Họa Quốc Tập 2
|
|
Bộ thứ năm: Tân hậu
Những gì phụ các ngươi, những gì nợ các ngươi,
Hãy để ta giúp các ngươi đòi hết về!
Thế nào là công bằng? Đây là công bằng!
Ta, Khương Trầm Ngư, sẽ cho các ngươi công bằng!
Hồi thứ mười lăm: Điên dại
Tơ trúc réo rắt, du dương êm ái. Trong Lưu Ly cung, ca múa thanh bình. Hy Hòa tựa người trên chiếc giường cẩm thạch kim tuyến, nhâm nhi chén rượu hai mươi năm được ướp lạnh, ánh mắt lười biếng. Trên vũ trì có một thiếu niên áo đỏ nhảy cực đẹp, bầy yến yến oanh oanh xung quanh đều làm nền cho hắn. Hy Hòa gỡ bông hoa bằng ngọc cài trên đầu xuống, ném cho thiếu niên, thiếu niên đảo người một cái trên không, bắt lấy, ánh mắt lấp lánh, nói: “Đa tạ phu nhân ban thưởng”. Hy Hòa nhìn hắn cười rạng rỡ không nói gì, góc mày khóe mắt có phần lẳng lơ. Nàng ta ngang nhiên liếc mắt đưa tình hoàn toàn không đếm xỉa đến sự tồn tại của người bên cạnh như thế, mà Chiêu Doãn kế bên cũng không nổi giận, thấy chén rượu của Hy Hòa rỗng không, còn rót đầy cho nàng ta. Cứ vui vẻ như thế đến khoảng giờ Tuất, bỗng từ xa vọng lại tiếng bước chân gấp gáp, tên tiểu thái giám hớt hơ hớt hải chạy trên bậc thang dài, vừa chạy vừa kêu: “Hoàng thượng, không hay rồi! Hoàng thượng, không hay rồi…”. “Câm mồm! Đây là chốn nào mà dám la lối om sòm?”. Đại thái giám đi cùng vội vàng chạy tới giáo huấn. Tiểu thái giám ngã nhào xuống đất, khi nhỏm dậy mặt mũi đã nhòe nhoẹt nước mát: “Khởi bẩm hoàng thượng, Kỳ Úc hầu và đoàn đi sứ Trình quốc đã bị hoàng tử Di Phi của Trình Quốc ám toán phục kích ở Hồi thành, hầu gia trúng tên độc không thể chữa trị, đã bỏ mạng!”. “Ngươi nói cái gì?”. Hy Hòa nhảy dựng lên, chiếc váy dài kéo lê khiến mỹ tửu sơn hào hải vị trên chiếc bàn thấp đều rơi loảng xoảng xuống đất. Cùng với tiếng kêu sửng sốt của nàng ta, tiếng nhạc ngừng bặt, ca múa tạm dừng, trong đại điện im lặng như tờ. Chiêu Doãn liếc mắt nhìn Hy Hòa một cái, thủng thẳng nói: “Nghe thấy chưa? Nói lại lần nữa.” Tiểu thái giám sụt sịt vừa khóc vừa nói: “Hoàng thượng, khi Kỳ Úc hầu đến Hồi thành thì bị tam hoàng tử của Trình quốc ám sát, thân trúng tên độc, không thể chữa trị, nên đã bỏ mạng! Nô tài Tiết Thái hiện đang ôm di thể của hầu gia đợi ngoài điện, xin được diện kiến hoàng thượng!”. Hy Hòa không kịp xỏ giầy lập tức xông ra ngoài, đôi chân trần giẫm lên những mảnh gốm vỡ, bị cứa rách chảy máu, nhưng dường như nàng ta không cảm thấy gì, cứ thế lao vút đi, mái tóc và chiếc váy tung bay giống như một ngọn lửa rực cháy. … Tiết Thái đang quỳ ngoài cửa điện, thứ đầu tiên hắn nhìn thấy chính là cảnh tượng này. Giây sau đó, ngọn lửa ấy xông đến trước mặt hắn, một tay tóm chặt cổ áo hắn giống như định nhấc bổng cả người hắn lên, thét lớn: “Cơ Anh đâu? Hắn ở đâu? Gọi hắn ra đây? Gọi hắn ra đây…”. Ánh mắt Tiết Thái nhìn mặt đất bên cạnh. Hy Hòa hướng theo ánh mắt của Tiết Thái liền thấy một chiếc hòm. Nàng ta ngây ra một lát, sau đó đi đến bên cạnh chiếc hòm, dừng lại, nhìn chằm chằm vào chiếc hòm đó, vẻ mặt vừa sợ hãi vừa hoảng hốt vừa nghi hoặc lại vừa do dự, cuối cùng, nghiến chặt răng, đưa tay mở chiếc hòm ra. Gương mặt khiến nàng ta kiếm tìm cả trong giấc mộng, quen thuộc đến không thể quen thuộc hơn đó, bỗng gần ngay trước mắt. Cơ Anh nhắm mắt, nét mặt hiền hòa, giống như đang say giấc. Nhưng lại chỉ có một cái thủ cấp. Hy Hòa sững sờ nhìn cái thủ cấp đó, lùi về phía sau một bước, hai bước, ba bước rồi ngã phịch xuống đất. Bấy giờ, những người khác cũng lần lượt từ trong Lưu Ly cung bước ra, nhìn thấy chiếc hòm đó, không ai là không kinh hãi. Duy chỉ Chiêu Doãn mặt không biểu cảm nhìn đầu Cơ Anh, cau mày một cái, lạnh lùng quát: “Nô tài to gan, ngươi dám xử lý thi thể của Cơ khanh như thế này sao?”. Tiết Thái dập đầu, cao giọng tấu: “Hồi bẩm hoàng thượng, trên mũi tên bắn trúng chủ nhân có chất kịch độc, ngoài phần đầu ra các bộ phận còn lại đều bị nát rữa rồi”. Chiêu Doãn há miệng, trong mát thoáng vẻ đau lòng, đang định nói điều gì thì một tràng cười vang lên tận tầng mây. Mọi người kinh ngạc quay đầu, hóa ra là Hy Hòa phu nhân đang cười. “Phu nhân”. Một cung nhân dè dặt thăm dò. Hy Hòa ngồi trên mặt đất, ngửa đầu cười như điên như dại, mọi người không biết nàng ta cười gì, nên vừa nghi hoặc vừa sợ hãi. Có một cung nữ bước lên phía trước, định dìu nàng ta đứng dậy, nhưng bị nàng ta cắn mạnh vào cánh tay, cung nữ kêu lên thảm thiết vừa bò vừa lăn tránh ra. Hy Hòa cười tiếp: “Ha ha ha ha…”. Có người thì thào: “Phu nhân… hình như phu nhân có gì đó là lạ, đi tìm thái y đến khám xem sao?”. Thấy Chiêu Doãn vẫn lạnh lùng đứng bên quan sát không tỏ thái độ gì, thì ai dám tự ý hành động, mọi người đành đứng phỗng ra đó. Hy Hòa vừa cười vừa loạng choạng đứng dậy, chạy về Bảo Hoa cung. Mọi người chỉ có cách chạy vào cung điện theo nàng ta. Những kẻ nhảy múa trước đó vì không biết xảy ra chuyện gì mà lại chưa được cho phép rời đi, nên đành đứng chụm đầu chuyện trò ở giữa vũ trì, nhìn thấy Hy Hòa phu nhân quay về, vừa định thở phào thì thấy nàng ta xiêu xiêu vẹo vẹo chạy đến trước mặt thiếu niên áo đỏ. Thiếu niên áo đỏ vừa mừng vừa ngạc nhiên, nụ cười vừa nở trên môi, thì ngay lúc đó liền bị Hy Hòa đẩy mạnh vào tường. “Phu, phu… nhân?”. Hai tay Hy Hòa bắt đầu thô bạo cởi quần áo của y. Đám cung nhân ở bên thất sắc kinh hoảng, vội vàng xông lên ngăn lại: “Phu nhân, không được! Phu nhân, dừng tay đi, phu nhân định làm gì thế?”. Hy Hòa đều không để vào tai, giật mạnh chiếc áo đỏ của thiếu niên nọ, dán mắt nhìn vào đó một lúc lâu, còn thiếu niên bị lột lớp áo ngoài cũng đứng ngây ra đó, hoàn toàn không hiểu đang xảy ra chuyện gì. Y nở nụ cười ngọt ngào, ngại ngùng hỏi: “Phu nhân… phu nhân sao thế?”. Hy Hòa lắc đầu một cái rồi lại bỏ chạy. Hy Hòa chạy ra khỏi cung điện, chạy đến trước chiếc hòm nọ, mở chiếc áo bào trong tay ra, vừa quàng lên chiếc thủ cấp vừa nói: “Không lạnh, không lạnh, Tiểu Hồng, không lạnh. Tiểu Hồng, Tiểu Hồng…”. Hai từ bình dị nhất thế gian phát ra từ miệng nàng lại dịu dàng lưu luyến vô cùng. Tiết Thái choáng váng, nhớ lại hôm đó khi ở trên thuyền Cơ Anh từng nói với hắn: “Đối với ngươi luôn có một người không giống những người khác, vì thế, cũng sẽ dùng một cái tên khác để gọi ngươi… Tiểu Hồng, chính là cái tên đặc biệt đó của ta”. Tiểu Hồng… Dù biết Cơ Anh có một tình nhân khắc cốt ghi tâm nhưng có duyên mà không có phận; Dù biết người tình đó gọi Cơ Anh là Tiểu Hồng; Mà sao lúc này khi tận tai nghe thấy, tận mắt nhìn thấy người tình đó của Cơ Anh, Tiết Thái lại cảm thấy bị sốc nặng như thế này, tay hắn rụt vào trong tay áo, chạm phải chiếc bàn chỉ mà Cơ Anh đưa cho lúc lâm chung, hắn cảm thấy chiếc bàn chỉ như đang thiêu đốt bàn tay mình, trong khoảnh khắc, toàn thân hắn nóng bừng lên. Còn Hy Hòa chẳng thèm nhìn ai, chẳng thèm ngó ai, chỉ cầm chiếc áo đỏ quấn hết vòng này đến vòng khác, giọng như đang nói mơ: “Không lạnh, phải không? Tiểu Hồng, ta hát cho chàng nghe nhé, hễ ta hát là chàng không lạnh đâu”. Sau đó nàng ta bắt đầu cất tiếng hát. Đây là lần đầu tiên Tiết Thái nghe thấy tiếng hát của Hy Hòa. Đây là lần đầu tiên mọi người nghe thấy tiếng hát của Hy Hòa. Thậm chí đây cũng là lần đầu tiên Chiêu Doãn nghe thấy tiếng hát của Hy Hòa. Từ trước tới nay, Hy Hòa phu nhân chìm đắm trong nhung lụa vàng son, nhưng đều chỉ nghe người khác đàn ca diễn xướng, vì thế, cho dù mọi người biết nàng ta thích ca múa nhưng không ngờ hóa ra nàng ta cũng biết hát. Nàng ta chăm chú nhìn thủ cấp của Cơ Anh, chuyên tâm hát, tiếng hát càng lúc càng réo rắt, giống như ngọn gió lướt qua sơn cốc đẩy muôn tầng sóng biếc; giống như vô số hạt mưa rơi tí tách trên hiên nhà biến thành những giọt châu bay lóng lánh; giống như làn sương dâng lên mênh mang trên mặt hồ dưới đêm trăng; giống như hạt cát bị gió thổi bay phiêu diêu khắp chốn. Nàng ta hát còn hay còn đẹp hơn bất cứ loại nhạc cụ nào. Nói cách khác, tiếng hát của nàng ta chính là loại nhạc cụ tuyệt diệu nhất thiên hạ. Nàng ta hát rằng; Trăng mọc chừ, nước mênh mang Tựa ngọc chừ, tựa dáng chàng. Tưởng tiên dạo chơi mây núi, dại dột giáng trần ai. Suối chảy chừ, mưa lưa thưa, Tựa lầu chừ, lắng nghe mưa. Mơ hồ nhận ra khúc cố nhân, biết được vạn năm si mê. Biển xanh đẫm lệ mấy ai hay? Rả rích đêm ngày mưa chẳng ngớt. Ngày xuân đương đẹp muôn hoa nở, Sao nỡ úa tàn ai xót thay? Cầu đến tiên nhân hái thược dược, Tam sinh xin nối duyên kiếp này. Hồng trần xa lắc trời đất rộng, Xuân thu bất tận mãi vui vầy. … Nàng ta hát hết lần này đến lần khác, tiếng hát bay bổng trên cung điện, vương vấn mãi không tan. Tiết Thái nhẩm lại câu “Cầu đến tiên nhân hái thược dược, tam sinh xin nối duyên kiếp này”, trong phút chốc không kiềm được thoáng ngẩn ngơ. Nếu hắn không nhầm thì lời bài hát này là do Cơ Anh viết, Cơ Anh của năm đó rốt cuộc đã ôm một khối tình si đến nhường nào mới có thể viết ra khúc ca này, và đã dùng phương thức thân thiết đến nhường nào để dạy nó cho Hy Hòa, tình cảm chứa đựng trong đó, không cần nghĩ cũng có thể biết được. Mọi người trong phút chốc hết thảy đều bị cảm động trước khúc ca tuyệt mỹ này, im lặng lắng nghe. Duy chỉ Chiêu Doãn, nỗi căm hận dần dần dâng lên trong mắt, cuối cùng y bước lên phía trước nắm chặt tay Hy Hòa, quát: “Đủ rồi”. Hy Hòa giật tay lại, đẩy y thật mạnh, ôm lấy cả chiếc hòm đứng lên, lùi từng bước về phía sau, nói: “Không cho ngươi qua đây! Ngươi sẽ cướp áo của Tiểu Hồng, ngươi sẽ làm chàng lạnh chết, không cho ngươi qua đây!”. Chiêu Doãn sững ra một lúc, kế đó giận dữ quát: “Nàng đang nói linh tinh gì thế, mau đặt di cốt của Kỳ Úc hầu xuống!”. Hy Hòa ôm khư khư chiếc hòm trong lòng, tiếp tục lùi lại: “Đây là của ta, Tiểu Hồng là của ta, ngươi không thể cướp của ta!”. “Người đâu!”. Chiêu Doãn liếc mắt, lập tức có mấy tên thị vệ xông lên đoạt lấy chiếc hòm, Hy Hòa giãy dụa điên cuồng, vừa cắn vừa xé, nhất quyết không buông tay, đám thị vệ cũng không dám động thủ với nàng ta, hai bên cứ giằng co như thế. Chiêu Doãn tức đến mức nghẹt hở, mắng: “Các ngươi làm cái gì vậy? Mau bắt nàng cho trẫm!”. Đám thị vệ nói một tiếng “đắc tội” rồi hai tên xông lên tóm lấy cánh tay Hy Hòa, giữ nàng ta không cựa quậy nổi, một tên khác lại bẻ những ngón tay của nàng ra, chỉ nghe “rắc” một tiếng, xương ngón tay của Hy Hòa gãy lìa. Mặt Chiêu Doãn biến sắc, y giậm chân nói: “Dừng tay! Dừng tay! Dừng tay cho trẫm. Các ngươi dám làm nàng bị thương! Đồ bỏ đi! Toàn một lũ bỏ đi!”. Đám thị vệ không dám đoạt chiếc hòm nữa, vì làm Hy Hòa bị thương nên hoàng thượng khiển trách, không tên nào dám động đậy. Đang lúc bó tay hết cách, một giọng nói nhỏ nhẹ cất lên: “Hoàng thượng, để thần thiếp thử xem sao!”. Chiêu Doãn quay đầu nhìn thấy Khương Trầm Ngư. Dưới ánh tịch dương còn le lói, Khương Trầm Ngư toàn thân áo lụa màu lam nhạt, mái tóc đen như mun chải ra phía sau, tuy sắc mặt có vẻ mệt mỏi, nhưng ánh mắt sáng rỡ, không nhuốm bụi trần tựa tiên giáng trần vậy. Nàng quay về lúc nào? Sự nghi hoặc lóe lên trong đầu Chiêu Doãn, nhưng lập tức lại bị sư lo lắng thế chỗ, y gật đầu nói: “Được, nàng đến thử xem!”. Khương Trầm Ngư bước chầm chậm về phía Hy Hòa, nói với đám thị vệ: “Thả phu nhân ra”. Thị vệ lần lượt buông tay. Hy Hòa vừa được thả là lập tức ôm chiếc hòm lùi về phía sau, cảnh giác nhìn chằm chằm Khương Trầm Ngư, vẻ mặt cực kỳ sợ sệt. Khương Trầm Ngư mỉm cười, nhẹ nhàng cất tiếng hát: “Trăng mọc chừ, nước mênh mang. Tựa ngọc chừ, tựa dáng chàng…”. Bài nàng hát chính là khúc ca Hy Hòa vừa hát ban nãy. Chính xác từng chữ một.
|
Giọng ca tuy không hay bằng Hy Hòa nhưng âm điệu rất chuẩn. Nếu nói tiếng hát của Hy Hòa có vẻ đẹp diễm tuyệt như mẫu đơn khuynh đảo thiên hạ thì tiếng hát của Khương Trầm Ngư lại có mùi hương thanh nhã của gỗ đàn hương dùng để chế tác bàn cờ đặt bên cạnh chén rượu mới nấu, dư âm văng vẳng kéo dài. Hy Hòa trợn trừng đôi mắt mờ đục như sương mù, đứng im không nhúc nhích lắng nghe, vẻ cảnh giác phòng bị trên gương mặt dần dần nhạt đi. Khương Trầm Ngư hát xong liền dừng lại tươi cười nhìn nàng ta: “Bài hát này đẹp quá. Đúng không?”. Hy Hòa ngây ngây dại dại nhìn nàng, không nói gì. Khương Trầm Ngư tiến thêm một bước về phía nàng ta, giọng nói càng lúc càng mềm mỏng: “Tiểu Hồng buồn ngủ rồi, để chàng ngủ một giấc thật ngon, được không?”. Hy Hòa lại ngây ngây dại dại cúi đầu nhìn chiếc hòm trong tay, ánh mắt dán chặt lên mặt hòm, ngàn vạn nỗi đau đớn trong lòng thoáng cái đã biến thành hơi nước mịt mờ. Cứ vậy Khương Trầm Ngư lại tiến thêm một bước nữa: “Tiểu Hồng có quần áo rồi, chàng không lạnh đâu, nhưng lúc này chàng đang rất buồn ngủ, rất buồn ngủ, chàng muốn đi ngủ. Đưa chàng cho ta, được không?”. Hy Hòa ngay tức khắc ngẩng đầu nhìn nàng cảnh giác. Khương Trầm Ngư xòe đôi bàn tay, thoải mái cười nói: “Yên tâm, ta không cướp của phu nhân đâu, chỉ để chàng ngủ một giấc yên lành thôi. Khi Tiểu Hồng ngủ, phu nhân có thể ngồi bên cạnh nhìn chàng, tiếp tục hát cho chàng nghe, được không?”. Hy Hòa nửa tin nửa ngờ đưa chiếc hòm cho nàng, đưa đến giữa chừng lại hối hận rụt tay lại, ôm chặt chiếc hòm vào lòng, lắc đầu nguầy nguậy. Khương Trầm Ngư không nản lòng, tiếp tục mỉm cười, tiến sát lại gần hơn: “Thế này đi… ta dùng thứ khác để đổi cho phu nhân nhé?”. Hy Hòa vừa ôm chặt chiếc hòm, vừa hoang mang chớp chớp mắt nhìn nàng mấy cái. Cho dù vẫn bị người ngoài đàm tiếu là yêu cơ, nhưng kỳ thực đường nét của nàng ta không đẹp kiểu yêu mị, khoảnh khắc này không còn vẻ sắc sảo huênh hoang, ngông cuồng khinh bạc thường ngày nữa, mà chỉ còn lại vẻ ngây thơ, yếu đuối và rụt rè vốn có ở người thiếu nữ. Khương Trầm Ngư nhìn Hy Hòa, trong lòng thấp thoáng mấy chữ: Ai nhìn cũng thấy thương… Nàng buồn bã cụp mi, cố gắng nén nỗi đau đớn chua xót không tên trong lòng lại, nhìn về phía Hy Hòa, nở một nụ cười: “Ta dùng thứ này đổi với phu nhân, phu nhân đưa Tiểu Hồng cho ta, để họ đưa chàng đi ngủ, được không?”. Vừa nói vừa ra hiệu cho Hoài Cẩn ở phía sau đem đồ tới. Hoài Cẩn đặt tay nải trên vai xuống, nhẹ nhàng mở ra, bên trong là một chiếc áo bào trắng được gấp vô cùng ngay ngắn. Trong tích tắc đôi mắt Hy Hòa sáng rực. Khương Trầm Ngư đón lấy chiếc áo bào trắng từ tay Hoài Cẩn, chậm rãi bước đến trước mặt Hy Hòa, không nói thêm gì nữa chỉ bình tĩnh đưa chiếc áo bào trắng ra, sau đó nhìn thiên hạ đệ nhất mỹ nhân trong chớp mắt nét mặt trở nên rúm ró, bởi bao tình cảm chất chứa trong tâm khảm tích tụ lâu ngày đã lên tới đỉnh điểm, giờ đây ầm ầm sụp đổ. “Cạch” một tiếng, chiếc hòm gỗ rơi xuống đất, Hy Hòa run rẩy túm chặt lấy chiếc áo bào trắng. Đám thị vệ nhanh như chớp lao qua nhặt lấy chiếc hòm, mang tới trước mặt Chiêu Doãn. Chiêu Doãn liếc nhìn chiếc thủ cấp trong hòm một cái, ánh mắt đau đớn, vội quay mặt qua chỗ khác, trầm giọng nói: “Đem đi xử lý cẩn thận, chuẩn bị hậu táng”. “Vâng!”. Hai tên thị vệ vội vàng hộ tống chiếc hòm rời đi. Còn bên kia, Hy Hòa đang vùi mặt trong chiếc áo bào trắng, tham lam hít hà mùi hương trên chiếc áo, toàn thân co rúm lại, khóc thút thít. Thấy nàng ta thất thố như thế, Chiêu Doãn vừa uất hận lại vừa thương xót, bất giác đi đến nói: “Đừng làm ồn nữa, mau đứng dậy cho trẫm…”. Y vừa chạm vào vai Hy Hòa liền bị nàng ta cắn mạnh vào tay, rồi nàng ta vừa lăn vừa bò trên mặt đất để trốn tránh. “Nàng!”. Thấy Chiêu Doãn sắp nổi giận, Khương Trầm Ngư vội dịu dàng gọi một tiếng: “Hoàng thượng…”. Chiêu Doãn hết nhìn nàng lại nhìn Hy Hòa trên mặt đất, ánh mắt lóe sáng, sau đó lại tối sầm, thở dài nói: “Thôi… mấy người đến đây, đỡ phu nhân về cung, không được để nàng ấy ngồi dưới đất”. Đám cung nhân ai nấy mặt mày khó coi. Bộ dạng Hy Hòa như thế, rành rành là từ chối bất cứ người nào lại gần, đến hoàng đế nàng ta còn cắn, huống hồ chỉ là bọn nô tài tép riu. Hơn nữa, hoàng thượng vẫn không nỡ làm tổn thương vị sủng phi này, bọn họ nhẹ chân nhẹ tay không được, nặng tay cũng không xong, biết phải làm sao đây? Trong lúc đám đông âu sầu khổ não, không biết làm thế nào thì Khương Trầm Ngư bước lên nói: “Để ta thử xem”. Mọi người thầm thở phào nhẹ nhõm, thiện cảm đối với vị Thục phi này cũng vì thế mà tăng thêm mấy phần. Khương Trầm Ngư bước đến trước mặt Hy Hòa, lặng lẽ chăm chú nhìn nàng ta một lúc, thấy cả người Hy Hòa đều đang run rẩy, rõ ràng là thực sự đau thương đến tột độ, trong lòng không khỏi thương xót, bi thương xen chút ngưỡng mộ, cuối cùng ngưng kết thành sự dịu dàng: “Phu nhân… không vá áo giúp Tiểu Hồng ư?”. Hy Hòa chấn động một lúc, ngây ngô ngẩng đầu lên. Khương Trầm Ngư chỉ chỉ vào chiếc áo bào trắng: “Áo bị rách rồi kìa”. Lúc này dường như Hy Hòa mới phát hiện trên áo còn một lỗ thủng, ngây dại mở chiếc áo ra, nhìn lỗ hổng lớn bị gió lùa vào kêu phù phù, trong phút chốc nước mắt sa xuống, không nói câu gì, loạng choạng đứng dậy, cầm chiếc áo rồi quay về điện. Nàng ta vừa vào điện, mọi người cũng lần lượt thở phào bước vào theo. Khi Khương Trầm Ngư bước vào trong điện, thì đã thấy Hy Hòa cầm kim chỉ bắt đầu vá chiếc áo bào trắng, thần tình chăm chú mà bình tĩnh, ánh tà dương len qua cửa sổ đang mở ở bốn bức tường chiếu vào trong, chiếu lên người nàng ta, mái tóc đen nhánh cùng chiếc áo bào trắng tựa tuyết tôn lẫn nhau, hai sắc màu đối lập rõ ràng như thế, tạo thành một bức tranh cực kỳ trang nhã, in đậm trong tâm trí mỗi người. Chiêu Doãn bỗng quay người, bước đi không nói một lời. Khương Trầm Ngư im lặng bước theo. Những thị vệ, thái giám khác cũng lần lượt theo sau, nhưng vẫn rất dè chừng giữ một khoảng cách nhỏ với hai người bọn họ. Đi được một lúc, Khương Trầm Ngư phát hiện Chiêu Doãn không có ý định về ngự thư phòng mà đang đi loanh quanh không mục đích trong hoàng cung, hơn nữa càng đi lại càng đến nơi hẻo lánh, nhà cửa thưa thớt, cỏ cây um tùm, một nơi nàng chưa từng đến bao giờ. Tiếp theo Khương Trầm Ngư phát hiện, đây vốn là điểm tận cùng của hồ Phượng Thê. Hồ Phượng Thê là danh thắng nổi tiếng nhất của hoàng cung Bích quốc, mà cầu Động Đạt chính là tâm điểm của bức tranh ấy. Tiết Thái đã từng vung rọi ngựa làm kinh động xe ngựa của Hy Hòa phu nhân, hại nàng ta rơi xuống nước ở chỗ đó. Vì thế, từ trước tới nay, Khương Trầm Ngư cứ tưởng cầu Động Đạt là toàn bộ của hồ Phượng Thê, bây giờ nhìn thấy nơi đây mới hay, hóa ra điểm cuối của hồ lại tiêu điều như thế này. Tuy là mùa hè nhưng cỏ cây vẫn thưa thớt, mọc lên lởm chởm nửa xanh nửa vàng, mấy gian nhà ngói xiêu vẹo ngả nghiêng đã mục nát đến quá nửa, cho thấy đã rất lâu rồi chưa có ai đến đây. Thỉnh thoảng vẳng tới tiếng “quạ quạ” của con quạ bay vụt qua trên những cành khô khiến cảnh sắc càng thê lương hoang tàn. Khương Trầm Ngư hơi đăm chiêu nhìn Chiêu Doãn – Y cố tình hay vô ý đến chỗ này? Nếu nàng đoán không nhầm, nơi này… chính là chỗ ở của Chiêu Doãn lúc còn nhỏ. Năm Gia Bình thứ mười một, Hành Xu đi qua đây, nghe thấy tiếng hát đẹp như tiếng nhạc trời của một người phụ nữ, nhất thời hứng khởi sủng hạnh người cung nữ làm trong phòng giặt là đó, sau đó thì quên ban danh phận cho nàng ta, chẳng ngờ người cung nữ ấy lại âm thầm mang thai rồng, mười tháng sau sinh hạ ra một hoàng tử. Nhưng nàng ta địa vị thấp kém, lại bị Hành Xu quên lãng, vì thế trong suốt một thời gian dài không ai hỏi đến. Mười năm sau, người cung nữ mắc bệnh qua đời, có người thông báo việc này lên cấp trên, bị La Hoành vô tình nhìn thấy bẩm lại với Hành Xu, lúc ấy họ mới biết đến sự tồn tại của vị hoàng tử này. Bấy giờ mới sai người đón Chiêu Doãn về cung. Nhưng vì từ nhỏ thiếu ăn thiếu mặc nên Chiêu Doãn chậm lớn, lại không biết chữ, so với các hoàng tử khác đúng là một trời một vực. Chẳng ai ngờ đứa trẻ gầy gò thô lậu đó sau này lại trở này đế vương của một nước. Cũng chẳng ai ngờ vị đế vương oai hùng này lại có xuất thân như thế… Còn thời khắc này Chiêu Doãn đang chăm chú nhìn hồ nửa đỏ nửa xanh dưới ánh tà dương, không vui không buồn, ánh mắt nặng nề, thần sắc bình tĩnh. Gió mát nhè nhẹ thổi trên mặt hồ, mặt hồ gợn lên tầng tầng những con sóng lăn tăn, y đứng chắp tay sau lưng, ánh mặt trời phủ lên gò má y một lớp sáng màu vàng, nhìn lại càng không rõ nét. Giấc mộng đế vương ngàn thu. Từ cổ chí kim, biết bao người muốn làm hoàng đế. Nhưng có phải khi làm hoàng đế là thấy thỏa mãn, là thấy không còn hối tiếc không? Chiêu Doãn, vị đế vương mới chỉ hai mươi tuổi này, năm mười ba tuổi đã cưới Tiết Minh, con gái của trưởng công chúa tiền triều, nhân đấy nhận được sự ủng hộ của Tiết gia, từ hoàng tử không được chú ý nhất lắc mình một cái đã trở thành đối thủ cạnh tranh mạnh nhất cho ngôi vị hoàng đế. Nhưng khi đó, thế lực của Tiết gia vẫn chưa đủ đối đầu với Vương thị, vì thế, năm mười bốn tuổi, y lại quỳ trước phủ Cơ gia, xin cưới Cơ Hốt làm phi, Cơ lão hầu gia mới ưng thuận hôn sự này. Từ đây, Cơ gia cũng trở thành thế lực hậu thuẫn mạnh mẽ cho y. Năm Gia Bình thứ hai mươi bảy, Bích vương Hành Xu lâm bệnh nguy kịch, vốn muốn truyền ngôi cho thái tử Thuyên, nhưng sau khi bàn mưu Chiêu Doãn, cùng Tiết Hoài, Cơ Anh đã phát động binh biến vào đêm mùng mười tháng mười, giết chết Chiêu Thuyên, ép Hành Xu lập Chiêu Doãn làm hoàng đế – đó chính là biến sự Song Thập. Năm sau Chiêu Doãn đăng cơ, đổi quốc hiệu Đồ Bích, tuyển trưởng nữ của Khương thị làm phi. Từ đây, dưới sự phò tá của ba đại thế gia Khương, Cơ, Tiết, y đã ngồi vững trên ngai vàng. Đồ Bích năm thứ tư, y lại ép Tiết Hoài mưu phản, nhổ gốc trốc rễ cả gia tộc họ Tiết. Có thể nói, cả đời của vị đế vương này, mỗi bước đi đều dứt khoát quả quyết. Y biết rất rõ mình muốn gì và không hề do dự khi thực thi. Tiết gia như thế, Cơ gia… cũng như thế. Tuy cái chết của Cơ Anh là phụ thân bày mưu tính kế, nhưng nếu như không có Chiêu Doãn cho phép, phụ thân đâu dám đi nước cờ mạo hiểm này. Giờ đây Chiêu Doãn lại có vẻ mặt tuy bình tĩnh nhưng bi thương không nói nên lời này, là vì cái gì? Là thương tiếc cho cái chết đau đớn của Cơ Anh? Hay là xót thương cho sự điên dại của Hy Hòa? Nếu nói y muốn trừ bỏ Tiết gia là vì Tiết Hoài công cao át chủ, đã uy hiếp đến hoàng quyền của y. Thì Cơ gia lại không như vậy, chí ít, tính đến bây giờ vẫn không. Tại sao y lại cho phép phụ thân thực hiện hành động điên cuồng lần này? Tại sao y muốn Cơ Anh chết? Lẽ nào vì… thật sự là vì… Hy Hòa? Màu mắt Khương Trầm Ngư sầm xuống, hai tay từ từ nắm chặt lại, một giọng nói từ đáy lòng đang xé toang làn sương mù dày đặc lạnh lẽo và kiên quyết vang lên: Không tin! Nàng, Khương Trầm Ngư không tin, một nam nhân thủ đoạn độc ác trở mặt vô tình như thế lại có thể vì nữ sắc mà đánh mất lý trí như vậy, vì một người con gái mà hy sinh danh thần giỏi nhất của mình. Hôn quân vì nữ sắc như thế có lẽ sẽ là Ngô vương Phù Sai, là Trụ vương Tử Tân, là U vương Cung Niết, nhưng tuyệt đối không thể là y – Bích vương Chiêu Doãn! Nghĩ miên man đến đây, ánh mắt Khương Trầm Ngư từ nóng chuyển sang lạnh, nàng hơi cúi đầu nhìn xuống đất, ánh dương kéo dài chiếc bóng rồi từ từ tối đi. Màn đêm đã buông xuống rồi. Nhưng Chiêu Doãn vẫn bất động, không có ý định rời khỏi đây. Một đám người đợi chờ, tất cả đều đứng cách cả trượng nín thở chờ đợi, không dám giục giã. Khương Trầm Ngư nghĩ một lát mới lên tiếng nói: “Hoàng thượng, đêm lạnh rồi, về đi thôi”. Thân hình Chiêu Doãn hơi rung rung giống như bị giọng nói này thức tỉnh, y quay đầu lại, vẻ mặt kinh ngạc, nhưng chẳng qua cũng chỉ là biểu cảm trong nháy mắt mà thôi, rồi y lấy lại bình tĩnh ngay lập tức. “Ừ”. Y gật đầu, quay người đi trước. Đèn hoa mới khêu bóng sáng mông lung. Rõ ràng cùng trong cung cấm, nhưng đoạn đường mà họ đã đi này cực kỳ thê lương lạnh lẽo, so với sự ấm áp, sự huyên náo ở các điện khác lại giống như hai thế giới đối lập nhau, tất cả những thứ đẹp đẽ đều không thể lọt tới đây. Từ vị trí của Khương Trầm Ngư có thể nhìn thấy bóng lưng của Chiêu Doãn, chiếc áo mỏng khó che nổi sự gầy gò của y, ngẫm kỹ bỗng phát hiện ra một sự thực. Hình như Chiêu Doãn là người gầy nhất trong những nam tử mà nàng từng gặp… Trong lúc nàng thất thần, Chiêu Doãn bỗng cất tiếng hỏi: “Nàng về từ khi nào?”. Khương Trầm Ngư sững ra, vội đáp: “Vừa mới vào cổng cung đã được dẫn đến Bảo Hoa cung bái kiến bệ hạ rồi”. Chiêu Doãn “ồ” một tiếng, ngừng một lát rồi mới từ tốn nói: “Lần nầy xuất cung… cảm thấy thế nào?”. Trong đáy mắt Khương Trầm Ngư dấy lên vô và cảm xúc, rất lâu sau mới trả lời: “Thế giới rộng lớn, mà cung điện, đô thành, giang sơn của một nước… không thể sánh nổi”. Chiêu Doãn sững người, kinh ngạc quay đầu lại nhìn nàng, trong ánh mắt đầy sự dò xét: “Nghĩa là thế nò?”. Khương Trầm Ngư thận trọng lựa chọn từ ngữ: “Từ khi thần thiếp hiểu chuyện, được phu tử dạy dỗ, được cha mẹ chỉ bảo, chịu ảnh hưởng của những người xung quanh đến nay, thần thiếp luôn tưởng một khuê nữ biết nữ công gia chánh, giỏi nấu nướng, biết thơ văn, hiểu lễ nghĩa mới là một khuê nữ tốt. Vào hoàng cung thần thiếp lại thấy những thứ như nữ công gia chánh, nấu nướng, thơ văn, thậm chí những lễ tiết được học trước đây, đều là đồ bỏ đi cả. Bởi, chúng không thể khiến thần thiếp có được sự sủng ái của hoàng thượng, cũng không thể giúp thần thiếp trở thành một vương phi xuất sắc. Bởi vậy trong một thời gian dài, thần thiếp luôn tự vấn: Mình nên học những gì? Mình nên làm những gì? Mình tồn tại có ý nghĩa gì?”.
|
Chiêu Doãn cười cười: “Nàng nghĩ thật là nhiều”. Đây là biểu cảm vui vẻ đầu tiên mà y bộc lộ trong ngày hôm nay, vì thế, tuy lời nói mang ý khiển trách nhưng giọng điệu lại có chút chế nhạo mà thân mật. Khương Trầm Ngư cũng cười theo, nói tiếp: “Nhưng lần xuất cung này, được đến những nơi chưa từng đến, được gặp đủ mọi loại người, có người sống rất vui vẻ thoải mái, có người không được như vậy, có người rất tích cực, có người tiêu cực… Tất cả giống như những mũi kim thêu, từng mũi từng mũi thêu dần dần tạo thành hình ảnh, tạo thành đáp án mà thần thiếp luôn kiếm tìm”. “Ồ, đáp án là gì?”. Chiêu Doãn tỏ rõ hứng thú, ánh mắt sáng rỡ nhìn nàng. Khương Trầm Ngư không vòng vo, đáp rất thẳng thắn: “Làm lợi cho người”. Lông mày của Chiêu Doãn nhướng lên. “Cái gọi là làm lợi cho người, tức là có lợi đối với người khác. Nói dễ hiểu hơn chính là sự tồn tại của bản thân có ích với người khác”. “Nói tiếp đi”. “Hoàng thượng, theo người tại sao con hổ luôn sống đơn độc?”. Chiêu Doãn ngẫm nghĩ: “Hừm… vì nó mạnh mẽ?”. “Vậy tại sao loài người mạnh hơn loài hổ lại quần cư?”. Chiêu Doãn chưa trả lời, Khương Trầm Ngư đã lập tức đưa ra lời giải thích: “Bởi, loài người vì muốn bảo vệ cho nhau, yêu thương lẫn nhau nên đã ở cùng một chỗ, mới có thể sáng tạo ra chủng tộc đời đời tiếp nối, vạn cổ văn minh”. Chiêu Doãn ngẩn người nhìn nàng, không biết là vì chấn động hay là vì tán thành. “Những năm cuối triều Tần tổng cộng có hơn 2000 vạn người, nhưng đến đầu thời Hán chỉ còn lại hai, ba nghìn hộ, thậm chí xuất hiện cảnh ‘thiên tử không có xe bốn ngựa để đi, thừa tướng ngồi xe trâu, dân chúng không có cái ăn cái mặc’. Thời Tam Quốc, chiến sự liên miên, sau trận Xích Bích chỉ còn 90 vạn người. Thời Đường Vũ Tông, đất nước có 496 vạn hộ, nhưng đến thời Chu Thế Tông chỉ còn 120 vạn hộ… Có thể nói như thế này, mỗi lần chiến tranh sẽ khiến dân số giảm đột ngột lại dẫn đến nền kinh tế, văn minh của thời kỳ đó trở nên trống rỗng. Khi nhân loại không còn tương trợ lẫn nhau, khi nhân loại bắt đầu tàn sát lẫn nhau, xã hội không những ngừng tiến lên phía trước, mà thậm chí còn thụt lùi. Vì thế, là một phần tử trong dòng chảy lịch sử mênh mang, cho dù có nhỏ nhoi biết mấy, thần thiếp cũng nên có ích cho người khác, có ích với đời – Đây chính là đáp án mà thần thiếp kiếm tìm”. Chiêu Doãn trầm ngâm rất lâu, sau đó hít một hơi thật sâu, nói nhỏ: “Nàng… trưởng thành rồi. Trầm Ngư”. Nữ tử trước mắt đã không còn là cô thiếu nữ tóc búi lệch, tự mình dâng thư tiến cử trước mặt y thưở nào nữa, mà nói năng đĩnh đạc, toàn thân tỏa ra hào quang trí tuệ khiến người ta không dám coi thường. Khương Trầm Ngư khi đó có lẽ chỉ là to gan mà thôi, còn Khương Trầm Ngư của bây giờ lại có trí tuệ ở tầng cao hơn, nghiễm nhiên sánh ngang với Cơ Anh. Nhớ đến Cơ Anh, lòng Chiêu Doãn lại nhói đau, y bỗng buột miệng: “Cơ Anh… hắn đi có nhanh không?”. Khương Trầm Ngư nhìn y chằm chằm, bất động một lúc. Chiêu Doãn bị ánh mắt của nàng chiếu thẳng, bỗng cảm thấy gai người, vô thức nói: “Sao thế?”. Rèm mi của Khương Trầm Ngư run run một lát, rồi bằng một giọng điệu trấn tĩnh lạ thường mà lại có chút lạnh lùng, nàng nói: “Mặt của Kỳ Úc hầu, chẳng phải hoàng thượng đã nhìn thấy rồi sao?”. Chiêu Doãn kinh ngạc, câu thứ hai của Khương Trầm Ngư nối tiếp ngay sau đó: “Còn như vì sao ngài ấy phải ra đi, hoàng thượng và thần thiếp đều biết rõ nhất… phải không?”. Câu nói này hiển nhiên đã đâm trúng nỗi đau của Chiêu Doãn, cơn giận bùng lên trong đôi mắt của vị đế vương trẻ tuổi, khi y đang định khiển trách phi tử vô lễ thì lại kinh ngạc nhìn thấy hai hàng nước mắt trong suốt không một tiếng động, không chút sức sống trào ra khỏi đôi mắt, lăn dài trên gương mặt nàng. Rõ ràng Khương Trầm Ngư đang khóc, nhưng không phải đau thương, mà giống như thương xót. Mà sự thương xót này lại bất ngờ làm tan biến cơn giận của Chiêu Doãn, khiến y cũng thấy thương xót. Bởi y không thể khóc vì Cơ Anh, cho nên nhìn thấy Khương Trầm Ngư khóc, giống như nỗi bi thương của mình cũng được giải tỏa theo nước mắt của nàng; mà cũng vì y và nàng thực ra xuất phát từ hoàn cảnh giống nhau, nên càng có thể cảm nhận được giây phút này nàng có thể khóc trước mặt người khác là điều khó khăn xiết bao. Ánh mắt Chiêu Doãn lóe sáng, từ từ đưa tay ra… Khương Trầm Ngư run run nắm lấy. Tay hai người nhẹ nhàng nắm lấy nhau như thế. Tay của Chiêu Doãn lạnh lẽo, không giống như tay của Cơ Anh – lúc nào cũng ấm áp, khiến người ta cảm nhận được một sức mạnh vững chãi và hiền hòa. Thế nhưng, đây lại là cánh tay cao quý nhất, quyền lực nhất thiên hạ Bích quốc ngày nay. Khương Trầm Ngư chăm chú nhìn ngón tay của mình và y đan vào nhau, ánh mắt sâu thăm thẳm, trào dâng những cảm xúc khó hiểu, khoảnh khắc sau, nàng ngẩng đầu, mỉm cười rạng rỡ với Chiêu Doãn. Thế là Chiêu Doãn cũng cười, nắm tay nàng tiếp tục đi về phía trước. Khương Trầm Ngư khẽ nói: “Hoàng thượng…”. “Hả?”. “Sư Tẩu chết rồi”. “Ừ”. Đến lông mi cũng chẳng buồn động đậy, về tình hình của hai ám vệ, Chiêu Doãn đương nhiên đã biết từ lâu: Nghe nói tên xui xẻo vì bảo vệ Khương Trầm Ngư mà mất một cánh tay hai cái chân, sau khi hấp hối trên giường một tháng trời, cuối cùng đã chết trên đường về đế đô. “Nàng còn cần ám vệ à? Vậy cấp cho nàng hai tên nữa”. Khương Trầm Ngư ngẩng đầu nói: “Hoàng thượng còn có thể cho thần thiếp xuất cung nữa không?”. Chiêu Doãn hỏi vặn lại: “Nàng muốn xuất cung sao?”. Khương Trầm Ngư không hề do dự trả lời: “Muốn”. Chiêu Doãn nhìn nàng, lại cười, giọng điệu có chút yêu chiều nói: “Cũng không chịu an phận nhỉ”. Dừng một lát, lại tiếp: “Có điều đúng là không nên nhốt nàng. Hoàng cung này… thực sự quá nhỏ”. Khương Trầm Ngư lờ mờ nhận ra gì đó trong lời nói của y, không kìm được hỏi: “Hoàng thượng cũng muốn ra ngoài?”. Trong tích tắc ánh mắt Chiêu Doãn hơi sầm lại: “Không. Trẫm không đi”. Tuy sắc mặt y không vui, nhưng có thể cảm thấy y tức giận như vậy không phải là vì nàng đã hỏi điều không nên hỏi, mà dường như là vì câu hỏi không thể trả lời đó khiến y bực bội với chính mình. Chiêu Doãn… hình như… chưa bao giờ ra khỏi hoàng cung thì phải? Khi y dung túng cho nàng ra ngoài va chạm với mọi thứ, có phải là y đang gửi gắm vào nàng một phần khát vọng mà mình không thể thực hiện được hay không? Nghĩ đến điểm này, trong lòng Khương Trầm Ngư giây phút ấy không biết có cảm giác gì. “Ngày mai, hãy cùng trẫm thiết triều sáng đi”. Chiêu Doãn bỗng nói. Khương Trầm Ngư sững người, lập tức đáp: “Thưa vâng”. Cái gọi là “cùng” của Chiêu Doãn không phải cùng y xuất hiện, là quân sư cho hoàng đế, khi đế vương lên triều, nàng phải đứng trong phòng tối ở bên cạnh lắng nghe. Mà Hàn lâm bát trí đã chết cả trước đó, bây giờ chính là lúc chọn người mới. Chiêu Doãn nói như thế, rõ ràng ám chỉ nàng sẽ là một trong số đó. Đây… có được coi là được công nhận không? Khóe môi Khương Trầm Ngư nhếch lên một nụ cười chua chát, vốn là một chuyện đáng vui mừng, nhưng vì nguyên nhân dẫn đến việc nàng bước lên con đường làm mưu sĩ này đã tiêu vong, nên niềm vui ấy đã biến thành nỗi đau thương vô cùng. Nhớ ban đầu, nghìn lần cứng cỏi, vạn phần chấp niệm, đều là vì người ấy. Mà nay “muốn phép Ma Cô thay thương hải, một chén sương xuân lạnh giá này”[1]… nàng chợt nhớ đến một chuyện, liền vội buông tay Chiêu Doãn. Chiêu Doãn sửng sốt quay đầu lại thấy nàng rút một cuốn sổ nhỏ từ trong người ra, cung kính dâng lên: “Không thể hoàn thành nhiệm vụ hoàng thượng giao phó, xin hoàng thượng trách tội”. Nói đoạn quỳ sụp xuống đất. [1] Bài “Yết sơn” của Lý Thương Ẩn, Hoàng Giáp Tôn dịch. Ma cô là tiên nữ, tự xưng có thể làm cho biển xanh biến thành nương dâu trong thời gian ngắn, vì thế nhà thơ nhận định rằng biển xanh thuộc về Ma Cô, muốn hỏi xin mua cả biển xanh, tức là có thể chiếm trọn thời gian, không còn hận vì thời gian khiến mọi thứ đổi thay nữa, nhưng tiếc thay không thể, biển lớn đã biến thành chén nước sương lạnh giá của mùa xuân. Chiêu Doãn cầm lấy cuốn sổ, mở ra nhìn lướt, nhíu mày nói: “Thuật luyện thép của Trình quốc… Nàng đang xin trẫm ban thưởng cho nàng sao?”. “Không thể hỏi cưới được công chúa, là thần thiếp thất trách…”. “Được rồi”. Chiêu Doãn kéo nàng đứng dậy, đuôi mày khóe mắt đều tươi cười: “Ả Di Thù đó ai cũng có thể lấy làm chồng, chỉ giỏi cắm sừng người khác, sao trẫm nỡ chà đạp Giang ái khanh và Phan ái khanh”. Khương Trầm Ngư nghe y nhận xét Di Thù như vậy, biết rõ là chê bai, nhưng vẫn không nhịn được cười “phì” thành tiếng. Cứ vừa đi vừa nói chuyện vừa cười như thế cho đến Dao Quang cung, Chiêu Doãn mới buông tay, nói: “Nàng đi đường xa chắc là mệt rồi, quay về nghỉ ngơi đi”. Khương Trầm Ngư khấu bái rồi quay người đi vào cổng cung. Vừa bước vào cổng liền chạm phải một đôi mắt âm u lạnh lẽo, giống như mắt loài sói vậy. Khương Trầm Ngư sững ra một lát mới phản ứng lại: “Tỉ tỉ?”. Người đó chậm rãi bước ra, ánh đèn phía trước hành lang chiếu xuyên qua bóng cây loang lổ, rớt xuống khuôn mặt trắng bệch không chút huyết sắc, chiếu rõ ánh mắt của nàng ta đang tỏa ra oán hận – quả nhiên là Họa Nguyệt. “Tỉ tỉ?”. Khương Trầm Ngư nắm lấy tay nàng ta theo bản năng, nhưng bị nàng ta gạt phắt ra. Khương Họa Nguyệt chẳng thèm nói gì, chỉ lạnh lùng trừng mắt nhìn nàng… rồi rảo bước rời đi. Bấy giờ, Ác Du mới từ trong nhà chạy ra, sắc mặt lo lắng, thấp giọng nói khẽ: “Đại tiểu thư đến đã chừng nửa tuần nhang rồi, đang định đi thì nhìn thấy…”. Khương Trầm Ngư tuyệt vọng nhắm mắt lại. Tỉ tỉ nhất định là nghe nói mình hồi cung lại nghĩ tới tin đồn “Thục phi nhiễm bệnh, đưa đến Bích Thủy sơn trang tĩnh dưỡng” trước đây, lo lắng nàng chưa hồi phục, nên vội vàng muốn đến hỏi thăm. Chẳng ngờ lại bắt gặp cảnh hoàng thượng đích thân đưa nàng về cung, còn nắm tay trò chuyện cười nói suốt dọc đường… Cho nên, vốn từ lo lắng đã trở thành căm hận đố kỵ, mới lườm nàng bằng ánh mắt tràn ngập hận thù như thế. Nhất thời, trái tim nàng nặng trĩu, ngàn cảm xúc khó nói thành lời, Ác Du lại nói thêm một câu càng khiến nàng khó mà bình tĩnh nổi: “Còn nữa tiểu thư… lão gia cũng đến rồi, đang đợi tiểu thư ở trong phòng”. Khương Trầm Ngư quay đầu nhìn bóng người cao gầy đang đứng phía trong cột cửa chạm khắc rồng phượng, thoáng thấy văn nhược giản dị, giống như một thư sinh trung niên bình thường, nhưng trên thế gian này, không có ai hiểu rõ người đó hơn nàng… Người này mới là Dạ đế thực sự của Bích quốc. Hữu tướng đương triều – Khương Trọng. Phụ thân… của nàng. Ve mùa thu kêu ra rả. Ô cửa sổ bằng lụa màu xanh biếc đóng im ỉm, bên trong nhà buông rèm thật thấp, ánh nến trong chiếc đèn hình rồng cuộn bằng sứ trắng cháy sáng chiếu rõ đồng tử của Khương Trầm Ngư giống như một ngọn lửa sáng rực. Nàng nhẹ nhàng nhấc chiếc chụp đèn, khêu nhẹ bấc đèn bằng cái khêu vàng cán dài, rồi lại đậy chụp đèn bằng thủy tinh lại, mặt nàng hơi cúi xuống, mang theo một chút lười biếng hờ hững, không để tâm. Trong phòng im ắng đến khó tả. Cho đến khi Hoài Cẩn bưng trà vào, mùi thanh mát của loại danh trà cực phẩm theo làn gió nhẹ bay tới cùng giọng nói ngọt ngào của Hoài Cẩn phá vỡ bầu không khí gượng gạo: “Lão gia, đây là trà cúc Đại Khê mang từ Trình quốc về, mời lão gia thưởng thức”. Khương Trọng cười nói: “Được”. Nói đoạn nhấp một ngụm, thong thả bảo: “Mùi vị này thật khiến người ta nhớ mãi… Nhớ lần trước ta đến Trình quốc uống loại trà này, đã là chuyện của hơn mười năm trước rồi…”. Khương Trầm Ngư nhếch môi nói: “Phụ thân đại nhân muốn uống trà của Trình quốc, cũng chỉ cần nói một câu thôi. Lẽ nào vị cựu thành chủ Hồi thành thông quyền đạt biến, khi về kinh bái kiến ân sư, đến món lễ vật cũng không có hay sao?”. Khương Trọng bị nàng mỉa mai nhưng cũng không tức giận, chỉ cười nhạt: “Hắn có đem lễ vật đến hay không, chẳng phải con rõ nhất hay sao? Thiên hạ ngày nay, chẳng có thứ gì khiến ta thích thú hơn món lễ vật đó”. Bàn tay đang giữ chiếc khêu của Khương Trầm Ngư bỗng dừng giữa không trung, lòng bàn tay như đang bị đốt giữa đống lửa, cảm giác bỏng rát đến mức chiếc khêu cũng bị nung chảy. Lễ vật mà phụ thân nói chính là Cơ Anh.
|
Hồi thứ mười sáu: Trời tính
“Khúc hát đó tên là ‘Năm tháng’ hồi còn nhỏ mỗi khi phu nhân không ngủ được, Phương thị đều hát bài này cho phu nhân nghe”. Trong ngự thư phòng, một ám vệ đứng thẳng tắp nói như vậy. Sau ngự án, Chiêu Doãn ngồi tựa trên long tọa, một tay chống trán, một tay đặt lên tay vịn, thần sắc thản nhiên, nheo mày: “Cũng có nghĩa là bài hát đó là do Diệp Nhiễm viết?’. “Đúng thế”. Điền Cửu do dự một lát nói: “Thực ra Diệp Nhiễm rất tài hoa, có thể viết từ sáng tác nhạc, nếu không Ngôn Duệ có tham ăn đến đâu cũng không thể thu nhận ông ta làm đồ đệ”. Chiêu Doãn “ừ” một tiếng, không bày tỏ ý kiến gì. Điền Cửu lại tiếp: “Phu nhân nghe Thục phi nương nương hát bài đó, lại hát không sai một chữ, hệt như bản gốc, nên coi nương nương thành người thân thiết nhất. Bây giờ, chỉ có Thục phi nương nương là có thể lại gần phu nhân, những điều nương nương nói, có lúc phu nhân hiểu, có lúc không hiểu, cả người ngây ngốc mê dại…”. Chiêu Doãn bỗng ngắt lời hắn: “Bây giờ Trầm Ngư đang làm gì?”. “Sáng sớm nay Thục phi nương nương dỗ phu nhân lên giường đi ngủ xong thì về Dao Quang điện dùng bữa trưa, sau đó xuất cung rồi”. “Xuất cung?”. Chiêu Doãn chau mày. “Vâng. Nương nương đi tiễn Giang Vãn Y”. “Ồ?”. Lá thu lả tả nhuộm chút sương thu, ngôi đình cô lẻ ở ngoại thành im lặng thê lương. Khương Trầm Ngư ăn vận như một văn sĩ, Hoài Cẩn theo sau cũng ăn vận như thư đồng, đến để tiễn biệt Giang Vãn Y. Nửa năm trước, Giang Vãn Y rời nơi đây, bách quan tề tựu vui vẻ đưa tiễn, vinh quang có một không hai. Nửa năm sau, hắn bị biếm khỏi kinh sư, hai bàn tay trắng, đến một người nô bộc cũng không có, chỉ có một hòm thuốc, vẫn nặng trịch đeo trên vai gầy như cũ. Cảnh ngộ này, lọt vào mắt Trầm Ngư, cũng chỉ có một câu kết luận “lòng người đổi thay”. Nàng lấy một ấm trà từ trong hộp đựng thức ăn ra, rót trà vào chiếc lá trúc miệng nông, hai tay bưng lên trước mặt Giang Vãn Y: “Trầm Ngư lấy trà thay rượu, cung tiễn sư huynh, từ đây mỗi người một nơi, non nước xa vời, mong huynh bảo trọng”. Giang Vãn Y cũng dùng hai tay đón lấy, khóe mắt luôn ôn hòa văn nhã bỗng hơi ươn ướt hoe đỏ: “Đa tạ”. Dứt lời một hơi uống cạn, đang định đưa chén trà trả lại, Khương Trầm Ngư lại xua tay nói: “Chén này là lễ vật tặng cho sư huynh trước khi đi. Ngày sau nếu có cần tiền tài, đưa chén này đến tiệm cầm đồ lớn nhất cũng có thể giải cơn nguy cấp nhất thời”. Giang Vãn Y nghe nàng nói vậy, biết đây nhất định là chiếc chén rất giá trị, nhất thời trăm ngàn cảm xúc dâng trào, cuối cùng khẽ thở dài nói: “Mưa núi sắp rơi gió khắp lầu, Trầm Ngư, muội phải cẩn thận”. Khương Trầm Ngư cười nhàn nhạt: “Thế thì phải xem đó là gió gì, mưa gì…”. “Muội…”. Giang Vãn Y chần chừ một lúc, cuối cùng vẫn không kìm được nói ra: “Dừng tay lại đi, vẫn còn kịp đấy”. Trong mắt Khương Trầm Ngư loang loáng ánh lệ, nàng ngẩng đầu lên, nước mắt nhạt nhòa nhìn hắn, giọng nói khẽ như mơ: “Nếu như muội dừng tay, cái chết oan uổng của công tử sẽ tính sao đây? Nỗi oan khuất của Di Phi tính sao đây? Bệnh điên của Hy Hòa tính sao đây? Sư Tẩu tàn tật tính sao đây? Còn sư huynh bị biếm chức… cũng tính sao đây?”. Giang Vãn Y đau lòng gọi: “Trầm Ngư!”. Khương Trầm Ngư hít một hơi thật sâu, lấy lại vẻ bình tĩnh, dường như cảm xúc vừa nãy chẳng qua chỉ là kẻ khác hoa mắt nhìn nhầm mà thôi, sau đó, khóe miệng cong cong nở nụ cười tươi rói: “Cho dù thế nào, chúc mừng sư huynh đã rời khỏi chốn thị phi này, trở về với cuộc sống vốn dĩ muốn có… Huynh an tâm, muội sẽ chăm sóc tử tế cho Hy Hòa”. Giang Vãn Y nhìn nàng mãi, trong mắt khi mờ khi tỏ, cuối cùng kết thành ly biệt: “Đã như thế… bảo trọng”. Mấy chú quạ bay qua trường đình, tiếng gió thổn thức, cỏ cây vàng vọt, năm nay mùa thu đến sớm hơn năm ngoái. Bóng dáng Giang Vãn Y rời đi, bị ánh tịch dương kéo dài trên mặt đất, hiện rõ sự thê lương. “Tiểu thư, trời không còn sớm nữa, chúng ta về cung thôi”. Hoài Cẩn khoác một chiếc áo choàng lên mình Trầm Ngư. Còn Khương Trầm Ngư nhìn mãi theo chiếc bóng đã không nhìn ra nổi của Giang Vãn Y ở phía cuối con đường dài hun hút, rầu rĩ nói: “Hoài Cẩn, ta ước gì có thể đi cùng với sư huynh, rời khỏi cái chốn thị phi này biết bao…”. “Tiểu thư…”. Hoài Cẩn không biết phải trả lời ra sao. Khương Trầm Ngư lắc lắc đầu, cười ha ha, nói: “Nhưng sư huynh không cần ta. Thôi, ta vẫn nên ngoan ngoãn hồi cung, đừng quên, ta sắp thành hoàng hậu của Bích quốc rồi. Hoàng hậu đó…”. Hoàng hậu… Nhớ năm đó, nguyện có được một người, bạc đầu chẳng rời xa. Chưa từng nghĩ, phượng à, phượng à, theo ta về. Mãi ấp ủ nhau thành phu thê[1]. [1] Hai câu trong bài “Phượng cầu hoàng” của Tư Mã Tương Như. Thế sự mỉa mai, chẳng qua cũng chỉ thế mà thôi. Đêm đó, khi Chiêu Doãn đến Bảo Hoa cung, liền nhìn thấy một cảnh tượng như thế này: Đèn cung đủ sắc đủ màu tỏa ánh sáng êm dịu chiếu rọi Lưu Ly cung ngũ sắc rực rỡ, trên sàn nhà lát bằng thủy tinh trải một tấm thảm dài dệt bằng len. Hy Hòa mặc một chiếc áo mới ngồi trên thảm, vì vừa mới được tắm rửa, mái tóc nàng ta vẫn còn ướt, nên trông giống như một tấm lụa trắng ngấm nước. Còn Khương Trầm Ngư ngồi phía sau, dùng một chiếc khăn bông lau tóc cho nàng ta. Sáng tối giao hòa, tay của Khương Trầm Ngư mềm mại nhỏ nhắn. Hai mỹ nhân tuyệt thế đã tạo thành một bức tranh cực kỳ đẹp mắt, khắc ghi trong trái tim mỗi người có mặt. La Hoành đang định thông báo, Chiêu Doãn giơ tay ra hiệu ngừng lại, cơ hồ cũng không nỡ phá vỡ bầu không khí ấm áp an lành trước mắt. Khương Trầm Ngư lau khô tóc cho Hy Hòa xong, dùng một dải lụa buộc tóc lại cho nàng ta. Bấy giờ mới đứng dậy định đi, Hy Hòa lại quay người ôm chặt lấy nàng, cuống quýt gọi: “Mẹ… đừng đi… đừng đi!”. “Được rồi được rồi, mẹ không đi, không đi!”. Khương Trầm Ngư cười dịu dàng với Hy Hòa: “Nhưng mà, mẹ cũng phải làm chút chuyện, Hy Hòa chơi một mình một lúc được không?”. Hy Hòa chớp chớp đôi mắt to trong vắt như thủy tinh: “Mẹ phải đi bán mì à?”. Khương Trầm Ngư nghĩ một lát rồi gật đầu: “Ừ… đi bán mì”. Hy Hòa nheo mắt, cười đắc ý: “Được. Mẹ mang một ít về nhé, buổi tối ăn mì!”. “Được rồi. Buổi tối ăn mì”. Coi như đã dỗ dành xong. Khương Trầm Ngư lại đưa chiếc áo bào đã được giặt sạch sẽ của Cơ Anh cho Hy Hòa chơi. Khi Hy Hòa đưa tay nhận lấy chiếc áo bào, trong đáy mắt nàng lóe lên một tia chần chừ, dường như có gì đó không nỡ, nhưng cuối cùng vẫn buông tay, rồi nhìn thấy Hy Hòa ngẩng đầu cười ngọt ngào với nàng, nụ cười ấy vừa ngây thơ vừa khờ dại. Khương Trầm Ngư nghĩ, rốt cuộc nàng không thể nào sắt đá với con người này. Trên người Hy Hòa dường như gửi gắm một phần tình cảm của nàng, tình cảm đó bị đè nén, bị mài mòn hủy hoại, không còn tồn tại ở bản thân nàng, nhưng lại được nối tiếp, phát triển trên con người Hy Hòa. Nàng rất muốn không vương không vấn, mặc sức làm càn điên loạn một cơn như Hy Hòa, như thế không cần tỉnh táo đối diện với sự thực Cơ Anh đã chết; không cần đối diện với mặt xấu xa của phụ thân – người nàng luôn tôn sùng yêu kính; không cần đối diện với tranh đấu cung đình không chút nào bình ổn, gió mấy biến ảo khôn lường; không cần đối diện với người đến người đi, duyên tán duyên tận… Khương Trầm Ngư thầm thở dài trong lòng rồi đứng dậy, đưa khăn bông cho các cung nhân đứng bên cạnh rồi đi đến cửa tham kiến Chiêu Doãn: “Thỉnh an hoàng thượng”. Chiêu Doãn bật cười khiến Khương Trầm Ngư không hiểu gì, hoang mang ngẩng đầu nhìn y. Chiêu Doãn đưa một tay lên che miệng ho nhẹ một cái, tuy đã ngừng cười, nhưng sóng mắt vẫn còn nửa cười nửa không, thế nên càng khiến Khương Trầm Ngư hoang mang hơn, không kìm được hỏi: “Hoàng thượng?”. “Đưa tay nàng ra đây”. Khương Trầm Ngư nghe thấy thì ngẩn người, rụt tay về phía sau theo phản xạ, sau đó nhớ ra cử chỉ này không đúng, đành cứng đơ thu lại, run rẩy chìa ra trước mặt Chiêu Doãn. Trên mười ngón tay thon dài trắng trẻo được chăm sóc rất kỹ lưỡng, có thêm vài vết thương do tắm cho Hy Hòa ban nãy, vì Hy Hòa không chịu để người khác chạm vào, mình nàng phải đảm đương. Không ngờ Chiêu Doãn tinh mắt đến thế, vừa nhìn đã nhận ra. Còn Chiêu Doãn cười đương nhiên là cười thiên kim nhất đẳng mà chân tay vụng về. Vì thế, hai gò má Khương Trầm Ngư hơi đỏ lên, xấu hổ phân bua: “Từ nhỏ cha mẹ yêu chiều, ngay những chuyện vặt vãnh cũng làm không nên hồn… để hoàng thượng chê cười rồi”. Chiêu Doãn không thừa nhận mà cũng không phủ nhận, chỉ từ tốn dặn dò thêm một câu: “Đừng quên bôi thuốc”. Nói đoạn, quay người ngẩng đầu nhìn lên bầu trời đêm. Nét mặt Chiêu Doãn thường ngày nếu không cười nham hiểm thì cũng là nổi giận lôi đình, tóm lại biểu cảm luôn rất sinh động, hiếm khi bình tĩnh. Vì thế, một khi không cười như bây giờ, rõ ràng là tâm sự trùng trùng, có nỗi u uất khó nói thành lời. Thấy tâm trạng y có vẻ không vui, Khương Trầm Ngư buột miệng hỏi: “Xảy ra chuyện gì sao? Hoàng thượng”. Chiêu Doãn khẽ thở dài một tiếng: “Nàng nhìn nơi đây mưa gió thuận hòa, sao có thể tưởng tượng ra Giang Đô ngàn dặm xa xôi đang gặp cơn đại hạn trăm năm, không thu hoạch nổi lấy một hạt thóc”. Chuyện này Khương Trầm Ngư cũng có nghe qua. Giang Đô là vựa lúa vựa cá nổi tiếng của Bích quốc, một vụ thu hoạch là chiếm năm phần kho lương của cả nước. Vì thế có thể nói, Giang Đô giàu, thiên hạ no đủ. Năm này mùa màng vốn cũng khá tốt, nhưng không hiểu vì sao, từ lúc trời chuyển hạ lại không hề đổ mưa, nắng gắt sà sã, kênh ngòi khô kiệt, khiến cho hoa màu đều chết khô chết héo cả. Lại thêm đúng vào lúc thành chủ cũ hết nhiệm kỳ, thành chủ mới tiếp nhận, khi tin đại hạn được tấu lên triều định thì đã muộn rồi. “Hoàng thượng đã nghĩ ra cử ai đến Giang Đô xử lý việc này chưa?”. Chiêu Doãn liếc nhìn nàng một cái, nhíu mày cười: “Sao? Nàng lại đòi tự tiến cử nữa à?”. Khương Trầm Ngư quay đầu nhìn Hy Hòa, lắc đầu nói: “Thần thiếp muốn đi, nhưng e là không thể”. “Ồ? Thật nhìn không ra, nàng lại coi Hy Hòa quan trọng hơn cả chuyện quốc gia đại sự”. Khi Chiêu Doãn nói câu này giọng điệu khó có thể phân biệt được là châm chích hay là cảm thán. Khương Trầm Ngư nhìn thẳng vào mắt y, trầm giọng nói: “Thần thiếp cảm thấy không nhất thiết phải là thần thiếp, sẽ có người giải quyết tốt hơn cả thần thiếp việc ở Giang Đô, nhưng Hy Hòa phu nhân… lại chỉ có thần thiếp…”. Cả người Chiêu Doãn rúng động, mãi lâu sau bỗng giơ tay từ từ áp lên mí mắt nàng. Hành động dịu dàng, không hề có ý trừng phạt, tựa như chỉ là không muốn bị một đôi mắt như thế nhìn chằm chằm. Khương Trầm Ngư vội vàng lùi ra sau một bước, cúi đầu xuống, không nhìn thẳng vào mặt đế vương nữa. Chiêu Doãn cơ hồ cũng cảm thấy hành động của mình có chút thất thố, liền cười cười, thu tay lại nói: “Trẫm cho nàng cơ hội lập công, thế nào?”. “Hả?”. Tâm tư của vị đế vương này càng ngày nàng càng không thể nắm bắt. “Người chống hạn cứu thiên tai lần này, nàng chọn thay cho trẫm đi”. Chiêu Doãn vừa nói vừa chớp chớp mắt. Khương Trầm Ngư không nhịn được hỏi: “Ai cũng được ư?”. “Ừ”. Chiêu Doãn tỏ vẻ “trẫm không tin nàng dám nói ra người không xuất sắc”. Khương Trầm Ngư lập tức nói ra một cái tên: “Tiết Thái”. Chiêu Doãn lộ vẻ “quả nhiên là hắn”, khẽ thở dài một tiếng, không nói gì quay người bỏ đi. Khương Trầm Ngư vội vàng chạy theo truy hỏi: “Không được sao?”. Chiêu Doãn vẫn không nói gì, nên Trầm Ngư lại hỏi: “Thật sự… không được sao?”. Chiêu Doãn tiếp tục đi lên phía trước, Khương Trầm Ngư cắn môi nói: “Hoàng thượng?”. Đáp lại nàng là một câu nói nhỏ như cát lăn vào tai, không nặng không nhẹ, không nhanh không chậm, vừa có ý trách móc mà lại vừa không mang giọng điệu trách móc: “Nàng thật phiền phức”. Khương Trầm Ngư dừng bước, chăm chú nhìn bóng lưng đi xa dần nhưng vẫn không quay đầu lại đó, lần này nàng hoàn toàn ngây ngẩn ra đó. Người đến Giang Đô xử lý hạn hán đã được công bố trước buổi chầu sáng hôm sau, quả nhiên là Tiết Thái. Đối mặt với quyết định này của Bích vương, triều thần đương nhiên cực kỳ bất ngờ, sau cơn kinh ngạc, họ bắt đầu tìm mọi cách ngăn cản, lớn tiếng nói không thể. Lý do đưa ra không ngoài những điều như: Cứu nạn thiên tai không phải là trò chơi, không phải là chuyện vặt như mua vui cho nhà vua trước điện, sao có thể phái một thằng oắt con không chút kinh nghiệm đi? Đừng nói Tiết Thái giờ đã không còn là công tử quý tộc, mà còn là một tên nô lệ hèn kém, sao có thể gánh vác được trọng trách này? Khi triều thần tranh cãi đến mức rối tinh rối mù, đế vương trẻ tuổi trên long tọa chỉ thong thả nói một câu, lập tức khiến cho tất cả mọi người đều trấn tĩnh trở lại. Chiêu Doãn phán: “Đã như vậy, thì phái Vũ lâm quân kỵ đô úy Khương Hiếu Thành cùng đi, chủ trì đại cục”. Vũ lâm quân kỵ đô úy Khương Hiếu Thành là ai? Con trai của hữu tướng Khương Trọng, ca ca của Khương quý nhân và Khương thục phi. Không chỉ như thế, ai chẳng biết y chẳng qua là một tên bị thịt. Vì thế, hoàng thượng nói phái y đi cùng Tiết Thái, chẳng phải đã loạn lại càng thêm loạn sao? Quần thần không ai là không choáng váng, đến ngay cả bản thân Khương Trọng cũng bất ngờ, hoàng thượng lại vứt “củ khoai lang nóng” này cho mình. Đang định phản đối thì Chiêu Doãn đã đứng dậy nói: “Quyết định như thế đi, bãi triều”. Một đám cung nhân vội vàng bày bố nghi trượng hầu hạ chủ tử bãi triều, thế là Chiêu Doãn đã lui gót một cách tao nhã trong những ánh mắt ngây dại hoặc không dám tin, hoặc đau lòng, hoặc không hiểu gì của thần tử khắp triều. Khi Chiêu Doãn về tới ngự thư phòng, Khương Trầm Ngư đã đợi trong Bích Ngôn đường, thấy y tuy vẫn trang nghiêm nhưng không thể giấu được nụ cười trong đáy mắt, từ khóe mắt bờ môi lan ra khắp gương mặt. Chiêu Doãn nửa cười nửa không nhìn nàng: “Nàng hài lòng chứ?”. Khương Trầm Ngư tao nhã khấu bái: “Hoàng thượng anh minh”. “À, nàng nói thử xem, anh minh ở điểm nào?”. Chiêu Doãn chầm chậm tựa vào chiếc giường gấm, hơi nheo mắt lại giống như một chú mèo.
|
Khương Trầm Ngư cung kính nói: “Thần thiếp nông cạn, đoán mò thánh ý, nếu có lỡ lời, xin thánh thượng thứ tội”. “Trẫm ban cho nàng vô tội”. “Thần thiếp cho rằng, hoàng thượng phái Hiếu Thành đi cùng Tiết Thái là có ba lý do. Thứ nhất, Tiết Thái hiện tại thực sự không thể khiến người khác phục tùng, sai hắn đến Giang Đô, danh bất chính ngôn bất thuận, nhưng nếu ca ca của thiếp cùng đi, thì lại khác. Tuy…”. Khương Trầm Ngư nói đến đây, có chút buồn cười, nhưng nén lại nói tiếp: “… không phải người có thể làm được việc, nhưng chí ít về tư cách, thân thế đều có cả. Hơn nữa, đây là lần đầu tiên huynh ấy đảm nhận một nhiệm vụ quan trọng, cũng là cơ hội tốt có thể dương danh lập công, cha thần thiếp kiểu gì cũng ngầm giúp huynh ấy, lót đường sao cho thuận lợi, làm việc gì tất nhiên cũng hanh thông”. “Ừ”. Chiêu Doãn gật đầu, ra ý bảo nàng nói tiếp. “Thứ hai, nạn hạn hán khác với nạn bão tuyết, không phải là thiên tai xảy ra chỉ trong một đêm. Quan viên địa phương đáng lẽ nên có sự cảnh giác từ lâu, nhưng lại chậm trễ không bẩm báo lên thượng cấp, giả vờ thái bình, đến bây giờ không thể xử lý được mới tùy tiện tìm một cái cớ điều thành chủ cũ đi, tìm một người mới thay vào để dọn dẹp rắc rối. Nếu dọn dẹp được, đương nhiên là chuyện đáng mừng, bằng không cũng không sao, hoàng thượng nếu có truy cứu thì cũng có người chịu tội thay…”. Khương Trầm Ngư cười lạnh: “Trên thế gian nào có chuyện dễ dàng như thế? Bọn họ ỷ trời cao hoàng đế ở xa, dối trên lừa dưới, sai Tiết Thái và ca ca của thiếp đi chính là hoàng thượng đã tương kế tựu kế, bởi hai người này – một kẻ nhỏ tuổi, một kẻ bị thịt – có lẽ bọn họ cũng không quá mức coi trọng. Ai ngờ dụng ý thực sự của hoàng thượng chính là cứu nạn cố nhiên quan trọng, nhưng trừ quan tham cũng là điều bắt buộc. Đợi đến khi chúng lần lượt bị định tội tịch thu gia sản, thì sẽ biết rốt cuộc mình đã sai lầm đến mức nào”. Đối mặt với sự cung kính của nàng, Chiêu Doãn chỉ cười nhạt một cái, vẫn không tỏ thái độ như cũ: “Thứ ba?”. “Thứ ba…”. Khương Trầm Ngư hít một hơi thật sâu, nét mặt bỗng trở nên nghiêm trang: “Sau khi Tiết thị sụp đổ, Cơ Anh qua đời, bây giờ văn võ đầy triều có thể nói là phần lớn tầm thường, không chọn được ai”. Biểu cảm vốn lười biếng như một chú mèo của Chiêu Doãn bỗng trở nên nghiêm túc. Câu nói vừa nãy của Khương Trầm Ngư cực kỳ quan trọng, nếu là lúc khác, hoặc để người thứ ba nghe được tiết lộ ra ngoài, đều gây nên đại họa. Nhưng nàng đứng trước mặt y lại dịu dàng yếu đuối, bình thản nói ra câu đó… Trái tim của y trong phút chốc chợt vừa chua xót vừa đau nhói như bị vật gì đó đâm trúng. “Cũng là lúc tổ chức một đợt tuyển chọn nhân tài mới, hoàng thượng chọn Tiết Thái, chính là muốn tuyên bố với thiên hạ – Người có tài sẽ được quan cao chức trọng. Cho dù có thân phận gì, cho dù hắn đã từng có hoàn cảnh tồi tệ đến đâu, đều không sao cả?”. Khương Trầm Ngư nói những lời này với tư thế hết sức khẳng khái dõng dạc, không ngờ Chiêu Doãn nghe xong lại cười: “Thế à?”. Ở cạnh vị đế vương này lâu ngày cũng dần dần nắm được một vài đặc trưng tính cách của y. Ví như bây giờ mí mắt y không nhếch lên, chỉ hơn nhướn nhẹ khóe môi bên trái – Kiểu cười này, chứng tỏ y không đồng tình. Thế nên Khương Trầm Ngư ngừng lại một lát, hỏi: “Hoàng thượng, thần thiếp nói sai sao?”. Ánh mắt Chiêu Doãn lướt qua phía sau vai nàng, nói với một vẻ mặt cực kỳ khó miêu tả: “Tiết Thái… không thể hồi phục quan tịch”. Ngừng một lát, bổ sung: “Có thể trọng dụng, nhưng không thể ban thưởng”. Tuy y không nói tiếp, nhưng Khương Trầm Ngư đã thực sự hiểu rõ ý tứ của y, một cơn ớn lạnh từ dưới chân bỗng bốc lên, trong nháy mắt, chân tay nàng lạnh ngắt. Là nỗi thương xót cho mỹ ngọc bị bụi trần che phủ. Là sự bi thương vì đế vương vô tình. Cũng là sự lĩnh ngộ vì thế sự tàn nhẫn. Tiết thị diệt vong trong tay Chiêu Doãn, cũng không thể lần nữa đứng dậy trong tay Chiêu Doãn. Đó là sự tôn nghiêm của một đế vương, cũng là quy tắc của một triều đại. Nhìn xuyên suốt lịch sử, tại sao rất nhiều vụ án oan đều không thể thẩm tra lúc đương thời, phải đợi sau khi thay triều đổi đại mới có thể lật án rửa tội? Đó chính là vì tồn tại quy tắc như thế này. Cho nên, Tiết Thái dù có xuất sắc đến đâu, có lập bao nhiêu công lao cho nước nhà, đều không thể gia quan tấn tước. Chí ít, trong thời Chiêu Doãn còn tại vị, sẽ không thể. “Cái gọi là quan trường, không gì ngoài hai thứ: Quyền, tiền. Bắt đầu niên hiệu Đồ Bích, quyền nằm trong tay Tiết Hoài, tiền nằm trong tay Cơ thị. Trẫm thân tuy là đế vương, nhưng việc gì cũng bị hai thứ này khống chế. Bây giờ, quyền trở lại rồi, nhưng còn tiền thì sao?”. Chiêu Doãn thu ánh nhìn, cười với nàng, trong nụ cười thấm đẫm ý vị khổ sở xót xa: “Tiền biến mất rồi”. Trái tim Khương Trầm Ngư phút chốc quặn lại. “Cơ gia giống như một cái động không đáy, cuồn cuộn không ngừng nuốt chửng tiền bạc của Bích quốc. Khi Cơ Anh còn sống còn chưa rõ ràng, nhưng một khi hắn chết đi, tất cả tấu sớ thỉnh cầu cấp tiền đều bay tới như tuyết, mỗi một tấu sớ đều là chuyện khẩn cấp, việc đại sự, nhưng quốc khố… lại trống rỗng”. Chiêu Doãn đứng chắp tay, cụp mắt nhìn nàng, hàng mi dài che lấp biểu cảm: “Trên thực tế, trẫm cũng không biết phải ứng phó với thiên tai ở Giang Đô như thế nào”. Cho nên… mới sai hai kẻ thế mạng đi? Khương Trầm Ngư bỗng nhận ra: Tất cả hóa ra… còn phức tạp hơn tưởng tượng của nàng. Cửa sổ đang mở, một cơn gió lùa vào mang theo hơi lạnh ập vào cơ thể, Khương Trầm Ngư xoa xoa cánh tay trong làn áo lụa, mới thực sự cảm thấy mùa thu đã đến thật rồi. Thánh chỉ vẫn còn chưa được ban bố một cách chính thức, Khương Hiếu Thành đã biết tin mình được chọn làm khâm sai, liền lập tức gọi một lũ bạn bè lêu lổng tới thả sức ăn mừng. Sau một chầu ăn chơi trác táng bốc giời, lại đi tìm mận hỏi đào một chuyến, cuối cùng uống say khướt, nằm ngủ lăn lóc trên giường của đế đô đệ nhất danh kỹ Mật Tiểu Tiên. Trong lúc nửa tỉnh nửa say, loáng thoáng cảm thấy có một người ngồi ở đầu giường, gã tưởng là Mật Tiểu Tiên, liền giơ hai tay ra, kề sát mặt lại gần, miệng thì thào: “Đến đây đến đây nào, Tiểu Tiên của ta, để đại gia hôn một cái nào…”. Một mùi thơm nhàn hạt thanh nhã tràn vào cánh mũi y, khác hẳn với mùi mật hoa mà Mật Tiểu Tiên thường dùng hàng ngày, ngửi kỹ ra thì còn có chút gì quen thuộc, vì thế mắt y không kìm được he hé mở ra. Không mở thì không sao, mà nhìn thấy rồi thì sợ đến mức nhảy dựng lên. Người ngồi đầu giường, đang giãy giụa vì bị ôm nào phải Mật Tiểu Tiên mà rành rành là muội muội nhà hắn. Khương Hiếu Thành sợ đến mức tỉnh cả rượu, nhảy cẫng lên: “Trầm Ngư? Sao lại là muội?”. Khương Trầm Ngư chỉnh trang lại áo xống, nửa cười nửa không nhìn y. Khương Hiếu Thành vội vàng xuống giường, đến giày cũng chẳng thèm xỏ vào, đi chân trần quanh nhà một vòng, kiểm tra đích xác là không có người thứ ba ở đó xong mới bước đến trước mặt Khương Trầm Ngư, cuống giọng hỏi: “Bà cô của ta ơi, đây là chốn nào, sao muội lại đến đây hả? Có người khác nhìn thấy không? Cha mẹ và tẩu tẩu của muội có biết không?”. Khương Trầm Ngư thổi thổi ngón tay của mình, chậm rãi nói: “Hóa ra ca ca lén lút đến đây? Công khai dùng mười chuỗi minh châu mua đêm đầu tiên của Mật Tiểu Tiên ở Hồng Tụ lâu, sau đó lại mở tiệc lớn để cho người khác thỏa thích ăn nhậu, cử chỉ hào phóng như thế, muội e là toàn đế đô đều đã biết cả rồi”. Khương Hiếu Thành đột nhiên mặt tái xám, lắp ba lắp bắp nói: “Không, không phải chứ? Ta thật, thật sự làm thế à?”. Khương Trầm Ngư nhìn y bằng ánh mắt “Ca ca nói xem”. Khương Hiếu Thành nhìn chiếc giường hoa được mệnh danh là khó lên nhất đế đô, lại nhớ lại tình hình tối qua, có chút ấn tượng. Nhưng đi theo nó là một nỗi sợ hãi còn lớn hơn: “Hỏng rồi hỏng rồi hỏng rồi! Nếu cha và tẩu tẩu muội biết, ta chết chắc rồi! Không thể chậm trễ, mau chuồn thôi!”. Nói đoạn bắt đầu vội vội vàng vàng mặc y phục. Y tuy là một tên háo sắc mê rượu, nhưng từ nhỏ bị quản giáo rất nghiêm, vì thế rất hiếm khi có chuyện say xỉn ở bên ngoài. Ngày hôm qua thực sự y uống quá nhiều, cuối cùng còn không nhớ mình đang ở đâu nữa. Giờ nhìn thấy Khương Trầm Ngư xuất hiện ở đây, phản ứng đầu tiên chính là: Xong rồi, cha và vợ chắc chắn đều biết cả rồi! Cha biết cũng đành thôi, nhiều nhất là ăn mắng một trận, bịt tai không nghe là xong. Nhưng Lý thị mà biết, ít nhất là nửa năm, đừng hòng được sống yên ổn; hơn nữa cả cuộc đời này đều bị thị suốt ngày lôi ra để châm chọc… Vừa nghĩ đến tình cảnh bi thảm đó, y hối hận vô cùng, chân tay bủn rủn mặc xong áo ngoài, xỏ xong giầy, đang định đi bỗng thấy muội muội vẫn ngồi trên giường như không có việc gì, liền đưa tay kéo nàng: “Chờ cái gì nữa? Còn không mau đi?”. Khương Trầm Ngư nhíu mày: “Đi? Đi đâu?”. “Đương nhiên là về nhà…”. Lời vừa buột ra khỏi miệng, mới nhận ra có gì đó không đúng, Khương Hiểu Thành lại nhìn dò xét muội muội từ đầu xuống chân một lượt, rồi vỗ vỗ vào đầu nói: “Đúng rồi, muội không phải đang ở trong cung sao? Sao lại đến đây? Muội lén xuất cung à?”. “Ca ca, ca ca ngồi xuống đi”. “Ngồi cái gì mà ngồi, bây giờ là lúc nào rồi? Ta thấy vẫn nên quay về trước khi phụ thân phát hiện”. Khương Trầm Ngư đằng hắng một tiếng, trầm giọng nói: “Ca ca, ngồi đi, muội có vài lời muốn nói với ca ca”. Nàng xưa nay luôn là người được yêu chiều nhất nhà, tuổi tuy nhỏ nhưng lại uy nghiêm nhất, có thể nói, Khương Hiếu Thành có chút sợ muội muội kém mình năm tuổi này, vì thế, khi nàng trở mặt làm bộ nghiêm túc bảo y ngồi xuống, tuy trong lòng lo lắng muốn chết, nhưng cơ thể vẫn ngoan ngoãn ngồi xuống. “Ca ca, hoàng thượng quyết định sai huynh và Tiết Thái đến Giang Đô chống hạn cứu tế…”. Khương Hiếu Thành nghe đến đây liền cười hì hì, đắc ý nói: “Hoàng thượng quả nhiên là người có tuệ nhãn, nhìn ra huynh tài hoa và năng lực hơn người. Ta ấy à, cũng coi như là lên tiên rồi, không còn bị kẻ khác nói xấu là cậy thế của cha nữa. Giang Đô cũng là nơi tốt, mỗi năm tuyển tú nữ, mỹ nhân của vùng ấy là nhiều nhất!”. Nói đến đây, nước bọt ứa hết cả ra. Trong lòng Khương Trầm Ngư thầm thở dài, nghiêm mặt nói: “Ca ca có biết Giang Đô đại hạn, đã ba tháng rồi chưa có mưa không?”. “Ồ, cái này ta có nghe nói rồi”. Khương Hiếu Thành không thèm để ý, khua tay một cái: “Yên tâm đi, ta đã nghĩ ra kế sách ứng phó rồi”. Câu trả lời này thật sự khiến Khương Trầm Ngư bất ngờ, không kìm được phải hỏi: “Kế sách ứng phó gì?”. “Muội nghĩ xem, Giang Đô năm nào cũng mưa thuận gió hòa, rất hiếm khi bị hạn hán, tại sao? Bởi vì đó là vùng bảo địa phong thủy của Bích quốc chúng ta. Tại sao lại bị hạn hán? Chắc chắn là vì phong thủy đã bị phá hoại”. Khương Hiếu Thành nói đến đây thì nén thấp giọng, ra vẻ thần bí, nói: “Còn có người nói Cơ Anh chết rất kỳ lạ, không chừng cũng có liên quan đến phong thủy nơi đấy”. Khương Trầm Ngư cố gắng nén nỗi buồn bực trong lồng ngực, hỏi thật nhanh: “Sau đó?”. Khương Hiếu Thành vỗ ngực nói: “Ta chỉ cần tìm một sư phụ phong thủy giỏi nhất, đến lúc đó đưa ông ta lập đàn làm phép ở đấy, cầu mưa gì đó đều được hết”. Trước mắt Khương Trầm Ngư tối sầm, suýt chút nữa thì ngất đi. Nàng biết ca ca chắc chắn sẽ chẳng có cách gì ra hồn, nhưng nghe thấy câu này, vẫn vượt qua phạm vi mà nàng có thể chịu đựng, nên trong khoảnh khắc, nỗi bi ai trở nên càng sâu đậm, cảm giác vô cùng tuyệt vọng. Thế mà Khương Hiếu Thành vẫn còn dương dương tự đắc: “Sư phụ phong thủy này lấy thù lao rất đắt đó nhé, hơn nữa nếu không có quan hệ thì không mời được đâu. Ca ca của muội bình thường rất biết làm người, kết giao với một số bạn tốt, thời khắc then chốt đều nhờ cậy họ giúp đỡ ta”. Khương Trầm Ngư hít thật sâu, mở miệng từ từ nói: “Ca ca có biết vì sao hoàng thượng không chọn người khác, mà lại chọn huynh đi xử lý đại sự quan trọng như thế này không?”. “Đương nhiên là vì ta năng lực hơn…”. Ánh mắt lạnh băng của Khương Trầm Ngư lướt qua, Khương Hiếu Thành nuốt nước bọt xuống, nửa câu sau đành nuốt trọn vào trong. Khương Trầm Ngư lạnh lùng nhìn y, sẵng giọng nói: “Bởi vì hoàng thượng muốn huynh làm kẻ thế mạng. Huynh và Tiết Thái là hai quân cờ dùng để hy sinh!”. Khương Hiếu Thành giật mình: “Cái, cái, cái gì cơ?”. “Giang Đô đại hạn, mùa màng thất thu, năm nay thu hoạch ắt kém, một khi thu hoạch kém giá lương thực sẽ tăng cao, bách tính sẽ bị đói! Nạn đói một khi kéo dài, triều đình sẽ phải mở kho lương cứu tế… mà thực sự là, quốc khố bây giờ đang trống rỗng, căn bản không có tiền mua lương thực!”. “Hả?”. Mắt Khương Hiếu Thành bỗng chốc trợn trừng. “Ca ca tưởng đây là vấn đề chỉ cần làm phép cầu mưa là có thể giải quyết được à? Bây giờ bài toán then chốt nhất định là căn bản không phải là mưa hay không mưa, mà là tiền đó! Ca ca! Bây giờ quốc khố không có tiền! Cho nên, chống hạn cũng được, cứu tế cũng xong, hoàng thượng không cấp cho ca ca một xu, tất cả tiền tài đều là tự ca ca móc hầu bao ra!”. Hai chân Khương Hiếu Thành mềm nhũn, ngồi phịch xuống mặt đất, lẩm bẩm: “Sao, sao có thể như thế…”. “Ca ca còn tưởng có thể được lợi, sung sướng cảm thấy bản thân mình được coi trọng đề bạt… nhưng không biết họa từ trên trời giáng xuống, chỉ gây ra một chút sai lầm là chết chắc!”. Khương Trầm Ngư vừa tức vừa thương, hơi thở mắc ở lồng ngực không thoát ra được. Khương Hiếu Thành thấy vậy, vội vàng bò dậy rót nước cho nàng uống: “Muội muội, muội đừng vội, từ từ nói, uống một chút đi, từ từ nói…”. Hành động này của Khương Hiếu Thành đã đánh thức ký ức thời thơ ấu của Khương Trầm Ngư: Khi còn nhỏ, y từng đem đồ cho nàng ăn như thế này, thấy nàng bị ốm, cũng cùng người khác đứng bên cạnh lo lắng… Rốt cuộc y vẫn là huynh trưởng của nàng, dù y có vô dụng thế nào, hư hỏng thế nào, cũng không thể để y chết. Huống hồ, sự việc này còn lôi kéo thêm cả Tiết Thái và ngàn vạn dân chúng vô tội của Giang Đô. “Ca ca, ca ca có tin muội không?”. Khương Trầm Ngư túm chặt tay của Khương Hiểu Thành, hỏi như vậy. “Tin tin tin, trăm lần tin, vạn lần tin! Trên thế gian này người ta tin nhất chính là Trầm Ngư muội!”. “Thế thì chuyện Giang Đô, huynh nghe muội, có được không?”. “Được được được, cái gì cũng nghe muội, muội nói gì ta cũng nghe…”.
|