phó Thâm: “Ngươi cứ an tâm xuôi Nam, ở hậu phương có ta trông giữ cho ngươi, không cần phải lo lắng gì cả.”
Khi ấy Phó Thâm chẳng nói gì, chỉ nở nụ cười, vặn cằm hắn hôn một cái. Dường như không hay biết gì, mà cũng giống như đã nhìn thấu chân tướng.
Gió xuân lồng lộng thổi, Nghiêm Tiêu Hàn đưa mắt nhìn về phía soái kỳ đang mỗi lúc một xa, lòng lặng lẽ bổ sung thêm đoạn mà tối qua chưa nói hết.
Chờ ngươi trở về, ta sẽ trả lại cho ngươi một triều đình sạch sẽ.
|
Chương 74: Không ngủ[EXTRACT]Mùa hè trôi qua, nóng ẩm dần biến mất, để chuẩn bị cho Trường Trì đế tháng chín đến Giang Nam, Nghiêm Tiêu Hàn được phái tới Kim Lăng trước, lo liệu các công việc phòng vệ hành cung.
Một ngày trước khi đi, hắn bàn giao công vụ cho nhóm Ngụy Hư Chu xong xuôi, về nhà ngồi ở hành lang, nhìn đám hạ nhân tất bật thu gom hành lý, chán nản gẩy gẩy đóa hoa tú cầu trắng bên cạnh. Hoàng hôn nơi chân trời rọi xuống những tia nắng vàng, Nghiêm đại nhân đứng trước gió thở dài thườn thượt, cảm giác mình mà còn tiếp tục thế này nữa thì có khi sẽ mở miệng ngâm ra mấy câu kiểu như “Chiều tà hiu hắt nước mênh mang”.
(Câu thơ trong bài “Vọng Giang Nam” của Ôn Đình Quân, diễn tả nỗi lòng người thiếu phụ mong ngóng chồng đi xa trở về )
Phó Thâm viễn chinh Tây Nam đã hơn ba tháng, cũng không phải Nghiêm Tiêu Hàn lo lắng cho an nguy của y, mà chẳng qua là cảm thấy hoảng loạn. Phân ly đằng đẵng, tương tư dày vò, lúc ở Kim Lăng đã nếm đủ tư vị rồi, bây giờ lại phải nếm trải lần nữa, may mà hắn nhẫn nại tốt, lý trí vẫn giữ được, không thì đã mặc kệ Trường Trì đế, quẳng gánh mà đi vạn dặm tìm chồng rồi.
“Lão gia!” Quản gia từ gian trước vội vàng chạy tới, cầm một phong thư mỏng manh, hai tay trình lên, thưa, “Lão gia, vừa có quân lính đến nhà đưa thư, nói đây là thư quốc công gia gửi từ Tây Nam về.”
Tay Nghiêm Tiêu Hàn run lên, hoa tú cầu bỗng dưng bị ngắt trụi mất một mảng, cánh hoa rơi lả tả đầy đất. Tai hắn tràn ngập tiếng tim mình đập liên hồi, gương mặt cố làm ra vẻ trấn định: “Đưa ta xem.”
Phong thư rất mỏng, miệng dán kín, bên trong chỉ có một tờ giấy mỏng dính, lúc lấy ra Nghiêm Tiêu Hàn còn sợ mình mạnh tay làm rách giấy.
Tại sao chỉ có một tờ giấy? Năm ấy chỉ sáu chữ “Vợ ta có bình an không” mà vẫn in sâu trong lòng hắn, lần này cách ngàn núi vạn sông, y sẽ viết gì đây?
Đến khi mở bức thư ra, Nghiêm Tiêu Hàn vẫn giữ nguyên tư thế cầm thư, cả người hoàn toàn cứng ngắc lại.
Cái gì thế này?
Chẳng có đôi câu vài lời, chỉ có một đống ngoằn nghoèo y như bùa vẽ quỷ. Nghiêm Tiêu Hàn căng mắt nhìn một lúc lâu, mới phân tích được bút pháp hào phóng cuồng dã của Phó Thâm bằng trí tưởng tượng nghèo nàn của mình.
Đen là lưng, trắng là bụng, đằng trước nhô ra là mỏ, đằng sau vểnh lên là móng, vết mực nghiêng nghiêng hai bên là….. cánh?
Không đúng, thứ gì mà có bốn cánh chứ?
Phó Thâm tốt xấu gì cũng là công tử thế gia, thư họa mặc dù không thể lưu truyền cho đời sau nhưng cũng phải cho người ta nhìn ra được mình vẽ cái gì, nhưng mớ đen xì này là cái quái gì đây?
Nghiêm Tiêu Hàn hoàn toàn không ý thức được, bộ dáng vừa dở khóc dở cười vừa nghiến răng nghiến lợi này vô cùng dọa người, hắn như đứa trẻ bị hấp dẫn bởi một món đồ chơi mới, chăm chú kiếm tìm đáp án, hoàn toàn không xét đến khả năng tranh này là tiện tay quẹt bậy, chẳng có bất cứ ý nghĩa gì.
Đương nhiên, Phó Thâm sẽ không gửi thư từ ngàn dặm xa xôi chỉ để trêu hắn, mà vẽ được như thế này, y cũng đã cố hết sức rồi.
Nghiêm Tiêu Hàn nghiên cứu cả buổi, nhìn xuôi nhìn ngược, rốt cuộc phát hiện ra vừa rồi mình đoán sai, đằng trước nhô ra không phải mỏ mà là hai cái đầu chim, đằng sau vểnh lênh cũng không phải móng mà là đuôi, bốn vết mực là hai đôi cánh, kết hợp với lưng đen bụng trắng, đáp án cuối cùng vô cùng sống động.
Trên giấy vẽ….. một đôi chim nhạn.
Khoảnh khắc hiểu ra ý nghĩa bức tranh, ánh mắt hắn bỗng chốc trở nên dịu dàng, như đột nhiên bị thứ gì đó đánh trúng trái tim, khóe môi cong lên, trong đôi mắt như có sóng nước dập dềnh.
Thư được gửi về cùng quân báo, vì sợ bị trộm mất nên Phó Thâm không thẳng thắn tỏ lòng, đành dùng cách này, gửi cho hắn một phong “nhạn thư”.
“Hồng nhạn” rốt cuộc có ý nghĩa gì, đó là sự ngầm hiểu chỉ hai người mới biết được.
Nhạn là loài chim trung trinh, suốt kiếp chỉ có một bạn đời, sải cánh cùng bay khắp chân trời.
Đêm hôm ấy, khi Nghiêm Tiêu Hàn trằn trọc không yên vì bức thư gửi về nhà này, thì ở một đầu khác của kinh thành, trong phủ Tiết thượng thư, cũng có người không ngủ được.
Gần đây Đô Sát viện tố cáo hai quan viên lục bộ, sau khi hoàng thượng xem tấu chương, liền theo lệ cho phép hai kẻ này tạm thời từ chức, đóng cửa tự kiểm điểm bản thân, vụ án giao cho Đại Lý tự điều tra. Đây vốn là quy trình bình thường, cái gọi là “tố cáo” chẳng qua chỉ là mấy tật xấu nho nhỏ, chẳng ai xem là chuyện to tát. Nhưng không ngờ, Đại Lý tự lại điều tra ra ngọn nguồn —— Tìm được chứng cứ hai kẻ kia thu hối lộ trái phép!
Lỗ hổng một khi bị vạch ra thì không thể ngăn cản được nữa. Đại Lý tự khanh Chu Xán là người liêm chính nổi tiếng trong triều, mềm không được cứng chẳng xong, dù biết hai người này thuộc đảng Giang Nam nhưng vẫn không hề có ý định buông tha. Chẳng bao lâu sau, tấu chương của Đại Lý tự được trình lên, Trường Trì đế tức giận, cho phép bộ Hình tống giam hai kẻ này, chờ mùa thu thẩm án xong sẽ hành quyết.
Tiết Thăng bỗng dưng mất đi hai kiện tướng đắc lực, tình cảnh trở nên vô cùng khốn đốn, gần đây thái độ của Trường Trì đế với ông ta cũng hơi lạnh nhạt. Đêm nay nhà ông ta có khách tới, là học sĩ thị giảng Trịnh Đoan Văn, hữu thị lang bộ Lễ cùng xuất thân từ Giang Nam, mang đến cho ông ta một tin không biết là tốt hay xấu.
“Chiều hôm nay, người đưa tin mang quân báo từ Tây Nam đến, đại quân đã đóng quân ở ngoài thành hơn một tháng, hai bên chưa từng giao đấu thăm dò, Tĩnh quốc công viết trong quân báo rằng, Đoàn Quy Hồng nhiều lần phái sứ giả đến doanh trại cầu kiến chủ soái, mấy hôm nữa y sẽ gặp Tây Bình quận vương để nói chuyện chiêu hàng.”
“Hoàng thượng xem xong quân báo, sắc mặt không thể nào nhìn nổi, giận đến run người, hỏi ta ‘Trẫm năm lần bảy lượt phái người đến Tây Nam, lão ta cáo ốm không chịu gặp, sao Phó Thâm vừa đến thì lập tức đon đả nhắc lại tình xưa? Lão ta có oan khuất gì trẫm không thể xử lý hay sao mà phải cần tới trước mặt Phó Thâm mới nói được?"”
Tiết Thăng là người đầu tiên tán thành Trường Trì đế chinh phạt Tây Nam, vậy nên mỗi khi có tình báo từ Tây Nam, Trường Trì đế đều gọi ông ta vào cung thương lượng. Nhưng giờ ông ta dính vết nhơ này, làm lỡ mất cơ hội, để Trịnh Đoan Văn ra mặt trước hoàng thượng —— Nghe nói hoàng đế còn khá tin tưởng hắn.
Việc can hệ trọng đại, Trịnh Đoan Văn không quyết định chắc chắn được, bèn cẩn thận nói: “Vân Bình huynh, huynh nghĩ, hoàng thượng đang bất mãn với Tây Bình quận vương, hay là…… có ý kiến với vị nào đó?”
Đảng Giang Nam xưa nay luôn coi Tĩnh quốc công Phó Thâm là tâm phúc đại địch. Người này chẳng những nắm trọng binh trong tay mà năm xưa trên Hoàng Kim đài còn suýt quét sạch sĩ tộc Giang Nam ra khỏi triều đình, đám Tiết Thăng phải thi thoảng can gián mấy câu kiểu như công cao chấn chủ, kiêu căng ngạo mạn trước mặt Trường Trì đế. Bây giờ Trường Trì đế hễ nhắc đến Phó Thâm là sẽ không hòa nhã, quá nửa là nhờ công của đám người này.
Tiết Thăng thầm cười lạnh, thu hồi lại tâm tư đang hỗn loạn, không vội trả lời, mà hỏi: “Phương Đức ứng đối ra sao?”
“Chuyện này……” Trịnh Đoan Văn ngập ngừng, “Đệ chỉ nói Đoàn Quy Hồng đại nghịch bất đạo, kẻ này dù có chiêu hàng thì về sau cũng chưa chắc sẽ không mưu phản nữa, Tĩnh quốc công làm như vậy thật có phần thiếu sáng suốt.”
Tiết Thăng vuốt râu, sâu xa nói: “Phương Đức còn nhớ năm ấy sứ giả Thát Chá đến Kim Lăng, muốn nghị hòa với triều ta chứ? Lúc đó Nghiêm Tiêu Hàn và Phó Thâm cùng ở tiền tuyến, trên tấu chương gửi về chỉ có bảy chữ ‘Thà chiến tử cũng không nghị hòa’. Sao bây giờ chỉ đối mặt với một quận vương mà y lại sợ đầu sợ đuôi rồi?”
“Ý huynh là……”
“Đoàn Quy Hồng đúng là bộ hạ cũ của Bắc Yến, nhưng đó là giao tình xa lắc từ đời cha đời chú rồi. Phó Thâm và lão ta làm gì có tình đồng bào cũ cơ chứ? Chỉ là kiếm cớ mà thôi.” Tiết Thăng nói, “Mặc kệ lý do của y là gì, Phó Thâm không chịu dùng vũ trang với Đoàn Quy Hồng, đây là việc mà không ai có thể chối bỏ. Triều ta dùng kẻ như vậy để đối đầu với quân địch, lỡ như y nội ứng ngoại hợp với Đoàn Quy Hồng thì chẳng phải là đại loạn hay sao?”
Nhưng chẳng phải huynh cố hết sức xui khiến bệ hạ phái y đến tiền tuyến Tây Nam ư?
Trịnh Đoan Văn nhận ra sát ý từ trong lời nói của ông ta, lưng chợt lạnh ngắt: “Vân Bình huynh, ý của huynh là….. Phó Thâm và Đoàn Quy Hồng cấu kết muốn mưu phản? Đây là tội lớn đáng chém đầu! Y đâu đến mức độ đó?”
“Không phải y ‘đâu đến mức độ đó’, mà là chúng ta ‘đâu đến mức độ đó’,” Tiết Thăng bình tĩnh nói, “Trong triều rõ ràng có kẻ đang nhắm vào chúng ta, nếu còn không làm gì thì người tiếp theo không gánh nổi mũ quan chính là đệ và ta. Phó Thâm có mưu phản hay không không quan trọng, chỉ cần hoàng thượng tin rằng y mưu phản là được.”
“Chỉ cần lật đổ được y, liên minh phương Bắc tất nhiên sẽ tan rã, không cần chúng ta ra tay, bọn chúng sẽ tự nội chiến với nhau, lúc đó mới là cơ hội để chúng ta hành động.”
Đêm hè oi bức, nhưng một giọt mồ hôi lạnh vẫn lăn xuống từ thái dương Trịnh Đoan Văn.
Đúng là hắn đứng về phe Tiết Thăng, nhưng bao năm qua cũng nghe ca tụng Bắc Yến thiết kỵ dẹp tan ngoại địch, bảo vệ biên giới. Kết đảng là một chuyện, nhưng sao lại đến nông nỗi phải mưu hại công thần, phải giết chết Phó Thâm bằng được mới vừa lòng?
“Chỉ cần hoàng thượng tin rằng y mưu phản là được”, đây chẳng phải là….. có lẽ có hay sao?
(Thời Tống, gian thần Tần Cối vu cho Nhạc Phi là mưu phản, Hàn Thế Trung bất bình, bèn hỏi Tần Cối có căn cứ gì không, Tần Cối trả lời “Có lẽ có”. Về sau từ này dùng để chỉ lời bịa đặt không có căn cứ.)
Trịnh Đoan Văn hoảng hốt từ biệt Tiết Thăng, được quản gia dẫn đường, đi qua tiền viện, ra tới cổng lớn.
Đêm đã khuya, nhưng ngoài cổng vẫn có tiếng người. Hai người đi tới cổng trước, phát hiện dưới bậc thang có một thanh niên vóc dáng không cao đang đứng đó, nheo mắt ngó nghiêng, miệng mắng chửi tục tĩu, gác cổng cầm côn gỗ trong tay, hung dữ quát: “Mau xéo về đi! Nếu còn dám ngang ngược thì coi chừng ta báo quan bắt ngươi vào đại lao!”
Trịnh Đoan Văn tỉnh táo lại, trưng ra uy nghiêm của quan lại, chậm rãi nói: “Sao đêm hôm rồi còn ở đây ầm ĩ thế này?”
Quản gia Tiết phủ nhíu mày, lập tức cười thưa với Trịnh Đoan Văn: “Hạ nhân thô lỗ, sau này tiểu nhân nhất định sẽ quản giáo nghiêm, mong đại nhân lượng thứ.”
Thanh niên nọ bỗng nhìn về phía Trịnh Đoan Văn, hỏi không chút khách khí: “Ngươi từ bên trong đi ra, có biết Tiết Thăng không? Bổn công tử muốn gặp ông ta, ngươi mau vào thông báo đi. Chớ nói nhảm làm trễ đại sự, sau này đừng trách ta không nhắc nhở ngươi.”
Trịnh Đoan Văn đường đường là thượng thư bộ Lễ mà lại bị sai khiến như gia nô, lập tức nổi giận. Nhưng hắn vừa tiến lên một bước, đang định quở trách thanh niên kia, ánh mắt bỗng nhìn quần áo trên người thanh niên nọ, lời chưa kịp nói ra khỏi miệng đã nuốt lại, hỏi: “Ngươi là ai? Tìm Tiết đại nhân có việc gì?”
Thanh niên sốt ruột nói: “Cho ta vào, đi vào rồi đương nhiên sẽ nói cho ngươi.”
Quản gia không nhìn nổi nữa, đang định gọi gia đinh đuổi thằng nhãi này đi, Trịnh Đoan Văn lại đột nhiên giơ tay ngăn lại, nói: “Đi vào thông báo cho Tiết đại nhân”. Rồi bảo với thanh niên: “Ngươi đi theo ta.”
Quản gia lấy làm khó hiểu, song không thể trái lời hắn, đành đi vào bẩm báo với Tiết Thăng, lát sau Trịnh Đoan Văn dẫn thanh niên kia vào trọng, ghé vào tai Tiết Thăng thì thào mấy câu.
Tiết Thăng lộ vẻ kinh ngạc, sau đó quay sang thanh niên kia, lịch sự hỏi: “Hạ nhân thất lễ, mong công tử chớ trách. Chẳng hay đêm khuya ghé thăm là vì chuyện gì?”
“Bảo người khác lui xuống hết đi,” Thanh niên lạnh lùng nói, “Chỉ chừa ông và ta.” Lại chỉ vào Trịnh Đoan Văn: “Hắn cũng ở lại.”
|